Tổng số lượt xem trang

Thứ Ba, 5 tháng 11, 2013

Sự kiện 8888 và ‘vết nhọ’ quốc gia

Nhà văn Thiết Ngưng
Nhà văn Thiết Ngưng
NTT: Gọi Chủ tịch Hội Nhà văn Trung Quốc Thiết Ngưng là “hoa hậu”, vì bà là người đẹp, lại đứng đầu Hội.
Theo vanvn.net: Nhận lời mời của nhà thơ Hữu Thỉnh – Chủ tịch Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, đoàn đại biểu Hội Nhà văn Trung Quốc do nhà văn Thiết Ngưng dẫn đầu đã sang thăm Việt Nam và làm việc với Hội Nhà văn VN.
Chiều ngày 4/11/2013 đoàn đã đến sân bay Nội Bài. Tiếp đón đoàn nhà văn Trung Quốc tại khách sạn Daewoo có Chủ tịch Hội Nhà văn VN, nhà thơ Hữu Thỉnh, cùng hai Phó Chủ tịch Hội: nhà văn Nguyễn Trí Huân và nhà thơ Nguyễn Quang Thiều; ngoài ra còn có các ủy viên BCH Hội: nhà văn Phan Trọng Thưởng, Đình Kính, Đào Thắng.
Trong buổi sáng 05/11/2013, đoàn nhà văn Trung Quốc thăm và làm việc tại trụ sở Hội Nhà văn Việt Nam (số 9 Nguyễn Đình Chiểu, Hai Bà Trưng, Hà Nội).
Trong buổi chiều cùng ngày, đồng chí Đinh Thế Huynh – Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương đã tiếp đoàn. Đồng chí Đinh Thế Huynh đã nhiệt liệt chào mừng các nhà văn Trung Quốc sang thăm Việt Nam. Đồng chí đánh giá việc giao lưu giữa các nhà văn hai nước là rất cần thiết, góp phần củng cố tình hữu nghị giữa hai dân tộc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Mao Trạch Đông đã dày công xây dựng.
Nhà văn Thiết Ngưng – Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch Hội Nhà văn Trung Quốc thay mặt đoàn nhà văn cám ơn đồng chí Đinh Thế Huynh. Trong chuyến thăm và làm việc tại Việt Nam lần này, được chứng kiến sự phát triển của thủ đô Hà Nội, các nhà văn Trung Quốc rất khâm phục và vui mừng. Nhà văn Thiết Ngưng bày tỏ sự cảm kích của bản thân bà và các thành viên trong đoàn trước sự đón tiếp nồng hậu, thân tình của Hội Nhà văn Việt Nam.
Các nhà văn Việt Nam đón chào đoàn nhà văn Trung Quốc
Các nhà văn Việt Nam đón chào đoàn nhà văn Trung Quốc
*

NỒI LẨU

Truyện của THIẾT NGƯNG
Hai người tay trong tay đứng bên cửa sổ ngắm tuyết. Tuyết đã rơi từ sáng sớm, cây lựu trước sân giống như được khoác thêm chiếc áo len trắng vậy, trông vô cùng ấm áp.
Cây lựu đó tuy chỉ cao hơn đầu người tí chút nhưng không vì thế mà ít quả. Thu rồi đếm sơ sơ cũng có hơn bốn chục trái, cành nào cành nấy trĩu cong sát đất. Thời tiết khi đó vẫn còn chưa lạnh. Bà kéo ông ra trước cây lựu, giọng điệu vừa có chút khâm phục vừa mang vẻ cảm khái: Trông nó mệt mỏi quá!
Cứ như cây lựu đó là một bà bầu trong nhà họ vậy.
Ông bảo: “Tôi không nghĩ cây biết mệt mỏi!”.
Bà cãi: “Tôi bảo nó mệt là nó mệt!”.
Ông cười dòm dòm bà: “Bà này!”.
Hôm nay đứng trước cửa sổ, bà lại bảo ông, cây lựu trong tuyết khoác chiếc áo len trắng thật ấm áp.
Ông bảo: “Sao tôi không thấy vậy?”.
Bà cãi: “Tôi lại cứ thấy vậy đấy!”.
Ông cố ý làm như đang tranh luận: “Thân cây phủ đầy tuyết thì sao mà ấm áp được chứ?”.
Bà gấp gáp lắc nhẹ tay ông: “Tôi bảo ấm áp là ấm áp mà!”.
Ông nói vẻ hối lỗi: “Được rồi, được rồi! Bà bảo ấm áp tức là ấm áp!”.
Bà cười, biết là ông sẽ phải nói như thế, và cũng vì biết ông sẽ đáp lại như thế nên trong lòng bà cảm thấy vô cùng ấm áp.
Ông tám mươi bảy.
Bà tám mươi sáu.
Ông là chồng của bà.
Bà là vợ của ông.
Từ khi lấy nhau cho đến nay ông đều nhất nhất chiều theo tính nết của bà. Ông để bà quản lý gia đình, nhường nhịn bà mỗi khi bà giận dỗi, để bà quyết định phong cách ăn mặc cho mình, để bà lau chùi vài thứ đồ đồng, đồ bạc trong nhà gồm vẻn vẹn một đôi bát bạc, một đôi đũa bạc và một cái nồi lẩu bằng đồng đỏ được dùng mỗi dịp tết đến xuân về.
“Tuyết rơi đẹp thế này, chúng ta phải ăn lẩu mới được!”. Bà rời khỏi cửa sổ rồi đề nghị.
“Thế thì ăn thôi!”. Ông nắm tay bà hưởng ứng.
Hai người bèn ngồi xuống chiếc ghế sofa hai chỗ cạnh cửa sổ đợi cô Điền đến.
Cô Điền là người giúp việc theo giờ của gia đình, mỗi tuần đến hai lần để quét dọn nhà cửa và mua thực phẩm. Hôm nay vừa khéo đúng ngày cô Điền sẽ đến làm việc. Tuyết vẫn rơi nhưng ông bà không hề lo cô giúp việc kia vì bị tuyết cản trở mà không đến. Họ biết cô hơn 20 năm rồi. Đó là một quả phụ thật thà và hoạt bát.
Cô Điền đến rồi.
Quả nhiên gió tuyết không làm khó được cô.
Hai ông bà tranh nhau bảo với cô là hôm nay sẽ ăn lẩu.
Cô Điền nói: “Cụ ông cụ bà hôm nay thật là cao hứng!”.
Cô vẫn thường gọi hai người như thế.
Bà bảo: “Cao hứng hay không cũng còn phải xem thời tiết!”.
Cô Điền nói: “Thời tiết sao có thể quyết định tâm tình của con người được chứ? Cứ xem hai cụ đây, từ sáng sớm tinh mơ đã tay trong tay. Thật khiến cho lớp con cháu hậu bối chúng con chẳng biết giấu mặt vào đâu!”.
Quen biết đã quá nhiều năm rồi nên cô Điền cố tình đùa một câu hơi vô phép.
Hai ông bà kệ cho cô giúp việc nói cười vẫn ngồi im trên ghế, tay hai người cũng không vì thế mà rời nhau ra.
Thực ra thì cô Điền sớm đã quen với cảnh hai ông bà già ngồi bên nhau tay không rời tay này rồi. Từ khi biết họ đến nay, đã mười mấy năm rồi họ dường như vẫn ngồi như vậy. Họ ngồi ở đó xem cô lau mặt bàn, lau sàn nhà, hút bụi cho bộ sofa và rèm cửa sổ, phân loại rau dưa thịt cá để cho vào tủ lạnh…Gặp ngày thời tiết tốt, họ có thể sẽ rủ cô cùng họ đi chợ hoặc đi siêu thị. Cụ ông sau một hồi đi tới đi lui sẽ đột nhiên dừng chân bảo với cụ bà: “Gãi gãi chút!”. Đó là vì cụ bị ngứa lưng. Cụ bà cho tới tận khi đó mới tạm rời tay cụ ông, sau đó luồn tay vào áo để giúp ông gãi ngứa. Cô Điền ở bên cạnh chỉ có cười mà thôi. Họ vốn chẳng coi cô như người ngoài nhưng cũng chẳng có ý định mời cô làm việc cả tuần hay mời người khác đến làm gối với cô. Cô biết họ thậm chí cũng chẳng mấy mong mỏi bốn người con và lũ cháu của họ vẫn định kỳ về chơi thăm hỏi. Đó dường như là một sự làm phiền. Làm phiền thói quen tay trong tay ngồi bên nhau không một chút miễn cưỡng và vĩnh viễn không bao giờ biết chán của họ. Mỗi lần lũ con cháu về, họ chỉ muốn mau mau đuổi cổ chúng đi, thái độ không khỏi khiến người ta cảm thấy đôi vợ chồng già này đang giấu giếm mọi người chuyện gì đó. Thật không biết là duyên phận từ đời nào kiếp nào nữa! Cô Điền thở dài, vừa cảm thấy sự cô độc thê lương của bản thân đồng thời lại bị không khí yên lành tràn ngập khắp căn phòng này truyền nhiễm.
Ông giục cô Điền đi mua thịt cừu, bà thì bảo cô mang giấy ra ghi lại các thứ gia vị phụ liệu để khỏi quên. Cô Điền lấy từ trong bếp ra một tờ giấy đã được gấp vuông vắn trải ra bàn rồi nói: “Lần trước đi mua con đã ghi lại rồi. Con đọc để hai cụ nghe nhé, chẳng qua cũng chỉ có tào phớ, nước mắm tôm trong, hoa hẹ, tương ớt, dầu hoa tiêu, tỏi ngâm, rau cải bắp, rau thơm, bánh phở, đậu phụ đông…”. Cô Điền đọc xong, ông thủng thẳng bảo: “Cô quên không ghi dầu mè à?”. Bà chen vào: “Dầu mè ở nhà vẫn còn nửa lọ đấy!”. Ông lại bảo: “Còn tảo biển nữa. Lần trước đã quên rồi!”. Cô Điền vâng lời ghi thêm vào tờ giấy khoản tảo biển.
 Nhúng tảo biển là sáng kiến của ông. Sau khi ăn rồi bà cũng thích luôn.
Tảo biển quả là một món ngon.
Cô Điền nghe dặn dò xong bèn vội vàng ra chợ, trước khi đi vẫn không quên từ trong bếp bê ra một cái nồi lẩu bằng đồng đỏ nặng trịch đem đặt lên chiếc bàn ăn hình vuông trong căn phòng ăn kiêm luôn phòng khách của ông bà, cạnh đó lại để một hộp kem đánh răng và một miếng vải mềm nhỏ. Đó là một thói quen của bà. Cứ cách một khoảng thời gian bà lại phải lau chùi nồi lẩu. Lâu lâu không lau bà sẽ cảm thấy có lỗi với nó. Lần trước ăn lẩu xong bà vẫn còn chưa lau chùi. Cũng có đến non nửa năm rồi còn gì. Lần đó ông bà làm lẩu để chào đón cô cháu dâu mới chưa biết mặt.
Ông thấy bà định đi lau nồi thật bèn ngăn lại nói: “Hôm nay đừng lau nữa, cũng chỉ có hai ông bà già, Cứ nhất thiết phải cầu kỳ thế sao chứ?”.
Bà bảo: “Ờ! Nhất định phải như thế đấy! Hai người ăn cũng phải có cái nồi sáng choang mới được!”. Nói xong bèn rời ghế sofa đến ngồi bên bàn ăn cầm mảnh vải nhỏ lên, lại cầm tuýp thuốc đánh răng bóp vào đó một ít rồi bắt đầu công việc lau chùi quen thuộc.
Ông cũng đi đến ngồi xuống phía đối diện xem bà làm việc. Cái nồi đó quả thật là rất lờ nhờ, mà cũng có thể là mắt ông lờ nhờ. Ông nheo mắt nhìn, cái nồi lẩu trước mắt ông không những không bóng láng mà ngay cả đường nét cái miệng nồi cũng nhập nhèm chẳng rõ. Cả ông và bà đều bị bệnh đục thủy tinh thể. Ông bị hai mắt còn bà bị mắt bên phải. Bác sĩ nói đây là kiểu đục vỏ thủy tinh thể, chờ đến giai đoạn đục chín thì có thể tiến hành phẫu thuật. Ông đã hẹn với bà rồi. Đến lúc đó cả hai vợ chồng sẽ cùng nhập viện.
Bà vừa lau cái nắp nồi vừa nói: “Ông xem! Chỗ lau xong khác hẳn với chỗ chưa lau đấy!”.
Ông cảm nhận được sự hứng khởi của bà bèn phụ họa theo: “Đúng là khác hẳn nhỉ! Thế mới gọi là nồi lẩu chứ!”.
Hai ông bà đều thích ăn lẩu. Cũng nhờ ăn lẩu mà ông bà quen biết nhau. Hồi đầu thập niên 50 của thế kỷ trước, hai người vẫn còn đang tuổi thanh niên, cuối tuần đi cùng với đồng nghiệp của mình đến DongLaiShun1 ăn bữa lẩu. Những năm đó phổ biến kiểu “Lẩu cộng hòa”, thanh niên nam nữ chưa có gia đình rất yêu thích. Cái gọi là “cộng hòa” tức là một số thực khách không quen biết cùng ngồi ăn chung một nồi lẩu. Nước dùng là của chung. Giữa nồi có dải ngăn cách tượng trưng, giống như ngày nay người ta làm các vách ngăn cách trong văn phòng làm việc vậy. Lúc ăn mỗi người sẽ có một ô trong nồi để tự nhúng thịt cừu và các đồ ăn khác mà mình đã gọi. Tiền nồi lẩu và nước dùng thì bổ theo đầu người ăn nên rất tiết kiệm. Con người và môi trường ngày đó đều rất thuần khiết, không có SARS mà cũng chẳng có H7N9. Những con người xa lạ ngồi chung bàn, ăn chung nồi cũng chẳng e ngại tị hiềm gì, Cảnh mọi người vây quanh một chiếc nồi lớn đó quả có cái không khí bốn bể đều là anh em.
Hôm đó ông ngồi cạnh bà, sau khi ăn hết phần đồ ăn mình đã gọi bèn thò đũa sang gắp đồ ăn trong đĩa của bà. Hai đĩa vốn cũng để cạnh nhau mà. Trông ông khi đó không có vẻ là cố ý nên bà cũng ngại không muốn nói. Có điều khi thấy ông cứ liên tục gắp liền mấy gắp, anh bạn đi cùng bà bèn dùng đũa của mình gõ gõ lên thành nồi lẩu bảo: “Này này đồng chí! Cái nồi này là dùng chung nhưng đĩa thịt đó là của cá nhân người ta đấy!”.
Mọi người trong bàn cười ồ lên.
Lúc đó ông mới như sực tỉnh.
Vậy nhưng bà lại vì thế mà có cảm tình với ông, cũng giống như kiểu cảm tình mà ông dành cho bà vậy. Sau này ông bảo, hôm đó ông vừa ngồi xuống cạnh bà tim liền đập loạn lên. Bà chất vấn, có phải ông cố tình gắp đồ ăn trong đĩa của bà để gây sự chú ý không? Ông thật thà đáp, lúc đó ông chẳng nghĩ được nhiều như thế, mà cũng chẳng biết bản thân đang làm gì nữa. Thế rồi ông bà bắt đầu hẹn hò. Bà thì biết được ông là kỹ sư đường sắt – chả trách trông hơi ngây ngô. Ông thì biết bà là người thuyết minh trong một viện bảo tàng – chả trách mà khéo ăn khéo nói. Rồi hai người trở thành vợ chồng. Trong số đồ hồi môn của bà, ngoài một đôi bát bạc, một đôi đũa bạc ra, còn có cả một cái nồi lẩu bằng đồng đỏ.
Chiếc nồi đồng đó được truyền lại từ đời ông ngoại của bà. Nhà ông ngoại vốn là nghệ nhân làm nồi lẩu. Những nồi lẩu được gia công bằng tay đó chuyên để cung cấp cho hoàng cung. Chiếc nồi đồng đó của bà, đồng thì là loại đổng đỏ thượng đẳng, láng bóng nhưng không chói mắt. Vung cũng như mặt ngoài của nồi đều trang trí bình thường, chỉ có men theo cái cửa lò hình chữ Nhân có chạm khắc những cụm mây bằng đồng thau. Mỗi khi rỗi rãi bà lại mang chiếc nồi ra lau chùi, cắt đoạn tay áo cũ bà đã từng mặc, nặn một ít kem đánh răng hoặc phấn rôm vào mà lau. Bà là người thích sạch sẽ, có thể dùng bì lợn để đánh cho cái mặt kiềng đúc bằng sắt trên miệng bếp than tổ ong trở thành một miếng gương soi. Khi tinh thần của bà chuyên chú vào việc lau chùi nồi lẩu, không khí trong nhà chẳng hiểu sao đột nhiên trở nên rất sinh động, cái sự thèm ăn của ông cũng bị khơi dậy, cứ như sắp sửa được chén một bữa lẩu tại Donglaishun vậy.
Bà vốn đã từng làm lẩu cho ông ăn. Không có thịt. Chỉ có cải bắp và tép khô chấm với xì dầu. Sau khi ông bà kết hôn chính là thời điểm nghèo túng thực phẩm, thiếu thịt thiếu mỡ, ngay cả các loại thực phẩm phụ cũng phải mua bằng tem phiếu. Các gia đình bình thường rất hiếm khi sửa soạn được một nồi lẩu nhúng thịt – đi đâu mà mua thịt cơ chứ? Trong vòng tám năm, ông bà sinh liền 4 người con, quanh năm suốt tháng đều phải tính toán chi li, vá gấu giật vai. Tuy nhiên ông lại rất thích món lẩu tép khô rau cải hay rau cải tép khô đó của bà. Khi ông ngồi gần nồi lẩu nóng hổi đang sôi sùng sục đó, trái tim ông vụt trở nên ấm áp, có cảm giác như làn hơi nóng đang tỏa ra khắp nhà đó đang quyện chặt lấy ông, sưởi ấm cho ông. Trong nhà nhất định phải có nhiệt. Một nồi lẩu đang bốc khói hay một mặt kiềng bếp than tổ ong sáng choang, nơi có thể đặt trực tiếp bánh bao màn thầu lên đó để nướng đều khiến ông cảm thấy vô cùng quyến luyến. Chỉ có điều ông vốn vụng về trong đường ăn nói nên không thể lập tức đem thứ cảm giác đó ra biểu đạt cho bà hiểu. Ông chăm chú thả rau cải vào nồi. Bà thì nhanh tay nhanh mắt mò tép khô trong nồi nước lẩu đang sôi sùng sục cho ông. Cả thảy mới có một nhúm nhỏ tép khô. Cho vào nồi rồi chẳng còn nhìn thấy bóng dáng con nào nữa. Vậy mà bà với kỹ thuật siêu đẳng, hệt như đang mò kim đáy bể vậy, tay nắm chặt đũa tre nhăm nhăm gắp tới, lần nào lần nấy đều trúng đích. Mỗi khi bà với tay qua nồi lẩu để bỏ con tép chỉ bằng cái đầu sợi vào bát cho ông, ông lại đưa mắt nhìn sang bà qua làn hơi nước trắng xóa. Cùng lắm thì có thêm một câu: “Xem bà kìa!”.
Nhiều lúc ông cũng muốn tìm kiếm chút tinh hoa trong nồi lẩu để gắp cho bà cho dù đó chỉ là vài con tép khô ít ỏi. Có điều tay chân ông vụng về, lần nào cũng gắp hụt. Chỉ có một lần, đôi đũa của ông bất ngờ kẹp được một miếng mồi lớn. Nhấc lên khỏi mặt nước nhìn xem thì hóa ra là một quả hồi màu đỏ sậm. Bà bảo ông mau thả nó lại nồi. Cả nồi nước lã đun sôi chỉ có nó để lấy hương thơm đấy. Ông không tranh đua với bà vụ bắt tép trong nồi lẩu nữa, hởi lòng hởi dạ ngồi ăn tép khô bắp cải, đột nhiên ngẩng đầu lên thốt một câu: “Mình đấy!”.
Ông biết cả đời này ông không xa được bà, cũng giống như bà chưa bao giờ nghĩ sẽ rời xa ông vậy. Từ trước đến nay ông bà chỉ rời xa nhau có vài lần ít ỏi, bao gồm cả bốn lần bà nhập viện sinh con. Cũng phải kể đến lần ông bị đưa đến vùng rừng núi hẻo lánh lao động một năm trong cuộc đại cách mạng đó. Sau đó ông và một số đồng nghiệp trở về thành phố trước thời hạn và được biên vào một tổ nghiên cứu khoa học chủ chốt phục vụ cho công tác xây dựng tuyến đường sắt đầu tiên của Bắc Kinh. Tuy ông còn lâu mới được là nhân vật chính trong công cuộc đó, cũng không thực sự có gì nổi trội, nhưng tất cả những điều đó đều chẳng ngăn được cậu con trai út của ông bà mỗi lần đi tàu hỏa lại lớn tiếng khoe khoang với chúng bạn: “Biết ai thiết kế tuyến đường sắt này không? Bố tớ đấy!”.
Cô Điền đã về. Thịt cừu, rau cỏ nguyên liệu đều đầy đủ cả. cô chui vào bếp, cái gì cần rửa thì rửa, cái gì cần thái thì thái, thoáng một cái đã có khay to đĩa nhỏ để thành một khoảnh. Cô lần lượt bê những khay những đĩa đó ra cái bàn ăn hai cụ đang ngồi rồi xếp chúng vòng quanh cái nồi lầu giống như quần tinh chầu nguyệt vậy. Tiếp đó cô lại phải bê cái nồi lẩu đồng đỏ đó đi – bà cụ lau chùi khiến khắp nồi toàn dấu vết của kem đánh răng – cần phải dùng nước để rửa cho sạch. Có khác gì một người đi tắm đâu, không thể bước ra khỏi nhà tắm khi khắp người còn đầy bọt xà phòng chứ! Cô Điền để cái nồi dưới vòi nước trong bếp rồi xả nước để rửa. Cô phát hiện ra chiếc nồi chẳng sáng bóng như những lần trước bà cụ đã lau, thân nồi chỗ sáng chỗ xỉn còn phần chân thì gần như chẳng lau chùi gì đến, rìa mép còn nguyên những mảng xanh xám của gỉ đồng. Nghĩ đến căn bệnh về mắt của cụ bà, cô bất giác nhủ thầm: “Đúng là đã làm khó cho cụ rồi!”. Bên ngoài bà cụ hỏi với vào: “Nồi lau xong có sáng không?”, giống y đứa trẻ đang chờ đợi người lớn khen thưởng vậy. Cô Điền định bụng sẽ nói dối nên lớn tiếng đáp: “Sáng đến nỗi soi thấy cả bóng của con đây này! Cả cái bớt vàng sậm trên mặt con cũng nhìn thấy!”.
Ông bà nghe cô Điền nói vậy đều cười ha hả.
Cái nồi lẩu nặng trịch đổ đầy nước trắng, sau khi thêm hành, gừng, hồi và một ít tôm nõn lại được cô Điền bê trở lại bàn ăn, chỉ cần đợi nước lục ục sôi lên là bữa lẩu nhúng chính thức được bắt đầu. Ông bà háo hức nhìn cái nồi trên bàn và những chén đĩa bày xung quanh nó. Cho dù trong mắt hai người, chiếc nồi đó tuyệt đối không thể gọi là hào quang tỏa ra tứ phía nhưng sự hình dung của cô Điền khiến ông bà tin rằng chiếc nồi vẫn sáng bóng giống với trước đây vài năm, thậm chí vài chục năm. Cô Điền thì đang theo thói quen nghề nghiệp nghiêng đầu ngó ngó cái cửa lò ở chân nồi lẩu. Than củi phải đỏ rừng rực chứ? Vừa nhìn vào,  “Thôi chết rồi!”. cô thảng thốt kêu lên một tiếng.
Đúng là bận mải quá thành ra tai hại.
Cô quên béng việc mua than củi!
Cái sự quên này khiến ông bà hơi mất hứng, có điều hai người đều không hề định bàn lùi mà chuyển sang phương thức khác – dùng cái nồi lẩu điện mà cô cháu dâu mua tặng. Ông đã từng bảo: “Cái này mà cũng gọi là nồi lẩu sao?”. Cô Điền cũng không định động viên hai cụ dùng nồi lẩu điện. Cho dù là vì cái nồi đồng đỏ chỗ sáng chỗ tối mà cô đã bê ra bàn ăn, cô cũng phải đội tuyết đi một chuyến nữa để mua than. Cho dù là vì tâm tình của cụ ông và cụ bà. Cũng đáng!
“Đợi con nhé! Một lát là về tới thôi!”. Cô Điền nói như đang dỗ dành hai đứa trẻ vậy, sau đó như một cơn gió phóng ra ngoài cửa.
Ông bà nhẫn nại đợi cô Điền về cùng với than củi. Bà đi vào bếp pha dầu mè. Ông đi theo sau, lẩm bẩm vẫn câu đó: “Mình đấy!”.
Cả đời ông chưa nói với bà một câu nói du dương nào. Hình như cũng chưa từng viết qua thư tình. Tuy nhiên bà vẫn còn nhớ một chuyện xảy ra khi cô con gái lớn vừa tròn một tuổi rưỡi. Chủ nhật đó ông bà dẫn con ra công ty bách hóa để mua vải hoa. Lúc đang xếp hàng trả tiền thì cô bé đòi đi tiểu. Ông bế con đi vào nhà vệ sinh còn bà tiếp tục đứng giữ chỗ chờ đến lượt. Một lúc sau bà đột nhiên cảm thấy có người ở đằng sau đang khẽ động lên tóc mình. Bà se sẽ quay đầu lại và nhìn thấy ông đang bế con gái đứng ngay sau lưng, tay cầm bàn tay nhỏ xíu của con vuốt lên tóc vợ. Kể từ đó, mỗi lần nhìn thấy hoặc nghe thấy từ du dương là bà lại nhớ đến lần đứng xếp hàng ở công ty bách hóa ông đã mượn tay con gái để vuốt tóc mình. Đó chính là thứ ngôn từ du dương ông giấu kín để dành cho bà, cũng chính là cách ông công khai thể hiện tình yêu đối với bà. Giờ đây khi mà hai người đều đã già, toàn thân đâu đâu cũng thấy bệnh. Thính giác, vị giác, khứu giác và thị giác đều như nhau, đang dần từng bước lão hóa hết cả, nhưng mỗi lần nhớ lại ngày chủ nhật của hơn nửa thế kỷ trước đó, mái tóc đã lơ thơ bạc trắng và khô xác của bà lại vẫn có thể cảm nhận được sự tung bay thoáng qua, làn da nhăn nheo sau gáy của bà vẫn có thể cảm nhận được luồng tê dại nóng bỏng.
Khoảng hơn một tiếng đồng hồ sau, cô Điền lại trở về, tay xách cái túi đựng đồ của Gia Lạc Phú miệng liến thoắng: “Than đến rồi! Than đến rồi! Của hiếm đấy! Mỗi Gia Lạc Phú có!”.
Nước trắng trong nồi lẩu được sự cổ động của than củi, chẳng bao lâu sau bắt đầu lên tiếng lục ục. Cô Điền mời cụ ông cụ bà nhập tiệc, lại mau mắn giúp hai người nhấc cái vung nồi lẩu nóng rẫy tay đặt sang một bên.
Ông bà ngồi xuống đối diện với nhau rồi không hẹn mà cùng đưa mắt nhìn qua chiếc đồng hồ treo trên tường. Lờ mà lờ mờ! Hình như là 11 rưỡi rồi? Nếu không thì là 12 rưỡi? Hai người trong lòng ái ngại đồng thanh nói: “Thật đã khiến cô phải vất vả rồi!”.
Không có tiếng cô Điền trả lời. Cô sớm đã lén chuồn ra ngoài rồi. Cô biết rõ rằng trong lúc này, đừng nói là bên cạnh hai cụ có thêm một người, cho dù chỉ thêm một cái bát không thôi cũng đủ khiến hai người vướng mắt.
Ông bà yên lặng ngồi ăn lẩu. Cũng giống như trước đây, vẫn là bà tiếp cho ông nhiều hơn. Hai người không còn ăn nhiều được như ngày xưa. Cảm nhận của vị giác đối với miếng thịt nhúng tươi ngon và những chua, chát, mặn, ngọt của gia vị cũng đã giảm đi rất nhiều. Tuy nhiên nồi lẩu bốc hơi nghi ngút trên bàn kia vẫn khiến ông bà vô cùng hứng khởi. Hai người cùng gắp bỏ vào nồi thịt cừu và đồ ăn trong những khay đĩa nhìn rối cả mắt bốn xung quanh. Bà vớt mấy miếng thịt cừu cho vào bát ông. Ông thì gắp một miếng đậu đông bỏ sang bát bà. Bà lại vớt cho ông một miếng tảo biển. Ông cứ như đang thi đua với bà vậy, cũng chăm chú đi mò tảo biển. Mò một lát, ông đột nhiên cảm thấy đầu đũa đang trầm mình trong nồi nước lẩu mắc phải một thứ gì đó rất đầm bèn vội cắp chặt lấy nó rồi nhấc lên. Một miếng tảo biển! Dài như một quả mướp nhỏ! Ông giơ cao đôi đũa bảo: “Bà ăn đi!”.
Bà nhường nhịn: “Ông ăn!”.
Ông đưa đôi đũa về phía bát bà: ‘Bà ăn đi!”.
Bà giơ tay ngăn lại nói: “Ông ăn! Ông thích ăn mà!”.
Ông đắc ý bỏ miếng tảo biển đang kẹp chặt trên đầu đũa vào bát của bà: “Hôm nay tôi cứ muốn gắp cho bà ăn!”.
Bà cảm thấy trong làn hơi nước nóng hổi đang bao phủ, khóe mắt hơi đỏ của ông ngập tràn vẻ mừng vui hớn hở. Bà cười khẽ rồi cúi xuống cắn một miếng nhỏ tảo biển trong bát. Cắn không được! Bà lại thử một lần nữa. Vẫn không thể cắn được! Bà bèn gắp miếng tảo biển giơ lên sát mặt nhìn kĩ lại.
Nhìn rõ rồi!
Bà đang cắn một mảnh giẻ lau!
Hai người đã gắp miếng vải mà bà vừa lau bỏ vào nồi nước lẩu.
Ông hỏi bà ăn có ngon không?
Bà vội gắp một lá bắp cải to trong khay đậy lên miếng tảo biển: “Ngon! Ngon lắm!”.
Bà mừng vì chính mình chứ không phải ông vớ phải miếng tảo biển đó. Bà còn muốn nói với ông rằng, trong đời bà, đó là thứ hương vị biển tươi ngon nhất mà bà đã từng ăn. Chỉ có điều, một luồng nhiệt nóng bỏng từ tận sâu trong lòng bỗng trào lên khiến bà nghẹn ngào không nói nên lời.
Bà không nói thêm được câu nào nữa.
Ông lại bỏ vào nồi một nhúm mì gạo. Bà không ngăn ông. Lúc húp nước mì, chẳng ai phát giác ra mùi thuốc đánh răng hết.
Bà ôm cái bát bằng cả hai tay. Bà muốn bảo với ông rằng, hôm nào trời đẹp phải đến bệnh viện một chuyến. Bà muốn biết phòng điều trị trong đó có cho nam nữ nằm chung không? Bà mong muốn nhất là được nằm cùng phòng bệnh với ông.
Tuyết vẫn còn rơi. Ngoài cửa sổ trắng xóa một màu. Cây lựu trước sân chắc không còn giống như đang khoác lên mình chiếc áo len trắng nữa. Bà e nó đã mặc áo bông rồi!
Thiên Thai dịch
 ———————
1. DongLaiShun là quán lẩu thịt cừu nổi tiếng có lịch sử  trên 100 năm của Bắc Kinh. Lẩu của họ chỉ dùng thịt cừu của Nội Mông, nồi lẩu bằng đồng và được đun bằng than củi.
Nguồn: báo Văn nghệ

Bàn lại tiểu thuyết Kim Dung: Vẫn cần tỉnh táo, cảnh giác

Bạn có thể hỏi tôi đâu là điều cần cảnh giác trong tiểu thuyết Kim Dung. Có đấy! Tác phẩm võ hiệp của ông đề cao chủ nghĩa Đại Hán một cách quá đáng

Đọc tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung, độc giả cảm nhận được nhiều thú vị. Chưa nói đến những chức năng khác của tác phẩm văn học, chỉ riêng giải trí thôi, tiểu thuyết Kim Dung đã tuyệt vời. Điều này cắt nghĩa tại sao trí thức, sinh viên, học sinh và đông đảo độc giả ở miền Nam trước năm 1975 lại say mê tiểu thuyết của ông đến vậy.
Tạm lãng quên mọi thứ
Sống thời chiến tranh, lòng người không yên, chủ nghĩa đế quốc lại đồng thời mang theo một dạng văn hóa ngoại lai tràn vào nước ta. Con người mong có một thế giới nhân văn, trong đó cái ác bị trừng trị, điều thiện được biểu dương. Truyện võ hiệp Kim Dung hư cấu ra được một thế giới phi thực như vậy. Ông xây dựng một bầu trời khác ngoài bầu trời hiện hữu - điều mà mọi người gọi là “Thiên ngoại hữu thiên”.

Một số tác phẩm Kim Dung đã xuất bản tại Việt Nam Ảnh: Hoàng lê
Đọc tiểu thuyết Kim Dung, người ta tạm lãng quên mọi thứ. Đọc vài chương, người ta phải xem hết cả quyển; đọc 1 quyển, người ta phải xem hết cả bộ. Kim Dung đưa độc giả đi vào thế giới phi thường của bọn hào sĩ giang hồ, uống bát rượu to, ăn miếng thịt lớn; chẳng thấy anh nào có nghề ngỗng gì để trở thành giàu sang nhưng ăn xài theo phong cách những tỉ phú hào phóng bậc nhất. Trong thế giới ấy, người ta đi mây về gió, hành hiệp cứu đời. Đám vua quan chộn rộn của chế độ phong kiến kết hợp với quân cường hào ác bá áp bức, đè ép dân thường thì đã có luật giang hồ trừng phạt.
Văn chương tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung tràn đầy thi ca, từ phú. Tác phẩm nào cũng phong phú chất thơ, cũng có thơ. Tác phẩm nào cũng tràn đầy lời ca tiếng hát. Hào sĩ giang hồ tạm gác đao kiếm, cùng cất lời ca với cô gái hái sen bên Thái Hồ. Không khí đấu tranh sát phạt bỗng lặng đi để tiếng hát hòa bình, trung chính trỗi dậy. Thậm chí, nhiều khi đánh nhau, người ta cũng sử dụng tiếng tiêu, tiếng đàn, tiếng hát làm vũ khí chứ không dùng đến đao kiếm.
Đọc văn chương Kim Dung, người ta hiểu thêm về văn hóa Trung Quốc, từ văn hóa ăn mặc, ẩm thực, trà rượu đến văn hóa giao tiếp, lễ nghi. Bọn Thanh Thành từ Tứ Xuyên xuống Phúc Kiến đánh Phước Oai tiêu cục (Tiếu ngạo giang hồ), đầu trộm đuôi cướp là thế nhưng trên đầu vẫn quấn vành khăn trắng. Hóa ra đó là văn hóa Tứ Xuyên đã có 2.000 năm qua. Tứ Xuyên thuộc đất Ba Thục, ai cũng tôn thờ Khổng Minh, dù ông không còn nữa nhưng họ vẫn quấn vành khăn trắng trên đầu.
Đọc văn chương Kim Dung, độc giả đắc thủ những kiến thức về địa lý, lịch sử Trung Quốc. Tác phẩm của ông dẫn người ta đi từ Bắc Kinh xuống vùng Quảng Đông cực Nam, từ phía Đông - sông Tiền Đường - qua đến cực Tây - đất Hồi Hột. Nơi nào con người sống ra sao, có sản vật gì đặc sắc đều được ông lý giải rõ ràng. Chẳng hạn, hoa trà Côn Minh đẹp nhất thiên hạ (Thiên Long bát bộ), ngựa Vân Nam ốm yếu còi cọc nhưng chạy nhanh nhất và bền sức nhất (Lộc Đỉnh ký).
Kim Dung khéo léo gắn tác phẩm của mình vào hoàn cảnh lịch sử Trung Quốc, xây dựng các nhân vật hư cấu bên cạnh nhân vật lịch sử có thật, trích dẫn nhiều văn bản trong lịch sử. Vì vậy, tác phẩm của ông lung linh màu sắc hư cấu bên cạnh màu sắc hiện thực.
Bên ngoài Trung Quốc đều “hủ lậu”(!)
Vậy đâu là điều cần cảnh giác trong tiểu thuyết Kim Dung? Có đấy. Là người Việt Nam, chúng ta luôn đọc văn chương nước ngoài với một thái độ tỉnh táo cần thiết. Tác phẩm Kim Dung đề cao chủ nghĩa Đại Hán (Tahanisme) một cách quá đáng. Cái gì ngoài lãnh thổ Trung Quốc dưới mắt Kim Dung đều bị chê là “hủ lậu”.
Trong Lộc Đỉnh ký, Vi Tiểu Bảo đi qua đất Nga La Tư, thấy điện Khắc Lý Mụ Lâm (Kremlin) bèn chê ngay là kinh thành hủ lậu. Trong cuộc chiến tranh diễn ra bên bờ Hắc Long Giang (sông Amour), Kim Dung đã để cho tư lệnh Vi Tiểu Bảo cùng ba quân cởi quần tiểu vào những nồi nước sôi rồi dùng nước ấy bắn qua thành trì quân Nga và bắt được tư lệnh Đồ Nhĩ Bố Thanh (Tolbusin). Hắn làm nhục địch thủ bằng cách buộc Đồ Nhĩ Bố Thanh cởi trần truồng giữa mùa tuyết lạnh, đưa lên ngựa đi 3 vòng rồi mới thả cho vào thành.
Lộc Đỉnh ký cũng nhắc lại việc ký hòa ước Trung - Nga năm 1684 (năm 22 đời Khang Hy). Vi Tiểu Bảo, trưởng đoàn đàm phán của “thiên triều”, làm mọi cách để dọa nạt, o ép, nghi binh, nhục mạ trưởng đoàn của Nga là công tước Phí Diêu Đa La (Feodore). Hắn chiếm được 2 tỉnh A Mộc Nhĩ và Tân Hải của Nga sát nhập Trung Quốc để “thiên triều” có thêm 800.000 dặm vuông Anh! Theo Vi Tiểu Bảo, đó là một cuộc đàm phán công bằng. Trong lịch sử lấn đất giành dân thì vụ này là lớn hơn tất cả.
Chủ nghĩa Đại Hán thậm chí còn xuất hiện trong tình dục ở tác phẩm Kim Dung. Ông vẫn coi “của quý” của người Trung Quốc là “khủng” và chất lượng nhất thiên hạ. Đời Tần, Lao Ái được Triệu Cơ say mê vì “của quý” của hắn có thể “làm dừng được bánh xe bò”. Thời Khang Hy, “cậu nhỏ” của Vi Tiểu Bảo cũng được công chúa Tô Phi Á (Sophia) nước Nga say mê. Bao nhiêu vương công quý tộc Nga đều bị Tô Phi Á chê bai, chỉ ngày đêm nhớ thương những lần ăn nằm với Vi Tiểu Bảo.
Cuối truyện Lộc Đỉnh ký, Kim Dung đã để cho Vi Tiểu Bảo làm một món quà gửi tặng Tô Phi Á. Quà là một bức tượng Vi Tiểu Bảo trần truồng, to lớn như người thật, riêng... “cậu nhỏ” thì vươn ra kiêu hãnh. Tô Phi Á nhận được quà mở ra xem, phì cười, đá một cái rồi sai quân liệng bỏ. Theo Kim Dung, phụ nữ ở Mạc Tư Khoa (Moscow) hiếm muộn thường đến thờ lạy bức tượng vỡ ấy để mong cầu sinh được con cái!
Nhiều mối tình đẹp
Đọc Kim Dung, ta bắt gặp những mối tình đẹp, những lứa đôi yêu nhau nồng thắm. Trần Gia Lạc - Hương Hương công chúa (Thư kiếm ân cừu lục), Hồ Phỉ - Miêu Nhược Lan (Tuyết sơn phi hồ), Dương Quá - Tiểu Long Nữ (Thần điêu hiệp lữ), Lệnh Hồ Xung - Nhậm Doanh Doanh (Tiếu ngạo giang hồ)... là những mối tình đẹp. Họ có thể xa nhau, cũng có thể được sống bên nhau một đời nhưng quá trình tìm kiếm hạnh phúc tình yêu thì quả là tuyệt vời.
Vũ Đức Sao Biển
 

Nhật Bản - Ngoài tầm kiểm soátSẽ không bao giờ trở lại như xưa nữa

Nhật Bản – Ngoài tầm kiểm soát
Trích từ “Nhật Bản – Ngoài tầm kiểm soát”

Về những cánh đồng ruộng lúa, củ cải và bù nhìn ở một nơi không còn có thể sinh sống được nữa

“Đó là những sự việc nhỏ bé, những cái khiến cho chúng tôi buồn đến như thế khi chúng không còn nữa”, Katsuhiro Ichikawa nói, khi anh quay lại nhìn tôi lúc phim của anh chấm dứt. Nhìn nỗi buồn của tôi.
Anh cẩn thận đưa tay ra cho tôi và nắm lấy tay tôi trong một khoảng khắc; một vài giây mà trong đó tất cả đã được nói ra không cần lời.
Ichikawa nhất định muốn trình chiếu đặc biệt cuốn phim ngắn của anh, chỉ cho một mình tôi, vào buổi chiều mưa này, tại một cái quán ở dưới hầm trong khu phố Minami-Aoyama sang trọng của Tokyo. Đó là lần chuyển thể phim các bức ảnh chụp của anh, kèm theo những lời bình luận ngắn và nhạc của Toshimi Watanabe sinh năm 1966 ở Fukushima, người từ những ngày tháng Ba 2011 đang cố gắng tạo can đảm cho những con người trong thành phố quê hương của anh qua âm nhạc.
Tám phút “ngày thường”. Ngày thường, bao gồm những từ tiếng Nhật cho ngày và bình thường. “Tôi không phô bày đất nước tươi đẹp”, Ichikawa nói, “mà là cuộc sống bình thường ở miền quê.”
Chúng tôi ngồi trong CAY, một nhà hàng với bầu không khí của một quán rượu. CAY thuộc “Xoắn Ốc”, một nơi chốn của nghệ thuật, của thời trang và của sự gặp gỡ sáng tạo. Ảnh của Katsuhiro Ichikawa treo trên tường. Ichikawa sinh năm 1955 ở Shizuoka và học đại học về luật. Năm 1986, anh trở thành nhiếp ảnh gia hoạt động tự do và ngày nay sống ở Tokyo.
“Ngày thường” là những bức ảnh chụp từ miền quê của nước Nhật, từ thị trấn nhỏ bé Naraha trong quận Futaba, tỉnh Fukushima, cách lò số 1 của nhà máy điện nguyên tử Fukushima mười sáu kilômét. Đó là những nơi như nơi này, không có nét thu hút khách du lịch, không có điểm đáng tham quan nào hết, những nơi mà không có gì ngoài đất đai và con người sống nhờ vào đất mà các nhà máy điện nguyên tử đã được xây lên ở cạnh đó. Những nơi này đã được cố tình chọn lựa, Ichikawa nói. Nhà máy điện nguyên tử đã tạo ra việc làm. Làng mạc đã hưởng lợi từ đó. Hạ tầng cơ sở được xây dựng. Đã có tài trợ. Và lời bảo đảm: nhà máy điện nguyên tử không nguy hiểm.
Vợ anh quê ở Naraha. Cho tới ngày 11 tháng Ba năm 2011, cha mẹ vợ của anh cũng đã sống ở đó. Bây giờ họ đang ở trong một chỗ tạm trú tại Tokyo. Họ xây dựng một cuộc sống mới khi nào và ở đâu, họ không biết điều đó. Trên bức ảnh Ichikawa chụp họ, họ đứng trên một con đường làng nhỏ, hơi lạc lõng trong phong cảnh, trước những cánh đồng ruộng lúa.
Từ 1998 cho tới 2006, Ichikawa đã chụp ảnh cuộc sống hoàn toàn bình thường, cuộc sống của những người nông dân, màu sắc biến đổi trong năm, mùa thu hoạch, thành quả, những sự việc nhỏ bé.
Bức ảnh làm tựa cho cuộc triển lãm “Ngày Thường”: một cánh đồng lúa vàng no nê, bông lúa căng tròn. Mây ti trên bầu trời xanh nhạt. Ở phía sau là những người nông dân đang thu hoạch vụ mùa theo lối thủ công. Người nữ nông dân với chiếc nón rơm và giày ủng cao su. Lúa đã tạo nên sự giàu có cho vùng đất này, rất lâu trước khi có nhà máy.
Ruộng lúa, xanh mượt mà, trong mùa Xuân. Cỗ máy bóc vỏ lúa đơn giản trong ngôi nhà nông dân. Lúa, lúc nào cũng là lúa trên những bức ảnh. Toàn bộ vùng Tohoku là “vựa lúa” hay “chén cơm” của Nhật Bản. (Tiêu thụ gạo trên đầu người ở Nhật là tròn sáu mươi kí lô hàng năm.) Nông nghiệp sẽ không còn có nữa trong thời gian có thể nhìn thấy trước được, trong phạm vi ba mươi kilômét quanh nhà máy điện nguyên tử.
Khi Ichikawa chụp những bức ảnh của anh, lúc đó, thế giới ở đây trong miền Bắc của nước Nhật vẫn còn lành lặn, rơm rạ sau khi thu hoạch và đập lấy lúa được cột lại với nhau thành những hình người rơm có tai thỏ. Vùng này đầy những hình người rơm đó trong mùa Thu. Có thể nhìn thấy chúng đứng đơn độc hay thành từng nhóm trên những bức ảnh. Và ở phía sau một nhóm hình người rơm đó, trong khoảng khắc anh bấm máy, có một chiếc xe buýt màu trắng chạy ngang qua, với vạch màu cam ở giữa. Ichikawa thích sự tương phản. Mãi sau này người anh vợ của anh mới nói rằng đó là chiếc xe buýt của nhà máy, chở công nhân trong vùng tới nhà máy. Chiếc xe buýt chạy ra khỏi bức ảnh, lúa đã được thu hoạch. Sau ngày 11 tháng Ba năm 2011, bức ảnh có một ý nghĩa mới.
Bắp cải xanh. Bắp cải trắng. Củ cải, vừa mới được lôi ra khỏi đất. Bí.
Người phụ nữ già ở lối vào nhà, với cái lưng còng gần chín mươi độ, người đã làm việc cả đời mình trên ruộng lúa. Người mẹ già của vợ Ichikawa. Từ nhiều tháng nay, bà, tám mươi tám tuổi, sống trong một chỗ tạm trú ở Tokyo. Ngồi ở đó, tôi tưởng tượng ra như thế, và chờ cho ngày qua đi, hết ngày này đến ngày khác. Nhìn ra cửa sổ của bà, thỉnh thoảng, xuống sa mạc thành phố, và khi bà đi ra khỏi cửa, thì không có ruộng lúa ở đó, ruộng lúa mà bà có thể làm việc một chút, như bà đã rất thích làm, để tiêu khiển. Không có một vườn rau nhỏ mà bà có thể lấy bữa ăn tối của bà từ đó. Bà ngồi đó và chờ đợi và suy nghĩ và biết rằng bà không còn được phép trở về nữa, ngay cả khi bà muốn, vì bà nghĩ rằng bà có thể mặc kệ tia phóng xạ, với tuổi tác của bà.
Bà sẽ còn phải đợi lâu; không có kế hoạch tái xây dựng ngôi làng của bà ở nơi nào cả, và nếu như rồi sẽ có một ngôi làng như vậy, một lúc nào đó, khi sự quan liêu ra được một quyết định, thì rồi sẽ không bao giờ trở lại được như xưa nữa.
Và liệu là bà có trải nghiệm được điều đó không, nói chung.
Những chiếc ủng cao su màu vàng, những chiếc ủng mà người nông dân trở về từ công việc đồng áng đã tháo ra và để ngay ngắn trước lối vào, trước khi họ bước vào gian phòng khách của họ trên tất thô, như thường lệ ở Nhật.
Ichikawa đã giữ lại những chiếc ủng đó trong các bức ảnh của anh, cũng như người phụ nữ trẻ ngồi trong ngôi nhà nông dân trên chiếc chiếu tatami ở trên sàn, ôm một đứa bé sơ sinh. Ở phía sau là một cái tủ com mốt rẻ tiền bằng nhựa, như có thể mua được chúng ở khắp nơi trong nước Nhật, chất đầy đồ đạt cho tới tận trên cao. Đó cũng là một bức ảnh, không thể nào đặc trưng hơn nữa cho ngày thường của nước Nhật.
Không chỉ bà mẹ già, toàn bộ gia đình vợ anh, tổng cộng sáu người, đã chạy trốn ra khỏi vùng cấm. Và ngay từ đầu đã không nhận được thông tin cụ thể nào hết, Ichikawa nói. Nhiều cư dân cũ muốn quay trở về, ít nhất là ở gần những căn nhà đã bị bỏ trống của họ. Bất an và lo âu ở những người có con nhỏ. Lo sợ cho những đứa bé. Vì tương lai của chúng. Tia phóng xạ – người ta không nhìn thấy nó, người ta không ngửi thấy nó. Nó có ở đó, và không ai có thể nói được rằng nó có tác động như thế nào trong một vài năm tới đây, Ichikawa thuật lại tinh thần của những người dân làng đã di tản.
Và thêm vào đó là nỗi lo về tài chính. Nhiều người không biết họ sẽ sống tiếp như thế nào. Một năm tiền bồi thường của chính phủ Nhật Bản, thời gian đầu, một vài tháng, tròn một ngàn euro mỗi tháng, rồi năm trăm euro, và sau đó? Bồi thường từ Tepco? Ichikawa nhún vai: “Chúng tôi không nói về việc đó.”
“Chúng tôi phải thay đổi lối sống của chúng tôi”, anh nói, chống năng lượng nguyên tử là chưa đủ. Hiện bây giờ thì tất cả những người mà anh có quan hệ với họ đều cũng như vậy. Nhất là giới nghệ sĩ, trí thức. Trong mùa Hè 2011, với những biện pháp và chiến dịch tiết kiệm năng lượng mà qua đó nước Nhật đã tiêu thụ năng lượng ít hơn ba mươi phần trăm, người ta đã nhìn thấy rằng điều đó là có thể mà hoàn toàn không có vấn đề. Không một ai phải chấp nhận những hạn chế cá nhân. Phung phí mới là vấn đề lớn và nhiều người đặt ra câu hỏi, liệu điều đó có thật hay không, cái mà chính phủ và ngành công nghiệp nguyên tử Nhật nói cho tới nay: rằng Nhật bản cần những nhà máy nguyên tử của nó, để mà tồn tại.
Ở lại trong ngôi làng quê hương Naraha cũng là tổ tiên trong những ngôi mộ của họ. Không ai được phép viếng thăm họ nữa. Những người sống không có nơi chốn để cầu nguyện cho họ. Người mẹ già, được cấy ghép vào thành phố lớn từ những cánh đồng lúa của bà, suy nghĩ về việc rồi thì bà có thể tìm thấy nơi an nghỉ cuối cùng ở đâu.
Judith Brandner
Phan Ba dịch
Sách đã được xuất bản trên Amazon: www.amazon.com/dp/B00G3436CG

‘Còn bức cung thì tiếp tục có oan sai như vụ ông Chấn’ & Quay lén, đánh lén, ăn bẩn lén và nói dối... công khai

2“Vì nhục dục”  là động cơ mà người ta đã gán cho người tù oan. Một động cơ thực ra cũng có thể gán cho bất cứ nam nghi phạm nào

“Ơn Đảng, Chính phủ, tôi đã được trở về với gia đình. Ơn bố, mẹ sinh ra chỉ có một lần nhưng lần này, Đảng và Chính phủ đã sinh ra tôi lần thứ hai”. Đây là lời mà người tù oan Nguyễn Thanh Chấn tâm sự với một tờ báo ngay sau khi từ trại giam trở về nhà.
Những lời nói “Ơn Đảng, ơn Chính phủ” mộc mạc thật thà của người tù oan khiến chúng ta trạnh lòng.
Có thể, nỗi uất hận sau 10 năm oan ức khiến ông không nhận ra một sự thật rằng chính lương tâm của kẻ giết người thật sự, khi bất ngờ ra đầu thú, mới là yếu tố quyết định cho tự do của ông ngày hôm nay. Vâng, sự thật dẫu có đắng cay, có phũ phàng đến thế nào thì vẫn phải viết rằng, chính lương tâm của kẻ giết người, chứ không phải các cơ quan tố tụng được trao quyền “Nhân danh nước cộng hòa…” mới cứu vớt ông khỏi cuộc đời oan khuất với một bản án chung thân.
Người ta từng viết về tên “tội phạm giết người này” rằng y “nổi tính trăng hoa”. Rằng “Những người hắn nhắm tới là phụ nữ bị “khiếm khuyết” và bất hạnh trong cuộc sống gia đình như chồng chết hoặc đã ly hôn chồng. Vì vậy, chị H không nằm ngoài danh sách tình ái của Chấn…Khi bị chị H phản đối kịch liệt. Lòng nhỏ nhen nổi lên và sợ xấu hổ với bà con xóm làng nên hắn ta đã xuống tay sát hại nạn nhân một cách dã man để che giấu hành vi bỉ ổi của mình”. Rằng “Chỉ vì nhục dục”.
Viết như thế, quả là trời không dung, đất không tha là đúng rồi.
Nhìn nhận lại toàn bộ vụ án cho thấy sau khi chị H bị giết chết một cách dã man vào ngày 15.8.2003, cơ quan điều tra phát hiện hai vết dấu chân trái dài 23cm, rộng 8,6cm và một vết chân phải dài 23,5cm rộng 9cm. Kết quả đo bàn chân của ông Chấn cho thấy chân trái ông Chấn dài 22cm, rộng 8,8cm, chân phải dài 23cm, rộng nhất 9,6 cm. Trong khi đó, lời khai của 3 nhân chúng cho thấy khoảng 19h30 ngày 15-8, ông Chấn còn đang lấy nước ở nhà chị V, và “hơn 20 phút đồng hồ, từ 19g đến 19g25, Chấn không chứng minh được mình làm gì, đi đâu và với ai”.
Ông Chấn được “mời lên làm việc”, và chỉ ngay sau đó lập tức bị bắt giữ. Và thật kinh ngạc, khi được “mời lên làm việc”, “Hắn cũng đã ghi rõ ràng sau khi gây án, nhận thức rõ hành vi tội ác của mình nên ra đầu thú để nhận sự khoan hồng của pháp luật. Biên bản tự thú này được kết thúc vào 18g30 sau 13 ngày xảy ra vụ án động trời tại tỉnh Bắc Giang”.
Chúng ta có các dữ kiện cho việc kết án chung thân về tội giết người như sau:
Tòa án chấp nhận kết quả so sánh dấu chân, coi đó là một trong những bằng chứng để buộc tôị khi cho rằng “Khi so sánh và đối chứng với kết quả xác định dấu chân của Nguyễn Thanh Chấn thuộc diện nghi vấn, về kích thước cơ học của hai dấu bàn chân bên phải và bên trái gần đúng kích thước những dấu vết để lại tại hiện trường của vụ án mạng đêm 15.8.2003″.
Nghi phạm không không chứng minh được mình làm gì, đi đâu và với ai trong khoảng thời gian xảy ra vụ giết người.
Và bản nhận tội của chính hung thủ.
Tại sao ông Chấn lại tự thú, lại nhận tội giết người thì có lẽ đúng là điều mà ai cũng biết là cái gì đó.
Không phải không có lý khi có người nói vụ án oan này là một nỗi nhục của ngành tư pháp từ địa phương tới TƯ. Một nỗi nhục mà có bồi thường bao nhiêu, có sửa sai như thế nào cũng không gột rửa được.
Có một chi tiết cần phải mở ngoặc nói thêm, trong khi hung thủ thật sự khai nhận giết người là để cướp tài sản thì người ta quy kết động cơ giết người của ông Chấn là “vì nhục dục”.
Giết người thì phải có động cơ. Và khi mà không tìm được động cơ thì cái động cơ dễ quy kết nhất cho nam nghi phạm là “vì nhục dục”. Đến đây, chắc bạn đọc cũng đã tự trả lời câu hỏi rằng vì sao trong suốt 10 năm qua, hàng trăm lá đơn gửi đi nhưng không có một ai đoái hoài, dù các cơ quan chức năng nói họ đã xem xét.
Không ngẫu nhiên, việc đầu tiên mà người tù oan Nguyễn Thanh Chấn đã làm, sau khi trở về nhà, là chắp tay trước bàn thờ cha mình. Một liệt sĩ.
Các bạn có thể tưởng tượng được không. Nếu không vì người cha đã hy sinh vì đất nước, thì có thể, bản án dành cho ông Chấn đã là tử hình trước một tội ác được coi là trời không dung, đất không tha.
Ơn Giời, hóa ra là ông còn có mắt, bởi người chết đi rồi thì nào còn có thể minh oan.

LẤP...LIẾM. (Ngó qua ngó lại rồi bình...)



Tôi phẫn nộ khi ông Nguyễn Minh Năng (chủ tọa phiên xét xử sơ thẩm đối với ông Nguyễn Thanh Chấn năm 2004) nói: “Tôi quên phiên xét xử đó rồi". Ừ thì ông quên, quên cho tới lúc cái phiên tòa thổ tả dìm cuộc đời oan nghiệt của một con người 10 năm, nay ló rạng ra ánh sáng, vô tội, thì chí ít, mẹ kiếp, ông- người chủ tọa cái phiên tòa thổ tả đó cũng phải nói một câu gì đó lọt tai, hay chí ít ông cũng phải chứng minh ông là con người chứ? Hả? Ông cầm tòa, ông nghiên cứu hồ sơ, ông chất vấn, ông thẩm vấn, ông điều khiển một phiên tòa " trọng án", bây giờ người ta vô tội mà ông liếm mép sủa một câu thế à? Ông sủa thế là ông muốn lấp sao? Ông ị ra hậu quả thì chí ít ông phải liếm cái vết nhơ đó nghe chửa?

Rồi hai hôm nay, báo chí đưa tin, phỏng vấn vị này vị kia xoay quanh cái khoản tiền đền bù cho ông Nguyễn Thanh Chấn 10 năm oan trái, rồi ai đền, đền bằng tiền ngân sách hay tiền cá nhân...cái đó chỉ là một thủ tục hành chính thôi giời ạ, cái chính là ở đây: Ai, kẻ nào, những kẻ nào bóp méo sự thật, nhồi cung, ép cung, mớm cung, hành xác người vô tội phải ký vào bản cung có tội? Và đáng ra lúc này, báo chí, các đại biểu quốc hội phải yêu cầu khởi tố, bắt ngay những kẻ đó vì có hành vi ép cung một công dân- dù chúng nó đã nghỉ hưu cũng bắt. Cái này mới chính, cái này mới là hành động thực sự để thượng tôn pháp luật. Dư luận, nhân dân, sự thật chờ là chờ cái này, đừng tính toán, cộng cộng trừ trừ mấy đồng bạc rách- ngay cả cái mức nửa tỉ bạc cũng là giẻ rách so với 10 năm oan trái của ông Chấn và gia đình ông, đừng có mà lấp đi sự thật kia, lấp đi những gương mặt tội ác kia, không được đâu, phải bắt những kẻ lợi dụng pháp luật biến trắng thành đen ấy liếm cho sạch bùn nhơ vào thanh danh đất nước mà chúng gây nên.

Hôm qua, Quốc hội thảo luận về dự thảo Luật phòng chống lãng phí, tiết kiệm, nhiều ý kiến quá hay, thẳng, xót xa. Vấn đề là, cái lãng phí khổng lồ nhất là ở người đã ký cái quyết định đầu tư, dự án, chỉ thị....đó. Đó là lãng phí gốc. Một khi kẻ ký cái quyết định lãng phí gốc cùng lắm chỉ là kiểm điểm, khiển trách sơ sơ dù vì nó nhà nước mất đứt hàng ngàn tỉ đồng, hàng trăm tỉ đồng, hàng chục tỉ đồng; một khi cái nguyên nhân gốc bị vô số những lập luận ngụy biện cố tình lấp đi, thì còn lâu mới trị được bệnh dịch của sự lãng phí. Cái nước mình, tiền công cứ hở ra là có thằng đớp, hở ra là có thằng liếm, cái thằng đớp, liếm rồi lấp đi đó lại chính là kẻ phồng má trợn mắt dạy cộng sự, dạy nhân viên đạo đức công chức, đạo đức cán bộ, tởm. Nhỉ? Rất tởm.
Rứa đó.
---
Chẳng cần đến ánh sáng mặt trời, chỉ là ngọn lửa nhỏ này cũng có thể soi rõ mặt những kẻ khốn của xã hội.
 Hình ảnh: LẤP...LIẾM.
(Ngó qua ngó lại rồi bình...)

Tôi  phẫn nộ khi ông Nguyễn Minh Năng (chủ tọa phiên xét xử sơ thẩm đối với ông Nguyễn Thanh Chấn năm 2004) nói: “Tôi quên phiên xét xử đó rồi". Ừ thì ông quên, quên cho tới lúc cái phiên tòa thổ tả dìm cuộc đời oan nghiệt của một con người 10 năm, nay ló rạng ra ánh sáng, vô tội, thì chí ít, mẹ kiếp, ông- người chủ tọa cái phiên tòa thổ tả đó cũng phải nói một câu gì đó lọt tai, hay chí ít ông cũng phải chứng minh ông là con người chứ? Hả? Ông cầm tòa, ông nghiên cứu hồ sơ, ông chất vấn, ông thẩm vấn, ông điều khiển một phiên tòa " trọng án", bây giờ người ta vô tội mà ông liếm mép sủa một câu thế à? Ông sủa thế là ông muốn lấp  sao? Ông ị ra hậu quả thì chí ít ông phải liếm cái vết nhơ đó nghe chửa?

Rồi hai hôm nay, báo chí đưa tin, phỏng vấn vị này vị kia xoay quanh cái khoản tiền đền bù cho ông Nguyễn Thanh Chấn 10 năm oan trái, rồi ai đền, đền bằng tiền ngân sách hay tiền cá nhân...cái đó chỉ là một thủ tục hành chính thôi giời ạ, cái chính là ở đây: Ai, kẻ nào, những kẻ nào bóp méo sự thật, nhồi cung, ép cung, mớm cung, hành xác người vô tội phải ký vào bản cung có tội? Và đáng ra lúc này, báo chí, các đại biểu quốc hội phải yêu cầu khởi tố, bắt ngay những kẻ đó vì có hành vi ép cung một công dân- dù chúng nó đã nghỉ hưu cũng bắt. Cái này mới chính, cái này mới là hành động thực sự để thượng tôn pháp luật. Dư luận, nhân dân, sự thật chờ là chờ cái này, đừng tính toán, cộng cộng trừ trừ mấy đồng bạc rách- ngay cả cái mức nửa tỉ bạc cũng là giẻ rách so với 10 năm oan trái của ông Chấn và gia đình ông, đừng có mà lấp đi sự thật kia, lấp đi những gương mặt tội ác kia, không được đâu, phải bắt những kẻ lợi dụng pháp luật biến trắng thành đen ấy liếm cho sạch bùn nhơ vào thanh danh đất nước mà chúng gây nên.

Hôm qua, Quốc hội thảo luận về dự thảo Luật phòng chống lãng phí, tiết kiệm, nhiều ý kiến quá hay, thẳng, xót xa. Vấn đề là, cái lãng phí khổng lồ nhất là ở người đã ký cái quyết định đầu tư, dự án, chỉ thị....đó. Đó là lãng phí gốc. Một khi kẻ ký cái quyết định lãng phí gốc cùng lắm chỉ là kiểm điểm, khiển trách sơ sơ dù vì nó nhà nước mất đứt hàng ngàn tỉ đồng, hàng trăm tỉ đồng, hàng chục tỉ đồng; một khi cái nguyên nhân gốc bị vô số những lập luận ngụy biện cố tình lấp đi, thì còn lâu mới trị được bệnh dịch của sự lãng phí. Cái nước mình, tiền công cứ hở ra là có thằng đớp, hở ra là có thằng liếm, cái thằng đớp, liếm rồi lấp đi đó lại chính là kẻ phồng má trợn mắt dạy cộng sự, dạy nhân viên đạo đức công chức, đạo đức cán bộ, tởm. Nhỉ? Rất tởm. 
Rứa đó.  
---
Chẳng cần đến ánh sáng mặt trời,  chỉ là ngọn lửa nhỏ này cũng có thể soi rõ mặt những kẻ khốn của xã hội.

Tại khách quan thì rút cái gì?.

Khách quan là nói đến những cái tồn tại ngoài ý thức con người. Ví dụ một người mất chân không thể trở thành cầu thủ bóng đá. Anh không trở thành cầu thủ bóng đá được vì nguyên nhân khách quan là anh không có chân, chứ không phải tại anh không chịu rèn luyện.
Trái nghĩa với khách quan là chủ quan.
Theo báo Người lao động, tại buổi họp báo sáng nay, 5/11, trả lời về trách nhiệm của các cơ quan tố tụng về vụ bỏ tù oan ông Nguyễn Thanh Chấn, ông Nguyễn Việt Hùng nói: “Đây cũng là một cái sai sót khách quan. Đây là một bài học, VKSND Tối cao sẽ họp tất cả ban ngành để rút kinh nghiệm”.
Bỏ tù oan người ta, nhận được đơn kêu oan ngay từ năm 2004, thế mà lùng bùng tận bây giờ mới tạm thả người ta ra mà lại bảo là sai sót khách quan. Nếu do khách quan thì có gì mà phải rút kinh nghiệm.
Người ta đã quen đổ tất cả những cái sai lầm, cái tệ hại cho khách quan. Đất nước đì đẹt thì tại chiến tranh, tham nhũng thì đổ tại cơ chế, đến vụ tày trời như vinasin cũng chẳng có ai phải chịu trách nhiệm cả.
Vụ ông Chấn, trước hết là phải giải oan, bồi thường cho người ta, sau đó là kiểm điểm trách nhiệm cá nhân, truy đến cùng xem ai sai, sai ở chỗ nào chứ không phải chỉ rút kinh nghiệm chung chung. Căn cứ vào đó mà thi hành kỷ luật, mà cách chức, thậm chí vào tù thay cho ông ấy chứ đừng đổ tại khách quan nữa.
 5/11/2013
Tường Thụy

Quay lén, đánh lén, ăn bẩn lén và nói dối... công khai


Bùi Hải - theo Trí Thức Trẻ

(Soha.vn) - Sự kiện một cán bộ Đài PTTH Long An đặt máy quay lén trong phòng vệ sinh nữ, dư luận có ồn ào đến đâu thì có lẽ cũng chỉ chứng tỏ dấu hiệu bệnh hoạn của một cá nhân.

Nhưng khi ông sếp to nhất của anh này đứng ra bênh vực nhân viên bằng những lý lẽ mà học sinh cấp 1 cũng thấy buồn cười, thì sự bệnh hoạn cá nhân ấy đã biến thành "bệnh hoạn có có tổ chức".
Hãy đọc những lời nói dối công khai của ông này nhằm bào chữa cho hành vi thấp kém ấy: Nam nhân viên vô tình đi nhầm vào phòng vệ sinh nữ, vô tình làm rơi máy quay khiến nút quay vô tình bật lên. Sợ ướt máy quay nên anh ta vô tình trèo lên bồn cầu để một lần nữa vô tình đặt chiếc máy quay lên cửa thông gió cách mặt đất đến hơn 2m. Ở vị trí ấy, chiếc máy chỉ việc “vô tình lần chót” để quay được toàn cảnh nhà vệ sinh của chị em.
Thế nhưng, cái sự len lén bảo vệ hành vi sai trái của thuộc cấp của ông trưởng lại vô tình bị ông phó Đài này vạch trần, khi khẳng định: Người đặt máy quay lén đã “trình bày trước UBKT, camera này do một người bạn tặng. Vì tò mò, muốn thử máy nên anh ta đã có những hành vi sai trái. Anh ta đã khóc và xin lỗi mọi người trong cơ quan, đồng thời nộp đơn xin nghỉ việc để không ảnh hưởng đến uy tín cơ quan”.
Giám đốc công an tỉnh cũng vô tình vạch trần lời nói dối công khai của sếp lớn, khi khẳng định công an không hề điều tra, thực nghiệm hiện trường vụ này – như lời ông sếp phát tán rộng rãi trên báo chí.
Dù bị dư luận phẫn nộ, nhưng xét về mặt tư cách, thì người đặt máy quay lén vẫn chứng tỏ mình còn có lòng tự trọng tối thiểu khi nộp đơn xin nghỉ việc – điều mà ông Chánh thanh tra sở Y tế Kon Tum không thể làm nổi.
Ông Chánh – một người chuyên đi thanh tra về y đức - đã cầm cuốc bổ tóe máu đầu hàng xóm trong một tranh chấp ngoài công sở. Nhưng ông này đã biến cú bổ cuốc công khai hàng triệu người biết, thành cú đánh lén, khi ông công khai nói dối trên thông  tin đại chúng: Đổ tội cho em trai mình là người bổ cuốc.
Chỉ khi biết con voi không “chui qua được lỗ kim”, ông Chánh lại thẳng thừng tuyên bố “không có gì phải đáng tiếc về hành động của mình”. Trắng trợn như vậy, nhưng ông không quên công khai đổ tội cho cái cuốc và cái đầu của bà hàng xóm: “Tôi chỉ cầm cán cuốc đứng giữa đám đông và cán cuốc va thế nào đó vào đầu bà Trâm”.
Nếu hình ảnh côn đồ đó không được quay lại và tung lên mạng, rất có thể một ngày gần nhất, ông Chánh lại ung dung, công khai đăng đàn ở một diễn dàn nào đó để lên án sự vô nhân tính của bác sĩ Cát Tường và lên lớp về y đức cho cán bộ nơi ông đến thanh tra.
Vụ án ông Nguyễn Thanh Chấn ở Bắc Giang bị tù oan đằng đẵng 10 năm đang chấn động dư luận, là kết quả của những phiên tòa công khai, phiên luận tội công khai của viện kiểm sát và kết luận điều tra công khai của công an sở tại.
Nhưng để đi đến sự “công khai chết người ấy”, chắc chắn phía sau có bóng dáng của nhiều “đòn” tra khảo lén, lấy cung lén, ép tội lén để biến một người lương thiện nghèo khổ thành kẻ sát nhân dư thừa lời phỉ báng của xã hội. Một trong những đòn lén ấy được ông Chấn kể lại trong tiếng nghiến răng uất nghẹn: “Có cán bộ thì hỏi, người tay cầm dao, lăm lăm đe doạ, có người còn cầm búa giơ lên dọa nếu không khai thì cho chết. Khi bị tạm giam, có đêm tôi bị chuyển 3 - 4 buồng”. Tất cả các việc làm lén ấy không bao giờ được phơi ra trong các phiên tòa công khai xử ông Chấn.
Sự dối trá khủng khiếp của các cơ quan bảo vệ pháp luật này đã đẩy người đàn ông lương thiện ấy vào cảnh tự sát hai lần trong tù nhưng không thành; đẩy người vợ tháo vát thành một bệnh nhân của bệnh viện tâm thần; đẩy bốn đứa con ra khỏi trường học vì không chịu nổi búa rìu dư luận. Chắc chắn đến cuối đời, ông Chấn và gia đình cũng không thể nào quên quãng đời oan nghiệt ấy, nhưng vị thẩm phán xử tội ông thì lại quên tiệt: “Tôi quên phiên xét xử đó rồi. Có gì nhà báo cứ xem bản án. Giờ tôi không trả lời gì được đâu”. Ông quan tòa có lén quên, thì những người như GS Văn Như Cương vẫn công khai nhớ. Ông Cương nói: “Xét về mặt lương tâm con người, thì kẻ đầu thú nói trên dẫu sao cũng cao hơn một bậc so với các ngài quan tòa”.
Ngày mai, cùng ngày xét tử tái thẩm vụ án oan của ông Chấn thì một trong 10 đại án tham nhũng cũng được đưa ra xét xử. Đó là vụ tham nhũng gây thiệt hại 500 tỉ đồng ở Công ty cho thuê Tài chính 2 thuộc NHNN&PTNT.
Ông Chấn bị tù oan 3.686 ngày. Mỗi ngày ông được bồi thường 115.000đ cho những đau khổ tận cùng mà ông và gia đình phải gánh chịu.
Sự thật là số tiền được bồi thường cho cả 10 năm ấy, không bằng một cái “súc miệng lén” của những chuyên gia lén ăn bẩn trong vụ hô biến 500 tỉ đồng kia.
Đau đớn nhất là trong xã hội vẫn còn “một bộ phận không nhỏ” công bộc tiếp tục “xúc miệng lén” trong khi thao thao nói dối công khai về đạo đức và công lý.

‘Còn bức cung thì tiếp tục có oan sai như vụ ông Chấn’

Đôi lời: Có một thực tế nghiêm trọng mà hầu như chưa bao giờ được nhắc đến trong “bảng vàng thành tích” của các cơ quan pháp luật, đặc biệt là ngành công an, đó là “bệnh thành tích”.
Cái bệnh này ở ngành nào cũng có thể dễ dàng được bàn tới, thế nhưng, ở cái ngành mà nếu đem kể công ra là “tống được bao nhiêu thằng/ con vào tù”, “cho bao nhiêu đứa dựa cột” vì buôn ma túy, vì giết người, v.v.. thì nghe ghê quá. Ấy thế mà nó vẫn cứ âm thầm diễn ra, chẳng ai thắc mắc, nghi vấn, nhất là ở nơi mà lẽ ra phải là lực lượng kiểm soát quyền lực nhất thứ “bệnh” này – Quốc hội.  
Quốc hội không làm được, phần vì … hãy “tiên trách kỷ, hậu trách nhân”, các vị cũng bị “bệnh thành tích”, mà chẳng mấy ai dám chỉ ra cả. Mỗi kỳ họp, nghe oai lắm, bàn thảo thông qua hàng chục dự luật, trong đó bao nhiêu là luật ban hành chỉ cho nó … oai, lời lẽ nghe choang choang như nghị quyết đảng, và hiếm thấy được đem ra thực thi. Đến ngay như Luật Báo chí, quan trọng vậy, mà đã bao giờ thấy xử vụ nào vi phạm luật này chưa? Rồi chất vấn các bộ trưởng, … có bao giờ thấy chất vấn về tình trạng án lập ra để có thành tích, lĩnh thưởng, lên lon, … rồi có đi thị sát các trại tù, xem đời sống và lắng nghe khiếu nại oan sai?
Khẳng định kiểu vô trách nhiệm như ông Bộ trưởng Tư pháp dưới đây, rằng là việc kết án đó “không phải là cố ý”, cũng dễ hiểu, bởi vì họ “cùng một duộc” cả, cùng có “bệnh thành tích”. 
Thế nên sâu thẳm đằng sau những vụ án gây khổ đau ngất trời cho dân như vụ này, còn là thứ “bệnh” đó. Hãy sửa nó từ Quốc hội cho tới các cơ quan mà nó có quyền chất vấn, kiểm tra!
BT
VNExpress
Thứ ba, 5/11/2013 16:15 GMT+7
Theo luật sư Trương Trọng Nghĩa, chừng nào còn bức cung, ép cung và nguyên tắc suy đoán vô tội còn không được áp dụng một cách triệt để thì chừng ấy vẫn còn những trường hợp như ông Nguyễn Thanh Chấn.
Sáng 5/11, giờ giải lao bên hành lang Quốc hội sôi nổi bởi hàng loạt câu hỏi được đặt ra xung quanh vụ án của ông Nguyễn Thanh Chấn. Theo luật sư Trương Trọng Nghĩa (đại biểu TP HCM), trong nhiều trường hợp quyền được luật sư bảo vệ khi bị tạm giữ, tạm giam đã không được bảo đảm. Bên cạnh đó là việc có định kiến, thành kiến với bị can, bị cáo, không theo tư duy suy đoán vô tội và dễ dẫn đến tình trạng bức cung và ép cung.
1“Chúng ta phải xử lý đúng theo nguyên tắc bị can không có tội cho đến khi có bản án của tòa án có hiệu lực. Nếu như làm đúng như vậy thì sẽ hạn chế được rất nhiều oan sai như trường hợp của ông Chấn”, luật sư Nghĩa nói.
Bình luận về trường hợp cụ thể nói trên, đại biểu Nghĩa không cho đây là trường hợp cá biệt, cũng không phải chỉ có ở Việt Nam. Ở nhiều quốc gia, việc bị bức cung, ép cung dễ khiến người không có tội cũng phải nhận để qua giai đoạn điều tra, thẩm vấn.
“Vì vậy, chừng nào còn bức cung, ép cung, chừng nào nguyên tắc suy đoán vô tội còn không được áp dụng một cách triệt để thì chừng ấy vẫn còn những trường hợp như ông Chấn”, vị đại biểu là Phó Chủ nhiệm đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh nói.
Để quy trách nhiệm trong vụ việc này, luật sư Nghĩa cho rằng phải xem xét đầy đủ nguyên nhân do nghiệp vụ điều tra, hay do tiêu cực; do thiên vị hay điều kiện giám định chưa có…
Chia sẻ quan điểm với luật sư Trương Trọng Nghĩa, Bộ trưởng Tư pháp Hà Hùng Cường, nhận định nguyên nhân dẫn đến vụ việc không phải cố ý mà do nguyên tắc suy đoán vô tội không được thực hiện, áp dụng chặt chẽ mà chỉ xử theo lời khai, tài liệu điều tra.
“Phải nói rằng không có nền tư pháp nào chính xác 100% nhưng để lọt những cái sơ đẳng này2 tôi cho là do việc tranh tụng ở tòa chưa được thấu đáo”, Bộ trưởng Tư pháp nói.
Cũng theo ông, vụ việc do đã có bản án nên trách nhiệm là của tòa án. Trước câu hỏi về vấn đề bồi thường cho ông Chấn, Bộ trưởng Hà Hùng Cường cho biết, tiền bồi thường lấy từ ngân sách. Còn cá nhân để xảy ra sự việc có trách nhiệm phải bồi hoàn.
Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc thì nêu yêu cầu điều quan trọng trong công tác phòng chống tội phạm là không được để lọt tội phạm nhưng kiên quyết không để oan sai cho người dân.
Trước câu hỏi về dấu hiệu ép cung đối với ông Nguyễn Thanh Chấn, Phó thủ tướng nói: “Theo quy định của pháp luật, ép cung là trái pháp luật, cần có biện pháp ngăn chặn hiệu quả để pháp luật được thực thi mọi lúc mọi nơi, kể cả trong trại giam”.
Đại biểu Dương Trung Quốc: “Để hạn chế tình trạng án oan, tôi cho rằng phải minh bạch mọi thứ trong quá trình xét xử, đồng thời phải tạo điều kiện cho các bị can được hỗ trợ tư pháp, vì thực tế là một phần lớn họ không có điều kiện tự bảo vệ mình. Lần này có cơ hội chất vấn Chánh án TAND Tối cao thì tôi sẽ chất vấn về vấn đề này.Theo tôi, quy trình tố tụng phải thay đổi, mà muốn thay đổi thật sự thì không có gì khác là phải nâng cao quyền giám sát của nhân dân. Câu chuyện này (vụ ông Nguyễn Thanh Chấn) làm rúng động dư luận là vì một loạt các vấn đề về cơ chế và trách nhiệm. Sắp tới xét xử đúng người đúng tội và giải oan cho ông Chấn thì phải đền bù, mà tiền đền bù lấy từ công quỹ nhà nước, chứ không phải những người làm sai bỏ tiền ra đền bù”.
Nguyễn Hưng

Ngày mai xử tái thẩm vụ “chung thân do giết người”

nguyenthanh chanHôm qua , 4 tháng 11 dư luận lại một phen rúng động khi Viện kiểm sát tối cao ra lệnh trả lại tự do cho anh Nguyễn Thanh Chấn vì đã bị oan sai trong vụ án giết chị Nguyễn Thị Hoan cách đây hơn 10 năm. Hơn 10 năm ngồi tù khi không có tội là một khoảng thời gian rất dài trong đời một con người . Trong khi đó người vợ ở nhà thành tâm thần, bốn đứa con đều thất học. Nếu không phải là con liệt sĩ, chắc Nguyễn Thanh Chấn đã gặp người cha nơi suối vàng. Và Viện kiểm sát tối cao sẽ không có cơ hội sửa sai .

Vậy hãy xem họ sửa sai như thế nào ?

Hôm nay ngày 5 tháng 11, bà Nguyễn Thị Yến Vụ trưởng Vụ 3 Viện KSNDTC cho biết sẽ xử tái thẩm vụ “chung thân do giết người” vào ngày mai tức 6-11. Đối tượng bị mang ra xét xử là Lý Nguyễn Chung , sau 10 năm lẩn tránh tội phạm, khi không chịu nổi sự trừng phạt của Tòa án lương tâm đã ra đầu thú . Còn ông Chánh văn phòng Viện KSNDTC Nguyễn Việt Hùng thì nói một câu xanh rờn “ Đây là sai sót khách quan. Viện KSNDTC sẽ họp tất cả các ban ngành để rút kinh nghiệm”
Không xin lỗi, không bồi thường, đổ tại khách quan, chỉ rút kinh nghiệm. Lũ quan lại vô lương ở một cơ quan tư pháp tối cao chỉ có thể nói vung nói vít như vậy khi Hiến pháp Việt Nam chưa thông qua Tam quyền phân lập. Tất cả xử theo chỉ thị của Đảng –cái mà ta hay gọi là “án bỏ túi”. Và như vậy sẽ còn có nhiều bản án oan sai như Nguyễn Thanh Chấn  .
Vâng ! Biết bao bản án oan ức đã bị tuyên mà các luật sư chỉ là người chứng kiến các oan sai nhưng  không thể cãi được , đúng hơn là không được cãi . Hay nói cách khác sự tranh tụng chỉ là màn kịch lừa dối công luận trong nước và quốc tế
Trước khi ra Tòa xét sử, các bị can đã trải qua những cuộc hỏi cung, ép cung , bức cung liên miên và nhiều người đã không chịu nổi phải nhận cho qua hay lên cơ quan truyền thông xin lỗi này nọ để mong được hưởng lượng khoan hồng của Đảng và Chính phủ . Từ Lê Công Định đến Đoàn Văn Vươn đều như thế cả . Cứng đầu như Cù Huy Hà Vũ hay Điếu cày thì chịu những hình phạt thuộc khung nặng nhất có thể .
Vì thế không lấy gì làm lạ khi hôm nay trả lời phỏng vấn của một tờ báo, tù nhân lương tâm Nguyễn Thanh Chấn đã mở đầu câu chuyện bằng lời “ cảm ơn Đảng và Chính phủ” . Thật là chua chát. Cứ làm như nếu không có Đảng và Chính phủ ra tay thì Chấn còn tù dài dài . Cứ làm như là người xử oan sai là mấy ông chánh án, thẩm phán nay đã nghỉ hưu và các công bộc một thời của dân đã trơ trẽn nói “lên Tòa án tối cao mà hỏi. Chúng tôi xử , Tòa án tối cao công nhận tức là chúng tôi xử đúng”. Đảng, Chính phủ không liên quan gì đến phi vụ này . Còn lời thú tội của Lý Nguyễn Chung mà nếu không có nó sẽ không bao giờ Chấn nhìn thấy ánh sáng của tự do thì bị lờ tịt ! Đoàn Văn Vươn sau khi bị mức án theo anh là tương đối nhẹ cũng đã nói lời biết ơn Đảng , Chính phủ . Anh có biết chăng Đảng và Chính phủ đã run sợ trước trái bom Đoàn Văn Vươn và xử nhẹ để làm giảm sức ép của dư luận như thế nào không. Phương Uyên cũng vậy . Nhưng Phương Uyên là người có học, có chính kiến nên đã không nói lời cám ơn thể hiện khí phách của một người trẻ . Vậy mà Tòa phải xử án treo cho cô ta đó . Sở dĩ Uyên dám dũng cảm như vậy vì cô biết việc làm của cô là chính nghĩa và đằng sau cô là cả triệu người Việt Nam yêu nước
Sau năm 1954, Đảng chủ trương cải cách ruộng đất theo mô hình  cách mạng  thổ địa của người bạn 16 chữ vàng và 4 tốt. Hàng vạn “địa chủ, phú nông” đã bị giết oan . Sau đó Đảng đã tiến hành  sửa sai nhưng đã quá muộn và vết nhơ xử bắn những người đồng chí sẽ không bao giờ xóa được trong lịch sử bạo lực cách mạng Việt Nam
Viết đến đây, tôi bỗng nhớ đến bài hát “Người Mèo ơn Đảng “ do một nhạc sĩ người Kinh sáng tác . Tác giả đã “nói hộ” tình cảm “người Mèo ơn Đảng suốt đời “không biết còn sống không để chứng kiến xe công an hốt trong đêm bà con người Mèo ở các tỉnh phía Bắc về tập trung ở vườn hoa Mai Xuân Thưởng để đòi lợi quyền . Những dân oan này không biết có biết tiếng Kinh để nói câu “ơn Đảng ơn Chính phủ” không khi nhịn đói nhịn khát từ Cao Bằng Bắc Kạn quê hương cách mạng về đây khiếu kiện .
Lạy trời, ngày mai khi chính thức được trả lại tự do, tại Tòa,  Nguyễn Thanh Chấn không nói câu cám ơn Đảng và Chính phủ mà đòi bồi thường xứng đáng cái mà anh ta đã mất vì những sai trái Đảng và Chính phủ thông qua các quan chức quan liêu đã gieo rắc lên gia đình anh ta . Để họ phải rút kinh nghiệm bằng hình thức kỉ luật nặng nề và nhiều tỉ đồng đến bù .

Các lý lẽ ủng hộ và chống đối hình phạt tử hình.

Lời dẫn Cùi Các: Đươc biết ông Nguyễn Thanh Chấn thoát được án tử hình bởi là vì ông là "con liệt sĩ". Giả sử ông không phải là con liệt sĩ thì khi đó người ta tuyên cho ông án tử hình, thì không biết giờ này hệ thống tố tụng của nền tư pháp sẽ đối diện ra sao trước vong linh của ông Chấn và công luận? Lấy gì để bồi thường cho mạng sống của ông, hay là sẽ "ém" luôn cho xong chuyện? 
Bởi vậy, pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới đã bãi bỏ hình phạt tử hình đơn giản cũng vì lý do tư pháp khi xét xử không phải lúc nào cũng đúng, mà đều có khả năng mắc sai sót dẫn đến tử hình người vô tội. Vì thế nếu tuyên án tử hình, mà sau này phát hiện ra oan sai họ chẳng biết lấy gì mà đền, nên đã loại bỏ án tử hình để hạn chế rủi ro.
Qua trường hợp của ông Chấn biểu lộ sự yếu kém của nền tư pháp Việt Nam là như thế nào, do đó bãi bõ án tử hình ở Việt Nam là điều cần thiết để hạn chế rủi ro như trên, chứ chưa cần nói đến lý do vì quyền con người.

Để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này, Blog Cùi Các xin giới thiệu bài viết của cô Nguyễn Trang Nhung - một nhà hoạt động pháp lý tại Việt Nam về "các lý lẽ ủng hộ và chống đối hình phạt tử hình". Bài viết này nằm trong loạt bài thứ 2 về "hình phạt tử hình" được đăng 5 kỳ trên Talawas vào năm 2010. 


Nhà hoạt động pháp lý Nguyễn Trang Nhung đại diện cho tiểu thương chợ Long Khánh đối thoại với chính quyền

Bài viết nói về các lý lẽ ủng hộ và chống hình phạt tử hình, đồng thời điểm sơ qua các quan điểm của các tôn giáo về hình phạt. Các lý lẽ ủng hộ và chống được tổng hợp từ một số nguồn chính[1], xen lẫn với một vài lý lẽ mà người viết thu được từ những người xung quanh.
I. Lý lẽ ủng hộ
1. Sự trừng trị hay công lý: Những người phạm tội xứng đáng bị trừng phạt một cách tương xứng với mức độ nghiêm trọng của tội phạm. Công lý thực sự đòi hỏi con người phải gánh chịu sự trừng phạt do những việc làm sai trái của mình. Mỗi phạm nhân phải nhận cái tương xứng với tội phạm mà họ gây ra, và đối với một kẻ giết người thì cái tương xứng đó là cái chết.
2. Tác dụng ngăn cản: Xử tử những kẻ giết người đã bị kết án sẽ ngăn cản những ai có thể trở thành kẻ giết người trong tương lai khỏi giết người. Lý lẽ này gặp sự phản bác rằng tác dụng ngăn cản của hình phạt tử hình là không thể chứng minh.
3. An toàn cho xã hội: Xử tử những kẻ giết người sẽ tránh được khả năng những kẻ giết người này phạm tội về sau. Nhiều người cho rằng lý lẽ này không đủ thuyết phục để lấy đi mạng sống của phạm nhân, và lập luận rằng có những cách khác để bảo đảm phạm nhân không tái phạm, chẳng hạn như bỏ tù chung thân vĩnh viễn. Mặc dù có những trường hợp phạm nhân trốn thoát khỏi tù và lại giết người song những trường hợp như vậy rất hiếm. Nhưng một số người khác không cho rằng cách này bảo vệ xã hội một cách thỏa đáng. Một phạm nhân có thể không còn nguy hiểm đối với cộng đồng, nhưng vẫn nguy hiểm đối với các cai tù và các tù nhân khác. Xử tử phạm nhân sẽ loại bỏ mối nguy hiểm này.
4. Tổn phí: Tổn phí cho án tù chung thân tốn kém hơn tổn phí cho án tử hình. Lý lẽ này đúng ở một số nước và sai ở một số nước khác, cho nên cũng có lý lẽ ngược lại, được dùng bởi những người phản đối hình phạt tử hình, rằng tổn phí cho án tù chung thân ít tốn kém hơn. Đối với một số người phản bác lý lẽ về tổn phí nói chung, thì công lý không thể được đong đếm bằng tiền bạc.
5. Gia đình nạn nhân: Nhiều người lập luận rằng hình phạt tử hình mang lại sự giải quyết thỏa đáng cho gia đình nạn nhân. Đây là một lý lẽ khá hời hợt, bởi mỗi gia đình có phản ứng khác nhau. Vì một số gia đình không cảm thấy cái chết của phạm nhân mang lại sự giải quyết thỏa đáng, nên lý lẽ này không thể biện minh cho hình phạt tử hình.
6. Khích lệ trợ giúp cảnh sát: Thương lượng nhận tội (plea bargaining) được dùng ở hầu hết các nước trên thế giới. Nó là một tiến trình qua đó phạm nhân được giảm án với điều kiện trợ giúp cảnh sát. Nếu như án có thể là tử hình, phạm nhân có thể được khuyến khích một cách mạnh mẽ nhất để cố gắng được giảm án, thậm chí là án tù chung thân vĩnh viễn, do đó hình phạt tử hình là một công cụ hữu ích cho cảnh sát. Đây là một lý lẽ yếu, nó khá giống với lý lẽ cho rằng tra tấn có thể được dùng như một công cụ hữu ích cho cảnh sát trong quá trình điều tra tội phạm.
II. Lý lẽ chống
1. Giá trị cuộc sống: Cuộc sống của con người là giá trị. Điều này tất nhiên là đúng. Một số người phản đối hình phạt tử hình cho rằng cuộc sống của con người giá trị đến nỗi ngay cả những kẻ sát nhân tồi tệ nhất cũng không nên bị tước đoạt cuộc sống, theo đó, giá trị cuộc sống của một phạm nhân không thể bị hủy hoại bởi hành vi tồi tệ mà phạm nhân gây ra. Một số người phản đối khác không đi xa như vậy, họ cho rằng cuộc sống của con người cần phải được bảo toàn, trừ phi có lý do rất đúng đắn để không bảo toàn cuộc sống của ai đó.
2. Quyền được sống: Mọi người đều có quyền được sống không thể chuyển nhượng, thậm chí cả những kẻ giết người. Kết án tử hình một người và xử tử người đó là xâm phạm quyền được sống. Lý lẽ này cũng giống như lý lẽ trên, song được nhìn từ góc độ nhân quyền. Những người phản bác lý lẽ này cho rằng, một người có thể, do những hành động của mình, đánh mất các quyền con người, và khi phạm tội giết người, người đó đã đánh mất quyền được sống, chẳng hạn: một người đánh mất quyền được sống nếu người đó bắt đầu một cuộc tấn công sát hại và cách duy nhất để nạn nhân tự cứu mình là giết kẻ tấn công.
3. Xử tử người vô tội: Lý lẽ phổ biến nhất và thuyết phục nhất phản đối hình phạt tử hình là người vô tội có thể bị xử tử do những sai sót hay khiếm khuyết của hệ thống tư pháp. Nhân chứng, công tố viên, bồi thẩm viên đều có thể mắc sai sót, thêm vào đó, khiếm khuyết của hệ thống tư pháp khiến cho việc kết án tử hình người vô tội là không thể tránh khỏi. Một ví dụ rất rõ nét về điều này là tại Mỹ, có 116 người bị kết án tử hình được biết là vô tội kể từ năm 1973 và đã được hủy án tử hình. Thời gian trung bình mà các phạm nhân chờ cho đến khi được giải tội là 9 năm.[2]
4. Sự trừng trị là sai: Nhiều người cho rằng sự trừng trị là sai về đạo đức hoặc có vấn đề trong ý niệm và thực tế.
Sự trả thù: Lý lẽ chính được đưa ra ở đây là sự trừng trị là một dạng của sự trả thù. Sự trừng trị khác với sự đáp trả chính đáng, chẳng hạn, trong trường hợp tự vệ. Hình phạt tử hình không phải là biện pháp tự vệ mà là biện pháp trả thù. Do vậy, hình phạt tử hình là không thể chấp nhận được. Tuy nhiên, lý lẽ này có vẻ đi hơi xa. Luật pháp vốn gắn với sự trừng trị. Và sự trừng trị đúng đắn được thiết đặt nhằm tái lập công lý có thể được phân biệt một cách dễ dàng với sự trả thù.
Sự trừng trị và người vô tội: Xử tử người vô tội là một vấn đề đối với lý lẽ trừng trị. Nếu người vô tội có nguy cơ nghiêm trọng bị xử tử thì một trong những nguyên lý chính của sự trừng trị – rằng con người nhận những gì họ xứng đáng (và chỉ những gì họ xứng đáng) – bị xâm phạm bởi việc thi hành hình phạt tử hình tại Mỹ và những nước xảy ra sai lầm trong xét xử.
Không được áp dụng để trừng trị: Một số luật sư lập luận rằng hình phạt tử hình không thực sự được áp dụng như sự trừng trị đối với tội giết người, hoặc thậm chí không thống nhất đối với một loại tội giết người cụ thể. Họ cho biết, tại Mỹ, ít nhất, chỉ một thiểu số những kẻ giết người bị hành quyết và hình phạt tử hình được áp dụng đối với một nhóm ngẫu nhiên các phạm nhân được chọn một cách thất thường. Do đó, dùng sự trừng trị để biện minh cho hình phạt tử hình là không phù hợp. Lý lẽ này không có giá trị trong một xã hội mà hình phạt tử hình được áp dụng một cách thống nhất cho các loại tội giết người cụ thể.
Trừng trị nặng nề: Với một số người, sự trừng trị trong trường hợp hình phạt tử hình là không công bằng, bởi sự chịu đựng của phạm nhân trước khi hành quyết có thể nặng nề hơn sự chịu đựng của nạn nhân của phạm nhân. Một số khác cho rằng lý lẽ trừng trị là sai lầm bởi vì hình phạt tử hình là ‘trừng phạt gấp đôi’ – hành quyết và chờ hành quyết, nên không cân xứng với tội phạm. Nhiều phạm nhân phải chờ hành quyết trong một thời gian dài, chẳng hạn, tại Mỹ, thời gian chờ trung bình là 10 năm. Tuy nhiên, chờ hành quyết trong một thời gian dài không phải là một đặc tính cố hữu của hình phạt tử hình; một số nước xử tử phạm nhân trong vòng vài ngày kể từ sau khi kết án tử hình.
Trừng trị không đủ: Lý lẽ này ngược với lý lẽ trên. Một số người tin vào ý niệm sự trừng trị phản đối hình phạt tử hình bởi hình phạt tử hình là sự trừng trị không đủ. Họ lập luận rằng đối với phạm nhân, tù chung thân vĩnh viễn là hình phạt nặng nề hơn so với cái chết không đau đớn sau một thời gian ngắn bị giam giữ trong tù. Một ví dụ cho lý lẽ này là đối với những người lập kế hoạch đánh bom tự sát, việc hành quyết sẽ khiến họ trở thành người cảm tử như họ mong muốn.
5. Không có tác dụng ngăn cản: Hình phạt tử hình không có vẻ ngăn cản được con người phạm các tội bạo lực nghiêm trọng. Có sự đồng thuận chung giữa các nhà khoa học xã hội là tác dụng ngăn cản của hình phạt tử hình là không thể chứng minh. Vào năm 1988, một nghiên cứu được tiến hành cho Liên Hợp Quốc để xác định liên hệ giữa hình phạt tử hình và tỷ lệ các vụ giết người, nghiên cứu sau đó được cập nhật vào năm 1996, kết luận: “…nghiên cứu đã thất bại trong việc đưa ra bằng chứng khoa học rằng các vụ hành quyết có tác dụng ngăn cản hơn so với án tù chung thân. Những bằng chứng như vậy không có vẻ là sẵn có. Toàn bộ chứng cứ không hỗ trợ lý thuyết ngăn cản. Chìa khóa cho việc ngăn cản thực sự và đúng đắn là tăng khả năng phát hiện, bắt giữ và kết án” (Tổ chức Ân xá Quốc tế).[3]
Thực tế, không thể kiểm nghiệm tác dụng ngăn cản của hình phạt theo cách thức nghiêm ngặt, vì để làm vậy đòi hỏi phải biết được có bao nhiêu vụ giết người xảy ra tại một nơi cụ thể (một nước, một bang,…) nếu luật của nơi đó khác đi trong cùng khoảng thời gian nghiên cứu.
Tuy nhiên, có một số chỉ dấu cho thấy hình phạt tử hình làm tăng tỷ lệ các vụ giết người. Chẳng hạn như sự khác biệt về tỷ lệ này tại Mỹ giữa hai nhóm bang giữ và bỏ hình phạt tử hình đã tăng từ năm 1990 đến năm 2003 (xem ví dụ trong phần 6 dưới đây).
Theo một số người, hình phạt tử hình thậm chí tạo tâm lý khiến phạm nhân liều lĩnh hơn. Vì sợ bị tử hình, phạm nhân chưa bị bắt có thể ra tay tàn bạo hơn nhằm trốn tránh luật pháp, chẳng hạn sẵn sàng giết người bịt đầu mối, tấn công cảnh sát, bắt giữ con tin… Hoặc vì nghĩ rằng tội phạm mà mình đã gây ra chắc chắn sẽ nhận án tử hình, phạm nhân sẽ có xu hướng cảm thấy không do dự khi tiếp tục phạm tội.
Có ý kiến cho rằng sự ngăn cản là một ý niệm có vấn đề về mặt đạo đức. Một câu hỏi được đặt ra là dù hình phạt tử hình có tác dụng ngăn cản đi chăng nữa thì liệu có thể chấp nhận được việc một ai đó phải trả giá vì những tội phạm trong tương lai được dự đoán của những người khác hay không?
6. Tàn bạo hóa:
Tàn bạo hóa cá nhân: Các thống kê cho thấy hình phạt tử hình dẫn đến sự tàn bạo hóa cá nhân và sự gia tăng tỷ lệ các vụ giết người. Tại Mỹ, có nhiều vụ giết người xảy ra ở các bang còn giữ hình phạt tử hình hơn so với các bang đã bỏ hình phạt tử hình. Vào năm 2003, tỷ lệ các vụ giết người ở các bang đã bỏ hình phạt tử hình là 4,1% trên 100.000 người dân. Tỷ lệ này ở các bang còn giữ hình phạt tử hình là 5,91%. Khoảng cách về tỷ lệ các vụ giết người giữa các bang có hình phạt tử hình và các bang không có hình phạt tử hình tăng từ 4% năm 1990 đến 44% năm 2003. Các tính toán dựa trên các con số do FBI cung cấp.[4]
Tàn bạo hóa luật pháp: Hình phạt tử hình được cho là tạo ra sự liên kết không thể chấp nhận được giữa luật pháp và bạo lực. Nhưng theo nhiều cách, luật pháp không thể tránh khỏi liên kết với bạo lực – nó trừng phạt các tội phạm bạo lực, và sử dụng hình phạt để hạn chế tự do của con người ‘một cách bạo lực’. Về mặt triết học, luật pháp luôn dính dáng tới bạo lực và chức năng của nó bao gồm việc duy trì một xã hội có trật tự khỏi các sự kiện bạo lực. Tuy nhiên, bạo lực hợp pháp rõ ràng khác với bạo lực tội phạm, và khi bạo lực hợp pháp được sử dụng, nó phải được sử dụng theo cách mà mọi người thấy công bằng và hợp lý.
Hạ thấp tinh thần xã hội: Xã hội văn minh không dung thứ cho tra tấn, ngay cả khi tra tấn có thể cho thấy tác dụng ngăn cản, hay các tác dụng tốt khác. Cũng theo cách này, nhiều người cảm thấy hình phạt tử hình là không phù hợp với một xã hội văn minh hiện đại khi phản ứng lại các tội phạm thậm chí kinh khủng nhất.
7. Tổn phí: Tại Mỹ, án tử hình tốn kém tổn phí lớn. Ví dụ, tổn phí xét xử và hành quyết Timothy McVeigh vì tội đánh bom thành phố Oklahoma là hơn 13 triệu đô-la. Ở New York, kể từ khi hình phạt tử hình được dùng trở lại vào năm 1995, tổn phí cho mỗi tù nhân bị kết án tử hình là xấp xỉ 23 triệu đô-la[5]. Tại các nước có thủ tục kháng cáo ngắn hơn và ít tổn phí hơn, án tử hình có vẻ ít tốn kém hơn nhiều so với án tù chung thân.
8. Áp dụng sai: Một số nước trong đó có Mỹ áp dụng hình phạt tử hình với cả những người được chứng minh là tâm thần. Nhìn chung, người ta đồng ý rằng những người không có khả năng nhận biết các hành động của mình là sai trái thì không nên bị trừng phạt. Do đó, những người tâm thần không nên bị kết án, càng không nên bị xử tử. Họ có thể được đưa vào các viện tâm thần để bảo đảm an toàn cho xã hội, thay vì bị trừng phạt. Vấn đề trở nên phức tạp hơn trong trường hợp phạm nhân có trí óc bình thường tại thời điểm phạm tội lẫn xét xử nhưng bị tâm thần trước khi hành quyết.
9. Áp dụng không công bằng: Có quan ngại lớn tại Mỹ rằng những khiếm khuyết trong hệ thống xét xử khiến hình phạt tử hình được áp dụng không công bằng. Một quan tòa Tòa án Tối cao Mỹ (ban đầu ủng hộ hình phạt tử hình) cuối cùng đã đi đến kết luận rằng hình phạt tử hình không thể tránh khỏi làm tổn hại đến mục tiêu của công lý.
Tại Mỹ, các bồi thẩm viên trong nhiều vụ về hình phạt tử hình phải ‘thích hợp với án tử hình’ (‘death eligible’), điều này có nghĩa là các bồi thẩm viên phải sẵn sàng áp dụng án tử hình như một khả năng khi kết án. Hệ thống pháp lý không phải luôn luôn chỉ định những luật sư giỏi cho những bị cáo nghèo. Trong số tất cả các phạm nhân bị kết án tử hình, 3/4 được chỉ định luật sư hỗ trợ pháp lý có thể mong đợi hành quyết. Con số này giảm xuống 1/4 nếu bị cáo có khả năng chi trả cho luật sư.[6]
Những người tâm thần, người nghèo, nam giới, người chủng tộc thiểu số chiếm phần lớn trong số những người bị xử tử. Một nghiên cứu thí điểm trên 2 tá phạm nhân bị kết án cho thấy tất cả đều bị ngược đãi trầm trọng trong suốt thời thơ ấu, tất cả họ có thể đã chịu tổn thương não bộ. Phụ nữ bị kết tội giết người hầu hết không bị xử tử, hình phạt tử hình gần như dành hoàn toàn cho nam giới. Theo một nghiên cứu vào năm 1986 ở bang Georgia, những người giết người da trắng có khả năng bị kết án tử hình cao hơn 4 lần so với những người giết người da màu.[7]
10. Tàn nhẫn, phi nhân bản, hạ cấp: Bất kể tình trạng đạo đức của hình phạt tử hình, một số ý kiến cho rằng tất cả hình thức hành quyết tử tù đều dẫn đến sự chịu đựng quá lớn đối với tử tù và khiến họ như bị tra tấn. Nhiều phương pháp hành quyết gây đau đớn và dã man đã dần được hủy bỏ. Phương pháp tiêm thuốc độc được dùng ở nhiều nước còn giữ hình phạt tử hình vì được cho ít tàn nhẫn đối với phạm nhân và ít nhẫn tâm đối với người thi hành.
Những người phản đối hình phạt tử hình cho rằng phương pháp này có những nhược điểm nghiêm trọng về mặt đạo đức và phải được hủy bỏ. Nhược điểm thứ nhất là phương pháp này đòi hỏi sự tham gia trực tiếp của nhân viên y tế vào việc hành quyết. Điều này vi phạm một cách một cơ bản đạo đức ngành y. Nhược điểm thứ hai là, theo một nghiên cứu vào tháng 4 năm 2005, người ta thấy phương pháp này không gần như ‘nhân đạo’ như người ta vẫn nghĩ. Các xét nghiệm trên tử thi phạm nhân cho thấy mức độ thuốc gây mê trong cơ thể họ tương hợp với tình trạng tỉnh thức và khả năng trải nghiệm sự đau đớn.
11. Không cần thiết: Đây là lý lẽ về mặt chính trị hơn là về mặt đạo đức. Nó dựa trên nguyên tắc chính trị là nhà nước nên thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình theo cách ít xâm phạm, ít nguy hại, và ít hạn chế nhất có thể. Nhà nước có nghĩa vụ trừng phạt tội phạm để duy trì một xã hội có trật tự và hài hòa. Hình phạt tử hình là hình phạt nguy hại nhất, nhà nước chỉ nên sử dụng nó nếu không có sự trừng phạt nào phù hợp mà ít nguy hại hơn.
Những hình phạt khác luôn luôn cho phép nhà nước thực hiện đầy đủ mục tiêu trừng phạt tội phạm một cách phù hợp. Do đó nhà nước không nên sử dụng hình phạt tử hình.
Một số người cho rằng xử tử kẻ giết người không mang nạn nhân trở lại cuộc sống. Hình phạt tử hình không đạt được điều gì mà chỉ lấy đi một mạng sống khác.
12. Cơ hội cho sự thay đổi: Án tù chung thân thay cho án tử hình phần nào mang lại cơ hội tốt hơn cho phạm nhân nhìn lại và hối hận với những việc làm tội lỗi mà mình đã gây ra.
Có thể dẫn chứng một vài trường hợp tiêu biểu về các phạm nhân đã thay đổi trong thời gian ở tù. Bang Texas, Mỹ, ngày 3/2/1998 đã diễn ra vụ hành quyết Karla Faye Tucker, một phụ nữ 38 tuổi bị kết án tử hình vì tội giết người. Trong suốt 14 năm ở tù, bà đã hối hận và như được “sinh ra lần nữa”. Trường hợp của bà đã nhận được sự quan tâm lớn của công chúng. Rất nhiều cá nhân và tổ chức đã nài xin sự khoan dung cho bà, trong đó có người thân của các nạn nhân, bồi thẩm viên và nhân viên cảnh sát[8].
Những trường hợp như trên có thể rất hiếm. Một số người cho rằng, chỉ một phần rất nhỏ các phạm nhân có khả năng thay đổi và một phần lớn số phạm nhân tồi tệ nhất sẽ không bao giờ hối hận với những việc làm tội lỗi của mình. Ngay cả như thế, một số khác phản hồi rằng việc không tử hình một phần lớn số phạm nhân này không phải là vì xã hội phải rủ lòng thương cảm, mà là vì xã hội phải học cách khoan dung.
13. Gia đình của tử tù: Lấy đi mạng sống của một phạm nhân bằng hình phạt tử hình gây ra mất mát đối với những người thân của phạm nhân đó, trong khi họ là những người vô tội.
14. Công cụ đàn áp chính trị: Hình phạt tử hình có thể được dùng như công cụ đàn áp chính trị, nhằm loại bỏ những người đối lập hay bất đồng chính kiến. Trong hầu hết các trường hợp như vậy, các “phạm nhân” bị kết án tử hình bởi những phiên tòa bất công. Chừng nào hình phạt tử hình còn được dùng như một cách thức trừng phạt hợp pháp, chừng đó nó còn khả năng bị lạm dụng.
15. Cái chết bất thường: Một số người, không chỉ riêng những người có niềm tin tôn giáo, tin rằng mỗi cá nhân có một thời điểm chết tự nhiên. Việc lấy đi mạng sống của một cá nhân một cách đột ngột như tử hình sẽ khiến người đó bị “mắc kẹt” giữa thế giới hiện hữu và thế giới bên kia.
III. Quan điểm của các tôn giáo
Phần này chỉ điểm sơ qua về quan điểm của năm tôn giáo chính đối với hình phạt tử hình, đó là Phật giáo, Ky-tô giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo và Do Thái giáo. Chi tiết hơn về quan điểm của các tôn giáo đối với chủ đề này, người đọc có thể kiểm nghiệm qua tôn giáo của chính mình (nếu có) và tìm hiểu qua nhiều nguồn khác.
Phật giáo
Phật giáo tồn tại theo nhiều hình thức và nhiều tổ chức khác nhau và không có quan điểm thống nhất về hình phạt tử hình. Song rõ ràng, hình phạt tử hình không phù hợp với những lời giảng Phật giáo. Phật giáo nhấn mạnh về tính phi bạo lực và lòng từ bi. Giới đầu tiên trong Ngũ Giới – “Không được giết hại” – đòi hỏi các cá nhân tránh làm bị thương hoặc giết bất cứ sinh vật sống nào.
Đức Phật không nói rõ về hình phạt tử hình, song những lời dạy của ngài cho thấy ngài không có thiện cảm với hình phạt về thể chất, bất kể tội phạm tồi tệ ra sao.
Phật giáo tin về cơ bản vào chu trình sinh và tái sinh (luân hồi) và dạy rằng nếu hình phạt được thi hành, nó sẽ gây ảnh hưởng lên các linh hồn của cả người phạm tội lẫn người trừng phạt ở kiếp sau.
Khi hình phạt tử hình được lưu tâm đến trên thế giới, Phật giáo đã thể hiện các quan điểm về hình phạt tử hình một cách dứt khoát như sau:
  • Cư xử phi nhân tính đối với người phạm tội không giải quyết được những việc làm xấu của họ hoặc của nhân loại nói chung – cách tiếp cận tốt nhất đối với người phạm tội là giáo dưỡng chứ không phải trừng phạt
  • Trừng phạt chỉ nên ở mức độ sao cho người phạm tội cần để sửa đổi, và sự phục hồi của người đó trong xã hội phải được hết sức coi trọng
  • Trừng phạt một người phạm tội với sự tàn nhẫn quá mức sẽ làm tổn thương tâm trí không chỉ của người phạm tội, mà còn của người làm việc trừng phạt
  • Không thể thi hành hình phạt nghiêm trọng với sự tĩnh tại và lòng từ bi
  • Nếu tội phạm là đặc biệt nghiêm trọng, người phạm tội có thể bị trục xuất khỏi cộng đồng hay quốc gia
Ky-tô giáo
Quan điểm của những người theo Ky-tô giáo không thống nhất đối với hình phạt tử hình. Trong lịch sử, các nhà thờ Ky-tô giáo đã chấp nhận hình phạt tử hình như một phần của cơ chế xã hội.
Giáo lý Roman được đưa ra vào năm 1566 nói rằng quyền lực của sự sống và cái chết được Chúa giao phó cho chính quyền dân sự. Việc sử dụng quyền lực này không biểu hiện hành vi giết người, mà biểu hiện sự vâng phục tối thượng đối với các lời răn của Chúa. Luật của Vatican vào năm 1929 đến 1969 bao gồm hình phạt tử hình cho những ai cố ý ám sát Giáo hoàng.
Một cuộc nghiên cứu được thực hiện vào những năm 90 tại Mỹ cho thấy những người theo đạo Tin lành có vẻ ủng hộ hình phạt tử hình hơn những người theo các giáo phái hay tôn giáo khác.
Cựu Ước, với 36 tội phạm tử hình, ám chỉ rằng Chúa tạo ra hình phạt chết, trong khi Tân Ước là hiện thân của vụ hành quyết nổi tiếng nhất trong lịch sử – Chúa Giê-su trên cây thập giá. Nghịch lý là, mặc dù tinh thần của toàn bộ Tân Ước là sự tha thứ, song nó có vẻ cho rằng nhà nước có quyền xử tử người phạm tội.
Lời răn “Các người không được giết người” của Chúa Giê-su được các tín đồ Ky-tô giáo hiểu theo những cách khác nhau. Những người ủng hộ hình phạt tử hình cho rằng lời răn này không có nghĩa là cấm giết người tuyệt đối. Ngược lại, đối với những người phản đối hình phạt tử hình, lời răn này là một huấn thị rõ ràng, không có ngoại lệ.
Hồi giáo
Hồi giáo hoàn toàn chấp nhận hình phạt tử hình. Nhưng ngay cả như vậy, sự tha thứ được ưa thích hơn. Sự tha thứ, cùng với hòa bình, là một đề tài chủ đạo của kinh Koran.
Các tín đồ Hồi giáo cho rằng hình phạt tử hình là hình phạt nặng nhất nhưng có thể được một tòa án ra lệnh thi hành đối với các tội phạm có mức độ nghiêm trọng phù hợp. Các phương pháp hành quyết có thể khác nhau theo từng nước và có thể bao gồm chặt đầu, xử bắn, treo cổ, và ném đá.
Tại một số nước, các vụ hành quyết được thực hiện công khai để nâng cao yếu tố ngăn cản. Luật Hồi giáo Sharia sử dụng hình phạt tử hình cho nhiều loại tội phạm như bội phản, bỏ đạo, trộm cướp, giết người, khủng bố, cưỡng hiếp, ngoại tình, quan hệ tình dục đồng giới, v.v…
Ấn Độ giáo
Không có quan điểm chính thức của Ấn Độ giáo về hình phạt tử hình. Tuy nhiên, với nguyên lý không sát sinh, Ấn Độ giáo phản đối giết người, bạo lực và trả thù.
Là nước có phần đông dân chúng theo Ấn Độ giáo, Ấn Độ hiện vẫn giữ hình phạt tử hình, mặc dù hiếm khi sử dụng đến[9].
Do Thái giáo
Trong Cựu Ước Do Thái giáo, có 36 tội phạm tử hình được liệt kê. Điều này có thể khiến nhiều người nghĩ rằng Do Thái giáo ủng hộ hình phạt tử hình, nhưng thực tế không như vậy. Trong suốt thời kỳ luật Do Thái được vận dụng như một thế tục cũng như thẩm quyền tôn giáo, các tòa án Do Thái rất hiếm khi áp dụng hình phạt tử hình.
Các giáo sĩ Do Thái đã viết bộ luật Talmud, bao gồm một tập hợp các văn bản cổ lập thành cơ sở của quyền lực tôn giáo, với một loạt các rào cản cho việc áp dụng hình phạt tử hình, khiến cho hình phạt rất khó được thi hành trên thực tế. Kết quả là trong các thời kỳ của các giáo sĩ Do Thái, có rất ít người bị xử tử. Các quy tắc sau đã được các giáo sĩ đặt ra cho bộ luật Talmud:
  • Diễn giải các văn bản theo ngữ cảnh của sự trân trọng của Do Thái giáo đối với sự thiêng liêng của cuộc sống con người
  • Nhấn mạnh các văn bản chống sự chết, như lời răn “Các ngươi không được giết người”
  • Diễn giải các văn bản sao cho gần với việc áp dụng chúng
  • Không chấp nhận bất cứ văn bản Toral (5 cuốn đầu của Cựu Ước) nào đưa ra hình phạt tử hình
  • Tìm các hình phạt thay thế hoặc các cách thức bồi thường cho gia đình nạn nhân
  • Áp các rào cản có thủ tục và chứng cứ khiến hình phạt tử hình là không thể thi hành
Ngày nay, nhà nước Do Thái đã bỏ hình phạt tử hình cho tất cả các loại tội phạm, trừ tội phạm chiến tranh (1954)[10].
                                                                                                                  Nguyễn Trang Nhung

Capital punishment: All viewpoints on the death penalty: http://www.religioustolerance.org/execute.htm
Capital Punishment U.K.: http://www.capitalpunishmentuk.org
The Death Penalty, Question and Answer: http://www.amnesty.org/en/library/info/ACT50/010/2007
[2] Arguments against capital punishment: Execution of the innocent http://www.bbc.co.uk/ethics/capitalpunishment/against_1.shtml#h3
[3] Arguments against capital punishment: Failure to deter
[4] Arguments against capital punishment: Brutalising society
[5] Arguments against capital punishment: Expense
[6] Arguments against capital punishment: Applied unfairly
[7] Basic reasons: pro and anti: http://www.religioustolerance.org/executb.htm
[10] Death Penalty: Countries Abolitionist for Ordinary Crimes only: http://www.amnesty.org/en/death-penalty/countries-abolitionist-for-ordinary-crimes-only

NGHIỆT !

Văn Công Mỹ
(Nhớ những người oan khiên khác)

Ôi những giòng nước mắt
Sao nghiệt ngã vô cùng
Giữa trùng vây oan khuất
Phận người quá lao lung

Kiếp côn trùng bé miệng
Tay sao với tới trời
Mười năm nghe đau điếng
Trái tim lành tả tơi

Theo chân ngày nắng tắt
Rừng hoang thú loi choi
Phố phường ma quỷ dắt
Đêm rùng mình chơi vơi

Bàn tay gầy mãi gõ
Vọng âm là vô âm
Những đêm dài mắt đỏ
Đã mù loà từ tâm

Trăm năm và hệ lụy
Chúa Phật lửng lơ bay
Thánh thần xin cúi xuống
Rũ lời nguyền hôm nay.

Luật sư bào chữa cho ông Nguyễn Thanh Chấn: Chứng cứ buộc tội lỏng lẻo

Thứ Ba, 05/11/2013 23:32

Ngoài những chứng cứ thiếu thuyết phục, tại phiên tòa phúc thẩm, HĐXX còn đưa ra bức thư của ông Chấn có nội dung: “Kính gửi vợ! ở trong này tôi nhận tội hết rồi”

Ngày 5-11, phóng viên Báo Người Lao Động đã phỏng vấn luật sư Nguyễn Đức Biền, người đã bào chữa cho ông Nguyễn Thanh Chấn ở cả 2 phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm cách đây 10 năm. Luật sư Biền khẳng định: “Khi nghiên cứu hồ sơ và trực tiếp tham gia phiên xét xử, tôi thấy chứng cứ buộc tội rất lỏng lẻo, thiếu logic”.

Luật sư Nguyễn Đức Biền (bìa phải) chúc mừng ông Chấn (giữa) được trở về sau 10 năm thụ án oan Ảnh: NGUYỄN QUYẾT
Phóng viên: Cảm xúc của ông khi ông Nguyễn Thanh Chấn được trả tự do?
- Luật sư Nguyễn Đức Biền: Tôi vô cùng vui mừng và xúc động về việc này. Không thể ngờ được ông Chấn có thể trở về sau 2 phiên tòa đã phán quyết như đinh đóng cột. Đây là một vụ án xưa nay hiếm!
Cách đây 10 năm, ông có niềm tin vào sự vô tội của ông Chấn không?
- Niềm tin của tôi dựa vào các căn cứ pháp luật và hồ sơ vụ án. Trong vụ án này, đọc hồ sơ và tham gia tranh tụng tại phiên toà, tôi thấy chứng cứ buộc tội không thuyết phục.
Chứng cứ vụ án mà các cơ quan tố tụng tỉnh Bắc Giang đưa ra không có gì cả ngoài mấy nhận định không logic. Cụ thể, trong thời gian xảy ra vụ án, ông Chấn khai đến nhà một người dân gần đấy múc nước. Thực nghiệm điều tra chỉ hết 15 phút nhưng nhân chứng khai khoảng 30 phút. Vậy còn 15 phút nữa, ông Chấn đi đâu? (thời gian 15 phút này được cho là thời gian gây án - PV). Thứ hai là thực nghiệm điều tra cho thấy ông Chấn thực hiện rất thành thạo và phù hợp với các chứng cứ khác. Thứ ba là ông Chấn miêu tả đồ vật tại nhà nạn nhân rất rõ ràng. Thứ tư là tại hiện trường có dấu vết chân và ướm vết chân ông Chấn thấy phù hợp.
Thưa ông, các chứng cứ này không chuẩn xác như thế nào?
- Cũng tại phiên tòa, tôi đã bác lại các chứng cứ trên vì thời gian ông Chấn đi múc nước theo các nhân chứng đều mang tính chất không chính xác, chỉ áng chừng nên căn cứ này không thuyết phục. Các nhân chứng đều khai thấy ông Chấn bắt đầu đi khoảng 19 giờ và về khoảng 19 giờ 30 phút. Chỉ chênh 30 phút nên việc áng chừng thời gian cho thấy sự bất minh. Thứ hai, việc bị cáo miêu tả đồ dùng trong nhà một cách rất thành thục là bởi vì nhà bị cáo và bị hại gần nhau cho nên đây là việc bình thường. Thứ ba, dấu chân mô tả chỉ là gần khớp, trong khi dấu chân khác với dạng nhận diện vân tay, không đủ cơ sở khẳng định.
Mặt khác, vào thời điểm xảy ra vụ án, có người chứng kiến ông Chấn có gọi điện thoại tại nhà cho một ai đó (nhà ông Chấn mở dịch vụ điện thoại công cộng). Đó là một chứng cứ ngoại phạm song sau này không được xem xét.
Theo cáo trạng, quá trình gây án, lưỡi dao bị gãy rơi tại hiện trường, còn chuôi dao sau đó được bị cáo mang vứt ở bãi sắt vụn. Song, tôi đã trực tiếp đi tìm ở bãi sắt vụn đó mà không hề có. Cơ quan điều tra cũng không thu thập được chuôi dao này. Đó là một thiếu sót quan trọng.
Tại tòa, có điều gì bất minh hoặc đáng ngờ trong vụ án này không, thưa ông?
- Tại tòa, ông Chấn liên tục kêu oan và cho biết bị ép cung. Khi thẩm vấn ông Chấn, tôi hỏi: “Vì sao bị cáo không thực hiện mà lại nhận và kể thành thục như trong hồ sơ nêu?”. Ông Chấn nói: “Điều tra viên họ dạy bị cáo như vậy”. Thậm chí, trong phiên phúc thẩm, thẩm phán đưa ra bức thư ông Chấn viết gửi về cho chị Chiến với nội dung rất kỳ quặc: “Kính gửi vợ! ở trong này tôi đã nhận tội hết rồi”. Thẩm phán phiên tòa lý luận rằng không điều tra viên nào dạy bị cáo viết “Kính gửi vợ” như vậy và HĐXX không chấp nhận việc ông Chấn tố bị ép viết thư cho vợ.
Sau khi kết thúc phiên phúc thẩm, luật sư tư vấn tiếp theo như thế nào cho gia đình?
- Dù 2 phiên tòa đã kết thúc nhưng tôi vẫn có cảm giác ông Chấn bị oan. Vì thế, tôi tiếp tục hướng dẫn gia đình làm đơn kháng án. Trong quá trình gia đình kêu oan suốt 10 năm nay, tôi vẫn hy vọng biết đâu một ngày ông Chấn sẽ được giải oan và thật đáng mừng là nó trở thành sự thật.
TAND Tối cao phải bồi thường
Theo luật sư Trương Thị Thu Hà (Đoàn Luật sư TP HCM), việc bồi thường thiệt hại và khôi phục quyền lợi cho ông Nguyễn Thanh Chấn phải được tiến hành nhanh và thỏa đáng theo tinh thần của Nghị quyết 388/2003/NQ-UBTVQH11 về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra.
Luật sư Hà nhấn mạnh cần phải xác định rõ cơ quan tố tụng nào chịu trách nhiệm bồi thường hoặc liên đới bồi thường để tránh tình trạng đùn đẩy trách nhiệm khiến người mang án oan phải thiệt thòi, khiếu kiện nhiều lần. Bên cạnh đó, phải làm rõ và xử lý nghiêm sai phạm của những cơ quan chức năng dẫn đến án oan của ông Chấn.
Luật sư Đỗ Hải Bình (Đoàn Luật sư TP HCM) nhận định việc ông Chấn không bị tuyên mức án tử hình là một điều may mắn, nếu không thì cơ quan tố tụng sẽ không còn cơ hội sửa sai. Trong vụ án này, theo trình tự tố tụng, cơ quan cuối cùng xác định ông Chấn có tội là Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại Hà Nội, vì vậy cơ quan này phải chịu trách nhiệm bồi thường. Việc xác định mức bồi thường về thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc giảm sút, tổn thất tinh thần, thiệt hại về vật chất do tổn hại sức khoẻ (nếu có). Trước hết, sẽ do ông Chấn và cơ quan có trách nhiệm bồi thường tự thương lượng thỏa thuận nhưng sẽ được tính từ ngày có quyết định khởi tố bị can cho đến ngày cơ quan có thẩm quyền xác định ông Chấn không thực hiện hành vi phạm tội. Ngoài ra, cơ quan có trách nhiệm bồi thường còn phải khôi phục danh dự cho ông Chấn bằng cách xin lỗi công khai tại địa phương nơi ông Chấn cư trú và cải chính trên 3 số báo liên tiếp của 1 tờ báo địa phương, 1 tờ báo trung ương.
                                                                           Trâm Anh ghi

THẬP DIỆN thực hiện