Tổng số lượt xem trang

Thứ Ba, 12 tháng 1, 2016

Nạn nhân vụ bình cứu hỏa nổ trong ôtô nói gì?

Gần đây, dư luận "nóng" với việc bình cứu hỏa có thể phát nổ trong xe ôtô con. PV đã trực tiếp gặp gỡ được và trao đổi với một nạn nhân của một vụ bình cứu hoả phát nổ trong ôtô khi đang tham gia giao thông.

Kính thưa ông… PCCC!
Phải mua chiếc bình chữa cháy với giá cao gần gấp 3 lần ngày trước, lại loay hoay tìm chỗ ...

nan nhan vu binh cuu hoa no trong oto noi gi
Anh Duy Phong. 
Anh Duy Phong ở Hà Nội cho biết: Tháng 6/2014, anh có mua một bình cứu hoả mini dung tích 400ml ở siêu thị BigC Long Biên và gắn trong xe. Việc mua bán có đầy đủ hoá đơn và trên vỏ bình có ghi rõ địa chỉ nhà phân phối.
Tháng 7/2014, trong khi đang lái xe đi làm, bất ngờ bình cứu hoả này phát nổ. Nhiều người hiếu kì xúm lại xem nhưng cũng không giúp được gì. Khi bọt trong bình cứu hỏa tan hết sau khi phát nổ, anh phát hiện nội thất trong xe bị hư hại khá nghiêm trọng. 
Qua xem những tấm ảnh được chụp lại do anh Duy Phong cung cấp, có thể thấy phần ốp trần xe phía gần kính lái phía sau bị xé rách, còn phần đèn sau bị bung ra.
nan nhan vu binh cuu hoa no trong oto noi gi
Nội thất bị phá do vụ nổ bình cứu hoả (ảnh do nạn nhân của vụ việc cung cấp)
nan nhan vu binh cuu hoa no trong oto noi gi
Chiếc bình cứu hoả mini có ghi xuất xứ Trung Quốc và đầy đủ địa chỉ của nhà phân phối. Đáy bình có ghi hạn sử dụng tới tháng 12/2017. Phần nắp bình bị bung ra và toàn bộ vỏ bình bị biến dạng do sức công phá của vụ nổ.
Anh Duy Phong cho biết, gần đây anh có đọc nhiều thông tin về Thông tư 57 của Bộ Công an. Tuy nhiên, bản thân anh và nhiều bạn bè xung quanh không đồng tình với nội dung của Thông tư này.
"Theo dữ liệu từ Trung tâm Dự báo Khí tượng - Thuỷ văn Trung ương, nhiệt độ ngày 31/7/2014, ngày mà bình cứu hoả của tôi phát nổ, thì tại Hà Nội, nhiệt độ thấp nhất từ 26-28 độ C; nhiệt độ cao nhất từ 32-35 độ C." - anh Phong cho biết thêm.
Nguồn: http://petrotimes.vn/nan-nhan-vu-binh-cuu-hoa-no-trong-oto-noi-gi-372336.html

Nhận diện và đột phá cấp bách các nguy cơ trong Đảng hiện nay

TCCS - Kinh nghiệm 85 năm lãnh đạo, trong đó có hơn 70 năm cầm quyền của Đảng ta khẳng định, một trong những bài học thành công là, luôn cảnh giác, chủ động dự báo và kiên quyết khắc phục có hiệu quả những thách thức, nguy cơ đối với cách mạng, trước nhất từ trong nội bộ Đảng. Trong bối cảnh mới hết sức phức tạp, có mặt diễn biến khôn lường, hiện nay, cùng với những vận hội mới, thời cơ mới, Đảng đứng trước những hiện trạng đáng cảnh báo, những thách thức mới.


Tại Đại hội X, Đảng ta chỉ rõ: “Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng chưa đạt yêu cầu... Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng. Nhiều tổ chức cơ sở đảng thiếu sức chiến đấu và không đủ năng lực giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh... Sự chỉ đạo tổ chức thực hiện chưa tốt”(1). Tới Đại hội XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng còn hạn chế; thiếu sắc bén trong đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp, cùng với sự phân hóa giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý, điều hành của nhiều cấp, nhiều ngành làm giảm lòng tin đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước”(2).

Và chúng ta thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” trong tình hình đáng lo ngại thách thức: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa, địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc”(3).
Qua bốn năm, từ việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, phát hiện những hiện trạng nóng bỏng, với những “tầng chìm thực thể”, như C. Mác nói, tinh vi, giảo quyệt hơn, đặt ra những thách thức ngày càng cấp bách, thật sự là nguy cơ. Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về đảng cầm quyền...; các nguy cơ cần lưu ý phòng ngừa đối với đảng cầm quyền”.
Nhận diện những nguy cơ có thể làm băng hoại Đảng
Xuất phát từ đó, theo thời gian, nhận diện từ tổng hòa những hiện trạng, thách thức từ trong Đảng và tới toàn xã hội hiện nay, có thể khái quát nổi bật mấy loại nguy cơ chủ yếu:
1- Nguy cơ chệch hướng trong hoạch định và tổ chức thực hiện đường lối chính trị
Kỳ thực, gần 100 năm trước, V.I. Lê-nin đã dự cảm, luôn luôn cảnh báo điều đó đối với các đảng cộng sản và công nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng luôn căn dặn, nhắc nhở và Đảng ta luôn đề phòng sự xuất hiện và diễn biến của nguy cơ, thách thức này đối với mình. Vì, sự chệch hướng trong hoạch định đường lối và sự đổ vỡ về thực thi đường lối đồng nghĩa với sự cáo chung về vị trí, vai trò cầm quyền của Đảng. Bài học xương máu của một số đảng cộng sản cầm quyền ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu cách đây hơn hai mươi năm đã cảnh báo hết sức nghiêm khắc điều đó.
Sự lường trước một lần nữa về vấn đề này vào tháng 1-1994, tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng, có ý nghĩa cảnh báo cực kỳ nghiêm khắc. Đó là sự tiên liệu đúng đắn trong tiến trình tổng kết nghiêm khắc về thực tiễn cầm quyền, sự phát triển sáng tạo với tinh thần tự phê bình trong xây dựng, phát triển lý luận cầm quyền và sự dũng cảm chính trị về trọng trách cầm quyền ngày càng phức tạp, khó khăn mà Đảng được lịch sử và nhân dân trao cho trọng trách lãnh đạo xã hội và đất nước.
Trước hết, tình trạng cơ hội chính trị, thực dụng chính trị về tư tưởng chính trị và hành động chính trị trong một bộ phận cán bộ, đảng viên giữ trọng trách trong bộ máy của Đảng và Nhà nước ở các cấp, nhất là một số người tham gia trên phương diện hoạch định và tổ chức thực hiện đường lối chính trị, đang tồn tại rất tinh vi, trên không ít lĩnh vực... Tệ “địa phương hóa”, “cục bộ hóa”, “cát cứ hóa” đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước bằng kiểu lợi dụng cái gọi là “sự đặc thù” để ban hành cái gọi là “chính sách riêng”, “chính sách đặc thù” nhằm mưu đồ phục vụ “lợi ích nhóm” và tụ lại thành những “nhóm lợi ích”... đi ngược lại đường lối chung; thậm chí để lọt lộ thông tin, bán thông tin, làm lộ bí mật quốc gia... đã diễn ra ở một số phương diện, tạo nên tình trạng vừa vô tổ chức, vô kỷ luật, vừa cát cứ, khép kín, cục bộ... trong sự thống nhất của Đảng.
Thứ hai, tình trạng bảo thủ, trì trệ, tụt hậu, đổi mới vô nguyên tắc về lý luận chính trị trong hoạch định đường lối chính trị đã và đang tồn tại trong không ít người, ở không ít nơi. Sự “đóng cửa”, “khép kín” trong tư duy, ngại đổi mới hay nói chính xác hơn, không chịu thâm nhập vào thực tiễn, đã hạn chế họ. Mặt khác, một số tự cho mình là “đúng đắn”, rồi tự bằng lòng và tự ràng buộc mình vào những định đề có sẵn nhưng đã lạc hậu, quẩn quanh trong những nhận thức đã trở thành cố hữu, lỗi thời, đã bị cuộc sống vượt qua và vô hình biến thành trở lực đối với công cuộc đổi mới. Đồng thời, một bộ phận nhân danh đổi mới, xa rời các nguyên tắc, kỷ luật của Đảng, “tự chuyển hóa” đòi xét lại đường lối chính trị của Đảng.
Thứ ba, tình trạng cố tình làm biến dạng đường lối chính trị, dưới mọi hình thức trong việc thực hiện; tệ hại hơn, họ nhân danh đổi mới, sáng tạo một cách vô nguyên tắc, cố tình làm sai lạc việc hoạch định và thực hiện đường lối chính trị cũng đang xuất hiện ở đây đó, thậm chí không ít nơi. Họ coi nhẹ những vấn đề có tính nguyên tắc, bất chấp nguyên tắc, kỷ luật, luồn lách tìm và lợi dụng những sơ hở của đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; thậm chí có người, có tổ chức cố tình làm trái ở quy mô tập thể những quy định chung đó để mưu lợi cho họ, cho phe nhóm của họ, phá rối tình hình...
2- Nguy cơ buông lỏng, làm trái những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng
Sức mạnh vô địch của Đảng là sự thống nhất của ý chí và hành động theo những nguyên tắc, những quy định và cao nhất là Điều lệ của Đảng đã được toàn thể cán bộ, đảng viên nhận thức và thực thi tuân thủ một cách tự giác, dân chủ và nghiêm minh.
Thế nhưng, ở không ít nơi, nguyên tắc tập trung dân chủ bị không ít người, tổ chức đảng lợi dụng, cắt xén hoặc trương lên thành tấm bình phong để che đậy mưu đồ cá nhân và hành động phá rối tổ chức hoặc vô hiệu hóa tổ chức, thành “con dao hai lưỡi” để mưu đoạt lấy lợi ích cho bản thân, phường hội, thậm chí nhằm “chui sâu, leo cao” vào các cơ quan lãnh đạo, quản lý. Nguy hại hơn, mượn hoặc nhân danh nguyên tắc này để đối phó với cấp trên, cô lập và vô hiệu hóa cấp dưới, biến tổ chức đảng nơi họ phụ trách thành “bầu trời riêng”, với “tôn ty riêng”... để thực thi mưu đồ cá nhân, phe nhóm, phường hội....
Mặt khác, không ít người biến việc thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình thành cái gọi là “vũ khí” rất màu nhiệm để tâng bốc, tán dương nhau nhưng lại nhân danh “thanh bảo kiếm chữa lành mọi vết thương”(V. I. Lê-nin) thực thi mưu đồ loại bỏ những người không cùng cánh với họ, để gây rối nội bộ Đảng nhằm “vinh thân phì gia”, “đục nước béo cò”... Kỷ luật của Đảng, Điều lệ của Đảng là pháp luật của Đảng bị không ít người ở một số tổ chức đảng biến thành “thanh kiếm phường chèo” với phe cánh họ, nhưng lại là “lưỡi gươm oan nghiệt” đối với đồng chí, nhất là những người trung thực, dũng cảm đấu tranh với các tệ nạn trong Đảng, mà họ là thủ phạm. Núp dưới chiêu bài “giữ nghiêm kỷ luật”, họ “thanh lọc đội ngũ” một cách có lợi cho họ. Thực chất, họ đã vô hiệu hóa sức mạnh của kỷ luật đảng, của Điều lệ Đảng, biến tổ chức đảng thành “vương quốc” riêng nhằm thực thi những mưu đồ cá nhân, vô hình tạo nên nạn bè phái, cát cứ ngay trong tổ chức đảng, trong cơ quan lãnh đạo của Đảng.
Có thể nói, với sự hành xử như vậy, hai nguyên tắc đó của Đảng đã bị bóp méo, cắt xén; và cách họ đã tự biến mình thành những người tha hóa, làm công cụ phá hỏng đoàn thể và phá hoại tổ chức; biến những tổ chức đảng nơi họ phụ trách và sinh hoạt thành hoặc là tổ chức “hữu danh vô thực” hoặc bị tê liệt, mất sức chiến đấu.
3- Nguy cơ một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó đáng lo ngại là người đứng đầu suy thoái, biến chất về tư tưởng chính trị, sa sút về phẩm hạnh và lối sống
Đây là một thực trạng báo động, đang gây những hậu quả khôn lường. Nhưng điều đáng lo ngại là, tình trạng đó đang lan rộng, tỏa sâu trong đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng và leo cao, chui vào cả trong một số bộ phận của bộ máy lãnh đạo các cấp của Đảng. Tệ cơ hội chính trị, thực dụng chính trị, thói vô chính trị, sự băng hoại về phẩm hạnh đạo đức chính trị, về phong cách, lối sống... của một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả một số cán bộ cao cấp, đang gây nhức nhối đối với toàn Đảng, gây bất bình, oán thán trong nhân dân.
Điều đáng lo ngại là, họ nhân danh Đảng, nhân danh tổ chức để làm những việc đồi bại, táng tận lương tâm: tham nhũng, ăn cắp của công, bòn rút của cải của Nhà nước, của nhân dân, mua quan bán chức, chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy tội... Tình trạng “phai Đảng”, “nhạt Đảng”,... đang lan nhiễm trong không ít cán bộ, đảng viên. Họ đối xử với nhau “lạnh tanh máu cá”, thậm chí chà xéo cả lên tình người, tình đồng chí để giành đoạt cho mình quyền lực, lợi lộc cá nhân và cho phường hội. Một số người không còn cả liêm sỉ, mà nói như người xưa: Không có liêm sỉ thì không thành người được nữa!
Chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa bè phái, tệ tham nhũng - những “giặc nội xâm” - đang làm một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có không ít người giữ trọng trách “thoái Đảng”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, làm không ít tổ chức đảng mất sự thống nhất, mất khả năng lãnh đạo và mất sức chiến đấu. Nếu chậm trễ, không kiên quyết chủ động ngăn chặn một cách kịp thời, căn cơ và hiệu quả, cái hiểm họa “tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ” sẽ cận kề và lan rộng, như đã từng xảy ra đối với một số đảng cộng sản cầm quyền.
4- Nguy cơ xa rời cơ sở xã hội - chính trị của Đảng
Nguồn gốc làm nên sức mạnh vô địch của Đảng là sống và trưởng thành trong lòng nhân dân và dân tộc. Đó là bản chất của Đảng ta. Hơn nữa, Đảng là “đứa con nòi xuất thân từ giai cấp lao động”, “một lòng một dạ tận tụy phụng sự nhân dân”, vì “Đảng không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam”, “không thiên tư thiên vị” nên sinh thành, sống trong lòng và trưởng thành từ trong lòng nhân dân là lẽ tự nhiên, sự sống còn của Đảng suốt hơn 85 năm lịch sử của mình.
Nhưng hiện nay, không ít tổ chức đảng, đảng viên đi ngược lẽ tự nhiên ấy. Họ sống và làm việc theo kiểu “bề trên” quan liêu, cách bức với cơ sở, xa lạ với nhân dân. Họ là những “ông quan cách mạng”, “ông tướng, bà tướng”, “công thần cách mạng”, “hạng người nói suông”,... trong Đảng, như Chủ tịch Hồ Chí Minh phê phán. Một số người hành xử vô văn hóa, thậm chí đi ngược tâm tư, quyền lợi của nhân dân, gây bao nỗi ưu phiền, bức xúc, thậm chí phẫn nộ trong nhân dân, làm tổn hại thanh danh và uy tín của Đảng. Một số tổ chức đảng, dưới sự chi phối hoặc cầm đầu của một số người hoặc bị vô hiệu hóa hoặc đã đánh mất vai trò lãnh đạo của mình, không còn xứng đáng với sự tin cậy của tập thể, của nhân dân. Sự tự đánh mất vị thế, vai trò cầm quyền và tự sụp đổ của một số đảng cộng sản cầm quyền ở một số nước có nguyên nhân bắt đầu từ sự vi phạm lẽ tự nhiên xương máu này.
Ai không còn chỗ đứng trên nền nhân dân, không sống trong lòng nhân dân và dân tộc, không có trách nhiệm với nhân dân là không còn xứng đáng là “đứa con nòi của nhân dân lao động”, như Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy, khi ấy nhất định thất bại và đổ vỡ.
5- Nguy cơ vừa cát cứ, cục bộ, vừa phân ly, phá vỡ thống nhất, mà một số người đứng đầu là sự “kết tụ” dưới đủ hình thức và cấp độ, có thể làm xuất hiện “lợi ích nhóm” và những “nhóm lợi ích” làm phân rã Đảng
Đó là con đường ngắn nhất tự thủ tiêu mình và làm tê liệt sức mạnh tập trung của toàn Đảng. Rất tiếc, không ít người, không ít tổ chức ở không ít nơi mắc phải điều tệ hại và hết sức nguy hiểm đó. Đây là hậu quả trực tiếp của các thách thức trên. Tệ “anh hùng nhất khoảnh”, “trên có chính sách, dưới có đối sách”, thói tự cho mình đồng nhất tổ chức đảng với người đứng đầu bộ máy đảng... không còn là sự hiếm hoi. Một số người sử dụng chức vụ mà Đảng trao cho họ thành vật sở hữu (!) để ban ơn, để kéo bè kéo cánh, tham nhũng tập thể, kể cả thủ đoạn tham nhũng quyền lực... Vô hình điều đó thổi phồng và làm trầm trọng hơn tệ cục bộ, bè phái, gia trưởng phong kiến, “quan cách mạng”... trong không ít tổ chức đảng, biến tổ chức đảng thành “của riêng”, thậm chí thành “đảng kiểu phong kiến”, thủ tiêu sự thống nhất trong Đảng; làm xuất hiện những “nhóm lợi ích” làm phân rã Đảng về mặt tư tưởng và tổ chức một cách ngấm ngầm và nguy hiểm.
Điều hết sức đáng lo ngại là, sự phân ly về tư tưởng, lỏng lẻo, rệu rã về tổ chức, coi thường các nguyên tắc hoạt động của Đảng diễn ra trong một bộ phận đáng kể cán bộ, đảng viên và ngay trong lòng một số tổ chức đảng, ở một số nơi tới mức không thể xem thường. Thứ “đạo đức ba mặt” (trước cấp trên, với công luận, trước cấp dưới), thói hành xử “lá mặt lá trái” (trong cuộc họp đối lập với ngoài hành lang), tệ “bằng mặt nhưng không bằng lòng”; cấp dưới không phục tùng cấp trên: sự chia rẽ, thậm chí “đối trọng” giữa các khuynh hướng về tư tưởng và lợi ích làm nảy sinh các “nhóm lợi ích” và “lợi ích nhóm” hết sức nguy hiểm... đang tồn tại trong không ít cán bộ, đảng viên, kể cả đảng viên giữ trọng trách của cấp ủy; bộ phận không phục tùng toàn thể, thậm chí đi ngược lại tập thể,... đang diễn ra ở một số tổ chức đảng, đang phá vỡ khối đoàn kết thống nhất trong Đảng, xâm hại tình đồng chí, thủ tiêu vai trò, sức mạnh chiến đấu của tổ chức đảng; đến lượt nó, tổ chức đảng bị vô hiệu hóa, bị tước bỏ, bị thủ tiêu sức mạnh của một tổ chức lãnh đạo và chiến đấu.
Quan điểm cơ bản, ba khâu đột phá và năm giải pháp chủ yếu và cấp bách phòng, chống, đẩy lùi các nguy cơ trong Đảng
Có thể nói, hiện nay với vị thế là một đảng cầm quyền, tình hình trong Đảng đã khác trước, nên không thể giải quyết vấn đề giống trước, từ quan điểm, nhận thức tới chủ trương và giải pháp đối với việc phòng ngừa, đẩy lùi những nguy cơ trong Đảng. Dù cách đây 46 năm, nhưng lời Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc của Người vẫn nguyên giá trị lúc này: “TRƯỚC HẾT NÓI VỀ ĐẢNG... Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật sự trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”(4).
Nói cách khác, hơn lúc nào hết, cần một sự đột phá đủ mạnh để giải quyết tình hình đại cục, nhưng phải phù hợp, cụ thể và hiệu quả, không chung chung, nói nhiều làm ít, hay “bắt cóc bỏ đĩa”, “đánh trống bỏ dùi”, “gặp chăng hay chớ”...
1- Về quan điểm và phương châm
a- Về quan điểm
Đây là vấn đề vô cùng hệ trọng liên quan tới sinh mệnh, sự tồn vong của Đảng, sự mất còn của chế độ, sự thăng trầm của đất nước, sự an nguy của dân tộc, nên không thể trì hoãn giải quyết. Ở đây, từ nhận thức về đảng cầm quyền tới biện pháp xử lý các nguy cơ của một đảng cầm quyền càng không thể giống trước, trước yêu cầu đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc đổi mới. Vì, tình trạng bất bình thường đòi hỏi phải được giải quyết một cách bất bình thường và chữa trị cho bằng được, nếu Đảng muốn tiếp tục cầm quyền ngang tầm trách nhiệm với dân tộc, với lịch sử.
b- Về phương châm
Chúng ta không tưởng tượng hoặc tự dựng nên nguy cơ. Đó là sự thật, ở mức độ này hay hình thức kia, và chúng nguy hiểm không thể coi thường.
Vì vậy, phương châm bao trùm là, không hoang mang, dao động nhưng cũng không nóng vội, nửa vời; kiên quyết, dứt điểm và có lộ trình phù hợp, cụ thể; thống nhất, đồng bộ, đồng thời chọn đúng khâu đột phá và giải quyết trên tầm tổng thể; phát huy dân chủ rộng rãi và bảo đảm tập trung cao độ, giữ nghiêm kỷ luật đủ mạnh ở mức cao nhất... quyết làm chuyển biến tình hình toàn cục.
2 - Về ba khâu đột phá
Thứ nhất, đột phá đổi mới tư duy về Đảng Cộng sản cầm quyền làm mở đầu và làm nền tảng căn cơ nhưng cấp bách.
Hơn lúc nào hết, phải coi đổi mới tư duy về đảng cầm quyền là khâu đột phá về lý luận làm cơ sở, nền tảng, tiêu chí và động lực cho các khâu đột phá khác. Không giải quyết những vấn đề chung, nhất định vấp ngã trên những vấn đề cụ thể. Nói cách khác, toàn bộ công việc cầm quyền trước hết của Đảng phải được tập trung thể hiện ở đường lối chính trị đúng đắn, với tinh thần cách mạng và khoa học.
Thứ hai, xây dựng và đổi mới đội ngũ cốt cán, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, đơn vị, cơ quan, tổ chức ngang tầm nhiệm vụ.
Đột phá xây dựng cho kỳ được đội ngũ người đứng đầu các cấp ủy, cơ quan, đơn vị, đồng thời là đội ngũ thủ lĩnh ở các nơi này gánh vác trách nhiệm cầm quyền của Đảng là khâu đột phá then chốt. Cán bộ là gốc của công việc. Vì, đường lối chính trị phải được thực hiện trực tiếp và trước hết bởi đội ngũ người đứng đầu - thủ trưởng đồng thời là thủ lĩnh một cách xứng đáng và ngang tầm, với tư duy mới về đảng cầm quyền. Đến lượt khâu đột phá xây dựng đội ngũ người đứng đầu, phải nhằm tạo dựng kỳ được đội ngũ cốt cán chung quanh người đứng đầu - thủ trưởng - thủ lĩnh, và tổ chức bộ máy chuyên môn, chức năng... cốt yếu tạo nên sức mạnh tổng thể của đội ngũ lãnh đạo nói riêng và cán bộ của hệ thống chính trị nói chung phù hợp với đường lối chính trị.
Khi đã có đường lối chính trị đúng, việc cơ bản tiếp theo là chọn đúng người “có gan phụ trách”, vì “chọn người và thay người cũng là một vấn đề quan trọng trong việc lãnh đạo”(5) (và những người cộng sự và bộ máy chuyên môn, chức năng của họ), như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói.
Thứ ba, đột phá đổi mới về thể chế, cơ chế vận hành thể chế và siết chặt kiểm tra, giám sát trong Đảng phù hợp với pháp luật giữ vị thế thượng tôn và truyền thống quản lý xã hội.
Về thể chế, trong rất nhiều việc, cần hoàn thiện hệ thống quy chế, lấy đó làm quy phạm chỉ đạo và điều chỉnh hoạt động của bộ máy đảng (cố nhiên bao hàm cả mỗi đảng viên giữ chức vụ hay không giữ chức vụ trong Đảng) trên cơ sở Điều lệ Đảng, phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành, bao quát trên tất cả mọi phương diện, mọi lĩnh vực và công việc của một đảng cầm quyền. Tổ chức bộ máy đảng các cấp gọn nhẹ, thông suốt trong lãnh đạo, chỉ đạo, trong kiểm tra, giám sát công việc và con người, gắn bó với nhân dân... một cách tự nhiên và dân chủ.
Đổi mới cơ chế vận hành thể chế theo hướng đề cao quyền hạn cá nhân, bảo vệ trách nhiệm cá nhân và kiểm soát quyền hạn gắn với trách nhiệm cá nhân; mở rộng, cạnh tranh một cách dân chủ và bình đẳng gắn chặt với trách nhiệm giải trình minh bạch và kịp thời về quyền hạn và trách nhiệm. Xây dựng và thực thi văn hóa trong chính trị một cách chuẩn mực của một đảng cầm quyền.
Về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng. Không một cá nhân nào, tổ chức nào của Đảng được phép đặt ra ngoài sự kiểm tra, giám sát của Đảng, pháp luật của Nhà nước và của nhân dân. Siết chặt nguyên tắc tập trung dân chủ, thống nhất và bình đẳng trong thực thi Điều lệ Đảng và pháp luật của Nhà nước đối với mọi cán bộ, đảng viên của hệ thống chính trị, không có “vùng cấm”, không có “đặc quyền” hay ngoại lệ.
3- Thực thi năm giải pháp chủ yếu và cấp bách
Kinh nghiệm từ 85 năm lãnh đạo cách mạng, trong đó có 70 năm cầm quyền của Đảng, cho thấy, có lý luận cầm quyền đúng - cương lĩnh cầm quyền khoa học, phù hợp, được đông đảo nhân dân ủng hộ và thực hiện - có bộ máy cầm quyền hiệu quả và đội ngũ cán bộ cầm quyền giỏi, không việc gì không thành công. Theo hướng đó, để đột phá phòng ngừa các nguy cơ trong Đảng hiện nay, cấp bách thực thi tối thiểu năm giải pháp chủ yếu sau:
Một là, đổi mới tư duy về Đảng cầm quyền, trọng tâm là những vấn đề mang tính quy luật của Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền trong điều kiện mới là vấn đề căn bản trước hết.
Mục tiêu của công việc này là xây dựng, nâng cao chất lượng, nhất là trình độ hoạch định xây dựng và tổ chức thực hiện đường lối chính trị của Đảng để đường lối chính trị xứng đáng là một cương lĩnh chính trị - cương lĩnh chỉ đạo hành động xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc phù hợp với bối cảnh mới và điều kiện mới. Đây là vấn đề quyết định hết thảy toàn bộ thành bại công cuộc cầm quyền của Đảng, nhân tố căn bản quyết định vị thế, năng lực và trách nhiệm cầm quyền của Đảng.
Chung quanh vấn đề này, tối thiểu có 11 loại vấn đề mang tính quy luật cần giải quyết vừa cấp bách, vừa lâu dài một cách đồng bộ và cụ thể về Đảng cầm quyền, bao gồm:
1- Quy luật cầm quyền; 2- Mục tiêu cầm quyền; 3- Nguyên tắc cầm quyền; 4- Nội dung cầm quyền; 5- Phương thức cầm quyền; 6- Cơ chế cầm quyền; 7- Cơ sở cầm quyền; 8- Điều kiện cầm quyền; 9- Nguồn lực cầm quyền; 10- Môi trường cầm quyền; và 11- Nguy cơ đối với sự cầm quyền. Đây là nguồn gốc chính trị - tư tưởng thực tiễn quyết định vị thế, năng lực, bản lĩnh và trách nhiệm cầm quyền của Đảng hiện nay.
Xuyên suốt và là linh hồn các vấn đề mang tính quy luật trên, xây dựng kỳ được và thực thi thống nhất và sâu sắc văn hóa chính trị Việt Nam hiện đại nói chung và văn hóa cầm quyền của Đảng nói riêng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và hội nhập quốc tế. Sứ mệnh của văn hóa cầm quyền của Đảng là tẩy trừ cho kỳ được ba thứ kẻ thù: chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thực dụng và chủ nghĩa cơ hội, dưới mọi hình thức, mà cấp bách nhất là ba loại tệ nạn: nạn hối lộ, lợi ích nhóm và xa rời nhân dân đang có nguy cơ làm phân rã Đảng hiện nay; đề cao đạo đức, liêm sỉ đảng viên của Đảng. Mỗi đảng viên phải là một nhân cách văn hóa, mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng, của hệ thống chính trị phải là một tấm gương văn hóa.
Rường cột tổ chức và trọng trách thực thi công việc này trước hết thuộc về đội ngũ đảng viên làm công tác lãnh đạo, quản lý các cấp, các nhà khoa học trên các phương diện, lĩnh vực mang tầm chiến lược, phải được xây dựng với cơ cấu hợp lý, thực sự là tinh hoa của Đảng, của dân tộc.
Hai là, tiếp tục chỉnh đốn hệ thống tổ chức bộ máy và cán bộ; sửa đổi, hoàn thiện cơ chế vận hành bộ máy và phương thức lãnh đạo của Đảng một cách hữu hiệu.
Tuy có những tiến bộ nhất định, nhưng hệ thống tổ chức bộ máy đảng và cơ chế vận hành bộ máy đảng vẫn tồn tại không ít vướng mắc, thậm chí là trở ngại trong việc phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng ở tất cả các cấp. Tình trạng chồng chéo, cồng kềnh, cách bức, thậm chí cắt khúc khép kín, gây ách tắc, làm tổn hại mối liên hệ hữu cơ giữa các tổ chức đảng với nhau, với chính quyền các cấp, các tổ chức chính trị - xã hội và với nhân dân diễn ra ở không ít nơi; bộ máy nặng nề, tình trạng “đông mà không mạnh”, “chín người mười ý”... diễn ra trên không ít lĩnh vực của đời sống trong Đảng và xã hội.
Để làm “tan những cục nghẽn mạch đau đớn” ấy, về phương châm, phải bảo đảm sự liên thông mang tính chỉnh thể, trước hết của bộ máy tổ chức và cán bộ của Đảng, của hệ thống chính trị, mà mối quan hệ cơ bản nhất là giữa Đảng với Nhà nước và nhân dân:
Trước hết, thu hút vào bộ máy đảng những nhân tố ưu tú nhất, tinh hoa nhất và đãi ngộ, bảo vệ họ một cách xứng đáng. Tiếp tục rà soát, kiên quyết cắt bỏ những những khâu trung gian; sáp nhập những bộ phận trùng chéo trong bộ máy, giữa bộ máy đảng và bộ máy đảng và bộ máy nhà nước theo hướng Đảng hóa thân một cách khoa học, phù hợp và thận trọng.
Thứ hai, trong việc cấu trúc lại bộ máy của Đảng, kiên quyết cắt bỏ những bộ phận ít tác dụng hoặc cùng làm chức năng, nhiệm vụ với bộ máy nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội; tiếp tục đổi mới chức năng, nhiệm vụ của các cấp ủy, Ban Cán sự đảng, Đảng đoàn một cách phù hợp với tình hình mới; nhất thể hóa một số chức danh đứng đầu cơ quan đảng và nhà nước theo hướng trao quyền đồng thời kiểm soát quyền, theo trách nhiệm đối với người đứng đầu và tập thể cốt cán chung quanh người đứng đầu kết hợp với phân quyền hợp lý và minh bạch hóa quyền, trách nhiệm đối với các bộ máy thực thi và tham mưu... bảo đảm sự lãnh đạo tập trung, thống nhất, dân chủ và thông suốt đối với hệ thống chính trị, trước hết là giữa các tổ chức trong hệ thống của Đảng.
Thứ ba, kiên quyết chỉnh đốn và đổi mới đội ngũ cán bộ, rường cột là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý (thông qua thi tuyển, tranh tuyển, tiến tuyển, ứng tuyển, bổ tuyển, bầu tuyển, cử tuyển và người đứng đầu chọn tuyển... một cách minh bạch, trách nhiệm và dân chủ) sao cho thật đồng bộ, tinh hoa, gọn nhẹ và trong sạch; hết sức coi trọng đội ngũ chuyên gia, nhất là ở những lĩnh vực then chốt. Điều nhấn mạnh là, trong việc kiến tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, luôn thấu triệt phương châm sử dụng nhân tài: “tài không đợi tuổi”, “tài không kể tuổi” và “tài không nệ tuổi”, dỡ bỏ mọi khuôn sáo cơ học cứng nhắc về vấn đề này; đồng thời, ngăn chặn thứ tệ nạn “công tác cán bộ trong hội trường là chiến trường, ngoài hội trường là thị trường”, như dư luận cảnh báo, nhằm kiện toàn kỳ được đội ngũ gồm đa thế hệ, thực sự tinh nhuệ, đồng bộ, hiệu quả và mang tầm chiến lược. Định kỳ và không định kỳ thực thi khảo thí đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp nhằm sàng lọc, bổ nhiệm và miễn nhiệm cán bộ... theo công việc, không chờ hết nhiệm kỳ, hết tuổi công tác. Việc thành bại của sự nghiệp đổi mới phụ thuộc quyết định một phần căn bản vào phương lược xử lý vấn đề này.
Trong việc đổi mới cơ chế vận hành bộ máy đảng, cần thiết tiếp tục pháp chế hóa hoạt động, đổi mới phương thức và phong cách cầm quyền thật sự dân chủ từ Trung ương tới cơ sở, từ cấp ủy cao nhất tới từng chi ủy một cách thống nhất, phù hợp với các loại hình tổ chức đảng, trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ, bảo đảm không ngừng liên thông từ trong Đảng tới ngoài xã hội, gắn bó chặt chẽ với nhân dân theo mục tiêu Đảng lãnh đạo để nhân dân là chủ và làm chủ thật sự, vì hạnh phúc tối cao của nhân dân. Dành mọi điều kiện thuận lợi nhất cho tổ chức đảng ở cơ sở theo phương châm: Tất cả hướng về cơ sở, vì cơ sở, cho cơ sở và phụng sự nhân dân là thước đo về phẩm chất chính trị, phẩm hạnh đạo đức và sự cống hiến của mọi cán bộ, đảng viên; lấy đó làm bổn phận, đề cao danh dự và lương tâm của mỗi người trong bộ máy chỉnh thể của Đảng nói riêng, của hệ thống chính trị nói chung nhằm phát triển vững chắc cơ sở xã hội - chính trị cầm quyền của Đảng.
Ba là, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Không thể để bất cứ cán bộ, đảng viên nào nằm ngoài sự kiểm tra của tổ chức, sự giám sát của đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân, ở bất cứ đâu, trên bất cứ phương diện hoạt động, trên lĩnh vực công tác và địa bàn sinh sống nào... Phát huy dân chủ một cách đúng hướng và thật sự rộng rãi là điều tối cần thiết, nếu không nói là nhân tố quyết định thành công.
Thiết lập định chế xử lý kịp thời cho tất cả công tác kiểm tra, giám sát của các cấp ủy, của bộ máy đảng, của nhân dân đối với mỗi cấp ủy, mỗi tổ chức, mỗi cán bộ, đảng viên. Cùng với việc đổi mới công tác kiểm tra, giám sát của tổ chức, các cấp ủy, các tổ chức đảng hết sức chú trọng tiếp thu ý kiến góp ý của nhân dân, sự phát hiện của công luận về cán bộ, đảng viên, nhất là đảng viên thuộc quyền quản lý của mình một cách toàn diện, theo hướng chặt chẽ, minh bạch. Dựa hẳn vào nhân dân để xây dựng Đảng.
Đổi mới chế độ sinh hoạt đảng, cơ chế kiểm tra, giám sát đảng viên, nhất là cơ chế bảo đảm và mở rộng dân chủ trong tự phê bình và phê bình, trong kiểm tra, giám sát chặt chẽ đảng viên ngay từ chi bộ, từ cơ sở, nhằm trước hết “tống cổ” “những ông quan cách mạng”, những “ông tướng, bà tướng”... trong Đảng ra khỏi Đảng, như V. I. Lê-nin và Chủ tịch Hồ Chí Minh nói. Gắn chặt sinh hoạt của tổ chức đảng với sinh hoạt các đoàn thể, sống trong lòng nhân dân ở cơ sở nhằm không để lọt sự giám sát đảng viên - với tư cách là công dân - của nhân dân ngay tại nơi cư trú. Vì, tai mắt nhân dân là tinh tường và thấu suốt nhất. Như thế mới giữ được ổn định từ trong nội bộ Đảng, xây dựng môi trường chính trị - pháp lý - xã hội lành mạnh bảo đảm vững chắc cho mọi sự phát triển một cách dân chủ, tập trung và vững chắc của Đảng, ngay từ cơ sở xã hội - chính trị. Vì, mất niềm tin từ trong Đảng chỉ là mất từ nội bộ, mất từ điều chủ yếu đã nguy hiểm nhưng nhân dân ngoảnh mặt và mất niềm tin trong nhân dân là mất cả nền tảng xã hội - chính trị và có nguy cơ mất hết.
Bốn là, dân chủ hóa việc thực hiện kỷ cương, siết chặt kỷ luật của Đảng, đồng thời thực hiện nghiêm pháp luật của Nhà nước.
Không có ngoại lệ cho bất cứ ai trong việc chấp hành và thực thi kỷ luật của Đảng, cơ bản trước hết là Điều lệ Đảng và pháp luật của Nhà nước. Càng không thể chấp nhận tệ “khoanh vùng kỷ luật, pháp luật”, tình trạng “nhẹ đối với trên, nặng dành cho dưới” ở bất cứ cấp nào. Điều lệ Đảng, kỷ luật của Đảng chỉ có một. Theo đó, sự thực thi một cách dân chủ nhưng phải thống nhất, tập trung và kiên quyết, không có ngoại lệ hay sự miễn trừ nào, đối với bất tổ chức nào và bất cứ ai.
Đó là nguyên tắc.
Định chế, siết chặt và nâng cao chế độ chịu trách nhiệm cá nhân của những người đứng đầu bộ máy ở các cấp ủy gắn chặt với chế độ tập thể chịu trách nhiệm, trong việc thực thi đường lối chính trị của Đảng, pháp luật của Nhà nước, Điều lệ Đảng và bảo vệ kỷ luật, kỷ cương xã hội. Đồng thời, khen thưởng một cách kịp thời và thỏa đáng cho những tổ chức, cá nhân làm tốt công việc này; và ngược lại, kỷ luật thật nghiêm những tổ chức, cá nhân vi phạm Điều lệ Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, dù là ai, là tổ chức nào. Kỷ luật nghiêm khắc và kịp thời những ai gây mất đoàn kết nội bộ, kéo bè kéo cánh trong Đảng. Cấp ủy viên càng cao, cán bộ giữ trọng trách càng lớn càng phải gương mẫu, nghiêm cẩn, càng phải đề cao và giữ gìn liêm sỉ, nhân cách văn hóa... trước cấp dưới, trước toàn Đảng và toàn dân.
Chỉnh đốn đội ngũ những người làm công tác kiểm tra, thanh tra các cấp theo hướng tinh hoa, trong sạch, trung thành, nghiêm cách và thạo việc. Đối đãi xứng đáng với họ, như Chủ tịch Hồ Chí Minh dặn dò: Sử dụng và trọng đãi sao cho xứng đáng!
Bài học lịch sử xương máu cho thấy: Thưởng phạt không kịp thời và phân minh, tất sẽ rối loạn!
Năm là, tổng rà soát, phân loại, nâng cao chất lượng hệ thống tổ chức đảng, trước hết là tổ chức cơ sở đảng và toàn thể đội ngũ đảng viên là giải pháp căn cơ quyết định nâng cao sức chiến đấu của Đảng.
Chọn thời điểm thích hợp, tiến hành cuộc tổng kiểm kê, rà soát, phân loại một cách hệ thống, toàn diện, đúng thực chất đội ngũ đảng viên và tổng thể hệ thống tổ chức cơ sở đảng ở tất cả các cấp trong toàn Đảng. Hiện nay, toàn Đảng có gần 4 triệu đảng viên sinh hoạt ở hơn 53.300 tổ chức cơ sở đảng, trong đó 11.118 tổ chức cơ sở đảng ở xã, phường... Tình trạng không ít tổ chức cơ sở đảng “trong mà không sạch”, vững mạnh chỉ là hình thức, “đảng viên tuy đông mà không mạnh”... đang báo động. Không nắm đúng tình hình sẽ không có giải pháp xử lý phù hợp và hiệu quả. Trước đây, chúng ta đã rất cố gắng làm, nhưng chưa triệt để, thậm chí không ít cấp, không ít nơi “đánh trống bỏ dùi”, “gặp chăng hay chớ”, “đầu voi đuôi chuột”... nên sự đánh giá, phân loại không chính xác, thậm chí có mặt, có nơi còn làm cho tình hình phức tạp thêm. Phải cần kíp khắc phục tình trạng đó.
Phải thật sự coi trọng phương châm phù hợp và hiệu quả, trên cơ sở phân loại đúng tổ chức đảng và đảng viên, tiếp tục tìm tòi các giải pháp kiện toàn phù hợp với từng loại hình tổ chức đảng, tiếp tục cụ thể hóa việc thực hiện tiêu chuẩn và phân loại, sàng lọc đội ngũ đảng viên gắn chặt với việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XI về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong mỗi đảng viên và toàn Đảng, nhằm làm trong sạch mỗi tổ chức đảng và toàn Đảng. Bổ sung lực lượng mới, làm trong sạch và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, trước hết và tập trung là đội ngũ đảng viên làm công tác lãnh đạo, quản lý các cấp là quy luật phát triển của Đảng. Bình quân mỗi nhiệm kỳ Đại hội (từ VIII tới X), đội ngũ đảng viên được bổ sung hơn 20 vạn người, nâng tổng số đảng viên của Đảng hiện nay lên gần 4 triệu người. Đó là điều ghi nhận. Nhưng sắp tới, quyết không câu nệ và chạy theo số lượng trong phát triển Đảng. Cùng với việc tiếp tục kết nạp những người đủ tiêu chuẩn vào Đảng theo hướng trẻ hóa, trí thức hóa, kiên quyết tiếp tục cuộc tự chỉnh đốn từ mỗi đảng viên nhằm làm trong sạch Đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên.
Đồng thời, đặc biệt chú trọng lựa chọn phương án tốt nhất nhằm cơ cấu lại mô hình các tổ chức đảng phù hợp với tổ chức hành chính, mô hình các tập đoàn, nhất là các tập đoàn, doanh nghiệp chủ chốt... gắn chặt với việc phát triển Đảng. Tuyển lựa, xây dựng đội ngũ đảng viên có chất lượng cao làm công tác hoạch định chính sách ở tầm chiến lược tại các cơ quan tham mưu, nhất là các lĩnh vực then chốt, trọng yếu của quốc gia. Qua sàng lọc, việc cơ cấu lại phải bảo đảm sự cân đối đội ngũ đảng viên đủ mạnh ở các vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng đồng bào có đạo, ở vùng biên giới và hải đảo, những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế - xã hội; vùng trọng điểm về an ninh - quốc phòng, các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài... trên cơ sở xây dựng, củng cố, kiện toàn mô hình các tổ chức đảng một cách đồng bộ và phù hợp.
Phải làm một cách kiên quyết, toàn diện và cơ bản vấn đề có tính nền tảng này.
Cải cách chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng, theo hướng kiên quyết phải bỏ hẳn lối học theo từ chương, hết sức coi trọng học theo từ hành, quan trọng nhất là rèn luyện kỹ năng xây dựng tầm nhìn chính trị xa rộng và khả năng hoạch định quyết sách chính trị kịp thời, sáng tạo, đúng đắn; thành thục kỹ năng xử lý công việc cầm quyền; tư cách một người làm chính trị,... phù hợp với từng loại cán bộ, trên từng phương diện cầm quyền của Đảng. Trang bị kiến thức toàn diện, phù hợp, thiết thực và cụ thể cho đội ngũ đảng viên, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, không chung chung, chồng chéo, cào bằng và không thiết thực, chấm dứt tình trạng “tiền bổ hậu học”, “học bù”, “học... chạy”, thậm chí cả sự “học... mượn”; chỉ dạy những gì mà công việc của họ cần phải có trong công việc cầm quyền./.
-------------------------------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 65 - 66
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 172 - 173
(3) Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012, tr. 22
4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr. 621 - 622
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 325

Nhị LêTS, Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản
 
Nguồn: http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-Traodoi/2015/36787/Nhan-dien-va-dot-pha-cap-bach-cac-nguy-co-trong-Dang.aspx

Vạch mặt 25 kiểu ngụy biện phổ biến của người Việt

Woody ÜbermenschCTV

Trước khi đi vào nội dung chính của bài viết, tôi sẽ trả lời câu hỏi mà có thể nhiều bạn đọc sẽ thắc mắc: Tại sao tiêu đề của bài viết lại là “Ngụy biện của người Việt”?


Câu trả lời hoa mỹ:
-Người nước nào cũng ngụy biện, nhưng do sự khác biệt về văn hóa, lối sống, trình độ học vấn mà người dân mỗi nước thường có xu hướng ngụy biện khác nhau.
-Bài viết này bằng tiếng Việt, hướng tới độc giả Việt Nam nên dĩ nhiên sẽ viết về ngụy biện của người Việt.

Câu trả lời thật lòng:
-Thực ra tôi chỉ muốn giật title mà thôi.


Được rồi, bây giờ đi vào vấn đề chính. Trong bài viết này, chúng ta sẽ lần lượt xem xét những kiểu ngụy biện phổ biến nhất thường gặp trong tranh luận, kèm theo những ví dụ minh họa rất sinh động và hài hước. Tôi sẽ cố gắng trình  bày một cách đơn giản, rõ ràng và dễ hiểu nhất. Nếu một hôm nào đó, bạn tranh luận với một người và phát hiện ra người đó sử dụng một trong những ngụy biện này thì hãy dẫn link bài viết này cho họ đọc.
ảnh ngụy biện,logic,tranh luận,văn hóa tranh luận,người Việt


1.Ngụy biện tấn công cá nhân (ad hominem):

Đây là kiểu ngụy biện tấn công vào đối thủ tranh luận thay vì tập trung vào vấn đề đang tranh luận, trong khi người tranh luận và vấn đề vốn dĩ không liên quan gì tới nhau.
Ví dụ 1:
A: “Theo tôi tính toán thì kết quả của bài toán này là 69.”
B: “Tôi đoán hồi xưa anh học toán dốt lắm nên bây giờ mới giải ra kết quả ngu như vậy.”
Rõ ràng trong ví dụ này, B đang sử dụng ngụy biện tấn công cá nhân. Thay vì lập luận để phân tích ra A giải sai bài toán ở chỗ nào thì B chỉ đơn thuần công kích cá nhân A. Lập luận như vậy hoàn toàn không có bất kỳ giá trị nào.
ảnh ngụy biện,logic,tranh luận,văn hóa tranh luận,người Việt


Ngụy biện tấn công cá nhân này có rất nhiều biến thể. Sau đây chúng ta sẽ xét một vài biến thể của nó.

1.1.Biến thể Ngụy biện “Bạn cũng thế” (Tu quoque):

A tuyên bố một điều. B ngụy biện rằng A hành động trái ngược với tuyên bố của chính mình cho nên tuyên bố của A là sai. Sự thật thì dù A hành động như thế nào cũng chẳng ảnh hưởng đến đúng sai của tuyên bố.
Ví dụ 1.1:
Cha (A): “Hút thuốc lá có hại cho sức khỏe. Con không nên tập hút thuốc.”
Con (B): “Vậy tại sao cha hút thuốc? Cha hút được thì con cũng hút được.”
Rõ ràng trong ví dụ này, đứa con (B) đã sử dụng ngụy biên Tu quoque. Đứa con cho rằng vì cha hút thuốc nên điều cha nói về việc hút thuốc có hại cho sức khỏe là sai. Trong thực tế, hành động hút thuốc của người cha không liên quan gì tới tính đúng sai của mệnh đề mà người cha phát biểu.

1.2.Biến thể Ngụy biện “Cáo buộc thiên vị”:

Ngụy biện này cho rằng vì một người thuộc một tổ chức, phe phái nào đó nên chắc chắn những lập luận của người đó sẽ không có giá trị vì người đó sẽ thiên vị cho tổ chức, phe phái của mình.
Ví dụ 1.2:
A; “Quan điểm của tôi về vấn đề này là…”
B: “Cha anh A là Đảng viên đảng X nên chắc chắn anh A sẽ thiên vị cho Đảng X, quan điểm của anh A không có giá trị.”
Như vậy trong ví dụ này B đã ngụy biện bằng cách cáo buộc A thiên vị cho Đảng X mặc dù không hề có bằng chứng về việc đó.

1.3.Biến thể Ngụy biện “Bạn không đủ thầm quyền”:

Ngụy biện này mặc định rằng chỉ vì một người không đủ thẩm quyền hoặc trình độ trong một lĩnh vực nào đó thì chứng tỏ tất cả mọi phát biểu của anh ta về vấn đề đó đều sai.
Ví dụ 1.3:
 Thực khách (A): “Món ăn này dở quá, tôi không nuốt nổi!”
Người phục vụ (B): “Anh không phải là đầu bếp nên anh không đủ trình độ để nhận xét về món ăn này!”
Rõ ràng B đã sử dụng ngụy biện. A không cần phải là một đầu bếp mà chỉ cần có vị giác bình thường là đủ để biết được món ăn ngon hay dở.

1.4.Biến thể ngụy biện “Văng tục chửi thề”:

Đây là biến thể thấp hèn nhất trong số các biến thể của ad hominem. Người sử dụng ngụy biện này đơn giản chẳng cần phải lý luận gì cả, chỉ cần văng tục chửi thề vào mỗi lập luận của đối thủ.
Ví dụ 1.4:
A: “Lập luận của tôi là…Bởi vì…cho nên…Như vậy…bla…bla…”
B: “Đờ mờ! Mày đi chết đi!”

2.Ngụy biện đảo ngược nhân quả:

Ngụy biện này còn có tên khác là “Ngụy biện khẳng định hậu thức” hay “Ngụy biện giả định nguyên nhân”. Những người sử dụng ngụy biện này rất thích suy luận ngược từ hậu quả ra nguyên nhân.
Ví dụ 2:
A: “Mèo bị chó cắn thì sẽ chết. Con mèo này chết, chứng tỏ nó bị chó cắn.”
Thực ra có rất nhiều nguyên nhân có thể khiến một con mèo chết: bị điện giật chết, bị ngộ độc thức ăn chết, bị xe cán chết, đi ăn vụng bị người ta đập chết, bị bệnh chết… Nhưng anh A chỉ chăm chăm vào một nguyên nhân là bị chó cắn chết. Tất nhiên chúng ta cũng không loại trừ khả năng con mèo này bị chó cắn chết, nhưng đó chỉ là một trong rất nhiều khả năng có thể xảy ra. Khẳng định chắc chắn nguyên nhân như vậy khi chưa thu thập thêm thông tin cần thiết rõ ràng là một sự ngụy biện.
ảnh ngụy biện,logic,tranh luận,văn hóa tranh luận,người Việt


3.Ngụy biện giả định thông tin không có thực (Ngụy biện tiên nghiệm):

Người sử dụng loại ngụy biện này sẽ đưa ra một thông tin để hỗ trợ cho lập luận của mình mặc dù không nêu ra được bất cứ bằng chứng nào về tính đúng đắn của thông tin đó.
Ví dụ 3a:
A: “Thằng hàng xóm hôm nay cư xử hơi lạ, chắc hẳn nó là kẻ tối hôm qua đột nhập vào ăn cắp con gà nhà mình rồi!”
Thực ra chẳng có bằng chứng nào để chứng minh thằng hàng xóm ăn cắp con gà, ngoài việc nó “cư xử hơi lạ” theo con mắt cảm tính của anh A.
ảnh ngụy biện,logic,tranh luận,văn hóa tranh luận,người Việt

Ví dụ 3b:
Sếp (B) nói với nhân viên (C): “Chẳng cần kiểm tra tôi cũng biết anh lén chơi game trong giờ làm việc!”
Ủa, không kiểm tra làm sao ông biết được hắn chơi game trong giờ làm việc?

4.Ngụy biện quyền lực (ad verecundiam):

Ngụy biện này có 2 biến thể:
Biến thể 4.1. Loại ngụy biện này cho rằng vì một người nổi tiếng trong lĩnh vực X cũng đồng nghĩa với việc người đó hiểu biết trong những lĩnh vực khác như Y, Z...
Ví dụ 4.1a:
A: “Ý kiến của tôi về việc tăng thuế đã được nhiều nhà học giả nổi tiếng trong lĩnh vực thú y, sản khoa và nghệ thuật tự do ủng hộ.”  (Vâng, nhưng không có bất kỳ nhà kinh tế học nào ủng hộ anh ta)
Ví dụ 4.1b:
B: “Bởi cô ấy là một diễn viên ca sĩ nổi tiếng nên tôi nghĩ rằng ý kiến của cô về chính sách đối ngoại và xuất nhập khẩu là hoàn toàn đúng đắn.”  

Biến thể 4.2. Loại ngụy biện này cho rằng vì một người nổi tiếng trong lĩnh vực X nên tất cả những gì người đó nói về lĩnh vực X đều đúng.
Ví dụ 4.2:
A: “Anh B là một người tốt nghiệp Đại học kinh tế nên chắc chắn anh ta không bao giờ có thể phát biểu sai khi nói về kinh tế được.”

5.Ngụy biện nặc danh (Ngụy biện không thể kiểm chứng):

Cũng là một loại ngụy biện viện dẫn thẩm quyền tuy nhiên người được viện dẫn lại không được nêu tên cụ thể, từ đó đối thủ không thể kiểm chứng được tính đúng sai.
Ví dụ 5:
A: “Các nhà khoa học đã chứng minh rằng uống nước ngọt có lẫn côn trùng như ruồi, gián, kiến… sẽ làm gia tăng tuổi thọ.”
Vấn đề là “các nhà khoa học” đó là những ai? Tên gì? Làm việc ở viện nghiên cứu hay trường Đại học nào? Nghiên cứu đó được xuất bản khi nào, trên tạp chí nào? Tất nhiên sẽ chẳng ai biết được liệu A có bịa ra các nhà khoa học đó hay không.
ảnh ngụy biện,logic,tranh luận,văn hóa tranh luận,người Việt


6.Ngụy biện ngoại suy (Ngụy biện tương đồng hóa những đối tượng không tương đồng):

Ngụy biện này cho rằng vì 2 đối tượng A và B có một số nét giống nhau nên tất cả các khía cạnh khác của A cũng phải giống hệt B. Vì mèo cũng có 4 chân như chó nên mèo cũng phải sủa “gâu gâu” như chó.
Ví dụ 6:
A: “Xã hội loài người cũng tương tự như cơ thể con người, làm việc hiệu quả nhất khi được điều khiển bởi một bộ não thống nhất. Do đó một chế độ độc tài luôn làm việc hiệu quả hơn một chế độ dân chủ.”
Ngụy biện này dựa trên việc xã hội và cơ thể có một chút tương đồng nên cho rằng 2 đối tượng đó giống hệt nhau về mọi khía cạnh.

7.Ngụy biện lấy trường hợp cá biệt để đại diện cho toàn thể:

Các xu hướng, quy luật thường có một số ít những trường hợp ngoại lệ. Người sử dụng ngụy biện này thường lấy những trường hợp ngoại lệ cá biệt đó để phủ nhận xu hướng chung.
Ví dụ 7:
A: “Theo các nghiên cứu của tác giả Tom Corley, có một mối tương quan có ý nghĩa thống kê giữa khả năng tự học của một người và thành công tài chính của người đó.”
B: “Ông sếp của tôi rất lười học hỏi mà ông ta vẫn giàu đấy thôi!”
Việc B viện dẫn ra một trường hợp cá biệt cũng chẳng thể phủ nhận mối tương quan về mặt thống  kê mà A nhắc tới.

8.Ngụy biện rẽ đôi (Ngụy biện giới hạn 2 lựa chọn):

Là loại ngụy biện giới hạn câu trả lời xuống còn 2 lựa chọn, không trắng thì phải đen, nếu anh không phải là đồng minh của chúng tôi thì anh chắc chắn là kẻ thù (không có trung lập).
Ví dụ 8:
Người mẹ nói với đứa con: “Con muốn dọn đồ chơi lên trên tủ hay dọn vào thùng giấy?”
Rõ ràng ở đây người mẹ đã sử dụng ngụy biện rẽ đôi (kết hợp với ngụy biện câu hỏi phức-xem ở mục 11) để loại bỏ các lựa chọn khác (ví dụ lựa chọn không dọn đồ chơi) và chỉ để lại 2 lựa chọn. Tuy nhiên hãy cẩn thận, gieo gió có thể sẽ gặp bão. Mười năm sau đứa con nói với mẹ: “Mai là sinh nhật con! Mẹ muốn mua cho con một cái laptop mới hay một chiếc xe máy?” Lại là một ngụy biện rẽ đôi khác nhưng lần này là từ đứa con.
ảnh ngụy biện,logic,tranh luận,văn hóa tranh luận,người Việt


9.Ngụy biện lối mòn:

Là loại ngụy biện cho rằng cái gì đã tồn tại lâu đời hoặc đã được quen thuộc thì đều tốt. Người sử dụng ngụy biện này tin rằng cái gì đã từng hoạt động hiệu quả trong quá khứ thì sẽ luôn hoạt động hiệu quả trong hiện tại và tương lai, cho dù hoàn cảnh và môi trường có thay đổi như thế nào.
Ví dụ 9:
Ông chủ (A) nói với nhân viên: “Công ty chúng ta trước giờ vẫn sản xuất thủ công như vậy có làm sao đâu? Chẳng cần phải đổi mới công nghệ làm gì!”

10.Ngụy biện vòng vo (Điệp nguyên luận - petition principia):

Là loại ngụy biện dùng chính nó để chứng minh nó thông qua một chuỗi lý luận vòng vo.
Ví dụ 10:
A: Anh phải tin tôi! Cậu bé đánh giày có thể làm chứng cho tôi!
B: Sao tôi phải tin cậu ta?
A: Vì cậu ta làm một người trung thực, thưa ngài! Tôi có thể làm chứng cho sự trung thực của cậu ta!
Trong ví dụ này, A đã sử dụng ngụy biện vòng vo.

11.Ngụy biện câu hỏi phức:

Là loại ngụy biện mà trong đó một câu hỏi dạng có/không được tạo thành từ 2 hay nhiều câu hỏi khác nhau. Bằng cách đó thông tin sai sẽ được đưa vào câu hỏi và được mặc nhiên thừa nhận là đúng.
Ví dụ 11:
A: “Ngoài phân bò ra, bạn có ăn gì khác không?”
Rõ ràng với câu hỏi này, người trả lời cho dù trả lời “có” hay “không” thì cũng đều thừa nhận là mình ăn phân bò.
ảnh ngụy biện,logic,tranh luận,văn hóa tranh luận,người Việt


12.Ngụy biện khái quát hóa vội vã (secundum quid)

Là ngụy biện bằng cách khái quát hóa từ vài ví dụ lặt vặt và có thể không mang tính đại diện.
Ví dụ 12:
A: “Mấy con mèo nhà tôi đều có lông màu tam thể, chứng tỏ tất cả mèo trên thế giới đều có lông màu tam thể.”
Nếu một ngày nào đó bắt gặp một con mèo đen, không biết anh A này sẽ ngạc nhiên như thế nào?
ảnh ngụy biện,logic,tranh luận,văn hóa tranh luận,người Việt


13.Ngụy biện tổng thể:

Đây là loại ngụy biện cho rằng cái gì đúng với bộ phận thì sẽ đúng với tổng thể.
Ví dụ 13:
A: “Những nhân viên này mỗi người đều làm việc rất giỏi. Chắc chắn khi tập hợp lại họ sẽ tạo thành đội nhóm tuyệt vời.”
Vấn đề là nếu một vài thành viên trong nhóm có mâu thuẫn với nhau thì sao? Hoặc họ không thể phối hợp một cách nhịp nhàng với nhau? Hoặc họ không biết cách làm việc theo nhóm? Cho dù mỗi bộ phận đều tốt nhưng khi kết hợp lại chưa chắc tổng thể sẽ tốt.
ảnh ngụy biện,logic,tranh luận,văn hóa tranh luận,người Việt

14.Ngụy biện thiếu nhất quán (Kết luận chối bỏ tiên đề):

Kết luận chối bỏ tiên đề là một loại ngụy biện “Ôi trời, tôi quên mất tôi đã nói gì lúc đầu rồi!” Ngụy biện này bắt đầu với một số điều chắc chắn đúng rồi sau đó kết luận lại mâu thuẫn thẳng thừng với những khẳng định ban đầu. Nó tạo ra mâu thuẫn logic.
Ví dụ 14:
A: “Con trai, vì trên thế gian này không có gì chắc chắn, chúng ta phải dựa vào kinh nghiệm bản thân!”
B: “Cha chắc không?”
A: “Có chứ con trai. Ta chắc chắn!”
ảnh ngụy biện,logic,tranh luận,văn hóa tranh luận,người Việt


15.Ngụy biện tiên đề mâu thuẫn:

Là loại ngụy biện mà tiên đề tự mâu thuẫn với chính nó.
Ví dụ 15:
Chuyện ngày xưa kể rằng có một người chuyên đi bán mâu (giống cây giáo) và thuẫn (tấm khiên), để bán được hàng anh ta không tiếc lời khen về sản phẩm của mình. Một lần, tại một ngôi làng nọ, anh ta cầm chiếc thuẫn lên và lớn tiếng rao: “Các vị hãy đến đây mà xem, đây là chiếc thuẫn nổi tiếng thế giới, kiên cố không gì so sánh được, không chiếc mâu nào có thể đâm thủng được nó.” Nghe vậy, mọi người xúm lại xem hàng của anh ta rất đông, và không ngớt bình phẩm. Người này thấy lời rao của mình có hiệu quả thì vô cùng đắc ý, anh ta lại nhấc chiếc mâu lên tán dương: “Các vị lại mà xem chiếc mâu của tôi, được đúc thuần bằng sắt thép nên sắc bén vô cùng, không chiếc thuẫn nào có thể cản được nó.” Mọi người xung quanh nghe thấy vậy đều cười ầm lên. Lúc đó, có một người đến trước mặt người lái buôn và nói: “Theo như anh nói, thì chiếc mâu của anh sắc bén có thể đâm thủng chiếc thuẫn kiên cố nhất, còn chiếc thuẫn của anh thì lại cứng chắc nhất thế giới, bất kì chiếc mâu sắc bén nào cũng không thể đỡ được. Vậy trước mặt mọi người, anh hãy thử dùng chiếc mâu đâm vào chiếc thuẫn xem kết quả như thế nào.”
Người bán buôn này nghe nói vậy cứng miệng, không nói được câu nào, vội vàng nhặt mâu và thuẫn của mình, biến mất trong tiếng cười của đám đông.

16.Ngụy biện hoán vị sai:

Đôi khi người ta thích đổi vị trí chủ ngữ và vị ngữ trong một câu. Trong một vài trường hợp, ý nghĩa của câu vẫn đúng nhưng trong vài trường hợp khác nó lại sai. Trường hợp đổi chỗ sai gọi là ngụy biện hoán vị sai.
Ví dụ 16a:
A: “Tất cả mèo đều là động vật, cho nên tất cả động vật đều là mèo.”
Ví dụ 16b:
B: “Có vài động vật chết không phải là mèo cho nên có vài con mèo không phải là những động vật chết.” (Sự tồn tại của một loài khác là bằng chứng chứng minh mèo bất tử)
Ví dụ 16c:
C: “Hạnh phúc là khi được yêu ai đó.”
3 câu phía trên là 3 ví dụ về ngụy biện hoán vị sai.

17.Ngụy biện bất khả tri (Ignoramtiam, argumentum ad):

Là ngụy biện sử dụng sự thiếu hiểu biết về thứ gì đó để suy ra trường hợp đối lập là đúng, theo kiểu “nếu không ai chứng minh được tôi sai thì tôi chắc chắn đúng”.
Ví dụ 17:
A: “Hồn ma là có tồn tại. Bởi vì chẳng ai có thể chứng minh được là chúng không tồn tại.”
ảnh ngụy biện,logic,tranh luận,văn hóa tranh luận,người Việt


17.1. Một biến thể của ngụy biện bất khả tri là ngụy biện đẩy trách nhiệm chứng minh điều ngược lại cho đối thủ:

Ví dụ 17.1:
A: “Bạn hoàn toàn không có bằng chứng gì để khẳng định C ăn trộm đồ của bạn.”
B: “Vậy bạn chứng minh hắn không phải kẻ trộm đi!”
Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta rất hay gặp loại ngụy biện này dưới hình thức một người tuyên bố một điều gì đó, khi bị người khác hỏi “Tại sao?” thì người này hỏi ngược lại “Tại sao không?”.

18.Ngụy biện hài hước:

Là ngụy biện sử dụng sự hài hước hoặc những câu nói gây cười để đánh lạc hướng người nghe ra khỏi luận điểm tranh luận, đòng thời khéo léo bôi nhọ đối thủ.
Ví dụ 18:
A: “Luận điểm của đối phương làm tôi nhớ đến một câu chuyện buồn cười như sau…”

19.Ngụy biện cứng đầu (Lapidem, argumentum ad):

Là loại ngụy biện mặc kệ và bỏ ngoài tai tất cả mọi lý luận của đối phương, chỉ khăng khăng giữ ý kiến của mình dù ý kiến đó có bị chứng minh là sai đi nữa.
Ví dụ 19:
“Anh ấy là bạn của tôi, tôi sẽ không nghe bất kỳ lời nói xấu nào về anh ta.”
ảnh ngụy biện,logic,tranh luận,văn hóa tranh luận,người Việt


20.Ngụy biện lối nói lập lờ:

Là ngụy biện bằng cách sử dụng những từ ngữ đa nghĩa, tối nghĩa để chuyển một khái niệm này sang một khái niệm khác có cùng tên gọi. Lối ngụy biện này rất được các chính trị gia ưa thích.
Ví dụ 20:
Nửa ổ bánh mỳ thì hơn là không có gì.
Không có gì quan trọng hơn sức khỏe.
Do đó nửa ổ bánh mỳ quan trọng hơn sức khỏe.
ảnh ngụy biện,logic,tranh luận,văn hóa tranh luận,người Việt


21.Ngụy biện cá trích đỏ:

Là kiểu ngụy biện đánh lạc hướng tranh luận bằng cách đưa ra một điều gì đó có vẻ hấp dẫn (như con cá trích đỏ thơm ngậy) nhưng lại không hề liên quan đến chủ đề đang tranh luận.
Ví dụ 21:
A: “Xã hội Việt Nam hiện nay có rất nhiều vấn đề bất cập như…”
B: “Nếu mày không thích thì cuốn xéo ra nước ngoài mà sống.”
Trong ví dụ trên B đã sử dụng ngụy biện cá trích đỏ. Bởi vì việc A sống ở trong nước hay nước ngoài chẳng liên quan gì tới đề tài đang tranh luận.

22.Ngụy biện bù nhìn rơm:

Là ngụy biện bẻ cong, xuyên tạc lập luận của đối thủ khiến nó có ý nghĩa khác đi, rồi sau đó mới tấn công.
Ví dụ 22:
A: “Giới hạn tốc độ trên đường cao tốc này là không cần thiết.”
B: “Nếu tất cả mọi người có thể đi với bất cứ tốc độ nà họ muốn ở bất cứ nơi đâu, rất nhiều tai nạn giao thông sẽ xảy ra.”
Trong ví dụ trên, B đã dùng ngụy biện bù nhìn rơm để xuyên tác ý kiến của A.
ảnh ngụy biện,logic,tranh luận,văn hóa tranh luận,người Việt


23.Ngụy biện ôn hòa (Ngụy biện trung đạo):

Đây là ngụy biện cho rằng cái gì ở giữa thì luôn luôn đúng, còn lại đều là cực đoan và sai lầm.
Ví dụ 23:
A: “2 + 2 = 4”
B: “2 + 2 = 6”
C: “Hai bạn cực đoan quá! Chúng ta nên chọn giải pháp ôn hòa là 2 + 2 = 5.”
ảnh ngụy biện,logic,tranh luận,văn hóa tranh luận,người Việt


24.Ngụy biện hai sai thành một đúng:

Là loại ngụy biện bác bỏ cái sai bằng một cái sai khác, theo kiểu “nếu người khác cũng sai thì cái sai của tôi chấp nhận được.”
Ví dụ 24:
A: “Việt Nam tham nhũng ghê quá!”
B: “Ôi dào! Nước ngoài cũng tham nhũng đầy ra ấy mà!”
Vấn đề là việc nước ngoài cũng tham nhũng không thể khiến việc tham nhũng ở Việt Nam trở thành một việc chấp nhận được.

25.Ngụy biện bằng cách tác động vào cảm xúc:

Kẻ ngụy biện khai thác và lợi dụng cảm xúc của người nghe như lòng trắc ẩn, nỗi sợ hãi, sự ganh ghét, tính sĩ diện…
Ví dụ 25:
A: “Tôi phản đối việc bỏ tù kẻ giết người hàng loạt này! Các bạn hãy đặt mình vào vị trí của anh ta xem sao, bị vây trong 4 bức tường lạnh lẽo, cách ly khỏi xã hội suốt nhiều năm, bị cộng đồng quay lưng. Các bạn không thấy anh ta quá tội nghiệp hay sao?”


Thật là cảm động!
ảnh ngụy biện,logic,tranh luận,văn hóa tranh luận,người Việt

Sau khi đã đọc xong 25 kiểu lý luận phổ biến trên, các bạn hãy thử phân tích một số ví dụ sau, coi như một cách ôn luyện lại những gì vừa mới tìm hiểu:


Bài tập 1:
Trong câu sau đây có chứa 2 ngụy biện (ngụy biện “bạn không đủ thẩm quyền” và ngụy biện “giả định thông tin không có thực”), bạn hãy phân tích 2 ngụy biện đó:
“Mày đã làm được gì cho đất nước chưa mà to mồm!”

Bài tập 2:
Trong ví dụ sau đây, B đã sử dụng bao nhiêu ngụy  biện trong câu nói của mình, hãy phân tích:
A và B là 2 học sinh học cùng lớp. Hôm nay giáo viên phát bài kiểm tra, A được 2 điểm, B được 4 điểm. Lúc A và B đi ra cổng trường thì gặp mẹ của B. Mẹ B hỏi B hôm nay kiểm tra được bao nhiêu điểm. A nhanh nhảu đáp rằng B được 4 điểm. B thấy vậy bực mình nói: “Mày đã làm được như tao chưa mà nói!”

Bài tập 3:
Trong ví dụ sau, B đã dùng bao nhiêu ngụy biện, hãy phân tích:
A: “Ca sĩ S hát dở òm!”
B: “Mày đã hát bằng người ta chưa mà nói!”

Bài tập 4:
Phân tích ngụy biện trong ví dụ sau (trích từ một status trên Facebook):
“Tối qua lại nhậu với một thằng Mỹ Tinh Hoa, mình hỏi nó thấy sao về việc dân tao đánh giết trộm chó, kéo lê công an, bênh vực kẻ tống tiền và biện luận vì Luật Pháp và Người Thừa Hành Luật Pháp của chúng tao tệ quá, Thượng Bất Chính Hạ Tất Loạn!
Nó nhấp ngụm Whiskey Bourbon rồi chậm rãi phát biểu…”

Bài tập 5:
Phân tích ngụy biện trong câu nói sau:
“Người ta chỉ trích tôi là vì người ta ganh tị với tôi”

Bài tập 6:
Phân tích ngụy biện sau:
“Dự án chục tỷ, sai phạm một tỷ là tốt rồi!” (Ẩn ý: còn có những dự án khác sai phạm lớn hơn nên sai phạm với tỉ lệ 1/10 thế này là chấp nhận được) – trích lời một quan chức.

Bài tập 7
Phân tích ngụy biện sau:
“Ôi dào, sống chết có số, cần gì phải cẩn thận! Thằng con tôi lúc nào đi xe cũng phóng bạt mạng, không đội mũ bảo hiểm, giờ vẫn sống nhăn răng đấy thôi. Trong khi nhiều người đi đứng cẩn thận vẫn gặp tai nạn như thường.”

Bài tập 8:
Phân tích ngụy biện sau:
Người khởi nghiệp (A): “Các vị nên đầu tư cho ý tưởng của tôi”
Nhà đầu tư (B): “Hãy cho tôi một lý do chúng tôi nên đầu tư cho ý tưởng của cậu?”
Người khởi nghiệp (A): “Hãy cho tôi một lý do các ông không nên đầu tư cho ý tưởng của tôi”

Bài tập 9:
Phân tích ngụy biện sau:
"Nếu học đi trên thủy tinh có thể chảy máu, thì học bơi cũng có thể chết đuối vậy" – Tiến sĩ Phan Quốc Việt.

Nếu bạn muốn đóng góp, bổ sung thêm những kiểu ngụy biện khác hoặc ví dụ khác, hãy viết ở phần comment cho mọi người cùng xem nhé.
Nguồn: https://www.ohay.tv/view/vach-mat-25-kieu-nguy-bien-pho-bien-cua-nguoi-viet/SS8XC

Cả nhà làm quan theo... đúng quy trình (!)

Sau huyện Mỹ Đức (Hà Nội), dư luận lại hoài nghi về việc bổ nhiệm nhiều người trong một gia đình giữ nhiều chức vụ quan trọng tại huyện An Dương (Hải Phòng)

Dư luận tại huyện An Dương, TP Hải Phòng gần đây bàn tán về việc gia đình ông Nguyễn Thế Sơn - Ủy viên Thường trực Huyện ủy, Phó Chủ tịch Thường trực UBND huyện An Dương - có nhiều người giữ các chức vụ quan trọng trong bộ máy lãnh đạo huyện này.
“Uy tín cao”, là “điểm sáng” (!)
Xác nhận với phóng viên Báo Người Lao Động vào chiều 9-1, ông Cao Xuân Liên, Trưởng Ban Tổ chức Thành ủy Hải Phòng, cho biết ông Nguyễn Thế Sơn có 4 anh em ruột và nhiều con, cháu đang nắm giữ các vị trí quan trọng. Ông Liên cho rằng đây chỉ là... ngẫu nhiên (!?). “Trường hợp ông Sơn thì thuộc Thành ủy Hải Phòng quản lý.  Quá trình lấy phiếu tín nhiệm, bổ nhiệm rất bình thường, đúng quy trình” - ông Liên nói.
Anh ruột của ông Sơn - ông Nguyễn Thế Son - hiện là Huyện ủy viên, Trưởng Phòng Tài chính - Kế hoạch. Em ruột ông Sơn là Nguyễn Thế Hùng, cũng là Huyện ủy viên, Phó Ban Thường trực Ban Tổ chức Huyện ủy. Em gái của ông Sơn là Nguyễn Thị Thu Hương hiện là Phó Phòng Nội vụ UBND huyện.
Ngoài ra, trong gia đình quyền thế này còn có ông Nguyễn Thế Đức (con trai ông Nguyễn Thế Son) đang là Phó Bí thư Đoàn Thanh niên huyện An Dương. Cùng với đó, vợ ông Đức là Phạm Thị Như, chuyên viên Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện An Dương.

Trụ sở UBND huyện An Dương, TP Hải Phòng, nơi nhiều người trong gia đình ông Nguyễn Thế Sơn giữ các chức vụ quan trọng
Trụ sở UBND huyện An Dương, TP Hải Phòng, nơi nhiều người trong gia đình ông Nguyễn Thế Sơn giữ các chức vụ quan trọng

Trước dư luận về việc trên, ông Nguyễn Văn Hoàn, Bí thư Huyện ủy An Dương, khẳng định gia đình ông Nguyễn Thế Sơn có nhiều người “làm quan” không vi phạm những gì luật cấm, không vi phạm quy định về mặt Đảng.
“Tất cả các trường hợp trong gia đình ông Sơn không phải bây giờ mới làm hoặc kéo từ chỗ nọ, chỗ kia về mà công tác tại huyện từ lâu và có quá trình phấn đấu, trưởng thành; tiêu chí, tiêu chuẩn đều bảo đảm. Các vị trí được làm theo quy trình chặt chẽ, uy tín, tín nhiệm rất cao” - ông Hoàn khẳng định.
Bí thư Huyện ủy An Dương cho biết thêm vào thời ông Nguyễn Thế Sơn làm Phó Chủ tịch UBND huyện, những trì trệ trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, những vướng mắc trong đền bù, giải phóng mặt bằng được giải quyết hiệu quả, được TP đánh giá là điểm sáng.
Cùng thăng tiến
Theo tìm hiểu của chúng tôi, trước khi đảm nhiệm chức vụ Phó Chủ tịch Thường trực UBND huyện An Dương, ông Nguyễn Thế Sơn đã từng làm tổ trưởng dân phố ở thị trấn An Dương (thuộc huyện An Dương). Sau đó, ông phấn đấu dần thành cán bộ địa chính, rồi Phó Chủ tịch UBND thị trấn. Năm 2008, ông Sơn được bổ nhiệm làm Phó chánh Văn phòng Huyện ủy An Dương, Bí thư Đảng ủy xã Đại Bản. Đến năm 2014, ông được bổ nhiệm giữ cương vị Phó Chủ tịch UBND huyện An Dương và hiện là Phó Chủ tịch Thường trực UBND huyện.
Cũng theo ông Nguyễn Văn Hoàn, trong thời gian giữ chức vụ Trưởng Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện từ nhiều năm qua, ông Nguyễn Thế Son luôn hoàn thành rất tốt nhiệm vụ được giao. Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện An Dương nhiều năm liền là lá cờ đầu của Hải Phòng.
Trước đó, ông Nguyễn Thế Son từng làm việc tại Phòng Công Thương huyện, rồi Phó Giám đốc ban quản lý dự án huyện và là Trưởng Phòng Tài chính - Kế hoạch từ 10 năm nay.
Còn trường hợp ông Nguyễn Thế Hùng, trước khi trở thành công chức của huyện, là người điều hành Công ty TNHH Đức Huy - đơn vị đã trúng thầu thi công nhiều công trình sử dụng vốn ngân sách tại huyện An Dương. Năm 2007, ông Hùng được tuyển dụng về Phòng Công Thương huyện. Năm 2010, ông được bổ nhiệm chức vụ Phó trưởng Ban Tổ chức Huyện ủy và nay là Huyện ủy viên, Phó Ban Thường trực Ban Tổ chức Huyện ủy An Dương.
Đối với trường hợp bà Nguyễn Thị Thu Hương, trước khi về Phòng Nội vụ UBND huyện, bà là một tiểu thương. Năm 2007, bà được tuyển dụng vào Phòng Nội vụ huyện An Dương khi chưa có bằng ĐH. Năm 2013, bà Hương học xong ĐH tại chức và được bổ nhiệm làm Phó Phòng Nội vụ huyện cho đến nay!

Mỹ Đức: Mọi việc vẫn như cũ
Về việc nhiều người trong một họ hàng làm cán bộ chủ chốt tại huyện Mỹ Đức (Hà Nội), ông Lê Văn Sang - Bí thư Huyện ủy Mỹ Đức - cho biết sau khi Thành ủy Hà Nội kiểm tra và kiểm điểm từ tháng 9-2015, đến nay mọi việc không có gì thay đổi. UBND huyện đang tập trung vào những công việc cuối năm và chuẩn bị cho lễ hội chùa Hương đầu Xuân 2016.
Theo ông Sang, các cán bộ ở Mỹ Đức được bổ nhiệm đúng quy trình, sau khi bổ nhiệm đều phát huy tốt năng lực. Bản thân ông Sang cũng có mấy chục năm làm việc ở huyện, được bố trí qua nhiều chức vụ chứ không thể chi phối được việc bổ nhiệm cán bộ.
Đối với 6 trường hợp được biệt phái từ Ban Quản lý di tích Hương Sơn về các cơ quan của huyện, hiện đã điều động 5 cán bộ trở về đơn vị cũ công tác ngay sau khi có thông tin phản ánh.
N.Quyết

10 người anh em, bà con làm cán bộ xã
Tại xã Hạ Sơn, huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An, hầu như các cán bộ chủ chốt của xã đều là họ hàng thân thuộc trong gia đình ông Lê Văn Thanh, Chủ tịch UBND xã Hạ Sơn và ông Trương Văn An, Bí thư Đảng ủy xã.
Cụ thể, ông Lê Văn Đoài, Phó Chủ tịch HĐND; ông Đinh Văn Thụ, Phó Chủ tịch UBND xã; ông Đinh Văn Hải, xã đội trưởng; ông Trương Minh Tuấn, cán bộ địa chính - xây dựng và bà Trương Thị Phòng, Chủ tịch Hội Phụ nữ - đều là người nhà ông Lê Văn Thanh.
Ông Trương Văn Trị, Trưởng Công an xã; bà Trương Thị Minh Nguyệt, Chủ tịch Hội Nông dân; ông Vi Văn Thắng, cán bộ tư pháp - thì là bà con, họ hàng với ông Trương Văn An.
Về các trường hợp “bất thường” này, ông Nguyễn Công Kích, Trưởng Ban Tổ chức Huyện ủy Quỳ Hợp, cho biết: Huyện ủy, UBND đã kiểm tra và thấy việc tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ tại xã Hạ Sơn đúng quy trình. Hạ Sơn là xã vùng sâu ở miền núi, cả xã có 2-3 dòng họ nên cán bộ rất dễ là anh em, người nhà với nhau. Tuy nhiên, việc một xã mà có tới 10 người có quan hệ anh em, bà con với nhau cùng làm việc thì khó tránh khỏi dị nghị, phe nhóm. Sắp tới, UBND huyện sẽ luân chuyển cán bộ tư pháp, địa chính... sang công tác ở đơn vị khác.
Đ.Ngọc

Qua ruộng dưa chớ cột giày
Câu chuyện “cả họ làm quan” ở xứ ta không mới vì đã phổ biến ở khá nhiều địa phương. Tất nhiên khó mà quy kết việc bổ nhiệm người nhà làm cán bộ là đúng hay sai nếu cơ quan chức năng chưa kiểm tra cặn kẽ.
Vậy thì tại sao dư luận luôn cảnh giác với tình trạng này? Người dân luôn nghi ngại cán bộ địa phương cùng họ hàng?
Không phải bây giờ, mà ngay từ thời Lý - Trần đã có những quy định để tránh. Người làm quan đầu tỉnh không được bổ nhiệm tại quê quán của mình. Nguyên do chính là để tránh tình trạng cất nhắc con cháu, người họ hàng cùng làm quan. Thứ đến là khi xử lý vụ việc địa phương không phải bị khó xử nếu va chạm với người cùng họ hàng. Quan trọng hơn, nếu cất nhắc nhiều người cùng họ hàng làm quan thì cơ chế kiểm tra, xử lý để ngăn ngừa tham ô, lạm quyền... dễ bị triệt tiêu.
Hiện nay, chúng ta đang đề cao phòng chống tham nhũng, ngăn ngừa hành vi lạm quyền, trục lợi của cán bộ thì câu chuyện cả họ làm quan cần phải được đề cao cảnh giác hơn. “Một người làm quan cả họ được nhờ” - là câu nói đầy ẩn ý của người xưa mà đến nay ít ai nghi ngờ tính xác thực của nó.
Cán bộ “chạy” ghế, đầu cơ vị trí, “cài” người nhà vào bộ máy chính quyền địa phương đã là... “chuyện thường ngày ở huyện” trong mắt người dân. Sự kín kẽ của cái gọi là quy trình sẽ làm người dân không thể chỉ mặt đặt tên, tố cáo cho rõ ràng nhưng chắc chắn họ thấy và không tin tưởng vào những cán bộ này. Xét cho cùng, làm cán bộ chính là để phục vụ người dân. Nếu người dân đã không tin tưởng, nghi ngại vấn đề cả họ làm quan thì bản thân cán bộ hãy sòng phẳng, đừng để xảy ra tình trạng này.
Người xưa có câu nói: “Qua vườn lý đừng sửa mũ, qua ruộng dưa chớ cột giày”. Nếu thanh bạch, trong sáng thì đừng làm gì để người khác phải nghi ngờ. Nếu đủ năng lực thì có thể ứng cử vào bất cứ địa phương nào chứ việc gì phải tập trung vào một chỗ?!
Phạm Hồ

Bài và ảnh: Trọng Đức 
Nguồn: http://nld.com.vn/thoi-su-trong-nuoc/ca-nha-lam-quan-theo-dung-quy-trinh-20160109231842853.htm