Tổng số lượt xem trang

Chủ Nhật, 18 tháng 1, 2015

“Văn hóa Tấm-Cám”

  • Trung Quốc công bố có toàn quyền xây đảo nhân tạo ở Trường Sa (RFA) - Tuần trước, Bộ Ngoại Giao Trung Quốc có nói rằng chính phủ Hoa Lục có toàn quyền thực hiện các dự án phát triển ở vùng biển đảo mà chủ quyền thuộc về họ, kể cả những dự án cải tạo, xây đảo nhân tạo mà Trung Quốc đang thực hiện ở Trường Sa.
  • Hồng Kông : Sinh viên tố cáo việc sách nhiễu người đòi dân chủ (RFI) - Một lãnh đạo phong trào sinh viên biểu tình đòi dân chủ trong thời gian qua, vào hôm nay 18/01/2015, lên tiếng tố cáo cảnh sát là tiến hành cả một chiến dịch nhằm sách nhiễu những người tham gia phong trào. Sinh viên Chu Vĩnh Khang (Alex Chow) là gương mặt đối kháng sau cùng bị cảnh sát Hồng Kông câu lưu để thẩm vấn trước khi được thả ra.
  • Indonesia xử bắn 6 người về tội buôn ma túy trong đó có một người Việt (RFI) - Vào hôm nay, 18/01/2015, chính quyền Jakarta đã cho xử bắn sáu tử tù bị kết tội buôn bán ma túy, bao gồm một người Indonesia và 5 công dân ngoại quốc đến từ Việt Nam, Brazil, Hà Lan, Malawi và Nigeria. Vụ hành quyết đã lập tức gây căng thẳng trong quan hệ ngoại giao giữa Indonesia và hai nước Brazil và Hà Lan, vốn đã khẩn thiết yêu cầu Jakarta đình hoãn việc hành hình.
  • Nhật Bản hứa viện trợ 2,5 tỷ đô la cho Trung Đông (RFI) - Ai Cập, Jordanie, Israël, Lãnh thổ Palestine là trọng tâm vòng công du Trung Đông của thủ tướng Nhật, mở ra từ ngày hôm qua 17/01/2005. Tiếp kiến Quốc vương Jordanie sáng nay, ông Shinzo Abe cam kết viện trợ hai tỷ rưỡi đô la cho Trung Đông vì lý do nhân đạo.
  • Tại Manila, sáu triệu người dự thánh lễ do Đức Giáo Hoàng cử hành (RFI) - Theo các nhà chức trách Manila đã có tới 6 triệu tín đồ Philippines đến dự thánh lễ do Đức Giáo Hoàng Phanxicô cử hành vào ngày 18/01/2015. Chính quyền huy động 40.000 cảnh sát để bảo vệ an ninh cho buổi lễ. Tại Philippines, thông điệp lên án nạn tham nhũng và nghèo khó của người đứng đầu Tòa thánh Vatican chinh phục lòng người.
  • Câu hỏi của cô bé 12 tuổi làm Đức Giáo hoàng xúc động (RFA) - Những câu hỏi của một cô bé gái Philippines đã khiến Đức Giáo Hoàng Phan Xi Cô xúc động, tới mức Ngài hủy bỏ bài giảng đã được soạn trước, thay thế bằng những lời phát biểu kêu gọi mọi người cùng với Giáo Hội và với Ngài bảo vệ cho trẻ em.
  • Trung Quốc: Tăng trưởng 2014 thấp nhất từ 24 năm qua (RFI) - Tổng sản phẩm nội địa Trung Quốc trong năm 2014 tăng 7,3 %. Đây là mức thấp nhất từ phong trào dân chủ Mùa xuân Bắc Kinh. Tăng trưởng của Trung Quốc tiếp tục bị chựng lại trong năm 2015. Trên đây là nhận định của 15 chuyên gia kinh tế được AFP tham khảo ý kiến.
  • Tổng thống Obama sắp đưa TPP ra Quốc hội Mỹ? (BaoMoi) - (NLĐO)- Trả lời phỏng vấn báo giới tại Thành phố Hồ Chí Minh hôm 18-1, Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Ted Osius nhấn mạnh sự tự tin hơn bao giờ hết đối với sự thành công của tiến trình đàm phán Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP).
  • Báo chí vẫn là công cụ của đảng (RFA) - Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 10 Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XI Đề án Quy hoạch báo chí đến năm 2025 là một vấn đề trong chương trình thảo luận. Theo đó, báo chí Việt Nam tiếp tục được nhấn mạnh là công cụ tuyên truyền của đảng, và không cho phép các nhóm lợi ích chi phối báo chí.
  • 65 năm quan hệ Việt Nam-Trung Quốc (RFA) - Ông Phạm Bình Minh công bố luôn coi trọng quan hệ hợp tác bình đẳng, mong muốn quan hệ hợp tác chiến lược toàn diện Việt-Trung ngày càng phát triển.
  • Nhạc sĩ Linh Phương (RFA) - Nhạc sĩ, giáo sư giảng dạy piano Linh Phương hiện đang sống tại tiểu bang Texas, Hoa Kỳ. Trong suốt hơn 45 năm cống hiến cho âm nhạc, bà đã cho ra đời hơn 35 album nhạc và có khoảng trên 150 bài thơ phổ nhạc...
  • Charlie Hebdo và quyền ngôn luận ở VN (BBC) - Thạc sỹ Nguyễn Tiến Trung cho rằng chỉ có nền 'cộng hòa chính danh' mới đem lại tự do và quyền ngôn luận thực sự ở VN nhân vụ Charlie Hebdo mới xảy ra ở Pháp.
  • Hình ảnh nhạy cảm trên facebook và rủi ro (RFA) - Hiện nay có một số các cô gái trẻ trong độ tuổi trên dưới 20 thi nhau đăng những hình ảnh mát mẻ trên trang Facebook cá nhân của họ. Số lượng các cô gái này tuy chưa nhiều nhưng nó đang dần trở thành một xu hướng nguy hiểm, ảnh hưởng không nhỏ tới chính các cô gái đó và giới trẻ hiện nay.
  • Đức : phong trào bài Hồi giáo Pegida ngưng kêu gọi biểu tình (RFI) - Nhiều thành viên trong ban tổ chức của phong trào bài đạo Hồi ở Đức bị tổ chức Nhà nước Hồi giáo đe dọa. Pegida thông báo ngưng kêu gọi tập hợp tại Dresden vào mỗi thứ Hai hàng tuần. Sau loạt khủng bố tại Paris, tuần hành ở Dresden đã được 25.000 người hưởng ứng.
  • Charlie Hebdo : Biểu tình bạo động ở Niger làm ít nhất 10 người chết (RFI) - Trang nhất tuần báo Pháp Charlie Hebdo số mới nhất tiếp tục khuấy động thế giới Hồi giáo, với nhiều cuộc biểu tình phản đối biến thành bạo động như tại Niger (Châu Phi), đã làm ít nhất 10 người thiệt mạng, tính đến trưa nay, 18/01/2015. Vấn đề là biểu tình chống Charlie Hebdo đã biến thành chống Thiên Chúa giáo hay chống Pháp.
  • Iran : Một tờ báo bị đình bản vì tít lớn « Tôi là Charlie » trên trang nhất (RFI) - Dù cũng lên án các vụ khủng bố tại Pháp, đặc biệt là vụ thảm sát tại toà soạn báo Charlie Hebdo ở Paris, chính quyền Iran không chấp nhận việc tờ báo Pháp vẽ hình Mohammed. Tư pháp Iran vào hôm qua 17/01/2015 đã ra lệnh đình bản một tờ báo theo xu hướng cải tổ vì dám chạy trên trang nhất câu nói bất hủ « Tôi là Charlie ».
  • Đông Ukraina : Giao tranh vẫn ác liệt quanh phi trường Donetsk (RFI) - Tại miền Đông Ukraina, hòa bình vẫn rất xa vời. Chiến sự đã bùng lên trở lại một cách dữ dội chung quanh phi trường Donetsk. Từ hai ngày qua lực lượng ly khai thân Nga ra sức tấn công vào khu vực được cho là chiến lược mà quân đội Ukraina còn chiếm giữ được.
  • Thêu dệt về nhà tù Bắc Triều Tiên ? (RFI) - Ngày 18/01/2015, Shin Dong Hyuk, nhân chứng của tội ác trong các nhà tù Bắc Triều Tiên xin lỗi đã « che giấu một phần quá khứ » trong cuốn sách « Camp 14 ». Trong tác phẩm này của tác giả người Mỹ, Blaine Harden, Shin kể lại về nạn tra tấn ở các trại tù Bắc Triều Tiên mà ông đã trải qua cho đến khi vượt ngục vào năm 2005.
  • Máy ảnh Leica kỷ niệm sinh nhật 100 tuổi (RFI) - Dân ưa thích chụp ảnh, không ai là không biết đến máy ảnh Leica. Năm 2014, nhà sản xuất máy ảnh nổi tiếng thế giới kỷ niệm một thế kỷ ngày ra đời sản phẩm đầu tiên. Một trăm năm sau, Leica vẫn là một huyền thoại, một sản phẩm cao cấp. Tất cả những nhiếp ảnh gia lừng danh thế giới đều có ít nhất một máy ảnh Leica, như Henri Cartier-Bresson, Raymond Depardon, William Klein...
  • Khủng bố tại Paris : 9 người vẫn bị tạm giam (RFI) - Liên quan đến loạt khủng bố tại Paris, cho tới hôm nay 9 trong số 12 người bị câu lưu hôm thứ Sáu 16/01/2015 vẫn còn bị tạm giam. Những người này bị nghi ngờ đã hỗ trợ Amedy Coulibaly, kẻ đã sát hại một nữ cảnh sát ở Montrouge và 4 con tin tại cửa hàng thực phẩm của người Do Thái ở Vincennes.
  • Bài 47 : Một tờ hóa đơn cần thiết (RFI) - Mời quý thính giả theo dõi chương trình học tiếng Pháp trong kinh doanh : "Comment vont les Affaires ?", tìm hiểu công ty Paragem, một công ty Pháp và làm quen với Đăng Minh.
  • Thủ Tướng Nhật bản đến Tel Aviv (RFA) - Thủ Tướng Shinzo Abe của Nhật bản đã đến Tel Aviv hồi tối qua, khởi đầu chuyến viếng thăm kéo dài 3 ngày của ông ở Do Thái, trong đó có cả phần viếng thăm vùng Tây Ngạn sông Jordan.
  • Thời sự qua hình ảnh (RFA) - Philippines: 6 triệu người dự thánh lễ của Đức Giáo Hoàng, ngày 18 tháng 1, 2015
  • Biển Đông đón gió to, sóng lớn (BaoMoi) - Theo thông tin mới cập nhật từ Trung tâm khí tượng thủy văn, do ảnh hưởng của không khí lạnh nên vùng biển Đông sẽ có gió mạnh, độ rủi ro cao đối với tàu bè đi lại. Trước đó, ngày 17/1, một chiếc tàu cá đã gặp nạn do bị sóng đánh chìm ngoài bờ biển Nhật Lệ (Quảng Bình). Rất may là cả 7 ngư dân trên tàu đã bơi vào bờ thoát nạn.
  • Cú hích quốc phòng - kinh tế từ sân bay Phan Thiết (BaoMoi) - Nằm trên địa bàn chiến lược Nam Trung Bộ, Bình Thuận là địa phương có vị trí quan trọng về an ninh quốc phòng, và có tiềm năng về phát triển kinh tế xã hội, du lịch, sân bay Phan Thiết sau khi hoàn chỉnh sẽ là hạ tầng giao thông đảm bảo an ninh quốc phòng, góp phần bảo vệ biển Đông, hải đảo.
  • Bắc Bộ ấm dần, trời nắng và tiếp tục hanh khô (BaoMoi) - Theo Trung tâm dự báo Khí tượng Thủy văn Trung ương, chủ nhật (18/1), thời tiết các tỉnh phía Bắc đang tiếp tục có xu hướng tốt hơn, nắng lên sớm với cường độ khá mạnh kéo nền nhiệt tăng, trời vẫn hanh khô nhưng ấm hơn ngày hôm qua.

Vũ Trọng Khải - “Văn hóa Tấm-Cám”

http://img.giaoduc.net.vn/Uploaded/doquyen/2012_10_13/tam-cam-1-giaoduc.net.vn.jpg

Dân tộc nào cũng có những truyện cổ tích. Truyện cổ tích được hình thành, biến đổi theo chiều dài lịch sử hàng ngàn năm của mỗi dân tộc, rồi mới được "định hình". Khi "định hình", truyện cổ tích đã kết tinh được những giá trị phổ quát mang tính triết học, mỹ học và tâm linh mà dân tộc đó tôn thờ, trở thành một bộ phận cấu thành nền văn hoá của dân tộc đó.

Nhớ lại hồi học tiểu học, lớp 3 hay 4, sách giáo khoa tập đọc cho học sinh có truyện cổ tích "Tấm-Cám". Học sinh phải tập đọc và còn được thầy, cô giáo đọc hay kể lại nhiều lần với những phân tích "đắt giá", cố làm cho học sinh "hiểu sâu sắc" hơn những "giá trị" của truyện Tấm Cám như: phản ánh cuộc đấu tranh giữa cái "thiện" và cái "ác", giữa "chính" và "tà"; kết cục luôn có hậu là "cái thiện" thắng "cái ác", "cái chính" thắng "cái tà" bằng những âm mưu lừa gạt và hành vi độc ác, giống như cách hành xử của “cái ác”, nhưng không bị lên án! Mỗi khi đọc hay kể đến những lần cô Tấm bị mẹ con cô Cám bày mưu lừa gạt, hãm hại, máu căm thù trong tôi lại sôi lên sùng sục. Ngược lại, khi đọc, hay nghe đến những đoạn “cô Tấm thảo hiền” lừa và trả thù được mẹ con cô Cám, cũng bằng những thủ đoạn, mưu mô và hành vi độc ác tương tự như mẹ con cô Cám, thì lòng tôi lại hả hê, thích thù vô cùng! Đến đoạn kết, cô Tấm lừa được cô Cám nghe theo lời mình, tắm gội bằng nước sôi để trắng da nên bị chết; cô Tấm băm xác cô Cám để làm mắm, gửi về “biếu” mẹ cô Cám, thì sự độc ác của câu chuyện đạt đến tột đỉnh, nhưng bọn trẻ và có lẽ cả người lớn, lại vui mừng, sung sướng cũng đến tột đỉnh!??

Bây giờ nghĩ lại thấy rùng mình, không hiểu nổi tại sao mình lại có tình cảm căm thù và hả hê đến tột đỉnh như thế khi đọc truyện Tấm Cám? Cả câu truyện là một chuỗi những âm mưu lừa gạt, những hành vi trả thù độc ác, “lấy oán trả oán”, không có điểm dừng. Đúng là “thù muôn đời, muôn kiếp không tan; “căm hờn lại giục căm hờn, máu kêu trả máu, đầu van trả đầu” (Tố Hữu). Tuy vậy, trong lịch sử dân tộc ta, đạo Phật đã tồn tại gần như quốc đạo trong suốt gần 400 năm dưới 2 triều đại Lý, Trần, với triết lý “lấy ân báo oán”, hòng chặn đứng chuỗi âm mưu lừa gạt và hành vi độc ác của con người. Muốn lấy ân báo oán, con người phải biết sống khoan dung. UNESCO (1995) quan niệm “khoan dung là hài hòa trong khác biệt; khoan dung vừa là bổn phận đạo đức, vừa là một đòi hỏi pháp lý và chính trị”. Tuy coi đạo Phật gần như là quốc giáo, nhà Trần vẫn tôn trọng các tôn giáo khác. “Tam giáo đồng nguyên”, Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo cùng tồn tại bên nhau, không kì thị, bài xích nhau. Hơn thế nữa, sau khi chiến thắng quân Nguyên-Mông lần thứ 3, vua Trần Nhân Tông không những không đọc mà còn buộc đốt bỏ tất cả những đơn thư tố cáo, vật chứng kết tội một số quan chức đã đầu hàng, thậm chí làm tay sai cho giặc, rồi tha cho viên quan Hoàng Cự Đà đã trốn chạy quân Nguyên… Sau sự kiện này mấy trăm năm, tổng thống Hoa Kì Abraham Lincol cũng có hành vi tương tự khi kết thúc cuộc chiến Nam-Bắc Mỹ mà phần thắng thuộc về các bang miền Bắc do ông lãnh đạo.

Sự khoan dung, vị tha trong lịch sử Việt Nam có lẽ đạt đến đỉnh cao dưới thời vua Lê Thánh Tông, thể hiện trong bộ luật Hồng Đức. Luật Hồng Đức không những miễn tội cho những kẻ không tố cáo người thân (ông bà, cha mẹ, vợ chồng, anh, chị em ruột) phạm tội, mà còn cấm con, cháu tố cáo ông bà, cha mẹ khi họ phạm tội, trừ tội đại nghịch, giết người thân một cách độc ác; con cháu có nghĩa vụ che giấu tội cho ông bà, cha mẹ.

Đó là những điểm sáng văn hóa trong lịch sử hình thành và phát triển dân tộc và nhà nước Việt Nam. Nhưng cũng rất tiếc là phải thừa nhận rằng triết lí sống lấy oán trả oán vẫn lấn át triết lí sống lấy ân trả oán trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam. Lừa bịp và dối trá, căm hờn và trả thù một cách độc ác, nói gọn là “dối trá và độc ác” có thể được định danh là “Văn hóa Tấm – Cám”.

“Văn hóa Tấm-Cám” có lẽ bắt nguồn sâu xa từ văn hóa làng Việt. Có thể khi mới ra đời, truyện Tấm-Cám chỉ phản ánh khát vọng chiến thắng cái ác của những người yếu thế, lương thiện, mà chủ yếu là nông dân. Nhưng cùng với quá trình lịch sử phát triển của dân tộc Việt, nó đã trở thành văn hoá lúc nào không hay. Mỗi làng là một “tiểu vương quốc”, “ phép vua, thua lệ làng”. Trai, gái kết hôn theo tập tục bất thành văn “trong làng, ngoài họ” (tất nhiên vẫn có ngoại lệ). Trai làng này sang “tán” gái làng kia dễ dẫn đến ẩu đả, đổ máu giữa con trai 2 làng. Trong mỗi làng, không chỉ có những vị thuộc lớp Kì, Hào, Mục hãnh tiến về mình và tranh giành vị thế, uy danh với nhau, với làng bên, mà đến tên mõ làng cũng vậy. Thằng mõ là kẻ có chức “tệ” nhất trong một làng, mà còn có cảnh “thằng mõ làng lớn bắt nạt thằng mõ làng bé”. Mõ làng lớn phải “oai” hơn, hãnh tiến hơn các mõ làng bé. Thế thì các vị Kì, Hào, Mục ở làng lớn cũng sẽ ra oai với các vị Kì, Hào, Mục ở làng bé gấp nhiều lần bọn mõ làng. Muốn tỏ ra “oai hơn” tất phải âm mưu lừa gạt và hành động độc ác theo “Văn hóa Tấm – Cám”. Người Việt từ xa xưa và dường như vẫn tồn tại đến bây giờ cái “lí tưởng”, cái mục tiêu cao nhất, gần như duy nhất của sự học là để làm quan, chứ không phải làm doanh nhân hay khoa học gia. Bởi kẻ làm quan mới có vị thế quyền hành bắt nạt người khác, ra oai với mọi người, tự hào với dòng tộc, làng nước, để “Một người làm quan, cả họ được nhờ”. Tất nhiên, để đạt được “khát vọng” đó, từ thằng mõ đến các quan lớn, nhỏ đều phải thực hiện các hành vi “lừa bịp và độc ác”. Dường như, người ta, dù có học vấn, cao hay thấp, có địa vị hay sang hèn, đều cảm thấy sung sướng, hãnh tiến và tự hào khi làm người khác đau khổ bằng những âm mưu lừa gạt thấp hèn và hành vi độc ác của mình. Chả thế mà một anh dân phòng, giữ trật tự ở chợ, lại dám vặn cổ một người bán hàng rong; Một viên cảnh sát giao thông dám đánh chết người dân ở đồn công an chỉ vì người này mắc lỗi vi phạm luật giao thông: đi xe máy không đội mũ bảo hiểm… Bộ máy cầm quyền cai trị bằng cách làm cho người dân luôn luôn nơm nớp lo sợ trước những âm mưu lừa gạt và hành vi độc ác của kẻ có, dù chỉ một chút, quyền lực. Nhà cầm quyền dù là vua, quan dưới thời phong kiến hay quan lại dưới thời thực dân đều cai trị dân theo kiểu như vậy: Tạo ra tâm lí sợ hãi trước uy quyền, không cần biết uy quyền ấy có chính danh hay không.

Nhưng “tức nước vỡ bờ”, “con giun xéo mãi cũng oằn”, người bị cai trị đến một ngưỡng nào đó sẽ vượt qua sự sợ hãi, dám đứng lên chống lại kẻ cầm quyền. Đến lượt họ, người dân, theo “Văn hóa Tấm – Cám”, cũng dùng những âm mưu lừa gạt và hành vi độc ác để trả thù bọn cầm quyền, nhiều khi còn độc ác hơn bọn quan lại. Sự hận thù, lấy oán trả oán của người dân đối với bọn quan lại thực dân còn tệ hại, độc ác hơn đối với bọn quan lại phong kiến. Lúc đầu sự phản kháng của người dân thường bằng những câu truyện tiếu lâm, những lời nói châm biếm, chế giễu bọn quan lại, như “miệng quan, trôn trẻ”, “cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”; “thằng ấy tuy là đảng viên nhưng mà tốt”; “Nó tuy là giáo sư, nhưng mà giỏi”… “Nó tuy là giám đốc, nhưng biết thương người lao động”… Nhưng khi đã vượt qua sự sợ hãi, sự uất ức của người dân biến thành những hành động độc ác, như “Trí, phú, địa, hào: Đào tận gốc, trốc tận rễ”, cất lên lời ca đầy hãnh tiến “thề phanh thây, uống máu quân thù; đường vinh quang xây xác quân thù” (Văn Cao). Tuy thế, dân tộc Việt Nam cũng đẻ ra những trí thức tinh hoa, thấy được tai hại của “Văn hóa Tấm - Cám”. Phan Chu Trinh và nhóm Nguyễn Ái Quốc ở Paris đầu thế kỉ 20 đã kế thừa văn hóa đạo Phật thời Lý-Trần, kết hợp với văn hóa phương tây “Tự do, bình đẳng, bác ái”, không muốn dùng bạo lực, đổ máu của người dân để có độc lập dân tộc, nên đưa ra khẩu hiệu “Pháp-Việt đề huề”, “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”. Điều đáng tiếc là, người Việt rất kính trọng chí sĩ Phan Chu Trinh, hàng vạn người dân đã dự lễ tang cụ ở Sài Gòn năm 1926, nhưng lại không chấp nhận tư tưởng của cụ. Phần lớn người Việt cho tư tưởng của cụ Phan Chu Trinh là cải lương, là ảo tưởng… Vì thế, Tản Đà đã phải thốt lên “ Dân hai mươi triệu, ai người lớn/ Nước bốn ngàn năm vẫn trẻ con”. Họ đã dùng bạo lực để có độc lập dân tộc, mặc dù phải hy sinh tính mạng đến mức “núi xương, sông máu”, “dù có phải đốt cả dãy Trường Sơn” (Hồ Chí Minh). Nhưng khi đã thoát khỏi ách nô lệ thực dân, người ta lại tự đeo vào cổ gông cùm mới, đậm “Văn hóa Tấm – Cám”, thằng mõ làng lớn bắt nạt thằng mõ làng bé. Vì thế , lí thuyết đấu tranh giai cấp, đấu tố địa chủ diễn ra không chỉ trong mỗi làng mà cả trong mỗi gia tộc, đến mức “Ông không phải là bố tôi” (Lưu Quang Vũ). Người ta hô hào :

Giết, giết nữa, bàn tay không ngừng nghỉ

Cho đồng ruộng lúa tốt, thuế mau xong

Cho đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng

Thờ Mao chủ tịch, thờ Xít ta lin bất diệt (Tố Hữu)

Trong cải cách ruộng đất 1953-1956, con đấu tố cha mẹ, vợ đấu tố chồng, kẻ mang ơn bịa đặt tố cáo người gia ơn… diễn ra phổ biến mà điển hình tột bậc là vụ đấu tố, xử bắn bà Nguyễn Thị Năm ở Thái Nguyên năm 1953. Theo cuốn sách “Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-2000” của Viện kinh tế học Việt Nam, trong cải cách ruộng đất, có tới 586.000 nạn nhân bị xử lí, 172.008 người bị giết, trong đó oan sai là 123.266 người, chiếm 71,66% số người bị giết. Lưu ý là người bị giết oan sai là theo tiêu chuẩn của nhà cầm quyền. Luật hình sự 1985 qui định con cháu phải tố cáo ông, bà, cha, mẹ, vợ chồng phải tố cáo nhau, khi cho là họ mắc tội. Lòng khoan dung, nhân bản của bộ luật Hồng Đức thời Lê Thánh Tông bị xóa bỏ. “Văn hóa Tấm – Cám” vẫn có giá trị phổ quát, trở thành mảnh đất màu mỡ cho sự phát triển nhanh chóng của học thuyết “đấu tranh giai cấp, với tư cách là động lực của sự phát triển xã hội”. Bởi, theo Các – Mác, trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản 1848, “suy cho đến cùng, lịch sử loài người là lịch sử đấu tranh giai cấp”. Và kết quả cuối cùng của đấu tranh giai cấp tất yếu phải là sự thiết lập nhà nước chuyên chính của giai cấp vô sản, không phải là nhà nước của toàn dân, do dân, vì dân”. Vì thế, trong những năm 1952-1954 ở Việt Bắc, giới trí thức đi kháng chiến phải “chỉnh huận” để giác ngộ lập trường giai cấp công-nông, tự nguyện “đầu hàng giai cấp công-nông”, tự lên án cha mẹ, bản thân mình là thấm đậm nền giáo dục thực dân, làm công trong bộ máy cầm quyền thực dân là phản cách mạng, có xưởng máy, đồn điền là bóc lột, học vấn càng cao, càng nhiễm độc văn hóa của thực dân, phong kiến, chỉ thích hưởng thụ cá nhân, không dám dấn thân. Ai không “tự ngộ”, tự “xỉ vả” mình thì các đồng chí sẽ giúp mình giác ngộ, bằng những ngày dài, đêm thâu thực hiện phê bình, kiểm điểm theo kiểu đấu tố xỉ vả nhau. Không tự tìm thấy khuyết điểm của mình là ngoan cố, không thành khẩn, chưa giác ngộ giai cấp, là tiểu tư sản, phải cố nghĩ ra khuyết điểm để chứng tỏ mình đã thấm nhuần học thuyết Mác-Lenin, Mao Trạch Đông….

Sau 30/4/1975, “bên thắng cuộc” (Huy Đức), đã cất những lời ca hào hùng, kiêu hãnh, sảng khoái, hân hoan… “Như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng” (Phạm Tuyên), “Đất nước trọn niềm vui” (Hoàng Hà), “Tiếng hát từ thành phố mang tên Bác” (Cao Việt Bách…). Niềm kiêu hãnh ấy và “Văn hóa Tấm-Cám” đã dẫn đến những chính sách bịp bợm và trả thù độc ác đối với “bên thua cuộc”, như chính sách cải tạo mà thực chất là tù không án đối với những người đã tham gia vào bộ máy cầm quyền của “bên thua cuộc”, thực thi chiến dịch X1, X2 đối với tư sản, tiêu diệt tầng lớp doanh nhân văn minh vừa mới hình thành trong nền kinh tế thị trường, để sau đó hơn 10 năm (1986) lại bắt đầu mở ra kinh tế thị trường hoang dại, hình thành một tầng lớp doanh nhân thân hữu, liên kết với những kẻ thoái hóa trong bộ máy cầm quyền, tạo ra các nhóm lợi ích kiểu mafia, chuyên “buôn cơ chế, chính sách”, thay vì buôn vua như Lã Bất Vi ngày xưa, dẫn đến quốc nạn tham nhũng không thể khắc phục được, đến những vụ cướp đất, làm bần cùng hóa nông dân, gây nên những “núi” oan ức thấu trời cao, cùng đất kiệt.

Bên cạnh nền “Văn hóa Tấm-Cám”, cũng có điểm sáng tuy chỉ le lói của văn hóa khoan dung, nhân bản. Văn nghệ sĩ chân chính và tài ba là những con chim báo bão, dự đoán tương lai phát triển của mỗi dân tộc. Năm 1976, bài ca “Mùa xuân đầu tiên” của Văn Cao ra đời là một trong những tia sáng le lói ấy. Hình như ông đã sám hối, khi cất lên lời ca: “Từ đây người biết quê hương, từ đây người biết thương người; từ đây người biết yêu người” trong giai điệu valse nhẹ nhàng, du dương, êm đềm, đầm ấm. “Mùa xuân đầu tiên” lại là sự kết thúc của quá trình tự ngộ của Văn Cao, của dân tộc, đi từ triết lí lấy oán trả oán, “thề phanh thây uống máu quân thù”, “đường vinh quang xây xác quân thù” đến triết lí khoan dung “người biết thương người, biết yêu người”. Chính vì sự “mơ hồ lập trường giai cấp,” nhưng đậm tính nhân loại, nên “Mùa xuân đầu tiên” chỉ xuất hiện trên báo “Sài Gòn giải phóng” xuân Bính Thìn 1976, và phải đợi 20 năm sau, khi Văn Cao chết, nó mới được cất lên trên sàn diễn và các phương tiện thông tin đại chúng. Một chính trị gia hiếm hoi, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt cũng đã ngộ ra như Văn Cao khi ông phát biểu, đại ý: “Ngày 30 tháng 4 nên gọi là ngày hòa bình, thống nhất nước nhà, đừng gọi là ngày giải phóng Miền Nam. Bởi vì ngày đó, có một triệu người vui, thì cũng có một triệu người buồn”.

Những hậu quả tiêu cực của xã hội ta hôm nay trên tất cả các lĩnh vực bắt nguồn từ “Văn hóa Tấm-Cám”. Đừng đổ cái lỗi ấy cho bất kỳ nhóm người nào, cho ý thức hệ nào. Bởi vì, dù là ý thức hệ nào, nó cũng chỉ là trào lưu tư tưởng của xã hội loài người, vốn rất đa nguyên, nhiều nhóm lợi ích… Tiếp thu ý thức hệ nào tùy thuộc ở văn hóa của mỗi dân tộc, mỗi gia tộc và mỗi con người cụ thể. Bản thân ý thức hệ không có lỗi. Nhóm người nào, dù có ý thức hệ quốc gia hay quốc tế cộng sản đều là một bộ phận của dân tộc Việt, là kết quả của hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, của quốc gia Việt Nam, đều là “con Lạc, cháu Hồng”. Tại sao các nước quanh ta, như Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Myanmar, India…, họ không tiếp thu học thuyết đấu tranh giai cấp? Không dùng bạo lực để chống bạo lực? Chính quyền của họ không được đẻ ra trên nòng súng như Mao Trạch Đông nói? Không lấy oán trả oán? Nhưng cuối cùng, hiện nay, họ không những giành được độc lập dân tộc trọn vẹn, mà còn phát triển, hơn ta nhiều lần, về mọi mặt. Rất tiếc là đã có một Mahatma Gandhi, một Nelson Mandela của Việt Nam, là Phan Chu Trinh, nhưng dân ta lại không chấp nhận tư tưởng của ông, nên đã không đạt được thành tựu như India và Nam Phi.

Nhưng lịch sử không có “chữ nếu” hay “giá như”. Sự kiện lịch sử chỉ diễn ra một lần duy nhất, tuy rằng người ta có thể viết nhiều lần về cùng một sự kiện ấy, dưới góc nhìn khác nhau. Phê phán nhau lúc này là “xa xỉ”. Phải trở lại tư tưởng Phan Chu Trinh: mọi tầng lớp xã hội sống đề huề trong khoan dung, khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh. Có dân trí và dân khí cao, con người sẽ vượt qua nỗi sợ hãi, để xây dựng lại đất nước từ nền móng, theo xu hướng thời đại, hội nhập với thế giới văn minh. Bởi dân nào chính phủ ấy, chứ không phải ngược lại. Cho nên tầng lớp trí thức tinh hoa phải dấn thân trong sự nghiệp khai dân trí, xóa bỏ “Văn hóa Tấm –Cám”, xây dựng văn hóa khoan dung, nhân bản, mọi người đều thắng. Hãy khép lại cánh cửa của quá khứ hàm hồ [Dương Thu Hương] và mở ra cánh cửa của tương lai nhân bản và dân chủ cho Việt Nam. Nelson Mandela, sau 27 năm bị tù đày, đã rất chí lí và sâu sắc, khi nói, đại ý: “Bước ra khỏi cánh cửa nhà tù, nếu tôi vẫn mang theo lòng hận thù, thì tôi vẫn là một tù nhân”. Hòa giải, tha thứ và khoan dung để cùng nhau xây dựng lại (reengineering hay perestroika, không phải tái cấu trúc- restructuring) đất nước về mọi mặt kinh tế, xã hội, văn hóa, môi trường tự nhiên và nhân văn. Đó là con đường duy nhất đưa Việt Nam đến vị thế sánh vai cùng các nước phát triển trong khu vực và thế giới./

P/S: Không có quốc gia nào chọn được quốc gia láng giềng. Không con người nào có thể chọn được sắc tộc, dân tộc và cha mẹ. Nhưng con người có thể chọn được quốc tịch. Mà những con người có khả năng tự chọn quốc tịch cho mình hầu hết là người thông minh thuộc giới tinh hoa, là nguyên khí của quốc gia. Thế hệ hôm nay phải làm hết sức mình để con cháu chúng ta không buộc phải chọn cách “bỏ phiếu bằng chân” để thay đổi quốc tịch của mình.

Tháng 1/2015
Vũ Trọng Khải
Tác giả gửi BVN
(Bauxite)

Báo chí vẫn là công cụ của đảng

 Nhà báo Hữu Thọ, nguyên Trưởng ban Tư tưởng văn hoá Trung ương
Nhà báo Hữu Thọ, nguyên Trưởng ban Tư tưởng văn hoá Trung ương
Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 10 Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XI Đề án Quy hoạch báo chí đến năm 2025 là một vấn đề trong chương trình thảo luận. Theo đó, báo chí Việt Nam tiếp tục được nhấn mạnh là công cụ tuyên truyền của đảng, và không cho phép các nhóm lợi ích chi phối báo chí
Căn bản vẫn là độc tài, độc quyền về báo chí
Nhà báo Hữu Thọ, nguyên Trưởng ban Tư tưởng văn hoá Trung ương, cho biết đây là lần đầu tiên Ban chấp hành Trung ương đảng cộng sản bàn đến quy hoạch cho báo chí. Tuy nhiên, theo nhận định thì những luận điểm trong đề án này không hề khác biệt so với những quan điểm vốn có của đảng Cộng sản Việt Nam đối với các cơ quan truyền thông trong nước.
Nhận định về điều này, tiến sĩ, nhà báo Phạm Chí Dũng nhận định:
"Họ vẫn nói như trước và từ bao nhiêu năm rồi. Thực chất là không để tư nhân hoá báo chí, vì họ rất sợ tư nhân hoá sẽ dẫn đến đa chiều, đa diện, và dẫn đến đa nguyên, đa đảng. cho nên, một nền chuyên chính báo chí hữu sản chứ không phải một nền chuyên chính báo chí kiểu vô sản là cái mà họ đang cần và họ luôn giữ độc tài, độc quyền về báo chí. Chừng nào họ không ở chân tường thì họ chưa buông báo chí đâu."
Đề án về quy hoạch báo chí cho rằng các cơ quan truyền thông của Việt Nam chưa được tổ chức hợp lý, hoạt động xa rời tôn chỉ, hoạt động và đi vào hướng giật gân, câu khách.
Ông Phạm Ngọc Chênh, blogger từng đoạt giải nhà báo công dân của tổ chức Phóng viên Không biên giới, cho rằng đề án này thể hiện tính bảo thủ và giáo điều của đảng Cộng sản. Theo ông, nó cũng nhằm tái khẳng định lại vai trò kiểm soát của đảng Cộng sản đối với báo chí. Ông nói:

"Thực ra, báo chí lâu nay vẫn nằm trong quyền lãnh đạo tuyệt đối của đảng, tới bây giờ khẳng định lại sự lãnh đạo đó thì để nhắc nhở mọi người rằng đảng vẫn còn tiếp tục nắm báo chí. Chuyện quy hoạch mục đích cũng là sắp xếp cho gọn bộ máy báo chí. Nó nhiều quá, nó lộn quá, bây giờ quy hoạch, sắp xếp lại."
Các nhóm lợi ích chưa đủ mạnh
Trong một bài báo đăng trên tờ New York Times hồi tháng 11 năm ngoái, cựu tổng biên tập tờ báo Thanh Niên, ông Nguyễn Công Khế, nhận định rằng báo chí Việt Nam đang phát triển chóng mặt trong vòng 5 năm qua, tới mức giới chức Việt Nam khó kiếm soát. Theo ông, điều đó đã dẫn đến những hệ quả được cho là nghiêm trọng, chẳng hạn như người đọc trẻ tuổi tìm đến những nguồn tin khác, ngoài nguồn tin chính thống của nhà nước. Cũng theo đề án nói trên, ban chấp hành trung ương tái khẳng định việc không để các nhóm lợi ích chi phối báo chí.
Theo ông Huỳnh Ngọc Chênh, điều này thực ra không cần nói đến trong đề án vì ở Việt Nam không hề có nhóm lợi ích nào đủ sức gây ảnh hưởng tới giới truyền thông ở quy mô lớn, có chăng chỉ là ảnh hưởng nhỏ, trong một khoảng thời gian nhất định. Ông nói:
"Chưa có tập đoàn nào náo loạn được báo chí hết chưa có doanh nghiệp nào, nhóm lợi ích nào mà lũng loạn báo chí được một cách công khai. Trừ những chuyện lũng đoạn nhỏ mà lũng đoạn nhỏ thì bất cứ tờ báo nào cũng có thể bị. Người ta có thể đưa tiền bằng cách này hoặc bằng cách khác thông qua quảng cáo để đăng được một số thông tin này thông tin khác theo ý người ta."
Ông Phạm Chí Dũng thì cho rằng có sự manh mún phát triển của nhóm lợi ích trong vòng 2-3 năm trở lại đây và nó mang tính chính trị nhiều hơn. Ông nói:
"Đó là khái niệm những lợi ích đang chi phối tờ báo, không chỉ vì lí do kinh tế mà cả về lý do chính trị. Tôi nghĩ rằng đó là một trong những hàm ý mà bộ chính trị đảng cộng sản Việt Nam họ đang đề cập tới, đang lo ngại là nhóm lợi ích báo chí và đang lấn sang những câu chuyện về mặt chính trị."
Ông lấy ví dụ về sự ra đời của trang blog Chân Dung Quyền Lực đang làm mưa làm gió trong công luận thời gian gần đây. Trang blog ẩn danh này liên tục đưa tin về những khối tài sản khổng lồ của các vị tai to mặt lớn trong chính quyền Việt Nam, đi kèm với nó là những bằng chứng rõ ràng, khiến người ta khó có thể nghi ngờ tính xác thực của nó.
Ông Phạm Chí Dũng nhận định:
"Có thể bằng cách nào đó có thể coi đó là một nhóm quyền lực chi phối báo chí, chi phối mạng xã hội nhưng mà không phải để phục vụ cho mục tiêu tạo ra những diễn đàn dân chủ, phản biện và các ý kiến trái chiều mà để phục vụ cho công cuộc đấu đá lẫn nhau, để tranh giành quyền lực về mặt chính trị."
Đề án này cho thấy một tương lai tăm tối cho báo chí Việt Nam, vốn đã không mấy sáng sủa.
Bảng xếp hạng tự do báo chí năm 2014 của tổ chức Phóng viên Không biên giới cho thấy Việt Nam đứng thứ 174 về tự do báo chí. Báo cáo của tổ chức Freedom House trong năm 2014 cũng cho thấy Việt Nam là một trong những môi trường tồi tệ nhất đối với các nhà báo, nhất là những cây viết tự do không muốn bị sai khiến bởi Ban Tuyên giáo Trung ương, cơ quan được cho là tổng biên tập duy nhất của tất cả các cơ quan truyền thông của Nhà nước.
Hải Ninh
(RFA)

Nhân tài của Đảng đang ở đâu?

                                             Dàn lãnh đạo của Đảng ra mắt tại Đại hội 11
Có phải là anh Nguyễn Minh Triết, mới 24 tuổi mà đã chức trọng quyền cao ngồi vào ban lãnh đạo cả một tỉnh?
Có phải là ông Nguyễn Bá Thanh, người mà thành tích, công lao đã được người dân Đà Nẵng biết ơn và ghi nhận?
Kẻ lên người xuống
Điều trớ trêu là đúng lúc Trung ương Đảng họp để tìm kiếm nhân tài thì người được cho là có tài lại đang mang bệnh hiểm nghèo.
Phải nói chưa từng thấy quan chức nào ở Việt Nam mà tình hình ốm đau phải họp báo để trấn an dư luận đến như vậy.
Lẽ nào đối với người dân, hai trăm ủy viên trung ương đang họp bàn chuyện quốc gia đại sự cũng không đáng quan tâm bằng bệnh tình sức khỏe của một vị trong số đó?
Người dân cầu mong cho ông Thanh bình an khỏe mạnh để ra gánh vác việc dân việc nước. Họ tin ông là người xứng đáng cầm cương chèo lái đất nước trong lúc khó khăn hiện nay.
Nhưng Trung ương Đảng có lẽ không đồng ý.
Ngay cả khi được Tổng bí thư hết lòng hậu thuẫn mà ông Thanh còn không được Trung ương cho vào Bộ Chính trị nữa là giờ đây khi mà ông đã đau yếu như vậy.
Khác với ông Thanh tương lai đã vào ngõ cụt, con đường thăng tiến của anh Nguyễn Minh Triết nhiều khả năng sẽ tiếp tục thênh thang bằng phẳng.
                                                 Anh Nguyễn Minh Triết là nhân tài của đất nước?
Trong khi bạn bè trang lứa học trắng con mắt, chạy mòn cả dép để tìm việc kiếm tiền thì anh Triết du học về là vào thẳng Trung ương Đoàn chẳng cần phấn đấu rèn luyện chi cả.
Được đưa về Bình Định làm lãnh đạo Đoàn, vừa ngồi xuống ghế cấp phó anh Triết đã lên thế chỗ bí thư. Giờ đây theo chỉ thị của Trung ương Đảng anh đã đường hoàng nằm trong ban lãnh đạo tỉnh.
Có lẽ anh Triết có tài năng xuất chúng hơn người chăng? Chằng phải có tờ báo có con mắt tinh đời nào đó đã nhìn thấy ở anh 'dáng dấp lãnh đạo' hay sao?
Không rõ với tài năng như thế anh Triết có nằm trong diện vừa được Trung ương quy hoạch cho các khóa sau hay không? Nhưng với tốc độ thăng tiến như vậy thì chẳng mấy chốc anh sẽ đuổi kịp người anh trai Nguyễn Thanh Nghị để vào Trung ương.
Rõ ràng Đảng rất tin tưởng gia đình anh. Không chỉ hai anh em được Trung ương giao trọng trách mà thân phụ hai anh, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, còn được Trung ương tín nhiệm cao nhất như lời Giáo sư Carl Thayer dẫn nguồn tin riêng của ông xác nhận với BBC.
Đúng là tài thì không đợi tuổi. Nếu đã có tài thì trẻ như anh Triết vẫn là tài mà đã dại thì có khi đến 70 tuổi vẫn còn dại. Nếu anh Triết, anh Nghị đúng tuổi trẻ tài cao thì quả là may cho đất nước, phúc cho dân tộc vậy.
Nhưng ngẫm ra một đất nước có tới 90 triệu dân mà nhân tài tập trung hết ở gia đình thủ tướng thì nên mừng hay lo? Bởi lẽ có mấy ai đồng trang lứa được như anh em Nghị, Triết?
Có người nhưng dân không biết
                                Sự nghiệp chính trị của ông Nguyễn Bá Thanh coi như đã hết?
Ông Thanh hay anh Triết nhiều khả năng không nằm trong ‘tầm phủ sóng’ của Hội nghị 10 vừa qua. Đảng chọn ai thì đã lên danh sách nhưng có điều dân chưa được biết mà thôi.
Nhân sự được quy hoạch chừng nào bầu lên chính thức dân sẽ biết nhưng lấy phiếu tín nhiệm đã có kết quả xong xuôi hết rồi mà người dân vẫn không được biết là sao?
Mà trong những người được lấy tín nhiệm lần này có những vị chắc chắn sẽ trở thành lãnh đạo chủ chốt của đất nước trong năm, mười năm tới. Như thế thì người dân lại càng phải biết.
Chẳng thà Đảng không cầm quyền thì đó chuyện riêng của Đảng thì người dân chẳng cần quan tâm làm gì, nhưng đằng này việc của Đảng nhưng ảnh hưởng đến vận mệnh của người dân và tương lai đất nước thì đương nhiên họ phải biết chứ?
Mọi mặt đời sống đất nước cái gì Đảng cũng đòi lãnh đạo hết thì khi đụng tới không có cái lý gì là việc riêng của Đảng được.
Khi lòng dân hướng về ông Nguyễn Bá Thanh như thế, mong ông lên làm lãnh đạo như thế cho thấy họ đã nản lòng với hiện trạng đất nước như thế nào và muốn mình có thể chọn ai đó lên xoay chuyển tình hình tham nhũng, cải thiện kinh tế xã hội và có cách đảm bảo chủ quyền quốc gia đến mức nào.
                                  Hội nghị 10 chuẩn bị nhân sự cho Đại hội 12 của Đảng
Nhưng trong chế độ một đảng cầm quyền thì họ dù có muốn mấy cũng không được. Chỉ đành phó mặc mọi sự cho Đảng. Đảng có chọn ai họ cũng không nói gì được và bây giờ ngay cả việc Đảng đánh giá lãnh đạo thế nào họ cũng không được biết luôn!
Mà kết quả tín nhiệm có gì phải giấu? Các vị lãnh đạo ăn lương của dân, dân đã không trực tiếp đánh giá được thì họ phải có quyền biết các vị được đánh giá thế nào chứ? Bên Mỹ, bên Pháp các tổng thống đôi khi vẫn bị công bố kết quả được lòng dân quá thấp đấy thôi?
Mà giấu thì liệu có giấu được trong thời buổi thông tin mạng này? Gần 200 người biết chứ nào phải người một, người hai. Trước sau gì cả xã hội đều biết.
Cũng kết quả đấy nhưng giữa việc người dân biết là do Đảng cho họ biết với việc họ biết trong khi Đảng vẫn giấu có ý nghĩa khác nhau hoàn toàn.
Chưa kể cảm giác bị gạt ra bên lề là cảm giác rất ức chế. Người dân sẽ thấy mình ở một phía còn bên kia là Đảng có quyền. ‘Đảng của dân’ nhưng đang ngày càng đẩy dân ra xa Đảng.
Cho nên đừng nói tại sao dân quan tâm đến ông Thanh bị ốm hơn là Trung ương đang họp. Họp kín như bưng có cho dân biết gì đâu mà quan tâm? Mà quan tâm thì làm được gì?
Cơ chế chọn người

  Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nói tại buổi bế mạc Hội nghị 10 Đảng sẽ thu hút người tài ra phục vụ
Khi không thể tác động gì đến việc của Đảng thì người dân chỉ còn biết mong mỏi Đảng chọn được người tài đức để cuộc sống của họ đỡ được khó khăn phần nào.
Tôi thì không biết Trung ương đã cơ cấu những ai cho Bộ Chính trị khóa tới cũng như tín nhiệm ai trong Bộ Chính trị, nên không rõ Đảng đã chọn được người tài đức như thế nào.
Tuy nhiên nếu trừ hết số ủy viên Bộ Chính trị đến tuổi nghỉ hưu thì số ủy viên còn lưu nhiệm chỉ vừa hơn năm ngón trên một bàn tay. Cho nên sẽ không có nhiều lựa chọn cho những chức danh lãnh đạo chủ chốt trong khóa tới.
Đành rằng trong trường hợp thiếu người như thế thì sẽ có biệt lệ cho chức danh Tổng bí thư. Sẽ có ai đó đến tuổi về hưu nhưng sẽ được cho ở lại.
Nhưng từ trường hợp ông Nguyễn Phú Trọng đã có biệt lệ để rồi ông làm tổng bí thư chỉ một nhiệm kỳ, bây giờ nếu hai khóa liên tục đều phải dùng biệt lệ thì chỉ càng cho thấy Đảng đang cạn kiệt người tài mà thôi.
Đó là chưa nói biệt lệ về nguyên tắc dành cho người xứng đáng làm tổng bí thư chứ không phải vì thiếu tổng bí thư mà tạo điều kiện cho ai đó tham quyền cố vị.
              Các đại biểu đi dự Đại hội Đảng có được quyền quyết định đối với nhân sự của Đảng?
Ở đây công tác nhân sự của Đảng liệu có vấn đề gì không?
Ai có quyền quyết định nhân sự trong Đảng? Đảng viên quần chúng chắc chắn là không rồi còn đảng viên đi dự Đại hội cũng chưa chắc có.
Chẳng phải từ Đại hội toàn quốc mà bầu ra Ban Chấp hành trung ương, Bộ Chính trị và Tổng bí thư?
Nhưng cũng như dân đi bầu Quốc hội, đảng viên đi dự Đại hội chỉ có thể bầu ra Trung ương từ danh sách có sẵn. Và cứ thế Trung ương bầu ra Bộ Chính trị và Tổng bí thư cũng từ một danh sách và hầu hết các trường hợp bầu tổng bí thư chỉ có một ứng cử viên.
Và ngoài danh sách có sẵn đó, không đảng viên nào có quyền ra ứng cử hay đề cử ai khác.
Có thể thấy quyền lựa chọn của đảng viên hết sức hạn chế, còn quyền quyết định nằm trong tay những người soạn ra danh sách để bầu kia.
Đó chẳng phải là cái danh sách mà Hội nghị 10 đã bàn bạc để đưa ra Đại hội 12 sao? Và các ủy viên trung ương cũng chỉ bàn bạc trên cơ sở những gì mà Bộ Chính trị và Tổng bí thư định hướng.
                   Đây sẽ là thành viên Bộ Chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam trong khóa tới?
Nói như thế để thấy dân chủ trong Đảng chỉ là có lệ để cho quyền lực tập trung về một mối. Mọi việc trong Đảng không phải mở ra cho tất cả đảng viên tham gia mà là ở trên quyết định xuống dưới, khóa trước quyết định khóa sau và nếu một lãnh đạo nào đó đủ mạnh thì có thể một mình quyết định tất cả mọi vệc trong Đảng.
Ở một Đảng mà lúc nào cũng ám ảnh về 'đoàn kết, thống nhất' thì nguyên tắc 'tập trung trên dân chủ' này chính là cơ sở loại trừ tất cả những đảng viên nghĩ khác và làm khác. Nhưng mặt khác nó là tường thành chống lại sự đột phá và là điều kiện sinh ra chuyên chế.
Cho nên mới có chuyện Mao Trạch Đông hay Lê Duẩn có thể cầm quyền suốt từng ấy năm hay một mình Đặng Tiểu Bình hay trong chừng mực nào đó là Lê Đức Thọ có thể một tay quyết định nhân sự lãnh đạo của Đảng.
Cũng do cách làm nhân sự như vậy nên không khó chi để Trung Quốc có thể can thiệp nếu có ai đó họ không vừa ý. Chỉ cần tác động được vào giới chóp bu của Việt Nam là đủ.
Dĩ nhiên quyền quyết định trong tay một người hay một nhóm người thì vẫn có thể chọn ra người tài. Tuy nhiên mỗi cá nhân khó tránh khỏi các yếu tố lợi ích, sở thích hay cảm tính. Chỉ có bầu chọn với số đông thì mới loại bỏ được hoàn toàn các yếu tố này.
Dàn xếp hay bầu cử?
                               Cả ba ông Trọng, Sang, Dũng đều đến tuổi về hưu tại Đại hội 12
Rõ ràng khi mọi quyết định đã có từ trên đưa xuống thì việc bỏ phiếu chẳng còn giá trị bao nhiêu. Nói cách khác công tác nhân sự trong Đảng chín phần dàn xếp và chỉ một phần bầu cử.
Mà hễ dàn xếp thì chắc chắn dính đến đấu đá, phe phái.
Ở các đảng nước ngoài, các phe phái trong đảng có đấu đá thì cũng đấu công khai để bầu lãnh đạo, còn trong Đảng Cộng sản Việt Nam, việc đấu đá được chuyển vào đằng sau hậu trường.
Cho nên nói sao đảng nước ngoài bầu bán gay cấn như thế còn Việt Nam bầu cử luôn êm đềm tốt đẹp. Có ai biết đằng sau đấy có khi còn gay cấn khốc liệt hơn?
Cũng chính vì dàn xếp bí mật nên mới tạo lỗ hổng cho sự ám muội. Chẳng hạn như gần đến Hội nghị 10 bỗng xuất hiện trang 'Chân dung quyền lực' với những thông tin có thể đánh đổ tiền đồ của nhiều vị tai to mặt lớn.
Tôi không rõ nó có tác động đến đâu đến kết quả lấy phiếu tín nhiệm. Tuy nhiên ở cách vận động tranh cử, nếu ai đó có thắc mắc nghi ngờ thì có thể chất vấn công khai để người khác giải trình, chứ không nên chơi trò ném đá giấu tay như vậy.
Tranh cử công bằng thì chỉ có khả năng mới là yếu tố quyết định thắng lợi. Còn việc dàn xếp mặc dù cũng tính đến tài năng nhưng còn có chỗ cho thủ đoạn, luồn lách hay tranh đoạt. Người được chọn chưa chắc đã là người tài nhất mà có khi là người gian nhất.
                                Các lãnh đạo Đảng Cộng hòa ở Mỹ đang tranh luận công khai
Đó là chưa kể các đảng phái nước ngoài không tự nhiên có quyền lực nên phải bầu cho người lãnh đạo đủ tài năng để đưa đảng của họ lên nắm quyền còn ở Việt Nam bầu cho ban lãnh đạo Đảng cũng là bầu cho người đấy có quyền lực nên không tránh khỏi khả năng bầu cho người nào đấy lên nắm quyền có lợi cho mình.
Vậy Đảng có thể học cách tranh cử công khai được không?
Nên nhớ đảng phái các nước gốc là sự cạnh tranh nên lẽ tự nhiên họ cũng áp dụng nguyên tắc cạnh tranh vào trong đảng của họ trong khi Đảng Cộng sản Việt Nam đã ôm trọn quyền lực chưa bao giờ biết cạnh tranh nên tự họ cũng hoạt động theo cách sắp xếp quyền lực. Muốn trong Đảng có tranh cử công khai thì chẳng khác cá lên trên bờ hay chim bơi dưới nước.
Không chỉ cơ chế chọn người của Đảng có vấn đề mà chính bản thân Đảng cũng có giới hạn trong việc sử dụng hiền tài.
Một Đảng chủ trương chuyên chính vô sản luôn đặt yêu cầu trung thành với chế độ lên trên hết mà người cộng sản thì chưa chắc đã là người tài và người tài thì không phải ai cũng là cộng sản.
Kiểu dùng người như thế lãng phí tài năng đất nước không biết bao nhiêu mà kể!
Người xưa có câu 'Hiền tài là nguyên khí quốc gia' và 'Cầu hiền tài như khát nước'. Một đất nước dù mất hết, dù không có gì nhưng chỉ cần có người tài. Hãy xem Lý Quang Diệu đã làm cho Singapore khác biệt như thế nào?
Trong khi đó, Việt Nam vốn 'hào kiệt đời nào cũng có', đã hòa bình thống nhất tròn 40 năm mà sao vẫn lẹt đẹt đi sau người ta?
Chỉ sợ không có người tài. Chứ còn có mà không dùng hoặc không biết dùng thì quá xót xa.
Đảng mà không có người tài thì sẽ ngày càng lụn bại. Đất nước mà không có người tài thì đất nước đó coi như mạt vận.
Nguyễn Lễ
(BBC)

Niềm tin VN-TQ "chưa bao giờ phục hồi"

Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc (thứ ba từ trái sang) trong lễ kỷ niệm 65 năm thành lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước tại Bắc Kinh
Niềm tin giữa Việt Nam, Trung Quốc "chưa bao giờ" phục hồi kể từ khi bị đổ vỡ cuối những năm 1970, theo nhận định của một nhà quan sát.
Ý kiến trên được nghiên cứu gia Dương Danh Dy, cựu Tổng lãnh sự Việt Nam tại Quảng Châu, đưa ra trong cuộc phỏng vấn với BBC ngày 16/1.
Nhận định của ông Dy được đưa ra giữa lúc Việt Nam và Trung Quốc kỷ niệm 65 năm thiết lập quan hệ ngoại giao (18/1/1950-18/1/2015).
Trong cuộc họp báo tại Bắc Kinh hôm 14/1, Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Nguyễn Văn Thơ nhấn mạnh Trung Quốc là "láng giềng lớn" và là "đối tác quan trọng của Việt Nam" dù thừa nhận "quan hệ hai nước gặp một số khó khăn", báo Dân Trí đưa tin.
Cũng theo Dân Trí, ông Thơ đã kêu gọi truyền thông hai nước "tăng cường tuyên truyền tích cực về quan hệ Viêt - Trung", nhất là cho giới trẻ.
Trong khi đó, ông Thơ được Tân Hoa Xã dẫn lời khẳng định "Việt Nam sẽ không cùng một bên thứ ba kiềm chế Trung Quốc".
BBC: Nói một cách công bằng, mối quan hệ ngoại giao với Trung Quốc đã mang lại cho Việt Nam những lợi ích gì trong suốt 65 năm qua, thưa ông?
Ông Dương Danh Dy: Trong cuộc chiến chống Pháp, Mỹ và xây dựng ở miền Bắc sau này, phải nói là nhân dân Trung Quốc đã giúp chúng tôi rất nhiều.
Họ giúp người Việt ngay cả khi người Trung Quốc khi đó ăn không đủ no.
Tôi ở Trung Quốc trong thời gian đó, có một lần hỏi chuyện một cán bộ quen tôi, họ nói phải để dành 4-5 năm tem phiếu mới có được xe đạp.
Vậy mà họ vẫn viện trợ cho Việt Nam mỗi năm mấy trăm nghìn xe đạp để thồ hàng hóa vào Nam.
Sự giúp đỡ của nhân dân Trung Quốc trong cả những năm họ thiếu thốn nhất, khan khổ nhất cần phải nhớ.
Không nên vì sự thù hận mà quên những điều đó.
Niềm tin "chưa bao giờ" khôi phục
Làm sao tránh va chạm, xung đột được, khi chúng tôi ở với nước láng giềng có tham vọng bá quyền ngày càng lớn
Nhà nghiên cứu Dương Danh Dy
BBC: Sau hàng loạt các xung đột kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao đến nay, theo ông thì đã có bao giờ hai bên thực sự khôi phục được niềm tin?
Ông Dương Danh Dy: Chưa bao giờ, nhất là sau khi họ mang mấy chục vạn quân qua đánh bất ngờ rồi tàn sát.
Tôi lúc đó đang làm bí thư thứ nhất của đại sứ quán Việt Nam ở Bắc Kinh. Đến tháng 6 năm 1979 tôi được đồng chí đại sứ cho về Việt Nam công tác một thời gian.
Lúc đó tôi liên hệ bên quân đội dẫn tôi lên Thị xã Lạng Sơn và Chi Lăng.
Tôi không thể tin vào mắt mình, tất cả là bình địa, cây cối cũng không còn, đường sắt cũng không còn.
Dân ở đó họ nói tôi là sự tàn phá của Trung Quốc không thua gì B52 của Mỹ.
BBC: Chỉ trong 65 năm kể từ khi thành lập quan hệ ngoại giao, hai nước đã trải qua nhiều lần xung đột. Không biết từ đây cho đến 65 năm tới, có còn cuộc xung đột nào khác, thưa ông?
Ông Dương Danh Dy: Làm sao tránh va chạm, xung đột được, khi chúng tôi ở với nước láng giềng có tham vọng bá quyền ngày càng lớn?
Trong khi chúng tôi ngày càng trưởng thành hơn, biết bảo vệ độc lập của mình hơn?
Tôi nghĩ chỉ có những người nằm mơ mới không nghĩ là có chuyện đó thôi, nhất là khi chuyện biển đảo đang rất gay go.
                            Cuộc chiến biên giới năm 1979 đã để lại nhiều tổn thất cho cả hai bên
'Không đối đầu tay đôi'
BBC: Trong buổi họp báo hôm 14/1 tại Bắc Kinh, Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc, ông Nguyễn Văn Thơ tuyên bố 'Việt Nam sẽ không cùng một bên thứ ba chống lại Trung Quốc'. Nhưng nếu xét những động thái gần đây giữa Việt Nam với Hoa Kỳ cũng như giữa Việt Nam với các đối tác của Hoa Kỳ trong khu vực như Nhật Bản, Philippines, có thật là Việt Nam đang không cùng với một bên thứ ba chống Trung Quốc?
Ông Dương Danh Dy: Ông đại sứ nói thì là chuyện của ông đại sứ. Việt Nam không bao giờ đối đầu tay đôi cả.
Cách đây hàng trăm, hàng nghìn năm, thế giới chưa thành thể thống nhất như bây giờ, chúng tôi phải một mình chống Trung Quốc.
Nhưng bây giờ thì không có lý do gì chúng tôi không thể sử dụng sức mạnh của các lực lượng tiến bộ để ủng hộ mình.
Tôi nghĩ rằng Việt Nam sẽ ở vào thế gần giống trước đây, khi chúng tôi vừa phải với Trung Quốc, vừa phải chơi với Liên Xô để lấy Liên Xô chống Trung Quốc, cũng giống như sắp tới vừa phải chơi với Trung Quốc, vừa phải chơi với Mỹ.
BBC: Ông Thơ cũng nói truyền thông hai nước cần tuyên truyền tốt đẹp về mối quan hệ giữa hai nước, nhất là cho giới trẻ. Theo ông thì điều này có thực tế, trong bối cảnh hiện nay?
Ông Dương Danh Dy: Tôi từng làm đối ngoại nên tôi biết khi nào thì nhà ngoại giao nói gì. Có khi là không thật đâu.
Trong thời gian ngắn sắp tới thì quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc không thể nào tốt lên, dù Việt Nam có muốn cũng không được,
(BBC)

Người Việt 'đã sợ hãi từ lâu'

                        Ông Menras Andre hay Hồ Cương Quyết trong buổi thảo luận hôm 15/01
Ông Menras André hay Hồ Cương Quyết, người mang hai quốc tịch Pháp – Việt, cho rằng việc người Việt Nam không xuống đường tuần hành tự do “không phải vì họ sợ, không phải vì họ hèn, mà vì những nguy cơ trước một chế độ cảnh sát”.
Trả lời câu hỏi liệu người Việt do sợ hãi mà không lên tiếng trước bất công trong chương trình Bàn tròn thứ Năm hôm 15/01 về tự do ngôn luận sau vụ tấn công tòa báo Charlie Hebdo (xem video thảo luận qua YouTube: http://bit.ly/1y4iIuc và Google+ http://bit.ly/1B9Jfpg), ông André phân tích:
“Sự sợ hãi từ thời xưa, hồi trước năm 1975 ở Sài Gòn, tôi đã sống qua nó, tôi đã thấy nhiều người sợ hãi mà dám nói xấu về chế độ Nguyễn Văn Thiệu, là điều rất nguy hiểm.
“Mà bây giờ, dám “nói xấu” chế độ cộng sản này cũng rất nguy hiểm. Như đoạn trước tôi có nói rằng cái gen tự do của dân tộc Pháp đã mọc rễ ra sao, nhưng trong cái gen của dân tộc Việt Nam, sự sợ hãi không phải từ hôm qua, mà từ mấy thế kỷ rồi.”
Ông André nói từng chứng kiến tận mắt ‘côn đồ do chế độ thuê’ để đàn áp người biểu tình, và nhiều người bị ‘ném đá’, đẩy vào đồn công an trong những cuộc biểu tình chống Trung Quốc ở Sài Gòn.
“Nếu người Việt Nam không xuống đường đi biểu tình thì không phải vì họ sợ, không phải vì họ hèn, không bao giờ, mà vì nguy cơ trước một chế độ cảnh sát, cảnh sát toàn diện.
“Người dân thường không có tổ chức, không có ai bảo vệ. Nên họ phải suy nghĩ rất kỹ trước khi đi, và có khi đi là liều, không phải chỉ cho riêng họ mà cho cả gia đình,” ông Hồ Cương Quyết nói.
Ông Nguyễn Văn Huy tham gia chương trình từ Paris cũng cho rằng, người Việt Nam phải chịu di sản lịch sử nặng nề về vấn đề tự do, và tâm lý phục tùng đã “ăn sâu vào trí óc người Việt”.
“Hơn nữa về văn hóa, ở Việt Nam cái gì cũng liên quan đến gia đình. Tôi cũng có một thời chống đối chế độ cộng sản sau năm 1975, tôi thấy cái giá mà gia đình phải trả rất cao.”
Nhà nghiên cứu về dân tộc học phân tích, gia đình chính là trở ngại đầu tiên khiến người Việt không đấu tranh, và do chính sách lý lịch của Việt Nam – được ông so sánh với chế độ ‘tam tộc’ của thời phong kiến. (Xem video thảo luận qua YouTube: http://bit.ly/1y4iIuc và Google+ http://bit.ly/1B9Jfpg).
“Nếu họ đấu tranh chống lại một chế độ bạo quyền thì gia đình họ sẽ phải trả cái giá đó, mà gia đình không phải chỉ là cá nhân tôi, cha mẹ tôi, hay con cháu của tôi mà cả những người thân thuộc của mình. Chính vì vậy mà họ rất sợ.
“Hành trình giành tự do cho con người phải được tập dượt thường xuyên. Tự do không phải tự nhiên mà có, đây là cuộc đấu tranh trường kỳ qua nhiều thế hệ,” ông Huy nói.
Bình luận về việc chính quyền Việt Nam lên án hành động tấn công tòa báo Charlie Hebdo ‘dã man’, nhưng vẫn đàn áp blogger từ trong nước, anh Nguyễn Tiến Trung nói:
“Dùng súng bắn người là dã man, nhưng tôi cho rằng, việc bắt những nhà văn, những người nói lên tiếng nói trung thực về đất nước mình, nói những gì mình thực sự nghĩ về tình hình đất nước chứ không phải nói xấu, nên cần phải có định chế tòa án độc lập xét xử.”
‘Không thể lật đổ’ tự do

Chuyên viên nghiên cứu của Viện nghiên cứu Đông Á ở Lyon nói ông và cả gia đình cũng xuống đường sau vụ tấn công Charlie Hebdo: “Khi tự do ngôn luận bị tấn công thì cần phải phát biểu ý kiến về điều đó.”
“Người Pháp muốn tập trung với nhau để lên tiếng rằng không thế phá vỡ tự do ngôn luận trên đất nước mình. Đó là giá trị văn hóa Pháp, một nét văn hóa Pháp mà không thể bị lật đổ,” ông Francois Guillemot nói thêm.
Theo giải thích của ông Guillemot, Charlie Hebdo là biểu tượng của phong trào 1968 của Pháp, là thế hệ “có ‎y’ kiến trào phúng mạnh mẽ về chính trị, chế nhạo hoặc chỉ trích mạnh mẽ những ‎y’ kiến bảo thủ. Với tôi, người Pháp xuống đường là dĩ nhiên. Nét trào phúng của Pháp bị tấn công quá dữ, người ta phải có phản ứng nào đó, tập trung với nhau để nói rằng mình không sợ hãi sự khủng bố đó.”
Tuy nhiên, trong số những người xuống đường ở Pháp không phải ai cũng đồng tình với cách châm biếm của Charlie Hebdo, nhà văn Thuận bình luận. “Nhưng họ hiểu rằng khủng bố đã đụng đến quyền tự do ngôn luận. Bảo vệ Charlie Hebdo lúc này cũng là bảo vệ chính họ.”
Và với người Pháp, tự do quan trọng như ‘ánh sáng’, ‘như oxy’, ông Hồ Cương Quyết nói, nhưng tự do của Pháp chỉ có thể có được qua lịch sử đấu tranh lâu dài, từ thời Cách mạng 1789 và từ đó đưa ra tuyên ngôn độc lập với ba tiêu chí quan trọng nhất: Tự do, Bình đẳng, Bác ái.
Nhà dân tộc học Nguyễn Văn Huy, phụ trách trang ethongluan.org so sánh, “khi vừa qua Pháp năm 1983, sang được một đất nước tự do tôi rất mừng. Và tôi thấy quan trọng nhất trong tự do ở Pháp là tự do tư tưởng.
“Người ta dạy cho đứa trẻ từ lúc còn nhỏ quyền tự do phát biểu. Tức là nó có quyền nói lên những gì nó muốn, chứ không như ở Việt Nam mình là cha mẹ bảo sao con nghe vậy.
“Và tự do ăn sâu vào tâm hồn của người đó và dẫn dắt họ hành động theo một con đường, và ảnh hưởng suốt cuộc đời của họ."
Hàng triệu người Pháp đã đổ xuống đường trong nhiều ngày để biểu lộ tinh thần bảo vệ tự do sau vụ Charlie Hebdo
Tự do với nhà văn Thuận, là điều “tối thượng”.
“Một nhà văn nếu không suy nghĩ tự do chắc chắn sẽ ‘tự kiểm duyệt’ và đó là cái tai hại nhất cho sáng tạo.”
Tuy nhiên, “tự do ngôn luận không phải là tự do muốn làm gì thì làm, muốn nói gì thì nói mà nó cũng có những giới hạn của nó. Chẳng hạn như nếu tự do đó ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, ảnh hưởng đến cộng dồng khác, ảnh hưởng đến những tập thể khác là phạm luật.”
Nhưng trong trường hợp Charlie Hebdo, bên cạnh phong trào ủng hộ Je suis Charlie, cũng có phong trào Je ne suis pas Charlie, với một số ý kiến cho rằng tòa báo đã khiêu khích hận thù qua những bức tranh biếm họa đấng Tiên tri của người Hồi giáo khiến hàng triệu người giận dữ.
Tác giả của nhiều tiểu thuyết tiếng Việt và tiếng Pháp bình luận, luật pháp nước Pháp là ‘vô thần’.
“Tội phỉ báng đã bị loại bỏ khỏi luật pháp từ năm 1881 nên đứng trước luật pháp Charlie Hebdo không phạm luật.
“Không phải chỉ đến bây giờ vì những bức tranh biếm họa của Charlie mới gây ra khủng bố ở Pháp. Khi nước Pháp ra lệnh cấm đội khăn chẳng hạn, nước Pháp cũng bị khủng bố rất nhiều tuy rằng họ đã phát hiện ra.
“Nhưng những người Hồi giáo cực đoan có tư tưởng sẵn sàng nã súng vào những người không cùng tư tưởng với họ, nên tôi nhắc lại, là cần phải có những nhà báo, những nhà báo dũng cảm như Charlie Hebdo.” (Xem video thảo luận qua YouTube: http://bit.ly/1y4iIuc và Google+ http://bit.ly/1B9Jfpg).
Người Hồi giáo ở Đức biểu tình với biểu ngữ: 'Nhà Tiên tri Mohammed, xin đừng giận dữ, người Hồi giáo luôn bên ngài'
Trong thư viết cho BBC sau cuộc thảo luận, ông Guillemot giải thích, vụ khủng bố cho thấy hai thế giới quan khác nhau, "hai khái niệm về sự thiêng liêng".
"Một thế giới của đạo Hồi hay nhà Tiên tri Mohammed không thể, dưới bất kỳ hình thức nào, bị xúc phạm.
"Một thế giới khác là của Pháp, khẳng định rằng chính tự do ngôn luận là thiêng liêng. Hai thế giới này không thể hiểu nhau, và hôm nay lại càng khó hiểu nhau nữa. Xung đột này đặt ra câu hỏi về vị trí của Pháp trong thế giới ngày càng bất ổn định vì tôn giáo."
Quan sát từ Việt Nam, nhà hoạt động Nguyễn Tiến Trung, người từng bị ngồi tù vì tội danh ‘Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân’ nhận xét:
“Với một chính thể cộng hòa chính danh, thì cần phải bảo vệ tự do cho người dân và hạn chế quyền của chính phủ, giới hạn quyền lực của nhà nước thì như vậy tự do của dân mới được đảm bảo.
“Từng cá nhân phải được phát triển thì khi đó một quốc gia, một dân tộc mới có thể phát triển tối đa tiềm năng của mình.
"Cho nên tôi phải vận động để có được tự do cho Việt Nam. Hiện nay Đảng cộng sản Việt Nam đang độc quyền nhà nước mà quyền làm chủ mà chưa có thì chưa thể nói đến quyền tự do khác được."
(BBC)
 

"Người ta ăn của dân không từ thứ gì nữa"

"Người ta ăn của dân không từ thứ gì nữa"


Sau khi báo Lao Động đăng tải thông tin 12 con dê hỗ trợ hộ nghèo "lạc" vào trang trại riêng của lãnh đạo huyện Thạch Thành (Thanh Hóa), nhiều độc giả đã tỏ thái độ bức xúc trước sự "hồn nhiên" của các lãnh đạo địa phương vì hành động coi thường chính sách này.
"Chắc là do mấy con dê nó đi lạc từ nhà dân vào nhà bác bí thư thôi mà!"  - độc giả có tên Nguyên bình luận dưới bài viết Thanh Hoá: 12 con dê cho hộ nghèo “chui” vào trang trại lãnh đạo huyện đăng tải trên Lao Động cách đây 2 ngày.
Nhiều độc giả cùng dành thái độ mỉa mai cho việc 12 con dê của người dân nghèo "lạc" vào trang trại của ông bí thư huyện ủy huyện Thạch Thành. "Lãnh đạo bận nhiều việc nên hay bị...nhầm. Cần thông cảm." - độc giả có địa chỉ mail  Ngutr**@gmail.com viết.
Câu nói của Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan cách đây 2 năm: "Người ta ăn của dân không từ một thứ gì nữa" cũng được nhiều độc giả nhắc lại khi bình luận về sự kiện này.
""Ăn không từ thứ gì của Dân" - câu nói chính xác của Bà PCT nước và lần này, người ăn lại là Bí thư Huyện uỷ huyện Thạch Thành .... Với 12 con dê mà ông và cộng sự tham nhũng, liệu truy tố hay "nhắc nhở" đây?" - độc giả Phan Nguyên đặt câu hỏi về trách nhiệm.
Cách lý giải của ông bí thư huyện ủy rằng ông " làm mô hình để bà con theo" chứ không phải làm kinh tế cũng không được độc giả của Lao Động chấp nhận.
" ông bí thư huyện nói nực cười, chã nhẽ ông không biết gì về chính sách của huyện, vậy ông làm bí thư để lãnh đạo cái gì? Nếu dân không tố cáo thì 12 con dê của người nghèo là của ông rồi." - độc giả Duy Tuấn hỏi.
"Dê nuôi ở trạng trại mình đến nửa năm mà nói nhầm? lại tới 12 con chứ đâu phải một hay 2 con. Bó tay với loại cán bộ tham lam như thế này. Ăn luôn cả phần của hộ nghèo." - một người khác khẳng định.
"...Nếu báo chí không điều tra ra thì mấy ông ém luôn." - độc giả VƯơng Quý nhận định.
Lao Động sẽ tiếp tục thông tin đến độc giả vụ việc này ngay khi có diễn biến mới.
Phong Huyền
(Lao Động)

Báo Ấn bình luận phát biểu của tướng Nguyễn Chí Vịnh

 Ông Vịnh không giải thích về sự thay đổi mạnh mẽ này, nhưng theo tờ báo Ấn thì đó là "cuộc đối đầu quyết liệt Việt - Trung trên Biển Đông".

               Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, ảnh: Tuoitrenews.
Tờ The Economic Times của Ấn Độ ngày 18/1 dẫn lời Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam cho biết, Việt Nam và Ấn Độ cần hợp tác chiến lược chặt chẽ hơn vì những thay đổi mạnh mẽ của bối cảnh an ninh khu vực. The Economic Times đã lý giải "thay đổi mạnh mẽ của an ninh khu vực" là căng thẳng do Trung Quốc (nhảy vào) tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông tăng cao.
Việt Nam có niềm tin rất cao vào Ấn Độ, ủng hộ vai trò Ấn Độ ở Biển Đông
Tướng Nguyễn Chí Vịnh được dẫn lời nói rằng: "Bởi vì sự thay đổi rất mạnh mẽ của an ninh khu vực đã tạo ra sự cần thiết cho quan hệ hợp tác chặt chẽ hơn giữa hai nước chúng ta. Chủ yếu là về đối tác chiến lược." Ông Vịnh không giải thích về sự thay đổi mạnh mẽ này, nhưng theo tờ báo Ấn thì đó là "cuộc đối đầu quyết liệt Việt - Trung trên Biển Đông".
Việt Nam "có một danh sách mong muốn dài từ Ấn Độ", bao gồm việc mua ít nhất 4 tàu tuần tra, hỗ trợ huấn luyện phi công cho Không quân Việt Nam để có thể sử dụng các máy bay chiến đấu Sukhoi của Nga, thậm chí là cả tên lửa BrahMos và những thứ khác.
The Economic Times cho biết, tướng Vịnh nhấn mạnh rằng Việt Nam có "niềm tin rất cao" đối với Ấn Độ trong các vấn đề quốc phòng. Ông cho biết Việt Nam vẫn chưa quyết định về số lượng tàu sẽ mua, nhưng nó không chỉ dừng lại ở 4 chiếc. Những chiếc tàu này sẽ được sử dụng để tuần tra vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam.
Việt Nam mong muốn có các tàu giám sát ngoài khơi bờ biển và xung quanh các đảo của mình ở quần đảo Trường Sa, nơi được xây dựng một năng lực đáng tin cậy để ngăn chặn hoạt động (bất hợp pháp) của Trung Quốc với 6 chiếc tàu ngầm lớp Kilo 636MV của Nga, The Economic Times bình luận.
Ấn Độ và Việt Nam đã kết thúc thành công vòng đối thoại quốc phòng ở New Delhi hôm Thứ Sáu, đây là lần đối thoại đầu tiên giữa hai nước kể từ khi Thủ tướng Narendra Modi lên nắm quyền.Trong cuộc trả lời phỏng vấn tờ The Economic Times hôm 17/1, tướng Nguyễn Chí Vịnh cho biết đối thoại năm nay đã được chuẩn bị kỹ lưỡng từ cả hai phía, và đã rất thành công.
Tướng Nguyễn Chí Vịnh và Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Ấn Độ Shri R. K. Mathur đồng chủ trì đối thoại quốc phòng Việt - Ấn năm 2015. Ảnh: Cổng thông tin điện tử Bộ Quốc phòng.
Quân đội hai nước đã triển khai các hoạt động hợp tác trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Đối thoại quốc phòng Việt - Ấn năm nay có lĩnh vực hợp tác mới là công nghệ cao và công nghệ thông tin. Việt Nam đánh giá cao khả năng của Ấn Độ. Trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, Ấn Độ đã giúp Việt Nam đào tạo đội ngũ kỹ sư quân sự, ngôn ngữ, công nghệ thông tin cho lực lượng cán bộ trẻ.
Tướng Vịnh cho biết, đặc trưng của quan hệ đối tác Việt - Ấn là hợp tác chiến lược toàn diện về cả chính trị, văn hóa, tôn giáo, kinh tế, an ninh quốc phòng. Mối quan hệ này được củng cố khi các lợi ích chiến lược của hai nước trở nên phù hợp hơn. Cơ hội và thách thức của tình hình an ninh khu vực và quốc tế đã đưa Việt Nam và Ấn Độ trở nên gần gũi hơn, cùng nhau bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia.
Nước nào ỷ lớn hiếp nhỏ trên Biển Đông sẽ bị lên án
Với câu hỏi của The Economic Times rằng Việt Nam và Ấn Độ có thể hợp tác như thế nào để ổn định tình hình Biển Đông, tướng Vịnh cho biết: Tình hình ở Biển Đông hay rộng hơn là châu Á - Thái Bình Dương ngày càng gắn bó với nhau hơn, gắn với những mục tiêu của tất cả các quốc gia liên quan. Các lợi ích bao gồm tự do hàng hải, tự do thương mại, lợi ích địa chính trị, quốc phòng và an ninh.
Ấn Độ theo đuổi chính sách hành động hướng Đông thì không thể bỏ qua tình hình ở khu vực Biển Đông. "Chúng tôi ủng hộ sự hiện diện của Ấn Độ vì nó là vì hòa bình, hợp tác và vì lợi ích của sự phát triển ở châu Á -  Thái Bình Dương và trên thế giới. Biển Đông có nhiều thách thức, trong đó có tranh chấp lãnh thổ, đe dọa sử dụng vũ lực và coi thường luật pháp quốc tế", tướng Vịnh khẳng định.
Ông cho biết, đây là vấn đề đáng quan tâm không chỉ với các nước trong khu vực mà là tất cả các nước trên thế giới, đặc biệt là các bên có lợi ích ở biển Đông. Việt Nam và Ấn Độ chia sẻ quan điểm tương tự về Biển Đông và châu Á - Thái Bình Dương với mong muốn khu vực trở nên ổn định, hợp tác và phát triển. Bất kỳ nước nào đi ngược lại xu thế này sẽ bị lên án bởi các nước trong khu vực và cộng đồng quốc tế.
Trong bối cảnh này, cộng đồng quốc tế gần đây đã lên tiếng bày tỏ mối quan tâm đối với khu vực, nhấn mạnh giải quyết các tranh chấp trên cơ sở luật pháp quốc tế, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực. Mỗi nước cần phải phấn đấu vì hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực. Nếu một quốc gia sử dụng sức mạnh và gây tổn hại đến lợi ích của các nước khác trong khu vực, chắc chắn nó sẽ bị lên án, tướng Vịnh khẳng định.
Hồng Thủy 
(Giáo Dục)

Nguyễn Trọng Bình - Nói thật và nói sự thật

1. Có thể thấy sau những phát ngôn của Thủ tưởng Nguyễn Tấn Dũng về những vấn đề liên quan đến cơ chế kiểm soát và cung cấp thông tin trong thời đại công nghệ hiện nay thì gần như ngay lập tức nhiều cơ quan truyền thông, những người báo chuyên lẫn không chuyên đều tỏ ra vui mừng phấn chấn. Mới đây, báo Tuổi trẻ số ra ngày Chủ nhật, 18 tháng 1 cũng đã tổ chức một diễn đàn xung quanh vấn đề này [1]. Một lần nữa, hầu hết những người tham gia diễn đàn này đều đồng tình với quan điểm của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trước đó. Đặc biệt, mọi người đều nhất trí cho rằng việc kịp thời và công khai, minh bạch thông tin cho người dân về tất cả mọi vấn đề của đời sống xã hội là giải pháp quan trọng nhằm giành lại “trận địa thông tin” trong tình hình bùng phát thông tin trên các trang, mạng xã hội hiện nay.
Bây giờ chúng ta hãy thử đặt câu hỏi để xem đây có phải là một giải pháp tốt hay không? Câu hỏi là, giả sử trong trường hợp các cơ quan truyền thông chính thống đã chủ động cung cấp thông tin một cách kịp thời và minh bạch rồi nhưng nhân dân vẫn không tin thì sao? Hay người dân sau khi có thông tin từ các cơ quan truyền thông chính thống nhưng họ vẫn muốn tìm thông tin ở chỗ không chính thống như một cách để kiểm chứng mức độ chân thật của sự việc nào đó thì sao? Bởi nói cho cùng, việc hoài nghi hay không tin vào một thông tin liên quan đến một vấn đề, một sự kiện nào đó cũng là quyền của mỗi người dân và không ai hay một cơ chế nào có thể ngăn cấm họ.
2. Đặt câu hỏi mang tính phản biện như trên, người viết bài này muốn nhắc lại đây quan điểm của giáo sư Lê Ngọc Trà trong một bài viết cách đây gần 30 năm. Chính xác là năm 1988 - thời điểm được xem là lần “đổi mới tư duy thứ nhất” của Đảng những 80 của thế kỷ trước. Khi ấy, trên lĩnh vực văn hóa văn nghệ nói chung và văn học nghệ thuật nói riêng, sau khi đã được Đảng “cởi trói”, Giáo sư Lê Ngọc Trà có nêu quan điểm rằng:
“Mặt khác phải thấy rằng nói thật và nói sự thật không phải bao giờ cũng là một. Có khi anh chân thành đấy nhưng vì nói một chiều, định hướng của anh sai nên thành ra chỉ nói được một nửa sự thật. Chẳng phải mấy chục năm qua phần đông nhà văn chúng ta cũng tin mình nói thật đó sao? Mà có lẽ đúng như vậy. Nhưng bây giờ thì trừ những người “yêu quá khứ” vì yêu mình ra, mấy ai nghĩ rằng văn học ta đã nói hết được sự thật?” [2].
Từ quan điểm trên của Giáo sư Lê Ngọc Trà có thể nói, sắp tới đây việc chủ động cung cấp thông tin kịp thời, chính xác và minh bạch cho người dân của các cơ quan truyền thông chính thống nước nhà thật ra chỉ mới đáp ứng được một nửa sự thật về một vấn đề, một sự kiện nào đó mà thôi. Nói cách khác, việc chủ động kịp thời và minh bạch thông tin về sự kiện nào đó của đất nước mới là “điều kiện cần” trong vấn đề xây dựng niềm tin đối với nhân dân của các cấp chính quyền và lãnh đạo Nhà nước. Vậy thì nửa sự thật còn lại nằm ở đâu? Hay cái “điều kiện đủ” ở đây là gì? Xin thưa đó là tâm thế và thái độ của người cung cấp thông tin hay chính xác hơn là tâm thế và thái độ của lãnh đạo Nhà nước và chính quyền đối với nhân dân trong việc cung cấp thông tin về những sự kiện liên quan đến hiện tình đất nước là như thế nào? Vấn đề này có thể nhìn nhận ở 3 phương diện quan trọng sau:
Một, thông tin được cung cấp có mang tính chia sẻ và sẵn sàng đối thoại với nhân dân để tìm sự đồng thuận hay chỉ nhằm mục ban phát trong sự áp đặt suy nghĩ và tư tưởng người dân; như một mệnh lệnh để thi hành và không cho phép người dân được quyền phản biện lại hay có cách nhìn khác, góc nhìn khác?
Hai, thông tin được cung cấp có thực sự nhằm phục vụ lợi ích của đại bộ phận công chúng và nhân dân hay chỉ phục vụ lợi ích cho một người hay nhóm người nào đó?
Ba, chỉ số và mức độ công khai, minh bạch của những sự kiện được cung cấp như thế nào, độ tin cậy của những vấn đề ra sao; đâu là những sự kiện mà người dân đương nhiên phải được chính quyền cung cấp (ngoài những vấn đề, những thông tin liên quan đến bí mật quân sự, bí mật quốc gia) để mà “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”...?
3. Thời gian qua, có một thực tế mà ai cũng nhìn thấy là, trước một vấn đề nào đó (nhất là vấn đề liên quan đến đời tư của các lãnh đạo cấp cao hay thông tin về những vấn đề liên quan đến chủ quyền quốc gia về biển đảo...) thì về phía các cơ quan truyền thông chính thống, đa phần chỉ cung cấp cho người dân ở mức độ “vừa phải” hay chủ yếu là “nói tránh”, “nói giảm” đi cái bản chất thật của những sự việc (ví như đồng chí X, Y, Z hay ngư dân của ta bị “tàu lạ” đâm chìm...). Ở chiều ngược lại, các cơ quan truyền thông phi chính thống lại có khuynh hướng đưa tin theo kiểu nói quá, nói phóng đại hay thổi phồng lên. Đây là gì nếu không phải là thái độ và tâm thế của những bên cung cấp thông tin đến với người dân?
Nghiêm túc mà nói thì cả hai cách cung cấp thông tin đến người dân như trên đều là cố tình bóp méo và xuyên tạc bản chất thật của những sự việc. Thế nhưng, phía nào cũng khư khư cho rằng mình đang nói thật về một sự việc, sự kiện ấy. Và như thế tất cả người dân vô tình trở thành nạn nhân của những thông tin trái chiều ấy. Hay nói cách khác, mọi sự phân tâm và hoang mang của người dân đều bắt nguồn từ chỗ này. Vì một bên chỉ nói một nửa sự thật còn một bên có khi lại nói quá, nói vượt ra ngoài những sự thật ấy.
 Rõ ràng, trong chuyện này cả hai phía chính thống và phi chính thống đều có lỗi trong cách cung cấp thông tin đến người dân, tuy nhiên công tâm mà nói thì lỗi của phía cơ quan truyền thông chính thống có phần nặng và đáng trách hơn. Bởi lẽ:
Thứ nhất, phía các cơ quan truyền thông chính thống được sự bảo hộ về cơ chế tiếp cận và khai thác thông tin thuận lợi hơn.
Thứ hai, những người đưa tin từ phía các cơ quan truyền thông chính thống được nuôi dưỡng bằng tiền thuế của người dân góp vào vậy mà họ chỉ cung cấp thông tin cho người dân không kịp thời và không đầy đủ.
Như vậy, nói theo ngôn ngữ bóng đá là với lợi thế “sân nhà” và “trọng tài nhà” nhưng nhìn chung đa phần các cơ quan truyền thông chính thống vì lsy do nào đó có khi chỉ im lặng không hề cung cấp thông tin cho người dân hoặc có cung cấp nhưng thông tin đến người dân vừa chậm lại thêm “nói giảm”, “nói tránh” hay chỉ nói có 50% sự thật xung quanh những những sự kiện mà họ biết rất rõ 100% thì khó mà trách sự xuyên tạc hay bóp méo của bên cung cấp thông tin không chính thống bằng cách nói quá nó lên. (Ở đây cũng mở ngoặc nói thêm là nếu xét trong từng trường hợp cụ thể thì không phải người làm báo nào trong cơ quan truyền thông chính thống cũng đáng trách, vẫn có không ít người rất có ý thức về chuyện này nhưng có khi vì cuộc sống nên trong từng vấn đề cũng nên thông cảm cho họ - những người chưa đến mức phải “bẻ cong ngòi bút” để tồn tại).   
***
4. Dù sao cũng phải thừa nhận quan điểm chỉ đạo của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khi yêu cầu xây dựng cơ chế hợp lý nhằm giúp các cơ quan truyền thông chính thống “đưa thông tin chính xác, kịp thời và minh bạch” đến mọi người dân là một cái nhìn đúng đắn, kịp thời của người đứng đầu chính phủ trong  hoàn cảnh bát nháo và nhiễu loạn thông tin hiện nay ở Việt Nam; là dấu hiệu cho thấy sự chuyển biến tích cực trong tư duy và nhận thức của những người lãnh đạo trong vấn đề minh bạch thông tin trước nhân dân. Tuy vậy, có lẽ các cấp lãnh đạo cùng những người làm báo chính thống cũng không nên ảo tưởng rằng, nhân dân sẽ tin tưởng chính quyền khi họ được cung cấp những thông tin kịp thời, chính xác và minh bạch. Vì như người xưa đã nói: “một lần bất tín vạn lần bất tin”.
Ngoài ra, trong tình hình xã hội và đất nước Việt Nam hiện nay, muốn có được hay lấy lại niềm tin của nhân dân thì như đã nói, tâm thế và thái độ của những người cung cấp thông tin mới là nhân tố quan trọng và quyết định nhất. Trước một sự kiện nào đó, người dân tuy được cung cấp một cách kịp thời và minh bạch nhưng nếu thông tin về những sự kiện ấy đã được “định hướng” và “dàn xếp” trước sao cho chỉ có lợi cho một số người, một nhóm người nào đó thì có khi chỉ làm nhân dân thêm mất niềm tin hơn mà thôi. Bởi lẽ, những thông tin như vậy thật ra chỉ mới đáp ứng được một nửa của sự thật. Mà một nửa sự thật thì như mọi người đã biết đó không phải là sự thật. Vậy nên, sắp tới đây, muốn người dân thật sự tin tưởng thì nhất định phải tuân thủ một nguyên tắc mà Giáo sư Lê Ngọc Trà đã nói cách đây gần 30 năm: “nói thật và nói sự thật bao giờ cũng kèm theo một điều kiện: quyền được nói thật và nói sự thật”[3] của mỗi người dân.
          Nói cách khác, muốn người dân thật sự tin tưởng thì trước hết, Nhà nước và chính quyền phải tuyệt đối tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tư tưởng, tự do suy nghĩ, tự do ngôn luận của người dân trước mọi sự kiện, mọi vấn đề của xã hội và đất nước mà họ được những cơ quan truyền thông cung cấp. Nhà nước và chính quyền phải dũng cảm để sẵn sàng đón nhận và lắng nghe những những lời nói thật cho dù đó là những lời chỉ trích, “quở mắng” của người dân về những quyết sách sai lầm hay những vấn đề có màu sắc tiêu cực khác. Lắng nghe là để nhận lỗi và sửa đổi chứ không phải lắng nghe để trù dập hay thậm chí trấn áp, đàn áp tinh thần họ. Có vậy may ra mới lấy lại niềm tin của nhân dân; mới thực sự là Nhà nước “của dân, do dân và vì dân”; thực sự là một xã hội tiến bộ, dân chủ và văn minh.
Cần Thơ, 18/1/2015
Nguyễn Trọng Bình
-----------------
Chú thích nguồn:
[1]: “Minh bạch để giành “trận địa thông tin” - Báo Tuổi trẻ - Số ra ngày 18/1/2015.
[2], [3]:  Lê Ngọc Trà – “Về vấn đề văn học phản ánh hiện thực” (in trong sách “Lý luận và văn học”, nhà xuất bản Trẻ, 2005).
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 18-1-15
(Viet - Studies)

Charlie Hebdo và quyền ngôn luận ở VN

Charlie Hebdo trào lộng tình hữu nghị Việt - Trung

Charlie Hebdo là một tờ báo trào phúng nổi tiếng ở Pháp. Các nhà hí họa rất nhanh nhạy với mọi tình hình thời sự, chính trị, và mọi khía cạnh trên thế giới. Họ đã mạnh dạn dùng bút vẽ để trào lộng những vấn đề được coi là nhạy cảm xã hội như tôn giáo. Mọi thứ lố bịch làm ảnh hưởng đến tự do nhân quyền con người họ đều đem ra chỉ trích dưới hình thức châm biếm. Chính vì thế họ đã bị bọn khủng bố theo đạo Hồi quá khích bắn chết khi đang họp ngày 07/01/2015 ở Paris. Mặc dù trụ sở đã từng bị đốt, từng bị đe dọa mạng sống, họ vẫn can đảm lên tiếng vì lý tưởng tự do ngôn luận, và vì hòa bình trên thế giới. Không chỉ trào lộng đạo tôn giáo mà những mối quan hệ chính trị của nhiều nước trên thế giới như quan hệ Trung – Mỹ, Việt – Trung, Mỹ - Nga Xô cũng bị họ đưa ra trào lộng.
Việt Nam từng có bài hát suốt ngày đài phát “Việt Nam Trung Hoa núi liền núi sông liền sông… mổi tình hữu nghị thắm như rạng đông » và Hồ Chí Minh đã ví mối tình hữu nghị keo sơn như môi với răng, môi hở răng lạnh. Nhiều báo chí thế giới đã dịch câu này. Báo nhân đạo Pháp cũng từng đề cập mối quan hệ Việt – Trung.
Năm 1979, quân đội Việt Nam sang giúp Campuchia để dẹp Kmer đỏ. Trung Quốc nhân cớ lợi dụng để tấn công Bắc Việt Nam. Tình hữu nghị biến thành chiến tranh biên giới. Charlie Hebdo đã nhanh nhạy trào lộng mối quan hệ Việt-Trung tan vỡ. Bức tranh chỉ trích mấy nước da vàng tưởng hòa bình rồi lại cắn xé lẫn nhau. Tác giả trào lộng tình hữu nghị môi hở răng lạnh giữa Trung Quốc và Việt Nam vốn được hai nước đề cao trong chiến tranh chống Mỹ, bây giờ lại dùng môi răng để cắn nhau khi Trung Quốc xâm phạm lãnh thổ Bắc Việt Nam.
clip_image002
Cắn nhau đi, hỡi người da vàng !
Trong chiến tranh Việt Nam, Việt Nam và Trung Quốc coi nhau như «anh em», nhưng thực chất Mao đã bắt tay với Mỹ, trong khi Mỹ tiếp tục ném bom ở Việt Nam. Tình hữu nghị trá hình của Trung Quốc đã được các nhà báo chống chiến tranh ở Việt Nam hí họa đăng trong tạp chí Charlie Hebdo
clip_image004
Mao và Nixon - Những mối tình lững lẫy
Tháng 2/1972, Tổng thống Nixon thăm Trung Quốc. Mao và Nixon giao bang. Bom vẫn rơi xuống đầu Việt Nam.
Đúng như Wolinski đã nói rằng báo của họ nói lên trước những điều sẽ xảy ra trong 10 năm tới. Tình hình hữu nghị Việt – Trung càng lộ rõ khi Trung Quốc ngang nhiên đặt giàn khoan ở Biển Đông và chiếm Hoàng Sa và một số đảo nhỏ thuộc địa phận Việt Nam.
Trào lộng là một vũ khí đấu tranh hòa bình để xã hội phát triển. Những nhà hí họa Charb, Wolinski, Tignous, Cabu thực sự là những anh hùng hy sinh trên mặt trận văn hóa vì tự do và hòa bình của toàn nhân loại. Tinh thần của họ mãi mãi được ca ngợi và thắp sáng. Những người yêu hòa bình và tự do đã ủng hộ Charlie Hebdo. Chính vì thế số báo ra đời sau vụ thảm sát dã man với 5 triệu bản vừa ra buổi sáng đã bán hết. Charlie Hebdo đã vinh dự được công nhận là công dân danh dự của thành phố Paris. Khi được coi là công dân, tức là tờ báo trở nên bất tử. Charb, Cabu, Wolinski, Tignous cùng tờ báo Charlie Hebdo đã trở nên bất tử vì đấu tranh cho Tự do và hòa bình trên toàn thế giới.
Trần Thu Dung
Tác giả gửi BVN
(Bauxitevn)

Nhìn lại sự kiện TQ đánh chiếm Hoàng sa năm 1974

Tháng 1 năm 1974, hải quân Trung Quốc đánh chiếm nốt các đảo thuộc phần phía Tây của quần đảo Hoàng Sa. Thấm thoắt 36 năm đã trôi qua, lớp bụi thời gian đã phần nào che phủ lên một sự kiện này, làm nảy sinh một số nhìn nhận và đánh giá sai lầm về một sự thật lịch sử, gây phức tạp thêm cho quá trình tìm kiếm giải pháp lâu dài cho những tranh chấp ở biển Đông. Do bị tuyên truyền xuyên tạc và thiếu thông tin, không ít người Trung Quốc cho rằng quần đảo Hoàng Sa đã thuộc về chủ quyền của Trung Quốc. Thậm chí, một nhóm người hiếu chiến ở quốc gia to lớn này còn cho rằng: cuộc đánh chiếm Hoàng Sa chứng minh rằng dùng vũ lực có thể giải quyết vấn đề chủ quyền lãnh thổ và có ảo tưởng rằng có thể tiếp tục sử dụng vũ lực để đánh chiếm nốt biển Đông. Chính vì vậy, việc nhìn nhận và đánh giá sự kiện Trung Quốc dùng vũ lực để chiếm quần đảo Hoàng Sa một cách thật khách quan vẫn là hết sức cần thiết để làm sáng tỏ sự thật lịch sử này.
http://imgs.vietnamnet.vn/Images/vnn/2014/01/07/16/20140107161926-khaihoahaichienhoangsa1974.JPG

Bối cảnh lịch sử của trận chiến Hoàng Sa

Trong quá trình rút khỏi Đông Dương, chính phủ bảo hộ Pháp trao trả chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho chính quyền Sài Gòn từ tháng 10 năm 1950. Quân đội của chính quyền Sài Gòn cho quân đóng giữ quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và thực thi quản lý nhà nước đối với hai quần đảo này.  

Năm 1973, sau khi ký Hiệp định Paris, Hoa Kỳ rút quân và thiết bị của mình ra khỏi quần đảo Hoàng Sa. Như vậy, Hoa Kỳ đã coi việc bảo vệ quần đảo này là việc riêng của Việt Nam Cộng hòa.

Thời gian này đã là giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh Việt Nam, chính quyền Việt Nam Cộng hoà đứng trước nguy cơ thảm bại rõ ràng. Do nhu cầu của chiến cuộc, việc phòng thủ Hoàng Sa bị suy yếu. Việt Nam Cộng hoà phải rút tiểu đoàn thủy quân lục chiến tại Hoàng Sa đưa vào đất liền, chỉ còn một trung đội địa phương quân trấn giữ nhóm đảo Nguyệt Thiềm. Bên cạnh đó, việc Hoa Kỳ thoả thuận ngầm với Trung Quốc rằng họ sẽ đứng ngoài cuộc chiến nếu xảy ra đã đẩy Việt Nam Cộng hoà vào thế hoàn toàn đơn độc. Tình hình đó tạo ra nguy cơ cực lớn cho công cuộc bảo vệ quần đảo Hoàng Sa; đồng thời cũng tạo thời cơ hết sức thuận lợi cho Trung Quốc hoàn thành việc xâm chiếm toàn bộ quần đảo này.

Diễn biến của trận chiến Hoàng Sa

Ngày 11 tháng 1 năm 1974, Trung Quốc ngang nhiên tuyên bố các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, lúc đó đang được chính quyền Sài Gòn quản lý, là một phần lãnh thổ của mình. Ngay sau đó, hải quân Trung Quốc đưa nhiều chiến hạm và tàu đánh cá có vũ trang xâm nhập hải phận Hoàng Sa.

Ngày 12 tháng 1 năm 1974, ngoại trưởng Vương Văn Bắc của chính quyền Sài Gòn đã cực lực bác bỏ luận điệu ngang ngược và lên án hành động gây hấn của Trung Quốc; đồng thời, Bộ tư lệnh Hải quân của Việt Nam Cộng hoà đã đưa bốn chiến hạm ra vùng biển Hoàng Sa để bảo vệ lãnh thổ.

Cả ngày 17 và 18 tháng 1, Trung Quốc tăng cường lực lượng và cố tình khiêu khích, các chiến hạm của họ tiến sâu vào hải phận phía tây quần đảo Hoàng Sa. Đến nửa đêm 18 tháng 1, hộ tống hạm Nhật Tảo HQ-10 đã ra đến nơi chi viện. Trận hải chiến lớn nhất và dữ dội nhất giữa hải quân Việt Nam Cộng hoà và hải quân Trung Quốc nổ ra vào sáng ngày 19 tháng 1.

Ngày 20 tháng 1, bốn phi cơ MiG-21 và MiG-23 của Trung Quốc oanh tạc các đảo Cam Tuyền, Vĩnh Lạc, và Hoàng Sa … Tiếp đó, binh lính Trung Quốc đổ bộ tấn công các đơn vị đồn trú của Việt Nam Cộng hoà trên các đảo này, chiếm nốt phần phía Tây của quần đảo Hoàng Sa. 58 binh sĩ quân đội Việt Nam Cộng hoà đã ngã xuống trong cuộc chiến bảo vệ Hoàng Sa.

Sau khi chiếm được toàn bộ quần đảo Hoàng Sa, Trung Quốc đã cho đập phá các bia chủ quyền tại quần đảo, đào các mộ của người Việt đã chôn ở đây, xóa các di tích lịch sử của người Việt.

Phản ứng của phía Việt Nam

Ngày 20 tháng 1 năm 1974, ngoại trưởng chính quyền Việt Nam Cộng hoà cũng đã gọi điện và gửi thư cho Chủ tịch Hội đồng Bảo an và Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc đề nghị có những biện pháp cần thiết trước tình hình khẩn cấp về việc Trung Quốc dùng vũ lực xâm chiếm Hoàng sa.

Ngày 26 tháng 1 năm 1974, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ra tuyên bố phản đối hành động xâm chiếm Hoàng Sa của Trung Quốc và công bố lập trường “về chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ” của Việt Nam. Phản ứng trước vụ việc này, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng ra tuyên bố “các nước liên quan nên giải quyết mâu thuẫn bằng đàm phán trên tinh thần bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, và quan hệ láng giềng”. Họ đã không thể làm gì hơn, do Hoàng Sa thời gian đó không nằm trong quyền quản lý của  của mình và họ vẫn cần đến viện trợ quân sự và kinh tế của Trung Quốc.

Sau khi miền Nam Việt Nam hoàn toàn giải phóng, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã nhiều lần tuyên bố khẳng định quần đảo Hoàng Sa là của Việt Nam. Ngày 5 tháng 6 năm 1976, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã lên tiếng bác bỏ những thông tin xuyên tạc về Hoàng Sa – Trường Sa và khẳng định hai quần đảo này là thuộc chủ quyền Việt Nam, từ trước đến nay đều do người Việt Nam quản lý.

Ngay sau đất nước thống nhất, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã tuyên bố chủ quyền đối với cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sau đó, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam vẫn luôn luôn khẳng định chủ quyền hợp pháp đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa trên biển Đông.

Sự kiện năm 1974 và vấn đề chủ quyền đối với Hoàng Sa

Trong bối cảnh chính quyền Việt Nam Cộng hoà đang gần đến ngày thảm bại hoàn toàn, Trung Quốc đã dùng vũ lực đánh chiếm nốt phần phía Tây quần đảo Hoàng Sa. Nhìn nhận sự kiện này dưới bình diện của luật pháp quốc tế, người ta có thể rút ra một số nhận xét sau:

Một là, những hành động đánh chiếm các đảo và quần đảo ở Biển Đông bằng vũ lực là một sự vi phạm nghiêm trọng điều 2 khoản 4 của Hiến chương Liên hợp quốc, trong đó cấm các quốc gia sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế, đặc biệt là cấm sử dụng vũ lực để xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia khác. Nội dung điều khoản này trong Hiến chương Liên hợp quốc là một nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, đòi hỏi tất cả các nước thành viên của Tổ chức Liên hợp quốc, trong đó có Trung Quốc, đều phải tuân thủ.

Nguyên tắc này được phát triển và cụ thể hoá trong Nghị quyết 2625 ngày 24 tháng 10 năm 1970 của Đại hội đồng Liên hợp quốc trong đó quy định : “Các quốc gia có nghĩa vụ không đe doạ hay sử dụng vũ lực để vi phạm các biên giới quốc tế hiện có của một quốc gia khác hay (coi đe doạ hay sử dụng vũ lực)  như biện pháp giải quyết các tranh chấp quốc tế, kể cả những tranh chấp về đất đai và những vấn đề liên quan đến biên giới của các quốc gia”.

Hai là, hành động Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm phần phía Đông của quần đảo Hoàng Sa năm 1956 và chiếm nốt phần phía Tây của quần đảo này năm 1974 thực chất là một hành động xâm lược lãnh thổ của Việt Nam.

Trước khi Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm (năm 1956 và năm 1974) quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam thì quần đảo này đã có chủ. Trước đó vài thế kỷ, Việt Nam đã xác lập và thực thi chủ quyền của mình  một cách thật sự, liên tục và hoà bình đối với quần đảo Hoàng Sa (và cả Trường Sa). Những tài liệu lịch sử để lại đã chứng minh rõ ràng rằng Việt Nam đã thực thi chủ quyền của mình trên các quần đảo này ít ra là từ thời Chúa Nguyễn vào đầu thế kỷ thứ XVII. Vào thời kỳ này,  Chúa Nguyễn cử các Đội Hoàng Sa và Đội Bắc Hải  ra hai quần đảo, mỗi năm khoảng 8 tháng, để khai thác các nguồn lợi, tài nguyên của đảo và những hoá vật từ những tàu bị đắm. Năm 1816, Vua Gia Long chính thức chiếm hữu đảo, ra lệnh cắm cờ trên đảo và đo thuỷ trình. Năm 1835, Vua Minh Mạng đã cho xây đền, đặt bia đá trên hai quần đảo.  Đội Hoàng Sa và Đội Bắc Hải được giao thêm cả nhiệm vụ tuần tiễu, thu thuế trên đảo, bảo vệ hai quần đảo. Hai đội này tiếp tục hoạt động cho đến khi Pháp vào thống trị Đông Dương.

Cho đến ngày bị Pháp đô hộ, triều đại phong kiến Việt Nam đã liên tục thực thi chủ quyền trên hai quần đảo này một cách hòa bình, không có nước láng giềng nào cạnh tranh hoặc phản đối.

Năm 1932, Pháp khẳng định An Nam có chủ quyền lịch sử trên quần đảo Hoàng Sa và sáp nhập quần đảo này vào tỉnh Thừa Thiên. Năm 1933, Pháp sáp nhập quần đảo Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa. Năm 1951, tại Hội nghị San Francisco về ký hoà ước với Nhật Bản khi đại biểu một nước lớn đề nghị thảo luận việc bổ sung Dự thảo Hòa ước nhằm mục đích giao hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc thì Hội nghị đã bác bỏ đề nghị đó với tuyệt đại đa số phiếu 46/51. Tại Hội nghị, khi Nhật Bản tuyên bố từ bỏ tất cả các đảo ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Đại diện Chính phủ Bảo Đại là Thủ tướng Trần Văn Hữu đã chính thức tuyên bố và khẳng định chủ quyền lâu đời của Việt Nam đối với hai quần đảo mà không có nước nào lên tiếng phản đối. Sau đó, chính quyền Việt Nam Cộng hoà đã triển khai đóng quân trên hai quần đảo, quản lý hai quần đảo theo quy định của Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954; đồng thời luôn khẳng định và thực thi chủ quyền một cách hoà bình và liên tục đối với hai quần đảo. Năm 1961, Việt Nam Cộng hoà sáp nhập quần đảo Hoàng Sa vào tỉnh Quảng Nam, và năm 1973, sáp nhập quần đảo Trường Sa vào tỉnh Phước Tuy.

Trong khi đó, Trung Quốc không có bằng chứng lịch sử và pháp lý xác thực nào để yêu sách chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa (và quần đảo Trường Sa). Thực tế là, vào đầu thế kỷ 20, “Đại Thanh đế quốc toàn đồ” xuất bản năm 1905, tái bản năm 1910, đã thể hiện rất rõ ràng điểm cực Nam của Trung Quốc chỉ là đảo Hải Nam và “Trung Quốc địa lý học giáo khoa thử” xuất bản năm 1906 ghi rõ điểm mút ở phía nam Trung Quốc là Châu Nhai, Quỳnh Châu, vĩ tuyến 18013′ bắc. Các công trình nghiên cứu chính sử và các sử liệu chính thức của các triều đại phong kiến Trung Quốc từ đời nhà Hán, nhà Đường, nhà Tống, nhà Nguyên, nhà Minh cho đến nhà Thanh cũng cho thấy một kết luận tương tự: điểm cực Nam của cương vực Trung Quốc chỉ đến đảo Hải Nam.

Theo nhiều tư liệu của Trung Quốc và của các học giả nước ngoài thì phải đến đầu thế kỷ 20, trước sự đe doạ của chủ nghĩa nghĩa bành trướng Nhật Bản, Trung Quốc mới quan tâm đến quần đảo Hoàng Sa và đến những thập kỷ 20 và 30 thì mới thể hiện ý đồ tranh giành chủ quyền với chính quyền bảo hộ Pháp. Cho đến lúc đó thì người Trung Quốc chưa có hành động thể hiện sự chiếm hữu thực sự nào đối với các đảo ở quần đảo Hoàng Sa. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, vào tháng 11 năm 1946, với lý do giải giáp quân Nhật, quân đội Tưởng Giới Thạch đổ bộ lên đảo Phú Lâm (thuộc Nhóm Đông của quần đảo Hoàng Sa và đảo Itu Aba (thuộc quần đảo Trường Sa) và đến tháng 4 năm 1950 thì rút khỏi đảo Phú Lâm. Sau khi đuổi được quân đội Tưởng Giới Thạch ra khỏi lục địa, năm 1956 chính quyền Bắc Kinh cho quân đánh chiếm toàn bộ phần phía Đông của quần đảo Hoàng Sa.

Ba là, theo luật pháp quốc tế việc Trung Quốc sử dụng vũ lực để chiếm các đảo ở quần đảo Hoàng Sa không tạo ra được chứng cứ để khẳng định chủ quyền của Trung Quốc đối với các đảo, đá mà họ đã dùng vũ lực để chiếm đoạt. Nghị quyết 2625 ngày 24 tháng 10 năm 1970 của Đại hội đồng Liên hợp quốc được trích dẫn ở trên đã nêu rõ: “Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một cuộc chiếm đóng quân sự do sử dụng vũ lực trái với các quy định của Hiến chương Liên hợp quốc. Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một sự chiếm hữu của một quốc gia khác sau khi dùng vũ lực hay đe doạ sử dụng vũ lực. Bất kỳ sự thụ đắc lãnh thổ nào đạt được bằng đe doạ hay sử dụng vũ lực sẽ không được thừa nhận là hợp pháp”.

Hành động xâm lược nói trên không bổ sung vào bộ hồ sơ pháp lý về chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông. Những hành động như vậy đã bị cộng đồng quốc tế lên án mạnh mẽ và chắc chắn sẽ bị các toà án quốc tế bác bỏ một khi chúng được đưa ra tòa án quốc tế nhằm minh chứng cho chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông.

Tóm lại, chiếu theo các quy định của luật pháp quốc tế, có thể nói rằng hành động của Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa vào các năm 1956 và năm 1974 là sự vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc “cấm việc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế” và bị coi là “hành động xâm lược”. Dù  có chiếm đóng thêm một trăm năm nữa thì Trung Quốc cũng không có chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa. Những gì thuộc về Cesar sẽ phải trả về cho Cesar. Quần đảo Hoàng Sa  thuộc về Việt Nam phải trả về cho Việt Nam. Đó là một sự thật lịch sử, không thể nào thay đổi./.
  Xuân Thành
17-01-2015

Trận Hoàng Sa, biểu tượng hội tụ lòng yêu nước


Trần Gia Phụng (Danlambao) – Trong chiến tranh Việt Nam vừa qua, trận Hoàng Sa ngày 19-1-1974 tuy ngắn ngủi nhưng là trận chiến chống ngoại xâm duy nhứt và ngày nay trở thành biểu tượng hội tụ lòng yêu nước của người Việt. Để thấy rõ các điểm nầy, xin đặt lại trận Hoàng Sa trong toàn bộ cuộc chiến Việt Nam vừa qua.
Tính chất cuộc chiến Việt Nam
Về cuộc chiến 1946-1954, Cộng sản Việt Nam (CSVN) thường tuyên truyền rằng đó là cuộc kháng chiến chống Pháp của toàn dân. Thật ra, vấn đề không đơn giản như vậy. Nguyên khi ra mắt chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) ngày 2-9-1945 tại Hà Nội do mặt trận Việt Minh (VM) và đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD) lãnh đạo, Hồ Chí Minh (HCM) đưa ra ba lời thề, trong đó lời thề thứ ba là sẽ chống Pháp đến cùng nếu Pháp trở lui nước ta. Tuy nhiên khi Pháp trở lui, sợ Pháp lật đổ, mất quyền lãnh đạo, đồng thời để rảnh tay tiêu diệt các thanh phần đối lập, HCM không chống Pháp như lời thề ngày 2-9, mà thỏa hiệp với Pháp, ký hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946, đặt Việt Nam trong Liên Bang Đông Dương và trong Liên Hiệp Pháp, nghĩa là hợp thức hóa sự hiện diện của quân đội Pháp ở Đông Dương. Chẳng những thế, để được chắc chắn yên thân hơn, HCM còn qua Paris, xin ký với Pháp Tạm ước (Modus Vivendi) ngày 14-9-1946. Hiệp ước nầy để cho Pháp tái tục các hoạt động kinh tế, tài chánh, giao thông, văn hóa trên toàn quốc Việt Nam. Như thế, rõ ràng, HCM cùng mặt trận VM và đảng CSĐD phản bội có hệ thống lời thề chống Pháp trước dân chúng ngày 2-9-1945.
Khi quân đội Pháp đến Hà Nội khá đông, xảy ra những cuộc đụng độ giữa quân Pháp và VM. Pháp yêu cầu VM phải để cho quân đội Pháp kiểm soát an ninh ở Hà Nội. Nếu để cho Pháp kiểm soát an ninh thì lãnh đạo đảng CSĐD và chính phủ VM đang ở Hà Nội, hoàn toàn nằm trong tay Pháp. Lo sợ bị bắt giữ, nhưng cũng không còn thương thuyết được với Pháp, HCM bí mật họp Trung ương đảng CSĐD tại Vạn Phúc (Hà Đông) trong hai ngày 18 và 19-2-1946, để tham khảo ý kiến. Không hỏi ý kiến Quốc hội (đại diện toàn dân) hay Ban Thường vụ Quốc hội, dù Ban Thường vụ Quốc hội luôn luôn có mặt ở Hà Nội, Trung ương đảng CSĐD quyết định tuyên chiến với Pháp, để có lý do chính đáng bỏ trốn khỏi Hà Nội.
Cũng không tham khảo Quốc hội, Trung ương đảng CSĐD còn thông qua “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, đổ gánh nặng chiến tranh lên vai toàn dân. Lúc đó, dân Việt chưa biết nhiều về HCM và đảng CSĐD. Dân Việt vốn có lòng yêu nước và có tinh thần chống ngoại xâm, nên khi nghe lời kêu gọi kháng chiến, liền đứng lên đáp lời sông núi mà không biết là đã bị HCM và đảng CSĐD lừa phỉnh, lợi dụng. Nhiều người tản cư vì tránh chiến tranh chứ không phải theo CS, vì chẳng bao lâu sau đó, họ hồi cư về thành rất đông.
Như thế, cuộc chiến bùng nổ tối 19-12-1946 là cuộc chiến do đảng CSĐD gây ra, vì quyền lợi sống còn của đảng CS, giữa đảng CSĐD với Pháp, chứ không phải giữa dân tộc Việt Nam với Pháp. Nếu kháng chiến chống Pháp vì lòng yêu nước, thì phải giữ lời thề chống Pháp ngay khi Pháp mới trở lại Việt Nam, chứ không thương thuyết, ký thỏa ước với Pháp, rồi khi đảng CSĐD bị đe dọa, mới chống Pháp.
Trong khi đó, đảng CSĐD tiếp tục cuộc tiêu diệt những thành phần theo chủ nghĩa dân tộc, không cộng sản, từ thành phố đến nông thôn. Tại thành phố, những nhân vật nổi tiếng bị VM giết đã nhiều. Tại nông thôn, trong mỗi làng, VM thủ tiêu ít nhất từ 5 đến 10 người, thì trên toàn quốc Việt Nam, tổng cộng số người bị VM giết có thể lên đến vài trăm ngàn người. Không thể ngồi chờ để bị giết, vì bản năng sinh tồn, những thành phần theo chủ nghĩa dân tộc quy tụ chung quanh cựu hoàng Bảo Đại, ở thế chẳng đặng đừng phải liên kết với Pháp chống CS, thành lập chính thể Quốc Gia Việt Nam (QGVN) năm 1949.
Từ năm 1949, chiến tranh giữa VMCS với Pháp trở thành chiến tranh ý thức hệ giữa người cộng sản với người quốc gia, kéo dài đến năm 1954 mới chấm dứt bằng hiệp định Genève (20-7-1954), chia hai Việt Nam tại vĩ tuyến 17: VNDCCH ở phía bắc, còn gọi là Bắc Việt Nam (BVN) và QGVN ở phía nam, còn gọi là Nam Việt Nam (NVN). Rõ ràng cuộc chiến nầy không phải là cuộc chiến chống ngoại xâm.
Cuộc chiến thứ hai 1960-1975 cũng do đảng CSĐD, dưới tên mới là đảng Lao Động (LĐ), cố tình gây hấn nhằm thôn tính NVN và bành trướng chủ nghĩa CS. Nguyên hiệp định Genève chỉ có tính cách thuần túy quân sự, không đưa ra giải pháp chính trị. Giải pháp chính trị được nói đến tại điều 7 bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương”, theo đó cuộc tổng tuyển cử để thống nhất đất nước dự tính sẽ được tổ chức vào tháng 7-1956. Tuy nhiên, bản tuyên bố nầy chỉ được hội nghị thông qua bằng miệng, chứ không có chữ ký của bất cứ phái đoàn nào cả, nghĩa là bản tuyên bố chỉ có tính cách gợi ý, chứ không có tính cách cưỡng hành, không bắt buộc thi hành.
Sau hiệp định Genève, VNDCCH hay BVN cài người, giấu súng ở lại miền Nam, vi phạm hiệp định Genève, nhưng BVN lại lấy cớ VNCH hay NVN không chấp nhận tổng tuyển cử, không tôn trọng hiệp định Genève, phát động chiến tranh lần nữa, xâm lăng NVN vào cuối 1960. Lần nầy, núp dưới chiêu bài “chống Mỹ cứu nước”, Lê Duẫn, thư ký thứ nhứt đảng LĐ tức đảng CSĐD, xác định mục tiêu chiến tranh là đánh cho TC, đánh cho Liên Xô. Câu nói của Lê Duẫn khái quát hết sức đầy đủ mục đích chiến tranh của BVN, làm tay sai cho LX, TC, và làm nhiệm vụ quốc tế CS.
Như thế, cả hai cuộc chiến 1946-1954 và 1960-1975 đều không chống ngoại xâm, mà chỉ do CS cố tình gây ra nội chiến để bảo vệ quyền lực và mở rộng quyền lực, bành trướng chủ nghĩa CS, làm tay sai cho CSQT. Có thể nói cả hai cuộc chiến đều là hai cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn, còn tệ hại hơn cuộc nội chiến thời Nam Bắc phân tranh vào thế kỷ 17, vì CSVN lồng chủ nghĩa Mác xít vào cuộc nội chiến, tiêu diệt văn hóa dân tộc, làm tổn hại và tê liệt đất nước.
Trận chiến chống ngoại xâm
Đảng CSĐD rồi đảng LĐ thành công trong chiến tranh từ 1946 đến 1975 là nhờ viện trợ lớn lao của khối quốc tế cộng sản (QTCS), trong đó quan trọng là TC. Ngay từ đầu, TC viện trợ cho CSVN một cách hào phóng không phải vì nghĩa vụ QTCS, mà vì hậu ý thâm hiểm, điển hình là tuyên cáo về lãnh hải của TC ngày 4-9-1958, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên Biển Đông, trong khi thực tế hai quần đảo nầy thuộc Việt Nam từ lâu đời và theo hiệp định Genève, thuộc NVN vì ở phía nam vĩ tuyến 17.
Để đáp lại, thủ tướng BVN là Phạm Văn Đồng (PVĐ) đưa ra công hàm ngày 14-9-1958 thừa nhận bản tuyên cáo đó, nghĩa là thừa nhận Hoàng Sa và Trường Sa là của TC, nhắm hai mục đích: 1) Trả nợ cũ thời chiến tranh 1946-1954. 2) Chuẩn bị vay nợ mới để tiến đánh VNCH hay NVN. Thật vậy, tháng 10-1959, PVĐ qua Bắc Kinh cầu viện TC. Tháng 11-1959, TC đưa một phái đoàn sang BVN trong hai tháng, nghiên cứu tất cả những nhu cầu cần thiết của BVN. Tháng 5-1960, lãnh đạo BVN và TC họp ở Hà Nội và Bắc Kinh để thảo luận chiến lược tấn công NVN (1). Sửa soạn xong xuôi, BVN triệu tập Đại hội III đảng LĐ tháng 9-1960, quyết định tấn công NVN.
Các lãnh tụ TC không khác gì các vua chúa Trung Hoa ngày xưa, luôn luôn nuôi mộng bành trướng xuống ĐNÁ. Lịch sử cho thấy quân đội Trung Hoa không thắng được quân đội Đại Việt trên đường bộ, nên lần nầy TC nghĩ đến chiến lược khác, nhìn ra Biển Đông để tìm đường xuống ĐNA.
Tại Hội nghị hòa bình San Francisco 1951, TC nhờ Liên Xô đưa ra đòi hỏi các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc TC, nhưng bị bác bỏ. Trong khi đó, chính phủ QGVN lên tiếng xác nhận chủ quyền hai quần đảo nầy là của QGVN, thì không bị hội nghị phản đối. Sau đó, năm 1958 Mao Trạch Đông tuyên bố rằng: “Hiện nay, Thái Bình Dương không yên ổn. Thái Bình Dương chỉ yên ổn khi nào chúng ta làm chủ nó.” (“Now the Pacific Ocean is not peaceful. It can only be peaceful when we take it over.”) (2). Trong cuộc họp với đại diện đảng LĐVN năm 1963, MTĐ nói: “Tôi sẽ là chủ tịch của 500 triệu bần nông đưa quân xuống Đông Nam Á.” Tháng 8-1965, trong cuộc họp của Ban Chấp hành Trung ương đảng CSTQ, MTĐ tuyên bố: “Chúng ta phải giành cho được ĐNÁ, bao gồm cả miền Nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Mã Lai, Singapore…” (3)
Thời cơ thuận tiện cho TC hành động khi Hoa Kỳ (HK) mở cửa cho TC vào Liên Hiệp Quốc (LHQ) năm 1971, bắt tay với TC năm 1972, ký thông cáo chung Thượng Hải ngày 28-2-1972, quyết định rút hết quân khỏi Việt Nam cuối năm nầy và cắt giảm viện trợ cho VNCH. Nhân vào đầu năm 1974, VNCH bận rộn chống đỡ những cuộc tấn công mạnh mẽ của CSVN sau hiệp định Paris (27-1-1973), TC đánh chiếm Hoàng Sa của VNCH trên Biển Đông ngày 19-1-1974.
Tuy biết lực lượng không cân sức, nhưng Hải quân VNCH vẫn cương quyết bảo vệ Hoàng Sa. Thiếu tá Ngụy Văn Thà và đồng đội xông pha chống ngoại xâm và hy sinh trên chiến trường. Trận Hoàng Sa chứng tỏ rõ ràng VNCH không phải là tay sai của HK. Dù HK bỏ rơi VNCH và bắt tay với TC, quân đội VNCH vẫn cương quyết chống TC, bảo vệ quê hương. Trận chiến Hoàng Sa chứng tỏ lòng yêu nước của quân lực VNCH, chiến đấu bảo vệ tổ quốc, bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ tự do dân chủ cho đất nước.
Sau trận Hoàng Sa, VNDCCH hay BVN không phản đối TC. Tuy không có mặt trong trận Hoàng Sa, nhưng BVN là kẻ dẫn đường cho TC đến Hoàng Sa vì công hàm PVĐ ngày 14-9-1958 đã thừa nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc TC. Hơn nữa, chẳng những BVN vay nợ TC, mà tháng 6-1965 BVN còn nhờ TC gởi qua BVN 320,000 quân để bảo vệ các tỉnh thành phía bắc trong khi quân đội CSVN kéo xuống phía nam (4).  Thật là ngu xuẩn khi nhờ cậy một tên ăn cướp giữ nhà, mà tên ăn cướp nầy vốn là kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt Nam, đã nhiều lần cướp phá nước ta.
Đây là lần đầu tiên TC chiếm được hải đảo của Việt Nam, đột phá xuống Biển Đông, nhằm kiếm đường tiến xuống Đông Nam Á (ĐNA). Đặt trận Hoàng Sa trong toàn bộ cuộc chiến 1946-1975, mới thấy rõ trận Hoàng Sa là trận chiến chống ngoại xâm duy nhứt, do VNCH cương quyết chống TC xâm lăng.
Biểu tượng hội tụ lòng yêu nước
Trước đây, chế độ CS kiểm soát chặt chẽ truyền thông, bưng bít tin tức, tuyên truyền và tố cáo VNCH là ngụy quân, ngụy quyền, làm “tay sai đế quốc Mỹ”, còn Mỹ là “đế quốc xâm lược”. Chế độ CS cũng che giấu công hàm PVĐ và trận Hoàng Sa ngày 19-1-1974. Dân chúng dưới chế độ CS trước 1975 hoàn toàn không biết tin tức ngoài thông tin CS. Trong những năm gần đây, TC đe dọa Biển Đông, vấn đề Hoàng Sa rộ lên trở lại. Nhờ truyền thông điện tử (Internet) phát triển rộng rãi, dân chúng mới biết được sự thật lịch sử. Từ đó dân chúng trong nước nhận ra các điều quan trọng làm thay đổi nhận thức của dân chúng:
1) Chế độ VNCH và quân lực VNCH không tấn công BVN, mà chỉ ở thế tự vệ, chiến đấu chống cuộc xâm lăng của BVN, bảo vệ quê hương, tự do, độc lập cho chính mình, chiến đấu chống TC chống ngoại xâm, quyết tâm bảo vệ Hoàng Sa, không làm tay sai cho bất cứ ngoại bang nào. VNCH và quân lực VNCH rõ ràng là một chế độ chính nghĩa và một quân lực chính nghĩa.
2) Cộng sản Việt Nam tuyên truyền rằng Hoa Kỳ (HK) là “đế quốc xâm lược”, nên CSVN mở cuộc chiến tranh “chống Mỹ cứu nước”. Ngày nay dân Việt nhận biết rằng HK không phải là đế quốc xâm lược. Hoa Kỳ không xâm lăng nước nào, mà còn giúp nhiều nước sau thế chiến thứ hai như Đức, Nhật Bản, Triều Tiên phục hưng kinh tế. Hoa Kỳ đến NVN để giúp NVN xây dựng và phát triển sau 1954. Khi BVN tấn công NVN năm 1960, thì 5 năm sau, HK mới đem quân vào NVN năm 1965, giúp NVN tự vệ chống BVN tràn xuống NVN, chứ HK không xâm lăng NVN và cũng không xâm lăng BVN. Hoa Kỳ dùng máy bay tấn công BVN chỉ nhằm mục đích chận đứng cuộc xâm lăng của BVN vào NVN.
3) Chế độ CSVN định nghĩa rằng “yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa”. Gần đây, ngày 29-12-2014, tổng bí thư đảng CSVN nói tại Đại hội 7 Hội Liên Hiệp Thanh Niên tại Hà Nội rằng thanh niên “có “tâm” là có lòng yêu nước, yêu chế độ”. Tuy nhiên, chế độ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN) hiện nay ở trong nước, về đối nội thì độc tài đảng trị, áp bức và tham nhũng; về đối ngoại thì làm tay sai cho TC, càng ngày càng làm mất đất, mất đảo, mất biển. Như thế yêu XHCN, yêu chế độ CS chỉ là tiếp tục bị cảnh độc tài, áp bức, tham nhũng, dân oan và chế độ XHCN tiếp tục bán nước chứ không phải là yêu nước. Nói cách khác, yêu XHCN là phản quốc chứ không yêu nước.
4) CSVN tuyên truyền rằng TC là một nước XHCN anh em. Đã là anh em XHCN với nhau, sao TC lại ức hiếp nhau, chiếm đất, chiếm đảo, chiếm biển của nhau? Như vậy, TC không thân hữu như lời CSVN tuyên truyền, mà TC lộ nguyên hình là kẻ thù xâm lược truyền kiếp như vua chúa Trung Hoa ngày xưa.
Ngày nay, nhờ Internet, tầm nhìn của dân chúng trong nước mở rộng và hiểu rõ các điểm trên đây, hiểu rõ tình hình chính trị. Từ đó đồng bào hết sức ca tụng lý tưởng tự do dân chủ và độc lập của VNCH, ca tụng quân đội VNCH, ca tụng trận chiến Hoàng Sa chống TC xâm lược. Các bloggers và Facebooker diễn tả hết sức sống động tâm tình của dân chúng. Ví dụ sinh viên Lê Trung Thành đã viết: “Các anh ơi! Các chị ơi! Các mẹ ơi! Còn cờ đỏ sao vàng thì không bao giờ có độc lập, tự do, hạnh phúc.” (5). Một nhà tranh đấu trẻ tuổi khác thì đề cao chính nghĩa quân đội VNCH, và đi đến kết luận: “Tôi gọi họ là những anh hùng.” (6). Tương tự như thế, một người dân Hà Nội viết: “Người ta gọi các anh là “quân ngụy”/ Bởi các anh là lính Việt Nam Cộng Hòa / Nhưng tôi gọi các anh là liệt sĩ / Bởi các anh ngã xuống vì Hoàng Sa.” (7). Còn rất nhiều ví dụ mà chúng ta không thể trưng dẫn hết ở đây.
Vì vậy, có thể nói trận Hoàng Sa ngày 19-1-1974 chống ngoại xâm trở thành biểu tượng hội tụ lòng yêu nước của toàn thể người Việt ngày nay. Qua thế kỷ 21, khuynh hướng chung trên thế giới khuyến khích những cuộc tranh đấu bất bạo động hơn là việc sử dụng bạo lực. Người Việt Hải ngoại chúng ta hãy tích cực yểm trợ tinh thần cũng như yểm trợ vật chất tất cả những cuộc tranh đấu bất bạo động của dân chúng trong nước, đòi hỏi tự do dân chủ, nhân quyền và dân quyền, nhằm đi đến giải thế chế độ CSVN.
Thử nhìn về tương lai
Thế là TC đã chiếm được Hoàng Sa. Là người Việt Nam, ai cũng muốn giành lại lãnh thổ đã mất. Trong hiện tình đất nước, giành lại Hoàng Sa thật là khó khăn vì phải qua hai cửa ải, hai giai đoạn.
Thứ nhứt là CHXHCNVN. Về pháp lý, tuy nắm được đầy đủ hồ sơ, tài liệu chứng minh Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam, nhưng CHXHCNVN không dám kiện TC ra Tòa án quốc tế để đòi lại Hoàng Sa. Ngày 19-11-2014, thủ tướng CSVN chỉ dám tuyên bố “vừa hợp tác, vừa đấu tranh”. Sau đó, ngày 11-12-2014, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao CHXHCNVN ra tuyên bố đề nghị Tòa án Trọng tài Thường trực (Permanent Court of Arbitration) Liên Hiệp Quốc tại La Haye (Hòa Lan) quan tâm đến các quyền lợi và lợi ích pháp lý của Việt Nam trên Biển Đông. Hành động nầy được nhà bình luận người Úc Carlyle Thayer gọi là CHXHCNVN “lách bằng cửa sau” vào vụ kiện giữa Phi Luật Tân và TC. (RFI 12-12-2014).
Trong khi đó, CSVN thẳng tay đàn áp những cuộc biểu tình, những bloggers, facebooker chống TC, trấn áp tinh thần yêu nước của dân chúng. Vì vậy nếu còn CSVN thì không bao giờ có thể đòi lại Hoàng Sa mà phải dứt khoát chấm dứt chế độ CSVN, mới thoát ra khỏi những cam kết ngầm của HCM khi cầu viện TC năm 1950, hủy bỏ công hàm PVĐ ngày 14-9-1958, chấm dứt mật ước Thành Đô của tập đoàn Nguyễn Văn Linh năm 1990, chấm dứt cảnh lệ thuộc TC, mới có thể chống TC và kiện TC ra tòa án quốc tế. Hiện nay ở trong nước, dân chúng đang truyền nhau câu đồng dao: “Con ơi nhớ lấy lời cha, / Hễ còn cộng sản, Hoàng Sa còn Tàu.”
Thứ hai là TC. Hiện nay, TC mới trỗi dậy và rất hưng thịnh. Tuy nhiên trong sự hưng thịnh hiện nay, về đối nội TC cũng gặp bất ổn vì dân chúng trong nước ngấm ngầm tranh đấu chống độc tài, và vì các sắc dân chung quanh bị TC sáp nhập như Mãn Châu, Nội Mông, Tân Cương, Tây Tạng luôn luôn tìm cách nổi lên đòi độc lập.
Về đối ngoại, chính vì đang hưng thịnh, quá tự tin, TC càng ngày càng hung hăng trên Biển Đông, chẳng những khiêu khích đe dọa các nước láng giềng, mà vào tháng 5-2009, TC gởi cho tổng thư ký LHQ một công hàm yêu cầu chuyển cho tất cả hội viên LHQ, rằng TC có chủ quyền không thể tranh cãi đối với các hải đảo trên Biển Đông và các vùng biển liền kề, kèm theo bản đồ 9 khúc do TC thực hiện, nối liền các hải đảo mà TC tự cho là của TC trên Biển Đông. (Sách báo thường gọi đường 9 khúc là đường chữ U hay Lưỡi bò.) Năm 2011, TC gởi cho LHQ một công hàm nữa, cũng gần giống công hàm trước, yêu cầu thông báo cho toàn thể hội viên LHQ.
Hành động nầy đi ngược lại quyền lợi chung trên thế giới do luật quốc tế về biển quy định. Chẳng những Nhật Bản ở Đông bắc Á, các nước ĐNÁ mà cả HK cũng không chấp nhận đường chữ U do TC vẽ ra. Ngày 4-12-2014, Hạ viện HK thông qua với đa số tuyệt đối 100% nghị quyết H.RES.744, nhấn mạnh cần phải tìm giải pháp hòa bình trên nền tảng luật pháp quốc tế trong các cuộc tranh chấp lãnh thổ, hải đảo trên Biển Đông. Hôm sau, ngày 5-12-2014, Bộ Ngoại giao HK đưa ra Bản nhận định dài 24 trang về yêu sách đường chữ U của TC. Câu kết luận cuối cùng của bản nhận định như sau: “…đòi hỏi về đường gạch nối [đường lưỡi bò, chữ U, 9 khúc] không phù hợp với luật quốc tế về biển.” (Nguyên văn: “…its dashed-line claim does not accord with the international law of the sea.”) Ngày 23-12-2014, khi trả lời thỉnh nguyện thư ngày 13-5-2014 của 139.554 chữ ký, Tòa bạch ốc khẳng định: “Hoa Kỳ có lợi ích quốc gia tại Biển Đông, trong đó bao gồm tự do hàng hải, giải quyết các tranh chấp một cách ôn hòa, tôn trọng luật pháp quốc tế và thương mại hợp pháp diễn ra thuận lợi… Chúng tôi đã bày tỏ quan ngại trước các hành động của Trung Quốc, trong đó bao gồm việc triển khai giàn khoan Hải Dương 981, đến các cấp lãnh đạo cao nhất của Trung Quốc”. (8)
Hiện nay, tuy trỗi dậy và hung hăng, TC không đồng minh với ai cả, tự cô lập. Nếu có một biến cố xảy ta ở nội địa TC, hoặc nếu có một cuộc tranh chấp kinh tế, hay một biến cố ngoại giao bất ngờ bùng nổ, các nước liên minh áp lực TC bằng những biện pháp kinh tế như hiện áp lực Nga, thì TC có thể sẽ khốn đốn và có thể sẽ đổ vỡ thành nhiều mảnh như Liên Xô trước đây. Khi đó, Việt Nam mới có thể lợi dụng thời cơ, chiếm lại Hoàng Sa và Trường Sa.
Kết luận
Do hoàn cảnh chính trị thế giới, VNCH tạm thời thất bại năm 1975, nhưng chính nghĩa dân tộc, lý tưởng tự do dân chủ của VNCH là chân lý vĩnh hằng, và là ước mơ của toàn dân Việt Nam.
Chế độ CSVN càng khiếp nhược trước TC, dân chúng Việt Nam càng thương tiếc những chiến sĩ Hoàng Sa. Trận hải chiến Hoàng Sa là niềm tự hào dân tộc và là biểu tượng hội tụ lòng yêu nước, dẫn đường cho toàn dân Việt Nam đoàn kết tranh đấu giải thể chế độ CS, mới có thể đòi lại đất đai, quần đảo đã mất vào tay TC. Trận chiến Hoàng Sa ngày 19-1-1974 giữ một vị trí lịch sử vô cùng quan trọng trong công cuộc vận động phục hưng đất nước. Xin thành kính tri ân sự hy sinh của Ngụy Văn Thà và các chiến sĩ Hoàng Sa.
_____________________________________
Chú thích:
(1) Qiang Zhai, China & the Vietnam Wars, 1950-1975, The University of Carolina Press, 2000, tt. 82-83.
(2) Jung Chang and Jon Halliday, The Unknown Story MAO, New York: Alfred A. Knopf, Publisher, 2005, tr. 426.
(3) Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc 30 năm qua, Hà Nội: NXB Sự Thật, 10-1979, Chương “Việt Nam trong chính sách Đông Nam Á của Trung Quốc”.
(4) Qiang Zhai, China & the Vietnam Wars, 1950-1975, The University of Carolina Press, 2000, tr. 135.
(5) Đăng trên các website 13-03-2009.
(6) Đặng Chí Hùng, “Tôi gọi họ là những anh hùng”, Dân Làm Báo 30-3-2013.
(7) http://phanduykha.wordpress.com, Phan Duy Kha, “Sẽ có một ngày lấy lại Hoàng Sa”, 14-1-2014.
(8) BBC Tiếng Việt, 24-12-2014.

Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại kể về hải chiến Hoàng Sa 1974


Danlambao – Năm 2014, khi báo chí lề đảng được phép nhắc đến trận hải chiến Hoàng Sa năm 1974, dư luận trong nước có thêm thông tin về những người đã hy sinh. Người dân đã đặt câu hỏi về những gì đã xảy ra trong quá khứ và vì sao Hoàng Sa bị mất sau công hàm Phạm Văn Đồng đã ký năm 1959. Nhân dịp kỷ niệm 41 năm Hải chiến Hoàng Sa (1974-2015), Dân Làm Báo xin gửi đến quý độc giả trong thôn cuộc phỏng vấn ngắn với Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại – vị Tư Lệnh Vùng 1 Duyên Hải của Hải quân QLVNCH lúc cuộc hải chiến Hoàng Sa diễn ra. Vì quần đảo Hoàng Sa trực thuộc Vùng 1 Duyên Hải nên Phó Đề đốc Thoại là người có trách nhiệm điều động tổng quát. Ông cũng là người ra lệnh các chiến hạm Việt Nam khai hỏa.
DLB: Thưa Phó Đề đốc, có người cho rằng nếu các chiến hạm HQVNCH không nổ súng trước thì có thể Trung Cộng sẽ không có cớ để chiếm Hoàng Sa. Xin PĐĐ cho biết ý kiến về lập luận này?

Cựu Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại: Trước khi chiến hạm của HQVN nổ súng vào chiến hạm Trung Cộng, ngày 19 tháng 1 năm 1974, binh sĩ TC đã có mặt và cắm cờ trên các đảo của VNCH vài ngày trước mặc dù chưa chạm súng với binh sĩ VNCH trên đảo. Lập luận trên sai sự thật. Nhiều tài liệu cho biết TC đã tập dượt tấn công các đảo của VNCH từ mấy tháng trước.
DLB: Theo nhận định của Phó Đề đốc thì tại sao Trung Cộng lại xâm chiến quần đảo Hoàng Sa vào thời điểm đầu năm 1974?
CĐĐ HVKT: Thời điểm đó thuận tiện cho Trung Cộng vì từ 1973 Mỹ không còn can thiệp vào chiến tranh Việt Nam và miền Nam đang bận chống trả các cuộc tấn công vi phạm Hiệp định Ba Lê 1973 của bộ đội Bắc Việt trên lãnh thổ VNCH trong nội địa.
DLB: Xin Phó Đề Đốc cho biết phản ứng của Hoa Kỳ cũng như của chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trước hành động xâm lược lãnh hải của chính quyền Trung Cộng?
CĐĐ HVKT: Trước hành động xâm lược của Trung Cộng, chính phủ Hà Nội không có một lời tuyên bố gì, riêng Hoa Kỳ thì nói họ hy vọng Trung Cộng và VNCH giải quyết bằng đường lối ngoại giao hơn là bằng vũ lực.
DLB: Trận Hải chiến Hoàng Sa là trận đánh của những chiến sĩ VNCH để bảo vệ Tổ quốc nhưng báo chí Cộng sản đã hoàn toàn im lặng trước sự kiện lịch sử này. Năm ngoái, sau 40 năm tròn, báo chí “lề đảng” đột nhiên đăng tải nhiều bài viết về trận hải chiến Hoàng Sa 1974 và gọi những người đã ngã xuống là những vị “anh hùng”. Ông nghĩ sao về “hiện tượng” này thưa Phó Đề đốc?
CĐĐ HVKT: Câu hỏi nầy tôi nghĩ chánh phủ Hà Nội sẽ có câu trả lời chính xác hơn.
DLB: Theo Phó Đề đốc thì liệu rằng Việt Nam có khả năng lấy lại quần đảo Hoàng Sa và những gì đã mất về tay Trung Cộng không?
CĐĐ HVKT: Như tôi đã lời ở câu trên, chính phủ Hà Nội đang cầm quyền và cầm quân. Họ biết rõ hơn ai hết để trả lời câu hỏi nầy.
Dân Làm Báo xin cám ơn Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại đã dành thời gian chia sẻ thông tin với bạn đọc. Quý mến chúc Phó Đề đốc và gia đình nhiều sức khỏe và bình an.
* Cựu Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại hiện đang cư ngụ tại Texas, Hoa Kỳ.
 Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại lúc còn trẻ
 
Trung tá Hồ Văn Kỳ Thoại tại đảo Hoàng Sa năm 1967
 
2011 tại Hoa Kỳ

Trung Quốc công bố có toàn quyền xây đảo nhân tạo ở Trường Sa

RFA

-18-01-2015
Trung Quốc xây đảo nhân tạo trên quần đảo Trường sa đang tranh chấp giữa các nước.
Trung Quốc xây đảo nhân tạo trên quần đảo Trường sa đang tranh chấp giữa các nước. Đá Chữ Thập đã thành căn cứ quân sự của Trung Quốc  -Hennhausaigon.com
Tuần trước, Bộ Ngoại Giao Trung Quốc có nói rằng chính phủ Hoa Lục có toàn quyền thực hiện các dự án phát triển ở vùng biển đảo mà chủ quyền thuộc về họ, kể cả những dự án cải tạo, xây đảo nhân tạo mà Trung Quốc đang thực hiện ở Trường Sa.
Từ cuối năm 2013, đã có tin nói rằng Trung Quốc gia tăng nỗ lực thực hiện các dự án cải tạo và xây đảo nhân tạo ở Biển Đông.
Đến tháng 11 năm ngoái, tuần báo chuyên về quốc phòng Jane’s của Anh Quốc cho phổ biến hình vệ tinh chụp được cho thấy Trung Quốc đang biến bãi đá Chữ Thập thành hòn đảo lớn nhất Trường Sa, xây dựng hải cảng để đón tầu chở dầu và chiến hạm, đồng thời đổ bê tông làm đường băng cho máy bay cất cánh và hạ cách.
Chính phủ Hoa Kỳ cũng lên tiếng bày tỏ quan tâm về những hoạt động mà Trung Quốc thực hiện ở Biển Đông, kêu gọi Bắc Kinh ngưng ngay những hoạt động với mục đích phá vỡ hiện trạng, và nên thảo luận cùng các nước đang tranh chấp chủ quyền để tìm cách giải quyết vấn đề.