Tổng số lượt xem trang

Thứ Hai, 30 tháng 5, 2011

Ý đồ của TQ trong vụ tàu Bình Minh 02

Ý đồ của TQ trong vụ tàu Bình Minh 02

Tàu hải giám của Trung Quốc
Báo chí Việt Nam một vài ngày nay tràn ngập các thông tin về vụ tàu hải giám Trung Quốc uy hiếp tàu khảo sát địa chấn của Việt Nam, được cho là hành động vi phạm chủ quyền thuộc loại nghiêm trọng nhất mà Trung Quốc từng thực hiện tại vùng biển của Việt Nam.
Sáng ngày 26/05, ba tàu hải giám của Trung Quốc đã quấy nhiễu và phá hoại thiết bị của tàu khảo sát Bình Minh 02 thuộc Tập đoàn Dầu khí Quốc gia PetroVietnam.
Vị trí xảy ra vụ gây hấn được nói là nằm sâu trong vùng biển của Việt Nam, cách mũi Đại Lãnh tỉnh Phú Yên chưa đầy 120 hải lý.
BBC đã có cuộc phỏng vấn ngắn với một nhà nghiên cứu chủ đề an ninh hàng hải khu vực, Thạc sỹ Iskander Rehman, về vụ việc mới xảy ra.
Iskander Rehman: Sự kiện mới rồi dường như khá nhất quán với cách ứng xử gần đây của Trung Quốc tại các vùng Biển Đông và Đông Hải, theo đó Bắc Kinh thường sử dụng cả hai biện pháp là cưỡng ép về ngoại giao và ra chỉ dấu mạnh mẽ về quân sự để khẳng định chủ quyền.
Cách ứng xử này đã dẫn tới sự căng thẳng không chỉ với tàu Việt Nam mà cả các tàu của Mỹ, Nhật và Philippines.
Cần chú ý rằng cách tiếp cận của Trung Quốc trong các tranh chấp lãnh thổ trên biển không chỉ mạnh bạo hơn mà còn trở nên đa dạng hơn trước.
Đụng độ trên biển mức độ nhỏ chỉ là một trong các biện pháp mà Bắc Kinh đang sử dụng nhằm củng cố chủ quyền trên các đảo đá và bãi cạn tại Biển Đông, vốn được cho là giàu khoáng sản.
Một biện pháp khác là phát tín hiệu quân sự như tổ chức tập trận và tăng cường tuần tra ngoài khơi gần các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đây là biện pháp chúng ta thấy được sử dụng ngày càng nhiều trong thời gian gần đây.
Các hình thức khiêu khích này thường được thực hiện cùng điều mà các nhà phân tích chiến lược Trung Quốc gọi là 'chiến tranh pháp lý', tức người phát ngôn của chính phủ Trung Quốc mang một số điều đã được công nhận trong luật biển quốc tế ra công khai tranh cãi về khía cạnh pháp lý.
BBC: Có nhận định rằng Trung Quốc đang quan ngại về sự tiến lại gần Mỹ của Việt Nam. Liệu những gì xảy ra cuối tuần trước có phải là phản ứng của Trung Quốc trước sự nồng ấm dần trong quan hệ Việt-Mỹ hay không?
Iskander Rehman: Cần xem xét vụ đụng độ mới rồi trong bối cảnh địa chính trị đang dần thay đổi ở Đông Nam Á. Việt Nam, với truyền thống dân tộc chủ nghĩa mạnh mẽ và thái độ bất phục tùng xưa nay đối với Trung Quốc, luôn luôn bị nhà cầm quyền Bắc Kinh xem là một quốc gia cứng đầu ở Đông Nam Á.
Tuy hai nước này đã dàn xếp xong tranh chấp biên giới trên đất liền, căng thẳng vẫn còn đó xung quanh vấn đề chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Sự căng thẳng này đã dẫn tới một số cuộc đụng độ trên biển trong quá khứ, năm 1974 và 1988, và nói chung chúng ta không thể loại trừ khả năng các cuộc đụng độ tương tự sẽ còn nổ ra trong tương lai không xa.
Giới chức Trung Quốc đã tỏ ra quan ngại về quan hệ đối tác chiến lược đang phát triển nhanh chóng giữa Washington và Hà Nội, và đã phản ứng rất quyết liệt trước thông tin hai nước này bàn việc tập trận chung tại Biển Đông.
Bắc Kinh có thể sẽ giữ một lập trường cứng rắn hơn đối với Việt Nam như một hình thức trừng phạt Hà Nội về quan hệ với Hoa Kỳ.
Iskander Rehman
Bắc Kinh vì thế có thể sẽgiữ một lập trường cứng rắn hơn đối với Việt Nam như một hình thức trừng phạt Hà Nội về quan hệ với Hoa Kỳ, đồng thời cũng để cảnh báo về cái giá mà Việt Nam sẽ phải trả trong tương lai nếu tiếp tục giữ chính sách xích lại gần với Mỹ.

BBC: Vậy vụ gây hấn mới rồi cho thấy các xu hướng và tính toán chiến lược gì của Trung Quốc, thưa ông?
Iskander Rehman: Tầm ảnh hưởng của Trung Quốc về cả kinh tế và quân sự đang ngày càng lan rộng và Bắc Kinh cũng ngày càng muốn thể hiện quyền lực của mình.
Đối với nhiều nhân vật trong giới hoạch định chính sách của Trung Quốc, vốn đang ngày càng trở nên hung hăng, việc nắm kiểm soát khu vực trong vòng hải đảo tiền đồn từ quần đảo Kuriles, Nhật Bản chạy xuống Đài Loan, Philippines và Borneo; cùng với nguồn lợi dầu khí bên trong khu vực này và các tuyến hàng hải xuyên qua đó, là điều kiện tiên quyêt để Giải phóng quân Trung Quốc chuyển biến từ "quốc phòng trên biển" sang "quốc phòng ngoài đại dương", tức tăng tầm ảnh hưởng từ khu vực lên thành toàn cầu.
Đang có thông tin quân đội Trung Quốc đang muốn thiết lập một loạt các trạm theo dõi hải quân gần đảo Hải Nam để bảo vệ cho căn cứ tàu ngầm nguyên tử mà nước này đang xây dựng ở Tam Á. Cũng vì lẽ này mà Trung Quốc đang hướng tới nắm kiểm soát hoàn toàn các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Bấm Quý vị bấm vào đây để chia sẻ ý kiến.

Vụ tàu Bình Minh 02 - một vụ CGX trên Biển Đông?

Vụ tàu Bình Minh 02 - một vụ CGX trên Biển Đông?

Những diễn biến của vụ tàu Bình Minh 02 có thể làm người ta liên tưởng đến Vụ CGX năm 2000 tại Đại Tây Dương ngoài khơi Guyana và Suriname được đề cập dưới đây.
>> Vụ tàu Bình Minh 02 và phép thử của Bắc Kinh
Vụ tàu Bình Minh 02
Ngày 27/5 vừa qua, một loạt các phương tiện thông tin đại chúng của cả Việt Nam lẫn nước ngoài đã đưa tin về việc tàu hải giám của Trung Quốc cắt cáp thăm dò của tàu địa chấn Bình Minh 02 thuộc Tổng công ty Dầu khí Việt Nam (PVN) sáng sớm ngày 26 tháng 5 năm 2011 (sau đây gọi là Vụ tàu Bình Minh 02).[1] Những diễn biến chính của vụ việc này có thể tóm tắt như sau:
Tàu địa chấn Bình Minh 02 của Tổng công ty cổ phần Dịch vụ kỹ thuật dầu khí thuộc PVN đang tiến hành thăm dò địa chấn trên thềm lục địa của Việt Nam thì phát hiện có ba tàu hải giám của Trung Quốc di chuyển rất nhanh về phía khu vực khảo sát mà không có cảnh báo. Khi tàu Bình Minh 02 tạm dừng hoạt động thì tàu hải giám của Trung Quốc đã chủ động chạy qua khu vực thả dây cáp và cắt cáp thăm dò địa chấn của tàu Bình Minh 02. Ba tàu hải giám Trung Quốc sau đó tiếp tục cản trở, thậm chí còn uy hiếp tàu Bình Minh 02 và cho rằng tàu Bình Minh đã vi phạm chủ quyền của Trung Quốc. Dù tàu Bình Minh của PVN không chấp nhận luận điệu của tàu hải giám Trung Quốc và khẳng định rằng mình đang nằm trong vùng biển của Việt Nam nhưng cũng không thể hoạt động được cho đến khi ba tàu hải giám Trung Quốc rời khỏi khu vực khảo sát sau đó gần 4 tiếng.
Những diễn biến của Vụ tàu Bình Minh 02 nói trên có thể làm người ta liên tưởng đến Vụ CGX năm 2000 tại Đại Tây Dương ngoài khơi Guyana và Suriname được đề cập dưới đây.
Vụ CGX năm 2000[2]
Guyana và Suriname là hai quốc gia nhỏ bé Nam Mỹ[3] bên bờ Đại Tây Dương. Do là hai quốc gia liền kề nên vùng biển, kể cả thềm lục địa, mà Guyana và Suriname được hưởng theo quy định của Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (Công ước Luật biển) chồng lấn lên nhau và cần phải phân định. Trong khi giữa hai nước chưa có một đường ranh giới trên biển rõ ràng, vào những thập niên cuối của thế kỷ XX, cả Guyana và Suriname đều lần lượt cấp phép cho các công ty dầu khí nước ngoài tiến hành các hoạt động thăm dò tại vùng biển chồng lấn.
Trong số các nhà thầu của Guyana có Tập đoàn Tài nguyên CGX (CGX Resources Inc. - gọi tắt là CGX) của Canada từ năm 1999 bắt đầu tiến hành thăm dò địa chấn tại khu vực tranh chấp. Tháng 5 năm 2000, Suriname nhiều lần yêu cầu Guyana chấm dứt việc thăm dò tại khu vực chồng lấn. Đặc biệt, ngày 31/5/2000, Suriname yêu cầu riêng CGX chấm dứt toàn bộ hoạt động thăm dò địa chấn vượt quá một đường được gọi là đường 10o được Suriname sử dụng làm ranh giới cấp phép dầu khí của mình dù Guyana không công nhận đường này.[4]
Đỉnh điểm của tranh cãi giữa hai bên là sự việc diễn ra ngày 03/6/2000 khi hai tàu hải giám của lực lượng hải quân Suriname tiến đến gần tàu C.E. Thornton của CGX (vụ việc này sau thường được biết đến là "Vụ CGX"), yêu cầu tàu này không được thăm dò địa chấn và áp giải tàu này rời khỏi khu vực mà CGX đã được Guyana cấp phép.
Năm 2004, Guyana đơn phương việc dẫn cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc theo quy định của Công ước Luật Biển để phân định vùng biển chồng lấn với Suriname. Một Tòa trọng tài gồm năm luật gia quốc tế nổi tiếng được thành lập để giải quyết tranh chấp phân định biển theo đề nghị của Guyana do cả Guyana và Suriname đều đã là thành viên của Công ước Luật biển và không quốc gia nào có bảo lưu việc sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc này. Tòa trọng tài đã ra phán quyết của mình tại La Hay ngày 17/9/2007 (án lệ Guyana - Suriname).
Điểm đáng chú ý trong án lệ Guyana - Suriname là ngoài việc yêu cầu Tòa trọng tài tiến hành phân định biển, Guyana cũng cáo buộc Suriname trong Vụ CGX đã vi phạm một số nghĩa vụ quốc tế. Cụ thể đó là Suriname đã sử dụng vũ lực chống lại sự toàn vẹn lãnh thổ của Guyana và chống lại công dân cùng các pháp nhân đang hoạt động trên vùng biển thuộc chủ quyền và quyền tài phán của Guyana. Theo Guyana, sự vi phạm này cũng dẫn đến việc Suriname vi phạm thêm các quy định của Công ước Luật Biển, Hiến chương Liên hợp quốc cũng như luật pháp quốc tế nói chung về việc giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình. Guyana cũng yêu cầu Tòa trọng tài ra phán quyết về trách nhiệm quốc gia, yêu cầu Suriname bồi thường thiệt hại nảy sinh sau Vụ CGX.
Tòa trọng tài bằng phán quyết ngày 17/9/2007 của mình cho rằng trong Vụ CGX, Suriname đã vi phạm nguyên tắc cấm đe dọa sử dụng vũ lực theo Công ước Luật biển, Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế nói chung. Hơn nữa, Tòa cũng  cho rằng việc vi phạm nguyên tắc cấm đe dọa sử dụng vũ lực cũng dẫn đến việc vi phạm nghĩa vụ không được cản trở việc tiến đến thỏa thuận phân định cuối cùng theo quy định Điều 74(3) và 83(3) của Công ước Luật biển - còn được gọi là nghĩa vụ "tự kiềm chế". Tòa trọng tài cho rằng nghĩa vụ "tự kiềm chế" là một phần trong nghĩa vụ lớn hơn của các quốc gia thành viên Công ước Luật Biển theo Điều 74(3) và 83(3) về việc đạt được các thỏa thuận tạm thời có tính thực tiễn liên quan đến vùng biển tranh chấp trong khi hai bên chưa phân định. Cần nói thêm rằng thỏa thuận tạm thời có tính thực tiễn phổ biến nhất chính là thỏa thuận "khai thác chung".
Tuy nhiên, riêng đối với yêu cầu của Guyana về tránh nhiệm quốc gia liên quan đến Vụ CGX thì Tòa cho rằng vùng biển xảy ra Vụ CGX đã được phân xử là thuộc về Guyana nên đã bảo đảm rằng Suriname sau này sẽ không có các vi phạm nghĩa vụ quốc tế tương tự như Vụ CGX. Tòa sau đó thấy rằng yêu cầu về thiệt hại của Guyana liên quan đến Vụ CGX không được thành lập nên từ chối không ra phán quyết về việc việc bồi thường. Hơn nữa Tòa trọng tài cũng cho rằng bản thân Guyana cũng vi phạm nghĩa vụ về việc đạt thỏa thuận tạm thời có tính chất thực tiễn đối với khu vực tranh chấp, góp phần dẫn đến Vụ CGX.
Một điểm đáng chú ý khác trong án lệ Guyana - Suriname đó là Tòa đưa ra phân tích về tác hại của hoạt động thăm dò địa chấn đối với môi trường đáy biển và hệ quả của việc này đối với nghĩa vụ "tự kiềm chế" hay nghĩa vụ về việc đạt thỏa thuận tạm thời có tính chất thực tiễn. Tòa trọng tài nhắc lại án lệ trước đây của Tòa án công lý quốc tế cho rằng hoạt động thăm dò địa chấn sử dụng âm thanh nên không có tác động "cơ học" đối với đáy biển và do vậy không làm ảnh hưởng hay thiệt hại đối với quốc gia tranh chấp khác nếu như vùng biển được thăm dò sau đó có được phân định là thuộc về quốc gia tranh chấp khác đó. Nói cụ thể hơn, Tòa cho rằng việc thăm dò địa chấn là được phép tiến hành trong vùng biển thực sự có tranh chấp.
Nhìn vẻ bên ngoài, những diễn biến của vụ CGX có nhiều điểm đồng với Vụ tàu Bình Minh 02 và như thế phán quyết của Tòa trọng tài trong Án lệ Guyana - Suriname có thể áp dụng trong quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Nhưng ...
mọi sự so sánh đều là khập khiễng
Trước hết để biết phán quyết của Tòa trọng tài trong Án lệ Guyana - Suriname có áp dụng được với Trung Quốc và Việt Nam không cần hiểu bối cảnh của Vụ CGX và Vụ Bình Minh 02. Như đã trình bày ở trên, Vụ CGX xảy ra tại vùng biển thực sự có tranh chấp giữa Guyana và Suriname do đặc thù địa lý của hai quốc gia này là hai quốc gia liền kề và do đó các vùng biển của họ theo Công ước Luật biển cũng liền kề và chồng lấn lên nhau. Điều này bắt nguồn từ nguyên tắc: "đất thống trị biển" - nguyên tắc cơ bản trong việc xác định vùng biển theo pháp luật quốc tế. Nội hàm của nguyên tắc này đó là quốc gia nào có bờ biển ở đâu thì sẽ có vùng biển ở đó. Có thể minh hoạ một cách sinh động nguyên tắc này bằng "hình" và "bóng": không có hình (bờ biển) thì làm sao có bóng (vùng biển)?
Chỉ khi đáp ứng được tiêu chí đầu tiêncơ bản nói trên, đó là có bờ biển, thì một quốc gia mới có thể nói đến chuyện có được các yêu sách vùng biển theo quy định của Công ước Luật biển - thông thường không quá 200 hải lý.[5] Với thực tế địa lý của mình (xem bản đồ bên dưới), Trung Quốc không thể có yêu sách về vùng biển theo quy định của Công ước Luật Biển tại khu vực xảy ra Vụ tàu Bình Minh 02, nơi cách đảo Hải Nam của Trung Quốc 340 hải lý.[6] Thậm chí nếu Trung Quốc có sáng kiến cho rằng vị trí hoạt động của tàu Bình Minh 02 sáng ngày 26/5/2011 nằm trên thềm lục địa kéo dài vượt ra ngoài 200 hải lý thì cũng không phù hợp nguyên tắc đó là yêu sách về thềm lục địa kéo dài ngoài 200 hải lý không được chồng lấn lên vùng biển nằm trong phạm vi 200 hải lý tính từ đường cơ sở của quốc gia khác. Nguyên tắc này là nguyên tắc tiến bộ của của luật biển quốc tế hiện đại hình thành sau khi thông qua Công ước Luật biển - Công ước mà Trung Quốc cũng là một thành viên. Tính bất hợp lý của một yêu sách về thềm lục địa kéo dài (trên  cơ sở đặc thù địa chất) để tạo tranh chấp tại một khu vực hoàn toàn nằm trong phạm vi 200 hải lý của quốc gia ven biển khác từ lâu đã được công nhận bởi Tòa án công lý quốc tế - cơ quan tư pháp uy tín nhất trên thế giới về pháp luật quốc tế. Cụ thể năm 1985, trong án lệ phân định thềm lục địa giữa Libya và Malta, Tòa đã bác bỏ lập luận của Libya cho rằng đường phân định cần tuân thủ tiêu chí về địa chất và cho rằng tiêu chí về khoảng cách, 200 hải lý, có giá trị cao hơn.[7]
Như vậy, điều quan trọng đó là cần xem xét thực sự vị trí hoạt động của tàu Bình Minh 02 khi bị cắt cáp sáng ngày 26/5/2011 là ở đâu? Theo các số liệu công bố trên phương tiện thông tin đại chúng thì nơi xảy ra Vụ tàu Bình Minh 02 nằm cách mũi Đại Lãnh không đến 120 hải lý.[8] Cần nhớ rằng mũi Đại Lãnh nằm trên bờ biển của Việt Nam và như vậy nếu có xác định các vùng biển của Việt Nam theo cách "khiêm tốn" đó là dùng đường cơ sở thông thường - tính theo ngấn nước triều thấp nhất dọc theo bờ biển[9] - thì vị trí mà tàu Bình Minh bị cắt cáp vẫn hoàn toàn nằm trên thềm lục địa của Việt Nam theo giới hạn 200 hải lý - một thềm lục địa mà Việt Nam đương nhiên có mà không cần phải tuyên bố với bên ngoài theo quy định của Công ước Luật biển.[10]
Tuy nhiên, khác với vùng biển Đại Tây Dương ngoài khơi Guyana và Suriname, khu vực Biển Đông cũng có một đặc thù riêng và cần phải tính đến, đó là sự tồn tại của những nhóm đảo nhỏ giữa biển khơi, cụ thể là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Quần đảo Hoàng Sa đang là đối tượng tranh chấp giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc còn quần đảo Trường Sa thì là đối tượng tranh chấp của năm nước, gồm Bru-nây, Ma-lai-xi-a, Phi-líp-pin, Trung Quốc và Việt Nam. Tất nhiên, đối với Trung Quốc, họ sẽ nghĩ rằng họ có thể yêu sách các vùng biển tính từ các quần đảo này và thực tế họ cũng tuyên bố là các quần đảo này có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng.[11]

Tuy nhiên, dù sự sáng tạo tiếp theo này có đúng đi nữa - một điều thật khó xảy ra,[12] thì cần nhớ rằng một nguyên tắc trong phân định biển đó là một hòn đảo ngoài khơi không thể có nhiều vùng biển hơn bờ biển lục địa được như đã được thấy trong các án lệ và thực tiễn phân định biển, trong đó có cả thỏa thuận phân định Vịnh Bắc Bộ giữa Trung Quốc và Việt Nam năm 2000. Vị trí xảy ra Vụ tàu Bình Minh 02 vẫn nằm hoàn toàn bên phần biển Việt Nam ngay cả khi Việt Nam "hào phóng" đồng ý chia đôi vùng biển nằm giữa bờ biển của mình và quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà Việt Nam cũng yêu sách - một khả năng không thể xảy ra và chẳng thể hiện sự nghiêm túc xét từ góc độ khoa học pháp lý. [13]
Với những phân tích như trên, ngay cả những bộ óc giàu trí tưởng tượng nhất cũng khó có thể nghĩ ra được cơ sở nào trong pháp luật quốc tế hiện đại về biển mà dựa vào đó Trung Quốc có thể đưa ra một yêu sách đối với khu vực mà tàu Bình Minh 02 hoạt động sáng ngày 26/5/2011.
Về cái gọi là "yêu sách theo đường 9 đoạn"
Tháng 5 năm 2009, khi Malaixia và Việt Nam thực hiện nghĩa vụ quốc gia thành viên Công ước Luật biển về việc đệ trình báo cáo ranh giới ngoài thềm lục địa của mình ở Biển Đông lên Ủy ban Ranh giới ngoài Thềm lục địa, Trung Quốc đã ngay lập tức gửi hai công hàm để phản đối.[14] Trong hai công hàm này, Trung Quốc cho rằng mình có yêu sách về "chủ quyền không thể tranh cãi đối với các đảo ở Biển Đông và vùng nước phụ cận" và về "các quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng nước liên quan cũng như đối với đáy biển và lòng đất dưới đáy biển ở đó". Trung Quốc cũng tuyên bố rằng yêu sách này của mình "được biết đến rộng rãi trong cộng đồng quốc tế". Đi kèm với mỗi công hàm phản đối của Trung Quốc là một tấm bản đồ trong đó lần đầu tiên Trung Quốc giới thiệu công khai với cộng đồng quốc tế một đường đứt nét gồm 9 đoạn (thường được gọi là "đường 9 đoạn" hay "đường lưỡi bò") chạy sát bờ biển một số quốc gia ven Biển Đông. Nhưng cả hai công hàm cũng không giải thích rõ ràng đường 9 đoạn của Trung Quốc có ý nghĩa cụ thể gì đối với các yêu sách về biển nói trên của Trung Quốc.
Trước đây, đường 9 đoạn từng được lưu truyền trong các bản đồ nội bộ của Trung Quốc nhưng chưa bao giờ Trung Quốc nói rõ ý nghĩa của đường này. Điều này làm cho ngay cả các học giả Trung Quốc cũng tranh cãi lẫn nhau về giá trị pháp lý cũng như ý nghĩa của đường 9 đoạn này.[15] Giới học giả bên ngoài Trung Quốc thì có quan điểm chung đó là đường 9 đoạn không thể thể hiện bất kỳ một yêu sách hợp pháp nào về vùng biển hay quyền lợi liên quan đến biển của Trung Quốc tại Biển Đông.[16]
Dù thế nào đi chăng nữa, một nguyên tắc cơ bản để giải quyết tranh chấp quốc tế như đã được khẳng định ở nhiều phán quyết khác nhau của tòa án quốc tế đó là khi một bên tranh chấp tuyên bố rằng tồn tại một thực tế nào đó thì họ cũng có nghĩa vụ chứng minh thực tế đó thực sự tồn tại.[17] Trung Quốc tuyên bố rằng yêu sách của mình "được biết đến rộng rãi trong cộng đồng quốc tế" thì cũng có nghĩa vụ phải chứng minh điều đó. Và có lẽ, điều đầu tiên Trung Quốc cần làm để chứng minh điều họ cho là "thực tế đó" là nói rõ cho cộng đồng quốc tế hiểu mình định yêu sách gì, nếu có, bằng đường 9 đoạn. Chừng nào cộng đồng quốc tế vẫn còn "mơ hồ" về việc Trung Quốc định yêu sách gì trong đường 9 đoạn thì làm sao có sự công nhận rộng rãi của cộng đồng quốc tế với yêu sách của Trung Quốc chứ đừng nói đến yêu sách đó có giá trị hay không.
Cuối cùng, nhìn vào lịch sử phát triển của luật biển có thể thấy, Công ước Luật biển - kết tinh của sự phát triển tiến bộ của luật pháp quốc tế trong lĩnh vực này - đã mở rộng đáng kể các vùng biển của quốc gia với hai khái niệm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa nhằm chấm dứt sự bất ổn định trong quan hệ quốc tế do những yêu sách đơn phương "quá đáng" của các quốc gia trước đây. Trung Quốc dường như cũng hiểu rõ điều này nên khi phê chuẩn Công ước Luật biển đã chỉ khẳng định họ được hưởng các quyền chủ quyền và quyền tài phán đối vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý và thềm lục địa mà không đề cập gì đến những quyền lợi về biển không phù hợp với các quy định của Công ước.[18]
Như vậy, nếu đường 9 đoạn trong tấm bản đồ đính kèm công hàm của Trung Quốc tháng 5/2009 nói trên định thể hiện một yêu sách về vùng biển hay quyền lợi biển nào của Trung Quốc ở Biển Đông trái những tiêu chuẩn của Công ước Luật biển thì đó sẽ là một bước thụt lùi lạc lõng trong nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế hướng tới việc xây dựng một trật tự pháp lý thống nhất về biển và đại dương. Tất nhiên, bước thụt lùi đó không có giá trị pháp lý vì nó đi ngược lại tinh thần và quy định của Công ước Luật biển. Và để tránh những hiểu lầm sau này, các nước, dù có hay không có tranh chấp với Trung Quốc ở Biển Đông, đã bày tỏ quan điểm của mình đối với đường 9 đoạn của Trung Quốc.[19] Đáng chú ý là dù các quốc gia có cách hiểu khác nhau về đường 9 đoạn, họ đều tìm được những cơ sở pháp lý để bác bỏ nó. Điều này một mặt thể hiện sự "mơ hồ" và mặt khác cũng thể hiện sự không giải thích nổi theo các quy định của pháp luật quốc tế của đường 9 đoạn.
Thay lời kết - quay lại vụ CGX
Quay lại với vụ CGX, một điều có thể nhận rõ đó là bối cảnh pháp lý của vụ việc này khác biệt hoàn toàn với bối cảnh pháp lý của Vụ tàu Bình Minh 02. Nói cụ thể hơn, khu vực xảy ra Vụ tàu Bình Minh 02 nằm hoàn toàn trên thềm lục địa của Việt Nam; Trung Quốc không thể có các yêu sách với vùng biển này theo đúng các tiêu chuẩn của Công ước Luật biển. Từ trước cho đến nay, Trung Quốc cũng chưa chính thức nói đến và do đó có thể coi là không tồn tại một yêu sách về vùng biển hay quyền lợi biển ở Biển Đông khác với những tiêu chuẩn của Công ước Luật biển.
Mặt khác, ở góc độ quan hệ quốc tế và pháp luật quốc tế,[20] quan hệ giữa Suriname và Guyan là giống quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam. Điều này bắt nguồn từ nguyên tắc tối cao, có tác dụng bảo đảm sự ổn định của trật tự thế giới đó là nguyên tắc "bình đẳng". Nguyên tắc "bình đẳng và cùng có lợi" là nguyên tắc cuối cùng trong năm nguyên tắc về cùng tồn tại hòa bình mà Trung Quốc là một trong những quốc gia khởi xướng đầu tiên.[21] Trong quan hệ với Việt Nam, năm nguyên tắc về cùng tồn tại hòa bình từ lâu cũng đã được được khẳng định trong quan hệ hai nước.[22]
Từ cơ sở trên, cả bốn nước Guyana, Suriname, Trung Quốc và Việt Nam đều là thành viên của Công ước Luật biển và đều được hưởng những quyền lợi cũng như cần thực hiện các nghĩa vụ thành viên của mình như nhau. Tất nhiên, vì Trung Quốc không công nhận cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc của Công ước Luật biển[23] nên sẽ không có việc Việt Nam đem Vụ tàu Bình Minh 02 ra trước một cơ quan tài phán quốc tế giống như Guyana đã làm với Suriname. Cơ chế giải quyết những tranh chấp liên quan đến biển của Việt Nam và Trung Quốc chủ yếu vẫn sẽ là đàm phán và có thể có sự hỗ trợ của ủy ban hòa giải theo quy định của Công ước Luật biển.[24] Tuy nhiên, việc thiếu một cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc không làm giảm giá trị của nghĩa vụ quốc tế của quốc gia khi mà nền tảng của luật pháp quốc tế là nguyên tắc thiện  chí.
Cuối cùng cũng cần nhớ rằng, nếu Trung Quốc cho rằng mình "có quyền" đối với vùng biển mà tàu Bình Minh 02 hoạt động thì Trung Quốc cũng cần tuân thủ các nghĩa vụ của mình theo luật pháp quốc tế, kể cả Công ước Luật biển và Hiến chương Liên hợp quốc. Chỉ khi đó nguyên tắc thiện chí mới có ý nghĩa và phát huy để góp phần duy trì bình ổn trong quan hệ quốc tế cũng như thúc đẩy sự hợp tác giữa các quốc gia. Ở góc độ này, phán quyết của Tòa trọng tài quốc tế trong án lệ Guyana - Suriname sẽ là "chuẩn mực" để  Trung Quốc hành xử trong các vấn đề mà họ cho rằng đang có tranh chấp, kể cả nghĩa vụ giải quyết hòa bình tranh chấp quốc tế và không sử dụng vũ lực trên biển.[25] Đặc biệt, phán quyết đó nói rõ những gì mà quốc gia có thể làmkhông được làm để bảo đảm tuân thủ nghĩa vụ "tự kiềm chế" trong khi theo đuổi nghĩa vụ lớn hơn về việc đạt được thỏa thuận tạm thời có tính thực tiễn - nghĩa vụ mà Trung Quốc vẫn viện dẫn để thúc đẩy ý tưởng "gác tranh chấp, cùng khai thác" tại khu vực mà họ cho rằng có tranh chấp./.

* © Nguyễn Đăng Thắng, Nghiên cứu sinh luật tại Vương quốc Anh, Thành viên không thường trú, Trung tâm Nghiên tâm ngiên cứu Biển Đông, Học viện Ngoại giao Việt Nam. Tác giả xin cám ơn một số bạn bè và đồng nghiệp đã góp ý cho bản thảo ban đầu của bài viết. Bài viết này là bản chỉnh sửa và bổ sung từ của bài viết cùng tên đăng trên trang Nghiên cứu Biển Đông lúc 00:35 Chủ Nhật, 29 tháng 5 năm 2011. Tất cả các trang mạng trích dẫn trong bài đều hoạt động cho đến ngày 28 tháng 5 năm 2011.
[1] Xem "Tàu Trung Quốc cắt cáp thăm dò dầu khí của Việt Nam", trên báo điện tử Vietnamnet tại địa chỉ http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/22902/tau-trung-quoc-cat-cap-tham-do-dau-khi-cua-viet-nam.html; Duy Thanh,"Tàu Trung Quốc táo tợn xâm phạm lãnh hải Việt Nam" trên báo điện tử Tuổitrẻonline, tại địa chỉ http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/439975/Tau-Trung-Quoc-tao-ton-xam-pham-lanh-hai-Viet-Nam.html và Ben Bland & Kathrin Hille, "New clash in South China Sea", báo Financial Times ngày 27/5/2011,  tại địa chỉ http://www.ft.com/cms/s/0/4d3badc0-8867-11e0-a1c3-00144feabdc0.html#ixzz1Na716utU.
[2] Thông tin cơ bản của Vụ CGX được trích từ án lệ: Arbitral Tribunal Constituted Pursuant to Article 287, and in Accordance with Annex VII, of the United Nations Convention on the Law of the Sea in the Matter of an Arbitration Between Guyana and Suriname, toàn bộ văn bản có tại địa chỉ http://www.pca-cpa.org/upload/files/Guyana-Suriname%20Award.pdf .
[3] Guyana và Suriname lần lượt là hai quốc gia nhỏ thứ ba và nhỏ nhất ở Nam Mỹ.
[4] Guyana cho rằng đường ranh giới biển phải là đường trung tuyến từ bờ biển hai nước.
[5] Đây là giới hạn bên ngoài của vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa mà các quốc gia đươgn nhiên có theo quy định của Công ước Luật biển.
[6] Số liệu lấy từ bài báo trên trang Tuoitreonline, nêu tại chú thích 1 bên trên.
[7] Xem án lệ Continental Shelf (Libya v Malta), Judgement [1985] ICJ Reports 13, các đoạn 33-34.
[8] Duy Thanh, nêu tại chú thích 1, đưa con số chính xác là 116 hải lý.
[9] Công ước Luật biển, Điều 5. Cách tính "khiêm tốn" được đưa ra ở đây xét trên thực tế là đường cơ sở thẳng của Việt Nam bị một số nước chỉ trích là không đáp ứng của Công ước Luật biển dù rằng cũng có ý kiến đoạn đường cơ sở thằng liên quan đến Mũi Đại Lãnh là hoàn toàn chấp nhận được và phù hợp Công ước. So sánh JA Roach and RW Smith, 'Excessive Maritime Claims' [1994] International Law Studies Series 66 (Naval War College, Newport, Rhode Island), các trang 58-60, với Johan Henrik Nossum, "What Vietnam could gain from redrawing its baselines", IBRU Boundary and Security Bulletin, Winter 2001-2002, 97, trang 101.
[10] Công ước Luật biển, Điều 77.
[11] Luật về Vùng đặc quyền kinh tế và thềm lụa địa năm 1998 của Trung Quốc quy định các lãnh thổ của Trung Quốc có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lụa địa; lãnh thổ của Trung Quốc theo quy định Luật Lãnh hải và Vùng tiếp giáp năm 1992 thì bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đang có tranh chấp. Như vậy, có thể suy ra rằng Trung Quốc cho rằng quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lụa địa. Riêng đối với quần đảo Trường Sa, vấn đề này đã được khẳng định trong Công hàm gửi Tổng thư ký Liên hợp quốc ngày 14/4/2011. Xem Note Verbale No. CML/8/2011 của Phái đoàn Trung Quốc tại Liên hợp quốc, có tại địa chỉ: http://www.un.org/depts/los/clcs_new/submissions_files/vnm37_09/chn_2011_re_phl_e.pdf .
[12] Ngoài việc liệu Trung Quốc có chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa hay Hoàng Sa hay không thì việc cho rằng những đảo nhỏ "li ti" tại quần đảo Trường Sa có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lụa địa riêng cũng bị chỉ trích. Chẳng hạn, In-đô-nê-xi-a khách quan phản đối việc các đảo Trường Sa đáp ứng tiêu chí của Công ước Luật Biển để có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lụa địa riêng. Xem Note Verbale No. 480/POL-703/VII/10 ngày 08/7/2010  của Phái đoàn In-đô-nê-xi-a tại Liên hợp quốc, http://www.un.org/depts/los/clcs_new/submissions_files/mysvnm33_09/idn_2010re_mys_vnm_e.pdf . Để có đánh giá khách quan về cơ sở (yếu) của Trung Quốc trong yêu sách chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa có thể xem Daniel J. Dzurek. "The Spratlys Island Dispute: Who's on first?" Maritime Briefings 2 (1996) 1; Mark J. Valencia, Jon M. Van Dyke, and Noel A. Ludwig, Sharing the resources of the South China Sea (The Hague: Martinus Nijhoff 1997), chương 3.
[13] Xem phân tích gần đây của Jon . Van Dyke, "Disputes Over Islands and Maritime Boundaries in East Asia" trong S.-Y. Hong & J. M. Van Dyke (eds.) Maritime Boundary Disputes, Settlement Processes, and the Law of the Sea (Leiden: Martinus Nijhoff Publishers 2009), 39-75, 73 và Clive Schofield & Ian Townsend-Gault, "Brokering Cooperation Amidst Competing Maritime Claims: Preventative Diplomacy in the Gulf of Thailand and South China Sea" in A. E. Chircop, T. L. McDorman & S. Rolston (eds.) The future of ocean regime-building: Essays in tribute to Douglas M Johnston (Leiden: Martinus Nijhoff Publishers 2009),, 659, 666.
[14] Công hàm số CML/17/2009 và Công hàm số CML/18/2009 của 07/5/2009 của Phái đoàn Trung Quốc tại Liên hợp quốc.
[15] Để biết quan điểm khác nhau của các học giả Trung Quốc, xem tóm tắt tại Zou Keyuan. "The Chinese Traditional Maritime Boundary Line in the South China Sea and Its Legal Consequences for the Resolution of the Dispute over the Spratly Islands" International Journal of Marine and Coastal Law 14 (1999) 27-55 và "Historic Rights in International Law and in China's Practice" Ocean Development & International law 32 (2001) 149-168. Đồng thời cũng xem, Li Jinming, and Li Dexia. "The Dotted Line on the Chinese Map of the South China Sea: A Note" Ocean Development & International law 34 (2003) 287-95. Đáng chú ý là học giả Zou Keyuan cũng tự mâu thuẫn chính mình, đưa ra hai quan điểm khác nhau về ý nghĩa của đường 9 đoạn trong hai bài báo vừa nêu.
[16] Về đường 9 đoạn, có thể xem các bài viết sau: Quốc pháp, 'Trước yêu sách 80% diện tích biển Đông của Trung Quốc: Không chấp nhận đường "lưỡi bò"', trên báo điện tử Tuổitrẻonline ngày 18/08/2009, tại http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/332309/Truoc-yeu-sach-80-dien-tich-bien-Dong-cua-Trung-Quoc--Khong-chap-nhan-duong-luoi-bo".html ; Nguyễn Hồng Thao, 'Yêu sách "Đường đứt khúc 9 đoạn"  của Trung Quốc dưới góc độ Luật pháp quốc tế', Nghiên cứu Quốc tế 71/4 (12/2009); Việt Long, "Lại bàn về đường lưỡi bò trong Biển Đông", trên báo điện tử Vietnamnet ngày 31/01/2011, tại http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/8127/lai-ban-ve-duong-luoi-bo-trong-bien-dong.html. Các học giả nước ngoài cũng cho rằng yêu sách hợp lý nhất từ đường 9 đoạn là yêu sách chủ quyền đối với các đảo trên Biển Đông. Chẳng hạn xem H. Djalal. "South China Sea Island Disputes" The Raffles Bulletin of Zoology Supplement 8 (2000) 9-21.
[17] Xem đoạn 45 trong án lệ Sovereignty Over Pedra Branca/Pulau Batu Puteh, Middle Rocks and South Ledge (Malaysia v. Singapore), Phán quyết của Tòa án Công lý quốc tế ngày 23/5/2008, văn bản có tại http://www.icj-cij.org/docket/files/130/14492.pdf.
[18] Tuyên bố của Trung Quốc khi phê chuẩn Công ước Luật biển ngày 07/6/1996, trong Status of Multilateral Treaties Deposited with the Secretary-General, Chương XXI - Luật Biển, phần 'Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982', bản điện tử tại http://treaties.un.org/pages/ViewDetailsIII.aspx?&src=TREATY&mtdsg_no=XXI~6&chapter=21&Temp=mtdsg3&lang=en .
[19] Xem phản đối của Việt Nam, Inđônêxia và Philippine vào các năm 2009, 2010 và 2011 đối với hai Công hàm của Trung Quốc tháng 5 năm 2009, có trên trang mạng của Ủy ban Ranh giới ngoài thềm lục địa, phần đệ trình của Malaixia và Việt Nam, tại địa chỉ: http://www.un.org/depts/los/clcs_new/commission_submissions.htm .
[20] Tất nhiên, từ góc độ vật chất thì Guyana và Suriname khác Việt Nam và càng khác nhiều so với Trung Quốc. Theo thông tin trên CIA-World Factbook, diện tích và dân số (ước tính đến tháng 7/2011) của các nước lần lượt là: Guyana 214.969 sq km2 với 744,768 người; Suriname 163.820 km2 với 491,989 người; Trung Quốc 9.596.961 km2 với 1.336.718.015 người và Việt Nam 331.210 km2 với 90.549.390 người. Nguồn: https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/index.html
[21] Năm nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình được đưa ra đầu tiên giữa Trung Quốc và Ấn Độ năm 1954. Xem http://news.xinhuanet.com/english/2005-04/08/content_2803638.htm .
[22] "Tuyên bố chung của Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng và Thủ tướng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Chu Ân Lai, Hà Nội, ngày 14/05/1960", cũng được nhắc lại trong các tuyên bố sau này, như "Tuyên bố chung về hợp tác toàn diện trong thế kỷ mới giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Bắc Kinh, ngày 25/12/2000".
[23] Ngày 25/08/2006,  Trung Quốc viện dẫn Điều 298 của Công ước Luật biển ra tuyên bố không công nhận thủ tục giải quyết tranh chấp bắt buộc của Công ước đối với một số vấn đề trong đó có vấn đề liên quan đến tranh chấp lãnh thổ. Văn bản Tuyên bố có tại, http://www.un.org/depts/los/convention_agreements/convention_declarations.htm#China%20after%20ratification .
[24] Công ước Luật biển, Điều 298(1).
[25] Việc Trung Quốc có bị coi là vi phạm nguyên tắc cấm đe doạ sử dụng vũ lực hay không trong Sự kiện Bình Minh 02 đòi hỏi phải có thêm các thông tin cụ thể.

KHÔNG CHỈ LÀ NGOẠI GIAO KHẨU CHIẾN.

KHÔNG CHỈ LÀ NGOẠI GIAO KHẨU CHIẾN.
Ngày 29/05, bà Khương Du - người phát ngôn của Bộ ngoại giao Trung Quốc phát biểu sau khi nhận được công hàm phản đối của chính phủ Việt Nam về việc ba tàu hải giám của Trung Quốc xâm phạm lãnh hải tại khu vực bờ biển Khánh Hòa - Phú Yên sáng ngày 28/05/2011 :
"Lập trường của Trung Quốc về Biển Đông rõ ràng và nhất quán. Chúng tôi phản đối việc khai thác dầu khí của Việt Nam vì nó đi ngược lại lợi ích và chủ quyền của Trung Quốc tại Biển Đông, vi phạm nhận thức chung mà hai bên đã đạt được về vấn đề này.
Những gì mà các cơ quan của Trung Quốc thực hiện đều là hoạt động thực thi pháp luật trên biển và giám sát hải dương hoàn toàn bình thường trong vùng biển thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Trung Quốc luôn cam kết duy trì hòa bình và ổn định tại Biển Đông. Chúng tôi sẵn sàng hợp tác với các bên liên quan để tìm giải pháp cho các tranh chấp và thực hiện Tuyên bố chung về cách ứng xử của các bên tại Biển Đông."
Thật may mắn là một ngày sau đó, tại Hà Nội, bà Nguyễn Phương Nga - người phát ngôn của Bộ ngoại giao Việt Nam cũng đã xuất hiện và nói thay cho chính phủ Việt Nam thế này:
"Quan điểm của Việt Nam về vấn đề này là hết sức rõ ràng. Việt Nam kiên quyết phản đối hành động của phía Trung Quốc phá hoại, cản trở hoạt động thăm dò, khảo sát bình thường của Việt Nam trong vùng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, gây thiệt hại lớn cho Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam.
Việt Nam yêu cầu phía Trung Quốc chấm dứt ngay, không để tái diễn những hành động vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, đối với thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của mình, đồng thời bồi thường thiệt hại cho phía Việt Nam.
Việt Nam hoàn toàn bác bỏ tuyên bố ngày 28/5 của phía Trung Quốc. Cần làm rõ một số điểm như sau: Trước hết, khu vực mà Việt Nam tiến hành thăm dò hoàn toàn nằm trong khu vực vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam theo Công ước Luật Biển 1982. Đây hoàn toàn không phải là khu vực tranh chấp, lại càng không thể nói là khu vực do Trung Quốc quản lý. Phía Trung Quốc đang cố tình làm cho dư luận hiểu nhầm khu vực không có tranh chấp thành khu vực có tranh chấp."
Tôi đặc biệt chú ý đến câu nhấn mạnh của bà Nga "Đây hoàn toàn không phải là khu vực tranh chấp". Vậy hải quân, và biên phòng Việt Nam ở đâu làm gì lúc ấy?
Tôi và nhiều người khác đã mong đợi ông Thứ trưởng bộ Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh xuất hiện với uy thế mạnh mẽ như ông đã từng tuyên bố "Phải làm thất bại mọi âm mưu xâm phạm chủ quyền"(*) hơn là những phát ngôn mang tính "thuộc lòng" của bà Nguyễn Phương Nga.
Liệu tôi có đòi hỏi quá đáng đối với chính phủ nước mình không nhỉ?
Bị xâm phạm quyền lợi ngay trên chính vùng biển của quê hương mình, thì không còn gọi là Trung Quốc đang cố tình gây hấn hay ngang ngược nữa. Hãy gọi đúng tên bản chất sự việc đó là: xâm lược.
Trong bài tuyên bố ở buổi họp báo chiều ngày 29/5, bà Nga cũng nói rằng:
"Việt Nam luôn tuân thủ nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao hai nước, giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, không có hành động làm phức tạp thêm tình hình. Tuy nhiên cũng cần phải nói rõ rằng không có nhận thức chung nào nói rằng Trung Quốc có quyền cản trở các hoạt động của Việt Nam tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.
Chính hành động này của Trung Quốc đã đi ngược lại nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao hai nước. Trung Quốc kêu gọi giải quyết các tranh chấp liên quan bằng các biện pháp hòa bình nhưngchính hành động của Trung Quốc đang làm phức tạp thêm tình hình ở biển Đông.
Chúng tôi mong rằng Trung Quốc là một nước lớn thì sẽ thể hiện vai trò có trách nhiệm của một nước lớn và thực hiện đúng tinh thần tuyên bố của lãnh đạo cấp cao Trung Quốc"
Là người dân tôi không thể hiểu được thế nào là nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao hai nước, tôi chỉ biết rằng từ năm 2005 cho đến nay, Trung Quốc càng ngày càng hành xử côn đồ trên biển Đông, đỉnh điểm là năm 2009, đã bắt giam, cướp tài sản và giết chết ngư dân Việt Nam.
Sau những lần gặp mặt, hội thảo và tiếp xúc cấp cao của cả hai nước thì sự thật đã chứng minh, Trung Quốc nói một đàng làm một nẻo, và Việt Nam thì bày tỏ sự phản đối của mình mạnh mẽ hơn bằng ngôn ngữ ngoại giao.
Thật buồn khi xung quanh tôi có nhiều người nói rằng: "Việt Nam bây giờ sử dụng từ ngữ phản đối mạnh hơn một chút rồi đó, đề nghị được thay bằng yêu cầu, phản đối bằng cực lực phản đối...".
Nghe những lời đó thật chua xót.
Là công dân, chúng ta có thể làm gì?
"Biểu tình lúc này là chưa phải. Biểu tình không giải quyết được vấn đề, chỉ làm ảnh hưởng đến ngoại giao". (Người ta nói, không phải mẹ Nấm nói)
Tôi nghĩ, người dân nào cũng hiểu rằng, không thể bảo vệ chủ quyền ở Hoàng Sa - Trường Sa bằng con đường biểu tình. Nhưng ít nhất việc để người dân bày tỏ thái độ phản đối hành động xâm lược của Trung Quốc bằng cách xuống đường chắc chắn sẽ làm cho mỗi người có ý thức hơn đối với an ninh quốc gia và ý thức hơn trách nhiệm của mình trước vấn đề chủ quyền của Tổ quốc.
Biểu tình có thể không giải quyết được vấn đề, nhưng ngăn cấm biểu tình và cho rằng hành vi ngăn chặn này nhằm để bảo vệ "con đường ngoại giao" là cách làm thui chột ý thức dân tộc trong mỗi người trẻ nhanh chóng nhất. Đó cũng là con đường ngắn nhất để triệt tiêu một dân tộc.
Đấu tranh với Trung Quốc không hề đơn giản nhất là khi hai nước có chung đường biên giới lãnh thổ. Nhưng đấu tranh bằng ngoại giao không có nghĩa là nhân nhượng quyền lợi của quốc gia, của dân tộc.
Hãy thử nghĩ xem, vì sao nhà nước Trung Quốc càng ngày càng lấn lướt Việt Nam?
Hãy nghĩ xem, vì sao Trung Quốc không cần giữ "thể diện ngoại giao" với Việt Nam?
Vì chúng ta có những phản ứng ngoại giao chậm chạp và phụ thuộc vào phản ứng của họ.
Trước hành động xâm lược bờ biển Khánh Hòa - Phú Yên của Trung Quốc vào sáng ngày 28/05/2011, phải nhìn nhận rằng:  Từ ngày hai nước bình thường hóa quan hệ, nối lại ngoại giao bằng “mười sáu chữ vàng” và “bốn tốt”, những hành vi, ứng xử từ phía Trung Quốc về vấn đề chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam cho thấy: Họ không hề muốn có ổn định khu vực.
Với các hệ lụy như: Đào sâu ngăn cách giữa lãnh đạo Việt Nam và nhân dân, mà vốn lòng tin của nhân dân vào nhà nước đã bị xói mòn rất nhiều do những chính sách đối nội. Trung Quốc đã cố tình làm giảm uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Những thỏa thuận quốc tế nếu có người Trung Quốc tham gia, thì  phía Việt Nam bao giờ cũng gặp khó khăn.
Để thôn tính nhau, không có cách nào nhanh nhất bằng con đường làm suy yếu “đối tác” từ nội bộ.
Họ đã có âm mưu và đã thể hiện những hành vi nhằm mục đích thôn tính.
Vậy, chúng ta chỉ bằng những lời lẽ nhẹ nhàng, và chỉ ở cấp độ một bộ, một ngành thì liệu vấn đề được giải quyết như nào?
Ngư dân vẫn chết, tài nguyên vẫn mất, toàn vẹn lãnh thổ bị vi phạm nghiêm trọng.
Nhận thức của người dân đâu đến nỗi nào, sao lại để họ coi thường và cư xử vậy? Khi nhà cầm quyền chưa lên tiếng và lại cấm dân lên tiếng vì lẽ gì? Dân có thể nói nhà cầm quyền hèn được chưa?
Vấn đề hai quốc gia, không phải là đôi co giữa hai nhà phát ngôn đồng cấp của một bộ.
Lãnh đạo cấp cao hai nước nên ngồi  để xem lại mười sáu chữ vàng hay bốn tốt đã đề ra.
Nhà nước Việt Nam hãy có động thái, chí ít là ghi nhận sự thức tỉnh của người dân nếu không muốn ru ngủ họ nữa. Hãy nhìn sự đoàn kết của nhân dân mà lấy làm hổ thẹn cho các bậc lương đống triều đình…
Không nhất thiết là cứ “ăn miếng trả miếng” nhưng nhịn mãi rồi thành quen, thành bản chất ươn hèn, đến lúc có muốn cũng chả vực lên được.
Cũng cần nói thêm rằng, khi người ta xâm phạm mình, không có nghĩa chỉ đóng cửa ra biển cãi nhau hay đưa nhau ra quốc tế kiện cáo. Sẽ không có nước nào lên tiếng ủng hộ Việt Nam khi chính Việt Nam chưa có động thái tích cực bảo vệ chủ quyền của mình!
Bên cạnh đó, chúng ta  không nên quên việc phải từng ngày từng giờ đối phó với giặc nội xâm cũng không kém phần nguy hiểm như tham nhũng, lộng quyền, làm trái pháp luật...
Một đất nước vững mạnh là đất nước có thể tự đứng bằng chính nội lực của mình. Không đứng trên chân ai, cũng không vịn vào ai!
P/s : Có nhiều bạn cho rằng, việc thể hiện sự phẫn nộ đối với hành vi xâm lược của Trung Quốc trên các diễn đàn, blog, Facebook là "nói nhiều", là "không thiết thực" -  Hãy thể hiện lời nói bằng cách tẩy chay hàng hóa Trung Quốc. Tôi nghĩ thế này, tẩy chay hàng hóa Trung Quốc, là cách tốt nhất và cần phải làm để bảo vệ sức khỏe bản thân và gia đình mình cũng như cộng đồng. Phẩm chất của hàng hóa Trung Quốc nếu kém chất lượng thì  không những chỉ bị tẩy chay ở Việt Nam mà trên toàn thế giới. Thị trường tiêu dùng hàng hóa trên thế giới đã, và đang đặt racâu hỏi nghiêm túc về chất lượng hàng hóa Trung Quốc. Nếu chất lượng hàng hóa đảm bảo, mà chúng ta vẫn tẩy chay thì hóa ra chúng ta đang thù vặt trẻ con hay sao?  
Việc tẩy chay hàng hóa không bao hàm thái độ chính trị hoặc chính kiến. Một ví dụ được coi là điển hình nhất, ông Hồ - lãnh đạo nhân dân Việt Nam đánh Mỹ, lại rất thích hút thuốc lá Mỹ. Điều này có nói lên điều gì không?  

KHIÊU KHÍCH QUÂN SỰ THÁNG 5-2011 VÀ BÀI HỌC 2-1979

KHIÊU KHÍCH QUÂN SỰ THÁNG 5-2011 VÀ BÀI HỌC 2-1979

KHIÊU KHÍCH QUÂN SỰ THÁNG 5-2011 VÀ BÀI HỌC 2-1979

Lính Trung Quốc khiêu khích bộ đội ta (mũ cứng), cửa khẩu phía Bắc 1978
Mai Thanh Hải Blog - Mờ sáng 17/2/1979, Trung Quốc đã bất ngờ nổ súng, ào ạt xua bộ binh, xe tăng dưới sự yểm hộ của pháo hạng nặng, đồng loạt tấn công vào các điểm cao, mục tiêu quân sự - chính trị kinh tế của 6 tỉnh trên toàn tuyến biên giới phía Bắc nước ta.

Chúng ta đã bị bất ngờ trước cuộc tấn công. Sự chống trả ngăn bước quân xâm lược, ngay những ngày đầu chỉ được thực hiện bằng những Đồn, Trạm, đơn vị Công an Vũ trang (nay là Bộ đội Biên phòng), bộ đội địa phương, dân quân - du kích - tự vệ và cả những người dân, với trang bị thiếu thốn, lạc hậu. Đến khi các đơn vị chủ lực cơ động từ các vùng miền, tỉnh khác về và đặc biệt là cấp tốc hành quân bằng máy bay, tàu hỏa từ miền Nam ra, chiến trường Campuchia về, thì số lượng không nhỏ cơ sở hạ tầng của ta đã bị lính Trung Quốc phá hủy tan nát, hàng vạn người dân bị thiệt hại và hàng triệu người mất nhà cửa, ruộng vườn, phải tay bị tay gậy, bồng bế nhau sơ tán về tuyến sau. Rất nhiều nhiều đơn vị chủ lực cơ động ra "chi viện cho biên giới phía Bắc" đã không kịp... nổ một phát súng, dù là chỉ thiên trên đầu quân bành trướng xâm lược, bởi lý do rất đơn giản: Quân Trung Quốc đã phá xong, giết xong, rút về từ... tám hoánh.
Lính Trung Quốc đe dọa phóng viên chụp hình

Hôm nay, cho dù một số người cầm quyền đã ký Hiệp định không nhắc lại sự kiện 17-2-1979 cùng quãng thời gian 10 năm sau đó, ròng rã bảo vệ biên giới Tổ quốc; người ta cũng "tế nhị" không ghi lại trong sách Lịch sử trong các cấp học dạy học sinh và cũng muốn lãng quên quá khứ máu xương - nước mắt cả chục năm liền trên biên cương... Thế nhưng chắc chắn, sẽ có 1 lúc nào đó, người ta sẽ phải công khai, sẽ phải tìm hiểu và lật lại vấn đề, để ít nhất rút ra bài học về quan hệ với kẻ láng giềng tham lam và bài học cảnh giác, nắm bắt tình hình, dự đoán tình huống và nhất là để Tổ quốc không bị bất ngờ...

Năm 1979, trước khi cuộc chiến nổ ra, những hành động khiêu khích quân sự, leo thang tình hình của nhà cầm quyền Trung Quốc với Việt Nam xảy ra liên tục. Đơn cử như: Rút hết chuyên gia, kỹ sư, công nhân kỹ thuật đang giúp đỡ, làm việc ở tất cả các công trình, dự án về nước; dựng lên cái gọi là "Nạn Kiều" và kêu gọi, xúi giục những người Việt gốc Hoa, sinh sống bao đời, bao thế hệ, bỏ hết nhà cửa, công việc ở Việt Nam, rồng rắn kéo nhau về "cố quốc" Trung Quốc, trên mọi phương tiện, hiểm nguy...

Đặc biệt, trên biên giới phía Bắc thời điểm 1978, hầu như các tỉnh đều nóng bỏng tình trạng lính Trung Quốc cải trang thành người dân, tràn quan biên giới, xâm nhập vào đất ta để cướp phá lương thực - thực phẩm, phá hoại sản xuất, gây rối - hành hung - bắt cóc cán bộ, nhân dân...
Thi thể chiến sĩ Lê Đình Chinh

Cao trào nhất phải kể đến trường hợp Thượng sỹ Lê Đình Chinh (sinh năm 1960, quê ở xã Hoằng Quang, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa), chiến sĩ thuộc Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 12, Bộ Tư lệnh Công an nhân dân vũ trang (nay là Bộ đội Biên phòng), đã hy sinh ngày 26-8-1978, tại biên giới Lạng Sơn. Thượng sỹ Lê Đình Chinh hy sinh trong khi ngăn chặn hàng chục lính Trung Quốc giả dạng côn đồ, vượt biên giới sang đất ta hành hung cán bộ, phụ nữ, nhân dân địa phương và xác của người chiến sĩ Biên phòng gần 20 tuổi này, bê bết những vết dao quắm, nhưng vẫn phải để vậy, đưa lên băng ca ra cửa khẩu, gọi bên Trung Quốc sang nhìn, để tố cáo...

Trước những hành động khiêu khích như vậy, rất nhiều người đoán chắc sẽ có xung đột - chiến tranh, thế nhưng một số người lại không nghĩ vậy và đến khi súng đã nổ rền trên biên giới, người ta mới "à!" vỡ lẽ và cuống cuồng điều quân chủ lực về chi viện cho những Đồn Công an vũ trang chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, ngọn lê cuối cùng, chiến sĩ cuối cùng; những tiểu đội dân quân - du kích tắc bụp bắn lính Trung Quốc đen đặc bằng súng trường K44, tiểu liên K50 từ hồi đánh Pháp...
Tàu Hải giám xâm phạm nghiêm trọng lãnh hải Việt Nam

Tháng 5/2011, hành động khiêu khích quân sự của Trung Quốc lại được tái diễn bằng việc 3 tàu tuần tra biển Trung Quốc phăm phăm chạy vào sâu trong lãnh hải Việt Nam 84 hải lý để uy hiếp, tấn công tàu địa chấn Bình Minh 02 của Tạp đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN) ngay trên vùng biển Phú Yên - Khánh Hòa suốt 4 tiếng đồng hồ. Điều lạ ở đây là suốt thời gian tàu Bình Minh 02 và 4 tàu bảo vệ phải chơi trò "đâm, ủi" giằng co với các tàu Trung Quốc hiện đại trên biển, trong phía bờ không có bất cứ hành động trợ giúp, cứu viện nào, cho dù Quân cảng Cam Ranh (nơi đậu đỗ của các tàu chiến đấu hiện đại nhất thuộc Quân chủng Hải Quân) và sân bay Thành Chơn (hay còn gọi là căn cứ không quân Phan Rang, nơi lúc nào cũng sẵn sàng cất cánh những biên đội máy bay chiến đấu SU30 bảo vệ Trường Sa), nằm gần ngay đó, với tổng thời gian ra tới nơi, chắc chỉ khoảng 15-20 phút.
Cáp thăm dò bị tàu Trung Quốc cắt
Cũng giống như cuối năm 1978, khi hành động khiêu khích của Trung Quốc xảy ra, quá mức chịu đựng, hệ thống các cơ quan truyền thông lại có dịp lên tiếng xả láng, phản đối (điều mà lâu lắm rồi mới được phép, từ sau sự kiện 14/3/1988) và cũng ý chang cuối năm 1978, những phát ngôn của Nhà nước mới dừng ở cấp Bộ Ngoại giao, chưa thấy cấp cao hơn tỏ bày, động đậy...

Cuộc chiến tranh biên giới 1979 kéo dài trong cả chục năm, với không biết máu xương đã đổ xuống, cũng có 1 phần lý do bất ngờ, chủ quan không lường trước mưu đồ của kẻ xâm lấn. Thế nhưng sau hơn 32 năm, chẳng lẽ cái bài học xương máu, cực kỳ quan trọng với mỗi chính thể, lại không rút ra được?..

Thế giới ngày nay đã khác. Vị thế của quốc gia cũng đã khác. Ý thức của con người cũng đã khác và cách nhìn nhận, đánh giá vấn đề cũng khác. Thế nhưng vẫn không gì thay đổi được là tinh thần dân tộc và yêu chuộng hòa bình, không muốn chiến tranh ở mỗi con người, mọi dân tộc, các quốc gia. Người dân Việt Nam - Trung Quốc, không ai muốn tái diễn cuộc chiến tranh như 1979, bởi suy cho cùng, trong mọi cuộc chiến tranh, chỉ người dân là chịu sự mất mát, hy sinh và ý thức của mỗi người, đều đặt niềm tin vào phương pháp xử lý, giải quyết vấn đề của những người cầm quyền.

Nếu nhà cầm quyền Trung Quốc không âm mưu biến Biển Đông thành ao nhà, đưa những lính thủy Trung Quốc ra xâm phạm lãnh hải quốc gia khác, bắn giết người dân nước khác, thì chắc chắn những người mẹ Trung Quốc sẽ không phải tủi hổ khi cái chết của con mình bị gọi là "trừng trị đích đáng", "quân xâm lược"; nếu bài học cảnh giác, không để Tổ quốc bị bất ngờ được những người lãnh đạo Việt Nam thấm thía, thì chắc chắn sẽ không có những người nằm xuống trong uất ức, không thể hiểu vì sao mình lại bị bắn, như trong buổi sáng sớm ngày 17-2-1979 và bao nhiêu người mẹ, người vợ Việt Nam, đến bây giờ vẫn không biết xác của 64 người thân bộ đội Hải quân mình nằm đâu, khi trúng đạn Trung Quốc, sáng 14-3-1988 tại vùng biển Cô Lin - Gạc Ma, Trường Sa của Việt Nam.
Biên phòng Việt Nam - Trung Quốc đấu khẩu trên đường biên

Bảo vệ đất nước, không chỉ đơn giản là chuyện gọi điện mời báo chí đến họp, phát biểu mấy câu vô hồn như máy khâu chạy lạch xạch quen thuộc, chiếm mấy phút thời lượng trên Truyền hình Quốc gia phản đối, yêu cầu này khác; Bảo vệ đất nước, càng không thể là thi thoảng gặp gỡ - hội đàm cấp này khác và tranh thủ "gài" chuyện chủ quyền lãnh thổ để đối tác "lưu ý giúp đỡ"; Bảo vệ đất nước, lại không thể chơi trò "nói như rồng leo, làm như mèo mửa": Tuyên bố trên Báo đài, trước Hội trường, Cử tri thì hùng hồn, nhưng khi xảy ra sự việc thì im thin thít, thậm chí không thấy có mặt trên bản tin VTV, như thường lệ; bảo vệ đất nước, tuyệt đối không thể bịt mồm người khác muốn sát cánh hô câu "Bảo vệ đất nước"...

Bảo vệ đất nước, điều đầu tiên là phải tâm niệm "đất nước phải được bảo vệ", giữ gìn uy danh, phát huy truyền thống quật cường vốn có và phát huy, khơi gợi tinh thần dân tộc trong mỗi công dân. Bảo vệ đất nước - Việc này càng quan trọng hơn khi tư thế của người bảo vệ hiên ngang, ngẩng đầu chứ không dúm dó, sợ sệt và chấp nhận "Trạng chết, Chúa cũng băng hà"... Một chính thể mà những người cầm quyền không biết thổi bùng, tranh thủ ngọn lửa yêu nước trong mỗi công dân, khi chủ quyền lãnh thổ quốc gia bị xâm phạm thì chính thể ấy không đặt lợi ích dân tộc, người dân lên hàng đầu và dĩ nhiên, khái niệm bảo vệ đất nước - người dân, có chăng chỉ chuyện nằm trên giấy. Lâu nay, chúng ta hay nhắc đến 2 chữ "đồng thuận", thời điểm này là dịp tốt nhất để những người lãnh đạo tỏ rõ vai trò gắn kết, tạo sự đồng thuận trong nhân dân trong việc bảo vệ - xây dựng Tổ quốc. Mọi công dân Việt đang chờ đợi những người lãnh đạo tỏ rõ chính kiến yêu nước, phát động yêu nước và noi gương yêu nước, từ câu chuyện nhỏ mà lớn, truyền thống và hiện tại: "Cương quyết chặn đứng mọi âm mưu xâm lược và để Tổ quốc không bị bất ngờ"...

Bài học này, cha ông ta đã truyền lại từ bao đời trước và vẫn còn vẹn nguyên, nóng hổi cách đây hơn 32 năm: Ngày 17-2-1979, Trung Quốc bất ngờ tấn công xâm lược Việt Nam...
-----------------------------------------------------------------------

HÌNH ẢNH TRUNG QUỐC KHIÊU KHÍCH VIỆT NAM, TRƯỚC 17-2-1979


Lính Trung Quốc khiêu khích bộ đội ta (mũ cứng) tại cửa khẩu biên giới phía Bắc, 1978

Người Việt gốc Hoa bị lôi kéo về Trung Quốc

Người Việt gốc Hoa phải bỏ nơi sinh sống, làm việc để về Trung Quốc trong gian nguy

Lính Trung Quốc hung hãn đe dọa phóng viên chụp hình

Biên phòng Việt Nam - Trung Quốc đấu khẩu ngay trên đường biên giới 2 nước


Thi thể chiến sĩ Lê Đình Chinh sau khi bị lính Trung Quốc dùng dăm quắm chém đến chết



Một số nhóm thám báo đột nhập vào Việt Nam bị bắt giữ

TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG: LIỆU TRUNG QUỐC CÓ GIẢI QUYẾT BẰNG VŨ LỰC?

574. TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG: LIỆU TRUNG QUỐC CÓ GIẢI QUYẾT BẰNG VŨ LỰC?

Đăng bởi anhbasam on 29/05/2011
THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM

TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG:

LIỆU TRUNG QUỐC CÓ

GIẢI QUYẾT BẰNG VŨ LỰC?

Tài liệu tham khảo đặc biệt
Thứ Sáu, ngày 27/05/2011
TTXVN (Bắc Kinh 23/5)
Ngày 15/5, mạng “Quân sự Thiên Thiên” của Trung Quốc đăng bài viết “Trung Quốc sử dụng vũ lực giải quyết vấn đề Biển Đông, nước nào là đối tượng đầu tiên?”, nội dung đáng chú ý như sau:
Tại Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông), Trung Quốc có một số đảo bị 5 nước là Philippin, Inđônêxia, Malaixia, Brunây và Việt Nam chiếm đoạt lâu dài, nhưng để đạt được mục đích chung sống hoà bình, Chính phủ Trung Quốc đã ký với các quốc gia Đông Nam Á văn kiện “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông” vào ngày 4/11/2002. “Tuyên bố” nhấn mạnh thông qua đàm phán, hiệp thương hữu nghị, lấy phương thức hoà bình giải quyết những tranh chấp liên quan tại Biển Đông, trước khi giải quyết tranh chấp, các bên cam kết giữ kiềm chế, không áp dụng các hành động khiến tranh chấp trở nên phức tạp và mở rộng. Văn kiện này có ý nghĩa tích cực quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích chủ quyền của Trung Quốc, duy trì hoà bình, ổn định tại khu vực Biển Đông, tăng cường lòng tin giữa Trung Quốc và ASEAN.
Việt Nam có những biểu hiện nào khi xâm chiếm các đảo ở Biển Đông?
Việt Nam chiếm giữ 29 đảo trên quần đảo Nam Sa (quần đảo Trường Sa), là nước xâm chiếm nhiều đảo nhất. Để chiếm giữ hữu hiệu các đảo này, Việt Nam đã áp dụng sách lược nói ít làm nhiều, nhằm tránh xảy ra xung đột với Trung Quốc, Việt Nam xâm chiếm một cách lặng lẽ, sau khi tạo sự thật đã rồi mới rêu rao có chủ quyền đối với các đảo này. Nhưng Việt Nam cũng ngại đụng chạm tới “giới hạn cuối cùng” của Trung Quốc, sợ một lần nữa vấp phải cuộc tấn công đến từ quân đội Trung Quốc, Việt Nam bắt đầu học bài “hỗ trợ từ nước ngoài” nhằm đạt được mục đích “lấy yếu thắng mạnh”.
Tháng 7/2008, Việt Nam ký hiệp định thăm dò dầu khí với một công ty nước ngoài, khiến vấn đề tranh chấp Biển Đông tạm thời yên lặng bỗng một lần nữa dậy sóng. Theo “Báo Hoa Nam buổi sáng” (Hồng Công) khi đó đưa tin, Việt Nam và tập đoàn Exxon Mobil (Mỹ) đạt được một hiệp định về hợp tác thăm dò dầu khí, trong đó địa điểm thăm dò lại nằm trong khu vực lãnh hải tranh chấp Trung-Việt trên Biển Đông. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Lưu Kiến Siêu ngày 22/7/2008 chứng thực, Chính phủ Trung Quốc cho rằng hành động này là hành vi xâm phạm chủ quyền Trung Quốc của Chính phủ Việt Nam, bày tỏ sự phản đối mạnh mẽ đồng thời đưa ra giao thiệp nghiêm khắc; hơn nữa, yêu cầu tập đoàn Exxon Mobil chấm dứt thực hiện hiệp định này, tuy nhiên Exxon Mobil lại tin tưởng Việt Nam có chủ quyền đối với các khu vực thăm dò tương ứng. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Dũng trong khi trả lời phóng viên “Báo Hoa Nam buổi sáng” của Hồng Công, đã nói: Hiệp định ký kết với Exxon Mobil thuộc chủ quyền quốc gia Việt Nam, nước khác không có quyền can thiệp.
Đây không phải là lần đầu tiên Việt Nam không thương lượng với Trung Quốc, tự ý thăm dò tài nguyên dầu khi trong khu vực lãnh hải tranh chấp, Việt Nam đã phân chia hàng trăm khu vực thăm dò, khai thác dầu khí trên vùng biển thuộc quần đảo Trường Sa để mời thầu trên toàn cầu. Trong những năm gần đây, các tập đoàn dầu khí của Mỹ, Nga, Pháp, Anh, Đức đều ký với Việt Nam một loạt hợp đồng thăm dò, khai thác dầu khí tại Biển Đông. Việt Nam đã nhuộm màu sắc quốc tế cho vấn đề tranh chấp Biển Đông. Tháng 4/2007, Việt Nam khởi động kế hoạch phát triển mỏ khí và đường ống dẫn khí thiên nhiên trong vùng biển tranh chấp Trường Sa với tập đoàn dầu mỏ BP của Anh, gặp sự phản đối kiên quyết của Chính phủ Trung Quốc, buộc BP phải thay đổi kế hoạch.
Vì gác tranh chấp, Trung Quốc vẫn chưa khai thác nổi một thùng dầu tại khu vực tranh chấp. Trong khi đó, tính đến nay Việt Nam đã khai thác gần 100 triệu tấn dầu thô, 1,5 tỷ m3 khí từ các giếng dầu ở khu vực Trường Sa, thu lợi hơn 25 tỷ USD. Sản lượng dầu mỏ khai thác hàng năm tại Biển Đông đạt từ 50 – 60 triệu tấn, trong đó sản lượng dầu mỏ tại khu vực tranh chấp Trung – Việt đạt khoảng 8 triệu tấn, chiếm tỷ trọng tương đối trong tổng sản lượng khai thác dầu mỏ hàng năm của Việt Nam là 30 triệu tấn. Để chiếm đóng vĩnh viễn các đảo, Việt Nam không ngại tổ chức cái gọi là diễn tập quân sự liên hợp với Mỹ nhằm vào Trung Quốc, với lại hai nước Trung-Việt vẫn đang trong quá trình đàm phán, thái độ bắt đầu thay đổi. Hành động này gặp phải sự phản đối của Trung Quốc, gây ra tình trạng căng thẳng hơn nữa trong quan hệ hai nước.
Trung Quốc nên chăng tấn công quân sự đối với Việt Nam?
Nếu quân đội Trung Quốc giải quyết tranh chấp Biển Đông bằng vũ lực, phải tiến hành điều tra dân ý về vấn đề “đánh ai trước”, chắc chắn trên 80% dân chúng Trung Quốc đều hô to một tên – Việt Nam. Về bề ngoài, Việt Nam hung hăng nhất, quốc lực tổng hợp yếu nhất và năng lực kiểm soát chiến tranh kém nhất trong số 5 nước có tranh chấp với Trung Quốc tại Biển Đông, dựa vào thực lực quân sự của Trung Quốc hiện nay có thể khẳng định rằng, nếu hải quân hai nước Trung-Việt xảy ra chiến tranh tại quần đảo Hoàng Sa hoặc quần đảo Trường Sa, quân đội Việt Nam chỉ có thể chống đỡ, không có sức đánh trả, cuối cùng phải chịu thất bại, quân đội Trung Quốc khẳng định sẽ giành chiến thắng gọn gàng, triệt để. Với thực lực quốc gia và thực lực quân đội hiện nay của Việt Nam căn bản không chịu nổi một trận đánh của Trung Quốc. Mặc dù, tác giả bài viết này nhất trí với đánh giá của đa số người dân Trung Quốc, nhưng mặt khác tác giả cũng tán thành với một bộ phận có quan điểm nhìn xa trông rộng, không chủ trương tiến đánh Việt Nam ngay lập tức, vậy vì sao?
Tác giả bài viết cho rằng trong một thời gian dài kiên trì theo dõi các chương trình quân sự trên truyền hình và trên các phương tiện truyền thông khác, lắng nghe các chuyên gia quân sự đánh giá về tình hình Biển Đông và trong các cuốn sách chuyên đề cũng như các bài bình luận trên mạng của các chuyên gia quân sự, cũng đọc thấy nhiều bài viết và ý kiến về chủ trương không tiến đánh Việt Nam trước, tác giả có cùng một quan điểm với chủ trường này: Trung Quốc giải quyết vấn đề tranh chấp Biển Đông, mục tiêu tiến đánh đầu tiên không nên là Việt Nam, và không chủ trương lập tức khai chiến với Việt Nam, một khi Trung Quốc khai chiến với Việt Nam sẽ tạo ra nhiều hậu quả, trong đó có 4 điểm vô cùng bất lợi cho Trung Quốc:
Một là, hiện nay Việt Nam có thể nói đang trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, từ sau Chiến tranh Lạnh, Việt Nam bắt đầu mất dần ký ức chiến tranh, mặc dù trong những năm gần đây họ giơ cành ô liu với người Mỹ, nhưng lịch sử thảm khốc của cuộc Chiến tranh Việt Nam và hình thái ý thức của Đảng Cộng sản Việt Nam, khiến Mỹ băn khoăn lo lắng, huống hồ người Mỹ cũng biết rất rõ, người Việt Nam chẳng qua là muốn hàng không  mẫu hạm của Mỹ đến để kiềm chế và hù doạ Trung Quốc mà thôi. Nếu Trung Quốc đánh Việt Nam, người Việt Nam sẽ kêu gọi sự bảo vệ của Mỹ, Nhật Bnả, cung cấp căn cứ quân sự cho Mỹ, Nhật, như vậy tuyệt đối không phải là một tin tốt cho Trung Quốc, Trung Quốc sẽ mất đi “vùng đệm hoà hoãn” phía Nam trong sự đối kháng với Mỹ. Cục diện này là ước nguyện của người Mỹ mấy chục năm qua, cũng là mục đích mà người Mỹ phải sử dụng biện pháp chiến tranh trong mười mấy năm mà chưa đạt được, và một khi xuất hiện cục diện này, dưới sự “giúp sức” của Trung Quốc, chắc chắn người Mỹ sẽ thực hiện được mục tiêu này. Nếu quân đội Mỹ có thể quay trở lại cảng Cam Ranh, có thể khẳng định cuộc sống của Trung Quốc sẽ không còn tốt đẹp.
Hai là, chiếm giữ các đảo của Trung Quốc tại Trường Sa còn có các nước Philippin, Malaixia, Inđônêxia, Brunây, nếu các nước này nhận được sự ủng hộ và xúi giục từ Mỹ, sẽ liên hợp với Việt Nam tiến hành chiến tranh chống lại Trung Quốc, cục diện này rất có khả năng xảy ra, vậy Trung Quốc phải làm sao? Toàn bộ khu vực Biển Đông sẽ trở thành chiến trường, hoàn toàn có thể khiến toàn bộ các nước Đông Nam Á thoái thác triệt để cho Mỹ, thảm hoạ chiến tranh sẽ tiếp nối, đồng minh của Trung Quốc tại khu vực này sẽ ngày càng ít, thậm chí bị cô lập hoàn toàn, hình tượng nước lớn có trách nhiệm của khu vực được Trung Quốc xây dựng từ năm 1999 đến nay bị sụp đổ hoàn toàn, nếu nhân cơ hội này Đài Loan đi theo hướng độc lập, Nhật Bản chiếm đóng tại đảo Điếu Ngư, Nam Tây Tạng lại có vấn đề, Trung Quốc thật sự xuất hiện cục diện “bốn bề gặp hoạ”, phiền phức không để đâu cho hết.
Ba là, các đảo Việt Nam chiếm giữ tại Biển Đông phân bố rải rác và trong phạm vi rộng, đại bộ phận đều nằm ở cực Nam của Biển Đông, đánh chiếm các đảo trên với Việt Nam như thế nào, mặc dù nó một tấc lãnh thổ cũng không thể nhường, nhưng đối với Trung Quốc, một số đảo thuộc khu vực Trường Sa thực sự quá xa, xa đến mức nếu dựa vào biện pháp kỹ thuật hiện nay, cho dù khai thác, phát triển thì lợi ích thu được so với cái giá phải bỏ ra để bảo vệ cũng không thể so sánh được, ngược lại, những đảo này rất gần với phía Việt Nam, huống hồ sau khi đánh chiếm những đảo này, hải quân Trung Quốc không thể dụng cả một hạm đội tác chiến bố trí lâu dài tại cực Nam của Biển Đông, vì vậy đánh chiếm các đảo này sẽ rất khó phòng thủ, rất có thể xuất hiện cục diện mất rồi lại được, được rồi lại mất, nếu xuất hiện cục diện này, hao người tốn của là chuyện không phải bàn, Việt Nam sẽ làm tiêu hao một lượng lớn sức chiến đấu của hải quân Trung Quốc, trong khi đó hải quân Mỹ cũng sẽ nhân cơ hội này gây ra những phiền phức cho hải quân Trung Quốc.
Bốn là, Trung Quốc tiến đánh Việt Nam trước, chắc chắn sẽ gặp sự phản đối kiên quyết từ nước láng giềng phương Bắc – đó là Nga, vì sau khi Liên Xô tan rã, Nga kế thừa và phát triển quan hệ đồng minh hữu nghị với Việt Nam, hiện nay Nga là nguồn cung cấp trang bị vũ khí quân sự và hoả lực lớn nhất của Việt Nam, ngược lại, người Nga nhập khoảng 30% hàng nông sản, thực phẩm từ Việt Nam, một khi Trung-Việt xảy ra chiến tranh, chắc chắn sẽ ảnh hưởng tới quan hệ đối tác mật thiết Trung-Nga mà hai nước mới thiết lập, tình hình quốc tế hiện nay đòi hỏi hai nước Trung-Nga phải đoàn kết mật thiết, cùng nhau đối phó với nguy cơ quân sự ngày càng nghiêm trọng, nếu Nga cũng gia nhập vào tập đoàn tuyên truyền về thuyết “mối đe doạ từ Trung Quốc”, như vậy Trung Quốc sẽ ở vào địa vị quốc tế hết sức khó xử, Nga cũng sẽ đối xử thù địch với Trung Quốc, Trung Quốc thật sự bị Mỹ bao vây toàn diện. Trong khi đó, kinh tế của Trung Quốc cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng, đây là bất lợi lớn nhất.
Căn cứ vào 4 nguyên nhân trên, Trung Quốc tiến đánh Việt Nam đầu tiên để giải quyết vấn đề Biển Đông là sự lựa chọn không sáng suốt, nếu tiến đánh Việt Nam đầu tiên, các nước tranh chấp khác dưới sự xúi giục và ủng hội của Mỹ, khẳng định sẽ không khoanh tay đứng nhìn, nhưng nếu Trung Quốc tiến đánh Philippin đầu tiên hoặc nước khác, tác giả có đầy đủ lý do chứng minh rằng, cho dù Mỹ gây chia rẽ như thế nào, Việt Nam đều sẽ không dám tham gia, trong vấn đề Biển Đông, hai nước Trung-Việt dường như có một dạng hiểu ngầm là: “anh không đánh tôi, tôi không tham gia” và “tôi không đánh anh, anh không tham gia”, năm ngoái Trung Quốc và Philippin xảy ra xung đột xung quanh vấn đề đảo Hoàng Nham, biểu hiện giữa Trung Quốc và Việt Nam đã cho thấy tồn tại sự hiểu ngầm đó.
Mặc dù, chiến tranh là tàn khốc, là không nhân đạo, nhưng có lúc cũng là điều phải làm và cũng là biện pháp hiệu quả nhất. Những vấn đề đang đặt ra cho Chính phủ và quân đội Trung Quốc là: Đánh ai trước? Khi nào đánh? Sau khi thu hồi các đảo bị chiếm đóng tại Biển Đông nên củng cố và bảo vệ như thế nào?
Căn cứ vào tình hình Biển Đông hiện nay, tác giả đưa ra cách nhìn sau:
  1. Nước nào quan hệ tốt nhất với Mỹ?
  2. Nước nào hô hào chống Trung Quốc mạnh nhất?
  3. Nước nào quy hoạch các đảo chiếm đóng của Trung Quốc vào bản đồ nước mình đầu tiên?
  4. Nước nào chiếm các đảo của Trung Quốc có cự ly gần với Trung Quốc đại lục nhất?
Nếu quốc gia nào đồng thời phù hợp với 4 điều kiện kể trên, thì đó chính là đối tượng mà quân đội Trung Quốc cần tiến đánh đầu tiên, căn cứ vào tình hình Biển Đông hiện nay thì quốc gia đó chính là Philippin.
Philippin chiếm giữ 10 đảo. Philippin là nước có lực lượng hải quân yếu nhất trong số các nước tranh chấp tại Biển Đông. Để chiếm giữ hữu hiệu các đảo, Philippin đã áp dụng một số biện pháp cầu cứu sự ủng hộ và bảo vệ từ bên ngoài. Tháng 4/1992, Philippin khởi xướng “Hiệp ước thân thiện và hợp tác ASEAN”, Hiệp ước này yêu cầu giải quyết hoà bình tranh chấp Biển Đông. Hai năm sau, Philippin ký hợp đồng với một công ty của Mỹ, tiến hành cái gọi là hoạt động thăm dò và nghiên cứu địa chất ở khu vực tranh chấp phía Tây quần đảo Palawan, hành vi của Philippin dẫn đến sự phẫn nộ của Trung Quốc.
Được coi là một phản ứng, Trung Quốc đã dựng cột mốc trên đảo đá ngầm Mỹ Tế (Việt Nam gọi là Vành Khăn, Philippin gọ là Panganiban) thuộc quần đảo Trường Sa, xây dựng nhà đan và nhà tránh bão dân dụng cho ngư dân, Philippin cho rằng đảo Mỹ Tế thuộc Philippin, vì vậy, đã tiến hành phá hoại có chủ ý, đồng thời bắt giữ các ngư dân Trung Quốc đang hoạt động tại vùng nước cách phía Tây quần đảo Palawan 80 km. Đây là tranh chấp đảo Mỹ Tế giữa Trung Quốc và Philippin. Sau này, do cảnh cáo nghiêm khắc từ phía Chính phủ Trung Quốc, Philippin đã phải thả toàn bộ ngư dân Trung Quốc. Được biết, Philippin làm như vậy tất cả đều do cuộc bầu cử trong nước sắp diễn ra, khi người phát ngôn Bộ Ngoại giao Philippin đề cập đến vấn đề này, đã viện dẫn Hiệp ước phòng thủ chung mà Philippin ký với Mỹ, trong Hiệp ước này nói, một khi Philippin bị tấn công, Philippin sẽ tiến hành thảo luận song phương với Mỹ, có lẽ do nguyên nhân của Hiệp ước này mà Ngoại trường Mỹ đã nhắc nhở Ngoại trưởng Trung Quốc: Mỹ có nghĩa vụ với Philippin theo Hiệp ước.
Phải chăng Mỹ nhúng tay vào vấn đề tranh chấp Biển Đông?
Mỹ nhúng tay vào tranh chấp Biển Đông là điều hoàn toàn khẳng định, đây là một trong những bước đi chiến lược “quay trở lại châu Á, xưng bá châu Á” của Mỹ, mục đích là kiềm chế Trung Quốc tăng tốc trỗi dậy trên phạm vi toàn cầu, để củng cố địa vị bá chủ của mình trên phạm vi toàn cầu, chính vì vậy việc tích cực nhúng tay vào vấn đề tranh chấp Biển Đông sẽ không có gì làm lạ, Trung Quốc cũng đã quen với bất cứ phiền phức nào đều có “bạn đồng hành” là Mỹ, cho dù là nhận được sự giúp đỡ của Mỹ, chẳng nhẽ người Mỹ triển khai hàng triệu quân và mười mấy chiếc hàng không mẫu hạm đến Biển Đông để giúp một nước nhỏ không quan trọng hay sao? Mỹ thực hiện chiến lược kiềm chế Trung Quốc, hoàn toàn không có nghĩa là chiến lược chiến tranh, thủ đoạn là “trò chơi bên miệng hố chiến tranh” chứ không phải “trò chơi chiến tranh”, không vì một hòn đảo nhỏ mà Mỹ khai chiến với Trung Quốc. Người Mỹ nhiều nhất cũng chỉ đem hàng không mẫu hạm đến uy hiếp Trung Quốc, viện trợ một chút vũ khí và ủng hộ về mặt nhân đạo. Người Mỹ liên hợp triển khai đối kháng quân sự nhằm vào Trung Quốc, là lấy đá đập vào chân mình.
Ngày cả Mỹ thật sự xuất quân can dự, liệu Trung Quốc có từ bỏ vũ lực thu hồi chủ quyền các đảo tại Biển Đông? Đáp án là phủ định. Trung Quốc không phải là Ápganixtan, Irắc hay Libi, Trung Quốc ngày nay không yếu hèn như vậy, Trung Quốc tuyệt đối không tỏ ra yếu kém trước bất cứ quốc gia nào tại Biển Đông, có sự can thiệp của người Mỹ càng khiến Trung Quốc kiên định hơn vào quyết tâm và ý chí chiến đấu nhằm thâu tóm Biển Đông. Nếu “Trung-Mỹ tất phải có một cuộc chiến”, trước khi Chính phủ và quân đội Trung Quốc sử dụng vũ lực thu hồi các đảo tại Biển Đông, nên làm tốt mọi sự chuẩn bị để có thể quyết chiến với Mỹ tại Biển Đông.
*
*        *
(Đài RFA 19/5)
Trung Quốc ngày càng lộ rõ hơn tính cách nước lớn và không ngại đưa ra những quyết định vi phạm nghiêm trọng công ước quốc tế về luật biển đối với các nước láng giềng nhỏ hơn như Philippin hay Việt Nam.
Trong hoàn cảnh bị chèn ép liên tục như vậy, liệu Việt Nam có thể ứng phó ra sao và đến bao giờ thì Trung Quốc sẽ tiến thêm bước nữa để thôn tính quần đảo Trường Sa?
Mặc Lâm có cuộc phỏng vấn đặc biệt với nhà nghiên cứu Trung Quốc Dương Danh Dy, nguyên Tổng lãnh sự Việt Nam tại Quảng Châu để tìm câu trả lời về vấn đề này.
Trắng trợn và ngang ngược
+ Thưa ông, vừa qua Trung Quốc đã tiếp tục đưa ra quyết định cấm đánh bắt cá đối với khu vực thuộc chủ quyền của Việt Nam, điều này cho thấy họ vẫn tiếp tục giữ thái độ nước lớn là bất chấp những quy định của quốc tế về luật biển. Là người lâu năm nghiên cứu và làm việc với Trung Quốc, ông nhận xét việc này thế nào/
-                           Nói về Trung Quốc trong vấn đề này thì nói dài hay ngắn bao nhiêu cũng được. Ý đồ không thay đổi của Trung Quốc là gì? Là mặc dù họ không có cơ sở pháp lý, cơ sở thực tế nào ở Biển Đông, nhưng từ ngày thành lập nước CHND Trung Hoa, đến năm 1988, họ đã lấy toàn bộ Hoàng Sa của Việt Nam. Họ chiếm 7 đảo và bãi ở Trường Sa của Việt Nam, và đến bây giờ họ còn đòi hỏi tất cả, tất cả Trường Sa là thuộc về họ! Đó là một điều vô lý.
Vừa rồi Cục Hải dương Trung Quốc đã thông qua một quy định cho phép đấu thầu 176 hòn đảo không có người ở của Trung Quốc để khai thác sử dụng, trong đó chắc chắn sẽ có những đảo mà họ xâm phạm chủ quyền đối với Nhật Bản, Hàn Quốc, Bắc Triều Tiên và Việt Nam cũng như với các nước còn lại của ASEAN như Philippin, Inđônêxia.
Cho nên, theo tôi, mục tiêu của họ đã quá rõ rồi. Đó là một sự ngang ngược, trắng trợn và vô liêm sỉ…
+ Trong nhiều lần phỏng vấn trước ông luôn luôn có thái độ kiềm chế và đây là lần đầu tiên chúng tôi nhận thấy sự bức xúc của ông. Xin ông cho biết đây có phải là một tín hiệu ông muốn gửi tới các cấp thẩm quyền của Việt Nam đang nhận trọng trách trong vấn đề Trung Quốc hay không?
Chuyện về Trung Quốc thì tôi nói nhiều rồi, kể cả khi tôi còn tại chức cho đến khi về hưu. Đến bây giờ trong các cuộc hội thảo, trong những lần mà tôi không bao giờ chống lại nhân dân Trung Quốc, mà chúng tôi chống sự bành trướng bá quyền, chống cái đại ác nước lớn của Trung Quốc mà thôi. Điều đó là phải khẳng định. Việc Trung Quốc không có chủ quyền mà họ lại cấm đánh cá, cho tàu đi vào vùng biển không phải của họ để tuần tra, đâm tàu Việt Nam là những điều ngang ngược, bá quyền, không ai có thể chịu được.
Mục đích của Trung Quốc
+ Là một nhà ngoại giao kỳ cựu ông biết rất rõ là trong tình hình thế giới hiện nay không cho phép một nước có hành động xâm lược nước khác. Tuy nhiên, ông có nghĩ rằng với tính cách nước lớn thương phô trương thì Trung Quốc có thể phớt lờ dư luận quốc tế để thôn tính Trường Sa như đã từng chiếm đoạt Hoàng Sa trước đây hay không?
-                           Trong vấn đề Biển Đông hiện nay, đặc biệt vấn đề Trường Sa thì có khá nhiều khả năng. Một là, khả năng tình hình sẽ tốt hơn trước, tốt hơn thoả thậun, tìm được tiếng nói chung hoà hợp với lợi ích cả hai bên, không xảy ra chiến tranh, hai nước vẫn hoà thuận với nhau. Theo tôi nghĩ khả năng đó không phải là không có.
Hai là, Trung Quốc sẽ bắt giữ tàu thuyền đánh cá như là tình hình hiện nay, thỉnh thoảng Trung Quốc phản đối đôi chút, Việt Nam phản đối đôi chút. Thứ ba là tình hình xấu đi nữa, và điều xấu nhất là Trung Quốc mang quân ra đánh. Họ cho lính giả làm dân ra chiếm những đảo không có người ở thuộc chủ quyền của Việt Nam, của Philippin hoặc của Inđônêxia làm cho căng thẳng gia tăng. Và xấu nhất là nổ ra chiến tranh, hoặc là Trung Quốc với Việt Nam hoặc là Trung Quốc với Philippin. Như vừa qua chúng ta đều biết chuyện Trung Quốc mang tàu đến hải phận Philippin khiến nước này cho máy bay đánh đuổi.
+ Trong tình hình xấu nhất như ông vừa nói, liệu Chính phủ Việt Nam đã sẵn sàng cho một cuộc chiến không mong muốn này hay chưa?
-                           Theo tôi, sống bên cạnh anh hàng xóm này, bất cứ người lãnh đạo Việt Nam nào cũng phải tính đến khả năng xấu nhất. Tôi chắc rằng và tôi biết phía Việt Nam có chuẩn bị chứ không phải là khoanh tay ngồi đợi sự bố thí của phía Trung Quốc.
+ Lịch sử Việt Nam luôn cho thấy trong hàng ngàn năm qua mỗi lần giặc phương Bắc tràn xuống thì bất cứ triều đại nào cũng đều phải dựa vào lòng dân, liệu bài học kinh điển này có được chính phủ áp dụng hay không?
- Phải nói thật là có một thời gian dài vì nghĩ tới lợi ích lớn nên chúng ta nhân nhượng, không nói rõ về những bất đồng, nhất là trong cuộc chiến tranh xâm lược nước ta của Trung Quốc năm 1979.
Thế nhưng, gần đây nếu ông theo dõi báo chí, dư luận Việt Nam thì sẽ nhận thấy là bắt đầu có những điểm mới. Báo Thanh Niên của Việt Nam đã đăng chuyện về liệt sĩ Lê Đình Chinh hy sinh ở chiến tranh biên giới năm 1979. Báo Thanh Niên Việt Nam cũng đã nói đến chuyện những liệt sĩ hy sinh hồi tháng 3 năm 1988 khi bị giải quân Trung Quốc tấn công.
Còn trong dân, tôi xin nói thật là người ta đều biết đối tượng, đối thủ của chúng ta là Trung Quốc. Trung Quốc là kẻ thù nguy hiểm nhất của chúng ta. Nhưng Trung Quốc cũng không hề giấu giếm, họ nói Việt Nam là đối tượng nguy hiểm nhất của Trung Quốc ở Biển Đông. Tôi cũng nói thật rằng mọi người Việt Nam đều biết rằng Trung Quốc chưa lấy được Trường Sa của Việt Nam thì còn chưa hết gây rắc rối.
+ Xin được hỏi câu cuối. Theo ông vì sao cho tới giờ Trung Quốc vẫn chưa dùng vũ lực đối với Việt Nam như đã từng dùng trong cuộc chiến 1979 trước đây?
-                           Không phải là chuyện dễ! Tôi xin nói thật, họ đã nói “đánh Trường Sa thì dễ, giữ được Trường Sa thì không dễ”. Tôi không phải là nhà quân sự nhưng bằng kiến thức của mình, tôi cũng biết rằng: “Chúng tôi không muốn gây sự với các anh, nhưng nếu các anh xâm phạm lãnh thổ thiêng liêng của chúng tôi thì các anh sẽ biết hậu quả như thế nào”.
Chắc chắn nếu bây giờ có chuyện xảy ra, không phải như năm 1979 nữa, không phải họ muốn làm mưa làm gió gì thì làm. Bây giờ Việt Nam đã khác. Năm 1979 Việt Nam đang bị cô lập còn Việt Nam bây giờ với chủ trương đối ngoại đúng đắn với cả thế giới, nhân dân thế giới kết nghĩa với Việt Nam. Nhân dân khu vực đứng về phía Việt Nam, và ngay cả nhân dân Trung Quốc, những người có lương tri, cũng thấy rằng không thể lại một lần nữa mang quân sang đánh Việt Nam như năm 1979.
Cho nên tình hình bây giờ khác trước rồi, khác với năm 1979 rất nhiều, và nhà cầm quyền Trung Quốc thấy rất rõ. Năm 1979, Việt Nam đã phải chiến đấu rất gian khổ? Bây giờ thì khác, chúng ta có bạn bề khắp nơi, quan hệ ngoại giao rất tốt đẹp với các nước lớn trên thế giới, với các nước trong khu vực, và với nhân dân Trung Quốc cũng như vậy. Bằng những hành động chính nghĩa, sự chịu đựng, tuyên truyền sẽ làm cho nhân dân Trung Quốc dần dần thấy là nhân dân Việt Nam có lý./.