Tổng số lượt xem trang

Chủ Nhật, 19 tháng 6, 2011

KÝ ỨC NGƯỜI LÍNH GIỮ TRƯỜNG SA

KÝ ỨC NGƯỜI LÍNH GIỮ TRƯỜNG SA
[20.06.2011 00:11 - Nhịp Cầu Thế Giới Online]
(NCTG) Một bộ đồ xanh cũ kỹ, có pha thêm màu nắng, màu đất đỏ và màu sương gió. Một dáng hình mảnh khảnh và một chiếc xe đã tàn, anh kể chuyện thời trai trẻ, nụ cười mấp mé mà đôi mắt như dại đi. Chuyện của chàng thanh niên Trương Văn Hiền 23 năm về trước…

23 năm trước - Ảnh do nhân vật cung cấp


Nhập ngũ năm 1986 khi tuổi đời vừa tròn 18, Trương Văn Hiền rời Hà Tĩnh và gia nhập vào Tiểu đoàn 6, Hải Đồ thuộc Bộ Tham mưu Hải Quân. Hai năm sau, khi Việt Nam mở chiến dịch đánh dấu chủ quyền (gọi tắt là chiến dịch CQ88 kéo dài hơn năm tháng), anh nhận lệnh lên đường làm nhiệm vụ bảo vệ quần đảo Trường Sa.

Trận tử chiến ở tuổi 18

Chừng 7 giờ 30 phút sáng 14-3-1988, tàu HQ604 của anh bị nã pháo và tấn công. “Trước tình hình cấp bách, tôi hiểu rằng tương quan lực lượng như vậy, và thế bị động của chúng tôi, số phận của tôi rồi cũng không khác hơn những đồng đội của mình đã ngã xuống. Một thoáng tôi nghĩ rằng mình không thoát khỏi cái chết.

Khi người ta rơi vào bước đường cùng thì có lẽ ai cũng sẽ nghĩ như tôi, tôi nghĩ rằng mình đằng nào cũng chết thì phải chết trong danh dự, cho xứng đáng với lời thề khi ra đi, cho xứng đáng với những hi sinh của đồng đội mình. Nhìn thấy đồng đội lần lượt ngã xuống, tôi không còn nhớ là những ai đang chiến đấu cùng mình nữa, tôi không biết là lúc đó ai còn sống sót. Tôi đã chiến đấu trong điên cuồng và bị thương nặng trong khi đồng đội hi sinh gần hết”, người lính thổ lộ.

Trương Văn Hiền không còn nhớ được chính xác thế trận tại Gạc Ma thời điểm đó, trên tàu có vài vũ khí thô sơ, anh cầm khẩu AK47 đứng mé boong tàu và chỉ biết “bắn – bắn và bắn”. Pháo, đạn liên tiếp khiến tàu HQ604 bị chìm vào hồi 8 giờ. Thoát ra khỏi tàu, Hiền bơi trong tuyệt vọng,  sóng biển và vết thương đau nhói khiến máu anh sôi sục vì căm thù. Vớ được mảnh gỗ vỡ ra từ con tàu, anh cột mình vào bằng chiếc quần dài, và cứ thế, lênh đênh trên biển ba ngày hai đêm, cho tới khi Trung Quốc trục vớt và đưa anh về làm tù binh.

Sống mòn

Cắn môi, Trương Văn Hiền ngậm ngùi: “Ba năm tù đày là quãng thời gian không bao giờ tôi quên được”. Cuộc sống trên đất lạ bắt đầu bằng chén cháo loãng và khúc bánh mì rỗng ruột, những “dây cao su” và một loạt các câu hỏi. Hiến cảm thấy, trong cơ cực, nếu không thể vượt lên nó, cũng không thể kết thúc nó thật nhanh thì người ta sẽ cắn răng chịu đựng trong mỏi mòn.


Sau khi được trục vớt và bị bắt giữ - Ảnh chụp từ clip


Sau khi về nước, Hiền và đồng đội (tám chiến sĩ khác*) được an dưỡng tại Hải Phòng, được tặng Huân chương Kháng chiến hạng Ba và giấy chứng nhận bị thương. Cuộc sống phiêu bạt nay đây mai đó, bão lũ cuốn trôi giấy tờ, và tất cả những gì ghi dấu cuộc đời trai trẻ của anh.

Hai mươi năm sau ngày tự do, Trương Văn Hiền vẫn mang trên mình thương tật (vết thương ở tay trái và bên sườn) nhưng không phải là thương binh, không bằng cấp, không giấy tờ. Quá khổ cực để sống. Giữa thủ phủ cà phê, anh không có được mảnh đất xây nhà, nghĩ gì đến héc-ta trồng cà.

Cuộc sống làm thuê qua ngày, trang trải cho một gia đình bốn miệng ăn và hai bé nhỏ đang tuổi đến trường. Mỗi khi trái gió trở trời, vết thương đau nhức hành hạ, nhưng cái nghèo cứ trơ trẽn đó, người ta phải tính toán từng đồng để chi cho cái ăn hơn là bỏ tiền vào thuốc. Đến khi thập tử nhất sinh mới dám liều tới bệnh viện, “nhà nghèo thì ai cũng thế” – anh tặc lưỡi.


23 năm sau…


Vật vã kiếm sống, ký ức trong người lính một thuở ngày một mờ dần đi. Những thông tin liên lạc với đồng đội cũng là cái gì đó quá xa vời với Trương Văn Hiền. “Tôi chỉ có hai mong ước rằng: một là có thể đảm bảo cho cuộc sống của hai con được no đủ, học hành đến nơi đến chốn; hai là được găp lại đồng đội của mình, những người đã cùng tôi chiến đấu, đã sống cùng tôi những tháng ngày không thể nào quên. Hoàn thành được hai tâm nguyện này là tôi đã mãn nguyện lắm rồi”.

Không biết đến khi nào, tâm nguyện của anh mới được hoàn thành?

(*) Ngoài Trương Văn Hiền, chúng tôi còn được biết tám đồng đội đã cùng anh “vào sinh ra tử”:

1. Nguyễn Tiến Hùng, Quảng Xương, Thanh Hóa (số 9 trong danh sách công bố của báo “Nhân Dân” xuất bản 28-3-1988).
2. Lê Minh Thoa, Bình An, Tây Sơn, Nghĩa Bình (số 10).
3. Nguyễn Văn Thông, Nhân Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình (số 46).
4. Lê Văn Đông, Tây Trạch, Bổ Trạch, Bình Trị Thiên (số 47).
5. Trần Thiện Phụng, Phường 2, Đông Hà, Bình Trị Thiên (số 49).
6. Mai Văn Hải, Liêm Trạch, Bổ Trạch, Bình Trị Thiên (số 55).
7. Nguyễn Văn Tiến, Nam Định (số 65).
8. Dương Văn Dũng, tổ 53, Hòa Cường, Quảng Nam - Đà Nẵng (số 67).


Chín chiến sĩ được phía Trung Quốc trao trả cùng vợ anh Phụng và hai cán bộ dân sự khác. Các chiến sĩ mặc áo xanh hải quân theo thứ tự: (hàng trên) Lê Văn Đông, Nguyễn Văn Thông, Trần Thiện Phụng, Phạm Văn Nhân, Nguyễn Tiến Hùng; (hàng dưới) Trương Văn Hiền, Lê Minh Thoa, Mai Văn Hải, Dương Văn Dũng - Ảnh do nhân vật cung cấp
Ðài Trang, từ TP HCM




Tin, bài liên quan:
MTI VIẾT VỀ CUỘC TẬP TRẬN CỦA VIỆT NAM TẠI BIỂN NAM TRUNG HOA [13.06.2011 12:05]
TRÒ CHUYỆN VỚI MỘT NGƯỜI HUNGARY VỀ HẢI ÐẢO VIỆT NAM [07.06.2011 20:05]
5-6-2011: “CÒN LẠI TÌNH YÊU” [06.06.2011 11:16]
Chuyện thời sinh viên: “TẬP TRUNG VÀ GIỮ TRẬT TỰ” [01.06.2011 01:19]
Nghiên cứu lãnh hải Việt Nam: VỪA YẾM THẾ, VỪA YẾU THẾ [16.03.2009 09:17]
Vấn đề Trường Sa - Hoàng Sa: CẦN MỘT NỖ LỰC TỔNG HỢP [07.12.2008 10:07]
"CỘNG ĐỒNG MẠNG" VÀ 9-12-2007, MỘT NGÀY SON CỦA TOÀN THỂ DÂN TỘC VIỆT NAM [10.12.2007 12:13]
NGƯ DÂN HÒA LỘC: HỒI HƯƠNG TRONG CAY ĐẮNG! [18.02.2005 20:45]
MỘT HÀNH VI VÔ NHÂN TÍNH CỦA TUẦN DUYÊN TRUNG QUỐC [28.01.2005 20:38]
CHÚNG TA SẼ KHÔNG LÙI BƯỚC! [28.01.2005 20:34]


 Bản để in In trang này |  Lưu dạng file Lưu để đọc sau |  Gửi tin qua email Email bài này |  Thảo luận Ý kiến của bạn


Những tin khác:
MỘT LẦN ÐẾN RO RÓ [20.05.2011 01:24]

Ba phép thử cho xung đột Biển Đông Tác giả: Nguyễn Chính Tâm

Ba phép thử cho xung đột Biển Đông

Nói như nhiều nhà quan sát, đằng sau vụ tàu Bình Minh và mới đây là tàu Viking bị cắt cáp là mũi tên của Bắc Kinh nhắm vào nhiều đích.
>> Sức hậu thuẫn của toàn dân tộc
Một, xác quyết chủ quyền với đường lưỡi bò. Hai, xem thái độ của các nước cùng tranh chấp xung quanh. Và ba, răn đe các nước khác có tranh chấp như Nhật qua đảo Senkaku (Trung Quốc gọi là Điếu Ngư). Nhưng không chỉ từ phía Trung Quốc, đối với các nước cùng chia sẻ lợi ích tại Biển Đông, sự kiện này cũng đặt lên bàn cờ những phép thử khác. Với Mỹ là định lại bức tranh chiến lược còn nhiều góc khuất. Với ASEAN là đi tìm một đồng thuận chung. Còn với Việt Nam là cuộc sát hạch về chiến lược, lựa chọn hiện tại để hình dung tương lai.
Siêu cường giữa những ngả rẽ
Là một cường quốc Thái Bình Dương, và tiếp tục muốn đảm bảo vị trí này, trước những động thái leo thang gần đây của Trung Quốc tại Biển Đông trực tiếp ảnh hưởng đến quyền tự do lưu thông hàng hải, nước Mỹ đứng trước những lựa chọn: (1) ủng hộ thiết lập cơ chế an ninh vùng để ngăn chặn hành động dùng vũ lực; (2) tiếp tục đảm bảo sự hiện diện quân sự và tham gia gây ảnh hưởng đến các sự kiện xảy ra trong vùng (inshore balancer) và (3) giữ vai trò người cân bằng lực lượng bên ngoài (offshore balancer) bằng cách hỗ trợ những nước khác yếu hơn trong khu vực làm đối trọng với sự gia tăng quyền lực của đối thủ tiềm năng. Thực tế cho thấy chính sách Washington qua nhiều đời tổng thống là một chiến lược hỗn hợp. Điểm khác biệt nằm ở liều lượng chính sách và mức độ ưu tiên trong những cung thời điểm.
Kể từ khi George W. Bush nắm quyền, Mỹ ưu tiên cho các giải pháp đơn phương nhiều hơn trong việc giải quyết các vấn đề chung toàn cầu. Song song với đó là tăng cường khả năng quân sự với mục tiêu chống khủng bố. Tuy nhấn mạnh ưu tiên chuyển đổi phong cách lãnh đạo đa phương hơn là đơn phương, hợp tác, thương lượng hơn là gây sức ép, chính phủ của tổng thống Obama cho đến nay vẫn cảm thấy khó khăn khi chấp nhận tham gia vào một cơ chế giải quyết đa phương trong bài toán Biển Đông. Một mặt, quá trình này sẽ ràng buộc khung hành động chính sách, một mặt sẽ không có ý nghĩa nếu không thuyết phục được Trung Quốc từ bỏ quan điểm song phương hiện nay cùng tham gia.
Tàu Viking II do PetroVietnam thuê bị tàu Trung Quốc tấn công
Nếu một cơ chế đa phương mang tính pháp lý chưa được hình thành, việc giảm bớt hiện diện quân sự như chủ thuyết "cân bằng lực lượng bên ngoài" đề xướng sẽ dẫn đến tình trạng nguy hiểm. Khoảng trống quyền lực không những nằm ở chỗ hiện nay ở Đông Á vẫn chưa có cường quốc khu vực nào đủ sức về mặt quân sự đối trọng với Bắc Kinh - dẫu cho đó là tiếng nói từ Tokyo, Seoul hay tất cả các nước ASEAN, mà còn nằm ở việc phân tầng lợi ích từ mối quan hệ với Trung Quốc khiến cho một liên minh thống nhất cùng thời điểm khó khả thi. Điểm mạnh của việc cân bằng bên ngoài đảm bảo thu hẹp ngân sách về quốc phòng, thúc đẩy phát triển thế hệ vũ khí hiện đại, tạo sức mạnh từ xa, nhưng cũng đồng nghĩa với việc giảm bớt mức độ tham gia cũng như ảnh hưởng trực tiếp của nước Mỹ vào các hồ sơ nóng, điều mà về lợi ích của Mỹ thỏa mãn trong ngắn hạn, cân nhắc trong dài hạn.
Trong tư thế bá cường, sức mạnh sẽ trở thành bạo lực nếu không tồn tại sự chính đáng. Bài toán làm giới lãnh đạo Mỹ đau đầu nhiều năm nay là sự hiện diện "như vị khách không mời". Nay sự trỗi dậy hung hăng của Trung Quốc đã giúp đáp số rõ ràng hơn. Lựa chọn giữ vai trò "người cân bằng tại chỗ" dường như đang cùng chiều với lợi ích với nhiều nước trong vùng. Kết quả Đối thoại Shangri- La năm ngoái và năm nay đều cho thấy mức độ chấp nhận sự hiện diện của chính phủ Washington như một người cầm nhịp.
ASEAN và chính sách ba "không"
Một sự đồng thuận của ASEAN trong thời điểm này cần phải vượt qua những lực cản nào? Có ít nhất ba "không" làm tâm điểm. Thứ nhất, đồng thuận ASEAN không phải là liên minh chống Trung Quốc. Do mức độ phân tảng về gắn kết địa lý, văn hóa, chủng tộc và đặc biệt là thương mại kinh tế, một con đường chung mang tên ASEAN liên quan đến Trung Quốc không dễ thực hiện.
Chưa kể những quốc gia không liên quan lợi ích trực tiếp đến khu vực Biển Đông (hiện nay Myanmar đã công khai theo lập trường của Bắc Kinh), giữa những quốc gia cùng hội cùng thuyền, việc bẻ bánh lái theo hướng nào vẫn là câu chuyện hạ hồi phân giải. Không lâu để có thể quên câu chuyện chính phủ Philippines chọn cho mình lối đi riêng năm 2004, ký một thỏa thuận với Trung Quốc về khảo sát địa chấn chung ở khu vực quần đảo Trường Sa đang tranh chấp. Góc nhìn đó, liên minh ASEAN về hồ sơ Biển Đông cần hình thành trên cơ sở đảm bảo lợi ích tối thiểu cho tất cả các thành viên thông qua tiêu chí loại trừ việc sử dụng vũ lực để giải quyết vấn đề tranh chấp trên toàn bộ Biển Đông.
Tàu hải giám Trung Quốc xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam, phá hoại cáp của tàu địa chấn Bình Minh 02 của Việt Nam
Thứ hai, đồng thuận ASEAN không nên quy định những vấn đề tranh chấp trực tiếp giữa các nước thành viên. Tiếp cận riêng rẽ về góc nhìn, dẫn đến riêng lẻ về phương thức hành động, nhất là khi trên con thuyền cùng ra khơi vẫn không phải chỉ là những thuyền viên đồng nhất hoàn toàn về lợi ích. Đừng quên rằng, giữa các nước ASEAN với nhau vẫn tồn tại mâu thuẫn trong hồ sơ tranh chấp chủ quyền.
Trong khi những thí dụ gần đây cho thấy, một hợp tác giữa các nước ASEAN thành lập một tiếng nói chung là hoàn toàn có thể qua thỏa thuận trong hồ sơ đăng ký thềm lục địa vào tháng 5/2009 giữa Việt Nam và Malaysia, thì quyết định của Philippines phản đối cả hồ sơ của Việt Nam lẫn hồ sơ chung Việt Nam - Malaysia lên Ủy ban Ranh giới thềm lục địa Liên Hiệp Quốc (CLCS) lại chỉ ra màu xám còn lại của bức tranh. Một vấn đề trở nên cốt lõi của ASEAN và cơ chế hoạt động của tổ chức này là sự lệch pha giữa chủ quyền quốc gia và tính "ASEAN hóa" trong quá trình hình thành các quyết định dẫn đến một lệch pha khác trong việc thống nhất lập trường chung trên các hồ sơ quan trọng.
Thứ ba, nếu "không" có bước đi cụ thể hóa, "con đường ASEAN" mãi chỉ là lời nói nằm trên giấy. Sau những động thái gần đây đánh động dư luận về việc leo thang từ phía Trung Quốc, một cái nhìn trung hạn cần tính tới. Ba đích ngắm nhắm tới hội nghị cấp cao Đông Á (East Asian Community - EAC) sắp tới do Indonesia chủ trì vào tháng 9. Một, là ủng hộ đề nghị đưa các vấn đề an ninh địa chính trị vào khung làm việc. Dẫu gọi tên là cộng đồng kinh tế hay cộng đồng chung, thì một môi trường không xung đột đóng vai trò tiên yếu.
Hai, cần đẩy nhanh tiến độ mở rộng thêm tổ chức, cụ thể là bỏ phiếu đồng thuận Hoa Kỳ và Nga từ tư cách quan sát viên trở thành thành viên chính thức. Sự gắn kết thành viên mới không chỉ mang ý nghĩa của chính trị thực ở quan điểm cân bằng lực lượng, mà còn tạo cơ hội để xác tính lại chuẩn tắc, mục đích và viễn kiến của tổ chức đang hướng tới. Một cộng đồng hướng tới hòa bình và thịnh vượng chung cho toàn châu lục tham vọng trình làng với thế giới vào 2015 phải thể hiện ý muốn và có khả năng thiết lập được cơ chế dung hòa và giải quyết mâu thuẫn giữa các nước thành viên. Và đó cũng là mục tiêu thứ ba khi chuyển hóa chuẩn tắc thành khung pháp lý mang tính ràng buộc với việc khởi động vòng đàm phán để tiến tới Bộ quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC) trong thời gian ngắn nhất.
Lựa chọn nào cho Việt Nam?
Giữa ba phép thử trên, Việt Nam trong một tư thế đặc biệt, vừa ảnh hưởng lợi ích trực tiếp, vừa có thể đóng vai trò thúc đẩy hay hạn chế ở mức độ tương đối những chuyển động trên bàn cờ. Trực tiếp qua thái độ phản đối dứt khoát với mọi phép thử của Trung Quốc, gián tiếp qua việc xây dựng các biện pháp cân bằng và đối trọng an ninh thông qua Hoa Kỳ và cộng đồng chung ASEAN. Sự hiện diện của Mỹ về mặt quân sự đối với các nước trong khu vực giữ cho sợi dây cân bằng, nhưng kinh nghiệm "chơi" với Mỹ cũng cho thấy, một hợp tác dựa vào tiêu chí lợi ích sẽ mang tính ngắn hạn và có khả năng bị thay đổi rất nhanh vì chuyển biến lợi ích từ chính trị đối nội bên trong.
Kíp lái tàu HQ 641 thuộc Hải đội 413 (vùng D Hải quân) trong chuyến ra các hải đảo.
Ảnh TTXVN
Một hợp tác mà nền tảng bền vững vừa dựa trên lợi ích nhưng cũng vừa phải vượt trên các yếu tố lợi ích. Cho đến nay, một "định chế cứng" ở dạng liên minh quân sự, theo đó, các nước ràng buộc với nhau bằng một cam kết bảo vệ an ninh lẫn nhau (và có thể chống lại một đe dọa đến từ phe thứ ba) vẫn chưa phải là lựa chọn của Việt Nam.
Một "định chế mềm", tuy vậy, vẫn có thể khả thi qua hình thức đối thoại chiến lược về an ninh - quốc phòng hay các mô thức hợp tác hải quân giữa Hoa Kỳ và Việt Nam thời gian gần đây. Câu hỏi đặt ra sẽ nằm ở việc thúc đẩy mô hình liên minh này tới đâu thông qua xúc tiến các định chế hóa. Song phương trong mối quan hệ đối tác chiến lược, đa phương trong việc thiết lập khung cơ chế an ninh tập thể, sao cho lợi ích của hai bên thuận chiều. Định chế hóa một lập trường chung về hồ sơ Biển Đông giữa các nước ASEAN cũng là bước đi ngoại giao quan trọng mà Việt Nam cần ủng hộ.
Hiện nay, đoàn kết nội khối đang cần một lực đẩy mà động thái càng ngày càng leo thang gần đây từ Trung Quốc có thể là chất xúc tác. Ra khơi trên cùng một chiếc thuyền, xây dựng lòng tin giữa những thuyền viên với nhau phải nghĩ về đại cuộc trong một khung cảnh rộng lớn hơn. Nhiều đề nghị đã nhấn mạnh một COC trước hết giữa các nước ASEAN với nhau làm nền tảng mở đường. Một mặt thể hiện quyết tâm chính trị về một cộng đồng ASEAN thống nhất, một mặt là bước đầu tiên đánh giá mô hình giải quyết xung đột vùng với ASEAN như một lực đẩy trung tâm trong cấu trúc an ninh khu vực. Vừa là người bị đặt trước phép thử, cũng là người phải giải quyết nó, Việt Nam đang đứng trước ngã ba đường. Một chiến lược tổng thể cho Biển Đông hơn bao giờ hết cần lập tức đặt lên bàn nghị sự...
  • Theo Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần

Thứ Bảy, 18 tháng 6, 2011

- Cần nâng mức lương tối thiểu cho công nhân (VOV).

- Cần nâng mức lương tối thiểu cho công nhân (VOV).  “Tổng Bí thư, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng cho rằng:  Cần có đánh giá xem sau 3 năm, thì chuyển biến thế nào. Tất nhiên đây là vấn đề trìu tượng, khó đo, đong đếm được. Nhưng đúng là nhận thức có vấn đề. Công nhân là ai, công nhân là gì, công nhân làm chủ hay làm thuê. Hay có chỗ công nhân làm chủ, có chỗ làm thuê. Nhưng nhìn rộng ra là cả nước Việt Nam này công nhân phải làm chủ ” Nghe riết chóng mặt muốn lú. Đành đưa cái nầy cho TBT: Công đòan Toyota VN đồng ý đình chỉ công tác kỹ sư Tạch (NLĐ) để ổng trả lời coi cái tổ chức “nhất nguyên” của đảng làm cái gì đây cho người công nhân ứu tú mà đáng ra phải được đưa lên hàng ngũ lãnh đạo phong trào thì lại bị tụi tư bổn cùng tổ chức của công nhân cư xử như vậy.

Ðược đằng đầu lân đằng chân

Ðược đằng đầu lân đằng chân

Ngô Nhân Dụng (Người Việt) - Vào giữa thế kỷ 19, quân Pháp bắt đầu việc đánh chiếm Việt Nam bằng cách tạo áp lực buộc triều đình nhà Nguyễn phải nhượng bộ từng bước một: Mở cửa Ðà Nẵng xong, đem quân chiếm ba tỉnh miền Ðông Nam Phần; rồi chiếm nốt ba tỉnh miền Tây; mươi năm sau tấn công tới Bắc Hà; cuối cùng nuốt gọn cả nước bằng cách quyết định người nào sẽ lên làm vua phần nước Việt Nam còn lại! Chiến lược đó, tục ngữ Việt Nam gọi là “Ðược đằng chân lân đằng đầu!” 


Nắm được cái đầu là ông vua rồi, họ tiếp tục lấn từng bước một, đặt các đại diện của Pháp ở miền Bắc, miền Trung, từ từ xuống tới các tỉnh. Dần dần những người “đại diện ngoại giao” của Pháp lấn lướt các quan lại triều đình để cuối cùng cả guồng máy cai trị lọt vào tay người Pháp.

Quan sát hành vi của Trung Quốc lấn chiếm biên giới và hải phận Việt Nam, ta thấy Trung Quốc theo một chiến lược cao hơn người Pháp. Có thể gọi tên ngược lại, là “Ðược đằng đầu lấn đằng chân!” Nắm cái đầu tức là nắm những người cầm quyền ở nước Việt Nam. Nắm được cái đầu rồi thì sau đó mới lấn dưới chân, và lấn từng bước một, nhẹ nhàng sao cho nó không giẫy giụa! Mỗi lần lấn một bước dưới chân, đôi chân muốn cựa quậy nhưng cái đầu không cho cựa, đau đớn cũng không cho kêu, thì cuối cùng cả thân thể cũng đành chịu! Những cái chân không chạy được nữa, cái miệng của người dân không được nói nữa mà chính quyền muốn nói thì há miệng mắc quai; nắm được cái đầu trong tay, những vụ cướp đất, cướp biển chỉ là những chi tiết chiến thuật.

Nhiều nhà trí thức trong nước cũng nhìn thấy như vậy: Chiến thuật của Trung Quốc khi chiếm các vùng đất và vùng biển nước ta là lấn từng bước một, đặt mọi người trước những “sự đã rồi,” lâu ngày thành quen đi, cái gì cũng “thành bùn” được hết!

Trên đất liền, là những vụ “cắm cọc biên giới.” Nhà báo Huy Ðức mới lục đống báo cũ, nhắc lại rằng trong các báo Nhân Dân và Sài Gòn Giải Phóng, ngày 19 tháng 3, 1979, Bị Vong Lục của Bộ Ngoại Giao Việt Nam đã nói: “Phía Trung Quốc đã ủi nát mốc biên giới số 18 nằm cách cửa Nam Quan 100 mét để xóa vết tích đường biên giới lịch sử rồi đặt cột Km Zero sâu vào lãnh thổ Việt Nam trên 100m.” Cũng Bị Vong Lục năm 1979 viết: “Năm 1955, khi giúp Việt Nam khôi phục đoạn đường sắt từ biên giới tới Yên Viên, phía Trung Quốc đã đặt điểm nối ray (đường sắt) vào vào sâu trong lãnh thổ Việt Nam 300m so với đường biên giới lịch sử.” Bị Vong Lục 1979 cũng tố cáo, “toàn bộ thác Bản Giốc và cồn Pò Thoong là của Việt Nam, Trung Quốc chỉ mới đưa 2,000 người sang cưỡng chiếm từ ngày 29 tháng 2, 1976.”

Trên mặt biển, Trung Quốc đã toan đánh quần đảo Hoàng Sa năm 1958; nhưng khi Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa đem tầu chiến ra chống cự thì họ rút lui. Cũng năm đó, chính phủ Bắc Kinh đưa ra một tuyên bố về vấn đề hải phận, thì lại được ông thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở miền Bắc là Phạm Văn Ðồng gửi thư ủng hộ. Năm 1974, Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa, bao chiến sĩ hải quân nước ta đã hy sinh trong lúc bảo vệ đất đai của tổ tiên. Chính quyền miền Bắc cũng không hề nói một lời nào để phản đối hành động xâm lăng đó! Lý do chỉ vì với lá thư của Phạm Văn Ðồng năm 1958 thì há miệng mắc quai. Năm 1988, Trung Quốc lại tấn công chiếm các đảo ở Trường Sa, nhưng người kế vị Lê Duẩn đành nuốt hận vì không được Nga Xô cứu giúp; mặc dù chính ông ta đã công nhận Nga là“tổ quốc thứ hai” của mình khi quay mặt chống Trung Quốc.

Gần đây, chiến thuật lấn từng bước lại diễn ra một cách hung tợn hơn. Ðánh đuổi các ngư dân Việt Nam không cho đánh cá; dân Việt không sợ thì tấn công, cướp tầu, cướp máy, đánh đập, bắt cóc, giam cầm, đòi tiền chuộc. Nhiều người Việt đã nhìn thấy chiến thuật lấn chân mới trong vụ Bình Minh 2 và Viking 2, là biến các vùng biển hoàn toàn thuộc Việt Nam thành một vùng xung đột. Sau khi đã biến một vùng không tranh chấp thành vùng có tranh chấp, gây nên tình trạng căng thẳng ngày càng cao hơn khiến thế giới lo ngại, thì lúc đó Trung Quốc sẽ yêu cầu thảo luận, và cuối cùng thì đề nghị “cắt đôi” phần biển của Việt Nam, chia mỗi bên một nửa!

Và tình trạng căng thẳng đang tăng lên thật. Trong tuần này, báo chí khắp thế giới loan tin Hải Quân Việt Nam tập trận bằng súng đạn thật, hỏa tiễn thật, và thông báo cho tầu thuyền các nước khác hãy tránh xa. Ðây là lần đầu tiên một cuộc tập trận trên biển được công bố, như để quảng cáo cho mọi người đều biết! Hà Nội lại nhắc nhở lại trên báo chí luật tổng động viên, làm cho không khí ngột ngạt hơn! Nhưng ngay sau đó, Trung Quốc đã thản nhiên gửi tầu Hải Tuần 31, một trong những chiến hạm tuần tiễu lớn nhất tiến vào vùng biển Ðông, nói đó là một hoạt động bình thường! Thế là cả thế giới theo dõi! Không phải chỉ có những nhật báo quốc tế như Le Monde, New York Times, Independent, Japan Times, hay các báo ở vùng Ðông Nam Á cho tới Ðại Hàn đăng tin này, mà cả những tờ báo ở Pakistan, ở Dubai cũng loan tin, rồi thuật tiếp những phản ứng của chính phủ Mỹ! Và Mark Toner, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã chính thức than phiền rằng những biến cố gần đây gây thêm lo ngại đối với an ninh đường biển, và đã làm cho tình hình thêm căng thẳng!

Ðiều đáng ngạc nhiên là tại sao Ðảng Cộng Sản Việt Nam lại chọn cách bày tỏ thái độ như vậy?

Lâu nay, những người cầm quyền trong nước vẫn nói họ sẽ chỉ dùng các biện pháp ngoại giao cho các xung đột ở biển Ðông. Nhưng, sau khi các tầu Bình Minh và Viking liên tiếp bị tấn công một cách ngang ngược, đảng cộng sản lại không hề đưa ra một sáng kiến ngoại giao nào cả! Họ không hề xác định lại một cách chính thức với Bắc Kinh bằng cách phủ nhận lá thư của Thủ Tướng Phạm Văn Ðồng năm 1958 một cách minh bạch và công khai! Họ cũng không mời đại diện các nước Ðông Nam Á và Á Châu tới họp để tìm một chính sách chung đối với sự bành trướng của Trung Quốc!

Tình hình hiện nay đã chín mùi để tổ chức một hội nghị vùng bàn về vấn đề này. Tại hội nghị về an ninh vùng gần đây, một nhân viên an ninh Ấn Ðộ đã nhận xét: “Chúng tôi rất vui mừng trước các lời lẽ hòa hoãn của ông Lương Quang Liệt (Trung Quốc) nhưng cảm tưởng chung hiện nay là các cường quốc Á Châu là họ tiến đền gần nhau hơn chỉ vì thấy phải tìm cách đối phó với chính quyền Bắc Kinh. Một viên chức ngoại giao Nhật Bản cũng đồng ý. Nhật, Nam Hàn và Úc Châu đã đến gần nhau hơn, và đều liên kết với Mỹ. Một cố vấn của tổng thống Nam Hàn, ông Lee Chung-Min, đã nhận xét: “Trung Quốc đang đẩy chúng tôi tiến đến gần nhau hơn. Nước đó lớn quá khó ngăn họ được, nhưng hầu như chúng tôi đã thấy đến lúc phải hành động để ngăn bớt (sự bành trướng của) Trung Quốc.”

Việt Nam là nạn nhân trực tiếp do sự bành trướng của Trung Quốc gây ra. Ðáng lẽ Việt Nam phải đứng ra vận động việc liên minh giữa các quốc gia trong các miền Ðông và Nam Á Châu, về kinh tế, tài chánh và an ninh, để có tiếng nói và hành động chung trước sự bành trướng của Trung Quốc. Và đó là một hoạt cuộc tấn công ngoại giao, không thể coi là khiêu khích về quân sự hay xâm phạm chủ quyền của nước nào cả.

Nhưng đảng Cộng Sản Việt Nam đã không chọn những hành động ngoại giao kể trên, sau khi Trung Quốc leo thang với những vụ cắt dây cáp tầu dò đấy biển. Ngược lại, họ đã “biểu diễn” những màn quân sự, như công bố việc diễn tập hải quân bằng đạn thật, và khoe khoang thêm về luật tổng động viên.

Ai cũng biết rằng hai hành động trên không hề có ảnh hưởng nào trên tương quan lực lượng và không hề thay đổi ngôi vị tương đối giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc. Không một chiếc tầu nào của Trung Quốc bị sứt mẻ. Trong khi đó họ cũng không hề thấy phải nhận lỗi về những vụ leo thang trong ba tuần qua. Hầu như Bắc Kinh hoàn toàn làm ngơ trước những hành động mà người ngoài có thể coi là gây cho tình hình thêm căng thẳng.

Những người lãnh đạo ở Bắc Kinh có thể đã đọc được những ý nghĩ trong đầu giới lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam. Họ đã nắm chắc cái đầu đó rồi. Họ đã biết, hoặc đã được báo trước về những hành động sắp diễn ra trong tuần này. Họ hiểu rằng chính quyền cộng sản cần một số màn biểu diễn; bề ngoài như thể đang làm dữ, nhưng trên thực tế không gây ra một hiệu quả nào hết. Những hành động đó hoàn toàn không thay đổi cục diện ở biển Ðông, nhưng có thể cho người dân Việt nhìn thấy là bọn cầm quyền có làm, đang làm một cái gì đó! Mục đích duy nhất là làm nguội bớt không khí đấu tranh của người dân Việt Nam

Ðây là một sách lược đảng Cộng Sản đã theo từ hơn nửa thế kỷ nay. Họ không muốn dân chúng lên tiếng, không được tham dự, không được quyết định. Mọi vấn đề ngoại giao là độc quyền của đảng. Dân Việt Nam chỉ việc ký ngân phiếu trắng, “ký khống” cho các lãnh tụ đảng quyết định mọi chuyện! Từ mấy tuần qua, sách lược này vẫn được sử dụng. Như một ông hiệu trưởng ngăn không cho sinh viên biểu tình, với lý luận rằng việc ngoại giao khó khăn lắm, phải để yên cho nhà nước từ từ giải quyết! Một ông giáo sư bài nêu lên toàn những “quyết tâm” của người Việt Nam, mà không đưa ra một hành động cụ thể nào cả; nhưng ông ta không quên nêu lên một quyết tâm, là “hoàn toàn đoàn kết với đảng và nhà nước!”

Nhưng nếu đảng và Nhà nước lại không đoàn kết với dân mà chỉ đoàn kết với người khác, với những đồng chí, anh em của họ thì sao? Như nhà báo Huy Ðức kể, trước cuộc ký kết về biên giới năm 1993, Hà Nội cử những phái đoàn tới quan sát vùng biên giới. Họ đi coi các nơi, rồi họp bàn với các đồng chí Trung Quốc. Nhưng đối với dân thì các phái đoàn này làm việc hoàn toàn trong vòng bí mật. Huy Ðức thuật: “Theo các chiến sĩ biên phòng, thay vì huy động sự góp sức của nhân dân, không hiểu vì lý do gì công việc này đã được tiến hành bí mật.” Một vị đồn trưởng Biên phòng ở Hà Giang nói: “Chúng tôi thuộc địa hình đến từng mili mét nhưng các đoàn khảo sát đã bí mật luôn cả với chúng tôi!” Ðây là một kinh nghiệm cay đắng khi cái đầu của một nước tự tách rời khỏi thân thể!

Khi một chính quyền hành động minh bạch, công khai trước mọi người dân, khi người dân được tự do hội họp, tự do phát biểu, tự do bỏ phiếu chọn những người nắm quyền, thì không ngoại bang nào có thể nắm cái đầu dân nước đó được! Ngược lại, thì bất cứ cường quốc nào cũng chỉ cần nắm lấy cái đầu một nước, rồi từ từ sẽ lấn chân giành đất, giành biển, quốc gia sẽ rơi vào vòng nô lệ khi nào không biết!

Ngô Nhân Dụng

Hai tên láng giềng Posted on 18.6.11 by truongthondlb1

Hai tên láng giềng

Đại Nghĩa-Sưu tầm (danlambao) - Lịch sử nước Việt Nam đã trải qua trên 4.000 năm lập quốc có biết bao nhiêu thăng trầm, biết bao nhiêu lần oanh liệt chống ngoại xâm. Nhưng trong quá trình lịch sử đấu tranh để sinh tồn, tổ tiên ta đã bao lần đổ máu vì giặc xâm lăng từ phương Bắc, từ một nước láng giềng đầy tham vọng. Tổ tiên ta đã nhiều khổ nhục bởi mưu toan muốn thôn tính nước ta để trở thành một châu huyện của họ và đồng hóa dân tộc ta thành dân tộc Đại Hán. 

Với truyền thống đấu tranh chống xâm lược đã tạo cho nhân dân ta có được một lịch sử oai hùng, tổ tiên ta đã dạy nhiều bài học đích đáng dành cho kẻ xâm lăng cậy mình nước lớn đông dân. Trong lịch sử tướng tài của Đại Hán đem“ Cân đai đọ với hồng quần” làm cho thái thú Tô Định phải một phen cuốn gói, thế tử Thoát Hoan phải chui vô ống đồng chạy về nước, hoặc tướng Liễu Thăng bỏ mạng tại ải Chi Lăng. Ôi biết bao bài học ô nhục còn đó không biết trong lịch sử của Trung quốc bây giờ trẻ con có được học không?

A- Một tên thì khốn nạn:

Cái âm mưu và hành động khốn nạn của người láng giềng“ núi liền núi, sông liền sông”, “ môi hở thì răng phụp” đã được bộ Ngoại giao nhà nước CSVN công bố ngày 4 tháng 10 năm 2009 mang tựa đề “ Sự thật về quan hệ Việt Nam-Trung quốc trong 30 năm qua”(1949-1979), xin lược trích:

“ Trên thế giới chưa có những người lãnh đạo một nước nào về mặt chiến lược đã lật ngược chính sách liên minh, đổi bạn thành thù, đổi thù thành bạn nhanh chóng và toàn diện như những người lãnh đạo Trung quốc…(trang- 2)

“ Những người lãnh đạo đã dùng“ con bài”Việt Nam để câu kết với bọn đế quốc, phục vụ cho ý đồ chiến lược bành trướng đại dân tộc và bá quyền nước lớn của họ…(trang-7)

“ Chính sách của những người lãnh đạo Trung quốc muốn thôn tính Việt Nam nằm trong chính sách chung của họ đối với các nước Đông Nam châu Á cũng như đối với các nước láng giềng khác…Chính sách của những hoàng đế“ thiên triều” trong mấy nghìn năm qua, nhằm thôn tính Việt Nam thành một chư hầu của Trung quốc…(trang-10)”.( Đối Thoại online ngày 24-72009)

Cái dã tâm xâm lược của giặc Tàu từ đời này sang đời khác luôn tìm kế để thôn tính nước ta đã từ lâu, trong “Bài phát biểu của Lê Duẩn năm 1979” đã vạch rõ âm mưu của tên láng giềng khốn nạn này:

“ Mao có suy nghĩ mới. Ông ta nói rằng, vì Mỹ đánh chúng ta, ông ta sẽ đưa quân đội(Trung quốc) đến giúp chúng ta xây dựng đường xá. Mục tiêu chính của ông ta là tìm hiểu tình hình đất nước ta để sau này ông ta có thể tấn công chúng ta và từ đó mở rộng xuống khu vực Đông Nam Á…

“ Tôi đưa ra những ví dụ để các đồng chí thấy họ có âm mưu cướp nước ta từ lâu và âm mưu đó ác độc như thế nào”. (Đàn ChimViệt online ngày 14-6-2011)

Trong cuộc xua quân sang xâm lăng biên giới năm 1979, giặc Tàu đã chứng tỏ sự dã man và thổ phỉ của một quân đội Đại Hán qua sự kể lại của nhà báo quân đội nhân dân Huy Đức:

“ Lào Cai, Sapa, Đồng Đăng, Lạng Sơn…bị phá tan hoang. Tại Cao Bằng, quân TQ phá sạch sẽ từng ngôi nhà, từng công trình, ốp mìn cho nổ tung từng cột điện. Nếu như ở Ba Xát, Lào Cai, hàng trăm phụ nữ, trẻ em bị hãm hiếp, bị giết một cách dã man ngay trong ngày đầu tiên quân TQ tiến sang.

“ Tại thôn Tổng Chúp, xã Hưng Đạo, huyện Hòa An, Cao Bằng, trong ngày 9-3, trước khi rút lui, quân Trung quốc đã giết 43 người, gồm 21 phụ nữ, 20 trẻ em, trong đó có 7 phụ nữ đang mang thai.

“ Tất cả bị giết bằng dao như Pol Pốt. Mười người bị ném xuống giếng, hơn 30 người khác, xác bị chặt ra nhiều khúc, vứt hai bên bờ suối ”. (Thời Luận ngày 12-2-2009)

Với hành vi hống hách, gây hấn của một kẻ Đại Hán, giặc Tàu cho tàu hải giám cắt cáp thăm dò của tàu Bình Minh 2 thuộc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đang khảo sát địa chấn trong thềm lục địa Việt Nam.

“ Cuộc họp báo sáng 27-5 của PVN tại Hà nội thì tất cả đã rõ ràng: không còn nghi ngờ gì nữa về những hành động của những con tàu Trung quốc đã vi phạm trắng trợn chủ quyền nước CHXHCNVN.

“ Không còn là những hành động bắt bớ ngư dân đòi tiền chuộc hay lén lút xâm nhập ngư trường Việt Nam đánh bắt thuỷ hải sản. Lần nầy những con tàu của Trung quốc đã bị gọi đích danh chức năng và số hiệu. Và hành động xâm nhập, cản trở, phá hoại kia cũng được gọi chính xác là“ táo tợn”, “ ngang ngược”. (TuoiTre online ngày 29-5-2011)

Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên đại sứ Việt Nam tạiTrung quốc trả lời phỏng vấn đài RFA, ông nói:

“Tôi đã nói lâu rồi, vấn đề này là bản chất bá quyền, bành trướng của Trung quốc. Họ“ rình” cơ hội lại lấn chúng tôi, có khi bắt ngư dân, có khi đánh đắm tàu cá…Bản chất của họ là nước lớn cậy mạnh, bắt nạt nước nhỏ. Trong khi đó lại vẫn giương cái“ 16 chữ vàng” và“ bốn tốt” để lừa phỉnh những người ngây thơ nhẹ dạ”. (RFA online ngày 29-5-2011)

Báo điện tử Việt Nam Net đưa tin Trung quốc sắp đưa giàn khoan“ khủng” ra hoạt động tại Biển Đông:

“Tân Hoa xã hôm qua (24-5) đưa tin, tại Thượng Hải, một giàn khoan dầu khổng lồ hoạt động ở vùng nước sâu 3.000m đã được bàn giao cho Tập đoàn Dầu khí ngoài khơi quốc gia Trung quốc (CNOOC), nhà sản xuất dầu khí ngoài khơi lớn nhất nước này…

“ Theo giới phân tích, việc Trung quốc tăng cường hoạt động khai thác dầu khí trên biển Đông được xem như một mũi tên bắn vào nhiều đích, trong đó mục tiêu quan trọng nhất là muốn khẳng định chủ quyền 80% diện tích biển tại đây”. (Vietnamnet online ngày 25-5-2011)

Ý kiến của một nhà trí thức về hành động phá hoại của Trung quốc, giáo sư Tương Lai nhận định:

“ Theo tôi, vụ xâm lược ngang ngược của Trung quốc vừa rồi, TS Đinh Hoàng Thắng, nguyên cựu đại sứ VN ở Hà Lan có nói rằng đây là một hành động xã hội đen, một hành động cướp biển, và lần này nó ngang ngược không phải chỉ là“ tàu lạ”tấn công tàu đánh cá của ngư dân nữa đâu, mà lần này nó đánh thẳng vào Petro Vietnam của Đinh La Thăng chớ còn gì nữa”.(RFA online ngày 30-5-2011)

Tiến sĩ Hà Sĩ Phu nói lên cái suy nghĩ của mình nhân một bài mới đăng trên báo của đảng CSVN:

“ Anh láng giềng phương Bắc to xác nhưng tham lam và xấu thói bao năm cứ đeo cái mặt nạ“ láng giềng hữu nghị” để xục xạo khắp nước ta, bủa vây tứ phía, xiết gọng kìm toàn diện…, nay đã đến lúc hắn chuyễn thế trận, vứt phăng cái mặt nạ thân yêu gỉa tạo ấy cho đỡ vướng, để tiện việc hành xử một cách côn đồ cấp tập”. (Bauxite Việt Nam online ngày 14-6-2011)

Dưới đây là bài“ Trung quốc hăm dọa Việt Nam” mà tác gỉa Vũ Cao Đàm dịch từ một trang trong Trang mạng“ Binh khí Đại toàn” của Trung quốc nói lên việc Tổ quốc lâm nguy-Thậm chí nguy:

“ Quần đảo Nam Sa là một vị trí chiến lược không thể thiếu của Trung quốc trên trận tuyến kéo dài từ Trung quốc đến Viễn Đông, tuy eo biển Malacca là con đường yết hầu nhưng quần đảo Nam Sa không phải là không có vị trí chiến lược. Có được Nam Sa sẽ uy hiếp đuợc Malacca, yễm trợ các đường ống dẫn dầu, Nam Sa là một trong những vùng hiểm yếu, Trung quốc quyết không ngần ngại chiến đấu để thu hồi Nam Sa…

“ Việt Nam là bọn tham lam, kiêu ngạo, vô lễ, tuyệt đối không thể thông qua đàm phán để chiếm lại đảo Nam Sa, không chiến đấu thì không thể thu hồi lại biên cương quốc thổ. Như vậy cuộc chiến Nam Sa không thể tránh khỏi, đánh muộn không bằng đánh sớm, bị động ứng phó không bằng chủ động tấn công” (Việt Báo online ngày 2-6-2011)

B- Một tên thì khiếp nhược:

Ngày xưa khi giặc Tàu mang quân sang xâm lấn nước ta thì vua, quan, dân chúng một lòng chống giặc. Trước thế mạnh của quân Nguyên Mông, vua Trần Nhân Tông cho triệu tập Hội Nghị Diên Hồng để có được sự đoàn kết và quyết chí chống giặc của toàn dân, còn“ bọn vua chúa” ngày nay có muốn chống giặc đâu mà có được Hội nghị Diên Hồng. Toàn dân lo chống giặc, còn toàn đảng CSVN thì lo chống dân, thế thì làm sao cứu nước đây? Thù trong, giặc ngoài, vậy toàn dân hãy dẹp cái đảng CSVN trước khi chống giặc Tàu xâm lược.

Sau khi 3 tàu hải giám của Trung quốc xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền củaViệt Nam, thì luật sư Lê Trần Luật phát biểu như sau:

“ Nhà nước Việt Nam lệ thuộc quá nhiều vào Trung quốc, chính quyền Việt Nam tỏ ra sợ hãi, trước áp lực của nước lớn như Trung quốc, cơ bản là lệ thuộc vào mặt chính trị, bởi vì khối XHCN còn lại thì đa số phụ thuộc vào Trung quốc và chế độ CSVN muốn tồn tại, thì không cách nào không lệ thuộc vào Trung quốc”.(RFA online ngày 29-5-2011)

Giáo sư Tương Lai trả lời Mặc Lâm, biên tập viên đài RFA:

“ Bộ Ngoại giao VN yêu cầu phía Trung quốc phải đền bù chuyện cắt cáp ngầm, tôi cho rằng không phải dùng chữ“ yêu cầu”phải“đòi”, chứ không phải “ yêu cầu”. Ngôn từ ngoại giao gì mà dại dột thế! Sao lại“ yêu cầu”? Nó là thằng ăn cướp. Bây giờ nó vào ăn cướp nước mình mà bảo là“ yêu cầu anh đừng ăn cướp nước tôi”, không có chuyện đó! Ngôn từ phải biểu tỏ một thái độ thích đáng”. (RFA online ngày 30-5-2011)

Trường Đại học Công nghiệp TP.HCM ra thông báo dọa đuổi học sinh viên tham gia biểu tình chống Trung quốc. Thông cáo có đoạn viết:

“Đoàn thanh niên phổ biến đến tất cả cơ sở đoàn yêu cầu HSSV không tham gia vào việc biểu tình ngày 5-6-2011…

“ Sau khi đã có thông báo này, các đơn vị triển khai nhắc nhở sinh viên, đơn vị nào để sinh viên tham gia phải chịu trách nhiệm trước BGH, HSSV nào cố tình tham gia, nếu có tên trong danh sách mà công an gởi về trường, nhà trường sẽ kỷ luật ở mức cao nhất-đuổi học”. (Dânlàmbáo online ngày 3-6-2011)

Tiến sĩ Hà Sĩ Phu suy nghĩ nhân một bài mới đăng trên báo đảng CSVN:

“ Sự khiếp nhược trường kỳ gây đau thương vĩnh viễn cho dân tộc.

“…ai biểu tình giữ nước thì đuổi học, cho công an bắt bớ, nhốt vào nhà tù…Quân đội không bảo vệ được ngư dân nghèo đánh cá trên lãnh hải của mình, lại bảo quân đội không can thiệp vào chuyện dân sự, quân đội ở đâu khi tàu nước ngoài ngang nhiên xâm nhập hải phận nước mình để đánh phá, cướp bóc? Tất cả sự khiếp nhược ấy được núp dưới chiêu bài“ chiến thuật mềm”, kiên trì đàm phán song phương, ngoại giao hòa bình, giữ tình hữu nghị làm vốn quý(!)…

“ Còn hèn và nhục nào hơn khi báo chí“ lề phải” không dám đưa tin biểu tình một cách xứng đáng mà còn bôi nhọ rằng đây là sự“tụ tập” chỉ đi ngang qua cơ quan của Trung quốc (như vô tình hoặc vì sợ sệt), và khi được giải thích thì đã tự giải tán? Người đưa tin như thế thật không xứng đáng là một công dân nước Việt chứ nói gì danh hiệu cao quý của một nhà báo? Còn hèn và nhục nào hơn mang danh hiệu trưởng một trường mà cấm và đuổi học sinh viên đi biểu thị lòng yêu nước?…

“ Thực tiễn đã quá đủ để nhà giáo Hà Văn Thịnh kết luận: Hãy vứt vào sọt rác cái tình“ hữu nghị” vẫn rêu rao với 16 chữ vàng. Tôi xin thêm: Và vứt luôn vào sọt rác cả cái“ chiến lược mềm” đầu hàng, khiếp nhược lâu nay vẫn viện ra để trấn áp mọi tiếng nói yêu nước tỉnh táo trong và ngoài đảng”. (Bauxite Việt Nam online ngày 14-6-2011)

Trong khi Trung quốc xâm phạm vùng trời, vùng biển các của nước khác thì họ đã hùng hổ đưa tàu, máy bay đánh đuổi, trong khi đó thì cái đảng cộng sản tự xưng ra ngỏ gặp anh hùng thì lại co đầu rút cổ:

“ - Việt Nam: chỉ đánh võ mòm!..
Malaysia: phản đối bằng chiến đấu cơ và tàu chiến rượt đuổi…
Indonesia: bắt giữ tàu Trung quốc và phản đối lên LHQ…
Nhật: bắt giữ thuyền trưởng tàu Trung quốc…
Philippines: cho chiến đấu cơ rượt đuổi và phản đối lên LHQ”…
(RFA online ngày 2-6-2011)

Tống Văn Công, một đảng viên kỳ cựu đã chua xót mà thấy rằng:

“Họ khôn ngoan và ma mãnh đưa ra“ 16 chữ vàng”, và “4 tốt”nhằm mục đích buộc tay, khoá miệng chúng ta. Trong khi đó họ vẫn viết báo, viết sách ca ngợi tướng lãnh, quân nhân của họ đã“ dạy Việt Nam một bài học”.Còn chúng thì 30 năm qua không dám kỷ niệm cuộc hiến bảo vệ Tổ quốc của mình. Tệ hại hơn là sự vô tâm đến nỗi đã có tờ báo viết bài ca ngợi Hứa Thế Hữu, tư lệnh cuộc chiến xâm lược biên giới, trên báo điện tử của Ban Chấp hành Trung ương đảng…

“ Trong quan hệ giữa hai nước, phần thua thiệt luôn luôn ở phía Việt Nam, nguyên nhân là do:

“1- Bị ru ngũ bởi quá tin ở“đồng chí tốt”, cho nên rút ruột rút gan cho người ta mà không hề cảnh giác đề phòng, quên mất rằng đó chính là kẻ đang chiếm giữ một phần máu thịt của Tổ quốc mình!
“2- Do“ đảng bao biện làm thay nhà nước” và do thiếu kiến thức, không đủ trình độ để xử lý những vấn đề mà phía Bắc kinh đã tính toán kỹ và mưu toan gài bẩy, giành phần lợi cho họ.
“3- Do cán bộ tham nhũng bị họ mua chuộc trong quá trình đàm phán, giao dịch.
“ Ba nguyên nhân đó đưa tới những hậu quả vô cùng tai hại là: Rước hổ vào nhà…” (BauxiteVietnam online ngày 7-6-2011)

Nhân dân cả nước đang sôi sục vì những hành động nước lớn của giặc Tàu, thì một phó thủ tướng Việt Nam làm một việc điên rồ chưa từng thấy trong cái đám ngu dốt của đảng CSVN:

“ Ngày 2 tháng 6, trên trang web của chính phủ đã đưa tin phó thủ tướng Hoàng Trung Hải chỉ thị cho UBND thành phố Hà Nội phải nhanh chóng hoàn tất thủ tục về đất đai để sớm triển khai xây dựng Cung hữu nghị Việt-Trung tại xã Mễ Trì, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội…

“Ông Lê Hiếu Đằng: “Đứng trước sự kiện này thì bất cứ người Việt Nam nào cũng nghĩ chính phủ Việt Nam quá nhu nhược trước sự xấc láo, sự ngang ngược của Trung quốc…bây giờ sôi sục như vậy mà anh lại tiến hành xây dựng Cung Hữu nghị Việt-Trung! Tôi thấy đây rõ ràng là việc làm thách thức dư luận Việt Nam và làm cho người dân Việt Nam càng nghi ngờ quyết tâm của chính phủ Việt Nam trong vấn đề chống lại những hành động xâm lấn vùng lãnh hải của Việt Nam”. (RFA online ngày 6-6-2011)

Vào ngày 5 tháng 6, tại Sài Gòn và Hà Nội hàng ngàn thanh niên, sinh viên và những nhà trí thức Việt Nam đã rầm rộ xuống đường biểu tình trước đại sứ quán và tòa tổng lãnh sự của Trung quốc thì truyền thông trong nước hoàn toàn im lặng. Riêng TTXVN vào cuối ngày cho đăng một bản tin nhỏ trên tờ Thanh Niên online nội dung như sau:

“ Ngày 5-6, một số phương tiện truyền thông ở ngoài nước loan tin về việc đã xảy ra“ các cuộc biểu tình phản đối Trung quốc” trước cửa đại sứ quán Trung quốc ở Hà nội vả tổng lãnh sự quán Trung quốc ở TP.HCM. Đó là thông tin sai sự thật.

“ Trên thực tế, sang 5-6, có một số ít người đã tự phát tụ tập, đi ngang qua đại sứ quán Trung quốc ở Hà nội và tổng lãnh sự quán Trung quốc ở TP HCM để thể hiện tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc…

“ Những người này tụ tập một cách trật tư, bày tỏ một cách ôn hoà, và sau khi được các đoàn thể, các cơ quan chức năng của Việt Nam giải thích, họ đã tự giải tán, ra về”. (Đàn Chim Việt online ngày 5-6-2011)

Dưới đây là lời kể của một thanh niên tham gia“ tụ tập đông người” bị công an “ giải thích” tại đồn như sau:

“ Tôi tên Phan Nguyên, là người bị bắt (các bạn có thể nhìn thấy tôi trong bức ảnh nóng nhất ngày 12-6-2011) trông như một con vật giữa thế kỷ 21 này. Vào buổi sáng tôi cùng đoàn biểu tình tuần hành qua nhà thờ đức Bà, bên phía công viên đối diện hình như xảy ra vụ“ bắt bớ”…

“ Tôi bị đưa vào UBND Quận 1 trên đường Lê Duẩn, tại đây tôi bị đẩy vào một góc nhà và bị ăn hai cú lên gối (chỉ bị đau tay thôi, rất may, hi), lại một lần thất kinh”. (Đàn Chim Việt online ngày 13-6-2011)

Qua sự việc nêu trên, ông Lê Hiếu Đằng đã gởi một bức thư ngỏ cho ông Đinh Thế Huynh, Ủy viên BCT, Trưởng Ban Tuyên giáoTrung ương của đảng CSVN mạnh mẽ phản đối, ông viết:

“ Cái tai hại nhất là việc thông tin sai sự thật trắng trợn của TTXVN, biến các cuộc biểu tình tuần hành thật sự trở thành chỉ là những cuộc tụ tập đông người, đã làm cho dân trong nước, nhất là ở hai thành phố Hà Nội và Sài Gòn-TP HCM cũng như dư luận nước ngoài càng tin rằng những thông tin chính thức từ TTXVN, cơ quan thông chính thức của nhà nước, đều là nói láo, đổi trắng thay đen”. (Bauxite Việt Nam online ngày 13-6-2011)

Để kết thức bài này, chúng tôi xin mượn lời của nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc trong bài“ Phản ứng của Việt Nam so với các nước về hành động bắt nạt của Trung quốc” tác gỉa Ngọc Trân, thông tín viên đài RFA:

“ Khi đã có một Đặng Tiểu Bình tuyên bố biển Đông là“ chủ quyền thuộc ngã” và khi Trung quốc tuyên bố biển Đông là khu vực“ lợi ích cốt lỏi” của họ, thì khó dùng tinh thần hiếu hòa của người Việt để ngăn chặn tham vọng của phương Bắc. Lịch sử của Việt Nam có nhiều bài để học. Vấn đề là học như thế nào và hành ra sao để ngăn chặn được nguy cơ không chỉ riêng cho dân tộc mà còn là nguy cơ đối với đảng cầm quyền và những người lãnh đạo đất nước”. (RFA online ngày 2-6-2011)

Đại Nghĩa


Bao giờ thì Biển Đông lặng sóng bành trướng ? Posted on 17.6.11 by truongthondlb

Bao giờ thì Biển Đông lặng sóng bành trướng ?

 Nguyễn Nghĩa 650 (danlambao) - Kể từ 9/2009 , khi Trung Quốc gửi lên LHQ tấm bản đồ "đường lưỡi bò" trên Biển Đông , đến nay họ đang đi vào giai đoạn hiện thưc ý đồ bành trướng này.

Nhìn vào bản đồ Biển Đông , ta thấy :

Đường lưỡi bò lấy tâm điểm , hay chính xác hơn điểm hạt nhân là Hoàng sa và Trường sa .

Nếu Hoàng sa và một số đảo Trường sa không thuộc Trung quốc quản lý như hiện nay, thì yêu sách đường lưỡi bò là hoàn toàn vô lý , không có một chút cơ sở pháp lý nào.

Ta hãy trở lại với việc Trung quốc tranh dành Hoàng sa , Trường sa với Việt nam ra sao, để hiểu rõ hơn kế sách mà Trung quốc đang tiến hành .

KẾ HIỂM "VÔ TRUNG SINH HỮU" : TRONG CÁI KHÔNG SINH CÁI CÓ.

Nếu chỉ kể từ thế kỷ thứ 19 đến nay, thì ngay từ năm 1816 Hoàng đế Gia Long Triều Nguyễn đã tuyên bố chủ quyền với Hoàng Sa sau khi triều đại này thành lập năm 1802. Năm 1930 Pháp tuyên bố chủ quyền đối với Hoàng Sa của An Nam, và chủ quyền đối với Trường Sa cho Pháp. Năm 1933 Pháp chính thức chiếm cứ một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa, trong đó bao gồm đảo Trường Sa, Ba Bình, Thị Tứ và Loại Ta.

Năm 1939, Phát xít Nhật chiếm toàn bộ Hoàng sa và Trường sa từ tay Pháp và Việt nam , biến 2 quần đảo ấy thành căn cứ quân sự trên Biển Đông , đối chọi với Hoa kỳ .

Năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ II kết thúc, Nhật đã rút khỏi hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đặt các đảo vào tình trạng ‘không có người ở’ .

Năm 1946, lợi dụng Pháp đang gặp khó khăn trong việc chiếm lại Việt nam , Trung quốc cho quân lập sự hiện diện trên đảo Phú Lâm ( ở phía Đông của quần đảo Hoàng Sa) và Ba Bình (Trường Sa).

 Bia chủ quyền trên đảo Hoàng Sa

Như vậy mặc dù từ không có gì , Trung quốc đã cố tình bỏ qua chủ quyền của Việt nam, thiết đặt sự hiện diện của mình tại Hoáng sa và Trường sa . Sự hiện diện này là trái với luật pháp quốc tế , xâm phạm chủ quyền của Việt nam . Sau khi đã có mặt trên một số đảo của Hoàng sa và Trường sa , Trung quốc bắt đầu xây dựng cơ sở pháp lý bằng tuyên bố chủ quyền của họ đối với Hoàng sa , Trường sa .

Kế biến không thành có của họ là như vậy .

Do sự nhận thức yếu kém của Việt nam về biển đảo. Do sự mù quáng , cả tin vào chủ nghĩa quốc tế vô sản , Việt nam đã đấu tranh không đủ mạnh cả về việc đưa ra công luận thế giới, cả đến việc cương quyết không chịu lùi một tất đất , tất biển của tổ tiên để lại .

Ngày hôm nay, toàn bộ Hoàng sa đã nằm trong quyền kiểm soát của Trung quốc sau việc dùng vũ lực 1974.

Một số đảo thuộc Trường sa cũng bị Trung quốc chiếm bằng hải chiến 1988.

Trên cơ sở này , Trung quốc dấn tiếp bành trướng ra Biển Đông băng đường chín khúc " lưỡi bò trung hoa ". Đặt Biển Đông vào quyền lợi cốt lõi của Trung quốc , ngụ ý sẽ dùng tất cả biện pháp kể cả vũ lực để bảo vệ "" cốt lõi" ấy. Trung quốc đang gây căng thẳng trên Biển Đông .

Đây cũng là một hình thức hợp pháp hóa cho cái gọi là "có" sau khi được hóa phép từ "không có".

Đường lưỡi bò là hậu quả nghiêm trọng của chính sách cầu hòa, quị lụy của chính phủ cộng sản Việt nam .

Việc để cho đất đai tổ tiên rơi vào tay Trung quốc mà không có đối sách rõ ràng, đã khuyến khích Trung quốc ngang ngược thực hiện kế hoạch bành trướng của họ ra Biển Đông .

Nguy hiểm hơn nữa , Trung quốc vẫn chưa chịu dừng ở vị trí này .

Họ còn muốn nhiều hơn nữa . Muốn chiếm hết cả Biển Đông . Cả vùng biển 200 hải lý tính từ đất liền của Việt nam.

Việc cắt cáp thăm dò dầu khí ngày 26/5/11 của tầu Bình minh 02, cắt cáp của tầu Viking II ngay 9/6/11 tại vùng biển 200 hải lý của VIỆT NAM, việc chính phủ Trung quốc tuyên bố đây là lãnh hải thuộc Trung quốc , đang được các nhà bình luận chính trị Việt nam và thế giới đánh giá là Trung quốc tiếp tục dùng mưu biến không thành có , biến vùng biển của Việt nam thành vùng biển của Trung quốc , biến vùng biển không tranh chấp thành vùng có tranh chấp. Đây là sự kiện chưa hề có trên thế giới . Hành động ngang ngược này của Trung quốc chứng tỏ dã tâm lớn của Trung quốc .

Đây là mưu cũ mà có nội dung mới . Chung qui vẫn chỉ là : cướp của Việt nam , to mồm la làng , dùng sức mạnh lấn lướt ép Việt nam chịu lép . Lâu ngày Việt nam phải thua , phải chịu chấp nhận hiện trạng .

Theo đánh giá của Trung Quốc, trữ lượng dầu khí ở Biển Đông khoảng 213 tỷ thùng, trong đó trữ lượng dầu tại quần đảo Trường Sa có thể lên tới 105 tỷ thùng. Với trữ lượng này và sản lượng khai thác có thể đạt khoảng 18,5 triệu tấn/năm duy trì được trong vòng 15 - 20 năm tới. Các khu vực có tiềm năng dầu khí còn lại chưa khai thác là khu vực thềm lục địa ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và bờ biển miền Trung, khu vực thềm lục địa Tư Chính. Trữ lượng và sản lượng dầu khí của Việt Nam đứng vào hạng trung bình trong khu vực, tương đương Thái Lan và Malaysia.

Biển Đông ngoài trữ lượng dầu hỏa , khí đốt, còn mang lại nguồn hải sản lớn lao . Thí dụ Trung Quốc là nước đánh bắt cá lớn nhất thế giới (khoảng 4,38 triệu tấn/năm). Một điều rất quan trọng là vị trí chiến lược của nó trong tranh dành quyền lực của Trung quốc với Hoa kỳ tại Châu á Thái bình dương.

Vì vậy việc hy vọng dùng lẽ phải, dùng luật quốc tế để thảo luận với Trung quốc cơ hồ đòi lại chủ quyền ở Hoàng sa , Trường sa là điều gần như không tưởng .

Vụ cắt cáp ngày 26/5 và 9/6 trong lãnh hải Việt nam là một bước tiến nguy hiểm của Trung quốc trong kế hoạch bành trướng của họ ra Biển Đông . Trong kế hoạch này , họ sẽ đưa tầu sân bay vào hoạt động trên Biển Đông , đưa đe dọa không lực tới gần vùng biển đang tranh chấp .Cũng trong giai đoạn này , Trung quốc sẽ đưa vào Biển Đông dàn khoan khổng lồ có khả năng khoan sâu 12 000 m, để khai thác dầu khí .

Nếu tính từ 1958, khi quốc hội Trung quốc tuyên bố chủ quyền của Trung quốc đối với Hoàng sa, Trường sa, đến 1974, khi Trung quốc dùng hải chiến chiếm Hoàng sa, là 16 năm. Nếu tính từ 9/2009, khi Trung quốc lấp lửng nói về đường lưỡi bò, đến ngày 29/5/11 khi người phát ngôn chính phủ Trung quốc tuyên bố việc tầu hải giám của họ vào sâu 80 hải lý hải phận Việt nam , cắt cáp thăm dò dầu khí, là việc làm bình thường trong lãnh hải Trung quốc, thì thời gian là chưa đến 2 năm .

Trung quốc đang rất cần dầu hỏa . Trung quốc đang bất chấp tất cả . Trung quốc đang " Biến không thành có " : đang biến không tranh chấp thành có tranh chấp. Đang biến vùng biển Việt nam thành vùng biển Trung quốc. Đang biến không có chủ quyền thành có chủ quyền.

Kế sách này do Quỷ cốc tử truyền dậy, có tên gọi là "Vô trung sinh hữu ": trong không biến thành có .

Trung quốc đã áp dụng một cách thành công kế sách này trong đàm phán biên giới trên bộ với Việt nam . Họ đã có kinh nghiệm trong đấu tranh dành phần lợi cho mình . Quả vậy , ta thấy Ải Mục nam quan , nơi Nguyễn Trãi gạt giọt lệ thương cha Nguyễn Phi Khanh , quay đầu , lấy kế sách đuổi giặc Minh làm "hiếu" , đã nằm trong đất Trung quốc . Thác Bản giốc, một phong cảnh tuyệt đẹp của rừng núi Việt nam, đã mất một nửa với lũ người tham lam này . Cao điểm 1509 Hà giang, năm 1984 còn chứng kiến sự hi sinh anh hùng của hơn 3770 chàng trai Việt, đã trở thành nơi chụp ảnh khoe khoang của bọn lính Trung quốc …

Ngày nay, họ định dựng chuyện hải phận 200 hải lý của Việt nam là của Trung quốc.

Họ định nói nhiều lần thì thế giới phải quen, Hoa kỳ phải quen. Sau đó, khi thơi cơ thuận lợi, sẽ tạo cớ để dùng vũ lực để đè bẹp Việt nam . Nếu Việt nam hèn kém , rệu rạo, không đủ sức chống lại thì vùng biển này sẽ là của Trung quốc . Nếu Việt nam có sức chống lại , nhưng đảng cộng sản Việt nam sợ nhân dân hơn sợ Trung quốc , họ sẽ hối lộ Bộ chính trị ĐCS VN, sẽ đề nghị “chia đôi” , hay “gác chủ quyền , cùng nhau khai thác” .

Đây chính là kế sách “trong không sinh có”, mà Trung quốc đang áp dụng .

Nhưng người việt nam không phải ai ai cũng là những "con cừu" . Thế giới không phải ai ai cũng khờ khạo để Trung quốc qua mặt . Bộ mặt của một anh “hàng xóm to xác nhưng xấu tính “, tham lam, nhỏ mọn, hay dùng mẹo bẩn, tiểu nhân... đã bị cả thế giới vạch trần .

Những sự kiện ngày 26/5/11 và 9/6 /11 đã bộc lộ hết bản chất xấu chơi , bành trướng quyết liệt , bất chấp thủ đoạn của ĐCS Trung quốc .

Đây là cột mốc để ĐCS VN , chính phủ Việt nam từ bỏ hợp tác chiến lược với Trung quốc , từ bỏ đường lối 16 chữ sảo trá , 4 tốt đểu giả , lật lọng , bước một bước mạnh sang cộng đồng các nước dân chủ trên thế giới .

Đây cũng là cột mốc đánh giá sự thất bại của một chính sách cầu hòa , một chính sách ngu muội đặt lợi ích đảng cộng sản việt nam lên trên lợi ích dân tộc Việt nam. Đây là sự xụp đổ của ảo vọng dựa vào các đồng chí Trung quốc , dựa vào tinh thần quốc tế vô sản của đảng cộng sản trung quốc, hòng nắm độc quyền lãnh đạo dân tộc, đất nước Việt nam của đảng cộng sản việt nam .

CÔNG HÀM CỦA THỦ TƯỚNG CỘNG SẢN VIỆT NAM PHẠM VĂN ĐỒNG GỬI THỦ TƯỚNG CỘNG SẢN TRUNG QUỐC CHU ÂN LAI ngày 14 tháng 9 năm 1958.

Đây là lá bài tẩy duy nhất mà Trung quốc có thể dùng để đấu tranh chủ quyền ở Hoàng sa , Trường sa của họ . Cho đến nay , họ chưa công bố được một tài liệu có tính lịch sử nào, có thể chứng minh họ có quyền bàn luận về chủ quyền ở Hoàng sa , Trường sa .

Để bài viết có tính chặt chẽ , tôi xin trích dưới đây 2 văn kiện quan trọng :

1. Tuyên bố cua Chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa .

Ngày 4 tháng 9 năm 1958 đại hội uỷ viên thường vụ đại biểu nhân dân toàn quốc hội nghị thứ 100 thông qua quyết định phê chuẩn về tuyên bố lãnh hải của chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa

Chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa tuyên bố:

* Một: Lãnh hải của nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa rộng 12 hải lý. Quy định này áp dụng cho toàn bộ lãnh thổ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa, bao gồm Trung Quốc đại lục cùng với duyên hải của các hải đảo, với Đài Loan cùng các hòn đảo xung quanh cách đại lục bằng hải phận quốc tế, những hòn đảo của khu vực Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (Trường Sa) và những gì thuộc về những hải đảo của Trung Quốc.

2. Trả lời của Thủ tướng Việt nam Phạm Văn Đồng .

Toàn văn :

“Thưa Ðồng chí Tổng lý,

Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Ðồng chí Tổng lý rõ :

Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc.

Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trên mặt bể

Chúng tôi xin kính gởi Ðồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng.

Hà-Nội, ngày 14 tháng 9 năm 1958

Phạm Văn Ðồng (ấn ký)

Thủ tướng Chính phủ

Nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa

Kính gửi :

Ðồng chí Chu Ân Lai

Tổng lý Quân vụ viện”


Trang mạng BVN ngày 16/06/2011, có đăng bài "Có phải bức công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng là lá bài tẩy trong tình hữu nghị Việt-Trung?" tác giả Đinh Kim Phúc đã phân tích chi tiết nội hàm của bức công hàm của Thủ tướng Việt nam gửi Thủ tướng Trung quốc Chu Ân Lai .

Ở đây tôi xin đưa ra những lĩnh hội và ý kiến bản thân về bức Công hàm quan trọng này.

1. Công hàm đề ngày 14/9/1958. Trong công hàm của Thủ tướng Việt nam chỉ rõ là "Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc."

Bản Tuyên bố của Trung quốc có 2 điểm chính mà ta phải để ý :

(1) Chiều rộng lãnh hải của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý.

(2) Ðiều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Ðài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.

Việc Thủ tướng cộng sản Việt nam tán thành Tuyên bố của chính phủ Trung quốc chỉ là một cử chỉ có tính chính trị mà không có tính pháp luật .

Hòang sa , Trường sa lúc này đang thuộc chủ quyền của Việt nam cộng hòa do Tổng thống Ngô Đình Diệm đứng đầu .

Vì thế mà Thủ tướng Việt nam không dám đả động một từ nào về Hoàng sa , Trường sa , ông ta chỉ viết :"Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa trên mặt biển."

Trung quốc không thể coi đây là sự chấp nhận chủ quyền của Trung quốc tại Hoàng sa , Trường sa được .

Công hàm này chỉ có giá trị khi Việt nam chưa thống nhất . Từ 1975 trở lại đây , chính phủ của nước Việt nam thống nhất chưa hề tuyên bố nhất trí với tuyên bố của Phạm Văn Đồng .

Việt nam dân chủ cộng hòa không thể công nhận cho Trung quốc một điều mà bản thân mình không sở hữu : chủ quyền Hoàng sa , Trường sa đang thuộc về quốc gia khác: Việt nam cộng hòa .

Hơn nữa chủ quyền về Biển và đảo quyết không chỉ do một công hàm của Thủ tướng cộng sản quyết định .

Nó phải được một quốc hội Việt nam đại diện cho toàn dân tộc Việt nam quyết định . Ngay cả quốc hội hiện nay do 90% đảng viên đảng cộng sản Việt nam chiếm giữ, cũng không đại diện cho toàn bộ dân tộc Việt nam .
Người Trung quốc đã thừa biết như thế nào là những hiệp định, hiệp ước bất bình đẳng khi Trung quốc yếu, buộc phải ký với những nước mạnh hơn .

Họ không thể sử dụng công hàm ngày 14/9/1958 làm bằng chứng cho rằng chính phủ nước Việt nam đã công nhận chủ quyền của họ ở Hoàng sa , Trường sa .

Những người dân chủ Việt nam tuyên bố rằng : Toàn bộ quần đảo Hoàng sa là của Việt nam . Trung quốc phải trả lại Hoàng sa cho Việt nam. Trung quốc phải trả lại cho Việt nam những hòn đảo thuộc Trường sa mà họ đã dùng vũ lực đánh chiếm .Không những thế , trên bộ , Nhà nước cộng sản Việt nam đã ký hiệp ước bất bình đẳng với Trung quốc , để cho Trung quốc lấn chiếm Ải Mục Nam quan , thác Bản dốc , cao điểm 1509 Hà giang ...Những điểm bất bình đẳng này phải được xét lại trong tương lai dân chủ của Việt nam .

Kết thúc mục này, tôi đính kèm bản đồ "lưỡi bò trung quốc" .



Bạn đọc có thể thấy , nếu Việt nam đòi thành công Hoàng sa ,. Trường sa, thì đó cũng là lúc mộng bành trướng Biển Đông của người trung quốc tan vỡ . Họ sẽ phải quay trở lại, hài lòng với đường cong có thể sẽ nhiều hơn chín đoạn, chạy song song với bờ biển của họ .

Lúc đó cái lưỡi bò ấy sẽ không còn khuấy động được sóng nước Biển Đông nữa . Lúc đó Biển Đông sẽ lặng sóng bành trướng.

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM KHÔNG CÓ KHẢ NĂNG LÃNH ĐẠO DÂN TỘC CHỐNG LẠI BÀNH TRƯỚNG TRUNG QUỐC .

Trước hết sự yếu kém của ĐCS VN nằm ở chính học thuyết Quốc tế vô sản, một bộ phận của CN Mác -Lênin. Đảng cộng sản Việt nam không lĩnh hội được bản chất của CN quốc tế vô sản là dương ngọn cờ giai cấp, thông qua viện trợ gọi là vô tư “quốc tế vô sản”, mà các nước cộng sản lớn như Trung quốc , Liên xô khống chế , để lệ thuộc các nước đàn em vào phe cánh của mình .

Vì nhận viện trợ của Trung quốc mà Phạm Văn Đồng phải hạ bút ký Hiệp định Genève, 1954 chia cắt lãnh thổ Việt nam . Điều này chỉ có lợi cho Trung quốc : có một nước Việt nam yếu ớt bị chia cắt bên cạnh biên giới mình an toàn hơn một nước Việt nam thống nhất , hùng cường .

Vì viện trợ quốc tế vô sản mà Thủ tướng Phạm Văn Đồng không dám mếch lòng Trung quốc trong công hàm ngày 14/5/1958. Đây là cớ để Trung quốc thực hiện các mưu kế " vô trung sinh hữu" đối với Hoàng sa , Trường sa .

Vì viện trợ quốc tế vô sản mà năm 1974 , khi Trung quốc đánh chiếm Hoàng sa từ tay Việt nam cộng hòa , chính phủ cộng sản Miền Bắc Việt nam không một lời phản đối .

Vì viên trợ quốc tế vô sản mà 1975 , quân đội Việt nam nhận được lệnh giải phóng các đảo do VNCH cai quản mà không dám động đến các đảo do Trung quốc đã cướp từ tay chính quyền Sài gòn 1974.

Vì viện trợ của Trung quốc bị bọn Việt nam phản bội mà Trung quốc gây chiến tranh biên giới 1979.

Vì tinh thần giai cấp anh em mà 1988 , khi Trung quốc hải chiến chiếm một số đảo tại Trường sa , Việt nam bỏ qua như không phải đảo biển của tổ tiên để lại .

Từ năm 1990 lại đây , ĐCS VN, chính phủ Việt nam đã hoàn toàn bất lực trước các thủ đoạn nham hiểm của Trung quốc . Sau khi bị mê hoặc bởi 16 chữ và 4 điều tốt , Đảng cộng sản Viẹt nam đã tạo điều kiện cho Trung quốc giăng thiên la địa võng trên tổ quốc yêu quí của chúng ta :

1. Trung quốc cho vay tiền, để làm những công trình có hại cho quốc phòng như Thủy điện Sơn la .Trường hợp xẩy ra chiến tranh với Trung quốc như 1979, thì việc dọa phá sập đập thủy điện này là một đòn cân não khủng khiếp. Bởi vì 9,3 tỷ m3 nước sẽ làm ngập lụt đồng bằng Bắc bộ từ 4m đến 60 m. ...

2. Đưa ô nhiễm môi trường vào Việt nam , thí dụ khai thác bôxit Tây nguyên. Những bể bùn đỏ bôxit khi bị vỡ sẽ gây ô nhiễm trầm trọng cho đồng bằng phía dưới Tây nguyên .

3. Đưa người trung quốc vào các địa bàn có tính chất an ninh chiến lược của Việt nam như Tây nguyên , rừng biên giới …

4. Trung quốc tạo các bẫy nợ nần về kinh tế , bẫy kinh tế Việt nam sa vào, như Dự án đường sắt cao tốc …

5. Trung quốc như tằm ăn rỗi , quyết tâm chinh phục Cămpuchia , Lào nhằm bao bọc Việt nam, cô lập Việt nam về mặt chiến lược . Gần đây nhất là chiến tranh Tây -Nam 1978 của Việt nam . Sự hi sinh của các chí nguyện quân Việt nam tại Lào , Cămpuchia đang trở thành vô nghĩa do sự bất tài chính trị của ĐCS VN .

Trung quốc đang dùng chiêu : trên cao thì Mác -Lênin giai cấp , dưới thấp thì bành trướng Đại Hán . Đảng cộng sản Việt nam đã khoanh tay chịu bất lực trước chiêu thức này, như con ếch nhỏ trước con rắn hổ mang hung tợn.

Các vụ ngày 26/5/11 và 9/6/11 vừa qua đã gây xúc động mạnh mẽ trong tình cảm yêu nước của dân tộc Việt nam . Các cuộc xuống đường tự phát ngày 5/6/11 và 12.6/11 đã bị chính phủ Việt nam đàn áp gián tiếp và trực tiếp. Thí dụ như việc bắt các blogers Người buôn gió , mẹ Nấm , Bùi Chát ...trước ngày 5/6/11, hay dùng lực lượng công an mật trấn áp những người tụ tập bột phát trong ngày 12/6/11.

Đây là một bước đi nguy hiểm của chính phủ cộng sản việc nam .

Việc sử dụng lực lượng mật vụ vào đàn áp những người yêu nước phản đối Trung quốc xâm phạm chủ quyền Việt nam là nuôi dường tinh thần sợ Trung quốc , cầu hòa với Trung quốc .

Các lực lượng an ninh này nếu nắm chính quyền, sẽ: ngoài thì thần phục Trung quốc , trong thì tàn sát người Việt nam yêu nước . Đây sẽ là giai đoạn đẫm máu của dân tộc Việt nam .

Đây chính là sự quay trở lại của chế độ diệt chủng Polpot áp dụng tại Việt nam.

Thử hỏi nếu Nhà Trần bức hại những người thích trên cánh tay hai chữ "SÁT THÁT" , thì liệu họ có lập nên trang sử 3 lần chiến thắng Nguyên - Mông không ?

Sợ nhân dân yêu nước , đặt quyền lợi của một nhóm chóp bu cộng sản lên trên quyền lợi dân tộc ,với đạo đức suy đồi , tham nhũng tràn lan khắp các cấp, Đảng cộng sản Việt nam đã không còn khả năng đoàn kết toàn dân tộc Việt nam chống bành trướng Trung quốc .

SỨC MẠNH CỦA TRUNG QUỐC NẰM Ở ĐÂU ?

Hơn 30 năm liên tục tăng trưởng , kinh tế Trung quốc đã đạt tầm cỡ của một nền kinh tế cỡ thứ 2,3 trên thế giới . Thật ra thì không phải đến bây giờ, mà trong quá khứ , kinh tế Trung quốc luôn là một nền kinh tế lớn trên thế giới.

Ta hãy xem sức mạnh của kinh tế trung quốc hiện đại này nằm ở đâu ?

Câu hỏi này , ai quan tâm đến kinh tế đều trả lời được : Nằm ở khâu xuất khẩu hàng hóa . Bối cảnh toàn cầu hóa phát triển mạnh đã vô hình chung giúp Trung quốc phát triển thành công mô hình xuất khẩu này .

Xuất khẩu trung quốc dưa trên :

a. Lao động công nhân rẻ mạt .

b. Nhà nước Trung quốc can thiệp vào trị giá đồng Nhân dân tệ, giữ cho nó có giá trị hối đoái thấp, làm đòn bẩy cho xuất khẩu .

Sự can thiệp này là trái với qui luật vận động tự nhiên của nền kinh tế,của đồng tiền. Khi kinh tế phát triển, xã hội sản xuất ra nhiều hàng hóa hơn thì kèm theo hiện tượng này là giá trị đồng tiền cũng tăng . Đây là tự nhiên , là bình thường.

Chính phủ Trung quốc đã cố tình giữ giá trị đồng tiền của mình ở mức thấp giả tạo, hòng kích hoạt sự tăng cường của xuất khẩu . Đây là sự cướp thành quả lao động của hàng trăm triệu lao động trung quốc . Chính phủ trung quốc biến sức lao động của người dân trung quốc thành hàng hóa giá rẻ , xuất khẩu , đưa đô la về làm dự trữ chiến lược , phục vụ bành trướng .

Câu hỏi đặt ra là : Việc hàng trăm triệu lao động trung quốc lao động kiệt sức mà không được hưởng thành quả của mình, có dẫn đến bất bình trong xã hội trung quốc, làm đảo lộn các kế hoạch bành trướng của Trung quốc hay không ?

Nói cách khác thì giới hạn sự nhẫn nhục chịu thiệt thòi của lao động trung quốc nằm ở mức độ nào ? Khi nào thì sự bất bình của lao động trung quốc sẽ trở thành một cuộc cách mạng ?

Trả lời câu hỏi này, ta phải trở lại lịch sử Trung quốc . Các chế độ phong kiến Trung quốc đều dùng hình phạt thảm khốc để duy trì chữ "sợ" mà thống trị dân chúng .Như chu di cửu tộc ...Chính phủ cộng sản Trung quốc cũng không ngoại lệ . Vụ đói nhân tạo do các chính sách sai lầm của Mao về kinh tế đã làm gần 40 triệu người trung quốc chết đói từ 1953-1957. Sau đó là tem phiếu với khẩu phần dành cho súc vật. Rồi sáo trôn xã hội trong Cách mạng văn hóa vô sản. Rồi xe tăng tiến vào Thiên an môn 6/1989.

Tất cả các sự kiện này đã đè đầu người lao động trung quốc xuống hàng nô lê hiện đại bởi chữ "sợ". Họ thần phục các ý chỉ của Đảng cộng sản Trung quốc .

Cũng còn một lý do quan trọng nữa là các lãnh đạo cao cấp nhất của Trung quốc còn trong sạch . Tham nhũng chưa đến gần được họ .

Việc đảng trị tất nhiên sẽ đưa đến tham nhũng đại trà . Khi tham nhũng là đa số thì cũng là lúc:

Thượng bất chính thì hạ tắc loạn , như Việt nam hiện nay.

Ngày ấy không xa đâu . Là con người , mức chịu đựng cám dũ của đồng tiền ,của phái nữ ...là có giới hạn .

Hàng trăm vị vua của Trung quốc , có bao nhiêu minh quân ?

Ngày ấy sẽ đến và Trung quốc sẽ rơi vào rối loạn .

Lúc này là lúc Việt nam phải thu lại Hoàng sa , Trường sa về Tổ quốc .

TÌNH HÌNH HIỆN TẠI VÀ ĐỐI PHÓ VỚI BÀNH TRƯỚNG TRUNG QUỐC .

Các vụ vào sâu lãnh hải Việt nam, cắt cáp của các tầu thăm dò dầu khí ngày 26/5 /11 ngày 9/6/11 là những màn kịch mà Trung quốc cố tình diễn :

1. Để thử phản ứng của chính phủ Việt nam , nhân dân Việt nam .

2. Để thử phản ứng của công luận Asean, thế giới , của Hoa kỳ .

3. Để chuẩn bị dư luận cho hơn 1300 triệu người dân Trung quốc hình ảnh Việt nam xâm phạm chủ quyền lãnh hải Trung quốc .

Sau khi có được kết quả phép thử , họ sẽ điều chỉnh kế hoạch lấn chiếm Biển Đông thích hợp hơn với tình huống hiện tại .

Việt nam phải làm gì trong tình huống này ?

Trước hết , ta bình tâm xét các sự kiện lịch sử liên quan đến dân tộc Việt nam thời cận đại .

+ Cuộc chiến tranh với Pháp , một nước mạnh hơn Việt nam .

+ Cuộc chiến tranh với Hoa kỳ , một nước mạnh gấp bội Việt nam

+ Cuộc chiến tranh tây- nam, Việt nam đưa quân sang Cămpuchia .

+ Cuộc chiến tranh biên giới với Trung quốc, một nước mạnh hơn Việt nam .

Truyền thông Trung quốc đang dựa vào dư âm những sự kiện trên để mô tả với thế giới , với nhân dân trung quốc hình ảnh hiếu chiến , tiểu bá của Việt nam . Họ mô tả Trung quốc như một nạn nhân của Việt nam hiếu chiến .Chính phủ Trung quốc mới đây tuyên bố không dùng vũ lực trong tranh chấp Biển Đông là nhằm mục đích này .Họ không thể không dùng bạo lực, khi bạo lực là con át chủ bài của Trung quốc . Có thể họ sẽ lừa chiêu , cài bẫy để Việt nam trúng kế.

Việt nam không nên rơi vào bẫy này .

Làm cho nhân dân trung quốc hiểu được thực chất sự bá quyền của Trung quốc trong tranh chấp Biển Đông là nhiệm vụ quan trọng của ngoại giao Việt nam .

Để làm việc này , Bộ ngoại giao VN cần ban hành ngay sách trắng về Hoàng sa , Trường sa . Các trang mạng về Hoàng sa , Trường sa cần có thêm tiếng trung quốc .

Trong tương lai gần , Trung quốc sẽ thường xuyên khiêu khích Việt nam như các vụ ngày 26/5/11 và 9/6/11 vừa qua .

Khi xẩy ra các vụ như vậy , cần cho phép nhân dân việt nam biểu tình tự phát . Các cuộc biểu tình này sẽ tăng cường quyết tâm chống ngoại xâm của dân tộc Việt nam . Việc đàn áp các cuộc biểu tình như vậy chỉ vạch cho Trung quốc biết chính phủ Việt nam sợ nhân dân Việt nam , không có hậu thuẫn ở nhân dân . Trung quốc sẽ lấn tới mạnh hơn .

Khi xẩy ra các vụ xâm phạm hiển nhiên chủ quyền lãnh thổ , lãnh hải Việt nam, chính phủ Việt nam phải bảo vệ được chủ quyền ấy bằng mọi phương tiện và lòng quyết tâm .

Chống bành trướng Trung quốc là thách thức tồn tại hay không tồn tại của dân tộc Việt nam . Việc chống bành trướng phải do một chính phủ được nhân dân việt nam tin tưởng , giao cho trọng trách nặng nề này .

Chúng ta đã chờ đợi sự cải cách của Đảng cộng sản Việt nam hơn 20 năm nay kể từ khi Liên-xô xụp đổ .

Chúng ta đã góp ý cho Đại hội 11 của Đảng cộng sản Việt nam về đa nguyên, dân chủ với tâm huyết nồng nàn của những người yêu nước .

Nhưng họ đã bỏ ngoài tai, khăng khăng độc quyền lãnh đạo .

Một chính đảng chỉ là một câu lạc bộ của một nhóm người .

Tổ quốc là không gian sinh tồn , văn hóa , tập tục của nhiều dân tộc sinh sống trên mảnh đất ấy .

Quyền lợi của đảng phái phải đặt dưới sự sinh tồn của tổ quốc .

Đây là giờ phút quyết định của Đảng cộng sản Việt nam .

Đây là giờ phút quyết định của dân tộc Việt nam .

Nguyễn Nghĩa 650