Tổng số lượt xem trang

Thứ Tư, 18 tháng 9, 2013

Bài đáng chú ý: "Đội ơn Đảng Chính Phủ" hay "đội ơn bọn tư bản giãy chết" đây? - Làm thế nào lật đổ nhà độc tài

QUẬN HOÀN KIẾM – BIỆT ĐỊA VÔ CHÍNH PHỦ

QUẬN HOÀN KIẾM – BIỆT ĐỊA VÔ CHÍNH PHỦ
TRONG LÒNG NƯỚC CỘNG HÒA XHCN VIỆT NAM
Nhóm tham nhũng đẩt đai là thuộc hạ của Phạm Quang Nghị - Nguyễn Thế Thảo ở quận Hoàn Kiếm đã thao túng và biến quận Hoàn Kiếm thành một vùng vô chính phủ. Chỉ đạo của Thủ tướng ở đây không có hiệu lực.

Hoàng Công Khôi – Bí thư Quận ủy kiêm Chủ tịch HĐND quận Hoàn Kiếm – kẻ chỉ đạo trực tiếp đường dây tham nhũng nhà đất và phá nát kiến trúc cổ ở trung tâm thủ đô.


Nguyễn Quốc Hoa – Phó Chủ tịch UBND quận Hoàn Kiếm – kẻ trực tiếp ký các báo cáo của UBND quận về nhà đất xây dựng. Chuyên làm chữ ký giả để bán ‘sổ đỏ’ và báo cáo láo có thâm niên. Báo Dân trí và Người Cao Tuổi đã đăng bài điều tra nhiều kỳ, xem tại đây:
Nguyễn Minh Thanh Phó chủ tịch UBND phường Tràng Tiền – kẻ trực tiếp ‘xào’ các hồ sơ nhà đất ở khu đất vàng trung tâm thủ đô cho bề trên chiếm đoạt.
Thanh – kẻ bị kỷ luật ghi lý lịch đảng lại thuộc diện được cơ cấu lên Chủ tịch phường nhưng bị dính vụ thủ tiêu tang vật ma túy ngay tại trụ sở UBND phường Tràng Tiền, bị cử tri Nguyễn Văn Long kiện khai man lý lịch ứng cử Đại biểu HĐND phường, cử tri Nguyễn Đăng Tiến kiện tổng hợp cả băng nhóm Hoàng Công Khôi.
Cả ba đơn tố cáo (nhiều lần) của các cử tri 3 năm nay chưa được Thành phố Hà Nội ký quyết định thụ lý nhưng Vũ Hồng Khanh lại báo cáo láo với Văn phòng CP là đang đôn đốc xử lý để báo cáo Thủ tướng CP. Đơn chưa thụ lý lấy gì mà báo cáo?
Báo dân trí yêu cầu thực hiện đúng chỉ đạo của Văn Phòng Chính phủ
Thanh – kẻ đã bảo kê cho việc phá hỏng biệt thự 14 Tông Đản. Biệt thự Pháp cổ này thuộc quyền quản lý của gia đình cố luật sư Phan Anh. Nhà hàng Nhất Thống thuê mở quán ăn và đã “cải tạo” không phép, phá hỏng toàn bộ kiến trúc, biến biệt thự 14 Tông Đản thành kiểu nhà hộp tỉnh lẻ quê kệch không thể tả nổi. Thanh đã “bao sân” công trình này. Khách hàng tới đây không hề biết rằng nhà hàng này không có kết cấu an toàn, các mảnh ghép gá vội vào nhau không có móng có thể sập bất kỳ lúc nào.
Trần Thị Nga – Phó chánh Thanh tra quận HK chuẩn bị lên Chánh khi Lê Thị Minh Thủy về hưu. Nga có nhiệm vụ Thanh tra sai sự thật và ‘sáng tác’ các bản kết luận gian dối và lập lờ câu chữ sao cho dân không kiện được nữa để báo cáo Thanh tra Thành phố HN, sau đó Thanh tra Thành phố HN báo cáo lên Thanh tra CP. Thế là chấm dứt vụ kiện (trừ khi dân quyết chống đối kiện ra tòa). Nếu dân kiện ra tòa thì Khôi mới phải ra tay với Tòa án Nhân dân quận.
Sau vụ thanh tra gian trá các vi phạm pháp luật ở 11A Tông Đản của Nguyễn Minh Thanh, Nga đã bị giáng chức, điều chuyển làm Phó CT UBND phường Hàng Bạc để chờ cơ hội Khôi ‘vợt’ thăng chức trở lại.
Nga kết với Nguyễn Quốc Hoa khi cả 2 còn làm ở công an quận Hoàn Kiếm, cùng nhau ra khỏi C.A sang UBND để tăng tuổi về hưu và được kết nạp vào băng nhóm của Khôi.
Nguyễn Văn ThịnhTham mưu của Thảo Phó Chánh Văn phòng UBND Thành phố Hà Nội là kẻ chống lưng cho Nguyễn Minh Thanh. Theo QĐ số 103/QĐ-VP ngày 26/12/2007 Thịnh được phân công tham mưu cho UBND thành phố (trực tiếp cho Chủ tịch và Phó Chủ tịch phụ trách khối) thực hiện quản lý Nhà nước thuộc các lĩnh vực:
     1/ Quy hoạch xây dựng và kiến trúc đô thị, quản lý xây dựng và phát triển đô thị, hạ tầng kỹ thuật đô thị, giao thông công chính, phát triển nhà ở và các chính sách về xây dựng nhà ở, giao thông vận tải, xây dựng các công trình công cộng.
     2/ Trao đổi, cung cấp thông tin cho báo chí theo thẩm quyền; đề nghị các cơ quan liên quan của thành phố trả lời những vấn đề mà báo chí nêu thuộc lĩnh vực được phân công.
     3/ Trực tiếp phụ trách các đơn vị: Phòng Xây dựng - Đô thị, Ban Quản lý dự án.
     4/ Tham mưu, giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc lĩnh vực được phân công.
Không có bàn tay của Thịnh không thể tham nhũng được.
VỀ CẤP PHÉP KINH DOANH
Nguyễn Thị Minh Yến – vợ bí thư quận ủy Hoàng Công Khôi từ người bán hàng khô, chè, măng miến và chấp táp hương đèn ở đền Hàng Tre cho mẹ đẻ, không có bằng cấp, được Khôi đưa về làm Trưởng phòng Kinh tế Kế hoạch quận Hoàn Kiếm khi Khôi chạy thoát tội bảo kê tặng bằng khen cho tụ điểm ma túy là vũ trường New Century phố Tràng Thi và lo lót được chức Bí thư quận ủy.
Ỷ thế chồng, Yến thao túng bất kể chỗ nào, bảo kê cho việc cấp giấy phép kinh doanh trong toàn quận. Yến nhận hối lộ, đã cấp vô số giấy phép sai quy định, điển hình như cấp 3 giấy phép kinh doanh rượu thuốc lá ở nơi không hề có địa điểm kinh doanh tại số 18 Ngô Quyền mà công dân kiện đã 7 năm nay. Ở biệt thự 11A Tông Đản, chỉ có một đoạn cầu thang dùng chung mà Yến cũng cấp 3 giấy phép kinh doanh cho gia đình giảng viên Học viện tài chính Trần Vinh Quang để họ còn cho thuê lại thu lời hằng tháng.
Các gia chủ ở đây đã nhiều lần tố cáo việc lấn chiếm và kinh doanh bất hợp pháp này nhưng bị quận Hoàn Kiếm cho qua. Ở một đất nước có luật pháp nhưng việc nhỏ như thế này đích thân Thủ tướng chính phủ Nguyễn Tấn Dũng phải chỉ đạo mà chúng không chấp hành, Vụ trưởng Vụ Khiếu nại tố cáo và phòng chống tham nhũng Phan Văn Minh phải xuống tận nơi thị sát vẫn không xử lý được vì ở quận Hoàn Kiếm Khôi là Luật, Luật là Khôi. Trước tình hình vô chính phủ, vô luật pháp đó, những kẻ môi giới đã gợi ý đưa tiền cho Khôi nên mới giải tỏa được tụ điểm này. Một cái tát vào Chính phủ.
Yến là đầu nậu thuốc lá và rượu ngoại lậu thuế toàn quận Hoàn Kiếm. Trước đây, vợ chồng Khôi-Yến bảo kê cho vũ trường New Century bán ma túy và mại dâm tới mức Bộ trưởng Bộ Công an Lê Đức Anh phải trực tiếp xử lý vụ này, Sở Công an Hà Nội bất lực với Khôi. Khôi-Yến có 2 con trai, 1 đã nghiện nặng vợ làm cave ở vũ trường này. Gõ “Hoàng Công Khôi vũ trường New Century” 1 giây có 6 triệu kết quả trên Google.
Nhân dân quận Hoàn Kiếm và công luận không bao giờ quên tội ác
mà Bí thư đảng CS Hoàng Công Khôi đã gây ra
“Cây quan chức ở quận Hoàn Kiếm xanh hay héo?
Phó Chủ tịch UBND phường Tràng Tiền, Nguyễn Minh Thanh, trúng cử đại biểu HĐND
nhờ lí lịch khai man
Nhân dân tố giác Bí thư Quận ủy Hoàn Kiếm Hoàng Công Khôi chiếm dụng vỉa hè
vi phạm các chỉ đạo của UBND thành phố HN về “Tuần Lễ Dành Cho Người Đi Bộ”.
Thành phố Hà Nội: Phó Chủ tịch UBND quận Hoàn Kiếm báo cáo sai sự thật
có hệ thống, “bao che” cho tham nhũng
QUẬN HOÀN KIẾM HÀ NỘI “NHÀ DỘT TỪ NÓC?” 
"Năm kỉ cương hành chính - 2013" ở Hà Nội:
Bức xúc cử tri ở phường Tràng Tiền trung tâm Thủ đô...
Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chỉ đạo xử lí sai phạm của lãnh đạo phường Tràng Tiền, Hà Nội
Cần xử lí dứt điểm các điểm nóng vi phạm trật tự xây dựng trên địa bàn quận Hoàn Kiếm, Hà Nội (công văn số 134/CV-BNCT)
Đảng viên quận Ba Đình đề nghị Bí thư Phạm Quang Nghị về vụ khai man lý lịch của Nguyễn Minh Thanh…
Tham nhũng nhà đất, ép dân hối lộ,
man trá hồ sơ lý lịch cán bộ đảng viên, sử dụng chữ ký giả, phá hỏng kiến trúc…
 ở quận Hoàn Kiếm
là điển hình của hệ thống tham nhũng toàn Việt Nam

Bí mật đằng sau vụ án Bố già Nguyễn Đức Kiên: P.1: Thống đốc Bình - chủ nhân ông thật sự của Samcombank!

- Vụ án bố già Kiên ngày càng đi vào mê hồn trận, cho dù bị can thiệp ở tứ tán mọi nơi từ 'Thiên đình', rồi tiền rải như 'Quân Nguyên' cũng không thể che đậy hết được sự thật đang được phơi bày về một tổ chức tội phạm Đỏ - Đen lũng đoạn và phá hoại nền kinh tế chính trị của cả nước.

Không một cán bộ điều tra nào tham gia vụ án bố già Kiên mà không nhận biết được một Ma trận khủng khiếp hình THÁP đứng sau Nguyễn Đức Kiên.

Có thể thấy tầng thứ nhất là Bè lũ 4 tên: Nguyễn Đức Kiên - Thống đôc Nguyễn Văn Bình - Hồ Hùng Anh và Nguyễn Đăng Quang.

Ngay khi vừa uống no rượu mừng chức vụ Thống đốc cùng với hàng chục triệu đô la thu gom được sau ngày nhậm chức do các ngân hàng và doanh nghiệp lũ lượt xếp hàng mang đến cống nộp thì Thống đốc Bình cùng nhóm bộ tam Kiên - Anh - Quang đã không bỏ sót thời gian, họ đã họp kín ngay tại chính phòng làm việc của ông Thống đốc mới!

Tại đây kế hoạch thâu tóm ngân hàng và doanh nghiệp đã được quyết định, những ngân hàng nào, doanh nghiệp nào trong tầm ngắm đã được chính bộ tứ đưa ra với sự phân công rạch ròi: Nguyễn Đức Kiên sẽ 'cướp' Ngân hàng và nhóm Anh-Quang sẽ bức tử doanh nghiệp. Thống đốc Bình giữ vai trò tổng công trình sư chịu trách nhiệm 'đẻ' chính sách tài chính - tiền tệ để Kiên - Anh - Quang thực hiện các kịch bản.

Kết quả, Samcombank đã sa lưới. Con cá mập trị giá hàng chục tỷ đã được Kiên núp bóng Trầm Bê thâu tóm với giá bèo bọt. Vụ thâu tóm gây trấn động thị trường tài chính Việt Nam. Song Trầm Bê chỉ chỉ hưởng lợi qua vụ thâu tóm này là được các bậc đàn anh' bộ tứ cho phép được rút tiền từ Samcombank về cứu NH Phương Nam đang thúi rữa của ông ta. Sau khi NH Phương Nam thoát được nguy khốn, lấy cớ của vụ 'lùm xùm', Tướng Tô Lâm và 'ông Trời con' Nguyễn Văn Hiếu định 'mượm gió bẻ măng' đển 'phỗng tay trên' của Trầm Bê. Nhưng chưa làm được gì thì mưu đồ đã bị bại lộ nên kế hoạch chưa thành!


Nguyễn Đức Kiên thì bị bắt... Có lẽ kịch bản không tính đến màn Kiên 'bị vào xọ', nhưng bỗng đâu cơ hội ngàn năm lại đến... Thống đốc Bình đã hiện nguyên hình một tên cướp ngày xảo quyệt. Y đã sử dụng toàn bộ họ hàng, bà con của bên vợ - cô tình nhân thừa của Bắc Hà chủ tịch BIDV gán cho - Bỗng chốc họ hàng bà con của vợ Thống đốc Bình, thậm chí cả những đám 'ô-sin', 'chân đất mắt toét' cũng có vài tỷ đến hàng trăm tỷ âm thầm chuyển nhượng cổ phiếu Samcmbank từ cha con Trầm Bê, từ Phạm Hữu Phú, từ nhiều cổ đông đứng thế khác...

Samcombank hiện nay chủ nhân thật sự chính là ông Thống đốc Nguyễn Văn Bình - vậy mà hầu như chẳng ai bận tâm điều tra làm rõ trắng đen tại sao con bé ô sin' hay bà cô, ông chú, bà dì, ông cậu của vợ thống đốc Bình lại có lắm tiền đến thế? Bỗng dưng lại trở thành cổ đông của mấy công ty hiện mới là chủ nhân ông của ngân hàng Samcombank trị gia hàng chục tỷ đô la một cách ngon lành?  

Từ Trầm Bê, đến Phạm Hữu Phú, Phạm Trung Cang... chẳng thiếu mặt ai lần lượt, chẳng ai bảo ai đều công bố rút .... cổ phiếu STB âm thầm chui vào 'tủ' nhà Thống đốc Nguyễn Văn Bình! 

Thám tử quan

Doanh nghiệp Việt Nam vào thị trường Indonesia và Myanmar như thế nào?


Năm 2015 là thời điểm hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN, đồng thời cũng là mốc thời gian thực thi đầy đủ nội dung của nhiều Hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam tham gia ký kết, mở ra giai đoạn mới với nhiều cơ hội lẫn thách thức.

Do đó, một số chuyên gia kinh tế cho rằng, doanh nghiệp Việt Nam cần có những bước đi đúng đắn và chiến lược phù hợp để khai thác hiệu quả các thị trường tiềm năng như Indonesia và Myanmar. 

Tại buổi Hội thảo bàn về vấn đề làm ăn với Indonesia và Myanmar do Chi nhánh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tại thành phố Hồ Chí Minh phối hợp cùng Hội Doanh nghiệp Hàng Việt Nam chất lượng cao tổ chức tại thành phố ngày 17/9, ô ng Trương Cung Nghĩa, Giám đốc điều hành Công ty Trương Đoàn nhấn mạnh:

Indonesia là một trong những thị trường hấp dẫn thuộc Cộng đồng kinh tế ASEAN, nhờ vào lợi thế dân số đông và tăng nhanh, mức độ đô thị hóa ngày càng mạnh mẽ, nhu cầu hàng hóa tiêu dùng lớn; đồng thời người dân Indonesia cũng cảm nhận lạc quan và tin rằng nền kinh tế đất nước đã cải thiện khá nhiều so với những năm trước. 

Mặc dù phân khúc thị trường tiêu dùng tại Indonesia được chia làm 7 nhóm, nhưng thói quen tiêu dùng của người dân có nhiều điểm chung, trong đó dành khoảng 50% thu nhập cho việc ăn uống; khi mua sắm thường quan tâm đến giá cả phù hợp với chất lượng; thích những sản phẩm có trọng lượng nhỏ; thực phẩm tươi sống, sản phẩm sạch… 

Theo đánh giá của các doanh nghiệp Việt Nam, hiện nay các doanh nghiệp nước ta có nhiều thuận lợi khi xâm nhập vào thị trường Indonesia, Myanmar vì các thị trường này đòi hỏi chất lượng sản phẩm ở mức độ khá cao, không ưu chuộng những sản phẩm kém chất lượng, không rõ nguồn gốc xuất xứ. Bên cạnh đó, các nước này đang chuyển đổi sang nền kinh tế định hướng thị trường, có chính sách khuyến khích khu vực tư nhân phát triển ngoại thương và hỗ trợ trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. 

Đặc biệt, nhu cầu tiêu dùng và sức mua của thị trường này rất lớn, trong đó có nhiều ngành đang là thế mạnh của Việt Nam như thực phẩm chế biến, hàng gia dụng, chế biến thủy sản, thức ăn gia súc, vật tư nông nghiệp, phân bón, dịch vụ…

Cũng như những đất nước đang phát triển khác trong khu vực, tỉ lệ người dân chọn các kênh bán lẻ hiện đại để mua sắm ngày càng tăng đáng kể, dẫn đến nhiều hệ thống siêu thị, cửa hàng tiện lợi, siêu thị mini… đang phát triển nhanh chóng ở Myanmar và Indonesia nhằm đáp ứng nhu cầu mua sắm của người dân. 

Tuy nhiên, để thỏa mãn thị hiếu tiêu dùng, một số doanh nghiệp có kinh nghiệm ở 2 thị trường này cho rằng cần phải đưa ra những sản phẩm trọng lượng nhỏ với giá thấp hơn, nhiều nhãn hàng phổ thông, đặc biệt là với sản phẩm thiết yếu như gạo, đường, dầu ăn… 

Riêng về phương thức thâm nhập thị trường, doanh nghiệp Việt Nam cần hợp tác, liên kết với nhà phân phối nội địa, nếu triển khai độc lập thì sẽ khó đạt hiệu quả như mong muốn. Đồng thời, các doanh nghiệp không nên cạnh tranh về giá mà áp dụng phương châm chất lượng đồng hành cùng với giá bán mới mong hấp dẫn được người dân ở các thị trường này.

Ông Lê Đức Duy, Giám đốc Kinh doanh Công ty cổ phần Vinamit cho biết, hiện nay Myanmar là quốc gia đất rộng người thưa, đất đai màu mỡ, nhiều lĩnh vực có nền tảng vững chắc như nông nghiệp, giáo dục… Một trong những yếu tố quyết định thành công khi thâm nhập thị trường Myanmar có thể kể đến là sản phẩm phù hợp thị hiếu tiêu dùng, đảm bảo chất lượng, giá cả cạnh tranh và phát triển tốt hệ thống phân phối.

Ông Võ Tân Thành, Giám đốc Chi nhánh VCCI tại Tp. Hồ Chí Minh cũng nhận định: Myanmar vẫn là một thị trường mới, yếu tố cạnh tranh không nhiều, tiềm năng kinh tế lớn, nhưng nền kinh tế nước này vẫn mang nặng cơ chế quản lý hành chính tập trung, cơ chế thuế quan chưa thông thoáng và vẫn còn bao cấp giá đối với một số sản phẩm hàng hóa thiết yếu. 

Với hạ tầng còn yếu (thiếu điện, viễn thông kém, giao thông khó...) nên các hoạt động sản xuất, kinh doanh ở thị trường này còn nhiều hạn chế nhất định. Do đó, khi khai thác những thị trường mới, doanh nghiệp Việt Nam nên vào thị trường theo từng nhóm, tương tác hỗ trợ nhau, cùng làm nổi bật hình ảnh thương hiệu của Việt Nam thì dễ gây chú ý hơn. Đồng thời, doanh nghiệp phải quyết tâm đeo bám thị trường, kiên nhẫn đầu tư chu đáo cho thị trường từ bao bì, thiết kế mẫu mã, quy cách, chiến lược truyền thông phù hợp.

Theo các chuyên gia, đây là thời điểm thích hợp để thâm nhập thị trường Myanmar và Indonesia, vì khu vực bán lẻ đang tăng trưởng rất nhanh, người tiêu dùng đang có nhu cầu cao với nhiều mặt hàng khác nhau, trong khi điều kiện thị trường cũng thuận lợi cho việc xây dựng thị hiếu tiêu dùng, nhưng doanh nghiệp cần có cái nhìn thực tế về quy mô thị trường, các thách thức hiện tại đối với việc tiếp cận thị trường, chủ động về khả năng linh hoạt và có cam kết phát triển thị trường lâu dài… 

Chiến lược thâm nhập thị trường tốt nhất có thể áp dụng là thông qua đại lý để tăng độ phủ cũng như tiến hành các hoạt động truyền thông, tác động vào sự nhận biết của người tiêu dùng đối với sản phẩm mới. Riêng với các sản phẩm cao cấp, doanh nghiệp nên bán trực tiếp cho siêu thị hoặc chỉ định siêu thị làm nhà phân phối độc quyền, đồng thời trực tiếp đến gặp gỡ với các đại lý tiềm năng và nhà phân phối chủ chốt nội địa để tìm hiểu thêm về thị trường trước khi xuất hàng./.

PVMP

Trở lại "Vụ án 2 con vịt"

Chập chập cheng cheng Pháp luật xứ Việt ta!

Làm khó phóng viên
              Tại tòa, phóng viên Pháp Luật TP.HCM đã trình giấy giới thiệu để xin phép tác nghiệp. Tuy nhiên, chủ tọa nói giấy giới thiệu này chỉ có ý nghĩa là “được tổng biên tập giới thiệu đến để tham dự phiên tòa chứ không phải đến dự phiên tòa với tư cách nhà báo (!). Giấy giới thiệu thì có thể cấp cho ai cũng được (!)”. Theo đó, chủ tọa cho rằng phóng viên không được tác nghiệp tại phiên tòa nếu... không có thẻ nhà báo?! (Thanh Lưu)
Vụ “hai con vịt oan nghiệt”
Cáo trạng mới không có gì mới
VKSND huyện Đức Trọng (Lâm Đồng) vừa ra bản cáo trạng thứ hai truy tố Trương Ngọc Quyền, Vy Hoàng Bảo Hưng, Vy Kim Long về tội cướp tài sản.
Nhìn chung bản cáo trạng lần hai không có gì khác so với bản trước. Trước đó, xử sơ thẩm hồi tháng 3, TAND huyện này hoãn xử, trả hồ sơ điều tra bổ sung.
Như Pháp Luật TP.HCM đã phản ánh, tối 28-9-2008, Quyền cùng Hưng, Long và Nguyễn Thanh Hà nhậu nhưng thiếu mồi nên đã lẻn vào một chòi vịt để trộm. Người coi vịt cầm đèn pin chạy ra hô hoán nên một người cầm hòn đá nhỏ chọi về phía người coi vịt. Quyền, Hưng, Long bị bắt, còn Hà bỏ trốn. Các bị can đã đền cho chủ vịt hai triệu đồng, được nạn nhân bãi nại nhưng vẫn bị xử lý hình sự. Theo công an huyện, lúc đầu họ trộm vịt, khi bị phát hiện lại ném đá uy hiếp người chăn vịt là đã chuyển hóa thành tội cướp.
Nhiều người cho rằng xử hình sự các bị cáo là quá nặng. (PL)
                                                                     *          *          *
Lâm Đồng: Vì hai con vịt, ba nông dân bị 13 năm tù!
VKS không tranh luận, bản án không ghi nhận quan điểm của các luật sư. Làm khó phóng viên.
Sáng qua (10-8-2009), TAND huyện Đức Trọng (Lâm Đồng) đã tuyên phạt Trương Ngọc Quyền năm năm tù, Vy Hoàng Bảo Hưng và Vy Kim Long mỗi người bốn năm tù về tội cướp tài sản. Ngay chiều qua, hai trong số ba bị cáo đã đến tòa nộp đơn kháng cáo kêu oan.
Hai con vịt oan nghiệt
Theo cáo trạng, tối 28-9-2008, Quyền cùng bạn bè đang nhậu thì hết mồi. Nhớ ra nhà hàng xóm có một bầy vịt, Quyền sang xin bởi trước đó Quyền từng được nơi này cho một con vịt què. Lần này Quyền không những bị từ chối mà còn bị con trai của chủ vịt “mắng sốc”. Bực bội, Quyền về rủ Hưng, Long, Hà (đã bỏ trốn) sang đánh “thằng nhỏ mà láo” cho bõ tức.
Cả bốn kéo nhau đến chòi vịt, chia thành hai nhóm đi vào. Nghe tiếng chó sủa, người coi vịt cầm đèn pin ra rọi. Trong đêm, Hưng cầm một hòn đá nhỏ chọi về phía người coi vịt. Người coi vịt hoảng, chạy tọt vào chòi, đóng cửa lại cùng con trai chủ vịt ở luôn trong đó. Chờ một lúc không thấy ai, Long bắt hai con vịt đưa cho Quyền rồi tất cả kéo về nhà làm thịt nhậu tiếp.
Sau đó, cơ quan điều tra đã khởi tố, bắt giam Quyền, Hưng, Long hơn ba tháng rồi cho tại ngoại. Tiếp đó, VKS huyện truy tố họ về tội cướp tài sản theo khoản 2 Điều 133 BLHS (khung hình phạt cao nhất đến 10 năm tù) dù Quyền đã bồi thường hai triệu đồng cho nạn nhân, được nạn nhân bãi nại.
Không phải tội cướp?
Ở vụ án này, tòa từng một lần trả hồ sơ và hai lần phải hoãn xử. Tại phiên tòa hôm qua, ba bị cáo đều khai mục đích tới chòi vịt là để đánh con của chủ vịt cho bõ tức chứ không nhằm cướp vịt. Cạnh đó, khi thấy có người soi đèn pin, Hưng nhặt một cục đá nhỏ dưới chân ném về phía ánh đèn để người rọi tắt đèn chứ không phải để cướp.
Tuy nhiên, luận tội, đại diện VKS cho rằng hành vi ném đá là nhằm làm nạn nhân tê liệt ý chí, tạo điều kiện cho các bị cáo cướp hai con vịt. Theo VKS, bốn bị cáo tham gia là tạo nên một sức mạnh đe dọa nạn nhân.
Tranh luận, luật sư Đinh Văn Thảo (Đoàn luật sư TP.HCM) nói một yếu tố bắt buộc của tội cướp tài sản là người phạm tội phải có mục đích chiếm đoạt tài sản. Ở đây, cả ba bị cáo đều khẳng định không bàn bạc gì về chuyện cướp vịt mà chỉ đến chòi vịt dằn mặt con của chủ vịt. Chính kết luận điều tra và cáo trạng thừa nhận điều này, tức là ngay từ đầu các bị cáo đã không có mục đích cướp tài sản. Cũng theo kết luận điều tra, sau khi thấy phía nạn nhân bỏ chạy, các bị cáo đứng đợi gần 10 phút rồi mới lấy hai con vịt về nhậu. Nếu nói họ cướp thì họ đã cướp ngay rồi chứ còn đứng đợi cái gì nữa!
Về mặt khoa học pháp lý, luật sư dẫn chứng Bình luận khoa học BLHS của Chánh Tòa hình sự TAND tối cao Đinh Văn Quế về tội cướp tài sản. Cụ thể, người phạm tội không chỉ cố ý thực hiện hành vi phạm tội mà còn phải có mục đích cướp tài sản. Ý thức chiếm đoạt tài sản của người phạm tội phải có trước khi có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể tự vệ được. Nếu một người có hành vi tấn công vì động cơ và mục đích khác, không nhằm chiếm đoạt tài sản nhưng sau đó người bị tấn công bỏ chạy, để lại tài sản và người có hành vi tấn công lấy tài sản đó thì không phải là tội cướp tài sản. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản trong trường hợp này là không chính xác.
            Từ đó, luật sư khẳng định tuy các bị cáo có hành vi vi phạm gây bức xúc nhưng việc truy cứu các bị cáo về tội cướp tài sản là không chính xác.
Một luật sư khác nói đây là một vụ án phức tạp nhưng cơ quan điều tra lại không thu hồi tang vật (cục đá và những khúc cây), không thực nghiệm điều tra. Hơn nữa, cơ quan tố tụng cũng không trưng cầu giám định giá trị của hai con vịt, chỉ ước đoán “theo giá thị trường” rằng hai con vịt trị giá “khoảng 175 ngàn đồng” mà vẫn truy tố, xét xử các bị cáo là vi phạm tố tụng...
Kết luận suy diễn?
Những luận điểm trên của luật sư đều không được kiểm sát viên tranh luận.
Sau khi nghị án, tòa tuyên bố các bị cáo phạm tội cướp và phạt như trên. Theo tòa, sau khi ném đá trúng người coi vịt, các bị cáo đã không có ý định đánh con của chủ vịt nữa mà chuyển sang ý định cướp vịt. Riêng đối với Quyền, tòa nói “trong đầu bị cáo luôn có mục đích là kiếm vịt mang về làm mồi nhậu”.
          Trao đổi sau phiên xử, các luật sư cho rằng tòa nhận định như vậy là suy diễn và chủ quan. Xét xử là phải dựa vào chứng cứ chứ không thể nói “trong đầu bị cáo có ý định kiếm vịt về nhậu”. Một luật sư bức xúc: “Chúng tôi đưa ra nhiều vấn đề cần phải làm rõ như vậy mà kiểm sát viên chẳng hề tranh luận. Cạnh đó, trong bản án không có một dòng nào nhắc đến quan điểm của các luật sư, cứ như sự có mặt của chúng tôi chẳng có một chút giá trị nào”!.
Thanh Lưu (Báp Pháp luật T.p HCM)

"Đội ơn Đảng Chính Phủ" hay "đội ơn bọn tư bản giãy chết" đây?

Chia sẻ bài viết này “Chắc hắn nhiều người sẽ ngạc nhiên khi biết một số quyền căn bản được "tạo hóa ban cho" mà dân Việt Nam chúng ta được hưởng trên thực tế, chứ không phải trên sách vở hiện nay là do tư bản mang lại, theo đúng nghĩa đen. Tôi đã từng rất ngạc nhiên khi được biết quyền tự do đi lại và cư trú, đặc biệt là quyền tự do xuất nhập cảnh dành cho chính công dân Việt là điều kiện tiên quyết mà Chính phủ Việt Nam phải chấp nhận để nhận được các khoản vay từ World Bank. Luật doanh nghiệp thống nhất với việc tạo một sân chơi bình đẳng giữa nhà nước và tư nhân mà nhà nước thiết lập cũng là một điều kiện khác do tư bản áp đặt. Nên cũng không có gì ngạc nhiên khi tham gia TPP Việt Nam sẽ phải hiện thực hóa quyền lập hội cho chính dân Việt vốn chết lâm sàng từ năm 1957. Còn không ít quyền căn bản khác dành cho người Việt mà chính phủ Việt Nam phải thực thi theo các điều kiện để vay, để xin tiền của tư bản không được công khai và được tung hô là thành tích cải cách của Việt Nam.”
(Thạc sĩ, NCS. Trần Kiên, Đại học Glasglow, Anh)
* * *
- “Nhân việc anh Trần Kiên nhắc đến quyền tự do đi lại và cư trú, mình nhớ từng được nghe vài cô chú đứng tuổi kể một chuyện khó tin. Đó là vào thập niên 90s, mặc dù ở các thành phố lớn như Hà Nội, Sài Gòn đã có khách sạn, nhà nghỉ, song bạn sẽ không được phép lưu trú tại đó nếu có hộ khẩu trong thành phố.
'Có nhà sao không ở, mà lại chui vào khách sạn, nhà nghỉ? Hẳn là có gì đó mờ ám.' là lối tư duy của các nhà quản lý thời đó. Nhãn quan quản lý của họ lúc ấy dường như chưa có bóng dáng quyền con người.
Thôi thì cái thời ấu trĩ (tới mức đó) cũng đã qua. Song, điều quan trọng mà chúng ta cần nhận rõ là những quyền tự do [còn ít ỏi] chúng ta nhận được tới thời điểm này không đến từ thiện ý của chính quyền, mà từ các cuộc mặc cả trong đó chính quyền cực chẳng đã phải chiều ý các nước phương Tây để đạt được thỏa thuận với họ (cũng nhằm kiếm tiền thôi).
Nhận rõ để làm gì? Để hành xử cho đúng từ việc nhỏ đến việc lớn. Nhỏ, là mỗi khi vào nhà nghỉ nhớ niệm 'Đội ơn World Bank' [thay cho 'Ơn Đảng ơn Chính phủ'] cho hợp với truyền thống uống nước nhớ nguồn của dân tộc. Lớn, là thúc ép chính quyền hội nhập với phương Tây hơn nữa, mà sắp tới đây là TPP”.
(Blogger Nguyễn Anh Tuấn, cựu sinh viên Học viện Hành chính Quốc gia)
* * *
"Vấn đề thứ ba, đó là ta phải cam kết trao cho người lao động Việt Nam "quyền lập hội". Công nhân, người lao động tự tụ tập với nhau, tự lập hội để "nói chuyện" với giới chủ, để "cưu mang" nhau lúc khó khăn.
Quyền lập hội là một trong những quyền "tạo hóa ban" cho những người có sức lao động, đi lao động để tự vệ. Đó là một trong những chuẩn mực quy định của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) mà Việt Nam là một thành viên. Đó cũng là một quy phạm phổ quát trong đời sống xã hội văn minh. Trong cuộc đàm phán BTA với Hoa Kỳ trước đây, Việt Nam kiên trì đòi phía Hoa Kỳ dành cho phía Việt Nam Quy chế ưu đãi phổ cập (GSP) (áp dụng thuế bằng 0 đối với mấy ngàn mặt hàng nhập khẩu vào Hoa Kỳ chủ yếu là hàng thủ công nghiệp, mây tre, cói ngô...)
Phía Hoa Kỳ kiên quyết không chấp nhận vì Luật GSP của Hoa Kỳ đòi đòi hỏi một số yêu cầu cao trong đó có quyền lập hội.
Tại vòng đàm phán cuối cùng, trong buổi gặp riêng hai trưởng đoàn, tôi bảo ông JOE Damond - Trưởng đoàn đàm phán Hoa Kỳ: ta cứ ghi vào BTA "phía Hoa Kỳ sẽ xem xét dành GSP cho Việt Nam" còn khi nào xem xét, được hay không ta sẽ bàn sau. Ông Damond thấy đề xuất hợp lý, đồng ý ghi vào.
Về nước tôi không dám khoe thành tích đó vì tôi hiểu đó chỉ là một cụm từ "làm đẹp" BTA cho "cả nhà đều vui" nhưng có người lại báo cáo rằng vòng đàm phán này ta đã giành thắng lợi, ta đã kiên trì đấu tranh đã bắt Mỹ dành cho ta GSP!
Nghe nói sau này, qua nhiều năm đàm phán, đến nay Hoa Kỳ vẫn chưa chấp nhận cho hàng Việt Nam được hưởng GSP vì Việt Nam chưa có điều kiện để thực thi quyền lập hội.
Kỳ này, muốn vào TPP, Việt Nam không thể tránh khỏi điều khoản này. Theo tôi, phía Hoa Kỳ và các nước khác có nhân nhượng thì cũng chỉ ở mức cho một thời hạn bảo lưu vài ba năm để Việt Nam xử lý những vấn đề thuộc cơ chế trong nước.
Chấp nhận "Quyền lập hội" cho người lao động thì công đoàn Việt Nam sẽ phải đổi mới cả về chức năng nhiệm vụ, cả về phương thức hoạt động, và sau đó có thể là các đoàn thể quần chúng khác cũng sẽ noi gương.
Và còn nhiều ví dụ nữa..."
(Ông Nguyễn Đình Lương, Nguyên trưởng đoàn đàm phán hiệp định thương mại Việt Nam – Mỹ trả lời phỏng vấn tờ VietnamNet về TPP)
[Koala]
Trích đoạn bài "Chia tay ý thức hệ" của ông Hà Sĩ Phu viết cách đây gần 20 năm
HỎI: Nhận định gì về tính Tiền phong và Dự đoán Mác xít?
ĐÁP: Tính khoa học, tính tiền phong và khả năng dự đoánlà một bộ ba liên hoàn. Nếu có tính khoa học thật sự, ắt có tính tiền phong và khả năng dự đoán. Ngược lại nếu Dự đoán luôn luôn sai hay chủ yếu là sai thì bản chất khó lòng là tiền phong và khoa học được. Một khi chủ nghĩa Mác-Lê đã tự xác định mình là "Chủ nghĩa Xã hội khoa học" thì việc tự xưng là Đảng Tiền phong và tiến hành Dự đoán như đinh đóng cột cũng là hợp với tư duy lôgic và phép biện chứng tự nhiên. Nhưng ngược lại, nếu dự đoán như đinh đóng cột ấy đổ thì đương nhiên không ai dám nhận mình là khoa học và tiền phong nữa, vì đó cũng là lôgic tự nhiên và là sự tự trọng tối thiểu. Người Cộng sản rất tài giỏi trong thực tế tranh đấu trong đó có sự ứng dụng khoa học thật sự, do đó dự đoán chiến thuật thường là đúng, nếu không thì sao thắng được. Nhưng dự đoán chiến lược, lại là một vấn đề khác hẳn.
Dự đoán Mác xít có tính chiến lược bao trùm nhất, kết tinh của tư duy Cộng sản toàn thế giới là tuyên bố của 81 đảng Cộng sản về nội dung thời đại: "Thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ Chủ nghĩa Tư bản lên Chủ nghĩa Xã hội trên phạm vi toàn thế giới mở đầu bằng Cách mạng Xã hội chủ nghĩa tháng 10 vĩ đại; là sự sụp đổ của chủ nghĩa Đế quốc và sự tan rã của hệ thống thuộc địa; là sự xuất hiện ngày càng nhiều dân tộc tiến lên con đường XHCN. Giai cấp Công nhân quốc tế, mà đại diện là Đảng Mácxít Lêninít chân chính, đang đứng ở vị trí trung tâm của Thời đại mới đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa Xã hội". Đảng Cộng sản Việt nam còn đi xa hơn không phải dự đoán nữa mà đã nhìn thấy "ba dòng thác" : dòng thác tan rã của chủ nghĩa Tư bản, dòng thác sinh sôi của chủ nghĩa Xã hội và dòng thác của thế giới thứ ba. Đối chiếu với thực tế ngày nay liệu còn gì để bình luận?
Hãy chú ý rằng đây là trí tuệ tập trung của cả thế giới Cộng sản, trí tuệ ở vào lúc khá nhất của phong trào Cộng sản (khá nhất vì trong đó tính giai cấp kiêu ngạo cực đoan phi thực tế đã được điều chỉnh đi rất nhiều), khá đến mức bị người Cộng sản khác lên án là "xét lại" mà còn sai đến mức lộn ngược như thế thì hệ thống lý thuyết ấy ở dạng chân chính còn khủng khiếp biết chừng nào? Vậy mà đến hôm nay, trí thức gọi là tiên tiến nhất của thế giới tư duy Cộng sản vẫn chưa nhìn ra được cái sai từ nơi gốc rễ, vẫn cứ xưng là "Khoa học", là "Tiền phong" thì đủ biết khả năng "ngu hóa" của lý thuyết ấy đã đến độ tuyệt hảo vậy. Có người không đồng ý với tôi, lại bảo người ta chẳng dốt đâu, người ta biết cả đấy!
Nếu vậy thì còn kinh khủng hơn. Đẩy được trí tuệ ra khỏi đầu người vốn thông minh đã là điều tài tình, thì việc đẩy được lương tâm và danh dự ra khỏi trái tim vốn đầy tính lương thiện và lý tưởng quả là một siêu ma lực đáng để loài người muôn đời nghiền ngẫm. Kẻ làm chính trị mà dùng được "ngu lực" hay ma lực này thì lo gì không vô địch ? Và người vô địch không bao giờ ngu dốt, trái lại, tinh khôn tuyệt vời. Thông minh và ngu dốt luôn song song trong mỗi con người, bởi lượng trí khôn mà Tạo Hóa ban cho mỗi con người bình thường gần là một hằng số như nhau (Trừ người bất thường thì không kể. Chỉ số thông minh cũng chỉ là một mặt của trí khôn thôi). Dùng hết tinh khôn cho việc này thì ngu dốt trong việc khác. Vô địch trong điều kiện này đại bại trong điều kiện khác. Thoạt nhìn thì Chân lý mang tính "cù nhầy".
Nhưng nếu lấy sự tiến hóa và hạnh phúc chung của cả nhân quần làm chuẩn thì chân lý có tiêu chuẩn xác định không thể lộn ngược. Trong cuộc chiến tranh Vệ quốc, Đảng Lao động Việt nam gồm người yêu nước nhất, dám hy sinh, biết tổ chức và có sách lược nên có vai trò tiền phong thật sự. Nhưng bước vào giai đoạn "cách mạng" tức cuộc đấu tranh giai cấp nhằm mục đích tối hậu là xây dựng chủ nghĩa Cộng sản thì tình hình dần dần xoay ngược trở lại. Dựa trên một lý thuyết phi khoa học thì chủ trương và hành động sẽ chống quy luật, sẽ bị thực tế phủ định. Bản chất lạc hậu, không tiền phong, nhưng muốn giành vị trí tiền phong thì quy trình giành lấy tiền phong phải diễn ra theo 4 bước tuần tự:
Bước 1: Thấy cái tiền phong thật ngược với mình, nên coi là phản động.
Bước 2: Không chống được, đành buông lỏng, để cái tiền phong thật tồn tại không chính thức.
Bước 3: Thấy cái tiền phong thật hữu hiệu, hợp lý nên phải làm theo.
Bước 4: Tuyên bố cái tiền phong thật ấy là do mình khởi xướng.
Trong thực tiễn Cách mạng Việt nam, từ việc to việc nhỏ đều có thể dẫn ra vô số sự kiện đã diễn ra theo kiểu ấy, tức là lếch thếch chạy theo thực tiễn để đoạt lấy tiền phong, từ chủ trương khoán sản, thị trường tư nhân, tự do luyến ái, y phục thời trang, quan hệ với người nước ngoài, hòa hợp dân tộc, xóa bỏ hận thù, nhân quyền, pháp trị, xã hội công dân, tự do lập hội, trí tuệ là động lực..., rồi chẳng bao lâu nữa sẽ là thứ mà ngày hôm nay đang coi là phản động, như: từ bỏ Chuyên chính Vô sản, Dân chủ đa nguyên, tự do báo chí, tự do truyền bá tư tưởng, thông tin Internet, tự do xuất bản, hủy hệ thống trường Đảng, nhìn nhận lại bản chất tư tưởng Mác-Lê, nhìn nhận lại vấn đề tư tưởng Hồ chí Minh và lăng Hồ chủ tịch, Đảng đối lập, Tổng thống chế, tự do vận động tranh cử vân vân... (xin nhắc lại: nhiều vấn đề ấy đang bị coi là cấm kỵ, nhưng xin chưa thảo luận ở đây).
Ngay bài viết của tôi cũng như của nhiều trí thức tiến bộ, hôm nay còn bị thông báo nội bộ coi là phản động thì rồi đây chắc chắn sẽ được coi là quan điểm của Đảng. Nếu rồi đây Đảng cũng nghĩ như thế thật thì rất đáng mừng, vì điều quan trọng đối với xã hội không phải ở chỗ quan điểm ấy là của ai, mà ở chỗ quan điểm tiến bộ ấy được thực hiện như thế nào, do thực tâm muốn đổi mới vì đất nước hay vì buộc phải thích nghi để duy trì được quyền lợi của tập đoàn. Và từ đó sẽ phát sinh hệ quả rất khác nhau. Trong phần sẽ trình bày sau, có đề cập đến một số Dự đoán mang tính hiện thực vàTiền phong bởi nó dựa trên tư duy khoa học thực sự.
Nguồn: Chia tay Ý Thức Hệ - Hà Sĩ Phu (1995)

Suy ngẫm về chủ nghĩa xã hội và con đường cải cách thế chế ở Việt Nam

Trần Văn Tùng
Việc gắn chủ nghĩa xã hội (CNXH) và thị trường lại với nhau đã trải qua một thời kỳ dài. Kinh nghiệm của Trung Quốc, Việt Nam và việc nghiên cứu lịch sử thực tế của hai nước này có thể giúp cho việc nghiên cứu quan hệ giữa hai khái niệm CNXH và thị trường. Nội dung của bài viết này là làm rõ một số khái niệm và sau đó đưa ra các khuyến nghị cải cách thể chế tại Việt Nam.
1. Bàn luận thêm về CNXH
Khái niệm về thị trường có sự đồng thuận cao đã được các nhà kinh tế học như Ricardo, Mill Walras trình bày trước đây. Thị trường được hiểu là cơ chế phục vụ cho sự điều phối các hoạt động của con người, sự tổ chức tích hợp của xã hội. Thị trường không phải là cơ chế điều tiết duy nhất, mà còn có các cơ chế điều tiết khác mà mọi người từng hiểu là cơ chế quan liêu mệnh lệnh của các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN), đặc biệt được vận dụng tại Việt Nam trước đây. Điều tiết quan liêu và thị trường khác nhau về các khía cạnh như tập trung hay phân tán, bản chất các quá trình thông tin, cơ chế khuyến khích. Điều tiết thị trường và điều tiết quan liêu chỉ là hai trong số nhiều loại điều tiết do lịch sử tạo ra, tuy nhiên chúng có vai trò đặc biệt quan trọng. Cải cách kinh tế tại Trung Quốc và Việt Nam, bên cạnh những thay đổi khác đã mang lại sự chuyển đổi xa rời ưu thế của điều tiết quan liêu sang ưu thế điều tiết thị trường. Muốn hiểu bản chất của kinh tế thị trường định hướng XHCN thì cần phải bàn luận thêm về khái niệm CNXH, bởi vì nó là một khái niệm cho tới nay theo tôi vẫn không rõ ràng.
Có nhiều cách giải nghĩa về CNXH, nếu xem xét một cách có hệ thống, chúng ta sẽ thấy có sự khác biệt, thậm chí là đối lập nhau về các cách giải nghĩa một khái niệm. Có thể còn nhiều cách giải nghĩa khác nhau, nhưng có thể mô tả chúng bằng cách kết hợp, chọn lọc các đặc điểm chính và phân loại ra năm cách giải nghĩa.
1.1. Quan niệm chủ nghĩa xã hội của Marx
Ông không phải là người đầu tiên sử dụng cụm từ CNXH. Trước ông, đã có Saint-Simon, Owen, Fourier sử dụng cụm từ này, nhưng rất tiếc trong các sách giáo khoa của các nước có đảng cộng sản lãnh đạo luôn cho rằng các nhà tiền bối đó là những nhà XHCN không tưởng, đối lập với khái niệm CNXH khoa học được cho là của Marx.
Marx đã mở ra một chương mới trong lịch sử tư tưởng XHCN, và học thuyết của ông đã có ảnh hưởng suốt một thời kỳ dài, đến ngày nay vẫn còn có những ảnh hưởng đến tư duy và hành động chính trị tại một số nước. Thực chất là Marx đã cố gắng mô tả hệ thống XHCN trong tương lai theo cách tiếp cận phủ định, ngược lại với đặc điểm của chủ nghĩa tư bản mà ông căm ghét. Hệ thống XHCN của Marx được xây dựng dựa vào các trụ cột sau:
- Cơ cấu chính trị: Marx đã không vạch ra một kế hoạch hay phương hướng rõ ràng về chế độ chính trị của CNXH là như thế nào. Nhưng ta có thể tìm thấy các ý tường của ông. Không nghi ngờ gì, Marx không coi trọng nền dân chủ tư sản, coi chúng là tư tưởng chính trị rỗng tuếch. Ông lên tiếng bảo vệ chính quyền vô sản, và tin chính quyền đó dẫn tới hệ thống cộng sản chủ nghĩa đã phát triển hoàn toàn. Marx ảo tưởng, cho rằng khi đó mọi nhu cầu được thoả mãn, nhà nước bắt đầu teo lại và cuối cùng sẽ biến mất và chỉ còn bộ máy tự quản cộng đồng. Rõ ràng là Marx không khuyến khích thiết lập một nhà nước tàn bạo, áp bức toàn trị kiểu Leninist – Stalinist – Maoist. Nhưng, có thể nói rằng ông đã coi nền chuyên chính là tương hợp với những hình dung riêng của ông. Ít nhất là trong thời kỳ quá độ, với độ dài không xác định để dẫn tới chủ nghĩa cộng sản.
- Sở hữu: Trong hệ thống tư bản chủ nghĩa, tư bản sản xuất thuộc sở hữu của các nhà tư bản, họ điều khiển, kiểm soát việc sử dụng tư bản của họ. Giai cấp tư sản bóc lột giai cấp vô sản, không phải vì họ tàn bạo mà bởi họ là chủ sở hữu hợp pháp tư bản. Theo Marx, phải thay đổi thế giới, đã đến lúc “đi tước đoạt những kẻ đi tước đoạt”. Từ cách tư duy đó có thể suy ra rằng Marx và Engels trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (1848) đã lên tiếng ủng hộ chế độ công hữu. Giai cấp vô sản sẽ sử dụng quyền lực chính trị, từng bước chiếm đoạt tất cả tư bản của giai cấp tư sản, để tập trung mọi công cụ sản xuất vào tay nhà nước, tức là vào trong giai cấp vô sản (chương II, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản). Trong khi đó, Marx không nêu rõ, con đường nào dẫn đến việc tất cả các tư liệu sản xuất tập trung hoàn toàn vào tay nhà nước và cũng không nêu ra thiết chế của chế độ công hữu.
- Cơ cấu điều tiết: Marx đã dành ra ba cuốn trong bộ Tư bản luận để nghiên cứu kinh tế thị trường. Quan tâm của ông là xem xét thị trường hoạt động như thế nào. Các nhận xét, tổng hợp của Marx đối lập gay gắt với các quan điểm của Adam Smith (điều tiết nhờ bàn tay vô hình). Marx cho rằng kinh tế thị trường dẫn tới trạng thái vô chính phủ, lãng phí. Có vẻ như những kết luận của ông dựa vào trực cảm, bột phát.
Các tư tưởng của ông liên quan đến CNXH hệt như những hình dung của ông về chế độ chính trị của CNXH, dựa vào cách tiếp cận phủ định. Cơ chế điều tiết của CNXH không có gì khác ngoài ngược lại với cơ chế điều tiết thị trường của chủ nghĩa tư bản.
- Hệ tư tưởng: Marx là một trong những nhà khoa học xã hội đầu tiên nhận rõ vai trò của hệ tư tưởng. Có lẽ Marx sẽ bối rối, nếu như ông nhìn thấy các nhóm quyền lực chính trị đã làm những gì sau hơn 100 năm dưới ngọn cờ chủ nghĩa Marx.
1.2. Quan niệm của Léon Walras về CNXH
Cách giải thích này được phát triển trong môi trường của thế giới hàn lâm. Người đi tiên phong dựng lên lối tư duy lý thuyết XHCN đầu tiên là nhà kinh tế học người Italia, Enrico Barone, học trò của Pareto. Tiếp theo sau đó là Léon Walras, Oskar Lange.
Mô hình lý thuyết của Lange nhà kinh tế học Ba Lan ăn khớp chặt chẽ với khuôn khổ lý thuyết của nhà kinh tế học Walras. Trong mô hình của Lange, CNXH có nghĩa là công hữu và đây là điều kiện cần và đủ cho một hệ thống nào đó được gọi là CNXH. Lange không làm rõ bên trong toàn thể các quyền sở hữu và vị trí chính xác của công hữu là gì. Liệu công hữu chiếm toàn bộ hay một phần của nền kinh tế? Có thể hiểu khu vực công hữu thoát ly hoàn toàn khỏi các phần khác của nền kinh tế. Như vậy thì chủ nghĩa xã hội thị trường của Lange là một nền kinh tế dựa trên công hữu và do thị trường điều tiết. Theo ông hai hình thái kết hợp này là phù hợp với nhau.
Cách giải thích của Lange đã làm bùng nổ các cuộc tranh luận sôi nổi. Đầu tiên, Hayek (1935) đã bác bỏ quan điểm của Lange. Lập luận của Hayek là không thể thu thập, lưu trữ và sử dụng khối lượng thông tin kiến thức khổng lồ trong một trung tâm duy nhất. Không thể thiếu các khuyến khích phân tán để thúc đẩy việc sử dụng và tích tụ thông tin kiến thức. Thị trường và sở hữu tư nhân tạo ra sự khuyến khích này và kết hợp các khuyến khích và tích tụ thông tin một cách tự động. Làn sóng tấn công thứ hai, nổ ra có liên quan tới cải cách của các nền kinh tế Xô Viết và Đông Âu. Lập luận của Hayek về các khuyến khích thông tin được ủng hộ bằng kinh nghiệm. Rất ít khả năng để tạo ra một cách khuyến khích thành công nhằm tối đa hoá lợi nhuận hoặc tối thiểu hoá chi phí trong các doanh nghiệp nhà nước bị ràng buộc ngân sách. Thực ra là không thể gắn một cấu trúc quyền sở hữu được chọn một cách tuỳ tiện với một cơ chế điều tiết cũng được chọn một cách tuỳ tiện.
Một lập luận khác liên quan đến lĩnh vực chính trị và hệ tư tưởng là sự hoạt động của thị trường theo Lange sẽ là không có vướng mắc nếu có bầu không khí thân thiện với thị trường. Lập luận đã không có chỗ đứng vững chắc ở những nước mà chính trị gia chỉ huy đất nước không đội trời chung với chế độ phân quyền thì thị trường không thể là cơ chế điều tiết tốt cho nền kinh tế hoạt động. Sau khi các nước XHCN sụp đổ, ở một vài nơi đã xuất hiện tư tưởng XHCN thị trường, cùng với việc hình dung tạo lập ra con đường thứ ba khác, thế nhưng ý tưởng đó đã bị thực tiễn bác bỏ. Các nước Đông Âu đi theo thể chế kinh tế thị trường tự do.
1.3. Quan niệm của Lênin về CNXH
Trong thời gian chiến tranh thế giới lần thứ I, với sự lãnh đạo của Lênin, đã hình thành nên đảng cộng sản. Quyền lực của đảng cộng sản được củng cố, đây là giai đoạn mà Kornai (2007) gọi là CNXH cổ điển, với sự cai trị tiếp theo của Stalin. Sau khi đã hoàn thành giai đoạn cách mạng, giành chính quyền, nhà nước Xô Viết đã quốc hữu hoá và tập thể hoá mọi cơ sở hoạt động sản xuất tư nhân hình thành từ thời Sa Hoàng. Có thể tóm tắt các đặc điểm chính về quan điểm CNXH của Lênin như sau:
- Cơ cấu chính trị: Bác bỏ nền dân chủ, thực hiện chế độ chuyên chế của giai cấp vô sản. Đây là chế độ, mà đảng cộng sản có quyền chính trị hoàn toàn, loại bỏ các lực lượng chính trị ganh đua, trấn áp các lực lượng chính trị đối lập khác.
- Sở hữu: Tất cả các tư liệu sản xuất thuộc về công hữu. Việc tịch thu tài sản tư nhân, quốc hữu hoá và tập thể hoá trở thành yếu tố then chốt của cương lĩnh cách mạng trước và sau khi giành được chính quyền. Khu vực kinh tế tư nhân vẫn còn sống sót, nhưng hầu như vai trò của nó là không đáng kể. Lập trường của chủ nghĩa Lênin đối lập gay gắt với sở hữu tư nhân, ông cho rằng sản xuất hàng hoá nhỏ và với quy mô hàng loạt sinh ra chủ nghĩa tư bản.
- Điều tiết: Chỉ huy tập trung thay thế ưu thế thị trường. Hình thức điều tiết được gọi là kế hoạch hoá tập trung với các đặc điểm quan liêu, kiểm soát tập trung và mệnh lệnh.
- Hệ tư tưởng: Coi chủ nghĩa Marx, sau này là chủ nghĩa Marx-Lênin là bất khả xâm phạm, linh thiêng. Dù rằng không chiếm vị trí độc tôn trong tư duy của mọi người, nhưng nó chiếm vị trí độc quyền trong giáo dục, trong xuất bản phẩm hợp pháp, trong các phương tiện thông tin, truyền thông đại chúng. Hệ tư tưởng chính thống này bác bỏ mọi hệ tư tưởng thân thiện với chủ nghĩa tư bản, với sở hữu tư nhân và kinh tế thị trường. Hệ thống này là hệ thống duy nhất, được các nước XHCN, có đảng cộng sản lãnh đạo gọi là CNXH.
1.4. Quan niệm xã hội dân chủ về CNXH
Phong trào dân chủ xã hội đã có quá trình phát triển khá dài, nhưng nhiều học giả thường chú ý tới các trào lưu xuất hiện trong thập niên 1980. Các mô hình xã hội dân chủ được chú ý nhiều nhất là Thuỵ Điển, các nước Bắc Âu, sau đó là Tây Đức và một số quốc gia Tây Âu khác. Dầu phong trào này có nắm quyền lãnh đạo hay thất bại trong các cuộc bầu cử, họ vẫn tuân theo các nguyên tắc.
- Cơ cấu chính trị: Chấp nhận nền dân chủ đại nghị. Khác với các đảng cộng sản muốn giành chính quyền bằng bạo lực thì các nhà dân chủ xã hội muốn thực hiện CNXH theo cách riêng của họ, khi mà đa số nhân dân ủng hộ cương lĩnh của họ và bỏ phiếu ủng hộ cho đảng của họ. Đảng dân chủ xã hội sẵn sàng từ bỏ quyền lực của họ, nếu kết quả bầu cử cho thấy họ mất đi sự ủng hộ của đa số nhân dân và họ kiên trì chờ cơ hội khác. Sự chia rẽ giữa những người Leninist và những người dân chủ xã hội bắt đầu bằng cuộc tranh luận nảy lửa xoay quanh các vấn đề chế độ chuyên chế, cạnh tranh chính trị, vai trò của quốc hội và bầu cử. Cho đến tận ngày nay, đây là các tiêu chuẩn để phân biệt khái niệm về CNXH theo cách giải thích thứ ba và thứ tư.
- Sở hữu: Từ chối sở hữu tư nhân, các nhà dân chủ xã hội theo lối cũ bác bỏ việc tịch thu tài sản tư nhân. Nhưng, thực tế nhiều quốc gia sau khi quốc hữu hoá tài sản tư nhân, các doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả. Trước thực tế đó, các nhà dân chủ xã hội đã từ bỏ các kế hoạch quốc hữu hoá và chấp nhận sở hữu tư nhân. Lĩnh vực được tiếp tục duy trì sở hữu công là y tế, giáo dục.
- Điều tiết: Các nhà dân chủ xã hội không do dự khi chấp nhận thị trường là cơ chế điều tiết chính các hoạt động kinh tế, nhưng không tin hoàn toàn vào thị trường tự do nếu không có sự can thiệp nào khác. Ngược lại họ dùng quyền lực nhà nước cho việc tái phân phối thu nhập. Thành quả vĩ đại thể hiện qua thuế luỹ tiến, giáo dục và dịch vụ y tế không mất tiền, hệ thống hưu bổng rộng khắp, bảo hiểm thất nghiệp và hỗ trợ cho người nghèo được chính phủ quan tâm. Quy mô của nhà nước phúc lợi đã làm cho tình hình ngân sách trở nên khó khăn nhưng các nhà dân chủ xã hội cố gắng duy trì, bởi vì đây là cam kết của họ trong cuộc đấu tranh chính trị sau khi thắng trong cuộc bầu cử.
Các nhà dân chủ xã hội không muốn tạo ra một hệ thống XHCN mới, khác với chủ nghĩa tư bản, mà họ cố cải tạo hệ thống tư bản chủ nghĩa đang tồn tại. Nói khác đi là muốn biến hệ thống tư bản chủ nghĩa theo sát với lý tưởng chính trị và đạo đức của họ. Đồng thời tìm mọi cách khắc phục những khó khăn đang ngày càng trở nên trầm trọng hơn mà nhà nước phúc lợi phải gánh vác như tình trạng nghèo đói, áp lực cạnh tranh toàn cầu, thay đổi nhân khẩu học.
- Hệ tư tưởng: Các lý tưởng và giá trị của mục tiêu dân chủ xã hội gắn liền với nhà nước phúc lợi và quá trình chính trị dân chủ. Hơn 100 năm trước đây đã diễn ra một cuộc tranh luận giữa hai nhà sáng lập của nước Nga và nước Đức, một bên là Lênin, một bên là Karl Kautsky, khi cả hai bên đều dẫn chứng các quan điểm của Marx để bảo vệ các quan điểm của riêng mình. Thời gian trôi đi, các nhà dân chủ xã hội ngày càng xa rời Marx hơn và sau chiến tranh thế giới lần thứ II, họ xa rời ý thức hệ của Marx mà trước đây họ trung thành. Các nhà dân chủ xã hội tại hội nghị ở Bad Godesberg (Cộng hoà Liên bang Đức) năm 1959 đã khởi xướng trào lưu mới của họ, công khai từ bỏ chủ nghĩa Marx và loại bỏ biện pháp quốc hữu hoá khỏi cương lĩnh của mình.
1.5. Quan điểm của Trung Quốc và Việt Nam về CNXH
Nếu như đem so sánh các quan điểm của Trung Quốc và Việt Nam về CNXH ta thấy không giống với bốn quan điểm đã giải thích ở trên.
So sánh với cách lý giải thứ nhất, thì Marx luôn lên tiếng phản đối sở hữu tư nhân, biểu lộ sự hoài nghi đối với thị trường. Ngược lại ở Trung Quốc và Việt Nam khu vực kinh tế tư nhân đang phát triển nhanh, đóng góp tỷ lệ xứng đáng cho GDP, trong khi tỷ lệ của khu vực kinh tế nhà nước đang có xu hướng giảm. Thể chế kinh tế thị trường cũng được áp dụng tại hai nước này mặc dầu vẫn còn sự can thiệp của nhà nước. Nếu soi vào các quan điểm của Marx thì Trung Quốc và Việt Nam không còn là chế độ XHCN nữa.
Với cách lý giải thứ hai, Trung Quốc và Việt Nam cũng không thể xem là có các đặc điểm CNXH của Lange. Trong các quan điểm của Lange, các tư liệu sản xuất thuộc sở hữu công và Lange đã nỗ lực chứng minh rằng thị trường có khả năng điều tiết mà không cần phải có sở hữu tư nhân. Thực sự thì tại Trung Quốc và Việt Nam ngày nay, thị trường đóng vai trò điều tiết chính. Trạng thái hiện thời ở hai nước này không có quan hệ gì với mong ước của trường phái CNXH thị trường phác hoạ.
Liên quan tới cách giải thích thứ ba ta thấy Trung Quốc và Việt Nam vẫn duy trì một đặc điểm quan trọng của CNXH theo quan niệm của Lênin. Cơ cấu chính trị không thay đổi, đảng cộng sản vẫn độc quyền lãnh đạo. Do đó có thể trấn áp, dẹp bỏ các quan điểm đối lập, ý kiến khác biệt. Mặt khác, cơ cấu sở hữu đã trải qua nhiều thay đổi căn bản, cả hai nước đều từ bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, giảm mạnh sự điều tiết của nhà nước thay vào đó là cơ chế điều tiết của thị trường. Hệ thống này đã xa rời hệ thống XHCN cổ điển và đang tiệm cận với hệ thống tư bản chủ nghĩa. Ý thức hệ chính trị cũng trải qua những thay đổi lớn, đảng cộng sản truyền thống luôn đối kháng với sở hữu tư nhân và thị trường, nhưng ngày nay trở nên thân thiện hơn với các định chế này. Thế giới quan chống lại tư bản chủ nghĩa gay gắt trước kia đã chuyển theo hướng tiệm cận tới các giá trị cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Các đảng cộng sản của hai nước này cũng thân thiện với chủ nghĩa tư bản, mặc dầu vậy cương lĩnh của hai đảng vẫn giương cao khẩu hiệu trung thành với chủ nghĩa Marx- -Lênin, tư tưởng của Mao (trường hợp của Trung Quốc) và tư tưởng Hồ Chí Minh (trường hợp Việt Nam).
Đối chiếu với cách giải thích thứ tư sẽ thấy thiếu vắng hai đặc điểm cơ bản của nền dân chủ xã hội thực sự. Trước hết, duy trì chế độ chuyên chế, độc đảng và bác bỏ khả năng bầu cử cạnh tranh quyền lực chính trị. Thứ hai, chế độ cộng sản theo kiểu cũ nỗ lực xây dựng nhà nước phúc lợi thể hiện qua việc chăm sóc y tế, đầu tư cho giáo dục, lương hưu, phúc lợi cho những người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước. Khi nền kinh tế sa sút, thì khó bảo đảm phúc lợi ích mọi người trong số lĩnh vực chính nêu trên. Nhà nước sau đó đã rút lui khỏi các dịch vụ phúc lợi, cho phép khu vực tư nhân hoạt động cạnh tranh với khu vực của nhà nước. Vì mục tiêu cân bằng ngân sách, thì tình hình tái phân phối giảm, bất bình đẳng và khoảng cách giàu nghèo tăng nhanh.
So sánh với bối cảnh giải thích về CNXH thì liệu Trung Quốc và Việt Nam có thể gọi là CNXH nữa không? Nếu CNXH là nhằm đạt được mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh thì chắc có sự đồng thuận lớn trong dân chúng và đó cũng là mục tiêu mà nhiều quốc gia theo đuổi. Tên gọi XHCN hay CNXH không quan trọng, miễn là phải bám vào mục tiêu trên và tìm mọi cách thực hiện mục tiêu đó. Sự giằng co về mặt lý luận ở Việt Nam hiện nay là giữa hai lực lượng. Những người trung thành với chủ nghĩa Marx-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò của các doanh nghiệp nhà nước, có lúc muốn quay trở lại cách quản lý kế hoạch hoá tập trung. Một lực lượng khác thì muốn cải cách triệt để, loại bỏ vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước (tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò chủ đạo). Sự giằng co này đã dẫn đến việc đề xuất và thực thi các chính sách không nhất quán. Nhà nước đi kinh doanh là không nên, nhà nước phải là bên thứ ba, khuyến khích các doanh nghiệp cạnh tranh, hoạt động minh bạch, có trách nhiệm giải trình và đứng ra giải quyết các tranh chấp, các hành vi phạm pháp xảy ra trong cơ chế thị trường, tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển. Theo tôi nên hiểu kinh tế thị trường định hướng XHCN là có những đặc điểm giống với cách giải thích thứ tư nêu trên hoặc là tiệm cận tới cách giải thích này.
Câu chuyện ông Lê Hiếu Đằng và ông Hồ Ngọc Nhuận đề nghị thành lập đảng dân chủ xã hội là bình thường thể hiện nguyện vọng của nhiều người. Bởi vì, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đánh mất niềm tin ở người dân, khi tham nhũng tràn lan, nhóm lợi ích nở rộ, khoảng cách giàu nghèo gia tăng, nông dân mất đất, mất ruộng dẫn đến kết cục xuất hiện các hiện tượng ĐoànVăn Vươn, Đặng Ngọc Viết. Cho nên Đảng Cộng sản Việt Nam phải thấy trách nhiệm của mình góp sức vào cải cách thể chế hướng tới một đảng theo mô hình dân chủ xã hội mà các nước Bắc Âu đã thực hiện để giải quyết các xung đột xã hội.
T. V. T.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hayek, F.A (ed.) (1935). Collectivist Economic Planning. London: George Routledge & Sons.
2. Kornai, Janos (2007). Chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư bản, dân chủ và thay đổi hệ thống. Bản dịch của Nguyễn Quang A. Sắp xuất bản.
3. Kornai, Janos (2001), Con đường dẫn tới nền kinh tế thị trường. Hà Nội: Hội Tin học Việt Nam.
4. Kornai, Janos (2002). Hệ thống xã hội chủ nghĩa. Hà Nội: Văn hoá Thông tin.
5. Kautsky, Karl (1910). The Social Revolution. Chicago: Charler H.Kerr & Company.
6. Lange, Oskar (1936). “On the Economic Theory of Socialism”. Review of Economic Studies, v. 4, no1, 53-71.
7. Landes, David (1998). The Wealth and The Poor of Nations. New York: W. W. Norton & Company.
8. Lênin, V. I. (2005). Nhà nước và cách mạng. Trong Lênin, Toàn tập, tập 33. Hà Nội: Chính trị Quốc gia.
9. Lênin, V.I. (1977). Cách mạng vô sản và tên phản bội Cauxky. Trong Lênin, Toàn tập, tập 37. Moscow: Tiến bộ.
10. Marx, Engels (1995), Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Trong C. Mác & P. Ăngghen, Toàn tập, tập 4. Hà Nội: Chính trị Quốc gia.
11. Sen, Amatya (2002). Phát triển là quyền tự do. Hà Nội: Thống kê.
12.Nguyễn Quang A (2010). “Tính tất yếu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Bài đọc tại hội thảo do Viện Triết học tổ chức, Chương trình cấp bộ năm 2009-2010.
13. Trần Văn Tùng, Vũ Đức Thanh (2011). Thể chế yếu tố quyết định tăng trưởng. Hà Nội: Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.

Thiện Tùng – Đôi điều về lực lương vũ trang

Nói nôm na, vũ trang là trang bị vũ khí. Lực lượng vũ trang là lực lựng được trang bị vũ khí. Gần như nước nào cũng vậy, Quân đội và Cảnh sát đều được trang bị vũ khí và phương tiện chiến đấu, mục đích để bảo vệ quốc gia, dân tộc, giữ gìn an ninh trật tự xã hội. Từ mục đich ấy, lực lượng vũ trang phải thuộc sở hữu toàn dân.
Nhìn chung trên thế giời, có 2 hình thức cấu tạo Quân đội: Buộc thanh niên lứa tuổi theo luật định phải nhập ngũ theo hình thức“Quân dịch”, theo thời gian hạn định. Kêu gọi thanh niên trong lứa tuổi được qui định nhập ngũ theo hình thức “Tình nguyện”, thời gian không hạn định – gọi là chí nguyện quân.
Quân đội xây dựng theo hình thức Quân dịch, về chất hẳn là kém hơn quân Tình nguyện – Quân dịch là tạp binh vì bịbắt buộc, tham gia ngắn hạn, không coi là nghề. Tình nguyện là tinh binh vì tự giác, tham gia dài hạn, xem là nghề (binh nghiệp).
Quân đội được trang bị vũ khí và phương tiện tối đa để tấn công, có nhiệm vụ chống ngoại xâm bảo vệ đất nước và dân tộc – đối ngoại. Cảnh sát được trang bị vũ khí và phượng tiện tối thiểu để tự vệ, có nhiệm vụ giữ trật tự trị an trong nội địa – đối nội.
Ở Việt Nam, tổ chức lực lượng vũ trang cơ bản giống các nước, chỉ khác tên gọi, chẳng hạn: Người ta gọi “quân dịch”, VN gọi “nghĩa vụ quân sự”; Người ta gọi “quân đội”, VN gọi “Quân đội Nhân dân”. Người ta gọi “Cảnh sát”, VN gọi “Công an”(vì còn để nhập cục). Điều đáng chú ý, ở các nước thể chế Dân chủ Đa nguyên chính trị, lực lượng vũ trang thuộc “sở hữu toàn dân”; ở các nước thể chế Độc nguyên chính trị (Độc tài), lực lượng vũ trang thuộc “sở hữu riêng của giới cầm quyền”.
Lực lượng vũ trang là con em của các tầng lớp nhân dân không phân biệt đạo đời, được nhân dân góp tiền nuôi dưỡng, mua vũ khí, phương tiện… trang bị cho nó để bảo vệ, trị an đất nước và dân tộc, dĩ nhiên là nó phải “trung với nước, hiếu với dân”. Những đảng hay phái chính trị chỉ là những bộ phận của dân tộc. Về pháp lý và đạo lý, không tổ chức nào được quyền biến lực lượng vũ trang thuộc sở hữu chung ấy thành của tư. Nếu tổ chức nào cố tình biến lực lượng vũ trang thuộc của chung ấy thành của riêng đều được xem là bước đầu tham nhũng quyền lực. Lý giải cho vấn đề nầy bằng lập luận logic “Cái chung hàm chứa cái riêng, cái riêng không hàm chứa cái chung” – tổ chức đảng phái chỉ là bộ phận của dân tộc. Lực lượng vũ trang có trách nhiệm bảo vệ đất nước và dân tộc nghiễm nhiên có các đảng phái trong đó. Đảng phái cần chi, với động cơ gì mà đòi có sở hữu riêng lực lượng vũ trang? Trong một nước, nếu đảng phái, phe nhóm nào cũng tổ chức lượng vũ trang để bảo vệ riêng cho mình thì đó là mầm mống “loạn sứ quân”, mầm mống nội chiến, không nên chút nào?!
Về nguyên tắc, Quân đội không can thiệp việc đấu đá phe phái trong cộng đồng dân tộc. Công an xử lý và truy tố những ai, phe phái nào vi phạm Pháp Luật.
Ở Việt Nam ta, sau chiến tranh, từ khi giải tán các đảng và tổ chức chiến hữu, một mình một chợ, Đảng CSVN giành sở hữu riêng lực lượng vũ trang, từ “trung với nước” đổi thành “trung với đảng”. Trịch thượng, kiêu binh…, ngành Công an trương bảng to trước tổng hành dinh 44 Yết Kiêu Hà Nội “Công an chỉ biết còn Đảng còn mình”. Từ khi Đảng CSVN sở hữu lực lượng vũ trang, xuất hiện hiện tượng: Quân đội hơi lơ là trong công việc bảo vệ Tổ quốc, để Trung quốc xâm lấn biên giới, biển, đảo ; làm trái chức năng, tham gia cưỡng chế đầm của ông Đoàn văn Vươn ở Tiên Lãng chẳng hạn. Công an không giám sát, tham mưu cho lãnh đạo, để Trung quốc đưa lậu người và hàng ồ ạt vào VN mốt cách trái phép ; trấn áp không nương tay với dân oan, với dân biểu tình chống Trung quốc xâm lược, với lực lượng bất đồng chính kiến đấu tranh bất bạo động.Tệ hại hợn, không ít lần Công an tổ chức và sử dụng cả côn đồ cùng mình trấn áp lực lượng tay không bị coi là “Những phần tử chống đối”, “thế lực thù địch”!
Quân đội Nhân dân VN hiện nay được tổ chức theo hình thức “nghĩa vụ quân sự” với thời gian chỉ 2 năm – tạp binh chớ không phải tinh binh. Giới lãnh đạo được Đảng ưu ái, ngoài nâng cấp nâng lương, còn cho làm kinh tế riêng để kiếm thêm chút “cháu bào ngư”, chớ còn lính chỉ đảm bảo cho nó không đói – có gia đình thăm nuôi tiếp tế thêm. Họ là con em các tầng lớp nhân dân, từ nhân dân mà ra, được nhân dân góp tiền nuôi và trang bị vũ khí, phương tiện…Họ là con người có đủ trí khôn, lẽ nào trở thành kẻ vong ân bạc nghĩa đối với Nhân dân?
Công an thì khác, nhân sự được lựa chọn kỹ càng, cốt cán đa phần là dòng tộc của giới cầm quyền, được cưng như trứng mỏng, nâng cấp nâng lương vô tội vạ, lực lượng đông như kiến cỏ, sĩ quan nghều đầu, trở thành như những hung thần trên mọi nẻo đường đất nước. Mọi hành động của họ thể hiện “Công an chỉ biết còn Đảng còn mình”. Có lẽ do vậy, người ta xầm xì: “Công an vì Đảng quên Dân, vì Thân phục vụ”.
Dưới thể chế Dân chủ, Đa nguyên Chính trị, do Pháp Luật và Nhân dân chế ngự, đảng phái chình trị đấu tranh nghị trường, có thể có xung đột bằng miệng chớ không xung đột bằng phương tiện. Dưới thể chế độc tài ngoài xung đột miệng, không loại trừ xung đột phương tiện – nội chiến.
Nói gì thì nói, Quân đội luôn đóng vai trò quyết định, thế thường, nếu có nội chiến, diển theo 4 kịch bản:
- Nếu Quân đội đứng về Giới đương quyền thì thể chế ấy được giữ vững.
- Nếu Quân đội đứng về phía đối lập chống lại Giới đương quyền thì thể chế nầy phải thay đổi.
- Nếu Quân đội ngã cả hai bên thì bất hạnh – sẽ có mùi tanh của máu và mùi thước súng.
- Nếu Quân đội xác định rõ trách nhiệm của mình là “đối ngoại”, không can dự “đối nội”, làm ngơ như các nước Cộng sản Đông Âu vào giữa thập kỷ 1980-1990 thì tuyệt vời, Quân đội vẫn đường hoàng trong phục trang, cùng toàn thể đón nhận thể chế Dân chủ Đa nguyên về mọi mặt.
Vụ Tiên Lãng, anh em Đoàn văn Vươn tự vệ giữ của, gây thương tích cho bộ đội biên phòng. Thế mà trước tòa án, những bộ đội bị thương miễn tố cho anh em Đoàn văn Vươn là ý gì nếu không phải thấy mình tham gia cưỡng chế là sai chức trách?
Mang tên “Quân đội Nhân dân”, từ nhân dân mà ra, được nhân dân nuôi dưỡng. Quân đội Nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Nhân dân. Đến một giới hạn nào đó quá sức chịu đựng, họ sẽ ra tay khử những ai xâm phạm “vùng cấm” của mình đảm trách cho trọn nghĩa vẹn tình với nước với dân, phần thắng chắc chắn thuộc về họ?
Tôi không phải chuyên gia quân sự, viết ra những điều nầy theo cảm nhận, cảm hứng. Tất nhiên là nó đúng với tôi, còn với mọi người thì xin thỉnh giáo.
10/09/2013
T.T

NƯỚC MẮT CHÍNH TRỊ GIA

Bài đọc liên quang:
+ Hôn quân và minh quân trong chính trị Thái Lan
+ 50 năm và 67 năm
+ Tội ác thiên niên kỷ
+ Báo cáo của diễn đàn kinh tế thế giới tháng 9/2013

21h30' ngày 16/9/2013 vừa qua là ngày sinh nhật lần thứ 90 của một vĩ nhân của thế kỷ XX - Ông Lý Quang Diệu. Kênh truyền hình Discovery đã chiếu lại bộ phim tài liệu về sự thành công của Ông Lý và lịch sử đất nước Singapore 50 năm qua. Hôm ấy cũng là ngày mà con trai Ông - Lý Hiển Long đương kim thủ tướng Singapore thế hệ thứ 3 - động thổ cho khu công nghiệp Việt Sing thứ 5 tại Việt Nam ở Dung Quất. Nó chứng tỏ Singapore đã là một nền kinh tế hùng cường trong khu vực.
Nói về Ông Lý, thì không ai chối cãi sự thành công của Ông với vai trò nhạc trưởng của đất nước nhỏ bé, chỉ bằng 1/3 diện tích Sài Gòn - 710km2 so với 2.095km2, dân số chỉ bằng 70% dân số Sài Gòn. Nhưng Sigapore có một thuận lợi cũng như thách thức to lớn về địa chính trị, mà bất kỳ người dân hay chính trị gia nào cũng mơ ước, khi nó án ngữ eo biển Malacca và tách khỏi Trung Hoa lục địa, mà lại nằm ở chung bán đảo Mã Lai Á.
Nếu kiểm chứng toàn bộ bộ phim trên Discovery so với bản chính cuốn sách From Third Wordl to First của Ông Lý viết về Singapore và về mình, thì có một chi tiết khác nhau khá thú vị. Nước mắt của ông vào ngày 09/8/1965, khi Thủ tướng Mã Lai Á lúc bấy giờ là Tunku Abdul Rahman, tuyên bố Quốc hội Mã Lai Á thông qua quyết định cắt đứt quan hệ với tiểu bang thứ 14 của nước này - Singapore - ra khỏi Liên Bang Quân chủ Malaysia. 
Trong phim có một chi tiết Ông Lý Quang Diệu đã khóc trước toàn dân Singapore và lời bộc bạch trong nuối tiếc rằng: "Đối với tôi, đây là một khoảnh khắc đau thương. Suốt cuộc đời tôi, suốt cuộc đời trưởng thành của tôi, tôi luôn tin tưởng vào sự kết hợp và thống nhất của hai vùng lãnh thổ... Ngay lúc này, tôi, Lý Quang Diệu, Thủ tướng Singapore, nhân danh nhân dân và chính quyền Singapore, tuyên bố rằng kể từ hôm nay, ngày 9 tháng 8 năm 1965, Singapore sẽ vĩnh viễn là một quốc gia độc lập, dân chủ với đầy đủ chủ quyền, lập nền trên những nguyên lý của quyền tự do và công bằng hầu mưu tìm phúc lợi và hạnh phúc cho nhân dân đang sinh sống trong một xã hội tối hảo, công bằng và bình đẳng."

Tuyên ngôn độc lập của Singapore đơn giản chỉ có vậy và dòng nước mắt của Ông khi đọc những lời trên.
Nhưng trong sách của Ông Lý thì, ước mơ thoát khỏi cuộc chiến sắc tộc, tôn giáo và dưới sự kiểm soát quân đội của Mã Lai Á đối với Singapore là một mong muốn, mà Ông luôn thường trực trong lòng, từ khi ông lên nắm cương vị Thủ tướng Singapore do dân bầu vào ngày 01/6/1959.
Có nhiều lý do Ông Lý Quang Diệu muốn Singapore tách ra khỏi Mã Lai Á. Trong đó, an ninh cho bản thân ông là một yếu tố quan trọng hàng đầu. Yếu tố thứ hai cũng cực kỳ quan trọng là vấn đề Singapore phải chịu sự đô hộ của Mã Lai Á. Và cuối cùng là, cuộc chiến tranh sắc tộc của người Mã Lai không muốn tiểu bang có 2 triệu dân lúc ấy của Singapore hầu hết là người Hoa chung sống với họ.
Nhưng lý do làm Ông Lý buồn lòng khi phải tách ra khỏi Mã Lai Á là có thể mất đi một thị trường lớn đông dân của 13 bang Mã Lai Á lúc bấy giờ. Một câu hỏi lớn đối với ông là, làm sao giải quyết công ăn việc làm của 2 triệu dân Singapore, sau khi ông Lý kết hợp với đảng cộng sản Singapore để đấu tranh đuổi thực Dân Anh giành độc lập. Rồi sử dụng người Anh để tiêu diệt đồng đảng cộng sản ở Singapore, mà ông cho là thành phần nguy hiểm sẽ làm cho Singapore chậm tiến.
Qua đó cho thấy, tư duy của Ông Lý đối với đất nước non trẻ Singapore là xây dựng một thể chế chính trị, làm sao để biến Singapore là một trung tâm kinh tế tài chính hàng đầu Đông Á, làm sao bắt kịp và thay thế Hongkong. Nhiệm vụ đó Ông đã hoàn thành trong 31 năm - từ 1959 đến 1990. Đến năm 1990 Ông thoái vị và trao nhiệm vụ mới cho thế hệ kế thừa là, biến Singapore thành một trung tâm khoa học kỹ thuật và sáng tạo ở Đông Á.

Cho đến nay, tuy là một đất nước nhỏ bé có diện tích chỉ bằng 1/3 Sài Gòn. Mộng ước của Ông biến Singapore trở thành Hòn Ngọc Viễn Đông đã vượt tầm. Và trường National Singapore University đã đứng vào top 30 thế giới - cụ thể là xếp hạng thứ 22 năm 2013 này. Một thứ hạng đang sánh vai với các trường đại học hàng đầu của Hoa Kỳ, Anh, v.v.. như Cornell University một trong những IVy League của Hoa Kỳ, và như London School of Economics and Political Science, ngôi trường chuyên đào tạo ra những lãnh tụ hàng đầu thế giới của Vương Quốc Anh, nơi mà ông đã từng theo học.

Trong khi đó, Việt Nam đang chiến lược dân vận vĩ đại thời kỳ mới của đảng cầm quyền là, phấn đấu đạt chỉ tiêu đến 99% các sinh viên đại học có học chương trình nghị quyết của đảng cầm quyền vào năm 2016, cho sự nghiệp giáo dục của đảng cầm quyền, để đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020, thì chưa có trường đại học nào ở Việt Nam nằm trong top 400!

Tất cả những điều trên cho thấy, với một kiến thức luật sư bài bản từ Luân Đôn, và kiến thức kinh tế đang học dang dở nửa chừng cũng tại Luân Đôn, Ông Lý đã biết sử dụng nước mắt chính khách để khai sinh vùng đất mà trước đó Stamford Raffles đã tìm ra, và biến nó thành nơi giao lưu buôn bán Đông Tây sầm uất vào năm 1819.

Cũng thì nước mắt chính trị gia, nhưng nước mắt của ai đó, trong cải cách ruộng đất năm 1957 dùng để lừa gạt dân tộc mình, làm thân tay sai ngoại bang vì tiền đồ chính trị cho riêng mình. Nhưng nước mắt của Lý Quang Diệu thì khác, nó qua mặt một chính phủ lớn mạnh hơn Singapore gấp hàng trăm lần, để mang lại cho người dân Singapore tự lực, tự cường và có thu nhập đầu người đang đứng hàng đầu thế giới - 50.323USD/đầu người vào 2012.

Một câu nói đáng ghi vào sử sách của Ông Lý trong bộ phim này mà tôi nhớ mãi là: "Bạn đừng nên làm chính trị nếu bạn có ý định tham nhũng". Ông đã quy định tất cả thành viên nội các Singapore mang trang phục trắng khi tham chính, để chứng tỏ sự trong sạch bằng hành động. Một vấn đề mà nước Việt hôm nay đang có thể lao vào vực thẳm, nhưng không thể giải quyết được. Điều mà Ông Lý đã làm được trong suốt sự nghiệp chính trị của mình, và tạo ra một đất nước, mà nơi ấy là quê hương thứ hai của ông trở thành nơi mà, mọi người dân sống và làm việc trong một không khí chính trị trong sạch vào bậc nhất toàn cầu.

Chiếc tàu màu trắng của hy vọng

Thủ tướng Đức Ludwig Erhard đã “kinh hoàng” trước lời yêu cầu của người đối thoại. Hort Osterheld, cố vấn cho Ludwig Erhard, đã nhớ lại cái đêm 20 tháng 12 năm 1965 đó trong Tòa Nhà Trắng ở Washington, D. C.: Lính Đức, theo ý muốn của tổng thống Hoa Kỳ Lyndon B. Johnson, cần phải giúp đỡ người Mỹ trên chiến trường Việt Nam.
Chiếc tàu bệnh viện Helgoland đã hoạt động dưới lá cờ của hội Hồng thập Tự Đức ở Việt Nam từ 1966 cho tới 1972. Hình của hội Hồng thập Tự Đức
Chiếc tàu bệnh viện Helgoland đã hoạt động dưới lá cờ của hội Hồng thập Tự Đức ở Việt Nam từ 1966 cho tới 1972. Hình của hội Hồng thập Tự Đức
Johnson biết ông đã đưa người khách của ông vào trong tình trạng nào: Một sự tham chiến của quân đội Đức ở Đông Dương không chỉ hết sức đáng ngờ do những quy định của Hiến pháp Đức và Hiệp định NATO – mới hai mươi năm sau Đệ nhị Thế chiến và một thập niên sau lần tái vũ trang, người thủ tướng hầu như không thể nào mà đưa ra được một lệnh hành quân cho quân đội Đức.
Việc Johnson yêu cầu thủ tướng Đức tham gia gánh vác với các tiểu đoàn quân y và công binh có lý do riêng của tổng thống: nghị sĩ Hoa Kỳ đồng ý chỉ tăng ngân sách quốc phòng khi các đồng minh tích cực giúp đỡ lính Mỹ ở Việt Nam. Để “thuyết phục” người Đức đồng ý với lời yêu cầu của mình, viên tổng thống đe dọa sẽ rút một phần lớn quân đội Hoa Kỳ đang đóng ở Tây Đức về nước nếu như Erhard từ chối.
Tàu Helgoland đến Việt Nam: thuyền của Quân lực Việt Nam Cộng hòa đang hộ tống chiếc tàu bệnh viện trên sông Sài Gòn trong tháng 9 năm 1966. Hình của hội Hồng Thập tự Đức
Tàu Helgoland đến Việt Nam: thuyền của Quân lực Việt Nam Cộng hòa đang hộ tống chiếc tàu bệnh viện trên sông Sài Gòn trong tháng 9 năm 1966. Hình của hội Hồng Thập tự Đức
Các nhà chiến lược của Erhard gấp rút tìm kiếm một lựa chọn khác: cần phải làm cho người Mỹ hài lòng và đồng thời tránh được một cuộc khủng hoảng chính trị ở trong nước. Ý tưởng cứu thoát đến từ Bộ Ngoại giao: cần phải gửi đi một con tàu bệnh viện, để tham gia chăm sóc y tế cho người dân thường ở Nam Việt Nam. Chính phủ Đức có thể biểu lộ lòng tốt và đồng thời không bị nghi ngờ là muốn tham chiến bằng quân đội trong Chiến tranh Việt Nam.
Chỉ trong vòng sáu tháng, chiếc “Helgoland” từ một con tàu du ngoạn được cải tạo thành một bệnh viện nổi với 150 giường bệnh, ba phòng mổ và bốn khu chuyên khoa (phẫu thuật, nội khoa, phụ khoa và khoa chiếu tia X). Tổng cộng có 54 bác sĩ và 160 y tá đã chăm sóc cho trên 11.000 ca bệnh nằm lại và thêm vào đó là đã chữa trị không nằm lại cho 200.000 bệnh nhân trong phòng khám.
Tàu bệnh viện Helgoland ở Sài Gòn. Hình của Siegfried Kogelfranz
Tàu bệnh viện Helgoland ở Sài Gòn. Hình của Siegfried Kogelfranz
Chiếc tàu bệnh viện “Helgoland” từ 1966 cho tới 1972 đã trở thành biểu tượng cho niềm hy vọng và tình nhân đạo trong cuộc Chiến tranh Việt Nam.
Phan Ba (lược dịch theo Der Spiegel)
Được sự đồng ý của người bác sĩ trưởng đầu tiên trên con tàu bệnh viện viện Helgoland, Giáo sư Tiến sĩ Y khoa Heimfried-Christoph Nonnemann, Phan Ba đã dịch quyển hồi ký của ông về thời gian hoạt động nhân đạo ở miền Nam Việt Nam (1966/1967) với rất nhiều chi tiết thú vị cũng như đau lòng về con người và đất nước Việt Nam trong khoảng thời gian đó.
Sách đã được phát hảnh trên Amazon: http://www.amazon.com/dp/B00EPBTGZA

Cái chết của Stalin

HỒI KÝ KHRUSEV

Nguyễn Học

 (dịch từ bản tiếng Nga)
Trích
Ghi chú: do convert từ bản PDF,trong bản để đọc này các số trang nhảy vào trong chính văn (xoá chưa hết) và có thể có một vài chữ nhảy sai vị trí hoặc sai dấu v,v...Người đọc xem đến thì hiểu đó là số trang chứ không phải số trong câu văn của nguyên bản. Nguồn:
Chân thành cám ơn người dịch.                                                                           Ngạn Xuyên, Hà Nội

Cái chết của Stalin
Tháng hai 1953 Stalin đột ngột ốm. Việc này xảy ra như thế nào? Tất
cả chúng tôi ở cạnh ông vào thứ bẩy. Việc này xảy ra sau Đại hội 19, khi
Stalin còn “treo” số phận Mikoian và Molotov. Tại Plenum đầu tiên sau Đại
hội, ông đề nghị thay thế Bộ chính trị, bằng Đoàn chủ tịch BCHTƯ Đảng
gồm 25 người và điểm tên nhiều người mới. Tôi và nhiều uỷ viên Bộ chính
trị rất ngạc nhiên, cái danh sách ấy được lập ra như thế nào và ai lập? Chính
Stalin cũng không biết những người đang giúp ông. Đến bây giờ tôi không
biết thực chất. Hỏi Malenkov, ông trả lời rằng bản thân ông không biết. Theo
tình thế ấy, Malenkov lẽ ra phải tham gia vào việc cải cách Đoàn chủ tịch,
chọn người và lên danh sách, nhưng lại không được làm. Có thể tự tay Stalin
làm? Theo một số dấu hiệu, tôi giả thiết rằng Kaganovich giúp Stalin chọn cán bộ mới. Bên trong Đoàn chủ tịch, có một Văn phòng hẹp hoạt  động.
Đoàn chủ tịch thực tế cũng không tập hợp các vấn đề, mà tất cả các vấn đề
lại do Văn phòng này giải quyết. Đây là Stalin nghĩ ra một công thức hoàn
toàn không có trong điều lệ: không có Văn phòng nào như thế tìm thấy trong
Điều lệ Đảng.
Stalin xây dựng Văn phòng Đoàn chủ tịch để làm gì? Hình như Stalin
muốn lập tức tống cổ Molotov và Mikoian, và ông làm một Đoàn chủ tịch
mở rộng, còn sau đó chọn vào Văn phòng một số nhân vật. Như ông nói, là
để lãnh  đạo linh hoạt. Và trong Đoàn Chủ tịch Văn phòng này không có
Molotov, không có Mikoian, nghĩa là “treo” họ. Tôi tin rằng giá như Stalin
sống lâu thêm một thời gian nữa, cuộc đời của cả hai Molotov và Mikoian sẽ
kết thúc một cách thê thảm. Nói chung, ngay lập tức sau Đại hội Đảng 19,
Stalin tiến hành chính sách cô lập Molotov và Mikoian, không mời họ đi đâu
cả, không  đến nhà nghỉ, không  đến nhà riêng, không  đến xem phim mà
chúng tôi trước đó thường đi cùng với nhau.
Nhưng Vorosilov được bầu vào Văn phòng Đoàn chủ tịch. Khá thú vị,
có lần chúng tôi ngồi ở chỗ Stalin vì một bản án kéo dài đã lâu, bỗng nhiên
ông nói:
- Vorosilov chui vào Văn phòng như thế nào?
Chúng tôi không nhìn vào ông, mắt đang cụp xuống. Thứ nhất, vì câu
nói “chui vào”? Sao mà Vorosilov có thể “chui vào”? Sau đó chúng tôi nói:
- Chính ông bổ nhiệm Vorosilov, và ông là được bầu.
Stalin không phát triển chủ đề này thêm nữa. Tuy nhiên tuyên bố của
ông cũng hiểu được, vì Vorosilov trước Đại hội 19, chưa lôi cuốn vào công
tác như một uỷ viên Bộ chính trị: ông không tham gia các phiên họp, không
nhận tài liệu. Stalin nói với chúng tôi trong vòng hẹp rằng ông nghi
Vorosilov là điệp viên Anh. Không tưởng tượng được, tất nhiên, sự ngu ngốc
này. Nhưng ông có lần “nghi ngờ” Molotov. Tôi có mặt nhà nghỉ cuối tuần ở
Stalin tại Novo Afon. Và bỗng nhiên trong  đầu ông lởn vởn ý nghĩ rằng
Molotov là điệp viên của đế quốc Mỹ, bán mình cho Mỹ, vì rằng năm 1945
sang Mỹ bàn về Liên Hiệp Quốc đi trên toa xe hoả đặc biệt sang trọng. Nghĩa
là, có toa riêng, như thế là bị bán rồi! Chúng tôi giải thích là Molotov không
thể nào có một toa xe riêng nào cả, ở Mỹ các toa xe thuộc về các hãng xe lửa
tư nhân. Đấy, đầu óc mụ mị của Stalin trong những tháng cuối cùng của cuộc
đời.  
Và có lần vào thứ bẩy ông gọi chúng tôi vào Kreml. Ông đích thân
mời tôi, Malenkov, Beria và Bulganin. Chúng tôi đến. Ông nói:
- Chúng ta xem phim.
Chúng tôi xem. Sau đó ông lại nói:
- Đi thôi, chúng ta sẽ ăn ở một nhà nghỉ gần.
Chúng tôi đén đó, ăn tối. Bữa ăn kéo dài. Stalin gọi những bữa ăn tối
như thế, một bữa ăn rất muộn là “bữa trưa”. Chúng tôi ăn xong, có lẽ, 5 hoặc
6 giờ sáng. Thời gian bình thường, khi kết thúc “bữa trưa”.
Stalin rất vui vẻ, có mối thiện cảm rất tốt về tinh thần. Không ai
chứng minh rằng có thể xảy ra một điều bất ngờ gì đó. Chúng tôi từ giã và ra
về.
Chúng tôi ra chỗ treo áo, Stalin, như thường lệ, đi đến chỗ chúng tôi.
Ông hay đùa, giơ tay, những ngón tay thọc vào bụng tôi, gọi Mikita. Khi nào
ông có mối thiện cảm tốt về tinh thần, ông luôn luôn gọi tôi theo tiếng
Ukraina là Mikita. Chúng tôi cũng ra về trong tâm trạng tốt, vì rằng không
xảy ra cái gì xấu trong bữa ăn, mà không phải bữa ăn nào cũng được kết thúc
tốt đẹp như thế này. Chúng tôi ai nấy về nhà. Tôi chờ đợi, vì sáng mai là
ngày nghỉ, Stalin nhất định gọi chúng tôi, vì thế cả ngày tôi không dám ăn,
nghĩ có thể là ông lại mời sớm hơn? Sau đó tôi ăn qua loa. Không và vẫn
không có chuông! Tôi không tin là ngày nghỉ có thể uổng phí thế này, điều
gần như ít xảy ra. Nhưng không! Cũng đã muộn, tôi cởi quần áo, chui lên
giường.
Malenkov bỗng nhiên gọi tôi:
- Một thằng nhóc ở chỗ Stalin (ông nói tên), nhân viên Cheka, vừa gọi
đến cho tôi và họ băn khoăn nói rằng dường như một điều gì đó xảy ra với
Stalin. Phải nhanh chóng đến đó. Tôi gọi cho anh và  đã báo cho Beria và
Bulganin. Đến thẳng đó nhé.
Lúc ấy, tôi cho gọi xe. Xe của tôi đang ở nhà nghỉ cuối tuần. Tôi mặc
nhanh quần áo, đi ngay đến đó, mất chừng 15 phút. Chúng tôi đã quy ước với
nhau là không đi vào chỗ Stalin, mà đến trực ban. Chúng tôi rẽ vào, hỏi:
- Có chuyện gì thế?
Họ trả lời:  
- Bình thường  đồng chí Stalin vào thời gian 11 giờ, nhất  định gọi
mang trà cho ông. Có lúc thì ông đòi món ăn. Bây giờ không thấy điều này.
Chúng tôi cử  đi bà Matrena Petrovna người  đi thám thính, bà ta là
người hầu phòng, một phụ nữ không còn trẻ và nhiều năm phục vụ ở chỗ
Stalin, ít hiểu biết, nhưng là một phụ nữ trung thành với ông.
Nhân viên Cheka nói với chúng tôi rằng họ cũng đã cử bà đến đó xem
tình thình ra sao. Bà kể là đồng chí Stalin nằm ở trên sàn, ngủ, còn dưới ông
có nước. Nhân viên Cheka đỡ ông dậy, đặt ông lên đi văng ở phòng làm việc
nhỏ. Ở ấy có một phòng làm việc nhỏ và một phòng làm việc lớn. Stalin nằm
ở sàn phòng làm việc lớn. Tiếp theo họ đặt ông lên giường, đi qua phòng làm
việc, nơi ông trượt ngã bị ướt. Khi đó họ kể cho chúng tôi cũng có lần xảy ra
như thế như thế và bây giờ ông dường như  đang ngủ, chúng tôi cho rằng
không có lợi chúng tôi xuất hiện ở chỗ ông và ghi lại sự có mặt của mình,
nhìn thấy ông ở đó trong tình thế không đẹp như thế này. Chúng tôi trở về
nhà.
Một lúc sau, tôi lại nghe chuông. Một lần nữa, Malenkov gọi:
- Thằng nhóc ở chỗ đồng chí Stalin lại gọi điện nói rằng một điều gì
đó với ông không phải như thế. Mặc dù Matrena Petrovna cũng nói rằng ông
ngủ ngon, nhưng đây là một giấc ngủ không bình thường. Phải đến đó một
lần nữa đi.
Chúng tôi thoả thuận rằng Malenkov gọi tất cả các uỷ viên Văn
phòng, kể cả Vorosilov và Kaganovich là những người không có mặt trong
bữa ăn và không có đến đến nhà nghỉ lần đầu. chúng tôi cũng thoả thuận gọi
cả bác sỹ. Chúng tôi đến chỗ trực ban. Có mặt Kaganovich, Vorosilov, bác
sỹ. Trong số bác sỹ, tôi nhớ tên giáo sư tim mạch nổi tiếng Lukomski.
Nhưng cùng với ông còn có cả những nhân viên y tế mà tôi không nhớ tên.
Chúng tôi vào phòng. Stalin nằm trên đi văng. Chúng tôi nói với bác sỹ để họ
bắt đầu công việc của mình và kiểm traл tình trạng đồng chí Stalin. Người
đầu tiên là Lukomski, rất cẩn thận, và tôi hiểu ông. Ông sờ vào tay Stalin,
như là sờ cục sắt nóng, thậm chí tay giật giật. Beria thô lỗ nói:
- Ông là bác sỹ, phải biết làm chứ?
Lukomski tuyên bố rằng tay phải Stalin không hoạt động, tê liệt chân
trái, và không nói được. Tình huống thật nặng nề. Lúc ấy người ta lập tức
rạch quần áo Stalin, mặc quần áo mới và đặt ông lên đi văng ở phòng lớn,
nơi ông thường ngủ và có nhiều không khí hơn. Lúc đó chúng tôi quyết định   289
đặt trực ban bác sỹ bên cạnh với ông. Chúng tôi, các uỷ viên Văn phòng
Đoàn chủ tịch, cũng phải thường xuyên trực. Sắp xếp như thế này: Beria và
Malenkov hai người trực, Kaganovich và Vorosilov, tôi và Bulganin. Nhưng
“chủ lực” là Malenkov và Beria. Họ họ trực sáng, chúng tôi với Bulganin
trực đêm. Tôi rất lo lắng và, thú nhận rằng tôi tiếc là có thể mất Stalin, người
đang nằm trạng thái nguy kịch. Bác sỹ nói rằng mắc chứng bệnh như thế này
hầu như không ai có thể quay lại làm việc. Người ta có thể còn sống nhưng
không còn khả năng làm việc, có lẽ phần nhiều những căn bệnh như thế này
không tiếp tục, mà kết thúc bằng thảm hoạ.
Chúng tôi thấy rằng Stalin nằm bất tỉnh: không biết ông ở trạng thái
nào. Người ta cho ông ăn bằng từng thìa nước dùng và trà đường. Các bác sỹ
đứng ở đó. Họ lấy nước tiểu của ông, ông vẫn nằm bất động. Tôi nhận xét
rằng khi hút nước tiểu ông cố gắng như được che chở, cảm giác không lanh
lợi. Nghĩa là, có biết một điều gì đó. Một hôm Stalin hơi tỉnh. Nét mặt ông
thể hiện rõ điều này. Nhưng ông không thể nói, cất tay trái và bắt đầu chỉ lên
trần, rằng chỉ xuống đất, chỉ vào tường. Môi ông mấp máy tựa như cười. Sau
đó bắt đầu nắm tay chúng tôi. Tôi chìa tay mình cho ông và ông chìa tay trái,
tay phải không cử động. Bằng việc nắm tay, ông truyền cảm giác của mình.
Lúc đó tôi nói:
- Ông biết, vì sao ông chìa tay cho chúng tôi? Trên tường treo một
bức tranh, được cắt từ tạp chí “Ngọn lửa nhỏ”, in lại bức tranh của hoạ sỹ
này. Trong bức tranh có một cô gái đang cho thiên thần nhỏ bú một chai sữa.
Nhưng chúng tôi cho đồng chí của Stalin ăn bằng thìa, và ông, có lẽ chỉ ngón
tay lên bức tranh, mỉm cười: này, hãy xem, tôi trong trạng thái này cũng
giống như những thiên thần nhỏ.
Ngay khi Stalin trút hơi thở cuối cùng, Beria công nhiên sùng sục
những hành động độc ác chống Stalin. Beria chửi rủa ông, và nhạo báng ông.
Đơn giản là không thể nghe ông được! Cũng hay, vả lại, ngay lúc Stalin có
được cảm giác và hiểu có thể khỏi bệnh, Beria sán lại ông, đặt tay lên đầu
gối, lắc tay ông và bắt đầu hôn tay ông. Khi Stalin lại hôn mê và nhắm mắt,
Beria cất bước và nhỏ ra sàn. Chân dung của Beria đấy! Quỷ quyệt thậm chí
trong quan hệ với Stalin, người mà Beria từng như tán tụng và sùng bái.
Đến phiên trực của tôi với Bulganin. Chúng tôi vào ban ngày cùng với
ông  đến chỗ Stalin, khi có các giáo sư, và chúng tôi trực  đêm. Tôi với   290
Bulganin khi đó là khá cởi mở hơn so với những người khác, tôi tin ý nghĩ
cởi mở nhất của ông và nói:
- Nicolai Aleksandrоvich, thấy chưa, bây giờ chúng ta ở trong tình thế
là Stalin chẳng bao lâu sẽ chết. Ông chắc là không qua được đâu. Và bác sỹ
nói rằng ông không thể sống được đâu. Anh biết, Beria nhắm chức vụ nào
cho mình?
- Chức nào?
- Hắn sẽ lấy chức Bộ trưởng an ninh quốc gia (lúc ấy Bộ an ninh quốc
gia và nội vụ đã tách ra). Chúng ta không thể còn cách nào thông qua việc
này. Nếu Beria nhận Bộ an ninh quốc gia - điều này sẽ là bắt đầu sự kết thúc
của chúng ta. Hắn sẽ lấy chức vụ này để tiêu diệt tất cả chúng ta. Và hắn sẽ
làm điều này!
Bulganin đồng ý với tôi. Và chúng tôi bàn bạc sẽ hành động như thế
nào. Tôi nói với ông:
- Tôi sẽ nói chuyện với Malenkov. Tôi nghĩ rằng Malenkov cũng có ý
nghĩ, ông cần phải hiểu phải một điều gì đó làm, nếu khác đi sẽ là thảm hoạ
đối với Đảng.
Vấn đề này đụng chạm không những đối với chúng ta, mà còn tất cả
đất nước, mặc dù và tất nhiên chúng ta không muốn rơi vào lưỡi dao của
Beria. Sẽ quay lại thời kỳ 1937-1938, có thể thậm chí tệ hơn. Tôi còn một
ngờ vực: tôi không coi Beria là một người cộng sản và nghĩ rằng hắn đơn
giản chui qua vao Đảng. У tôi lờ mờ nhận ra lời của Kaminski rằng hắn là
điệp viên nước khác, đây là con sói đội lốt cừu, tạo tín nhiệm với Stalin và
chiến chức vụ cao. Chính Stalin cũng kéo hắn. Tôi cảm thấy rằng có ngày
chính Stalin lại sợ Beria.
Có một sự cố đụng đến tôi theo ý nghĩ tương tự, tôi muốn kể hết về
nó. Có lần chúng tôi ngồi ở Stalin. Bỗng nhiên ông nhìn vào Beria và nói:
- Tại sao bây giờ tôi những người quanh hoàn toàn người Gruzia? Tại
sao lại như vậy?
Beria nói:
- Đây là những người trung thành và được ông tin.
- Nhưng cớ gì, đây là những người Gruzia được tin và trung thành?
Chả lẽ người Nga không trung thành và không được tin cậy sao? Dẹp đi!   291
Và thời điểm ấy người ta bỏ đi những người này. Beria có khả năng
qua tay chân của mình làm với Stalin những gì mà hắn  đã tiến hành với
người khác theo chỉ thị của Stalin: tiêu diệt đầu độc và v.v... Vì thế Stalin, có
lẽ (lập luận thay cho ông) cho rằng Beria có khả năng làm những điều như
thế với ông. Nghĩa là, phải dẹp đám người hầu cận, qua đó Beria có thể thâm
nhập vào buồng ngủ và nhà bếp.
Nhưng vì tuổi tác đã già, Stalin không hiểu Dân uỷ an ninh quốc gia
khi đó là Abakumov báo cáo ông mọi vấn đề sau khi Abakumov trình Beria
và nhận những chỉ dẫn nói như thế nào cho Stalin. Stalin nghĩ rằng
Abakumov sắp xếp những người mới và Abakumov làm điều này để Stalin
sai bảo. Theo mặt này thì “vụ án mingrel” bị xổ tung.
Khi  đó Stalin áp  đặt quyết  định (và nó  được  được công bố), rằng
những người mingrel liên quan với Thổ nhĩ Kỳ trong số họ có những nhân
vật nhắm hướng Thổ Nhĩ Kỳ. Tất nhiên chuyện vớ vẩn! Tôi cho rằng có xảy
ra một hành động của Stalin nhằm chống Beria, vì rằng Beria - là minggrel.
Như thế, Stalin cũng chuẩn bị đòn chống Beria. Lúc đó nhiều người bị bắt,
nhưng Beria khôn khéo quay lại: chui vào “con dao của Stalin” và Beria bắt
đầu trấn áp những người mingrel. Những người nghèo tội nghiệp. Người ta
lôi họ lên đoạn đầu đài như lôi những con cừu.
Có những sự thật chứng minh sự phản bội của Beria, về sự không tin
cậy của Stalin đối với Beria. Như vậy, tôi đã nói tất cả với Bulganin, kết thúc
buổi trực, và tôi về nhà.
Muốn ngủ bù, vì rằng lâu không ngủ tại phiên trực. Bị mất ngủ và đau
chân. Chỉ có chân chân đau, nhưng không ngủ được, nghe chuông. Malenkov
nói:
- Đến ngay, Stalin xấu đi rồi. Đi ngay thôi!
Tôi gọi xe. Quả là, Stalin ở trong trạng thái xấu. Những người khác
lục tục kéo đến. Mọi người thấy rằng Stalin đang chết. Các bác sỹ nói với
chúng tôi rằng ông bắt đầu hấp hối. Ông ngừng thở. Làm thở nhân tạo cho
ông. Xuất hiện một người đàn ông to cao, bắt đầu nén bóp ngực ông, thực
hiện thao tác để giúp ông thở. Tôi thú thực rằng toi rất thương Stalin, anh ta
làm ông đau. Và tôi nói:
- Nghe  đây, thôi  đi. Người ta chết rồi. Anh còn muốn cái gì nữa?
Không thể làm ông sống lại được.   292
Stalin chết, nhưng chính là đau lòng nhìn người ta làm đau ông. Hô
hấp nhân tạo ngừng lại.
Ngay khi Stalin chết, Beria ngay lập tức vào xe của mình từ “nhà nghỉ
gần” và chạy vụt về Moskva.
Chúng tôi quyết định gọi đến đây tất cả các uỷ viên Văn phòng hoặc,
nếu  được, tất cả các uỷ viên Đoàn chủ tịch BCHTƯ Đảng. Chính xác tôi
không nhớ. Trong lúc họ chưa đến, Malenkov đi đi lại lại trong phòng, vẻ, lo
lắng. Tôi quyết định nói chuyện với ông:
- Egor, tôi nói - tôi phải nói chuyện với anh.
- Về cái gì? - Malenkov lạnh lùng hỏi lại.
- Stalin chết. Chúng ta sẽ sống tiếp như thế nào?
- Nói gì bây giờ? Triệu tập mọi người lại, chúng tôi sẽ nói. Để làm
điều này, chúng ta triệu tập nhau lại.
Dường như  đây là câu trả lời phô diễn. Nhưng tôi hiểu theo nghĩa
khác, hiểu rằng mọi vấn đề đã được Malenkov với Beria dự kiến, và đã được
thảo luận từ lâu. 
- Thôi được - tôi trả lời - sau này chúng ta sẽ nói chuyện.
Mọi người tụ hợp. Họ cũng nhìn thấy Stalin đã chết. Cả Svetlana cũng
đến. Tôi gặp cô. Khi gặp, cô rất bồn chồn và khóc, không thể thể kìm được.
Tôi thật sự thương Stalin, các con của ông, từ đáy lòng tôi than khóc cái chết
của ông, lo lắng cho tương lai đất nước, cho Đảng. Cảm thấy rằng bây giờ
Beria bắt đầu chỉ huy tất cả mọi người. Tiếp tục bắt đầu cái vòng được chuẩn
bị bởi những tên đao phủ, những tên sát nhân này. Và có sự phân bố “ghế”.
Beria đề nghị bổ nhiệm Malenkov làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
Liên Xô, và Malenkov thôi chức vụ Bí thư BCHTƯ Đảng. Malenkov đề nghị
chuẩn y phó thứ nhất của mình là Beria và chia đôi hai Bộ, thành Bộ an ninh
quốc gia và Bộ nội vụ, trong Bộ nội vụ, Beria bổ nhiệm Bộ trưởng. Tôi im
lặng. Bulganin cũng inm lặng. Lúc  ấy tôi sợ rằng Bulganin nhảy ra không
đúng lúc, vì rằng không được lộ diện sớm quá. Tôi cũng thấy tâm trạng của
những người còn lại. Nếu như tôi và Bulganin nói rằng chúng tôi chống, thì
bằng đa số phiếu họ sẽ buộc tội chúng tôi là người phá hoại tổ chức, là khi
xác Stalin chưa nguội mà chúng tôi đấu đá giành chức vụ. Vâng, tất cả xảy ra
theo hướng này hướng, như tôi nghĩ trước.   293
Molotov cũng bổ nhiệm phó thứ nhất Hội  đồng Bộ trưởng.
Kaganovich - là phó. Vorosilov đề nghị bầu Chủ tịch Đoàn chủ tịch xô viết
tối cao Liên Xô, cách chức Svernik. Beria thể hiện rất láo xược với Svernik:
nói rằng dân trong nước nói chung không ai biết ông. Tôi thấy lộ diện chi tiết
kế hoạch của Beria, biến Vorosilov thành người soạn thảo các quyết định mà
Beria làm, khi cối xay thịt của hắn bắt đầu làm việc. Beria đề nghị tôi thôi
chức Bí thư Thành uỷ Moskva để tôi tập trung những hoạt động của mình
vào công tác BCHTƯ Đảng. Chúng tôi tiến hành cả những bổ nhiệm khác.
Đưa ra nghi lễ chôn cất và nghi thức thông báo nhân dân về cái chết của
Stalin. Như thế chúng tôi, những người thừa kế của Stalin khởi  đầu hoạt
động độc lập của mình điều khiển Liên Xô.
Có một thoả thuận: hai người lập chương trình nghị sự phiên họp
Đoàn chủ tịch BCHTƯ - Malenkov và Khrusevу. Malenkov chủ toạ phiên
họp, nhưng tôi chỉ nhận tham gia lập chương trình nghị sự. Beria vơ lấy
nhiều quyền lực, sự trơ trẽn của ông tăng lên. Lúc đó xảy ra va chạm đầu tiên
của các uỷ viên Đoàn chủ tịch BCHTƯ với Beria và Malenkov. Đoàn chủ
tịch, về thành phần bị thay đổi. Chúng tôi quay trở lại nhóm hẹp các uỷ viên,
còn Văn phòng do Stalin lập ra tại Plenum sau Đại hội 19, chúng tôi huỷ bỏ.
Beria và Malenkov đề nghị bãi bỏ một nghị quyết từ thời Stalinе về
xây dựng CNXH ở CHDC Đức. Họ đọc tài liệu cần thiết, nhưng không đưa
cho nó vào tay chúng tôi, mặc dù ở Beria có văn bản viết. Beria đọc nó nhân
danh bản thân và Malenkov. Molotov phát biểu  đầu tiên. Ông kiên quyết
chống lại đề nghị đó và lập luận rất hay tại sao ông phản đối. Tôi mừng là
Molotov phát biểu dũng cảm và có căn cứ. Ông nói rằng chúng tôi không thể
làm việc này; rằng đây là một sự bỏ vị trí; rằng từ bỏ xây dựng CNXH ở
CHDC Đức - nghĩa là làm mất phương hướng sức mạnh của Đảng ở phương
Đông và không những ở Đông Đức, mà còn thủ tiêu triển vọng, rằng đây là
đầu hàng trước người Mỹ.
Tôi hoàn toàn  đồng ý với Molotov và ngay lập tức cũng phát biểu,
ủng hộ Molotov. Sau tôi nói với Bulganin đang ngồi bên cạnh tôi. Sau đó các
uỷ viên còn lại của Đoàn chủ tịch phát biểu. Và Pervukhin, và Saburov, và
Kaganovich phát biểu chống đề nghị của Beria - Malenkov đối với CHDC
Đức. Lúc đó Beria với Malenkov rút tài liệu của mình. Chúng tôi thậm chí bỏ
phiếu và không chép vào biên bản kết quả thảo luận. Tựa như vấn đề chưa hề
có. Lúc ấy là mánh khoé, thủ đoạn.   294
Chúng tôi ra về sau phiên họp, nhưng về mặt tinh thần vẫn nóng bỏng.
Làm sao có thể đưa một đề nghị về vấn đề quan trọng như thế này? Tôi cho
rằng đây là quan điểm chống cộng. Chúng tôi hiểu, tất nhiên, Beria sử dụng
Malenkov, còn Malenkov, như con bê, theo đuôi với Beria trong việc này.
Kết thúc phiên họp, bộ ba ra về từ phòng họp - Malenkov, Beria và tôi.
Nhưng không tranh cãi gì cả. Ngay hôm đó tôi gặp Molotov, và ông nói với
tôi:
- Tôi rất hài lòng, ông có quan điểm như vậy. Tôi, thừa nhận, tôi bất
ngờ, vì rằng tôi thấy ông luôn luôn với bộ ba này và cho rằng ông cũng có
cùng quan điểm thống nhất với Malenkov và Beria, tôi nghĩ rằng Khrusev, có
lẽ, biết trước vấn đề này. Rõ ràng ông có quan điểm vững chắc, làm tôi rất
hài lòng.
Và ông đề nghị tôi gọi ông là “anh”.
Phần mình, tôi nói rằng cũng hài lòng rằng Viacheslav Mikhailovich
có quan điểm đúng như thế.
Một thời gian sau, Bulganin gọi cho tôi:
- Người ta vẫn chưa gọi điện cho anh à?
Tôi lập tức hiểu ý định của ông mà không cần giải thích thêm:
- Không, người ta đã không gọi điện. Cũng sẽ không gọi điện cho tôi.
- Còn tôi người ta cũng đã gọi.
- Và anh trả lời gì?
- Họ nói rằng tôi nghĩ thêm một lần nữa: liệu tôi có muốn giữ chức Bộ
trưởng quốc phòng?
- Ai gọi điện cho anh?
- Ban đầu một người, sau đó người kia. Cả hai đã gọi.
- Không, họ không gọi tôi, vì họ biết rằng chuông của họ có thể làm
hại họ.
Sau đó, từ phía Beria quan hệ với tôi vẻ bề ngoài tựa như không thay
đổi. Nhưng tôi hiểu rằng  đấy chỉ là mánh khoé của “dân châu Á”. Trong
thuật ngữ này, chúng tôi sự đóng góp vào tư duy là con người nghĩ một đằng
nói một nẻo “nói dzậy những không phải dzậy”. Tôi hiểu rằng Beria tiến   295
hành chính sách hai mặt, chơi với tôi, làm tôi yên tâm, còn hắn chờ thời điểm
sẽ trấn áp tôi trước tiên, khi có thời gian thích.
Tại phiên họp Beria đưa đề nghị như thế này:
- Bởi vì ở nhiều người bị kết án hoặc bị đi đày đã kết thúc thời hạn tù
hoặc đi đày và họ cần được quay về nhơi họ cư trú trước đây, tôi đề nghị
chấp nhận quyết định là không ai có quyền quay về nếu thiếu quyết định của
Bộ trưởng Bộ nội vụ và phải sống trong khu vực, mà Bộ nội vụ nói trước.
Tôi nổi giận và phát biểu chống, nói:
- Tôi thẳng thừng phản đối, đây là sự chuyên quyền. Sự chuyên quyền
trước đây từng hoành hành. Những người này bị bắt bởi An ninh quốc gia,
tiến hành điều tra cũng là An ninh quốc gia và kết án cũng là An ninh quốc
gia. “Bộ ba”,  được xây dựng trong An ninh quốc gia, tạo ra cái gì mà họ
muốn. Không điều tra viên, không công tố viên, không toà - chẳng có cái gì
cả, đơn giản là tón người ta và giết. Giờ đây những người đã quá hạn bị trừng
phạt thậm chí theo kết án của “bộ ba”, lại bị tước bỏ tất cả, vẫn còn là phạm
nhân, và chỗ cư trú của họ lại do Bộ nội vụ đưa ra. Điều này là không được.
Những người khác  ủng hộ tôi. Beria lại khôn khéo rút  đề nghị của
mình. Malenkov ghi biên bản, và vấn đề này, một lần nữa, không có trong
biên bản.
Có những tín hiệu khá nghiêm trọng từ phía Beria. Sau đó Beria lại
đưa ra một đề nghị có vẻ tự do: thay đổi những quyết định (thay số quyết
định và thời gian), dự tính trước các vụ bắt bớ và kết án những người bị “bộ
ba” bắt thời hạn đến 20 tù hoặc lưu đày. Beria đề nghị giảm thời hạn xuống
dưới 10 năm. Tỏ ra là một đề nghị nhân hậu. Nhưng tôi hiểu đúng Beria và
nói:
- Tôi thẳng thừng chống điều này, vì rằng phải xem xét lại tất cả hệ
thống bắt bớ, toà và thực tế điều tra. Đấy là sự chuyên quyền. Nhưng vấn đề,
khép tội 20 hoặc 10 năm tù, không có giá trị nào cả, vì rằng có thể ban đầu
khép tội 10 năm, sau này thêm 10 năm nữa và lại thêm 10 năm nữa. Có
những việc như thế. Chúng tôi có những tài liệu, nêu rõ các phương pháp
tương tự đã được thi hành. Vì thế tôi thẳng thừng chống.
Và Beria lại rút đề nghị của mình.
Như thế tôi tích cực phát biểu chống Beria về hai vấn đề. Vấn đề đầu
tiên là ủng hộ lời phát biểu Molotov, vấn đề thứ hai, những người khác ủng   296
hộ tôi. Như thế, tôi không còn nghi ngờ, Beria bây giờ hiểu đúng về tôi và
cũng hoạch định những “biện pháp” của mình, vì rằng ông không thể giảng
hoà với ai cản đường ông. Điều kiện công việc xảy ra như thế. Sau đó Beria
có một đề nghị, như nhử mồi? Có lần chúng tôi đi, dạo chơi, và Beria nói ý
nghĩ của mình:
- Tất cả chúng ta đi dưới một bầu trời, như đã nói trong thời kỳ cũ,
chúng tôi đang già đi, mọi thứ có thể xảy ra ở mỗi một người trong chúng ta,
chúng ta còn có gia đình. Phải nghĩ về tuổi già, và về gia đình của mình. Tôi
đề nghị xây dựng những nhà nghỉ cho quan chức mà những nhà nghỉ này
được nhà nước chuyển thành sở hữu riêng cho những ai xây dựng chúng.
Tôi cũng chẳng ngạc nhiên cách suy nghĩ này. Nó hoàn toàn gắn liền
với kiểu cách Beria. Và tôi tin tất cả điều này được nói nhằm mục đích khiêu
khích. Nhưng Beria tiếp tục:
- Tôi  đề nghị xây dựng những nhà nghỉ này không phải  ở ngoại ô
Moskva, mà là ở Sukhumi. Ái chà, thành phố này đẹp như thế nào!
Và Beria tả thành phố đẹp lạ lùng như thế nào. 
- Nhưng tôi đề nghị xây dựng không phải ở ngoại ô Sukhumi. Tại sao
cứ phải ra khỏi thành phố? Phải giải phóng một khoảnh đất rộng ở trung tâm
thành phố, làm một công viên, trồng đào.
Và Beria bắt đầu bốc lên, nào là trồng ở đó loại đào gì, nho nào. Sau
đó Beria tiếp tục phát triển ý nghĩ của mình.
Beria có tính toán kỹ càng: cán bộ nào cần, nhân viên nào cần. Ông ta
đặt tất cả lên bàn chân trần và rộng lớn. 
- Dự án và xây dựng do Bộ nội vụ tiến hành. Trước hết theo tôi, phải
xây dựng cho Egor (nghĩa là cho Malenkov), sau  đó là anh, Molotov,
Vorosilov, và sau đó là những người khác.
Tôi im lặng nghe, chừng nào chưa phản đối. Sau đó tôi nói:
- Cần phải nghĩ đã.
Kết thúc cuộc nói chuyện, bộ ba đến nhà nghỉ. Hai người ngồi chung
một xe. Đến gần chỗ rẽ vào đại lộ Rulevsk. Ở đó tôi với Malenkov phải đi
tiếp tiếp sang trái, còn Beria - đi thẳng. Tôi ngồi với Malenkov trong một xe.
Tôi nói với ông:
- Anh xem thế nào? Đây có phải là khiêu khích đơn thuần không.   297
- Vì sao mà anh dây vào những lời của ông ấy nhỉ?
- Tôi nhìn xuyên qua nó, đây là khiêu khích. Chẳng có lẽ có thể làm
như thế? Bây giờ không phản đối được, cứ để ông ta chúi mũi vào chuyện
này và nghĩ rằng, mưu đồ của ông không ai hiểu.
Và Beria bắt đầu thúc đẩy ý tưởng của mình. Cho người làm thiết kế.
Khi thiết kế xong, mời chúng tôi xem thiết kế và đề nghị bắt đầu xây dựng.
Báo cáo về vấn đề này là một kiến trúc sư nổi tiếng. Bây giờ đồng chí này là
người chỉ huy xây dựng nhà máy điện nguyên tử. Tôi biết ông từ trước chiến
tranh và ở các sự kiện trong chiến tranh. Beria coi ông là nhân vật gần gũi,
hoặc ông làm việc ở chỗ Beria và thực hiện cái gì mà Beria nói. Sau cuộc
gặp gỡ này, tôi nói Malenkov:
- Lấy đi. Beria có nhà nghỉ. Ông nói với chúng tôi là cho người ta xây
dựng, nhưng ông ấy không xây dựng cho mình. Mà xây cho anh, và làm điều
này để làm mất uy tín anh đấy.
- Không, không, anh nói gì thế!
Đối với tôi sự thật là Beria đề nghị xây dựng nhà nghỉ riêng dứt khoát
ở Sukhumi. Trong  đồ án có  địa  điểm  được hoạch  định, nơi nhà nghỉ của
Malenkov sẽ được xây cất. Theo kế hoạch, thấy trước là việc đuổi một số
lượng người dân ra khỏi chỗ họ  đang sống    đó. Bộ trưởng báo cáo cho
chúng tôi rằng phải đuổi một lượng lớn dân và việc xây dựng như thế quả
thật là một tai hoạ. Người ta nói đùa, ở đó bao nhiêu nhà riêng của họ, bao
thế hệ sinh sống ở đó từ lâu, và bỗng nhiên lại đuổi họ đi?
Beria giải thích là đã được chọn để Malenkov từ nhà nghỉ của mình
có thể nhìn thấy Biển Đen quan sát được Thổ Nhĩ Kỳ. Beria thậm chí đùa:
- Bờ Thổ Nhĩ Kỳ nằm ngang chân trời, rất đẹp.
Nhưng khi mọi người ra về và chúng tôi còn lại chỉ hai người với
nhau, tôi nói với Malenkov:
- Chẳng lẽ anh không hiểu Beria muốn gì? Ông  ấy muốn tàn sát,
quẳng người ta đi, phá huỷ những tổ ấm của họ và xây dựng một cung điện ở
đó cho anh. Tất cả sẽ có hàng rào vây quanh. Bắt đầu căm tức sôi sục trong
thành phố. Mọi người sẽ chú ý rằng cái này xây cho ai? Và khi tất cả xong,
anh đến đó, và mọi người nhìn thấy trong xe là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
Liên Xô; tất cả những việc tàn phá,  đuổi dân hoá ra  được làm vì anh. Sự   298
phẫn nộ xuất hiện không những chỉ  ở Sukhumi, mà bó còn sang các nơi
khác. Nhưng Beria cần điều này. Anh khi đó lại tự yêu cầu từ chức.
Malenkov lưỡng lự.
Beria cũng nói về nhà nghỉ với cả Molotov. Tôi không nghĩ rằng
Molotov làm như thế, nhưng Molotov bỗng nhiên đồng ý. Ông nói rằng cứ
xây cho ông nhưng không phải ở Kavkaz, mà ở ngoại ô Moskva. Tôi ngạc
nhiên. Tôi nghĩ là Molotov nổi cáu và phản đối. Tôi không biết điều này xảy
ra như thế nào. 
Như vậy không ai tỏ ra tích cực chống, cỗ máy bắt đầu chạy. Thiết kế
xong, Beria xem. Sau công việc, chúng tôi tới gặp Beria, và ông chỉ cho tôi
bản thiết kế nhà nghỉ của tôi. 
- Ôi, xin nghe nhé, căn nhà tốt làm sao, đẹp thế nào.
Tôi nói với ông:
- Đúng, tôi rất thích.
- Cứ cầm bản thiết kế về nhà.
Tôi mang bản thiết kế về nhà và, thú thực là không biết nhét nó vào
đâu. Vợ tôi, Nina Petrovna, nói với tôi:
- Anh có cái gì đấy?
Tôi thú thực với bà. Vợ tôi nổi giận:
- Bậy bạ quá chừng!
Tôi không giải thích một điều gì cho Nina Petrovna và chỉ nói:
- Thôi mà, chúng ta xếp nó lại, nói chuyện sau.
Như vậy, vụ việc xoay vần. Beria đẩy mạnh xây dựng, nhưng trước
khi ông bị bắt thực chất cũng chưa làm được gì cả. Khi ông bị bắt, chúng tôi
lập tức bãi bỏ tất cả. Nhưng bản thiết kế nhà nghỉ, thời gian dài lăn đi lăn lại
ở đâu đó trong nhà tôi. Lúc đó Beria tăng cường những hoạt động điên cuồng
can thiệp vào sinh hoạt các tổ chức Đảng. Beria chế tạo tài liệu về tình hình
công việc trong lãnh  đạo Ukrainaе. Đòn  đầu tiên mà ong nghĩ ra là quyết
định giáng vào tổ chức Đảng Ukraina. Tôi nghĩ ông triển khai vụ này để lôi
người của tôi. Ông chuẩn bị những tài liệu cần thiết thông qua Bộ nội vụ
CHXHCN Ukraina và bắt đầu lôi kéo tỉnh trưởng công an trong việc chuẩn
bị vụ việc. Tỉnh trưởng công an ở Lvov Strokach. Giờ đã chết. Đó là một   299
người cộng sản chân chính và một quân nhân tốt. Trước chiến tranh ông là
trung tá, tư lệnh biên phòng. Trong thời gian chiến tranh là tham mưu trưởng
du kích Ukraina và luôn luôn báo cáo tôi về tình hình tại vùng lãnh thổ bị kẻ
thù chiếm đóng. Tôi thấy ông là người trung thực và đứng đắn. Sau chiến
tranh ông được bổ nhiệm toàn quyền Bộ nội vụ tỉnh Lvov, nơi bọn chống đối
hoạt động.
Sau này chúng tôi biết rằng khi đó Bộ trưởng Bộ nội vụ Ukraina yêu
cầu cầu ông thu thập những tài liệu tư liệu bôi nhọ thanh danh các cán bộ
Đảng, thì Strokach nói rằng đây không phải là việc của ông, mà là Bí thư tỉnh
uỷ, cứ gọi đến đó. Lúc đó Beria gọi cho Strokach và nói rằng nếu ông cứ làm
theo ý mình, thì sẽ bị biến thành bụi ở trại tập trung. Nhưng năm 1953, chúng
tôi ban đầu chẳng biết một cái gì cả, mặc dù cảm thấy rằng đang có cuộc tấn
công vào Đảng, bắt nói phải khuất phục Bộ nội vụ. Chúng tôi bàn cãi tại
BCHTƯ ĐCSLX về bản danh sách của Beria về cán bộ lãnh đạo Ukraina.
Do  đó, thông qua quyết  định cách chức Melnikov khỏi chức vụ Bí thư
BCHTƯ ĐCS Ukraina, thay vào đó Kirichenko. Ý tưởng Beria là ở chỗ các
cán bộ địa phương, dân tộc Ukraina dường như không đưa vào ban lãnh đạo,
không điều động họ, và đề nghị đưa Korneychuk vào Đoàn chủ tịch BCHTƯ
ĐCS Ukraina. Việc này được làm tại Plenum. Sau khi Beria bị bắt, các đồng
chí kể cho tôi nghe Plenum tiến hành ra sao. Korheychuk hiểu không đúng,
vì sao những ứng cử viên của ông không  được  điều  động, và bắt  đầu  đấu
khẩu, nói lung tung có lợi cho Beria. Ông không sáng trí, vì Beria đã nói như
thế.
Bản danh sách sau của Beria  động  đến những người Baltic, sau  đó
Belorussia. Và cũng cùng một hướngh. Bản đề nghị của Beria chẳng có gì
không đúng. BCHTƯ ĐCSLX và chính Beria trước đó đã có lớp học điều
động cán bộ dân tộc. Và chúng tôi quyết định rằng ở nước cộng hoà chức vụ
Bí thư thứ nhất BCHTƯ phải là người địa phương, không phải là người Nga
được cử từ Moskva. Nói chung Beria có xu hướng bài Nga. Ông tuyên
truyền rằng tại nơi có nhiều người Nga thì phải phong tỏa họ. Tất cả mọi
người cũng hiểu và bắt đầu đả kích không những người Nga, mà còn những
cán bộ dân tộc không đấu tranh với “thế lực” Nga. Điều này xảy ra tại nhiều
tổ chức Đảng nước cộng hoà tự trị.
Tôi nhiều lần nói với Malenkov:   300
- Chẳng lẽ anh không nhìn thất sự việc sẽ nhân rộng đi đâu à? Chúng
ta đang đi đến thảm họa. Beria thu nhặt dao đâm chúng tôi.
Malenkov nói với tôi:
- Ừ, làm gì? Tôi nhìn thấy, nhưng làm sao tham gia?
Tôi nói với ông:
- Phải chống cự, mặc dù trong hình thức thế này: anh nhìn thấy các
vấn đề mà Beria đưa ra, thường mang xu hướng chống đảng. Không được
chấp nhận chúng, mà phản đối chúng.
- Anh muốn tôi còn lại một mình hay sao? Nhưng tôi không muốn.
- Tại sao anh nghĩ chỉ còn mình anh, nếu anh bắt đầu phản đối? Anh
và tôi - cũng hai người. Bulganin, tôi tin, cũng nghĩ như vậy, vì rằng tôi đôi
lần trao đổi với ông những suy nghĩ. Những người khác cũng cùng đi với
chúng tôi, nếu chúng tôi phản  đối lập luận, từ quan  điểm. Bản thân anh
không có khả năng nói được ai. Ngay khi Beria đưa đề nghị ra, anh nhanh
chóng ủng hộ ông ta, tuyên bố: đúng, đây là đề nghị đúng, tôi “đồng ý”, ai
“chống”? Và lập tức anh cho bỏ phiếu. Nhưng anh phải tạo khả năng cho
người khác phát biểu, bằng cách ghìm mình, đừng nhảy vọt ra và anh thấy
không phải một người nghĩ đâu. Tôi tin tưởng rằng nhiều người không đồng
ý về hàng loạt vấn đề với Beria”.
Và tôi đề nghị:
- Chúng ta lập chương trình nghị sự. Đưa các vấn đề các gai góc mà
theo quan điểm của chúng ta, Beria đưa ra là không đúng, và chúng ta bắt
đầu phản đối ông ta. Tôi tin tưởng rằng chúng tôi huy động được cũng uỷ
viên Đoàn chủ tịch, và không chấp nhận cách giải quyết của Beria.
Malenkov cuối cùng cũng phải đồng ý. Tôi, thề rằng, cũng ngạc nhiên
và vui lòng. Chúng tôi cùng lập chương trình nghị sự các phiên họp Đoàn
chủ tịch BCHTƯ. Bây giờ tôi không nhớ, khi đó các vấn đề đưa ra như thế
nào, vì lâu quá rồi. Tại cuộc họp chúng tôi phát biểu lập luận “chống” về mọi
vấn đề. Những người khác cũng ủng hộ chúng tôi, và ý đồ của Beria không
được thông qua. Liền tù tì nhiều phiên họp. Ngay sau việc này, Malenkov
tìm thấy niềm tin là, té ra, với Beria có thể đấu tranh hoàn toàn bằng phương
pháp Đảng, Malenkov tỏ ra cũng có ảnh hưởng của mình giải quyết vấn đề
và phủ quyết những đề nghị, mà theo quan điểm của chúng tôi, là có hại cho
Đảng và đất nước.   301
Chúng tôi thấy rằng Beria bắt đầu đẩy mạnh các sự kiện. Ông cảm
thấy mình đứng trên các uỷ viên Đoàn chủ tịch, lên mặt và thậm chí vẻ bề
ngoài biểu thị sự lấn át của mình. Chúng tôi trải qua thời điểm rất tốt nghuy
hiểm. Tôi cho rằng cần phải nhanh tay, và nói với Malenkov rằng cần phải
nói chuyện với các uỷ viên Đoàn chủ tịch về lý do này. Hình như tại cuộc
họp không thể làm thế được, mà phải mặt đối mặt nói chuyện với từng người
một để hiểu ý nghĩ về những vấn đề cụ thể đối xử với Beria. Với Bulganin
tôi đã nói vấn đề này từ trước đây và biết ý kiến của ông. Ông đứng ở trên
cao trí và hiểu rõ sự nguy hiểm, đang đe dọa Đảng và tất cả chúng ta từ phía
Beria. Malenkov cũng đồng ý:
- Đúng, phải hành động.
Chúng tôi thỏa thuận rằng trước tiên tôi phải tới gặp và nói chuyện
với Vorosilov. Có một Uỷ ban nào đấy trong đó phải có sự tham gia của tôi
và Vorosilov. Tôi quyết định dùng tình tiết này, gọi Klimentу Efremovichу
và nói rằng muốn gặp ông nói chuyện về vấn đề gì đó. Vorosilov trả lời ông
muốn bây giờ đi cùng với tôi đến BCHTƯ. 
- Không - tôi nói - tôi đề nghị ông tiếp tôi, tôi tự thân đến ông.
Nhưng ông vật nài là ông phải đi. Cuối cùng tôi nài nỉ theo ý mình.
Chúng tôi quy ước với Malenkov là sau khi nói chuyện với Vorosilov (trước
bữa ăn trưa) tôi quay về nhà, ghé vào Malenkov, và chúng tôi ăn trưa cùng
với nhau. Khi đó, tôi và Malenkov sống ở cùng một số nhà, cùng cửa ra vào,
chỉ khác là tôi ở tầng cao hơn.
Tôi  đi  đến gặp Vorosilov tại Xô viết tối cao, nhưng tôi không  đạt
được cái điều mà tôi đã tính. Ngay khi tôi mở cửa và bước qua ngưỡng cửa
phòng làm việc của ông, ông đang lớn giọng tán tụng Beria:
- Hân hạnh cho chúng tôi, đồng chí Khrusev, chúng tôi có một người
tuyệt vời Larenti Pavlovich, đây là một con người xuất chúng!
Tôi nói với ông:
- Có thể, anh đừng phí công nói như thế nữa, anh đang thổi phồng tư
cách ông ta phải không?
Nhưng tôi cũng không thể nói với ông về Beria như tôi nghĩ. Sự đánh
giá là hoàn toàn ngược lại, và tôi bằng ý kiến của mình đặt Vorosilov vào
tình thế khó xử; Ông có thể không đồng ý với tôi đơn giản vì tự ái: khi tôi
vừa mới vào, ông đang ca tụng Beria, nhưng sau này lập tức chuyển sang   302
quan điểm của tôi là đi đến sự cần thiết phải loại bỏ Beria. Và tôi quẳng lại
cho ông những lời về vấn đề, mà chúng tôi thoả thuận một cách chính thức
qua điện thoại: về vấn đề vớ vẩn nào đấy. Và bây giờ tôi quay về ăn trưa,
như đã quy ước với Malenkov. Tôi kể cho Malenkov rằng tôi không nhận
được cái gì cả, rằng tôi không thể nói chuyện với Vorosilov, như đã nghĩ. Tôi
nghĩ rằng Vorosilov có thể, nói như thế để đề phòng người ta nghe trộm, và
nói điều đó để cho bọn “tai mắt” của Beria.
Mặt khác, ông cũng coi tôi là người gần với Beria, vì rằng thường
thấy chúng tôi bên nhau: Beria, Malenkov và tôi. Nghĩa là, ông nói điều này
đối với Beria, ông cũng chứng minh bầu không khí, buộc mọi người phải
chấp nhận tính cách và ôm lấy tội lỗi trong óc chống lại lương tri của mình.
Chúng tôi thoả thuận với Malenkov là tiếp đây, tôi sẽ nói chuyện với
Molotov. Molotov khi đó là Bộ trưởng Bộ ngoại giao. Trước đây ông thường
gọi điện cho tôi, nói rằng muốn cùng tôi gặp BCHTƯ và nói chuyện về các
vấn đề cán bộ Bộ Ngoại Giao. Tôi lợi dụng cuộc gọi của ông và nói:
- Anh muốn gặp tôi phải không? Tôi sẵn sàng. Nếu có thể, anh đến
chỗ tôi, tôi ta sẽ nói chuyện với về chuyện cán bộ.
Nhưng khi ông đến, tôi nói với ông:
- Chúng ta nói chuyện về cán bộ, nhưng không phải về cán bộ của Bộ
ngoại giao đâu.
Và tôi bắt đầu kể cho Molotov đánh giá của tôi về vai trò của Beria.
Tôi nói có sự nguy hiểm như thế nào bây giờ đe doạ Đảng nếu không ngăn
chặn Beria đang thực hiện quá trình làm đổ sự lãnh đạo của Đảng. Molotov,
hình như bản thân cũng nghĩ nhiều về điều này. Ông không thể không nghĩ,
vì rằng bản thân ông biết tất cả và thấy dự giống nhau hơn từ khi Stalin còn
sống. Khi Molotov còn được Stalin tin ở Stalin, tôi chính tai đã nghe, ông
phát biểu rất mạnh như thế nào chống Beria, nhưng khi không còn Stalinе,
Beria có phương pháp khiêu khích. Nếu Beria đưa một đề nghị nào đấy, mà
Stalin phát biểu chống, thì Beria quay bề người nào đó đang ngồi:
- Đấy, anh cứ đề nghị mãi? Cái này chưa có lợi!
Như thế Beria không ít lần chỉ vào Molotov, và Molotov phản ưng rất
rất mãnh liệt.
Vì vậy, ngay khi tôi bàn mưu với Molotov, ông hoàn toàn đồng ý với
tôi.   303
- Đúng, đúng, nhưng tôi muốn hỏi: thế ý Malenkov ra sao?
- Tôi nói chuyện lúc này với anh nhân danh và Malenkov, và
Bulganin. Malenkov, Bulganin và tôi cũng trao đổi ý kiến về vấn đề này.
- Đúng, Các ông hiểu vấn đề này. Tôi hoàn toàn đồng ý và ủng hộ
ông. Nhưng ông làm tiếp cái gì và việc này dẫn đến đâu?
- Trước hết cần cách chức Beria khỏi chức vụ uỷ viên Đoàn chủ tịch
BCHTƯ, phó Chủ tịch hội đồng Bộ trưởng Liên Xô và Bộ trưởng Bộ nội vụ.
Nhưng Molotov nói rằng điều này không đủ:
- Beria rất nguy hiểm, và tôi cho rằng phải dùng những biện pháp cực
đoan hơn.
- Có thể giữ ông ta để điều tra?
Tôi nói “giữ” vì rằng chúng tôi không có những chứng cớ để buộc tội
trực tiếp Beria. Tôi có thể nghĩ rằng ông là điệp viên của Musavist, nhưng
chỉ Kaminski nói về điều này. Và những bằng chứng như thế không cách nào
kiểm tra được, nhưng tôi chưa nghe thấy có sự kết án vụ này. Có thể là thật
và cũng có thể là không  đúng, tuy nhiên tôi tin Kaminski, vì rằng ông là
người  đứng  đắn và hoàn toàn vì Đảng. Nhưng tính cách khiêu khích của
Beria, tất cả chúng tôi dựa trên sự linh cảm. Nhưng không thể bắt người theo
linh cảm. Vì thế tôi nói rằng phải giữ Beria “để kiểm tra”.
Điều này thì đúng là có thể.
Như vậy, tôi thoả thuận được với Molotov, còn sau đó tôi kể tất cả
cho Malenkov và Bulganinу. Và chúng tôi quyết định, cần đẩy nhanh công
việc, vì rằng chúng tôi có thể bị nghe trộm hoặc ai  đó vô tình sảy miệng,
những bằng chứng về những bước đi của chúng tôi lọt tới tai Beria, và Beria
bắt chúng tôi một cách đơn giản. Lúc đó chúng tôi quy ước tôi cần phải nói
chuyện với Saburov, cũng là uỷ viên Đoàn chủ tịch. Saburov rất nhanh trả lời
tôi:
- Tôi hoàn toàn đồng ý.
Và cũng hỏi:
- Thế còn Malenkov?
Về  điều này những ai dự mưu với tôi  đều cũng hỏi như thế.
Kaganovich trong thời gian ấy không có mặt ở Moskva, ông ở bận thu mua
gỗ, ông kiểm tra công việc ở đó chạy ra sao. Khi Kaganovich quay về, tôi đề   304
nghị ông rẽ vào BCHTƯ. Ông đến buổi chiều, và chúng tôi ngồi với ông rất
lâu. Ông tỷ mỷ kể cho tôi về Siberi, về thu mua thu mua gỗ. Tôi không cắt
lời ông, mặc dù trong đầu tôi hoàn toàn nghĩ những chuyện khác. Tôi tỏ ra lễ
độ, chiến thuật, chờ khi câu chuyện của ông cạn hết.
Khi thấy thời cơ đến, tôi nói:
- Những điều anh kể cũng hay đấy. Giờ đây tôi muốn nói hết với ông
rằng chúng tôi đang làm gì.
Kaganovich lập tức vểnh tai nghe:
- Thế ai “đồng ý”?
Ông đặt vấn đề như thế, thăm dò, tương quan lực lượng. Tôi nói rằng
Malenkov, Bulganin, Molotov và Saburov  đồng ý, như thế, nói riêng, và
không có ông thì chúng tôi cũng có số đông. Lúc đó Kaganovich tuyên bố:
- Tôi cũng “đồng ý”, tất nhiên, “đồng ý”, nhưng tôi đơn giản chỉ hỏi
thế thôi.
Nhưng tôi hiểu đúng ông, và ông hiểu tôi. Sau đó hỏi:
- Thế còn Vorosilov?
Và tôi kể cho ông, tôi nhận thấy mình không tháo vát với Vorosilov. 
- Ông nói với với anh như thế à?
- Đúng, ông ta ca tụng Beria.
Kaganovich chửi rủa Vorosilov, nhưng không độc ác:
- Thằng cáo già. Ông ấy không nói thật với anh đâu. Chính ông ấy nói
với tôi thật sự là không thể sống tiếp được với Beria, rằng Beria là người rất
nguy hiểm, rằng Beria có thể tìm và tiêu diệt tất cả chúng ta.
- Thế thì cần phải nói chuyện với ông ta hội đàm một lần nữa. Có thể
Malenkov nói chuyện với ông ta được không? Tốt hơn, tôi không nên quay
lại nói chuyện với ông nữa để không đặt ông ta vào tình thế khó xử.
Cả hai chúng tôi đồng ý.
Kaganovich hỏi:
- Còn Mikoian?
- Với Mikoian, về vấn đề này tôi vẫn còn chưa nói, vì có vấn đề phức
tạp.   305
Tất cả chúng tôi biết những người Kavkaz như Mikoian và Beria có
những quan hệ tốt nhất, họ luôn luôn không rời nhau nửa bước. Và tôi kể đã
nói chuyện với Mikoian, hình như phải gác lại muộn hơn. Về các cuộc nói
chuyện mới, tôi thông báo cho Malenkov, và ông cũng  đồng ý trong tình
hình hiện tại, tốt hơn là nói cho Vorosilov biết. Giờ  đây còn Pervukhin.
Malenkov nói:
- Với Pervukhin, tôi muốn tự đến bàn bạc.
- Lưu ý rằng Pervukhin là người phức tạp, tôi biết ông ta.
- Nhưng cả tôi cũng biết ông ấy.
- Thôi được, xin cứ việc!
Malenkov mời Pervukhin đến gặp và sau đó gọi cho tôi:
- Tôi gặp Pervukhin, kể hết với ông ta tất cả, nhưng Pervukhin trả lời
rằng còn suy nghĩ. Điều này rất nguy hiểm. Tôi phải thông báo điều này để
giục ông ta nhanh hơn. Không biết, điều này có thể kết thúc như thế nào.
Tôi gọi cho Pervukhin. Ông đến với tôi, và tôi hết cho ông nghe một
cách thẳng thắn. Mikhail Georgy trả lời:
- Nếu như Malenkov nói tất cả với tôi như thế này, như anh nói, tôi
đâu có những vấn đề như thế. Tôi hoàn toàn đồng ý và xem rằng không còn
lối thoát khác.
Tôi không biết Malenkov nói với Pervukhin như thế nào, nhưng kết
thúc như thế.
Như thế, chúng tôi đã bàn bạc công việc với tất cả uỷ viên Đoàn chủ
tịch, trừ Vorosilov và Mikoian.
Tôi và Malenkov quyết định bắt đầu hành động trong ngày họp Đoàn
chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô. Tại cuộc họp Đoàn chủ tịch Hội đồng
Bộ trưởng tôi luôn luôn có mặt: vì biên bản đã ghi là tôi phải tham gia những
phiên họp như thế. Tại những phiên họp này vắng mặt Vorosilov. Vì thế
chúng tôi quyết định, mời Vorosilov tham dự phiên họp Đoàn chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng. Khi mọi người đến đông đủ, thay bằng phiên họp Đoàn chủ
tịch Hội đồng bộ trưởng, là phiên họp Đoàn chủ tịch BCHTƯ. Chúng tôi quy
ước, ngay trước phiên họp này tôi nói chuyện với Mikoian, còn Malenkov
nói với Vorosilov.   306
Sáng sớm hôm ấy, tôi ở nhà nghỉ cuối tuần. Tôi gọi cho Mikoian và
mời ông rẽ qua tôi, đi cùng tôi cùng tới phiên họp Đoàn chủ tịch Hội đồng
Bộ trưởng Liên Xô. Mikoian đến, và ở đó tôi tiến hành hội đàm. Cuộc hội
đàm rất dài. Tôi nhớ rằng chúng tôi nói chuyện khoảng hai tiếng đồng hồ,
nói hết và tỷ mỷ, còn sau đó lại hai ba lần đôi lần quay lại những chuyện đã
bàn rồi. Vị thế của Mikoian là thế này: Beria quả là có tư cách xấu, nhưng
ông không tuyệt vọng, trong thành phần tập thể có thể làm được việc. Đó là
một vị trí hoàn toàn  đặc biệt, không phải ai trong số chúng tôi có thể giữ
được. Tạm thời kết thúc đàm phán, thời gian còn lại chỉ kịp có mặt tại phiên
họp. Tôi ngồi chung xe với nhau và đi vào Kreml. Trước đó Malenkov cũng
nói chuyện với Vorosilov.
- Thế nào? Ông ta vẫn như trước đây khen ngợi Beria à?
- Khi tôi vừa mới lắp bắp vài lời về dự định của chúng tôi, Klim (tên
gọi thân mật của Vorosilov) ôm quàng lấy tôi, hôn và khóc.
Thật thế không, tôi không biết. Nhưng tôi nghĩ rằng Malenkov nói dối
chẳng để làm gì.
Sau  đó nảy sinh sinh vấn  đề thảo luận bắt giữ Beria. Nhưng ai là
người bắt Beria? Đội bảo vệ của chúng tôi lại dưới quyền cá nhân Beria.
Trong thời gian họp uỷ viên Đoàn chủ tịch,  đội bảo vệ ngồi  ở phòng bên
cạnh. Ngay khi chúng tôi đưa ra vấn đề này, Beria sẽ ra lệnh cho đội bảo vệ
bắt chính chúng tôi. Lúc đó chúng tôi thoả thuận gọi các tướng lĩnh. Chúng
tôi quy ước là tôi nhận trách nhiệm đi mời các tướng lĩnh. Thế là tôi làm như
thế, mời Moskalenko và những người khác, tất cả là năm người. Sau  đó
Malenkov với Bulganin nới rộng vòng của họ và mời thêm cả Zukov. Do vậy
chúng tôi có 11 nguyên soái và tướng. Chúng tôi thoả thuận rằng các tướng
lĩnh sẽ chờ đợi ở phòng riêng, còn khi nào Malenkov báo cho biết biết, thì họ
đi vào gian phòng đang diễn ra phiên họp, và sẽ bắt Beria.
Và thế là phiên họp khai mạc. Vorosilov với tư cách Chủ tịch Đoàn
chủ tịch Xô viết tối cao Liên Xô, đương nhiên, không thể có mặt tại phiên
họp Đoàn chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô. Vì thế sự xuất hiện của ông
tựa như khó hiểu. Và Malenkov, khai mạc phiên họp, lập tức đặt vấn đề:
- Chúng ta thảo luận công tác Đảng. Có những vấn đề cần phải thảo
luận ngay, trong Đoàn chủ tịch BCHTƯ.   307
Tất cả  đồng ý. Như  đã thoả thuận từ trước, tôi xin phép Malenkov
được nói và đề nghị thảo luận vấn đề Beria. Beria ngồi bên phải. Beria giật
mình, cầm lấy tay tôi, nhìn vào tôi và nói:
- Anh nói gì thế, Nikita? Anh định giở trò gì?
Tôi nói với Beria:
- Thì anh cứ nghe đã, ngay đây tôi muốn nói hết với anh.
Thế là tôi nói.
Tại Plenum BCHTƯ trước chiến tranh, khi thảo luận tình hình công
việc trong Đảng, có lời phát biểu của Kaminski, Dân uỷ y tế Liên Xô. Ông
lên diễn đàn và tuyên bố:
- Tôi muốn nói rằng khi tôi làm việc ở Baku, có tin đồn dai dẳng lan
đi trong số những người cộng sản rằng Beria làm việc trong cơ quan phản
gián Musavist. Tôi muốn nói về điều này, để Đảng biết và kiểm tra điều này.
Phiên họp khi đó kết thúc, và không ai phát biểu thêm nữa về vấn đề đã nêu,
bản thân Beria cũng không cải chính, mặc dù có mặt. Sau đó nghỉ ăn trưa.
Sau bữa ăn Plenum tiếp tục, nhưng Kaminski không đến, và không ai biết vì
sao. Lúc đó điều này là đúng luật. Nhiều uỷ viên BCHTƯ, có mặt tại một
phiên họp, người phiên không đến, bị rơi vào “kẻ thù nhân dân” và bị bắt. Số
phận đã rơi vào Kaminski.
Tôi biết Kaminski, khi tôi là bí thư Bauman, sau đó Kraskaia Presnia,
thành uỷ Moskva và đặc biệtgần gũi với ông khi ông được bầu bí thư đảng
uỷ Moskva  đầu 1932. Kaminski chơi thân với Mikhain Mikhailovich, một
cán bộ triển vọng. Tôi rất kính trọng ông và cũng đánh bạn với ông. Đương
nhiên, tôi xây dựng tình hữu nghị với Kaminski. Vì thế tôi tin rằng Grisa - là
người đứng đắn. Ông là người đặc biệt trong sạch và có đạo đức. Tuy nhiên,
mặc dù không ai tại Plenum cho một lời giải thích nào cả về việc số phận
Kaminski, ông như chìm vào nước. Bị chìm không chỉ Kaminski. Hàng trăm,
hàng nghìn người mất tích. Sau đó người ta tuyên bố rằng họ là “kẻ thù nhân
dân”, vâng tôi  đã nói không phải về mỗi người. Từ lâu, trong  đầu tôi lẩn
quẩn ý nghĩ: Vì sao, khi Kaminski tuyên bố như thế, không ai có lời giải
thích xem ông nói đúng hoặc không đúng, điều này có hay không có - không
biết...
Sau đó tôi kể và những hoạt động gần đây của Beria, từ sau khi Stalin
chết, trong quan hệ các tổ chức Đảng - Ukraina, Belarussia và những nước   308
khác. Trong các thư của mình Beria đặt các vấn đề (thư này còn nằm trong
lưu trữ) về mối quan hệ tương hỗ trong việc lãnh đạo các nước cộng hoà dân
tộc, đặc biệt trong sự lãnh đạo của các cơ quan Cheka, và đề nghị điều động
các cán bộ dân tộc. Điều này đúng, đường lối như thế luôn luôn rồn tại trong
Đảng. Nhưng Beria đặt vấn đề này theo hướng bài Nga trong việc bồi dưỡng,
điều động và lựa chọn cán bộ. Ông muốn cột chặt các dân tộc và tập hợp họ
chống người Nga. Luôn luôn tất cả các kẻ thù ĐCS luôn luôn tính đến cuộc
đấu tranh giữa các dân tộc, và Beria cũng bắt đầu từ điều này.
Sau đó tôi kể về đề nghị cuối cùng của Beria - về việc từ bỏ xây dựng
CNXH ở CHDC Đức - và đề nghị đối với những người bị kết án bị trừng
phạt biệt xứ, khi Beria đề nghị không cho phép họ quay về chỗ cư trú, mà
quyền quyết định nơi ở của họ do Bộ nội vụ làm, nghĩa là do bản thân Beria.
Lúc ấy sự chuyên quyền về luật pháp! Tôi nói cả về đề nghị và Beria thay
bằng giải quyết tận gố vấn đề việc bắt người và kết án họ dưới thời Stalinе,
giảm thời hạn cực đại những người bị kết ăn bởi cơ quan Bộ Nội vụ từ 20
xuống 10 năm. Thoáng nhìn, đề nghị này tựa như tự do, còn theo thực chất là
họp pháp hoá những gì đang tồn tại. Khép tội 20 năm hoặc 10 năm, tình thế
vẫn không thay đổi. Tới 10 năm, và, nếu cần, Beria cho thêm 10 năm, còn
sau đó lại 10 năm, chừng nào người ta còn chưa chết. Và tôi kết thúc:
- Do những theo dõi những hoạt động của Beria tôi có ấn tượng rằng
ông ta nói chung không phải là một người cộng sản, mà làm kẻ hám lợi, chui
vào đảng vì động cơ hám lợi. Ông làm những việc để đề cao mình và không
thể chấp nhận được. Không tưởng tượng được một người trung thực có thể
làm việc vì mình.
Sau tôi, Bulganin tiếp lời. Tôi và ông từ khi Stalin còn sống  đã có
cùng một ý kiến về Beria. Ông cũng phát biểu trong tinh thần như thế. Và
những người khác thể hiện tính nguyên tắc, trừ Mikoian. Mikoian phát biểu
cuối cùng. Ông phát biểu (tôi không còn nhớ chi tiết lời của ông): lặp lại cái
điều đã nói với tôi, khi tôi và ông bàn bạc trước phiên họp, tuyên bố rằng
Beria có thể tính đến sự phê bình, rằng ông không mất tuyệt vọng, trong một
tập thể ông có khả năng ích lợi.
Khi tất cả phát biểu hết, Malenkov, với tư cách Chủ tịch phải tổng kết
và làm văn bản quyết định. Nhưng ông lúng túng, và phiên họp chấm dứt ở
diễn giả cuối cùng. Phiên họp ngừng lại ít phút.   309
Tôi thấy vấn đề như thế đã chất đống lên rồi, và đề nghị Malenkov để
ông chuyển lời của tôi vào bản dự thảo. Như chúng tôi đã quy ước với nhau,
tôi  đề nghị Plenum quyết  định vấn  đề cách chức Beria (Đoàn chủ tịch
BCHTƯ làm điều này) khỏi tất cả các chức vụ mà ông giữ. Malenkov vẫn
còn bối rối và thậm chí không đưa đề nghị của tôi ra bỏ phiếu, mà lập tức ấn
nút bí mật gọi các tướng lĩnh. Người  đầu tiên vào là Zukov, sau ông là
Moskalenko và những người khác. Zukov khi đó thứ trưởng Bộ trưởng quốc
phòng Liên Xô. Lúc ấy giữa tôi và Zukov còn tồn tại mối quan hệ tốt, mặc
dù ông trong thời kỳ đầu không được tính trong số tướng lĩnh giúp đỡ chúng
tôi xử lý Beria.
Vì sao chúng tôi lôi kéo các tướng lĩnh. Cũng có những suy tính được
nêu ra, nếu chúng tôi quyết định giữ Beria, ai dám chắc Beria không gọi các
Chekist, bảo vệ, những người này đang dưới quyền ông, và ông ra lệnh cho
họ cô lập chúng tôi? Chúng tôi không có lực lượng, vì rằng ở Kreml có một
lượng lớn người của Beria  được vũ trang và huấn luyện kỹ càng. Vì thế
chúng tôi quyết định lấy các tướng lĩnh quân đội vào việc.
Đầu tiên, chúng tôi trao lệnh cho Moskalenko và 5 tướng bắt Beria.
Moskalenko cùng các đồng chí của mình có vũ khí, mà họ cùng vũ khí đó
được Bulganin chở vào Kreml. Khi các tướng lĩnh vào Kreml, đã trao vũ khí
cho trực ban. Ngay trước phiên họp phiên họp, nhóm Moskalenko được bổ
xung thêm nguyên soái Zukov và một số người khác. Và tiến vào phòng họp
khoảng 10 người hoặc hơn. Malenkov nói nhẹ nhàng, đề nghị với Zukov:
- Tôi đề nghị ông, thay mặt Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô giữ
Beria.
Zukov ra lệnh cho Beria:
- Giơ tay lên!
Moskalenko và những người khác lột vũ khí, cho là Beria có thể gây
khiêu khích. Beria kéo mạnh về phía mình chiếc cặp đang nằm ở bậu cửa sổ,
sau lưng ông ta. Tôi tóm tay Beria để ông không thể sử dụng súng, nếu súng
nằm trong cặp. Sau đó kiểm tra: không có súng trong túi, cũng như trong cặp.
Beria đơn giản có phản xạ thôi.
Beria bị tống giam vào một gian phòng nhỏ, cạnh văn phòng làm việc
Malenkov của trong dinh Hội đồng Bộ trưởng. Và chúng tôi quyết định, sáng
mai hoặc sang ngày kia, càng nhanh càng tốt, triệu tập Plenum BCHTƯ
Đảng, xử lý vấn đề Beria. Đồng thời cách chức Viện trưởng Viện Kiểm sát   310
Liên Xô, vì rằng ông không được chúng tôi tin cậy, và chúng tôi nghi ngờ,
liệu ông có tiến hành điều tra một cách khách quan không. Viện trưởng Viện
kiểm sát mới được bổ nhiệm là Rudenko và được trao quyền tiến hành điều
tra vụ Beria. Như vậy, Beria bị bắt. Nhưng đư hắn đi đâu? Chúng tôi không
thể tin đội bảo vệ của Bộ nội vụ, vì rằng đây là cơ quan của Beria, với tay
chân của Beria. Lúc đó thứ trưởng Bộ nội vụ Kruglov và, hình như, Serov.
Tôi ít biết về Kruglov, còn Serov tôi biết rõ hơn và tin ông. Tôi cho rằng
Serov là một người trung thực. Nếu có một cái gì đấy làm ông thay đổi, cũng
mọi nhân viên Cheka khác, thì ông cũng là nạn nhân của cùng một chính
sách chung do Stalin tiến hành. Vì thế tôi đề nghị trao quyền giữ Beria cho
chính Serov. Nhưng các đồng chí khác suy nghĩ rằng dù sao chăng nữa phải
thận trọng hơn - tất cả chúng tôi không ai tin Kruglov cả. Rồi chúng tôi thoả
thuận rằng tốt nhất là trao vụ này tư lệnh quân đoàn phòng không, quân khu
Moskva Moskalenko. Moskalenko nhận Beria, cho người của mình vây
quanh và giải Beria về chỉ huy sở của mình, trong một cái hầm chống bom.
Tôi thấy ông làm tất cả những gì cần thiết. Phiên họp này kết thúc.
Ngay khi phiên họp kết thúc, Bulganin đến gặp tôi:
- Anh hãy nghe tay đội trưởng bảo vệ của tôi kể.
Viên đội trưởng này đến chỗ tôi, kể:
- Tôi biết vừa mới bắt Beria, và tôi muốn nói với ông Beria hiếp đứa
cháu gái của tôi, học sinh lớp 7. Hơn một năm trước đây bà của nó đã chết,
còn vợ tôi vì đột quỵ và nằm ở bệnh viện. Cô bé ở nhà một mình. Một lần
vào buổi chiều nó chạy đi mua bánh mỳ thì qua đúng ngôi nhà mà Beria ở. Ở
đó, cháu gặp một người  đàn ông già  đang nhìn chăm chăm vào nó. Cháu
khiếp sợ. Sau đó, một nhân viên Cheka gọi cháu và dẫn cháu vào nhà Beria.
Beria ngồi ăn cơm chiều cùng với cháu, đề nghị uống rượu chúc Stalin. Cháu
từ chối, nhưng ông ta cứ nài nỉ phải uống vì Stalin. Cháu đồng ý, rồi uống,
còn sau đó cháu thiếp đi và ông ta hiếp cháu.
Tôi trả lời người này:
- Tất cả những gì ông kể, công tố viên sẽ điều tra”.
Sau đó người ta đưa chúng tôi một danh sách trong đó có họ tên hơn
100 phụ nữ. Tay chân của Beria dẫn họ tới Beria. Nhưng việc tiếp khách ở
chỗ Beria tất cả mọi người đều theo một cách: tất cả những ai vào nhà Beria
lần đầu tiên, ông đều mời ăn và đề nghị uống rượu vì sức khoẻ của Stalin.
Trong rượu vang ông bỏ sẵn thuốc ngủ. Sau đó ông làm với họ cái gì mà ông   311
muốn. Khi Beria bị cách ly, ông xin bút và giấy. Chúng tôi bàn bạc và quyết
định cứ đưa cho ông: biết đâu trong lòng ông thức tỉnh một khát vọng chân
thật để ông nó những gì ông ấy biết là chúng tôi buộc tội ông. Và ông bắt đầu
viết. Ban đầu, thư cho Malenkov:
- Egor, anh thật đáng khinh, tôi biết anh, chúng ta là bạn nhau, sao
anh lại tin Khrusev? Ông ta xúi giục anh làm điều này... và vân vân.
Với tôi ông cũng có một bức thư, trong đó viết rằng ông là một người
trung thực. Ông gửi một số thư như thế: Malenkov băn khoăn khi đọc những
thư này. Sau đó Malenkov bắt đầu lo lắng rằng ông và Beria cùng đưa ra ý
tưởng từ bỏ xây dựng CNXH  ở Đông Đức, và ông sợ rằng vụ việc nhằm
chống Beria, xoay sang chống ông. Nhưng chúng tôi nói với ông rằng bây
giờ chưa phán xét vấn đề này. Vấn đề Beria còn sâu rộng hơn nhiều so với
vấn đề Đức.
Khi Rudenko bắt đầu thẩm vấn Beria, thì chúng tôi ngỡ ngàng thấy
một con người tàn ác, khốn nạn, không có một cái gì thiêng liêng cả. Ở Beria
không hề có chủ nghĩa cộng sản, và nói chung không có bộ mặt đạo đức con
người. Nhưng quả là về tội ác của Beria khu vựcc gì để nói, vì ông làm chết
bao nhiêu người lương thiện!
Sau khi bắt Beria được một thời gian, lại có vấn đề về Merkulov, từng
là Thanh tra nhà nước Liên Xô. Tôi, thú thực rằng, trước đây tôi kính trọng
Merkulov và coi ông là người của Đảng. Ông là con người có văn hoá và nói
chung tôi quý ông. Vì thế tôi nói các đồng chí của mình:
- Có một sự kiện, Merkulov là trợ lý của Beria ở Gruzia, còn chưa đủ
chứng minh rằng ông là đồng bọn của Beria. Có thể dù sao đi nữa, điều này
không phải thế? Chính Beria giữ rất chức vụ cao và chính hắn chọn người
cho mình, mà không phải ngược lại. Người ta tin Beria và làm việc với ông
ta. Vì thế không thể coi những ai làm việc làm việc với Beria, như là những
cộng sự gây những tội ác. Chúng ta gọi Merkulov, nói chuyện với ông. Có
thể, ông thậm chí giúp đỡ chúng ta tốt hơn trong việc phán xét Beria.
Và chúng tôi quy ước rằng tôi gọi ông  đến BCHTƯ Đảng. Tôi gọi
Merkulov, nói rằng Beria bị bắt, rằng đang tiến hành điều tra. 
- Ông nhiều năm làm việc với Beria, liệu có thể giúp đỡ BCHTƯ.
- Tôi sẵn sàng làm tất cả những gì có thể.
Và tôi đề nghị Merkulov:   312
- Hãy trình bằng văn bản tất cả những gì cần thu thập.
Sau bao nhiêu ngày trời, ông mới viết một bức thư dày, tất nhiên, vẫn
nằm ở lưu trữ. Nhưng bức thư này chẳng giúp chúng tôi một cái gì cả. Ở đó
chỉ là những  ấn tượng chung chung, suy lý, tựa như tác phẩm nào  đó.
Merkulov viết một cái gì đó, kể cả bài hát, và thói quen sáng tác. Khi tôi gửi
tài liệu này cho Rudenko, thì ông nói thẳng rằng phải bắt Merkulov, vì rằng
điều tra vụ Beria mà không bắt Merkulov thì sẽ công việc sẽ bị cản trở và
không làm đày đủ.
BCHTƯ Đảng quyết định bắt Merkulov. Tôi đau lòng, thấy rõ rằng
mình phí công tin ông. Merkulov có liên quan với Beria trong những tội ác
như thế, và chính ông phải ngồi trên ghế bị cáo và cùng trách nhiệm với
Beria. Trong lời nói cuối cùng, khi bị kết án trước toà, Merkulov nguyền rủa
cái ngày giờ, khi gặp với Beria. Ông nói rằng Beria đã đưa ông tới toà.
Từ Đại hội 19 đến Đại hội 20 ĐCSLX
Ngay sau khi kết thúc Đại hội 19 ĐCSLX, nảy sinh việc thay thế Bộ
chính trị BCHTƯ Đảng trước đây bằng một cái tên gọi mới - Đoàn chủ tịch
BCHTƯ ĐCSLX, Stalin đã hình thành những hội đồng rộng rãi gồm nhiều
thành viên về các lĩnh vực khác nhau. Trên thực tế té ra là những hội đồng
này chẳng có khả năng làm việc, mặc dù tôi xem rằng nếu có sự lãnh đạo
thích đáng lãnh đạo thì nó cũng giải quyết nhiệm vụ cụ thể mà quyền hạn chủ
yếu - hội đồng này đưa ra những dự thảo, thì họ đóng một vai trò tích cực.
Nhưng họ không thể làm nổi vai trò đó, vì rằng nó được trình cho chính họ,
và không hề có một kế hoạch nào cả để lãnh đạo những hội đồng này, và các
vấn đề đặt ra trước đây với họ vẫn không giải nghĩa được. Các vấn đề đang
được suy nghĩ. Tóm lại, một người có dụng cụ của mình thích dùng lúc nào
thì dùng. Không có ai lãnh đạo cả.
Rồi Stalin chết. Tôi rất trải qua nặng nề về cái chết của ông. Nếu nói
chân thật, thì tôi chịu đựng không phải vì tôi có mối ràng buộc với Stalin,
mặc dù nói chung tôi cũng ràng buộc với ông. Đơn giản là ông đã già, và
không tránh khỏi cái chết luôn cặp kè với ông. Đối với tôi dó là quy luật bi
thảm của tự nhiên: mọi người sinh ra và chết  đi, phải coi trọng  điều này.
Stalin ở độ tuổi như thế, không thể tránh khỏi cái chết. Nôi lo lắng trước tiên
của tôi là thành phần Đoàn chủ tịch vẫn tồn tại sau khi Stalin chết, và vai trò
đặc biệt của nó đang nằm trong tay Beria và được ông ta củng cố: vai trò này
đang báo trước, theo đánh giá của tôi, có một công việc lớn và là một bất ngờ   313
lớn, tôi thậm chí nói rằng hậu quả thảm khốc. Vì thế tôi than khóc Stalin như
một lực lượng duy nhất hiện thực đoàn kết. Mặc dù lực lượng này thường
được sử dụng rất lung tung và không phải luôn luôn đi theo hướng cần thist,
nhưng tất cả sức lực của Stalin là nhằm đến sự vững mạnh và phát triển sự
nghiệp CNXH, sự vững mạnh thành quả của cách mạng tháng Mười. Điều
này tôi không nghi ngờ. Ông đã thi hành cách thức dã man trong hành động,
nhưng khi đó tôi còn chưa biết, sự xấu xa của ông là hoàn toàn vô căn cứ đến
nhường nào, từ quan điểm của những người bị bắt và bị tử hình một cách vô
cớ.
Tất nhiên ở tôi, cũng như mọi người khác thoáng hiện một ngờ vực:
- Thế này là thế nào? Trong số những người bị bắt hoặc bị tù hầu như
không có ai quay lại và hầu như họ không đúng?
Trong cuộc sống không cần phải có như thế. Những nghi ngờ phát
sinh  đều có căn cứ, như phải theo chuẩn mực  đúng trong ý nghĩ. Nhưng
Stalin - là Stalin. Uy tín của ông rất lớn, và tôi không nghĩ rằng con người
này về nguyên tắc có khả năng cố ý lạm dụng quyền lực.
Beria, khi Stalin chết, lại vào đúng chỗ đó. Ông thay đổi hẳn, trẻ ra,
ăn nói thô lỗ, vui vẻ lên, đứng ở thi hài Stalin đặt trong quan tài chưa đến giờ
chôn. Beria cho rằng thời của ông đã đến. Bây giờ không còn thế lực nào có
thể kiềm chế ông, mà thế lực đó ông cần tính đến. Giờ đây ông có thể làm tất
cả những gì ông xem là cần thiết.
Malenkov?
Malenkov không bao giờ giữ vị trí riêng, ông không có vai trò  đặc
biệt. Ông luôn luôn là người đầu sai. Stalin trong các cuộc nói chuyện hẹp đã
nói một cách tương đối hình ảnh về Malenkov:
- Đây là một thợ viết. Ông ta viết nghị quyết rất nhanh, không phải
luôn luôn một mình mà con tổ chức mọi người. Điều này ông làm nhanh hơn
và tốt hơn những người khác, nhưng ông không có khả năng suy nghĩ và
sáng kiến độc lập.
Đúng, Malenkov, theo tôi, cũng không có tham vọng trực tiếp cho
điều này. Năm năm trước khi Stalin mất, tôi có mặt ở Sochi theo lời mời của
Stalin, tôi có một lần nói với Malenkov, nhắc ông nên lưu tâm rằng ông có
chỗ  đứng của mình và không phải là dường cột trong quan hệ Beria, còn
Beria nhạo báng ông. Lúc  đó Malenkov nói với tôi là ông biết  điều này,   314
nhưng ông có khả năng để làm đúng công việc và thoát khỏi điều này. Ông
cho rằng ông cùng với Beria là có lợi cho cá nhân ông. Vả lại, quả là đúng
như vậy. Ông ủng hộ Beria, còn Beria ủng hộ Malenkov. Vì thế Stalin đánh
giá cao hoạt động của Malenkov, mặc dù ông phê phán mạnh về khả năng
của Malenkov trong lãnh đạo.
Bulganin?
Bulganin rất thận trọng với Beria, và khi tôi với ông nói về vấn đề
này, thì ông phát biểu nhận xét tiêu cực đối với Beria, ông đồng ý với tôi.
Với ý nghĩ như thế, tôi đứng cạnh thi hài Stalin. Trước đây tôi đã kể
về hoạt động của chúng tôi sau khi Stalin chết và về việc bắt Beria và tôi
không bây giờ không lặp lại nữa. Nhưng sau khi bắt Beria và  điều tra thì
khám phá được những thôi thúc bí mật che dấu chúng tôi, những thôi thúc
này trước đây đẻ ra sự lạm quyền lớn biết nhường nào dẫn đến cái chết của
nhiều người lương thiện. Đối với tôi, nói riêng, ấn tượng mạnh nhất là cái
chết Kedrov, cha của viện sỹ triết học Kedrov. Cá nhân tôi không biết
Kedrov cha. Ông là một chính khách lớn, một trong những nhà lãnh đạo bộ
đội Liên Xô ở miền Bắc, trong những năm nội chiến ông là người tổ chức
phòng thủ chống bọn can thiệp ở đó. Và tôi có nhu cầu phải vén bức rèm để
biết, dù cuộc điều tra đang làm, tại sao xảy ra các vụ bắt bớ, tất cả bao nhiêu
người bắt, tài liệu gốc về việc bắt giam và điều tra về các vụ bắt giam này
như thế nào? Tôi đặt vấn đề này tại cuộc họp Đoàn chủ tịch BCHTƯ và đề
nghị được phân xử rõ ràng. Các vấn đề này đặc biệt làm tôi lo lắng vì rằng
chúng tôi cũng bắt đầu nghĩ về tiến hành Đại hội 20.
Tất nhiên chúng tôi cùng Vorosilov, Molotov, Kaganovich không bỏ
cuộc đấu tranh để mở toang những thôi thúc bí mật. Tôi còn nhớ chính xác
quan  điểm của Mikoian. Hình như, Mikoian không tích cực, nhưng không
cản trở quá trình phanh phui sự bất công. Tóm lại, dần dần tất cả đều đồng ý
rằng cần phải tiến hành phanh phui vụ việc. Một Uỷ ban điều tra được thành
lập, đứng đầu là Pospelov.
Trước đó, tôi mời Viện trưởng Viện Kiểm sát Liên Xô Rudenko (là
Viện trưởng Viện kiểm sát đã xem xét nhiều và kiểm tra các tài liệu này) và
hỏi ông:
- Đồng chí Rudenko, theo những bản án công khai thập niên 30 những
điều buộc tội là căn cứ, thì mang chúng trình cho Bukharinу, Rykov, Syrsov,   315
Lominadze, Krestinski và những người khác, trong BCH TƯ, các uỷ viên
Ban tổ chức và Bộ chính trị? Có bao nhiêu những tài liệu có căn cứ?
Rudenko nói rằng từ quan  điểm chuẩn mực luật pháp thì chẳng có
một số liệu nào cả để buộc tội những người này. Tất cả chỉ dựa trên những
lời thú nhận có tính cá nhân, mà những lời thú nhận đó có được bằng cách
đánh đập và hành hạ người ta về tinh thần và thể xác, cho nên không thể là
cơ sở để kết án người ta.
Khi đó đặt trước tôi một vấn đề: điều này có thể xảy ra không? Mọi
người biết về vai trò của Stalin, cá nhân ông, quá trình hoạt động cách mạng
của ông, công lao của ông trước đất nước và những phẩm chất mà Đảng ghi
nhận. Ông có đầy đủ cơ sở để có vai trò đặc biệt, vì rằng ông thực tế đã tách
khỏi những người gần mình và biết tổ chức công việc, và thông minh. Ông
quả là đứng cao hơn người khác. Và thậm chí bây giờ, dù tôi không khoan
nhượng những phương pháp hành động của ông, sự lạm quyền của ông, tôi
cũng phải thừa nhận điều này. Tuy nhiên, nếu như bây giờ, chẳng hạn, ông
vẫn còn sống và tiến hành bỏ phiếu về vấn đề trách nhiệm của ông vì hành vi
ấy, thì tôi vẫn có quân điểm là phải xử ông. Nhưng cần phải đánh giá ông.
Con người này không đơn giản đến với chúng tôi bằng gươm và chiếm được
trái tim khối óc chúng tôi. Không, ông trong cuộc sống ông thể hiện sự lấn át
của mình, tài năng lãnh  đạo  đất nước, kỹ năng cai trị mọi người, cho họ
những phẩn cách vững chắc, cần thiết cho người lãnh đạo ở quy mô lớn.
Tất cả những gì liên quan tới cá nhân của Stalin, có cái xấu, cái tốt,
cái đúng, và dã man, không để hết vào đâu. Phải xem xét tất cả các mặt của
con người phức tạp này. Tôi nói nhiều ở đây phía tối đơn giản vì rằng mặt
tâng bốc ông là quá đủ rồi. Điều chủ yếu - có những kết luận cần thiết và để
những sự việc tương tự không lặp lại trong tương lai. Ở đây bao gồm tất cả
các thư của tôi. Bất cứ việc nghiên cứu nào về quá khứ cần phải phục vụ cho
hiện tại và tương lai.
Mở rộng một hướng song song. Những người lứa tuổi tôi nhớ lại việc
ca tụng Stalin dần dần tăng lên, và mọi người đều biết sự tụng ca này được
rót hết cỡ. Stalin thông minh! Stalin thiên tài! Tôi cũng chưa nói về những từ
văn vẻ khác: nào là bố để nhân dân, và vân vân. Tất cả điều này hiện nay
vang lên tại Trung Quốc người ta nói và viết về Mao. Tôi xem phim Trung
Quốc. Tôi thấy chúng không hiếm trên TV. Tất cả các buổi tiếp khách được
Mao nhân bản từ Stalin. Hãy mở mắt và nghe những lời phát biểu của người   316
Trung Quốc về Mao Trạch Đông. Nếu thay thế “Mao” bằng “Stalin”, thì
nhận được quá khứ. Đúng là những “màn kịch” tương xứng đã từng được tổ
chức ở chúng ta. Tôi xem đó là hiện diện tính nhu nhược của Stalin. Nhưng,
hình như sự việc không những chỉ ở tính nhu nhược. Hình như những người
này, Stalin và Mao Trạch Đông, trong vấn đề này về nguyên tắc rất giống
nhau. Họ coi  điều này là cần thiết  để giữ uy tín của họ  được trên cao và
không những bắt mọi người chịu mình, mà còn bắt họ phải sợ hãi.
Và dù sao chăng nữa có vấn đề: Vì sao điều này lại xảy ra? Nhiều
người mà tôi tiếp xúc, hỏi:
- Tai sao Stalin, một người thông minh, có thể làm thế?
Tôi không ít lần, khi quay lại vấn đề này, tìm câu trả lời cho mình. Và
tôi có câu câu trả lời duy nhất, tôi nghĩ rằng ông đúng. Để hiểu căn nguyên
sự lạm quyền, giết người sai trái, tính tàn bạo của Stalin, phải quay về chúc
thư của Lenin. Lenin, khi ông viết chúc thư, rõ ràng đã thấy trước, Stalin có
thể đưa Đảng đến điều đó, nếu Stalin còn nằm trong ban lãnh đạo sẽ chiếm
chức vụ Tổng Bí thư BCHTƯ. Lenin viết rằng phải loại bỏ Stalin khỏi chức
vụ này, mặc dù Stalin cũng có những phẩm chất để làm lãnh đạo. Nhưng ông
thô lỗ và có khả năng lạm dụng quyền lực, vì thế ông không thể giữ được.
Lenin đề nghị thay thế Stalin bằng một người chan hoà hơn, biết lắng nghe
hơn, kiên nhẫn hơn đối với đồng chí trong Đảng và không lạm dụng chức vụ
cao của mình. Tôi cho rằng đây là nhận xét chính xác. Cuộc sống đã hoàn
toàn xác nhận tư tưởng của Lenin. BCHTƯ Đảng không đi theo lời Lenin,
không rút ra những kết luận thích hợp và bị thất bại. Không những BCHTƯ,
mà toàn Đảng đã vị Stalin lạm quyền trừng phạt, giết Đảng viên và cốt cán
ngoài  Đảng. Trong những hoạt  động này của Stalin, thấy  được một con
người bệnh hoạn. Đã xảy ra thảm hoạ với Đảng và tất cả nhân dân chúng tôi.
Tài liệu của Uỷ ban Pospelov mà chúng tôi lập trước ngưỡng cửa Đại
hội 20 ĐCSLX, đối với nhiều người trong chúng ta là hoàn toàn bất ngờ. Tôi
nói về ban thân tôi, ở mức độ nào đấy và về Malenkov, Bulganin, Pervukhin,
Saburov, và các đồng chí khác. Đồng thời tôi xem rằng Mikoian trong thâm
tâm phải rất sẵn sàng có thể bóc trần các sự thật dạng này  được soi sáng
trong thư của Pospelov. Tôi không cả quyết Mikoian biết tất cả! Dù sao
chăng nữa thời gian dài Mikoian gần Stalin hơn tất cả chúng ta, và nhiều
người làm việc với ông,  được ông tin và  được ông kính trọng, cũng đã bị
giết. Anastas Ivanovich là người thông minh sắc sảo, biết cách thông báo sự   317
thật, tôi nghĩ rằng nếu ông không biết tất cả, thì tôi dự đoán cho rằng vẫn còn
ít chứng cớ về các vụ bắt bớ giam cầm và đặc biệt là các vụ hành quyết, được
tiến hành trong thời gian Stalin cầm quyền. Tôi có cơ sở nghĩ như vậy, nói
riêng, cuộc mạn đàm của tôi với Anastas Ivanovich, khi ông kể cho tôi nghe
về buổi nói chuyện của ông với Ordzonikidze ngay đêm hôm trước cái chết
của ông ta.
Khi đó tôi là uỷ viên Ban lễ tang Sergo, Chủ tịch Ban lễ tang là Avel
Safronovich Enukidze giải thích rằng Sergo chết  đột ngột do vỡ tim. Tất
nhiên ông giải thích rằng Stalin ra lệnh như thế. Sau này, có lần tôi ở văn
phòng của Stalin và hoàn toàn ngẫu nhiên khen ngợi Sergo. Điều này gây ra
một  ấn tượng xấu, không ai phản đối tôi, nhưng tất cả lặng thinh, im lặng
một lúc. Sau đó Malenkov giải thích cho tôi rằng Sergo bị bắn. Tất nhiên khi
Sergo chết, Malenkov cũng không biết gì cả về điều này, bởi vì khi đó ông
còn chưa gần Stalin bằng tôi. Nhưng trong thời gian chiến tranh vệ quốc ông
biết về điều này trong một lần nói chuyện ngẫu nhiên ở Stalin. Sau khi Stalin
chết, Mikoian cũng kể rằng Ordzonikidze bị bắn hôm chủ nhật, nhưng đêm
thứ bẩy, họ còn đi bộ quanh Kreml và nói chuyện. Trong cuộc hội đàm ấy,
Sergo nhận xét rằng không thể tiếp tục sống: chiến  đấu với Stalin thì ông
không thể, mà chịu đựng thì ông đã làm, không còn sức.
Vì sao chúng tôi xây dựng Uỷ ban của Pospelov? Tôi lập luận như thế
này: chúng tôi đang chuẩn bị Đại hội Đảng, Đại hội Đảng đầu tiên sau khi
Stalin chết. Tại Đại hội này chúng tôi cần phải nhận trách nhiệm về lãnh đạo
Đảng và đất nước. Để làm việc này phải biết chính xác cái gì được làm trước
đây và bằng cái gì mà Stalin đưa ra những quyết định về vấn đề này khác.
Đặc biệt điều này can hệ tớ những người bị bắt. Vấn đề đặt ra là: họ bị tù vì
cái gì? Và cái gì tiếp theo đến với họ? Khi đó trong các trại cải tạo có đến
hàng triệu người. Đấy là con số 3 năm sau khi Stalin chết. Trong năm này
chúng tôi không thể cắt đứt với quá khứ, không thể có đủ lòng dũng cảm, tìm
thấy nhu cầu nội tại hé mở bức màn che và nhìn vào cái gì đằng sau bức bình
phong? Cái gì ẩn sau bức màn này, cái gì xảy ra dưới thời Stalinе? Điều này
nghĩa là các vụ bắt bớ vô tận, xét xử, độc đoán, bắn giết? Chúng tôi cảm thấy
ngượng bởi hoạt động của mình dưới sự lãnh đạo của Stalin và mà vẫn chưa
thoát khỏi áp lực này sau khi ông chết, mặc dù cũng không thể hình dung
rằng các xử bắn lại có thể tỏ ra là vô căn, nói theo ngôn ngữ luật, tội ác
chồng chất. Nhưng chính là như thế!   318
Stalin đã thực hiện những tội ác hình sự, loại tội ác này bị trừng phạt
tại bất cứ quốc gia, trừ những quốc gia chẳng có luật pháp nào cả. Tình hình
có hai mặt: Stalin chết, chúng tôi chôn cất ông, còn những người vô tội vẫn
đi đày trong các trại tập trung... Tiếp theo, mọi lại trở lại bình thường? Tiếp
tục chính sách cũ và tất cả những gì  được làm dưới thời Stalinе, lại  được
hoan nghênh? Thậm chí các vụ bắt bớ không đúng và hành quyết? Những
người đã bị giết với cái mác “kẻ thù nhân dân”, không ai nghĩ đến minh oan.
Tôi cho rằng Molotov, Vorosilov và Kaganovich là nguồn thông tin
lớn nhất về quy mô thực và nguyên nhân các vụ đàn áp dưới thời Stalin. Tôi
cho rằng Stalin trao đổi ý kiến với họ về con số này. Mặc dù Kaganovich, có
lẽ, chưa biết hết cặn kẽ tất cả. Chưa gì Stalin chia sẻ với ông một cách cởi
mở. Nịnh bợ đến như thế, là Kaganovich, ông có thể phanh thây cha đẻ của
mình nếu như Stalin chỉ trong nháy mắt nói là điều này là cần thiết cho lợi
ích của sự nghiệp Stalin. Stalin cũng không cần lôi kéo Kaganovich: chính
con người này hơn ai hết gào to lên rằng cần phải làm ở đâu, không cần phải
làm ở đâu, bò rách  đầu gối quỵ luỵ trước Stalin, bằng cách bắt người bên
phải bên trái và vạch mặt “kẻ thù”.
Khi ông vào Dân uỷ, thì triển khai ngay ở đó một lực lượng đầy đủ.
Sau một cơn  điên dài săn lùng “kẻ thù nhân dân” chúng tôi cũng
không thể quẳng  được gánh nặng tinh thần của những những việc làm từ
trước đó cho đến 1956, tất cả đã vẫn còn tin vào cái giả thiết mà Stalin dựng
lên, rằng trong nước chúng tôi bị bao vây bởi “kẻ thù nhân dân” và phải
chiến  đấu với họ, bảo vệ cách mạng. Chúng tôi vẫn như trước  đây nằm 
quan điểm nặng nề đấu tranh giai cấp, như là được dựa trên học thuyết và
được Stalin thực thi. Nhưng khi chúng tôi đi đến quyết định thành lập Uỷ ban
kiểm tra và Uỷ ban này cung cấp những tài liệu của mình, những tài liệu này
đã được làm một cách bí mật. Sau đó, tại Đại hội 20, báo cáo của tôi được
lãnh đạo theo tài liệu của Uỷ ban này. Bản báo cáo được copy gửi cho toàn
bộ các cơ sở Đảng và thi hành những biện pháp, để các tài liệu sau khi đọc
xong được thu hồi về.
Chúng tôi phân phát chúng cho các ĐCS anh em  để biết. Trong số
này, có Đảng công nhân thống nhất Ba Lan. Ở Ba Lan đúng lúc đó người
lãnh đạo đảng là Berut chết. Sau khi ông chết, ở Ba Lan nổi lên một làn sóng,
và tài liệu nói trên rơi vào tay những người Ba Lan không ưa Liên Xô. Họ sử
dụng tài liệu này vào mục đích của mình và nhân bản nó. Người ta thậm chí   319
nói với tôi rằng những người Ba Lan đã bán rẻ những tài liệu này. Báo cáo
của Khrusev, làm trong phiên họp kín Đại hội 20 ĐCSLX, được đánh giá là
không đắt. Đơn giản người ta có thể mua nó ở chợ trời, kể cả những người từ
khắp các nước trên thế giới. Như thế tài liệu này đã được lưu hành. Tôi nhớ,
các nhà báo phỏng vấn tôi rằng tôi có thể nói theo lý do này được không? Tôi
trả lời tôi không biết những tài liệu như thế và cứ để tình báo Mỹ trả lời vấn
đề này. Nhưng tôi phải trả lời thế nào, nếu phải nói ra bí mật?
Như vậy, chúng tôi sát Đại hội thường kỳ của Đảng. Tôi từ chối báo
cáo tổng kết và cho rằng lần này chúng tôi làm lãnh đạo tập thể, nên báo cáo
tổng kết không nhất thiết là bí thư BCHTƯ phải làm. Vì thế tại phiên họp
thường kỳ Đoàn chủ tịch BCHTƯ tôi đề nghị quyết định ai sẽ làm báo cáo
tổng kết. Tất cả mọi người, trong số này có cả Molotov (ông là người nhiều
tuổi nhất trong số chúng tôi và có nhiều cơ sở hợp với vai trò người báo cáo),
đồng thanh cử tôi làm báo cáo. Hình như về theo suy nghĩ hình thức, thì
thường Bí thứ thứ nhất BCHTƯ đóng vai trò báo cáo tổng kết. Nếu để người
khác báo cáo, thì có thể gây ra phức tạp. Sau khi Stalin chết trong số chúng
tôi không có ai được coi là người lãnh đạo sáng giá. Có nhiều người cũng
muốn đứng lên phất cờ, nhưng chưa có một người nào vượt trội cả. Vì thế
người ta trao việc làm báo cáo cho tôi. Nhưng khi ấy một số người, trong số
này có Vorosilov và Kaganovich, phản đối việc nói ra trên Đại hội điều gì
đấy về sự đàn áp phi pháp dưới thời Stalin.
Tôi chuẩn bị báo cáo. Bản báo cáo tổng kết được thảo luận tại Plenum
BCHTƯ và được tán thành. Bản báo cáo là thành quả của sáng tạo tập thể,
tập hợp các sức lực của BCHTƯ, của các viện nghiên cứu khoa học và một
loạt các cơ quan khác, và cả những nhân vật cuốn hút vào việc hình thành
báo cáo tổng kết. Đại hội khai mạc. Báo cáo  đã sẵn sàng. Triển khai các
tranh luận. Đại hội tiến hành tốt đẹp. đối với chúng tôi, tất nhiên, là một thử
thách. Đại hội sẽ ra sao sau khi Stalin chết? Nhưng tất cả các phát biểu đều
hoan nghênh  đường lối BCHTƯ, không cảm thấy một sự  đối lập nào cả,
không thấy những dấu hiệu của cơn bão tố nào cả. Tôi cũng luôn lo lắng, dù
rằng Đại hội tiến hành trôi chảy, báo cáo được hoan nghênh. Tuy nhiên tôi
cũng chưa bằng lòng. Một ý nghĩ dày vò tôi:
- Rồi Đại hội bế mạc, sẽ phải ra, và đây là hình thức thôi. Nhưng cái
gì tiếp? Trong lương tri chúng tôi vẫn đọng lại hàng trăm người bị giết oan,
kể cả hai phần ba uỷ viên BCHTƯ được bầu tại Đại hội 17. Ít ai còn nguyên   320
vẹn, hầu như tất cả các cốt cán chẳng đã bị bắn hoặc bị đàn áp. Hiếm có ai
gặp may để còn sống. Làm gì bây giờ?
Tài liệu của Uỷ ban của Pospelov nhói óc tôi. Cuối cùng tôi thu hết
sức lực và trong một lần nghỉ giải lao, trong gian phòng  Đoàn chủ tịch
BCHTƯ chỉ có một số uỷ viên, lại đặt vấn đề:
- Thưa đồng chí, tài liệu của Pospelov ra sao đây? Làm gì với những
người bị bắt và bị giết từ quá khứ? Đại hội bế mạc, và chúng tôi ra về, mà
không nói  được lời của mình? Chính vì chúng tôi cũng biết rằng những
người bị sự đàn áp là oan uổng, không phải là “kẻ thù nhân dân”.
Đây là những người lương thiện, trung thành với Đảng, cách mạng, sự
nghiệp Lenin xây dựng CNXH  ở Liên Xô. Họ sẽ từ nơi bị  đầy  ải trở về.
Chúng tôi đâm ra không giữ họ ở chỗ đó nữa Phải nghĩ xem làm thế nào để
họ quay về một cách danh dự.
Chúng tôi trước đó vẫn chưa thông qua quyết định xem xét việc này
và việc thả những người bị kết tội oan về nhà.
Ngay khi tôi nói xong, mọi người lập tức quẳng vào mặt tôi. Đặc biệt
Vorosilov:
- Anh làm gì thế? Chẳng lẽ thế này ư? Chẳng có lẽ có thể nói hết điều
này tại Đại hội? Điều này làm hỏng uy tín của Đảng ta, đất nước ta như thế
nào? Anh phải giữ bí mật về điều này chứ. Và khi đó người ta sẽ khiếu kiện
chúng tôi. Chúng tôi sẽ nói gì về vai trò cá nhân của chúng tôi?
Cả Kaganovich rất bực tức, và cùng một quan điểm như thế. Đó là
quan điểm không có tính Đảng sâu sắc mà là ích kỷ. Đây là sự phủi trách
nhiệm và nếu tội các còn sờ sờ ra đó thì phải ỉm đi, che giấu đi.
Tôi nói với họ:
- Điều này là không thể, thậm chí nếu lập luận từ quan điểm của các
ông. Không thể ỉm đi được. Người ta phải ra khỏi nhà tù, về nơi chôn rau cắt
rốn, kể lại cho họ hàng, người thân và bạn bè, đồng chí, cho toàn quốc và
toàn Đảng, biết rằng những người vẫn còn sống từng bị  đàn áp oan uổng.
Những người ngồi tù 15 năm, có ai đó còn bị hơn nhiều, hoàn toàn chưa là
gì. Tất cả những điều buộc tội họ chỉ là chuyện bịa đặt. Không thể im được.
Sau đó tôi đề nghị suy nghĩ: tiến hành Đại hội đầu tiên sau khi Stalin chết.
Tôi cho rằng chính trên Đại hội chúng tôi cần thành tâm nói hết tất cả sự thật
về đời sống và hoạt động của Đảng và của BCHTƯ trong thời gian tổng kết.   321
Chúng tôi bây giờ tổng kết từ thời kỳ sau khi Stalin chết, nhưng các uỷ viên
BCHTƯ phải nói như thế nào trong thời kỳ Stalin. Chúng tôi đã lãnh đạo đất
nước cùng với Stalin. Khi Đảng biết sự thật từ những người bị kết tội oan
trước đây, họ nói với chúng tôi: Hãy cho biết điều này là như thế nào? Đại
hội 20 họp, và ở đó người ta chẳng kể cho chúng ta cả. Và chúng tôi không
có khả năng trả lời. Chả lẽ nói rằng chúng tôi không biết gì hết, sé là lừa dối:
chính là chúng bây giờ biết tất cả sự thật, về sự đàn áp vô căn cứ, sự chuyên
quyền của Stalin.
Những phản  ứng quật lại cũng rất mãnh liệt. Vorosilov và
Kaganovich lặp lại bất tận:
- Người ta buộc chúng tôi phải chịu trách nhiệm. Đảng có quyền buộc
chúng tôi phải chịu trách nhiệm. Chúng tôi  ở trong ban lãnh  đạo, và nếu
chúng tôi không biết tất cả sự thật, đấy là tai hoạ của chúng tôi, nhưng chúng
tôi chịu trách nhiệm tất cả.
Tôi nói với họ:
- Nếu xem xét Đảng ta những một Đảng dựa trên tập trung dân chủ,
thì chúng ta, những người những người lãnh  đạo  Đảng, không có quyền
không biết. Tôi, và nhiều người khác nằm trong tình thế là, tất nhiên, không
biết nhiều, vì rằng được đặt trong một chế độ, lúc đó anh chỉ biết người ta
giao cho anh cái gì, còn những cái khác anh không được nói, và đừng thọc
mũi tiếp  điều này. Chúng tôi không chọc mũi. Nhưng không phải tất cả ở
trong tình thế như vậy. Một số trong chúng ta biết, một số thậm chí chấp
nhận tham gia giải quyết vấn đề này. Vì thế ở đây mức độ trách nhiệm cũng
khác nhau. Cá nhân tôi sẵn sàng là uỷ viên BCHTƯ Đảng từ Đại hội 17 và
uỷ viên Bộ chính trị từ Đại hội 18 chịu phần trách nhiệm của mình, nếu Đảng
thấy cần phải truy cứu trách nhiệm của ai lãnh đạo trong thời Stalin, khi sự
chuyên quyền hoành hành.
Họ là không đồng ý với tôi. Họ phản đối:
- Anh biết cái gì sẽ xảy ra không?
Lời đối đáp Vorosilov và Molotov đặc biệt the thé. Vorosilov chứng
minh rằng nói chung không cần làm điều này:
- Hừ, ai hỏi chúng ta cơ chứ? - ông lặp lại.
Tôi hỏi lại:   322
- Những tội ác có không? Chính chúng ta chứ không đợi ai khác, phải
nói rằng có. Khi nào người ta hỏi chúng ta, thì mới bắt đầu phán xét. Tôi
không muốn điều này và tôi không chịu trách nhiệm như thế.
Nhưng chẳng thể nào thống nhất ý kiến  được, và tôi  đã thấy rằng
không đạt được đúng quyết định từ các uỷ viên. Trong Đoàn chủ tịch của Đại
hội chúng tôi chưa đặt vấn đề này, chừng nào thoả thuận được nội bộ Đoàn
chủ tịch BCHTƯ. Lúc đó tôi đưa một đề nghị như sau:
- Đại hội Đảng cứ họp. Kỷ luật nội bộ Đảng cần có sự nhất quán của
lãnh đạo trong các uỷ viên BCHTƯ và uỷ viên Đoàn chủ tịch BCHTƯ, sẽ
không tác dụng trong thời gian Đại hội, bởi vì Đại hội có ý nghĩa cao nhất.
Bây giờ mỗi uỷ viên Đoàn chủ tịch BCHTƯ và uỷ viên BCHTƯ, trong số
này và tôi phải làm báo cáo tổng kết, từng người có quyền phát biểu tại Đại
hội và trình bày quan điểm của mình, thậm chí nếu quan điểm này không phù
hợp với quan điểm báo cáo.
Tôi không nói rằng tôi sẽ thông báo về tài liệu của Uỷ ban điều tra.
Nhưng, hình như có ai phản đối, cho rằng tôi có thể phát biểu và trình bày
quan điểm của tôi động chạm đến việc bắt bớ, bắn giết. Bây giờ tôi không
nhớ sau  đó những ai  ủng hộ  ủng hộ tôi. Tôi nghĩ rằng  đây là Bulganin,
Pervukhin và Saburov. Tôi không chắc lắm, nhưng tôi nghĩ rằng, có thể,
Malenkov cũng ủng hộ tôi. Ông là bí thư BCHTƯ phụ trách nhân sự, vai trò
của ông trong việc này là khá tích cực. Ông, nói riêng, cũng giúp đỡ Stalin
điều động cất nhắc cán bộ, rồi sau đó tiêu diệt họ. Tôi không dám chắc cá
nhân ông khởi xướng đàn áp. Chưa chắc. Nhưng tại những vùng, khu vực,
mà Stalin cử Malenkov đến đó để chỉnh đốn hàng ngũ, thì hàng nghìn người
bị đàn áp và nhiều người trong số này bị xử tử. Tuy nhiên Malenkov có thể
bây giờ ủng hộ tôi.
Có ai đấy nảy ra sáng kiến:
- Vấn đề đặt ra thế này, hình như tốt hơn là làm thêm một bản báo
cáo.
Lúc ấy mọi người miễn cưỡng đồng ý. Tôi nói với họ:
- Thậm chí ở những ai thực hiện những tội ác, lần này đến lúc họ có
thể thú nhận, và họ cũng được khoan hồng, không phải biện minh. Nếu thậm
chí từ quan điểm xem xét vấn đề báo cáo sự lạm quyền mà Stalin thực hiện,
thì có thể làm được ngay bây giờ, tại Đại hội 20. Để đến Đại hội 21 thì sẽ   323
muộn, nếu chúng ta còn kịp sống đến lúc đó và đòi hỏi những vấn đề trước
đây thì chẳng cần nữa. Vì thế tốt nhất làm bản báo cáo thứ hai từ bây giờ.
Khi đó nảy sinh vấn đề ai phải làm báo cáo. Tôi đề nghị Pospelov, và
lập luận đề nghị của mình là ở chỗ Pospelov nghiên cứu vấn đề này với tư
cách Chủ tịch Uỷ ban và viết tài liệu để chúng tôi sử dụng nó. Vì thế ông
không phải mất thời gian chuẩn bị: ông có thể chuyển các tài liệu này vào
báo cáo và đọc nó tại Đại hội. Những người khác (tôi không nhớ là ai) phản
đối và đề nghị là tôi làm luôn báo cáo này. Đối với tôi là bất tiện: vì trong
báo cáo tổng kết tôi không nói một lời nào về điều này, còn sau đó tôi lại làm
thêm báo cáo thứ hai? Và tôi từ chối. Nhưng họ phản đối tôi:
- Nếu bây giờ không phải là anh phát biểu, mà là Pospelov, cũng là
một trong những bí thư BCHTƯ, thì phát sinh vấn đề: Vì sao Khrusev trong
báo cáo tổng kết không nói tý gì về điều này, mà Pospelov lại phát biểu một
vấn đề quan trọng để tranh luận? Không thể Khrusev không biết tài liệu của
Pospelov hoặc không coi trọng sự cần thiết của vấn đề. Nghĩa là, về vấn đề
này có sự bất đồng trong lãnh đạo? Mà Pospelov phát biểu chỉ với ý kiến
riêng?
Luận cứ này cứ lằng nhằng mãi, cuối cùng tôi phải  đồng ý. Quyết
định rằng tôi sẽ phát biểu tài liệu của Uỷ ban cùng với báo cáo. Chúng tôi tổ
chức phiên họp kín trong thời gian tranh luận về tổng kết của BCHTƯ, ở đó
tôi cũng làm bản báo cáo thứ hai.
Đại hội nghe tôi một cách im lặng. Như người ta nói có thể nghe được
tiếng ruồi bay. Mọi người đều quá bất ngờ. Cần, tất nhiên, biết rằng các đại
biểu đã sửng sốt về những câu chuyện về sự độc ác được thực hiện đối với
những người từng có công lao, những bolsevich lão thành và những người
trẻ. Bao nhiêu người lương thiện từng được điều động đến khác nhau của đất
nước đã bị giết! Đây là một thảm khốc cho Đảng và cho các đại biểu tham dự
Đại hội. Báo cáo tại Đại hội 20 ĐCSLX về sự lạm quyền của Stalin đã ra đời
như thế.
Tôi xem rằng vấn  đề  được  đưa ra hoàn toàn  đúng lúc và kịp thời.
Không những không hối hận, những một số người nghĩ, mà còn thoải mái
trong lòng rằng đã chộp đứng thời điểm và đã cố làm để bản báo cáo này
được làm. Tất cả việc này có thể đưa đến hướng khác, mọi người còn bị sốc
là còn nhiều người cũng bị giam cầm nhe trước đây trong các nhà tù và trại
cải tạo. Năm 1953 chúng tôi đã có giả thiết về vai trò Beria dường như, Beria   324
hoàn toàn chịu trách nhiệm về sự lạm quyền thực hiện thời Stalinе. Điều này
cũng gây sốc. Chúng khi  đó tôi không cách nào gột khỏi ý nghĩ Stalin -
người bạn của mọi người, bố đẻ nhân dân, thiên tài và vân vân... Không thể
ngay lập tức hình dung rằng Stalin - kẻ sát nhân và tên hung đồ. Vì thế sau
bản án cho Beria chúng tôi lại luẩn quẩn trong giả thiết mà chúng tôi xây
dựng nên có lợi minh oan cho Stalin: Ông Trời không có lỗi, mà lỗi ở kẻ
nịnh bợ, kẻ báo cáo sai cho Trời, vì vậy Trời mới giáng mưa đá, sấm sét và
các tai hoạ khác. Nhân dân bị khổ sở không phải vì Trời muốn thế, mà do tên
nịnh nọt Nicolai, Ilia Prosok, Beria và vân vân... Và bây giờ có lần có người
đặt câu hỏi:
- Liệu có cần phải kể về Stalin không?
Đây hoàn toàn không phải là những người  đồng phạm của Stalin
trong tội ác, mà thực chất họ là những người quen thói sợ Stalin, và bây giờ
họ khó xử. Thông thường các vị lão thành  đặt các vấn  đề như thế. Họ  đã
sống với quá khứ, họ khó từ bỏ nổi những hiểu biết trước đây và luận cứ của
thời Stalin. Đây cũng một trong những khuyết điểm giáo dục Đảng viên. Tất
cả các phương pháp giáo dục trong Đảng, Stalin làm nó thích ứng với mình,
với hoạt động của mình: sự tuân lệnh không bàn cãi, sự tín nhiệm tuyệt đối.
Trong thời gian chiến tranh có chết chóc mà không nghi ngờ, tất nhiên,
nhưng sau này luôn luôn quay ngoắt theo hướng ngược lại, vì rằng một
người tin anh mà không bàn luận, khi biết, sự tín nhiệm của anh ta bị lừa, họ
sẽ là kẻ thù của anh. Điều này rất nguy hiểm. Tôi luôn luôn đã đứng, hơn nữa
bây giờ tôi đang đứng vì sự thật, vì sự đúng đắn tuyệt đối trước Đảng, Đoàn
thanh niên và tất cả nhân dân. Có một kết luận là chỉ có nguồn gốc bất tận
sức mạnh của Đảng mới có thể chiếm được sự tín nhiệm nhân dân. Người ta
biết rằng Đảng đã lừa quần chúng đông đảo, Đảng đến đường cùng.
Bây giờ tôi thường nghe đài. Radio - đó là người bạn đồng hành của
tôi trong thời gian dạo chơi. Từ radio tôi nhận cả thông tin, cả sự thoả mãn.
Tôi yêu âm nhạc, yêu dân ca. Nhạc hiện đại cũng làm tôi thích. Nhưng, tôi
cảm thấy, hình như con người độ tôi có xu hướng sống lại tời trai trẻ. Đặc
biệt trong tâm trạng tốt, tôi vừa đi bộ, nghe giọng hát của Ludmina Zykina,
ca sĩ mà tôi yêu thích, và nghe cả những buổi truyền khác. Các buổi truyền
thanh rất nhiều,  đa phần là tốt, nhưng cũng gặp cả những những chuyện
nhảm nhí, chỉ có làm bẩn chương trình phát sóng thôi.   325
Một lần tôi nghe đọc một trong các chương cuối tiểu thuyết “Họ chiến
đấu vì tổ quốc” của Solokhov. Mikhail Aleksandrоvich tin bởi sự sáng tác
của mình: chuyện thời Stalin lạm quyền, ông trấn áp những cán bộ lương
thiện,  được Lenin giáo dục, Solokhov tả về cuộc nói chuyện của hai ông
đánh cá. Họ ngồi và chuyện trò. Người này hỏi người kia:
- Nên hiểu đồng chí của Stalin như thế nào nhỉ? Người ta nói rằng ông
bỏ sót. Nhưng bao nhiêu người bị tội, bao nhiêu người bị hành quyết! Có thể
Stalin phạm vào điều này không?
- Đúng, khó hiểu - người kia trả lời.
Lúc đó người đầu tiên lại hỏi:
- Thế không phải Beria chính là người có lỗi à? Chính ông báo cáo tất
cả cho Stalin?
Và câu trả lời:
- Đúng, tất cả là do Beria.
Mikhail Aleksandrоvich - một người thông minh và nhà văn giỏi. Sự
thật việc ông lại bám vào cách hiểu biết tương tự theo truyền thống của
chẳng và nhân dân, trong khi bao nhiêu người chết bởi tay Stalin, tất nhiên,
không tô hồng cho ông. Lúc ấy cốt lõi là thế này: Beria không dựng Ezov,
mà từ trước đây, dựng Yagoda. Tất cả bọn họ tiếp theo chân nhau vào màn
kịch. Một “nhân vật”, được Stalin dựng lên, sẽ được thay thế bằng nhân vật
khác, và đây cũng là logic đối với Stalin. Stalin dùng tay người khác để giết
những người lương thiện và ông biết rằng họ là những người trong sạch
trước nhân dân và trước Đảng. Những người chết chỉ vì rằng ông ông sợ họ
và không tin họ. Sau đó, phải dần dần loại bỏ một đồ tể và thay bằng một đồ
thứ hai. Cứ như thế ba thê đội tiễu phạt: trước tiên Yagoda, sau đó Ezov, sau
đó Beria.
Đến Beria, thì  điều này chấm dứt. Nói  đúng ra, không phải chính
Beria, mà do cái chết của Stalin. Beria đứng trước toà án nhân dân như một
tội phạm. Nhưng khi đó chúng tôi vẫn còn lẩn quẩn về cái chết Stalin, thậm
chí khi mọi người biết rõ nhiều sau phiên toà xử Beria, vẫn còn  đưa cho
Đảng và nhân dân những lời giải thích không đúng, tất cả đổ bớt sang đầu
Beria. Đối với chúng tôi, Beria tỏ là tiện lợi cho hình ảnh này. Chúng ta đã
làm tất cả để bào chữa cho Stalin, dù chúng ta che chở được tên tội phạm, tên
giết người, vì chúng tôi vẫn chưa thoát khỏi sự ngưỡng mộ Stalin.   326
Lần đầu tiên tôi thực sự cảm thấy sự dối trá, khi tôi đến Nam Tư và
hội đàm và Tito và đồng chí khác. Khi chúng tôi đụng chạm vấn đề này và
đổ cho Beria, họ cười và đáp lại một cách nhạo báng. Điều này làm chúng tôi
ức, và chúng tôi, để bảo vệ Stalin, đã cãi nhau rất to, thậm chí suýt đến đổ vỡ
to. Sau đó tôi công khai phát biểu bảo vệ Stalin và chống Nam Tư. Bây giờ
tất cả rõ ràng là không  đúng, lúc  ấy tôi  ở quan  điểm của một người chưa
nhận thức được cần vạch mặt đến cùng những tội ác của Stalin, sao cho các
phương pháp hành xử tương tự không bao giờ có thể quay về Đảng ta nữa.
Người, quả là muốn thiết lập kỷ luật của Lenin trong Đảng ta, mình không
phải kỷ luật của Stalin, phải làm hết sức lực để phanh phui Stalin và sự kết
án các phương pháp Stalin. Cần phải minh oan những người lương thiện
trong số những người chưa được minh oan, và phanh phui những sự phi pháp
được tạo ra trước đây, để thậm chí bóng ma của những phương pháp như thế
không thể đội mồ sống lại.
Tôi sửng sốt bởi một số tướng lĩnh lớn quân đội trong hồi lý của mình
muốn minh oan cho Stalin và cho ông là người cha nhân dân, đã chứng minh
rằng nếu không có ông thì chúng tôi không chiến thắng và rơi vào ách phát
xít. Đây là lý luận ngu ngốc, mù quáng. Ngay bây giờ, khi không có Stalin,
chúng tôi vẫn bị rơi vào  ảnh hưởng của Đức, Anh, Mỹ hay sao? Không,
không bao giờ. Nhân dân đưa ra những người lãnh đạo mới và có khả năng
bảo vệ mình như từng có trong quá khứ. Sự phi lý của những bàn luận như
thế không cần thiết trong những bằng chứng riêng.
Tôi nhớ, tại một hội nghị, một chỉ huy quân sự, nhân ca ngợi Stalin,
cũng tôn vinh cả Bliukher. Những người khác, tuy ca ngợi Stalin, cũng tôn
vinh Tukhachevski. Đồng chí, phải ăn nói có trước có sau! Không thể đặt kẻ
giết người và nạn nhân lên một bệ. Bliukher là ai? Anh hùng nội chiến, có
bẩm sinh quân sự, thợ nguội, nằm trong hàng ngũ tướng lĩnh lớn. Ông đã
nhận huân chương Cờ Đỏ №1. Bliukher là số một. Sau đó, là một trong số
những chỉ huy quân sự tốt nhất của Liên Xô được cử sang Trung Quốc làm
cố vấn quân sự cho Tôn Trung Sơn. Và bỗng nhiên ông bị bắn! Không thể
nói cùng một lúc về Stalin và Bliukher, mà lờ  đi nguyên nhân cái chết
Bliukher. Không thể nhắm mắt cho rằng chẳng ai nhìn thấy gì cả. Sự xấu xa
tương tự có thể chỉ gây ra mất lòng tin.
Tôi có lần ở Bulgari, một trong những bài phát biểu tôi dẫn lời của
Puskin, trong tác phẩm của ông có nói về cuộc nói chuyện giữa Mozart và
Salere. Mozart không hề nghi ngờ rằng Salere chuẩn bị đầu độc mình, nói:   327
- Thiên tài và tội ác không thể là một.
Đúng vậy! Với Stalin cũng vậy. Không thể ghép thiên tài và sát nhân
vào cùng một bộ mặt. Không thể gắn hàng nghìn nạn nhân với những kẻ sát
nhân, mà không có sự giải thích về vụ việc Stalin. Không thể trên một bệ đặt
hai bức tượng. Tội ác do Stalin gây ra!
Theo lối nghĩ như thế - có câu hỏi khác. Một số người tranh luận như
thế này: điều này được làm không phải nhằm mục đích vụ lợi cá nhân, mà là
lo cho dân. Thật mọi rợ! Lo cho dân, thế mà lại giết những đứa con tốt nhất
của họ! Logic khá ngu đần. Sự thật, tìm những luận cứ để biện bạch cho kẻ
giết người, luôn luôn là phức tạp.
Trong báo cáo của tôi tại Đại hội 20, không nói gì iên quan tới những
vụ án công khai thập niên 30, trong đó có mặt đại diện Đảng cộng sản anh
em. Lúc đó người ta kết án Rykov, Bukharin, những lãnh tụ khác của nhân
dân. Họ xứng đáng để được gọi là lãnh tụ. Chẳng hạn, Rykov. Sau khi Lenin
qua đời, ông trở thành Chủ tịch Hội đồng Dân uỷ Liên Xô, có công lao to
trước Đảng, trước nhân dân và xứng  đáng lãnh  đạo Chính quyền xô viết.
Nhưng người ta kết án và bắn ông. Còn Bukharin? Bukharin là trong những
yêu quý Đảng. Thế hệ Đảng viên lão thành  РĐCS(b) từng học theo cuốn
sách của ông Khoa học Mác Lênnin. Bukharin nhiều năm là chủ bút báo Sự
Thật. Lenin gọi ông thân mật là “Bukhric của chúng ta”. Hoặc Zinovev và
Kamenov. Trong cách mạng tháng Mười 1917 họ có sai lầm. Điều này ai
cũng biết, nhưng những cái khác cũng nên biết. Zinovev và Kamenov được
Lenin  đưa vào Bộ chính trị BCHTƯ Đảng và ngang hàng các vị lãnh đạo
khác Khi Chính phủ xô viết chuyển về Moskva, Zinovev còn ở Petrograd.
Ông  được tin tưởng giao lãnh  đạo cái nôi cách mạng và  đã nâng ngọn cờ
khởi nghĩa tháng Mười năm 1917. Kamenov được Moskva tin tưởng. Ông là,
nói riêng, là Chủ tịch Mossoviet. Lenin vc quan hệ với ông sau những sai
lầm người ta đã tha thứ cho ông.
Có lần tôi nghe  đài nói là: Lenin trao một cái gì  đó cho Lomov.
Nhưng Lomov ở đâu nhỉ? Tôi biết rõ Lomov, không ít lần tiếp xúc với ông,
khi làm việc tại Donbass, từ sau nội chiến. Lúc đó ông lãnh đạo khai thác
than tại Donbass. Tôi thường có mặt tại các buổi họp của ông, hoặc 
Kharkov, nơi trụ sở chính của ông. Đó là một người rất  được kính trọng
trong Đảng с thâm niên bí mật trước cách mạng. Lomov đâu rồi? Ông bị bắn,
không còn Lomov nữa. Tôi nói về Kedrovе, Tukhachevski, Egorov,   328
Bliukher, và những người khác. Có thể lập một quyển sách dày thống kê chỉ
những họ tên những tướng lĩnh, Các nhà lãnh đạo Đảng, Đoàn thanh niên,
kinh tế, ngoại giao, khoa học. Tất cả đều là những người lương thiện. Họ là
nạn nhân của Stalin, nạn nhân sự chuyên quyền.
Vấn đề những vụ án công khai thập niên 30 cũng cũng có hai mặt.
Chúng tôi lại sợ nói đến tận cùng, mặc dù không gây ra nghi ngờ nào, rằng
những người này không có tội, họ là nạn nhân sự chuyên quyền. Tại các vụ
án xử công khai, có mặt những người lãnh đạo đảng anh em, mà chính họ sau
này đã chứng minh tại nước họ đây là những bản án chính đáng. Chúng tôi
không muốn làm mất uy tín về những tuyên bố của họ, và hoãn lại việc minh
oan cho Bukharin, Zinovev, Rykov và những người khác đồng chí trong một
thời hạn chưa định được. Tôi nghĩ rằng đúng là cần phải nói đến cùng. Cái
kim trong bọc cũng phải lòi ra.! Thành công chủ yếu Đại hội 20 - là nó bắt
đầu quá trình làm trong sạch Đảng và đưa Đảng trở lại chuẩn mực sinh hoạt,
mà Lenin và những đứa con thân yêu nhất của đất nước đã làm vì nó.
Một phần những người bị kết án sai đã được tha, ngay khi Stalin chết.
Beria khi đặt vấn đề này, điều chỉnh nó, đưa ra một đề nghị thích hợp, và
chúng tôi  đồng ý với ông. Nhưng té ra là những người  được tha lại là tội
phạm hình sự: giết người, trấn lột, bọn vô lại và đểu cáng. Khi bọn này quay
về nơi ở cũ, thì tái diễn những cảnh trộm cắp, cướp giật và giết người. Nhân
dân ca thán rằng người ta thả bọn trộm cắp và giết người và họ làm bẩn sự
nghiệp của mình. Trước đó Beria bị vạch mặt và kết án. Vì thế chính chúng
tôi phải đưa cho nhân dân những chỉ thị. Bản thân chúng tôi cũng thấy đây là
việc làm không đúng, mặc dù thông qua đề nghị của Beria, nhưng quyết định
lại do Chính phủ và BCHTƯ thông qua, như vậy tất cả chúng tôi chịu trách
nhiệm về việc này. Bao nhiêu đối tượng này được thả, tôi khó nói được, tuy
nhiên trong mọi trường hợp cũng là một đội quân lớn.
Những người bị kết án về chính trị và những người bị lưu đày vẫn còn
nằm trong các nhà tù và các trại tập trung. Beria thậm chí đề nghị thông qua
luật trao quyền cho Bộ nội vụ, nghĩa là Beria, có quyền xem xét là thả ai cho
ai sau khi hết thời hạn trừng phạt. Như tôi đã kể, tôi đã thẳng cánh phản đối
như thế nào, và mọi người ủng hộ tôi. Do đó, Beria rút đề nghị này. Số phận
tất cả những người tù chính trị ra sao, khi Viện trưởng Viện Kiểm sát
Rudenko trình tôi về sự vô tội của họ, tôi hỏi ông:   329
- Sao lại thế? Chính tôi đã nghe, họ thú nhận tội mình người ta buộc
cho họ cơ mà.
Rudenko cười:
- Đó là nghệ thuật của người điều tra và người xử. Hình như những
con người này bị dồn đến trạng thái, chỉ có một cách duy nhất để kết thúc
sớm những đau khổ và nhục nhã - là tự thú nhận, bước sau đó là cái chết”.
Sau Đại hội 20 ĐCSLX
Ngay sau Đại hội 20, trong tất cả các ĐCS, đặc biệt Pháp và Ý bắt
đầu xúc  động. Cũng dễ hiểu rằng  đó là những  Đảng vô sản,  đông quần
chúng, mà tại những phiên toà xử “kẻ thù nhân dân” lại có mặt Torez và
Toliatti, hai ông này về sau làm nhân chứng cho nước họ rằng những người
bị khép tội là đúng luật. Thế mà bây giờ tất cả xoay ngược lại! Tình tiết này
cũng ngăn họ không công bố tư liệu phiên toà công khai, mặc dù cũng chẳng
có tội ác nào cả và các bản án chỉ có tính ý nguyện và không chứng minh
được tội ác của những bị cáo “tự thú nhận”.
 Bắt đầu mây đen ở Ba Lan. Sau Ba Lan,  lan sang Hungary. Sau khi
người lãnh đạo Ba Lan là Berut qua đời, tôi, đại diện toàn quyền BCHTƯ
ĐCSLX,  đến Warsawa, tham dự Plenum BCHTƯ Đảng công nhân thống
nhất Ba Lan. Tôi không có mặt tại các phiên họp này để người ta không buộc
tội Liên Xô can thiệp vào nội bộ Đảng anh em. Các phiên họp tiến hành rất
sóng gió, các uỷ viên BCHTƯ Đảng công nhân thống nhất Ba Lan bày tỏ
không hài lòng với Liên Xô. Những người trong BCHTƯ Đảng Ba Lan, thân
với chúng tôi, đã kể như thế. Điều này làm chúng tôi không sung sướng gì,
nhưng chúng tôi cho rằng đây là thể hiện dân chủ - một yếu tố tích cực. Tuy
nhiên, sau một thời gian, ở đấy xảy ra những sự kiện làm chúng tôi lo ngại.
Tại Plenum, Okhab được bầu làm Bí thư thứ nhất BCHTƯ Đảng công
nhân thống nhất Ba Lan. Chúng tôi cũng có những quan hệ cá nhân tốt với
Okhab. Tôi kính trọng ông, theo tư liệu, ông hoàn toàn xứng đáng điều này.
Một người cộng sản lão thành, trải qua trường học cách mạng trong tù. Và
thoạt đầu, chúng tôi cho rằng ông xứng đáng tin cậy. Sau khi ông được bầu
làm Bí thư thứ nhất, chúng tôi hội đàm với ông, và tôi đặt vấn đề:
- Tại sao Gomumka lại ngồi ngồi tù ở Ba Lan?
Khi tôi nói điều này với Berut, thì ông ta trả lời tôi như thế này:    330
- Tôi và chính tôi cũng không biết, tại sao Gomumka ngồi tù và ông
bị buộc tội gì.
- Ông nghĩ xem, có thể tha ông ấy được không?
Thế là Okhab bắt đầu chứng minh với tôi rằng không thể tha được.
Ngồi tù không chỉ một mình Gomumka: mà còn cả Slykhanski, cả Loga-
Sovinski, Klisko và nhiều người khác. Điều này làm tôi lo ngại, và tôi không
thể nào hiểu, vì sao họ bị giữ trong tù. Tôi thảo luận hầu như với tất cả các vị
lãnh đạo Đảng công nhân thống nhất Ba Lan, và họ đều chứng minh rằng
không thể làm một cái gì cả, không thể tha những người này.
Sau một thời gian, Okhab dẫn  đầu Đoàn  đại biểu  đến Trung Quốc.
Khi họ quay về nước, ghé qua Moskva, tôi lại bàn bạc với Okhab. Trước đó
Gomumka được tha, và tôi hỏi Okhab:
- Liệu chúng tôi chúng tôi có thể mời Gomumka đến Liên Xô, nghỉ ở
Hắc hải, ở Krym hoặc Kavkaz, nơi có khí hậu tốt lành để nghỉ hơn là ở Ba
Lan.
Ông trả lời không rõ ràng và quay về Warsawa. Điều này làm tôi lo
ngại, thậm chí còn băn khoăn. Và đúng sau một vài ngày đại sứ của chúng tôi
ở Ba Lan cho biết ở Ba Lan bùng ra sự kiện là nhiều người Ba Lan phỉ báng
Liên Xô và suýt nữa thì đảo chính, do những người chống Liên Xô tiến hành.
Phát sinh mối đe doạ tuyến giao thông, liên lạc của chúng tôi ở CHDC Đức,
qua Ba Lan. Nhưng sự kiện  ở Ba Lan chúng tôi rất lo ngại và có những
nguyên nhân khác nhau, và chúng tôi quyết định áp dụng các biện pháp để
đảm bảo cho chúng tôi tự do qua lại Ba Lan và đảm bảo liên lạc với quyết
định Liên Xô ở CHDC Đức. Chúng tôi dự định cử một Đoàn đại biểu đến Ba
Lan, nhưng trước khi đi, chúng tôi gọi điện cho phía Ba Lan. Tình hình ở đó
tiếp tục nóng bỏng. Báo chí Ba Lan mạnh mẽ phê bình Liên Xô, dường như
Liên Xô cướp bóc Ba Lan, mua than của họ theo giá rẻ và bán cho họ quặng
sắt theo giá cao. Những việc này quả thật xảy ra thời Stalinе, khi chúng tôi
mua bán với các nước dân chủ nhân dân không theo giá thế giới, mà là áp
đặt. Lãnh đạo Ba Lan khuyên chúng tôi không đến vào lúc này. Nhưng điều
này lại càng làm chúng tôi lo ngại hơn, vì lẽ những người Ba Lan rõ ràng
chứng minh rằng họ không muốn gặp chúng tôi Và chúng tôi quyết  định
nhanh chóng cử một Đoàn đại biểu đến đó gồm: Khrusev, Mikoian, Bulganin
và một số người khác.   331
Chúng tôi bay đến Warsawa. Ở đó chúng tôi gặp Okhab, Gomumka,
những đồng chí khác. Cuộc gặp rất lạnh lùng. Khuôn mặt của Okhab lộ rõ vẻ
lo âu. Tất cả kéo đến dinh thự, cung điện ở Larenka nơi bắt đầu đàm phán ở
mức gay gắt. Chúng tôi cảnh cáo về việc làn sóng chống xô viết tăng lên ở
Ba Lan và tuyên bố rằng chúng tôi kiên quyết đảm bảo giao thông, liên lạc
của mình với quân đội xô viết ở CHDC Đức. Đó là áp lực thẳng thừng từ
phía chúng tôi. Okhab nổi khùng:
- Ông đưa yêu sách cho tôi phải không? Bây giờ tôi không phải là bí
thư BCHTƯ. Ông đi mà hỏi người khác.
Và ông ta chỉ sang Gomumka. Lời nói của Okhab lộ ra vẻ không hài
lòng. Chúng tôi khi ấy có một ấn tượng nặng nề về tình hình trong ban lãnh
đạo Ba Lan. Chúng tôi không biết thực chất tình hình và sợ rằng chính quyền
rơi vào tay những người đang tiến hành chính sách chống Liên Xô. Nhưng
chúng tôi không muốn trở lại những quan hệ của chúng tôi với Ba Lan như
trước chiến tranh, mà chúng tôi vẫn chưa phai trong đầu.
Gomumka cố gắng xua tan nghi ngờ của chúng tôi. Ông đồng ý rằng
tình thế ở Ba Lan là phức tạp và làn sóng chống xô viết tăng lên. Nhưng ông
cam đoan tình hữu nghị với Liên Xô cần thiết sống còn đối với Ba Lan và
mối quan hệ của chúng tôi không bị phá huỷ. Tôi tin rằng trong một thời gian
ngắn, thì làn sóng  không hài lòng sẽ bị bớt  đi và tình hình trở lại bình
thường. Tuy nhiên sau này bắt đầu thên sự kiện ở Hungary. Lúc đó, theo tôi,
có hai ĐCS, mà lãnh đạo không yên ổn. Ở Hungary thời Stalin cũng nhiều
người bị bắt bắt, tôi cho rằng không phải Stalin khởi xướng bao nhiêu thì
Rakosi làm bấy nhiêu. Điều này được làm thông qua cố vấn của chúng tôi do
Stalin cử đến ngồi ở Ba Lan, Hungary, và các nước anh em khác. Qua những
người này, Stalin hành xử ở đó với cùng một phương pháp hành xử ở Liên
Xô. Sau các cuộc thương thuyết ở Warsawa chúng tôi quay về Moskva dưới
một ấn tượng lời tuyên bố căng thẳng nhưng chân thật của Gomumka rằng
tình hữu nghị của Ba Lan với Liên Xô cần hơn tình hữu nghị của Liên Xô
với Ba Lan. Ông nói:
- Chẳng có lẽ chúng tôi không hiểu tình thế mà chính chúng tôi không
có Liên Xô không giữ được biên giới phía tây của mình. Chúng tôi tự xem lại
các vấn đề nội bộ, những quan hệ với Liên Xô vẫn là, vẫn là tình hữu nghị
không thay đổi và liên minh.   332
Mặc dù ông nói điều này hơi cao giọng, nhưng không đến nỗi khó để
tin. Và tôi tin ông, nói với các đồng chí của mình:
- Tôi nghĩ rằng chúng tôi không có cơ sở  để không tin Gomumka.
Ông được bầu Bí thư thứ nhất BCHTƯ Đảng công nhân thống nhất Ba Lan.
Phần đông các đồng chí Ba Lan tin ông. Tôi cảm thấy rằng lời tuyên bố của
Gomumka được những người khác ủng hộ. Chính ông nói điều này không
phải là bí mật, mà là công khai, tại cuộc họp lãnh đạo. Tất cả mọi người đã
nghe thấy. Phải cho rằng lần này không ai, tất cả đều đồng ý.
Tuy nhiên một thời gian dài tình hình ở Ba Lan vẫn căng thẳng và làm
chúng tôi rất lo ngại.
Trước mắt chúng tôi còn có cả những mối quan hệ với các nước làng
giềng. Thời kỳ  đó, vấn  đề nghiêm trọng nhất - chất lượng sản phẩm của
chúng tôi. Đáng tiếc, chúng tôi không cách nào đuổi kịp các nước tư bản.
Nhưng để thi đua thành công với họ, để chủ nghĩa xã hội lôi cuốn mọi người,
chúng tôi cần làm tốt nhất. Chúng tôi phải ngả mũ kính chào chủ nghĩa tư
bản. Điều này thật xấu hổ. Đáng tiếc, anh hãy dùng radio, ô tô, máy ghi âm
của chúng ta sản xuất. Chất lượng ra sao? Chúng tôi ghi nhận 50 năm cách
mạng tháng Mười bằng việc mua ở “chủ nghĩa tư bản thối nát” nhà máy ô tô
mác “Fiat”.
Chắc chắn những ô tô này ở đó là lỗi thời, mà những người tư bản
không phải là ngu: họ bán cho chúng ta model thải ra khỏi sản xuất, chính họ
lại lắp model mới. Đáng tiếc, chúng tôi vẫn còn không thể làm việc chúng tôi
mong muốn. Tôi nói rằng chúng ta vẫn còn lạc hậu. Nhưng những người lạc
hậu, từng có một lúc nào đó sống ở Nga, đã chết từ lâu rồi. Hãy lấy Nhật Bản
làm thí dụ: Nhật Bản hoàn toàn tiêu điều sau chiến tranh, bây giờ chiếm vị trí
hàng đầu trên thế giới. Nhật Bản cũng đọ sức trong vấn đề tiến bộ kỹ thuật
với Mỹ và Tây Đức cũng một phần nào nằm trong đống đổ nát.
Thật ra trong một số lĩnh vực khoa học và kỹ thuật chúng tôi đang ở
phía trước. Chẳng hạn, chúng tôi phát minh ra phương pháp rót thép nóng
chảy thép liên tục. Chúng thậm chí chúng tôi  đã bán hát minh cho Mỹ.
Nhưng những thí dụ như thế chỉ là nhỏ so sánh với cái chúng tôi mua từ họ.
Khi chúng tôi cố sức mở rộng khai thác dầu mỏ, chúng tôi cần chất chỉ thị
buryl. Chúng tôi làm được những chất chỉ thị tốt, tuy nhiên chất chỉ thị của
Mỹ không thể so sánh được với chúng ta. Lúc ấy Mỹ vượt xa Liên Xô. Chất
chỉ thị buryl tốt nhất này được sản xuất ở Rumani. Tôi hỏi Georgy-Degia về   333
điều này. Ông mỉa mai: người ta nói chúng tôi là ở Mỹ có một nhà tư bản
người Rumani trong ngành công nghiệp dầu mỏ. Ông ta giúp đỡ chúng tôi
đánh cắp bản thiết kế của Mỹ. Các thiết bị của Rumani làm theo bản thiết kế
của Mỹ. Chúng tôi muốn mua của Rumani bản thiết kế này. Tôi nói Georgy-
Degia:
- Cho chúng tôi bản thiết kế nhé!
Ông nói:
- Cầm lấy đi.
Cầm lấy đi... với người Rumani giữa từ “cầm lấy đi” và “nhận đi” -
một khoảng cách rất xa.
Nói chung lãnh  đạo Rumani còn trẻ. Họ thúc  đẩy nhanh nền công
nghiệp của mình, xây dựng nông trang nhanh và tốt. Rumani về văn hoá
trước  đây  đứng dưới các nước Đông Âu, bây giờ thì cao hơn, chẳng hạn,
nông dân mù chữ. Nhưng, dù thế, Rumani chẳng bao lâu nữa sẽ đi lên. Tất
nhiên Rumani có điều kiện thiên nhiên thuận lợi hơn các nước xã hội chủ
nghĩa khác. Họ, nói riêng, có nhiều dầu mỏ, khí  đốt, rừng, bánh mỳ. Các
nước xã hội chủ nghĩa khác cũng chưa phải có đủ lương thực, còn Rumani
xuất khẩu bột mỳ. Chúng tôi thường giận Rumani rằng họ bán bột mỳ cho
thế giới tư bản, mà không bán cho các nước xã hội chủ nghĩa. Nhưng nếu lấy
thí dụ Ba Lan có thừa ngũ cốc, họ có lẽ, khôn hơn Rumani. Họ có thể bán lúa
mỳ cho CHDC Đức bằng hàng hoá giá trị. Nhưng chính là mỗi quốc gia đều
muốn có ngoại tệ và chạy ra thị trường thế giới. Vì thế không thể giận
Rumani.
Nhân đây, tôi nhớ lại có lần Gomumka đến Moskva và đề nghị bán
cho Ba Lan lúa mạch ngoài kế hoạch, mà cái đó chính lại là bánh mỳ của
chúng ta. Tôi thấy Gomumka khôn lỏi, không nói thật, và tôi nhận xét:
- Ông muốn mua luá mỳ, nhưng tôi biết rằng Ba Lan tự cung cấp
được lúa mạch. Ông muốn mua ngũ cốc của chúng tôi để nuôi lợn và bán thịt
thăn hun khói cho Mỹ.
Gomumka luống cuống, sau đó trả lời:
- Đúng.
- Và ông nghĩ rằng chỉ có người Ba Lan biết làm điều đó, còn người
Nga - là những người ngu sao? Ông mua ngũ cốc ở Canada bao nhiêu cũng
được, biến thành thịt và bán thịt đi.   334
- Nhưng ở đó phải trả ngoại tệ.
Vấn đề thế đấy. Mối quan hệ tương hỗ giữa các nước xã hội chủ nghĩa
cũng có thể rất phức tạp, và có những lý do khác nhau. Sau cuộc đàm phán
này với Gomumka tất cả chúng tôi cung cấp ngũ cốc cho Ba Lan. Nhưng
chẳng có lẽ đây là một một trường hợp duy nhất, khi Liên Xô bớt miệng để
giúp đỡ những người bạn?
Bao nhiêu lần,  đôi khi, chúng tôi  đồng ý kế hoạch, nhưng sau  đó
Gomumka hoặc lại có ai đấy gọi:
- Đồng chí Khrusev, tôi đề nghị tiếp tôi, chúng tôi có vấn đề hóc búa.
Người ta đến. 
- Đồng chí Khrusev, ông cung cấp cho chúng tôi chừng này quặng với
hàm lượng sắt chừng này, chúng tôi không hoàn thành kế hoạch. Hãy giúp
chúng tôi, cho chúng tôi nhiều quặng hơn, hàm lượng sắt cao hơn.
Nhưng cái đó nghĩa là gì? Chúng tôi cho họ số quặng, mà để có được
điều này chúng tôi phải chế biến từ quặng sắt hàm lượng thấp. Lại chuyện cà
chua Bulgari. Chúng tôi nhận những thứ không ra gì. Người Bulgari quen
nghic rằng người Nga ăn mọi thứ rác rưởi, xin lỗi vì cách nói này, thế là họ
hái cà chua còn xanh, và làm chín đỏ chúng khi vân chuyển. Đó là những thứ
kém phẩm chất! Họ cũng chở cà chua đến Tây Đức, nhưng không phải loại
cà chua như thế, vì rằng sẽ không ai mua, ở đó là sự cạnh tranh. Nhưng họ
bán để người tiêu dùng nước ta ăn. Đấy là cà chua kỳ diệu. Bulgari - nước
trồng trọt tốt nhất thế giới. Nhưng cà chua ngon, chỉ khi hái chúng vào buổi
chiều, còn buổi sáng thì mang lên bàn.
Nhiều vấn đề khác nhau nảy sinh quan hệ giữa các nước xã hội chủ
nghĩa. Nếu không đề cập và giải quyết, thậm chí có thể gây ra xích mích.
Chúng tôi giận là nhiều nước xã hội chủ nghĩa nhìn Liên Xô như con bò sữa.
Nhưng chính chúng tôi còn sống khổ hơn nước nước mà chúng tôi giúp đỡ.
Mức sống được xác định bằng sự tiêu thụ trên một đầu người dân. Thí dụ
tiêu thụ thịt. Năm 1964  ở CHDC Đức 75 kg  đầu người một năm,  ở Tiệp
Khắc là 65, Ba Lan - dưới 50, sau đó là Hungary, sau đó chỉ có - Liên Xô, và
thấp hơn là Bulgari - 26 kilogam. Có lần nói với Ulbrich:
- Walter, tôi không cần bình quân đâu, nhưng phải hiểu tình thế chúng
tôi. Chúng tôi chiến thắng, chúng tôi đánh tan Đức Hittler, và chúng tôi cho
CHDC Đức ngũ cốc và hàng hoá giá trị ngoại tệ, để ông có thể bán cho nước   335
ngoài, mua về thịt và đảm bảo tiêu thụ trên đầu người là 75 kg. Nhưng ông
có lo cho chúng tôi không?
Những tư duy chính trị, đặc biệt trong quan hệ CHDC Đức cũng ảnh
hưởng đến các vấn đề như thế. Người ta muốn mức sống Đông Đức phải hơn
Tây Đức. Chỉ riêng  điều  đó có thể lôi kéo tất cả người Đức chạy về phía
chúng ta. Nhưng hiện thời chưa có thế.
Vấn đề bồi thường chiến tranh cũng đáng quan tâm. Các nước phương
tây bỏ khoản bồi thường chiến tranh, mà Tây  Đức phải trả cho họ, còn
CHDC Đức tiếp tục trả chúng ta những cái gì có thể. Khi Stalin qua  đời,
chúng tôi một lần nữa đặt vấn đề này: nếu chúng tôi muốn Đông Đức có thể
chạy đua về mức sống với phương Tây, cần cho họ khả năng nâng cao kinh
tế mạnh hơn. Nếu tiếp tục trả bồi thường chiến tranh và nuôi quân đội Liên
  ở CHDC Đức bằng tiền của họ, thì không thể làm  được  điều này. Và
chúng tôi bỏ khoản bồi thường chiến tranh, và chúng tôi nhận về mình khoản
nuôi quân đội. Người Ba Lan cũng thích điều này, và họ cũng vặt lông và
kiếm lợi ở chỗ bộ đội chúng tôi vì lợi ích của chính Ba Lan đóng trên lãnh
thổ Ba Lan. Nhiều vấn đề phức tạp tồn tại trong mối quan hệ tương hỗ giữa
các nước dân chủ nhân dân, như người ta gọi sau chiến tranh. Ba Lan có than
cốc. Một lần người Tiệp yêu cầu Ba Lan cung cáp than cho họ. Người Ba
Lan đề nghị chúng tôi cung cấp dầu mỏ bổ xung cho họ, và chúng tôi vạch ra
điều kiện: chúng tôi đưa cho các ông dầu mỏ theo tương đương với lượng
than cốc các ông cho Tiệp Khắc. Những người Ba Lan khi đó đúng là nắm
yết hầu người Tiệp. Nếu chúng tôi cũng làm như vậy, thì chúng tôi bóp cổ
Ba Lan, nền công nghiệp của họ thấp kém, họ không thể bước ra thuộc
trường thế giới và cạnh tranh với tư bản, lập tức mức sống của họ giảm đi, và
điều này làm bùng nổ không hài lòng của dân chúng Ba Lan. Chính những
người Ba Lan - mà không phải người Nga, không thích chịu đựng.
Nhớ về Tiệp khắc - nhớ ngay về nền công nghiệp phát triển cao của
họ. Khi chúng tôi còn cởi truồng chui bàn, thì người Tiệp đã làm được những
thứ làm sửng sốt thế giới. Chẳng hạn, những cỗ pháo phòng không của họ
cùng chúng tôi trải qua chiến tranh. Trước chiến tranh, người Tiệp đã bán
cho chúng tôi nhà máy Skoda nổi danh, chúng tôi sử dụng chúng trong sản
xuất đến tận 1945. Có lần năm 1948 Gotwald nghỉ ở Krym với Stalin. Stalin
gọi cho tôi:
- Gotwald ở đây, ông đến đi.   336
Hôm sau tôi bay đến. Mọi người tụ họp ăn cơm ở chỗ Stalin. Gotwald
uống say (ông có nhược điểm này) và nói:
- Đồng chí Stalin, tại sao các ông lại cho người ăn cắp bản quyền sáng
chế của chúng tôi? Ông cứ nói với chúng tôi, và chúng tôi tặng tất cả không
lấy tiền  đâu. Khi người của các ông  ăn cắp, mà người dân chúng tôi nhìn
thấy các ông ăn cắp như thế, họ phật ý đấy. Chúng tôi có thể cho các ông
không những bản quyền phát minh. Hãy nhận chúng tôi gia nhập Liên Xô,
chúng tôi hài lòng gia nhập Liên Xô, và tất cả những gì chúng tôi có, sẽ là
của chung.
Stalin từ chối, nổi giận bởi chữ  ăn cắp. Nhưng trên lời nói, bởi vì
chúng tôi tiếp tục  ăn cắp, thỉnh thoảng cũng theo thói quen cũ, như người
Digan được được hỏi:
- Nếu anh là Sa hoàng, thì anh làm gì?
Người Digan trả lời:
- Tôi lập tức ăn cắp đàn ngựa và chạy biến đi.
Lại còn một vấn  đề phức tạp - chi phí phòng thủ khối xã hội chủ
nghĩa. Đúng ra thì phải chia đều, hết bao nhiêu, chia đều cho đầu người. Tôi
nghĩ rằng chúng tôi có lẽ bớt đi được một nửa chi phí quân sự của Liên Xô.
Nhưng việc ra sao? Chúng tôi có lần trong khuôn khổ khối Warsawa thoả
thuận rằng mỗi nước cần phải tăng cường khả năng phòng thủ của mình.
Rumani nhận bao nhiêu xe tăng, và nó phải đóng bao nhiêu tàu ở Hắc hải.
Sau đó Bộ trưởng quốc phòng báo cáo tôi rằng người Rumani chẳng làm gì
cả, không thực hiện giao ước. Lúc ấy người Tiệp hỏi tôi: Chúng tôi đã làm xe
tăng cho Rumani, nhưng họ không mua chúng, nói rằng không có tiền. Tôi
nói với người Tiệp:
- Thế ai còn dư tiền để tiêu chi phí phòng thủ cho họ? không có ai cả.
Đây là sự cần thiết bắt buộc.
Suy nghĩ của người Rumani rất đơn giản: Liên Xô bảo vệ chúng tôi,
chẳng ai tấn công chúng tôi, họ sợ Liên Xô, cứ để người Nga tốn tiền phòng
thủ, còn chúng tôi sẽ nâng cao mức sống của mình. Nhưng đây là chủ nghĩa
dân tộc thuần tuý. Đáng tiếc, nó lại xảy ra trong mối quan hệ tương hỗ giữa
các nước xã hội chủ nghĩa.
Tôi nhớ một trường hợp tiêu biểu. Chúng tôi năm 1943 đứng trước
bức tường Stalingrad. Chúng tôi đã bao vây quân Paulius, còn Ulbrich bằng   337
loa điện yêu cầu quân Đức đầu hàng. Ông làm việc đó suốt đêm, khi chúng
tôi ăn cơm với ông, tôi nói với ông bao nhiêu lính Đức ra hàng. Đôi lúc đùa:
- Hôm nay không có ăn đâu nhé.
- Vì sao?
- Chẳng có thằng lính Đức nào ra hàng cả.
Một lần ông đến và nói:
- Hôm nay tôi có bữa ăn rồi.
Nhưng tôi trả lời:
- Đúng đấy, có ăn. có một lính ra hàng, nhưng lại là lính Ba Lan.
Tôi đích thân thẩm vấn người lính Ba Lan. Anh ta nói rằng anh ta ra
hàng vì không muốn đánh nhau. Và tôi đề nghị anh ta:
- Chúng tôi xây dựng quân đội Ba Lan, anh tham gia nhé?
- Không, tôi vào trại tù binh.
- Thế ai sẽ giải phóng Ba Lan?
- Người Nga.
Anh ta bình tĩnh trả lời như thế. Và tôi ra lệnh:
- Tống cổ mẹ nó đi!
Luôn luôn người Nga, lại người Nga... Nếu tâm trạng ỷ lại như vậy
được thúc  đẩy tiếp tục, nếu mọi người hy vọng rằng người Nga  đem cho,
người Nga bảo vệ, thì có thể kết thúc thảm hại phexã hội chủ nghĩa.
Lại còn một hòn đá cản đường - vấn đề biên giới. Bây giờ, chúng ta
công khai xung  độ với Trung Quốc, lại nổi lên vấn  đề biên giới giữa các
nước xã hội chủ nghĩa. Vấn đề này luôn luôn có. Nhưng lần đầu tiên trong
lịch sử xô viết phát sinh xung đột quốc tế với nước Cộng hoà nhân dân Trung
Hoa. Thông thường luôn luôn đạt được giải quyết vấn đề, bằng cách nhượng
bộ lẫn nhau và làm rạch ròi biên giới. Lúc bắt đầu xung độ với Trung Quốc,
chúng tôi tìm cách giải quyết vấn đề, cũng nghĩ nhượng bộ Trung Quốc chỗ
đất nào đó đổi lấy chỗ đất ngang bằng Trung Quốc trong các vùng dàn quân
cả hai phía. Trung Quốc đưa yêu sách cho chúng tôi, đông viên người Trung
Quốc. Malinovski, Gromyko và tôi họp nhau. Chúng tôi nghĩ rằng lập tức
chúng tôi giải quyết tất cả. Tôi lấy bút chì và vạch một đường, kéo dài dường
như chia đôi theo đề nghị. Biên giới được thẳng hơn.   338
Chúng tôi không chờ đợi những phức tạp hơn nữa, vì rằng phần lớn
vùng  đất này là bỏ hoang: chẳng có người dân của chúng tôi, chẳng dân
Trung Quốc sống    đó. Đôi lúc, có thể là, những người thợ săn và người
chăn thả súc vật  đến  đó. Tóm lại, là tranh cãi vô bổ. Nhưng người Trung
Quốc chính muốn tạo ra xung đột, từ chối tham gia đàm phán và áp đặt Liên
Xô những đòi hỏi phi lý, tư bản chủ quyền của họ ở Vladivostok, Pamir vân
vân... Giờ đây, sau năm năm chúng tôi lại gặp nhau. Thứ trưởng Bộ trưởng
Bộ ngoại giao Vasili Kuznesov đến Bắc Kinh. Có thể lại sau năm năm gặp
người Trung Quốc. Lúc  ấy cuộc xung  đột thực chất không phải là vấn  đề
biên giới, mà “chính sách lớn” quốc tế. Ai chị đựng được.
Nếu vụ việc chi là về biên giới, có thể dễ dàng thu xếp được. Với Iran
chúng tôi vẫn chưa có một  đường biên giới xác  định rõ ràng từ thời Sa
hoàng. Chúng tôi vạch ra ở đó đường biên giới năm 1955, có nhượng bộ một
số vùng, gần như sa mạc. Nhưng thỉnh thoảng vẫn tranh cãi! Với Iran phát
sinh chỉ có một vấn đề nguyên tắc: số phận làng Firiuza ở Turmenia. Khi Sa
hoàng vạch biên giới với Iran, làng Firiuza cần phải đưa về Iranу. Tôi không
biết, vì sao Sa hoàng không nhường ngôi làng Firiuza. Trong thời kỳ xô viết,
người Turmenia xây một nhà nghỉ ở đó. Và khi Iran đặt vấn đề làng Firiuza,
chúng tôi nói cho họ:
- Hãy giải quyết trên tinh thần anh em. Chúng tôi bây giờ khó trả lại
làng Firiuzaу, ở đó có nhiều nhà nghỉ của chúng tôi, chúng tôi đã phát triển
khác chỗ này so với lúc vấn đề phát sinh lần đầu tiên vấn đề. Chúng tôi sẵn
sàng đổi làng Firiuza, nhường một làng khác cho các ông?
Họ đồng ý, ký một hiệp ước, và bây giờ không còn cãi nhau nữa. Với
láng giềng không còn vấn đề gì tranh cãi về biên giới nữa, trừ Trung Quốc.
Nhưng Trung Quốc đòi hỏi cái gì?
Bắc Kinh nói:
- Chúng tôi yêu cầu ký một hiệp định về biên giới, những đường biên
giới trước đây được hình thành trước đây tại thời điểm có hiệp ước không
bình đẳng ký với Sa hoàng.
Chẳng có một người thông minh nào ký cả. Hiệp  ước không bình
đẳng nghĩa là gì? Nếu tôi ký theo lời của họ, thì tiếp theo cũng phải từ bỏ
những cái gì mà chúng tôi làm chủ trên cơ sở những hiệp  ước tương tự.
Nhưng tất cả các nước xã hội chủ nghĩa chấp nhận biên giới của mình từ thời
Sa hoàng, đế quốc và Nữ hoàng xa xưa. Nếu từ quan điểm này chúng tôi có   339
thể tạo ra mối quan hệ tương hỗ của mình và điều này sẽ đi xa hơn nữa! Nói
chung trong vấn đề biên giới tồn tại nhiều khía cạnh có thể lý giải một cách
khác nhau, đặc biệt ở châu Âu. Chúng tôi không có biên giới với Hungary,
không có tranh cãi về biên giới nhưng  ở vùng Zakarpat sống 120 nghìn
người Hung. Janos Cadar không tham vọng vùng  đất này. Vì sao? Người
Hung có thời lợi dụng Zakarpat (Ukraina) gia nhập đế quốc Áo-Hung, và đẩy
người Ukraina kên núi, chiếm vùng  đất phì nhiêu Tise. Nếu bây giờ  đòi
Cadrar vùng đất này?
Tuy nhiên Hungary và Nam Tư có cãi nhau lớn về biên giới. Tại Nam
Tư có hai triệu người Hung sinh sống. Hung và Rumani cãi nhau về vùng
Transivania. Người Rumani sùi bọt mép chứng minh rằng đây là tỉnh xa xưa
của Rumani, còn người Hung nói rằng Transivania luôn luôn là của Hung, ở
đó có văn hoá Hungary và tiếng Hung. Người Rumani đảo ngược lại tất cả từ
trên xuống dưới, làm cỏ sạch tất cả người Hung. Tranh cãi to về biên giới
giữa Albani và Nam Tư. Tôi nghĩ rằng người Albani sống ở Nam Tư nhiều
hơn tại chính Albani, nhưng Enver Hodga rất sợ Nam Tư. Nhưng những
người Albani sinh sống ở Nam Tư, xem mình hoàn toàn không phải là người
Albani và họ không về Albani. Ở Nam Tư о sống tốt hơn. Đúng là Tito làm
chính trị thông minh hơn.
Hodga - đây là một tên kẻ cướp thực thụ. Chẳng có lẽ đây là chính
khách? Ông ta có một phương pháp: tròng thòng lọng vào cổ và treo lên.
Chính sách điển hình của Stalin. Hodga có những sát thủ bí mật, đâm những
người đối lập: lùng họ trên đường và đâm. Hoặc đột nhập vào nhà và đâm.
Còn Mehmet Sehu? Mehmet Sehu trước kia là Bí thư BCHTƯ Đảng, một
công nhân, người rất thông minh. Ông là người sáng lập ĐCS Albani, còn
Hodga  đích thân bóp cổ Sehu. Vì sao? Sehu có quan  điểm xây dựng liên
minh Albani với Nam Tư. Đó là ý tưởng của Stalin. Trong thời kỳ nào đấy,
có thể, đây là khôn ngoan, hợp lý, sau đó - thì không phải. Nhưng nếu điều
này làm phật ý ai đó, sao lại bóp cổ người ta?
Ngoài biên giới, còn phát sinh nhiều vấn đề khác. Chủ nghĩa xã hội là
gì, có phải giữ con người trong vòng không? Đội ngũ công minh là thế nào?
Thiên  đường là gì? Tất cả mọi người đều muốn rơi vào thiên  đường. Đấy
không phải là thiên đường, vì người ta muốn chạy khỏi thiên đường mà cửa
thì sập lại. Nếu Thượng đế cho tôi tiếp tục hoạt động, có lẽ tôi mở cửa, mở
toang cả cửa ra vào, cả cửa sổ. Và tất cả bỗng nhiên chạy đi Lenin từng mở
biên giới Liên Xô sau nội chiến. Một số bỏ đi. Saliapin, Andreev, Kuprin,   340
những người nổi tiếng khác. Nhưng sau này có người quay về, người khác
lâu lâu xin quay lại. Chẳng có lẽ có thể tất cả nhân dân bỏ đi? Có bao nhiêu
người nước ngoài chạy sang chúng ta và không quay về nước mình... Vì sao
chúng tôi phải sợ điều này?
Ở Ba Lan ai thích đi, cứ đi. Và sao? Nhiều người sau đó quay về. Đại
sứ chúng ta, gửi bức điện từ Israel nói rằng một số người bỏ Liên Xô đến
Israel, đã yêu cầu dứt khoát quay về. Tôi có một phụ nữ quen (bà là người
bất hạnh, bản thân bà hai lần ngồi tù thời Stalinе, chồng bị bắn, em bị bắn và
em rể bị bắn, trong chiến tranh, quân Đức thiêu bố mẹ bà, còn cái gì có thể tệ
hơn?), và bà kể cho tôi một người họ hàng ruột thịt của bà sang Israel, khách
mời, nhìn thấy ở đó người ta sống như thế nào và nói rằng nói chung người
Do Thái sống không tồi, nhưng những người già hình thành cá tính dưới
chính quyền Xô viết, cũng buồn. Bà cũng muốn quay về, nhưng những vẫn
còn sống chẳng để làm gì. Thanh niên, thật ra, không không muốn quay lại.
Vì lẽ gì? Giải thích:
- Chúng tôi đã chán ngấy nghe người ta gọi tôi là bọn ăn bám.
Nói chung chúng tôi khó  đặt quan hệ với Israel. Israelе tiến hành
nhiều vách để cải thiện mối quan hệ này, nhưng chúng tôi không thể đi đến
dùng vì tình hữu nghị với thế giới Ả-rập. Bao nhiêu lần, đại sứ Israel đề nghị
tôi tiếp. Bản thân tôi cũng muốn tiếp ông, nhưng tôi không thể làm vì làm
những người Ẩ rập nổi khùng. Khi Israel đóng vai trò gián điệp của đế quốc
Mỹ ở Trung Đông, chúng tôi không muốn những người Ả rập xa rời chúng
tôi, mà muốn lôi kéo họ, và thế là phải giữ một khoảng cách với Israel. Nếu
xem xét bộ mặt chính trị của Israel, thì hộ không những không tồi, mà thậm
chí còn tốt hơn những nước tư bản chủ nghĩa khác, và với Israel có thể dàn
xếp những quan hệ bình thường. Ở Israel, nông nghiệp  được tập thể hoá
không kém gì Ba Lan. Ở Ba Lan cũng không có nông trang, chỉ xây dựng tổ
đổi công như cấp đầu tiên của tập thể hoá nông nghiệp. Đất đai ở Ba Lan
thuộc về tư nhân, còn thu nhập trong tổ đổi công phụ thuộc vào lượng đất
đóng góp.
Tôi không bao giờ là người bài Do thái. Tôi từng sống ở Yuzovk, và
làm việc cùng với những người Do Thái. Tôi cũng có nhiều bạn người Do
Thái. Từ hồi còn trẻ con, tôi làm việc  ở nhà máy với một người Do thái,
Yakov Issakovich Kutikov - một người tốt. Ông là thợ nguội và nhận 2 rúp
một ngàyь, nhưng tôi nhận cao hơn và giúp đỡ ông 25 cô pếch một ngày.   341
Những kẻ đểu giả ở đâu đâu cũng có - cả người Nga, cả người Do Thái, và
người nào cũng  được. Thậm chí không có cái gì có thể so sánh Ả rập và
Israel, ở Israel người ta sống giàu hơn. Trong nông nghiệp đã có hệ thống
thuỷ nông tự hành - một phương pháp tiến bộ nhất đối với cây trồng. Mối
quan hệ tương hỗ của Israel với thế giới Ả rập rất nặng nề. Nếu như cứ tiếp
tục, thì kết thúc xấu cho Israel. Israel luôn lo ngại các nước Ả rập. Nhưng
thực lực thì hai bên ngang nhau. Cuộc chiến tranh sáu ngày, năm 1967 cần
phải dạy cho những người Ả rập một bài học. Tôi nhớ Petro I. Khi quân
Thuỵ Điểm đánh tập hậu ông ở Narva, ông hiểu: cám ơn bài học, sau đó ông
đánh tan quân Thuỵ Điển ở Poltava. Thời gian sẽ trôi đi, và nếu người Israel
không chịu hiểu, thì người Ẩ rập sẽ đánh tan họ.
Vả lại, nếu anh ai tổ chức công việc tốt thì không sợ ai, mà người
khác sợ anh. 2,5 triệu người Do Thái tổ chức như thế này để trong sáu ngày
đánh tan hàng chục triệu người ở Ai Cập, Syri, và các nước đồng minh. Chỉ
huy quân sự của Israel là Daian từng là sĩ quan quân đội Anh. Nhưng ở đó
còn bao nhiêu người, từng phục vụ trong quân đội chúng tôi? Đó cũng là một
lực lượng của họ. Người Ả rập đặc biệt không biết đánh nhau, chỉ cưỡi lạc
đà, còn người Do Thái chiến đấu khắp các cuộc во всех chiến tranh. Israel
xuất hiện như thế nào? Đây là ý tưởng của những người Sionit. Hai năm
trước  đó, có một người già, thành lập  đảng Sionit. Nước Anh kiểm soát
Trung Đông, đồng ý chia một vùng cho Israel, bằng cách cắt đất của những
người Ả rập. Chúng tôi lúc đó thời gian không biểu quyết vấn đề này ở Liên
Hiệp Quốc, còn sau đó cũng cho chỉ thị đồng ý thành lập Israel. Bây giờ thủ
tướng Israel là Golda Mayer. Bà là đại sứ đầu tiên của Israel tại Liên Xô. Bà
sinh ra ở Odessa, lúc bà sáu tuổi, bố mẹ đưa bà sang Mỹ. Bà biết tiếng Nga
giỏi. Khi bà đến Nga, thì phát triển mạnh những hoạt động của những người
Do Thái xô viết, và Stalin đuổi bà đi. Lúc đó những quan hệ của chúng tôi
cũng xấu đi.
Về Albani
Tôi muốn bây giờ  được dừng lại  ở những quan hệ với Chính phủ
Albani và với Đảng lao động Albani. Trong thời kỳ Stalin, chúng tôi không
có sự va chạm nào trong những quan hệ giữa Liên Xô và Albani, giữa Đảng
cộng sản chúng tôi và Đảng lao động Albani. Họ đáng ra phải là ở giữa các
nước xã hội chủ nghĩa. Liên Xô làm tất cả để giúp đỡ Nhà nước Albani mạnh
lên sau thất bại Hittler đạo quân lớn và đuổi quân đội Ý ra khỏi lãnh thổ của
họ. Nhân dân Albani thống nhất thời ấy sức mạnh của mình với Nam Tư, và   342
họ tiến hành cuộc đấu tranh cùng nhau chống kẻ thù chung - Đức Hittler và
phát xít Italy. Như đồng chí Tito kể cho tôi, ĐCS Nam Tư có sự giúp đỡ lớn
lao cho nhân dân Albaniу trong việc tổ chức đấu tranh chống phát xít. Điều
này là  đương nhiên, vì rằng ĐCS Nam Tư  được tổ chức tốt hơn và giàu
truyền thống cách mạng hơn. ĐCS Albani, như thời ấy gọi nó, là yếu và cần
giúp đỡ, mà Các đồng chí Nam Tư có được cho họ. Tito kể, ông cử bạn chiến
đấu của mình Vukvanovich đến Albani, để tổ chức Đảng lao động.
Khi những quan hệ giữa Liên Xô và Nam Tư tốt nhất, Tito  được
Stalin tin cậy tuyệt đối, tôi nhớ, có mặt tôi, Stalin đọc (chính tả) một bức điện
cho Tito, nội dung, tới đây mối quan hệ tương hỗ với Albani cần xuất phát từ
việc Albani sẽ tham gia Liên bang Balkan. Bức điện như thế được gửi đi. Tất
nhiên Albani không biết điều này. Stalin ấp ủ ý tưởng xây dựng Liên bang
Balkan và thường phát biểu chủ đề này ở một số hẹp người quanh ông. Đối
với Chính phủ tương lai Liên bang Balkan thậm chí người ta bắt  đầu xây
dựng một cung  điện gần Belgrad. Khi tôi ở Nam Tư, tôi  đã thấy chỗ này.
Người ta chở đến đó khá nhiều bê tông sắt, nhưng sau này lại bỏ đi tất cả.
Ghép Albani vào nhà nước Nam Tư không đi ngược ý tưởng của Stalin về
xây dựng Liên bang các nước Balkan. Khi cắt đứt mối quan hệ hữu nghị với
Nam Tư thì Stalin căm ghét Tito, ý tưởng Liên bang Balkan bị chôn vùi.
Tôi không biết hết nguyên nhân làm xấu mối quan hệ giữa Nam Tư và
Liên Xô, nhưng một cái gì đó tôi biết. Stalin gửi chúng tôi một số bức điện,
do đại sứ xô viết ở Nam Tư gửi về. Trong những bức điện này, đại sứ chúng
tôi vạch ra những hoạt động Tito dưới ánh sáng dân tộc chủ nghĩa và làm tất
cả để cho thấy rằng đây không phải hữu nghị của nước, mà ĐCS Nam Tư
dưới sự lãnh  đạo Tito tiến hành công việc phá hoại chống ĐCS Liên Xô.
Trong đó cụ thể đại sứ buộc tội Nam Tư, tôi bây giờ tôi không nhớ. Lúc đó
tôi làm việc tại Ukraina và ít tham gia các quốc tế vấn đề, vì rằng tôi dường
như bị cách ly trong những vấn đề này và không nhận được các tài liệu tương
ứng. Mặc dù tôi là uỷ viên Bộ chính trị ĐCS toàn Nga (b), những tài liệu, lẽ
ra phải gửi cho tôi, lại không đến. Lúc ấy Stalin thống trị. Ông nói gửi- tất cả
được gửi, còn nếu không nói, thì không gửi một cái gì cho ai cả.
Sau khi Stalin chết, chúng tôi vẫn phải thừa kế những quan hệ xấu với
Nam Tư. Chúng tôi nghĩ vấn đề này giải quyết như thế nào. Trong vấn đề
này chính tôi nảy ra sáng kiến. Vì sao? Tôi luôn luôn phấn khích bởi những
hoạt động của du kích Nam Tư. Du kích Nam Tư trong cuộc đấu tranh với
chủ nghĩa phát xít tự thể hiện mình liệu có phải không, không tốt hơn những   343
người khác. Điều này được nhiều người biết và được nhiều người công nhận.
Họ xây dựng quân đội, có sự chỉ huy từ trung tâm của mình và tiến hành
cuộc đấu tranh thành công với Đức, giải phóng khá nhiều lãnh thổ, trên đó
khu du kích được thành lập. Ngoài ra, từ trước chiến tranh tôi đã nghe về
hoạt động của Tito. Đó là một người cộng sản, rất nổi tiếng trong Quốc tế
cộng sản. Khi là cựu binh của quân đội Áo-Hung ông làm tù binh của Nga và
trải qua trường học đầu tiên của mình trong thời gian cách mạng tháng Mười.
Khi theo dõi điều này tôi có sự thiện cảm với ông, mặc dù cá nhân tôi gặp
ông rất ít.
Tôi gặp Tito cũng ở chỗ Stalin. Tôi có lần ở Moskva, Stalin nói rằng
Đoàn đại biểu Nam Tư sẽ đến. Stalin nói điều này với thiện cảm và với sự
vui mừng mong đợi: Họ sẽ đến đấy! Nhưng tôi không chờ Đoàn đại biểu này
tới và quay về Kiev. Sau đó Stalin gọi tôi và nói rằng Tito sẽ quay về nước
qua Kiev, và đề nghị:
- Anh ở đó tiếp Tito và các đồng chí khác. Họ là những người bạn tốt.
Tôi đã làm như thế. Tito, Kardele, Ginlas và những người khác đến
Ukraina. Chúng tôi đã làm tất cả những gì cần thiết: giới thiệu cho họ thành
phố, pháo  đài,  đến nông trang, xem hát, tiến hành những cuộc trao  đổi.
Chúng tôi nói chuyện, tất nhiên về cuộc sống Ukraina, về hoạt động BCHTƯ
ĐCS(b) Ukraina, còn những vấn đề khác chúng tôi không đụng chạm.
Thời ấy, chúng tôi sống bởi lý tưởng khi hình thành một nước xã hội
chủ nghĩa mới, thì  đồng thời cần hình thành sự lãnh  đạo nào  đáy của họ
không những về những vấn đề chính trị Đảng mà còn về những vấn đề kinh
tế: một điều gì đó tựa như Uỷ ban quốc tế đại biểu công nhân toàn thế giới
của những nước cộng hoà như thế. Với điều này, tất cả chúng tôi được nuôi
dưỡng. Vì thế chúng tôi với tình yêu như thế và sự tin cậy với từng nhân dân
tham gia trên con đường xây dựng CNXH, hơn thế nữa ĐCS của họ. Chúng
tôi đã làm cho từng nhân dân và cho bản thân, khi cho là sự liên kết tất cả các
cán bộ Đảng, khoa học, vật chất kỹ thuật của chúng tôi tập trung sức của
mình trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản thế giới. Tôi cho rằng đây
là là một bằng chứng trong lòng tốt mọi người, đứng trên vị trí cộng sản.
Khi xảy ra sự đổ vỡ, tất cả lập tức thay đổi hẳn. Stalin suýt nữa tấn
công Nam Tư. Tôi nhớ, một lần người ta đặt tôi là tiến hành bí mật gửi nhiều
người từ Odessa vào Balkan. Chúng tôi  đã gửi bằng tầu thuỷ, có lẽ,  đến
Bulgari. Những người tổ chức việc gửi người  đi báo cáo tôi, có một binh   344
đoàn  đấy  được hình thành, và mặc dù những người này mặc áo dân sự,
nhưng trong valy chẳng họ có quân phục và vũ khí. Người ta nói với tôi, rằng
chuẩn bị giáng một đòn nào đó khắp Nam Tư. Vì sao Stalin không làm, tôi
không thể nói được. Hơn nữa, từ chính Stalin nói chung tôi không nghe về
điều này, nhưng người ta báo cáo tôi những người thực hiện chiến dịch này,
họ là những người tổ chức gửi người đi và đưa họ lên tầu thuỷ. Tâm trạng
của họ là tâm trạng của những người xâm lược:
- Đưa cho họ người của chúng ta! Thế là họ được gửi đi và chẳng bao
lâu bắt đầu thấy hiệu ứng.
Trong các lời nói, họ không hề có sự hối tiếc về sự việc xảy ra.
Vì sao tôi bây giờ chú ý mạnh  đến Nam Tư, mặc dù  đang nói về
Albani? Vì rằng những vấn  đề này có liên quan qua lại với nhau. Vì sao
chính tôi thể hiện sự quan tâm cải thiện mối quan hệ với Nam Tư, mà không
phải ai khác? Việc này cần phải rõ ràng cho nhân loại, ít nhiều suy nghĩ về
chính trị và biết thời gian ấy. Khi chúng tôi có quan hệ xấu với Nam Tư, tôi
ở Ukraina và, mặc dù nằm trong chóp bu lãnh đạo ĐCS LX, nhưng không
tham gia việc vị Nam Tư “xấu xa” này.
Khởi xướng cuộc này liệu có phải là Molotov, Suslov, Vorosilov và
những người khác? Trong thời gian ấy, họ khá gần gũi với Stalin. Tôi đã nói
ở đây không chỉ những người gần Stalin, mà còn cả bao nhiêu người xung
quanh Stalin: mọi chính sách chống Nam Tư, do Stalin chỉ huy, đều qua tay
họ, và họ là những người trực tiếp thi hành nó, đặc biệt Molotov. Molotov
trong vấn đề này là cánh tay phải của Stalin.
Những người này học  ở Stalin ý nghĩ từ vị thế chủ nghĩa sô vanh
nước lớn và áp dụng chuẩn mực này cho tất cả các ĐCS, trong số này, tất
nhiên, có cả Nam Tư. Vì thế họ không hiểu sự cần thiết phải cải thiện mối
quan hệ của chúng tôi và loại bỏ xung đột với Nam Tư, nói chung họ không
muốn hiểu vấn đề này. Khi tôi đặt vấn đề đó, có sự hiểu biết và ủng hộ hơn
nữa từ phía Anastas Ivanovich Mikoian. Ông cho rằng phải thực hiện những
bước như thế. Molotov, Vorosilov, Suslov không  đồng ý với tôi. Mây mù
che khuất mắt họ: Chúng ta là nước lớn như thế, thắng Đức Hittler, rồi đi đến
Nam Tư?
Trước đó chính họ là những kẻ dối trá, nói dối một lần và nhiều lần,
bằng cách sau đó lặp đi lặp lại sự dối trá của họ, bắt đầu tin vào chuyện bịa
đặt rằng Nam Tư là nước tư bản chủ nghĩa, không còn tý gì xã hội chủ nghĩa;   345
rằng Nam Tư trở thành phản bội CNXH và liên kết với chủ nghĩa đế quốc.
Rất thú vị rằng bây giờ Trung Quốc cũng sử dụng luận điệu này phê bình
nước chúng tôi. Ở Bắc Kinh người ta tuyên bố rằng Liên Xô ký một liên
minh bí mật với đế quốc Mỹ, và đó là sự ngu ngốc. Đáng tiếc, điều tương tự
này, hai mươi năm trước trước đây chúng tôi đã nói về Nam Tư. Tất cả điều
này  đều do Stalin nghĩ ra, còn các nhà báo chộp lấy. Nhiều giấy mực  đổ
xuống sông xuống biển. Gánh nặng quá khứ  đổ vào tất cả chúng tôi, và
không dễ dang như thế thời ấy lập tức có một bước đi mới.
Vì vậy tôi đề nghị:
- Các đồng chí, chúng ta hãy xây dựng một Uỷ ban gồm các nhà khoa
học và trao cho họ nghiên cứu, bây giờ Nam Tư là quốc gia kiểu gì - tư bản
chủ nghĩa hoặc xã hội chủ nghĩa? Nếu là nước tư bản chủ nghĩa, thì yếu tố
nào chứng tỏ họ không phải nước xã hội chủ nghĩa?
Tôi không còn nhớ ai tham gia Uỷ ban này, nhưng tôi nhớ rõ trong đó
có chủ bút báo “Sự Thật” Sepilov. Uỷ ban này lẽ ra phải công nhận rằng
Nam Tư chẳng thể nào được coi là nước tư bản chủ nghĩa, rằng trong sự xây
dựng nước này có mặt tất cả các yếu tố của nề nếp xã hội chủ nghĩa: không
có sở hữu cá nhân về phương tiện sản xuất, không có sở hữu riêng về ngân
hàng, tất cả những thứ này thuộc về nhân dân. Buôn bán chủ yếu cũng nằm
trong tay nhà nước. Không xác định được chỉ có vấn đề nông nghiệp nông
trang hầu như không có và phổ biến là kinh tế cá thể. Tuy nhiên hình thái
như thế cũng có ở các nước khác, đang trên đường xây dựng CNXH, như thế
Nam Tư về mặt này không hề tách rời trong số các nước như Rumani.
Hungary, Bulgari, Tiệp Khắc, Ba Lan. Tôi quả là chưa nói về CHDC Đức.
Trong số tất cả các nước trên con đường xây dựng CNXH, thì Albani
tiến hành chính sách chống Nam Tư mãnh liệt nhất. Trong thời kỳ đáng nhớ
ấy, điều này được Liên Xô thích thú và cổ vũ. Nhưng khi chúng tôi quyết
định phải thực hiện những bước bình thường hoá mối quan hệ Liên Xô-Nam
Tư,  để  đặt con  đường  đầu tiên  đi tới  đoàn kết, tới sự vững mạnh của lực
lượng cách mạng, thái độ của Albani đã làm hỏng việc của chúng tôi.
Trước khi thực hiện những bước đi cụ thể bình thường hoá mối quan
hệ Liên Xô-Nam Tư, chúng tôi thảo luận các ĐCS anh em. Tôi không nhớ
bây giờ, ai phản đối, nhưng đa số đồng ý với chúng tôi. Nhưng chúng tôi rất
kiên trì cố đạt được điều này. Albani không đồng ý. Những người lãnh đạo
Đảng và nhà nước rất khó đồng tình với những đề nghị của chúng tôi chứng   346
minh rằng những người Nam Tư - là những người không tin cậy, rằng họ
không phải là những người cộng sản. tất cả  điều này  được phát biểu với
giọng độc ác. Đặc biệt Enver Hodga rất hay tức giận. Tính ông này rất ác, và,
khi ông nói về cái gì mà ông không thích, thì mặt ông co giật và nghiến răng
kèn kẹt.
Chúng tôi bình tĩnh chứng minh rằng phải có quan niệm và sự sáng
suốt để phân tích lại những mối quan hệ quốc tế: sự bình thường hoá sẽ có
lợi cho cả Albani, cho cả Nam Tư, và phong trào cộng sản thế giới. Chia rẽ
vì cái gì? Phải thấy rằng ở có nhiều người Albani sống ở Nam Tư, và mặc dù
các nước xã hội chủ nghĩa đã bóp méo số liệu thống kê, khi đó điều này là có
lợi, nhưng Tito sau này nói với tôi, rằng ở Nam Tư người Albani nhiều hơn
số người Albani ở tại nước họ. Tôi cho là điều này không có gì xấu cả, đặc
biệt, cũng không thấy, tình anh em giữa các quốc gia. Albani buộc phải đồng
ý với chúng tôi, nhưng không phải vì chúng tôi tin họ, vì rằng họ không có
lối thoát khác.
Đoàn đại biểu Liên Xô đến Nam Tư (tôi sẽ nói riêng), và chúng tôi
bình thường hoá quan hệ. Sự thật cả sau khi bình thường hoá những mối
quan hệ cũng không phải bằng phẳng: có sự bá vai choàng cổ, và cũng có cả
những lạnh nhạt. Nhưng trong mọi trường hợp cái gì xảy ra ở thời Stalin, sẽ
không lặp lại nữa. Chúng tôi tiến tới thắt chặt mối quan hệ tốt đẹp và đã làm
những bước đi tạo điều kiện thống nhất lực lượng chúng tôi cả trong chính
sách cũng như trong kinh tế. Điều này gây ra sự bất lợi lớn ở Albani. Trong
thời gian ấy, chúng tôi đi đến vấn đề dường như từ vị trí một đồng chí cũ:
làm gì, nếu họ không hiểu? Họ đang trưởng thành, không có gì băn khoăn ở
đây, nói riêng, không có. Và chúng tôi giải thích vị trí chúng tôi để những
người Albani hiểu chúng tôi tốt hơn.
Từ phía Albani, chúng tôi đã xây dựng những mối quan hệ anh em
không đơn giản. Chính những mối quan hệ anh em - đó là những quan hệ
bình đẳng. Nhưng ở đây, với quan điểm sự giúp đỡ phát sinh những quan hệ
  đối với mới. Chúng tôi tiêu rất nhiều phương tiện, tiền bạc  để giúp  đỡ
Albani. Với các nước khác, chúng tôi có sự giúp đỡ bằng tín dụng ư đãi, còn
Albani, chúng tôi trên cơ sở khác, chủ yếu là tặng không. Chúng tôi nói
chung hoàn toàn nhận trách nhiệm trang bị cho quân đội Albani: cung cấp
cho họ đồng phục, thực phẩm, đạn dược, vũ khí, và tất cả là không phải trả
tiền.   347
Vì sao? Có lý do của nó, và bất kỳ ai đầu óc sáng suốt, sống trong bầu
không khí mà chúng tôi thời ấy đã sống, hiểu và tìm thấy sự đúng đắn hành
động như thế của chúng tôi. Phải thấy rằng trong thời gian ấy, NATO hình
thành. Nhưng Albani có một vị trí chiến lược ở Địa Trung Hải, và chúng tôi
xem nó như một căn cứ của các nước xã hội chủ nghĩa ở biển này. Vì thế tình
thế nước đôi đặt ra: liệu chúng tôi có mặt ở đó, nói một cách thô thiển, quân
đội của mình hoặc xây dựng cho Albani quân đội riêng của mình? Đương
nhiên, Albani có thể duy trì một lượng quân không nhiều và họ không gây
một ấn tượng nào cả đối với kẻ địch. Họ thực tế không sản xuất vũ khí, có lẽ
chỉ có súng trường. Vì thế chúng tôi quyết định giúp đỡ về mặt vật chất để
xây dựng theo khả năng quân  đội Albani  đông người, nhưng, tất nhiên,
không đến nỗi điều này làm khổ nền kinh tế Albani. Điều này cần thiết là
quân đội này phải gây một ấn tượng đe doạ, được trang bị phương tiện chiến
đấu hiện đại. Vì thế quân đội Albani nhận tăng, pháo, súng mới. Đấy là chưa
kể đồng phục và đồ ăn. Nếu Albani trích tiền từ ngân sách của mình để nuôi
quân đội thì họ không còn đủ tiền làm những việc cần thiết khác: phát triển
kinh tế, công nghiệp hoá đất nước, cải tổ xã hội chủ nghĩa. Và chúng tôi biết
cần Albani.
Từ sau chiến tranh, mới đây mối quan hệ Liên Xô các nước tư bản
chủ nghĩa bị nặng nề, chúng tôi không loại trừ khả năng xung đột quân sự.
Với vị trí của mình, Albani đe doạ nghiêm túc những hoạt động của NATO ở
Địa Trung Hải. Vì thế chúng tôi thoả thuận với Albani là chúng tôi kéo cả tàu
ngầm đến. Chúng tôi đã làm thế vì lợi ích tất cả các nước xã hội chủ nghĩa.
Quyết  định bố trí ở  đó 12 tầu ngầm. Các bạn có biết một quả  đấm
tương đối mạnh - 12 tầu ngầm ở Địa Trung Hải. Với những quả đấm như thế,
đối thủ của chúng tôi bắt buộc phải coi trọng. Những tàu ngầm này chúng tôi
cũng muốn chuyển cho Albani. Thuỷ thủ chúng tôi đến Albani với đày đủ
phương tiện trên biển và sửa chữa, để đào tạo, và, xây dựng đội ngũ sĩ quan
chỉ huy Albani đối với tầu ngầm. Chuyển cho họ những tàu ngầm này. Bước
đi này chứng minh chúng tôi tin họ như thế và, tôi đã nói, với tình yêu như
thế chúng tôi đối với người bạn Albani. Đoàn đại biểu Albani đến gặp chúng
tôi  đôi lần đứng  đầu là Enver Hodga và Mehmet Sehu. Giữa chúng tôi có
những quan hệ tốt nhất, chưa kể tới nhân dân Albaniе.
Những người Albani nhiều lần đề nghị chúng tôi mời Đoàn đại biểu
cấp cao Đảng và Chính phủ chúng tôi tới thăm họ. Người ta quyết định rằng
tôi đứng đầu Đoàn đại biểu như thế. Và chúng tôi đến Albani. Trước khi đi,   348
chúng tôi báo cho những người bạn Albani rằng chúng tôi không muốn khi
chúng tôi có mặt, không tiến hành công khai chỉ trích Nam Tư và những
người lãnh  đạo của họ. Trong thời gian  ấy, Albani giữ những quan hệ rất
căng thẳngvới Nam Tư và tiến hành một cuộc đấu súng bằng lời trên báo chí.

How to topple a dictator Làm thế nào lật đổ nhà độc tài

How to topple a dictator
Làm thế nào lật đổ nhà độc tài
Srdja Popovic:
Srdja Popovic
Good afternoon. I am proud to be here at TEDxKrakow. I'll try to speak a little bit today about a phenomenon which can and is actually changing the world, and whose name is people power. I'll start with the anecdote, or for those of you who are Monty Python lovers, a Monty Python type of sketch. Here it is. It is December 15, 2010. Somebody gives you a bet.
Chào các bạn, tôi hãnh diện có mặt ở đây ở TEDxKrakow này, nơi hôm nay tôi sẽ cố gắng nói sơ qua về một hiện tượng mà có thể thay đổi thế giới, và thực sự đang thay đổi thế giới. Hiện tượng ấy có tên Sức mạnh Nhân dân (People Power). Tôi sẽ mở đầu bằng một câu chuyện... Câu chuyện như sau. Hôm ấy là ngày 15 tháng Mười Hai, 2010. Có người đề nghị với ta như thế này:

You will look at a crystal ball and you will see the future. The future will be accurate. But you need to share it with the world. Okay? Curiosity killed the cat. You take the bet. You look at the crystal ball. One hour later, you are sitting in a building on the national TV in a talkshow, and you tell the story. "Before the end of 2011, Ben Ali and Mubarak and Gaddafi will be down and prosecuted. Saleh of Yemen and Assad of Syria would be either challenged or already on their knees. Osama bin Laden will be dead, and Ratko Mladic will be in the Hague."
Ta sẽ nhìn vào quả cầu pha lê, và ta sẽ thấy được tương lai; tương lai sẽ chính xác. Nhưng ta cần cho thế giới biết trước tương lai ấy. Đồng ý, dù tò mò quá chỉ thiệt thân, ta chấp nhận đề nghị ấy. Ta nhìn vào quả cầu pha lê. Một giờ sau, ta ngồi ở tòa nhà truyền hình quốc gia, trong một chương trình đông khách, và ta nói về tương lai như sau: "Vào cuối năm 2011, Ben Ali và Mubarak và Gadhafi sẽ bị lật đổ, và bị xét xử. Saleh ở Yemen và Assad ở Syria hoặc là sẽ bị chống đối hoặc là sẽ bị khuất phục. Osama bin Laden chết, còn Ratko Mladic sẽ bị xử ở tòa án quốc tế Hague."
Now, the anchor watches you with a strange gaze on his face, and then on the top of it you add, "And thousands of the young people from Athens, Madrid and New York will demonstrate for social justice, claiming that they are inspired with Arabs." Next thing you know, two guys in white appear. They give you the strange t-shirt, take you to the nearest mental institution.
Bấy giờ người dẫn chương trình nhìn ta chăm chăm với khuôn mặt và ánh mắt lộ vẻ kinh ngạc. Và rồi, thêm vào đó, ta nói tiếp: "...và hàng ngàn người trẻ ở Athens, Madrid và New York sẽ biểu tình đòi công bằng xã hội và tuyên bố những người Ả Rập đã khích lệ họ xuống đường." Bỗng bất chợt hai người mặc áo choàng trắng xuất hiện, bắt ta mặc áo phông kỳ lạ, giải ta đến nhà thương điên gần nhất.
So I would like to speak a little bit about the phenomenon which is behind what already seems to be the very bad year for bad guys, and this phenomenon is called people power.
Cho nên tôi muốn nói sơ qua về hiện tượng đằng sau năm đã rất xấu cho những kẻ xấu xa. Hiện tượng này có tên là Sức mạnh Nhân dân.
Well, people power has been there for a while. It helped Gandhi kick the Brits from India. It helped Martin Luther King win a historic racial struggle. It helped local Lech Walesa to kick out one million Soviet troops from Poland and beginning the end of the Soviet Union as we know it.
Thật ra, Sức mạnh Nhân dân, đã tồn tại từ lâu. Sức mạnh ấy đã giúp Gandhi đã đuổi người Anh ra khỏi Ấn Độ, sức mạnh ấy đã giúp Martin Luther King trong cuộc đấu tranh chủng tộc lịch sử. Sức mạnh ấy cũng giúp một người địa phương ở đây, Lech Walesa, đã đuổi được một triệu lính Xô Viết ra khỏi Ba Lan, để từ đấy Liên Xô như chúng biết không còn tồn tại.
So what's new in it? What seems to be very new, which is the idea I would like to share with you today, that there is a set of rules and skills which can be learned and taught in order to perform successful nonviolent struggle. If this is true, we can help these movements.
Vậy sức mạnh ấy ngày nay có gì mới? Điều hình như rất mới, chính là điều tôi muốn chia xẻ với các bạn hôm nay, đó là một loạt những nguyên tắc và kỹ năng mà ta có thể học và dạy để thực hiện thành công cuộc đấu tranh bất bạo động. Nếu điều này đúng, chúng ta có thể giúp đỡ những phong trào này.
Well, first one, analytic skills. I'll try where it all started in the Middle East, and for so many years we were living with completely the wrong perception of the Middle East. It was looking like the frozen region, literally a refrigerator, and there are only two types of meals there: steak, which stands for a Mubarak, Ben Ali-type of military police dictatorship, or a potato, which stands for Tehran types of theocracies. And everybody was amazed when the refrigerator opened and millions of young, mainly secular people step out to do the change. Guess what? They didn't watch the demographics. What is the average age of Egyptians? 24. How long was Mubarak in power? 31. So this system: just obsolete. They expired, and young people of the Arab World have awakened one morning and understood that power lies in their hands. The rest is the year in front of us. And guess what? The same Generation Epsilon with their rules, with their tools, with their games and with their language, which sounds a little bit strange to me. I am 38 now. And can you look at the age of the people on the streets of Europe? It seems that Generation Epsilon is coming.
Trước hết, kỹ năng đầu tiên-kỹ năng phân tích. Tôi sẽ thử phân tích Trung Đông nơi các phong trào này đều xuất phát. Trong suốt nhiều năm trời, chúng ta đều sống với một nhận thức hoàn toàn sai lầm về Trung Đông. Trung Đông trông giống như vùng bị đóng băng. Đúng ra là một tủ lạnh. Trong tủ lạnh ấy trước đây chỉ có hai món. Bò bít tết, tượng trưng cho chế độ độc tài cảnh sát và quân đội kiểu Mubarak-Ben Ali. Hay khoai tây, tượng trưng cho độc tài thần quyền kiểu Tehran. Nhưng mọi người kinh ngạc khi tủ lạnh bật mở ra: hàng triệu những người trẻ tuổi, hầu hết thế tục, bước ra để thực hiện thay đổi. Hãy đoán thử xem- họ không theo dõi thống kê về dân số. Tuổi trung bình của người Ai Cập là bao nhiêu? 24. Còn Mubarak nắm quyền lực bao nhiêu năm? 31. Như vậy, chế độ này đã quá lỗi thời, đã hết đát. Còn người trẻ trên khắp thế giới một sáng mai thức dậy hiểu ra rằng quyền lực nằm trong tay mình. Và những gì còn lại là năm trước mặt chúng ta. Và các bạn hãy đoán thử? Vẫn Thế hệ Y(1), với các nguyên tắc, cộng cụ, trò chơi, và ngôn ngữ mà hơi xa lạ với tôi. Tôi hiện nay 38 tuổi... Và hãy thử nhìn tuổi của người dân trên đường phố Châu Âu? Ơ đấy hình như là thời của Thế hệ Y.
Now let me set another example. I'm meeting different people throughout the world, and they are, you know, academics and professors and doctors, and they will always talk conditions. They will say, "People power will work only if the regime is not too oppressive." They will say, "People power will work if the annual income of the country is between X and Z." They will say, "People power will work only if there is a foreign pressure." They will say, "People power will work only if there is no oil." And, I mean, there is a set of conditions.
Bây giờ, tôi nói đến trường hợp khác. Tôi có dịp gặp gỡ nhiều người khác nhau trên thế giới; và như các bạn biết, họ là các viện sĩ và giáo sư, và bác sĩ. Và họ đều luôn luôn nói về điều kiện này điều kiện nọ. Họ sẽ nói: "Sức mạnh Nhân dân chỉ thành công nếu chế độ không trấn áp quá mức." Họ sẽ nói: "Sức mạnh Nhân dân thành công, nếu thu nhập hằng năm của quốc gia là giữa X và Z." Họ sẽ nói: "Sức mạnh Nhân dân chỉ thành công nếu có áp lực nước ngoài." Họ sẽ nói: "Sức mạnh Nhân dân chỉ thành công nếu không có dầu hỏa." Ở đây, tôi muốn nói rằng, điều kiện thì rất nhiều.
Well, the news here is that your skills [that you] bring in the conflict seem to be more important than the conditions, namely skills of unity, planning, and maintaining nonviolent discipline.
Tuy nhiên, thông tin mới ở đây là trong cuộc đấu tranh kỹ năng dường như quan trọng hơn các điều kiện. Cụ thể, kỹ năng đoàn kết, kế hoạch và duy trì sự tuân thủ bất bạo động.
Let me give you the example. I am coming from a country called Serbia. It took us 10 years to unite 18 opposition party leaders, with their big egos, behind one single candidate against Balkan dictator Slobodan Milosevic. Guess what? That was the day of his defeat. You look at the Egyptians, they fire on Tahrir Square, they get rid of their individual symbols. They appear on the street only with the flag of Egypt. I will give you a counter-example. You see nine presidential candidates running against Lukashenko. You will know the outcome. So unity is a big thing, and this can be achieved. Same with planning. Somebody has lied to you about the successful and spontaneous nonviolent revolution? That thing doesn't exist in the world. Whenever you see young people in front of the road trying to fraternize with the police or military, somebody was thinking about it before.
Để tôi kể cho các bạn một trường hợp. Tôi đến từ quốc gia tên Serbia. Chúng tôi phải mất mười năm mới đoàn kết được các nhà lãnh đạo của 18 đảng đối lập, mà người nào cũng có cái tôi lớn, đằng sau một ứng cử viên duy nhất ra tranh cử với Slobodan Milosevich. Các bạn hãy đoán xem chuyện gì xảy ra? Ngày họ đoàn kết là ngày thất bại của nhà độc tài. Ta nhìn sang những người Ai Cập, họ đấu tranh trên Quảng trường Tahrir, họ dẹp bỏ hết những biểu tượng cá nhân riêng tư, để họ xuất hiện chung trên đường phố với chỉ lá cờ Ai Cập. Tôi sẽ nêu ra ví dụ ngược hẳn lại. Ta đã thấy chín ứng cử viên tổng thống ra tranh cử với Lukashenko. Kết quả thế nào thì ai cũng biết. Cho nên đoàn kết là điều rất quan trọng. Và ta có thể đạt được sự đoàn kết chung ấy. Tương tự với việc kế hoạch. Ai nói cách mạng bất bạo động thành công tức thì là kẻ nói láo. Chuyện như thế trên thế giới chẳng bao giờ có. Bất kỳ khi nào ta thấy những người trẻ tuổi ở trên hàng đầu cố gắng thân thiện như thể anh chị em với cảnh sát hay quân đội, thì người nào đấy đã suy nghĩ trước điều đó.
Now, at the end, nonviolent discipline, and this is probably the game-changer. If you maintain nonviolent discipline, you will exclusively win. You have 100,000 people in a nonviolent march, and one idiot or agent provocateur is throwing stones, guess what takes all the cameras? That one guy. One single act of violence can literally destroy your movement.
Bây giờ, cuối cùng, là sự tuân thủ bất bạo động. Đây có lẽ chính là điều then chốt quyết định sự thành bại. Nếu ta duy trì được sự tuân thủ bất bạo động, ta nắm chắc phần thắng. Ta có 100.000 người tuần hành bất bạo động, chợt một kẻ ngu ngốc hay một tên nào đấy trà trộn vào dòng người để khiêu kích bằng cách ném đá. Các bạn hãy đoán chuyện gì xảy ra trước tất cả các máy quay phim. Đó chỉ là một tên. Chỉ một hành động bạo lực thôi cũng đủ có thể tiêu diệt cả phong trào của ta.
Now let me move to another place. It's selection of strategies and tactics. There are certain rules in nonviolent struggle you may follow.
Bây giờ cho phép tôi chuyển sang phần khác. Đó là sự chọn lọc các chiến lược và chiến thuật. Trong cuộc đấu tranh bất bạo động có những nguyên tắc nào đấy ta có thể tuân theo.
First, you start small. Second, you pick the battles you can win. It's only 200 of us in this room. We won't call for the March of Millions. But what if we organize spraying graffiti throughout the night all over Krakow city? The city will know. So we pick the tactics which accommodates to the event, especially this thing we call the small tactics of dispersion. They're very useful in a violent oppression. We are actually witnessing the picture of one of the best tactics ever used. It was on Tahrir Square, where the international community was constantly frightened that the Islamists will overtake the revolution.
Hãy khởi đầu từ những chuyện nhỏ. Thứ hai, ta hãy chọn những trận đánh nào ta có thể thắng. Trong phòng này chỉ có 200 người chúng ta. Tất nhiên, chúng ta sẽ không thể nào kêu gọi cả triệu người tuần hành. Nhưng nếu chúng ta tổ chức được việc vẽ graffiti suốt đêm ở khắp mọi nơi trong thành phố Cracow này. Cả thành phố đều biết. Cho nên, chúng ta chọn những chiến thuật phù hợp với việc làm, nhất là chiến thuật chúng tôi gọi chiến thuật phân tán mỏng này. Những chiến thuật như thế rất hiệu quả trong hoàn cảnh trấn áp khốc liệt. Chúng ta đều thực sự đang chứng kiến hình ảnh của một trong những chiến thuật tuyệt vời nhất từng được xử dụng. Hình ảnh này ở Quảng trường Tahrir, nơi cộng đồng quốc tế luôn luôn rất lo sợ những người Hồi giáo sẽ chiếm đoạt cuộc cách mạng.
Well, they've organized Christians protecting Muslims, who are there praying, Coptic wedding cheered by thousands of Muslims. The world has just changed the picture, but somebody was thinking about this previously.
Điều họ đã tổ chức được... những người Công giáo bảo vệ những người Hồi giáo khi những người Hồi giáo cầu nguyện, một đám cưới ngưòi Công giáo được hàng ngàn người Hồi giáo hoan hô chúc mừng. Thế giới đã vừa thay đổi sau hình ảnh ấy, nhưng người nào đấy đã suy nghĩ trước đó điều này.
So there are so many things you can do instead of getting into one place, shouting and showing off in front of the security forces.
Cho nên có rất nhiều điều ta có thể thực hiện thay vì phải tập trung tại một nơi, la hét và ra vẻ hiên ngang ta đây trước lực lượng an ninh.
Now there is also another very important dynamic, and this is a dynamic normally analytics don't see. This is dynamics between fear and apathy on one side and enthusiasm and humor on another side. So it works like in a video game. You have a fear high, you have status quo. You have enthusiasm higher, you see fear starting to melt. Day two, you see people running towards police instead of from the police. In Egypt, you can tell that something is happening there.
Còn có một động lực khác rất quan trọng. Đây là động lực các chuyên gia thường không thấy. Đó là động lực giữa một bên là sợ hãi và thờ ơ và bên kia là say mê và hài hước. Động lực này hoạt động giống như trong video game vậy. Ta sợ nhiều thì thực trạng vẫn như cũ, còn ta say mê nhiều thì sợ hãi bắt đầu tan biến. Ngày thứ hai, ở Ai Cập ta thấy mọi người chạy ùa tới cảnh sát thay vì chạy tránh xa ra cảnh sát. Ta biết điều gì đó đang diễn ra ở đấy.
And then it's about humor. Humor is such a powerful game-changer, and of course it was very big in Poland. And you know, we were just a small group of crazy students in Serbia when we made this big skit. We put the big petrol barrel with a portrait picture of Mr. President on it in the middle of the Main Street. There was a hole on the top so you could literally come, put a coin in, get a baseball bat, and pow, hit his face. Sounds loud. And within the minutes, we were sitting in a nearby cafe having coffee, and there was a queue of people waiting to do this lovely thing. Well, that's just the beginning of the show. The real show starts when the police appears. What will they do? Arrest us? We are nowhere to be seen. We are three blocks away observing it from our espresso bar. Arrest the shoppers with kids? Doesn't make sense. Of course, you could bet they have done the most stupid thing: They arrested the barrel. And now the picture of the smashed face on the barrel with the policeman dragging them to the police car, that was the best day for the photographers from newspapers that they ever will have.
Rồi về hài hước. Hài hước là một điều rất then chốt quyết định sự thành bại, và tất nhiên hài hước đóng vai trò rất lớn ở Ba Lan. Như các bạn biết, chúng tôi chỉ là một nhóm sinh viên cuồng nhiệt ở Serbia khi chúng tôi thực hiện trò nghịch ghê gớm này. Chúng tôi đặt thùng dầu lớn có chân dung của tổng thống dán trên thùng ngay giữa đường phố chính. Trên đầu thùng có cái lỗ. Ta có thể bước đến, bỏ đồng xu vào lỗ, nhặt lấy cây bóng chày, và đập mạnh vào mặt y. Đập như thế tiếng vang rất to. Còn chúng tôi ngồi nhâm nhi cà phê trong quán cà phê gần đấy, và chỉ độ vài phút sau đã có nhiều người xếp hàng chờ đến phiên mình đập cho sướng tay. Nhưng đó chỉ là màn đầu. Tấn hài kịch thật sự bắt đầu khi cảnh sát xuất hiện. (Cười) "Họ làm gì được nào?" Bắt chúng tôi ư? Chả thấy ai đâu mà bắt. Từ quầy cà phê cách đó khoảng ba khu phố chúng tôi quan sát mọi sự. Bắt giam khách qua đường có con nít ư? Tất nhiên là chẳng hợp lý. Cảnh sát lại làm điều ngu ngốc nhất. Họ bắt giam cái thùng! Bấy giờ khuôn mặt trên thùng đã bị đánh tả tơi, cảnh sát chỉ còn cách kéo lê thùng lên xe. Ngày ấy là ngày huy hoàng nhất cho những người chụp hình cho các báo.
So, I mean, these are the things you can do, and you can always use the humor. There is also one big thing about the humor: It really hurts, because these guys really are taking themselves too seriously. When you start to mock them, it hurts.
Điều tôi muốn nói ở đây là ta có thể làm được nhiều việc, và ta có thể luôn luôn xử dụng hài hước. Còn có một điều quan trọng khác về hài hước. Hài hước làm cho kẻ bị chế giễu đau đớn. Vì những kẻ này vốn coi mình là rất quan trọng. Vì vậy khi ta bắt đầu chế giễu họ, họ cảm thấy đau đớn.
Now, everybody is talking about His Majesty, the Internet, and it is also a very useful skill, but don't rush to label things like Facebook Revolution, Twitter Revolution. Don't mix tools with the substance. It is true that the Internet and new media are very useful in making things faster and cheaper. They make it also a bit safer for the participants because they give the part of anonymity.
Hiện nay, mọi người đang nói về Hoàng đế của mình, tức Internet, và nó là một kỹ năng rất ích lợi. Nhưng đừng vội vàng dán nhãn hiệu "Cách mạng Facebook", "Cách mạng Twitter" lên mọi sự. Đừng lầm lẫn giữa công cụ và thực chất. Đúng là Internet và các phương tiện truyền thông mới rất ích lợi vì khiến thông tin truyền nhanh hơn và rẻ hơn. Đồng thời internet làm cho những người tham gia cảm thấy an toàn hơn một chút vì nó che dấu phần nào danh tính họ.
We are watching the great example of something else the Internet can do. It can put the price tag of state-sponsored violence over nonviolent protesters. This is a famous group, We are all Khaled Said, made by Wael Ghonim in Egypt and his friend. This is the mutilated face of the guy who was beaten by the police. This is how he became the public, and this is what probably became the straw which broke the camel's back.
Chúng ta đang nhìn thấy một ích lợi lớn lao khác mà Internet có thể làm được. Nó có thể dán cái giá của bạo lực do nhà nước bảo trợ đối với những người phản kháng bất bạo động. Đây là trường hợp nhóm nổi tiếng "Tất cả chúng ta là Khaled Said", do Wael Ghonim và các bạn anh ở Ai Cập lập ra. Đây là khuôn mặt bị biến dạng của người bị cảnh sát đánh chết. Do đấy mọi người đều biết đến anh nhưng đây có lẽ cũng trở thành cọng rơm cuối cùng làm gãy lưng con lạc đà.
But here is also the bad news. The nonviolent struggle is won in the real world, in the streets. You will never change your society towards democracy or economics if you sit down and click. There are risks to be taken and there are living people who are winning the struggle.
Tuy nhiên tin xấu cũng ở đây. Cuộc đấu tranh bất bạo động chiến thắng trong thế giới thực, trên đường phố. Ta sẽ không bao giờ thay đổi xã hội theo chiều hướng dân chủ hay thay đổi kinh tế nếu ta cứ ngồi nhà gõ phím. Có nhiều rủi ro chúng ta phải chấp nhận, và chỉ có những người đang sống mới giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh này.
Well, million dollar question: What will happen in the Arab World?
And though young people from the Arab World were pretty successful in bringing down three dictators, shaking the region, kind of persuading clever kings from Jordan and Morocco doing substantial reforms, it is yet to be seen what will be the outcome, whether the Egyptians and Tunisians will make it through the transition or this will end in bloody ethnic and religious conflict, whether the Syrians will maintain nonviolent discipline, faced with the brutal daily violence which kills thousands already, or they will slip into violent struggle and make ugly civil war. Will these revolutions be whole like through the transitions to democracy or be overtaken by military or extremists of all kinds? We cannot tell.
Còn đây là câu hỏi đáng giá ngàn vàng. Điều gì sẽ diễn ra trong thế giới Ả Rập?
Tuy những người trẻ tuổi trong thế giới Ả Rập đã khá thành công trong việc lật đổ được ba nhà độc tài, làm rung chuyển cả khu vực, và về mức độ nào đấy đã thuyết phục các vị vua thức thời ở Jordan và Morocco thực hiện những cải cách căn bản, nhưng vẫn còn sớm để thấy kết quả sẽ như thế nào. Liệu những người Ai Cập và Tunisia sẽ thành công trong thời gian thay đổi chính trị, hay rốt cuộc sẽ chìm đắm trong cuộc xung đột đẫm máu về tôn giáo và sắc tộc, liệu những người Syria còn duy trì được sự tuân thủ bất bạo động một khi hàng ngày phải đối mặt với bạo lực tàn bạo đã sát hại cả hàng ngàn người, hay sẽ rơi vào cuộc đấu tranh bạo lực rồi biến thành cuộc nội chiến xấu xa. Những cuộc cách mạng này sẽ tiếp tục suốt trong thời gian thay đổi chính trị và dân chủ hay bị quân đội và những kẻ quá khích đủ loại chiếm đoạt? Chúng ta không thể nói được.
Same works for the Western sector, where you can see all of these excited young people protesting around the world, occupying this, occupying that. Are they going to become the world wave? Are they going to find their skills, their enthusiasm, and their strategy to find what they really want and push for the reform, or will they just stay complaining about the endless list of the things they hate? This is the difference between two towns.
Những điều trên cũng đúng cho khu vực Phương tây, nơi ta có thể thấy tất cả những người trẻ tuổi đầy phấn khích biểu tình trên toàn thế giới, chiếm nơi này chiếm nơi nọ. Liệu họ sẽ trở thành làn sóng toàn cầu? Liệu họ sẽ tìm được kỹ năng, niềm say mê, và chiến lược của họ để tìm ra được điều họ thật sự muốn và đẩy mạnh cải cách, hay họ sẽ cứ tiếp tục than phiền mãi dựa trên bảng liệt kê vô tận về những điều họ ghét? Đây là sự khác biệt giữa hai con đường.
Now, what [do] the statistics have? My friend's book, Maria Stephan's book, talks a lot about violent and nonviolent struggle, and there are some shocking data. If you look at the last 35 years and different social transitions from dictatorship to democracy, you will see that out of 67 different cases, in 50 of these cases it was nonviolent struggle which was the key power. This is one more reason to look at this phenomenon. This is one more reason to look at the Generation Epsilon, enough for me to give them credit and hope that they will find their skills and their courage to use the nonviolent struggle and thus fix at least a part of the mess our generation is making in this world. Thank you. (Applause)
Còn thống kê cho ta biết gì. Sách của bạn tôi Maria Stephan bàn nhiều về đấu tranh bạo động và bất bạo động; và có vài số liệu đáng kinh ngạc. Nếu ta nghiên cứu các cuộc thay đổi xã hội khác nhau suốt trong 35 năm vừa qua, từ độc tài đến dân chủ, ta sẽ thấy rằng trong số 67 trường hợp khác nhau, thì trong 50 trường hợp cuộc đấu tranh bất bạo động là sức mạnh thay đổi chủ chốt. Đây là một lý do nữa để nghiên cứu hiện tượng này. Đây là một lý do nữa để nghiên cứu Thế hệ Y. Dù sao cũng đủ cho tôi để thừa nhận công lao của họ, và hy vọng rằng họ sẽ tìm thấy kỹ năng và lòng can đảm để áp dụng cuộc đấu tranh bất bạo động và nhờ thế sửa lại ít nhất phần nào sự hỗn loạn thế hệ chúng ta đang gây ra trên thế giới này.
Translated by Trần Quốc Việt
(1) Thế hệ Y là thế hệ sinh sau năm 1980 (chú thích của người dịch).

Mít Đặc và Biết Tuốt (2)

4. Món hời
Mít Đặc khoe với Biết Tuốt:
- Tớ mới mua được một đồng tiền cổ từ thời trước công nguyên có giá trị 100$ từ một người gặp ở ngoài đường. Người này nói là đang cần tiền nên gạ nhượng lại cho tớ với giá  50$, và sau một hồi mặc cả, tớ mua được nó với giá 30$ thôi.
- Làm sao mà cậu biết là nó là đồng tiền từ thời trước công nguyên ?
- Thì trên mặt đồng tiền có in năm sản xuất là 125 TCN mà.
- Thế thì là đồng tiền giả rồi!
Mít Đặc ngớ ra, không hiểu tại sau Biết Tuốt lại nghĩ đó là đồng tiền giả. Vì sao vậy ?
5. Chuyện cao bồi
Biết Tuốt đọc truyện:
- … Hai chàng cao bồi tài giỏi John và Bob đi đấu súng. Cả hai đều bắn trúng tim đối thủ của mình …
Mít đặc nghe thấy thế chen vào:
- Hai chàng John và Bob chỉ vì ngông cuồng mà chết  nhỉ
Biết tuốt phản đối:
- Hai chàng đó có chết đâu!
Vì sao vậy ?
6. Giải A
Mít Đặc được tham gia vào vào một trò chơi có thưởng. Trò chơi này gồm có 3 giải thưởng: giải C là một cái bút chì, giải B là một quyển truyện “Mít Đặc và Biết Tuốt”, còn giải A là một cái máy tính bảng loại xịn nhất.
Nguyên tắc của cuộc chơi như sau: Người chơi chỉ được nói 1 câu. Nếu đó là câu nói sai thì  nhận được giải C. Nếu đó là câu nói đúng thì người dẫn chương trình được phép cho người chơi giải B hoặc giải A.
Mít Đặc thích máy tính bảng hơn là quyển truyện, nhưng không biết làm thế nào để cho chắc chắn nhận được giải A. Biết Tuốt mới gợi ý “nói thế này này …”.
Nói thế nào để chắc được giải A ?

Mít Đặc và Biết Tuốt (3)


7. Chia bánh trung thu
Mít Đặc và Biết Tuốt được tặng chung nhau một cái bánh pizza trung thu hình tròn như mặt trăng ngày rằm. Mít Đặc lấy dao cắt bánh theo hai đường vuông góc với nhau thành 4 mảnh, nhưng hai đường đó nằm lệch chứ không đi qua tâm bánh pizza. Mít Đặc đề nghị với Biết Tuốt:
- Tớ lấy hai phần, phần to nhất và phần nhỏ nhất (phần chứa tâm hình tròn pizza và phần đối nghịch với nó), còn cậu lấy hai phần còn lại nhé, thế là đều nhau.
- Không, chia như thế không đều – Biết Tuốt phản đối – mà là phần của cậu sẽ nhiều hơn của tớ mất.
Thế rồi Biết Tuốt đề nghị một cách chia khác như sau: Biết Tuốt lấy dao cắt thêm 2 đường thẳng trên bánh, đi qua giao điểm của hai đường lúc nãy, và tạo thành các góc 45 độ với hai đường đó. Bánh bây giờ được chia thành 8 phần A, B, C, D, E, F, G, H, đánh số thứ tự theo vòng quay kim đồng hồ, kể từ phần A là phần to nhất (phần chứ tâm điểm của pizza). Biết Tuốt bảo với Mít Đặc:
- Bây giờ cho cậu chọn, hoặc là lấy các phần A, C, E, G, hoặc là lấy các phần còn lại B, D, F, H.
Mít Đặc nhìn loay hoay một lúc để đoán xem các phần nào nhiều hơn, nhưng hoa mắt và vẫn không biết nên chọn thế nào, nên cuối cùng chọn A, C, E, G, vì đoán là 4 phần đó nhiều hơn 4 phần còn lại.

Mít Đặc đoán có đúng không ? Nên chọn thế nào ?
8. Cân thế nào ?
Lần này, đến lượt Mít Đặc đọc được trong một quyển sách một câu đố hóc búa để đố Biết Tuốt. Câu đố như sau:
Có 12 đồng tiền vàng trông giống hệt nhau, đẹp như trăng rằm, trong đó có 11 đồng là thật và 1 đồng là giả. Biết rằng đồng giả có khối lượng khác các đồng thật, nhưng chưa biết là nó nhẹ hơn hay nặng hơn các đồng thật. Bây giờ có một cái cân (loại cân cổ điển có hai bên cân), hãy tìm cách chỉ cân 3 lần thôi, mà tìm ra được đồng tiền giả, đồng thời xác định được xem nó nặng hơn hay nhẹ hơn đồng tiền thật.
Bài toán đố đó làm Biết Tuốt phải suy nghĩ toát mồ hôi một lúc lâu, nhưng rồi cũng giải ra.
Bạn thử nghĩ xem lời giải của Biết Tuốt như thế nào ? Lần đầu tiên cân mấy đồng tiền mỗi bên ? Lần thứ hai cân mấy đồng tiền mỗi bên ? Và lần thứ ba cân mấy đồng tiền mỗi bên ?