Tổng số lượt xem trang

Thứ Năm, 12 tháng 6, 2014

Đang kiểm tra tài sản của phó Tổng thanh tra chính phủ - Tính toán mới của Trung Quốc về Biển Đông

Lạm phát in tiền và độ trễ suy thoái

Trung Quốc - Việt Nam: Lạm phát in tiền và độ trễ suy thoái

Nghịch lý gấp đôi
Với giới phân tích thường quan tâm đến những quốc gia khép kín, một điểm khá tương đồng không thể bỏ qua giữa hai nền kinh tế Trung Quốc và Việt Nam là lượng dự trữ ngoại tệ mạnh của hai nước này đã đại nhảy vọt trong mấy năm qua.
Về phần Ngân hàng trung ương Trung Quốc, thành tích này thậm chí còn không thèm che giấu. Chưa bàn tới tính trung thực của báo cáo, tính tới nay chủ thuyết “Trung Quốc trỗi dậy” đã phóng dự trữ ngoại tệ lên gần $4,000 tỷ, theo một công bố mới nhất của cơ quan này. Như vậy, cùng với tốc độ tăng tiến gấp đôi số nợ của các chính quyền địa phương từ $1,500 tỷ lên $3,000 tỷ chỉ từ năm 2011 đến cuối năm 2013, dự trữ ngoại tệ cũng tăng gấp hai lần. Đó chính là một trong những nghịch lý lớn nhất của nền kinh tế mà một chuyên gia phương Tây đã vẽ nên ảnh “Voi cưỡi xe đạp”.
Tuy nhiên, hiện giờ kinh tế Trung Quốc chỉ mới có biểu hiện tăng trưởng chậm lại và cách nào đó gây lo ngại cho Bộ chính trị Bắc Kinh cũng như với các đối tác lớn của Trung Quốc trên thế giới như Mỹ và Australia, chứ chưa lâm vào tình trạng chịu quá nhiều điều tiếng như Việt Nam trong suốt gần bảy năm qua. Còn với “tổ quốc ngàn năm Bắc thuộc”, tình cảnh tồi tệ hơn nhiều sau cú khủng hoảng kinh tế thế giới từ đầu năm 2008. Vào giữa năm 2011, sau khi con sóng đầu cơ bất động sản ở Hà Nội đã đi hết chiều dài của nó, thị trường nhà đất Việt Nam ngay lập tức rơi vào cảnh hoàng hôn. Cũng từ đó bắt đầu xuất hiện một từ ngữ mà giới ngân hàng ghét cay ghét đắng: “nợ xấu”.
Trong cảnh chợ chiều Việt Nam, nợ xấu là nguồn cơn của mọi nguồn cơn, khiến sinh ra mọi chuyện không thể gọi là tốt đẹp. Từ năm 2011 đến nay, bất chấp thái độ cố tình bưng bít của Ngân hàng nhà nước Việt Nam, con số về tỷ lệ nợ xấu mới nhất do hãng tư vấn xếp hạng tín nhiệm quốc tế Moody’s công bố vào đầu năm 2014 vẫn là 13%, tương đương với khoảng 500,000 tỷ đồng trên tổng số 3,400,000 tỷ đồng tổng nợ trong hệ thống ngân hàng. Có lẽ không quá khó để lý giải là con số nợ xấu hoặc nợ không thể đòi như thế đã khiến cho khối ngân hàng thương mại mất ngủ đến mức nào. Nhưng chính thế vong thân lãi suất cho vay đến hơn 20%/năm của các ngân hàng này lại làm cho ít nhất 200,000 doanh nghiệp phải vong mạng, và trên thực tế cũng chừng đó số doanh nghiệp không có khả năng đóng thuế cho ngân sách nhà nước. Con số này chiếm đến 35% tổng số doanh nghiệp còn nằm trên danh mục đăng ký hoạt động ở Việt Nam tính đến thời điểm này.
Thế nhưng bất chấp tất cả, dường như chưa bao giờ Hà Nội quên đi niềm tự hào anh em môi răng với Bắc Kinh, kể cả trong tận cùng của những nghịch lý bị coi là tật xấu khủng khiếp. Trong bối cảnh nền kinh tế đã rơi vào suy thoái trầm trọng và khiến hiệu ứng tiêu dùng tương đương với tình trạng giảm phát, lượng dự trữ ngoại tệ do Ngân hàng nhà nước Việt Nam công bố vẫn gia tốc một cách đáng sợ. Nếu từ năm 2011 trở về trước, dự trữ ngoại tệ là chủ đề được coi là tuyệt mật và hầu như không thể công bố, thì nghịch lý ngơ ngác là trong lúc nền kinh tế ngày càng hội ngộ đầy đủ các thành tố khủng hoảng từ năm 2012 đến nay, Ngân hàng nhà nước lại càng lúc càng trở nên dạn dĩ hơn để “giải mật”. Lượng dự trữ ngoại tệ của Việt Nam cũng theo đó mà xuất thần: từ khoảng $15 tỷ vào năm 2011, bầu sữa này đã lên đến hơn $30 tỷ vào đầu năm 2014. Thậm chí có ước đoán hiện thời dự trữ ngoại tệ của Việt Nam còn lên đến gần $40 tỷ, tức tương đương 1% của cái giá trị nhất thời chưa được kiểm chứng như vậy ở Trung Quốc.
Tất nhiên, một câu hỏi phải đặt ra: vì sao trong bối cảnh nền kinh tế cực kỳ què quặt mà dự trữ ngoại tệ của Việt Nam vẫn quá đầy đặn?
Vong thân kinh tế
Một giả thiết nhẹ nhàng có thể phác ra là Ngân hàng nhà nước Việt Nam - cơ quan vẫn ham muốn được nâng cấp lên mức “trung ương” theo cơ chế Trung Quốc - đã in tiền quá mức cần thiết để làm công tác “huy động ngoại tệ trôi nổi” nhằm phòng lúc khốn khó.
Một kinh nghiệm quý báu mà Hà Nội có lẽ đã luôn tham khảo từ “người láng giềng anh em”: Trung Quốc luôn bị xem là kẻ tạo ra lạm phát với tốc độ in tiền gấp đôi nước Mỹ. “Trong vòng 30 năm qua, Trung Quốc đã dùng quá nhiều tiền để bơm vào nền kinh tế nhằm kích thích tăng trưởng” - một chuyên gia kinh tế có tên là Wu Xiaoling của chính phủ Trung Quốc nhún vai.
Chỉ tính đến cuối năm 2013, lượng cung tiền bơm vào nền kinh tế của Trung Quốc đã lên tới 110,650 tỷ Nhân dân tệ (tương đương $17,770 tỷ), gấp 4 lần so với 10 năm trước đây. Đây là dấu hiệu sống động nhất và cũng là bằng chứng hùng hồn nhất cho thấy chính phủ Trung Quốc đang in tiền nhanh hơn khá nhiều tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.
Song cơ chế lạm phát in tiền cũng tất yếu gây ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe của đồng Nhân dân tệ. Kể từ khi Trung Quốc bỏ chế độ neo tỷ giá vào năm 2005, đồng Nhân dân tệ đã tăng giá so với đồng USD do nền kinh tế Trung Quốc tăng trưởng nhanh. Tuy nhiên, nghịch lý xảy ra là trong khi Nhân dân tệ có vẻ giữ giá trị so với đồng tiền của các quốc gia khác, thì nó lại nhanh chóng mất giá ngay trong nước; đồng thời xu thế này cũng không kéo dài khi thời gian gần đây đồng Nhân dân tệ liên tục mất giá so với các đồng tiền khác. Nếu trong 4 tháng đầu năm 2014, đồng Nhân dân tệ của Trung Quốc liên tục giảm giá với biên độ lớn nhất từ khi quốc gia này bắt đầu thực hiện cải cách đến nay, thì vào đầu tháng 5/2014, tỷ giá Nhân dân tệ đã giảm xuống mức thấp nhất kể từ cuối năm 2012, chỉ còn $1 đổi 6,23 NDT.
Hệ quả đương nhiên mà một kẻ sắp vong thân kinh tế phải tính đến là gom góp những tài sản quý giá nhất để phòng thân. Rất có thể cả Trung Quốc lẫn Việt Nam, một khi vẫn lang thang trên con đường “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, hẳn phải dựa vào đồng đô la Mỹ như một phao cứu sinh để phòng hờ tương lai đồng nội tệ mất giá và nền kinh tế rơi vào lạm phát trầm trọng hoặc bị bão lạm phát.
Với Việt Nam, tương lai này đã hầu như chắc chắn. Còn với Trung Quốc, cả thế giới vẫn đang chờ xem quốc gia 1,3 tỷ dân này phải vật lộn với mầm mống của cơn khủng hoảng sắp tới như thế nào.
Những mầm mống như thế đang có vẻ khá căng cứng. Khi Tết nguyên đán 2014 mới trôi qua được một tháng, những tin tức về một đợt suy thoái kinh tế ở Trung Quốc bất chợt dồn dập. Từ sâu thẳm của những tháng năm chật chội, những nguồn tin bắt đầu lộ diện. Nhưng rõ ràng nhất là việc hãng nghiên cứu có uy tín Business Wisdom đưa ra dự báo sắp có làn sóng vỡ nợ ở 10 ngành công nghiệp Trung Quốc, bao gồm: (1) đóng tàu; (2) sắt thép; (3) đèn LED; (4) nội thất; (5) bất động sản; (6) vận tải biển; (7) tín chấp và các định chế tài chính; (8) quản lý tài chính; (9) vốn tư nhân và (10) mua theo nhóm.
Nợ công cũng biến thành một vấn nạn không thể chối từ. Không khác mấy điều được coi là “minh bạch số liệu” ở Việt Nam, con số báo cáo của Trung Quốc cho thấy loại nợ này chỉ chiếm khoảng 45% GDP. Nhưng theo cách tính toán khách quan và thành thực hơn rất nhiều của các hãng xếp hạng tín nhiệm quốc tế, tỷ lệ nợ công quốc gia thực tế của Trung Quốc phải lên đến 150% GDP. Thậm chí, một phân tích của Business Wisdom còn cho rằng Bắc Kinh phải chịu trách nhiệm đối với khoản nợ tương đương 265% GDP, vượt hơn nhiều so với tỷ lệ nợ công quốc gia 200% GDP của Nhật Bản khi đất nước này lâm vào cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ bắt đầu từ năm 1997, để sau đó phải chấp nhận một “thập kỷ mất mát” không thể khác hơn.
Điều đáng sợ nhất
“Thập kỷ mất mát” hoặc ám ảnh ghê gớm hơn thế chính là hệ lụy mà giới lãnh đạo và các nhóm tài phiệt Trung Quốc lo sợ nhất. Đơn giản là nếu tương lai đó xảy đến, sẽ chẳng bao giờ một tương lai chính trị cùng tài sản cá nhân của họ được bảo đảm.
Cứ cho là đang nắm giữ một lượng ngoại tệ mạnh chiếm gần 50% tổng lượng GDP hàng năm, nhưng không vì thế mà nền kinh tế Trung Quốc thoát khỏi hình bóng “hổ giấy”. Sẽ ra sao nếu một tương lai trơn trượt có thể xảy ra để quốc gia này lâm vào “thập kỷ mất mát” như Nhật Bản và sẽ tiêu tốn đến những đồng đô la cuối cùng để xử lý tình trạng suy trầm kinh tế?
Việt Nam đã có quá đủ bài học từ ảo tưởng đến suy trầm như thế. Vào đầu năm 2011, Bộ chính trị và Chính phủ quốc gia này vẫn còn phơi phới quyết tâm duy trì mức tăng trưởng GDP lên đến 9-9,5%. Thế nhưng chẳng bao lâu sau đó, giới chính khách không mấy chuyên nghiệp ấy phải nhận ra rằng đúng như bài bản lý thuyết Mác - Lê, kinh tế đã quyết định chính trị. Không bao lâu sau, “những người thích đùa” này đã bắt buộc phải rút dần chỉ tiêu tăng trưởng xuống còn 7%, và hiện nay chỉ còn khoảng 5%, cho dù tất cả những con số này thật ra chẳng có ý nghĩa gì lắm nếu xét trên thực tế nền kinh tế đã rất có thể rơi vào tình trạng giảm phát, và do vậy GDP thậm chí còn có thể âm cục bộ vào một số thời điểm.
Nhìn sang “nước bạn”, một giả thiết có thể đặt ra là nền kinh tế Trung Quốc đi sau Việt Nam khoảng 3 năm, tình thế khó khăn của Trung Quốc hiện thời đang khá giống với Việt Nam vào năm 2011. Còn nếu xét về hiện trạng GDP, Trung Quốc hiện nay đang ứng với Việt Nam năm 2012.
Một giả thiết tiếp nối: với đà này, chỉ sau 2-3 năm nữa, tức vào giai đoạn 2016-2017, nền kinh tế Trung quốc sẽ sa vào bẫy chuột của chính nó như Việt Nam đã từng.
Kinh tế quyết định chính trị. Nếu những gì đã và đang xảy ra trong thể chế độc tôn kinh tế và độc tài chính trị ở Việt Nam tái hiện ở Trung Quốc, không hiểu Tập Cận Bình và giàn giáo tướng lĩnh của ông ta còn đủ tĩnh tâm triệt hạ dần vùng lãnh hải Việt Nam ở biển Đông bằng các giàn khoan dầu hay không?
Những dấu hiệu chao đảo của nền kinh tế Trung Quốc từ đầu năm 2014 đến nay cũng phác ra một viễn cảnh không mấy nồng cảm cho mối quan hệ “sông liền sông núi lền núi”: nồng độ can thiệp của Bắc Kinh đối với Hà Nội sẽ khó mà giữ nguyên trong những lời hứa hẹn về “làm mọi cách để bảo vệ nền chuyên chính vô sản” từ Hội nghị Thành đô năm 1990. Ngược lại, đó là một cơ hội để biểu tả thánh thiện cho xu thế “Thoát Trung” đang ngày càng mở rộng và ăn sâu vào lòng ít nhất 70% dân chúng Việt Nam - những người túng thiếu tiền bạc nhưng thừa lòng tự trọng non sông.
Phạm Chí Dũng
(Diễn đàn Thế kỷ)

Dọa dẫm kinh tế hay răn đe chính trị

000_Hkg9834130-305.jpg
Hàng ngàn công nhân Trung Quốc được rút ra khỏi cảng Vũng Áng ở Hà Tĩnh, Việt Nam đã về đến cảng Tú Anh ở Hải Khẩu, tỉnh Hải Nam, miền nam Trung Quốc vào ngày 20 tháng 5 năm 2014. AFP PHOTO
Sự kiện các doanh nghiệp nhà nước của Trung Quốc được lệnh ngừng đầu tư vào Việt Nam phải chăng là bước đe dọa mới, trong khi giàn khoan HD 981 đã hiện diện trái phép hơn 1 tháng trên vùng biển miền Trung.
Một động tác tâm lý?

Khi đưa tin về việc Bộ Thương mại Trung Quốc ra lệnh cho các doanh nghiệp nhà nước ngừng tham gia đấu thầu tại Việt Nam, ngày 9/6 báo South China Morning Post ấn hành ở Hong Kong trích lời chuyên gia Hứa Lợi Bình của Viện Chiến lược Quốc tế nhận định: “đây là tín hiệu cho thấy Trung Quốc đang sử dụng lá bài kinh tế, nhưng hiệu quả ra sao thì còn phải chờ.”

Nhận định về sự kiện mới nhất này, Tiến sĩ kinh tế Phạm Chí Dũng một nhà bình luận độc lập từ TP.HCM phát biểu:

“Việc nhà nước Trung Quốc cấm một số doanh nghiệp dự thầu ở Việt Nam, tôi cho là một động tác tâm lý cũng giống như họ rút 4.000 công nhân ra khỏi cảng Vũng Áng ở Hà Tĩnh gây ra một áp lực và đồng thời cũng là một đe dọa chính trị đối với Hà Nội… nếu Hà Nội không tuân thủ luật chơi của Trung Quốc thì họ có thể cấm cố nền kinh tế Việt Nam.”

Theo TS Phạm Chí Dũng Trung Quốc chưa lọt vào tốp 10 nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, tuy nhiên sự đặc thù trong dự thầu của doanh nghiệp Trung Quốc lại là một điều đáng chú ý. TS Phạm Chí Dũng nhấn mạnh:

“Những dự án mà Trung Quốc hiện diện nhiều có lẽ nằm trong hệ thống nhiệt điện, hiện nay Trung Quốc chi phối rất lớn trong các dự án nhiệt điện Việt Nam và theo một đánh giá thì trong tổng số 31 nhà máy nhiệt điện Việt Nam thì Trung Quốc đã chiếm tới 23 nhà máy rồi… và nếu một ngày đẹp trời nào đó họ đồng loạt cúp điện thì có lẽ Việt Nam sẽ chìm trong bóng tối. Đấy là một hình ảnh rất tượng hình, rất tượng trưng.”

Kinh tế Việt Nam lệ thuộc Trung Quốc là điều rõ ràng, năm 2013 nhập siêu với Trung Quốc lên tới hơn 23 tỷ USD. Trong năm này Việt Nam xuất  khẩu sang Trung Quốc 13,3 tỷ USD, phần lớn là nông sản và các mặt hàng thô. Ngược lại Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc hàng hóa, nguyên liệu dệt may và da giày, máy móc, nhà xưởng trị giá 36,9 tỷ USD.

Giả dụ Việt Nam và Trung Quốc gián đoạn giao thương điều gì sẽ xảy ra. TS Lê Đăng Doanh nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương từ Hà Nội nhận định:

“Xuất khẩu của Trung Quốc sang Việt Nam thì chỉ bằng 1% xuất khẩu của Trung Quốc thôi, còn nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc chiếm đến 28% tổng nhập khẩu của Việt Nam. Vì vậy cho nên chắc chắn nếu như mà Trung Quốc có những biện pháp cấm vận hoặc hạn chế xuất khẩu sang Việt Nam thì Việt Nam sẽ chịu những thiệt hại tương đối nặng nề trong thời gian nhất định.”
Trung Quốc cũng thiệt hại
 
khidienCaMau-250.jpg
Công nhân Trung Quốc và công nhân Việt Nam ở nhà máy Đạm Cà Mau. Ảnh minh họa chụp trước đây.
Hàng hóa dệt may của Việt Nam năm 2013 có trị giá xuất khẩu gần 20 tỷ USD, tuy nhiên nguyên phụ liệu cần thiết phải nhập riêng từ Trung Quốc lên tới gần 6 tỷ USD. Ông Diệp Thành Kiệt, Phó chủ tịch Hội dệt may thêu đan TP.HCM nhận định:

“Giả sử tình huống xấu nhất Trung Quốc ra lệnh bế môn tỏa cảng không cho xuất hàng vào Việt Nam, thì đầu tiên là việc ách tắc sản xuất xảy ra ngay chứ không phải là cầm cự được bao lâu. Tại vì thường nguyên liệu của chúng ta đặc biệt với ngành dệt may là ngành thời trang, nguyên liệu đưa về là sản xuất ngay và thường thì dự trữ nguyên liệu của các nhà máy dệt may Việt Nam là không quá 2 tới 3 tháng. Tác động sẽ xảy ra ngay thôi.”

Tuy vậy ông Diệp Thành Kiệt có chung quan điểm với nhiều chuyên gia khác là Trung Quốc không dại gì cấm vận dệt may Việt Nam, bởi vì họ cũng bị thiệt hại. Trung Quốc cần đầu ra cho ngành sản xuất nguyên phụ liệu dệt may của chính họ.

Trao đổi với chúng tôi, TS Phạm Chí Dũng từ Sài Gòn nhận định:

“Tôi chắc chắn một điều là Trung Quốc sẽ không thể cấm vận Việt Nam ít nhất vào thời điểm này. Tại vì điều đó hoàn toàn bất lợi cho Trung Quốc, bất lợi về quan hệ chính trị, về các giá trị kinh tế, bất lợi về quốc tế. Trung Quốc được coi là cường quốc nhưng thực ra đó là hình ảnh của một nước giàu dân nghèo hay là voi cưỡi xe đạp và còn khá là nhỏ đối với thế giới. Trung Quốc chưa có đủ tiềm lực giống như Hoa Kỳ để mà đi cấm vận kinh tế đối với các nước khác. Thành thử đó là một bước đi sai lầm và dại dột, có thể nói là ngu ngốc đối với Trung Quốc nếu họ làm điều đó.”

Theo các số liệu chính thức, 5 tháng đầu năm 2014 xuất khẩu gạo của Việt Nam đạt 2,65 triệu tấn trị giá 1,19 tỷ USD nhưng riêng thị trường Trung Quốc chi phối gần 42%. Trung Quốc còn là thị trường chủ yếu của trái cây và mủ cao su của Việt Nam. TS Đặng Kim Sơn, Viện trưởng Viện chính sách và chiến lược phát triển Nông nghiệp Nông thôn Việt Nam nói với báo chí là ông tin rằng Trung Quốc không dại gì cấm biên, Trung Quốc cần nhập khẩu gạo từ Việt Nam để đảm bảo an ninh lương thực cho chính họ. Tuy vậy TS Đặng Kim Sơn nhận định:

“Trong mọi tình huống phải luôn luôn chủ động để đảm bảo được thị trường xuất khẩu cả chính ngạch và tiểu ngạch. Chính vì thế công tác nghiên cứu thị trường, công tác chuẩn bị thị trường hiện nay đang được đẩy mạnh. Không phải trong trường hợp xấu đến khi xảy ra gây khó khăn chúng ta mới lo chuyện này.”

Theo Cục Đầu tư Việt Nam, với 1.029 dự án còn hiệu lực tính đến ngày 20/5 tổng vốn đầu tư đăng ký của các dự án của Trung Quốc tại Việt Nam là 7,84 tỷ USD. Nhật Bản duy trì vị trí nhà đầu tư lớn nhất với vốn đăng ký 35,6 tỷ USD, kế tiếp là Hàn Quốc với hơn 31 tỷ USD, Singapore với 30,3 tỷ USD và Đài Loan 27,4 tỷ USD.

Trung Quốc đang hưởng lợi tại Việt Nam với con số xuất siêu hơn 23 tỷ USD vào năm 2013. Hơn nữa doanh nghiệp Trung Quốc đang bỏ tiền tỷ đô la đầu tư vào ngành dệt nhuộm ở Việt Nam, đón đầu Hiệp định đối tác xuyên Thái bình Dương TPP mà Hà Nội tham gia.

Theo giới chuyên gia, cùng với cuộc xâm lăng trên biển Đông, Trung Quốc đang ra vẻ tạo thêm áp lực kinh tế với Việt Nam. Việc tạm thời cấm doanh nghiệp nhà nước đầu tư mới vào Việt Nam, mang ý nghĩa răn đe chính trị với Hà Nội hơn là một bước đi trừng phạt kinh tế thực sự.
  Nam Nguyên, phóng viên RFA 
2014-06-11  

Tính toán mới của Trung Quốc về Biển Đông

Trong những tháng gần đây, các hành động đơn phương của Trung Quốc nhằm khẳng định yêu sách của mình ở Biển Đông đã đẩy căng thẳng khu vực lên cao. Các hành động được tính toán kỹ lưỡng của Trung Quốc được thúc đẩy bởi nhiều yếu tố trong lẫn ngoài nước. Những yếu tố này bao gồm việc thúc đẩy uy tín và thẩm quyền của Tập Cận Bình nhằm phục vụ chương trình nghị sự cải cách trong nước; và nhận định rằng Hoa Kỳ rất nhiều khả năng sẽ không can thiệp vào thời điểm này. Bên cạnh những hành động công khai nhằm khẳng định yêu sách của mình ở Biển Đông, các tuyên bố chính thức và các phân tích pháp lý trong nội bộ Trung Quốc cũng phản ánh một quyết tâm được điều chỉnh lại nhằm củng cố (yêu sách) đường chín đoạn gây tranh cãi của nước này ở Biển Đông.

Từ quan điểm Trung Quốc, lời giải thích rõ ràng và trực tiếp nhất cho sự hung hăng ngày càng tăng của Trung Quốc ở Biển Đông là rất đơn giản: Trung Quốc tin rằng sự kiềm chế đơn phương của nước này trước đây đã không làm gì để giúp cải thiện vị thế của nó trong các tranh chấp Biển Đông và việc không hành động thực tế đã dẫn tới việc các nước tranh chấp khác tăng cường hiện diện và yêu sách của mình. Vì vậy, để Trung Quốc có thể cải thiện vị thế của mình trong bối cảnh hiện tại cũng như các cuộc đàm phán tương lai, Trung Quốc trước hết phải thay đổi nguyên trạng thông qua những phương tiện sẵn có cần thiết. Trung Quốc muốn ưu tiên sử dụng cách tiếp cận dân sự và bán quân sự nhưng không bác bỏ biện pháp cưỡng ép quân sự nếu phải làm như vậy. Một vị thế có lợi và một đặc quyền riêng biệt nhất định ở Biển Đông được cho là không thể thiếu đối với tham vọng của Trung Quốc nhằm trở thành một “cường quốc biển”, một “nhiệm vụ chính” được đề ra bởi Đại hội Đảng lần thứ 18 vào năm 2012 và là một chính sách được cá nhân Tập ủng hộ. Trong khi tham vọng có được một lực lượng “hải quân viễn dương” và việc bành trướng hải quân đối mặt với nhiều điểm nghẽn dọc theo bờ biển phía Đông từ Nhật Bản kéo dài xuống Philippines, thì Biển Đông được coi là mang lại cho Trung Quốc một khu vực hải dương rộng lớn và dễ thở hơn cho các hoạt động hải quân của mình.

Dù chính sách thay đổi nguyên trạng và theo đuổi địa vị cường quốc biển đã tồn tại lâu nay thì thời điểm cụ thể của các hành động gần đây nhất của Trung Quốc lại liên quan đến tình hình chính trị trong nước – Chủ tịch Tập cần một vị thế chính sách đối ngoại mạnh nhằm củng cố nền tảng quyền lực trong nước. Chương trình cải cách đang diễn ra của Tập từ khi nhậm chức vào năm 2013, bao gồm “tăng cường cải cách kinh tế” và chiến dịch “chống tham nhũng” mạnh mẽ đã đụng chạm đến nhiều vấn đề nhạy cảm liên quan đến các nhóm lợi ích hiện hữu và quan hệ chính trị trong hàng ngũ lãnh đạo Trung Quốc. Vì vậy Tập cần giành được càng nhiều uy tín chính sách đối ngoại càng tốt để xây dựng hình ảnh lãnh đạo cứng rắn và pha loãng chỉ trích nội bộ đối với các chương trình nghị sự trong nước của mình. Điều này không nhất thiết cho thấy hoặc chứng minh rằng bản thân Tập không ủng hộ một chính sách đối ngoại cứng rắn hơn, chỉ là bổ sung một lớp động lực mạnh mẽ thêm vào đó.

Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng là Trung Quốc hành xử hung hăng ở Biển Đông vì nước này tin rằng nó có thể làm như vậy. Đánh giá này không chỉ dựa trên năng lực quân sự ngày càng lớn mạnh của Trung Quốc vốn vượt trội hơn hẳn tất cả các nước tranh chấp ở ĐNA cộng lại, mà còn dựa trên niềm tin ở Trung Quốc rằng Mỹ sẽ không dùng sức mạnh cứng để đối phó với các hành động của Trung Quốc. Trung Quốc đã theo dõi sát sao sự lưỡng lự của Mỹ trước việc can thiệp quân sự vào Syria cũng như ở Ukraine, và rút ra kết luận rằng chính quyền Obama không muốn can dự vào một cuộc xung đột quân sự. Ngoài ra Trung Quốc cũng tin rằng chính quyền Obama không muốn có một di sản chính sách đối ngoại trong đó bao gồm một cuộc xung đột với Trung Quốc.

Mặc dù vậy, Trung Quốc cũng thừa nhận sự khác biệt giữa Ukraine, vốn không phải là một thành viên của NATO, với Philippines, vốn là một đồng minh của Mỹ. Tuy nhiên, khi Trung Quốc giành quyền kiểm soát bãi cạn Scarborough vào năm 2012, Mỹ đã không làm gì. Hơn nữa, như bà Phó Oánh, Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội đã chỉ ra tại Đối thoại Shangri-La gần đây, tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam “không liên quan gì tới Mỹ”. Thông điệp ẩn đằng sau là Việt Nam thậm chí không phải là một đồng minh của Mỹ và khả năng Mỹ can thiệp thay mặt Việt Nam là cực kỳ thấp, nếu không muốn nói là không tồn tại.

Bên cạnh việc tiến hành các hành động đơn phương nhằm thay đổi nguyên trạng, Trung Quốc cũng đang củng cố các lập luận của mình đằng sau “đường chín đoạn” gây tranh cãi ở Biển Đông. Phó Tổng tham mưu trưởng Giải phóng quân Trung Quốc (PLA) Wang Guanzhong đã trình bày 6 điểm chưa có tiền lệ về tính hợp pháp của đường chín đoạn tại Đối thoại Shangri-La, một chỉ dấu rõ ràng cho thấy quyết tâm của Bắc Kinh trong việc chống đỡ các yêu sách tranh cãi của mình. Điều này tương phản hoàn toàn với một vài năm trước đây khi cộng đồng nghiên cứu pháp lý và chính sách đối ngoại của Trung Quốc vẫn còn tranh cãi về giá trị của đường chín đoạn. Giờ đây các nhà phân tích Trung Quốc hầu như nhất trí cho rằng Trung Quốc nên đơn phương duy trì yêu sách tranh cãi này.

Trung Quốc hiểu rất rõ sự mâu thuẫn giữa đường chín đoạn với UNCLOS và đã đầu tư đáng kể vào các nghiên cứu pháp lý nhằm củng cố lập luận “quyền lịch sử” của mình. Một số chuyên gia Trung Quốc đã tìm thấy sự biện minh ngay trong chính UNCLOS, tuyên bố rằng Công ước này “mập mờ” và “không bao quát” về vấn đề danh nghĩa quyền lịch sử. Vì vậy, theo quan điểm của họ, vấn đề quyền lịch sử đã không được giải quyết bởi UNCLOS và vẫn là một cuộc thảo luận mở đang diễn ra. Các chuyên gia Trung Quốc khác lại cho rằng đường chín đoạn sẽ không có căn cứ ủng hộ nào từ UNCLOS. Thay vào đó họ cố gắng tìm kiếm các cách biện minh khác bên ngoài UNCLOS từ các luật tập quán và quy tắc hành xử quốc tế. Cả hai trường phái đều lập luận rằng do đường chín đoạn ra đời trước UNCLOS 4 thập niên và các quyền lịch sử của Trung Quốc có trước UNCLOS còn lâu hơn thế, nên UNCLOS không thể được áp dụng theo kiểu hồi tố để bác bỏ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán trên biển của Trung Quốc vốn đã được hình thành trong lịch sử.

Trung Quốc cũng cẩn thận điều chỉnh lại những gì mà nước này muốn yêu sách trong đường chín đoạn. Lý do duy trì “sự mập mờ chiến lược” là rõ ràng: Nhằm dành chỗ và sự linh hoạt cho các cuộc đàm phán tương lai. Hầu hết các nhà phân tích Trung Quốc đều có xu hướng coi các vùng nước trong đường chín đoạn là một vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc, mặc dù chính phủ chưa công khai ủng hộ lập trường này.

Nhiều người trong giới hoạch định chính sách Trung Quốc hiểu rõ những điểm yếu của các lập luận pháp lý này. Tuy nhiên có các lập luận yếu nhưng hợp pháp còn tốt hơn là không có lập luận nào cả, đặc biệt là khi các lập trường như vậy được chống đỡ bởi sức mạnh quốc gia lớn và sự sẵn lòng trong việc sử dụng quyền lực đó. Nếu so sánh, phí tổn về uy tín đối với Trung Quốc được cho là có thể quản lý được. Trong thực tế, theo phân tích chi phí – lợi ích của Trung Quốc thì lợi ích thật sự của các hành động cưỡng bức lớn hơn đáng kể so với chi phí. Rốt cuộc, Trung Quốc có các biện pháp khác, nhất là thông qua kinh tế, để cải thiện quan hệ với ĐNA, trong khi các yêu sách của nó ở Biển Đông khó có thể đạt được thông qua bất cứ cách nào khác ngoài sự cưỡng ép. Bên cạnh đó, Trung Quốc không chấp nhận cơ chế giải quyết tranh chấp được quy định bởi UNCLOS. Vì vậy ngay cả khi tòa trọng tài quốc tế ủng hộ các yêu sách của Philippines thì Trung Quốc cũng không chấp nhận kết quả đó, và sẽ rất khó, nếu không nói là hoàn toàn không thể, để tòa có thể cho thi hành được phán quyết của mình.

Dù các nước khác có muốn hay không thì Trung Quốc cũng đang giành được những gì nước này muốn. Các diễn biến mới trong tính toán và lập trường của Trung Quốc cần phải được hiểu một cách chính xác và được đối phó kịp thời bởi các quốc gia trong khu vực, đặc biệt là Hoa Kỳ./.

Tác giả: Yun Sun
Biên dịch: Lê Hồng Hiệp
(Nghiên cứu Quốc tế)

Nguyễn Ngọc Già - Tôi biết ơn Việt Nam Cộng Hòa


Ông Ngô Đình Diệm (thứ ba từ trái) cùng với chính phủ của ông chụp tại Sài Gòn năm 1955.

Một số người trong nước cũng như người Việt hải ngoại cho rằng không nên vực dậy "xác chết" có tên Việt Nam Cộng Hòa. Tuy nhiên, lịch sử là nguồn cội của bất kỳ dân tộc nào. Lịch sử là khoa học và tính Người được thể hiện cao nhất từ đó. Bất kỳ một giai tầng nào hay một bậc vua chúa hoặc một nhà độc tài nào đi nữa, cũng không thể nào trốn được lịch sử. Lịch sử là Con Người.

Lịch sử dù đau thương như VNCH đã để mất Hoàng Sa, hay đáng tủi hổ như công hàm 1958 của VNDCCH và hội nghị Thành Đô của CHXHCNVN cùng nhiều biến cố sự kiện quan trọng khác không thể không nhắc lại.

Nhắc lại để hiểu rõ hơn và để cho thế hệ con cháu hôm nay, ngày mai nghiền ngẫm, dọn mình cho một thời đại mới - đang bắt đầu ló dạng. Tôi không biết mình có mơ mộng hão huyền trong tình thế của nước CHXHCNVN hôm nay không, nhưng trong tâm hồn tôi, từ lâu, tôi muốn nói: Cám ơn Việt Nam Cộng Hòa - Nhà Nước mà ở đó, làm cho tôi "Trích Lục Bộ Khai Sanh" [*].

Sài Gòn - nơi tôi được sinh ra, lớn lên, chứng kiến một góc nhỏ nhoi những trầm luân của số phận dân tộc Việt Nam.

Dù VNCH tồn tại ngắn ngủi, nhưng tôi không sao quên được cuộc sống chan hòa nhân ái của tuổi hoa niên, dù ngay trong những ngày chiến tranh lửa khói. Hôm nay, bỗng nhiên trong tôi bật ra lời thành tâm này. Tôi viết với nỗi xúc động rưng rưng trên khóe mắt, khi xem lại hình ảnh những tử sĩ đã ngã xuống tại Hoàng Sa - Trường Sa ngày xưa.

*Thay mặt gia đình*

Như đã viết rải rác trong nhiều bài trước đây, tôi sinh ra và lớn lên tại Sài Gòn, trong một gia đình trung lưu với việc làm ăn phát đạt, dần dẫn đến giàu có hơn.

Thật ra, sau này tôi mới biết ba tôi là "Việt Cộng nằm vùng", do đó có thể nói, gia đình tôi là gia đình "ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản". Cách đây vài chục năm, khi nghe câu này, tôi khá giận dữ và cảm thấy bị sỉ nhục. Cảm giác đó dễ hiểu bởi sự thật chưa được phơi bày như sau này.

Tuy nhiên, cũng nhờ đó mà tôi tự tìm tòi. Tôi nghĩ, không có cách gì thuyết phục nhất cho mỗi người, nếu như tự thân mình không chủ động tìm hiểu và can đảm nhìn thẳng vào Sự Thật.

Nhìn một cách thẳng thắn, không hề né tránh là điều chưa bao giờ dễ dàng, cho bất kỳ ai, cho bất kỳ điều gì, không riêng lãnh vực chính trị.

Ít nhất, cho đến nay, tôi có thể nói, tôi đã nhìn thẳng vào Sự Thật mà tôi biết, tôi tin một cách có căn cứ.

Từ cảm giác giận dữ, dần dần tôi chuyển qua cảm giác nhục nhã. Nhục nhã vì sự vong ân bội nghĩa của gia đình mình đối với Quốc Gia mà từ đó gia đình tôi làm ăn khá giả một cách chân chính, còn bản thân tôi lớn lên từ đó.

Tôi không có ý định chạy tội cho ba tôi hay những người thân khác. Suy cho cùng, gia đình tôi vừa là đồng phạm, vừa là nạn nhân của cộng sản. Đó là sự thật. Ba tôi chưa bao giờ giết bất kỳ một ai.

Ba tôi đã chết dưới tay người cộng sản. Tôi có căm thù không? Có. Có muốn báo thù không? Đã từng. Điều mỉa mai, ba tôi chết không phải vì người cộng sản trả oán hay trù dập mà cái chết của ba tôi đến từ sự "ân sủng" dành cho ông - một người chưa bao giờ cầm một đồng tiền bất chính nào, cũng như chưa bao giờ nhận bất kỳ sự "ban ơn" nào từ người cộng sản.

Một cái chết khá đặc biệt trong muôn vàn cái chết, do người cộng sản gây ra. Có thể đó là một niềm an ủi cho tôi. Cũng có thể đó là một ơn huệ của Ơn Trên, đã sắp đặt cho ba tôi một cái chết không hề nhơ nhuốc mà nhuốm màu thê lương trong một con người thơ ngây và chơn chất. Nhưng đó là câu chuyện quá vãng của gần 20 năm về trước, không phải những gì tôi muốn viết hôm nay.

Tôi có ba người chú ruột đều được "phong liệt sĩ". Cả ba người đều chết thời Pháp. Bà nội tôi được "tặng" "bà mẹ Việt Nam anh hùng". Tôi có hai người cậu ruột, trốn ngoại tôi để đi tập kết năm 1954. Hai người cậu ruột khác lại làm trong chế độ VNCH. Hai người cậu này đều có chức phận vào thời bấy giờ. Tôi có một người chị ruột làm trong nhà thương và "thân cộng" lúc đó. Một người anh ruột là sĩ quan thuộc quân lực VNCH (nhưng thật ra là VC nằm vùng), một người anh ruột khác là hạ sĩ quan cũng thuộc quân lực VNCH (thuần túy là lính, không quan tâm và tham gia vào chính trị, cũng như không phải VC nằm vùng). Tôi có vài người anh, chị ruột nữa, họ là dạng "cách mạng 30/4". Một số bà con thân thuộc nội ngoại khác, người thì ở trong "khu", người lại chống Cộng triệt để. Vài người khác, người thì là quân nhân, người nữa lại là công chức của VNCH v.v...

Hồi trước 1975, đa số gia đình đều đông con. Ít thì ba, bốn; nhiều thì chín, mười. Có gia đình lên đến mười hai - mười bốn người con, đều bình thường trong nếp sống lúc bấy giờ. Một đời sống sung túc, hầu hết gia đình khá giả, đều giống nhau suy nghĩ: nhiều con là phúc lộc Trời cho. Chế độ VNCH cũng không có việc "sinh đẻ có kế hoạch". Mắn đẻ lại là điều tốt mà phụ nữ thời xưa luôn tự hào. Cuộc sống dung dị như thế. Không chỉ riêng những gia đình giàu có mà có thể nói hầu hết đều tương tự như vậy.

Dông dài như thế, để nói rằng giòng tộc nội ngoại của tôi khá phức tạp. Giá như...

Vâng, chính cái "giá như" nó đã làm hầu hết giòng tộc, anh chị em đại gia đình tôi "tan đàn xẻ nghé" từ dạo ấy. Dạo mà "rầm rập bước chân ta đi rung chuyển đường phố Sài Gòn" với ngày 30/4/1975 (!)

Một giòng tộc như thế mà nói đến "đoàn kết" (như CSVN đang kêu gọi) thì quả là...hài kịch.

Ba tôi và anh chị tôi đã từng đi tù dưới chế độ VNCH. Ba tôi ra tù sớm, chị tôi thì được tha bổng sau vài tuần tạm giam, vì không đủ chứng cớ kết tội.

Riêng anh tôi nhận án "20 năm khổ sai" và bị đày đi Côn Đảo cho đến (tất nhiên) 1975.

Điều tôi cám ơn Nhà Nước Việt Nam Cộng Hòa thật giản dị:

*- Ngày ba tôi ra tù, ông vẫn mạnh khỏe. Về đến nhà chỉ một tuần sau là ông có thể bắt tay trở lại công  việc làm ăn.- Suốt thời gian ba và anh chị tôi bị điều tra cho đến lúc kết án chính thức, gia đình tôi (những người không liên quan) không hề bị săn đuổi, bắt bớ vô pháp, hành hung, xách nhiễu v.v... Má tôi đã gánh vác mọi việc làm ăn vào lúc đó. Chúng tôi vẫn đi học bình thường và sống trong môi trường không hề bị kỳ thị của bất kỳ thầy cô hay bạn bè nào. Hàng xóm láng giềng cũng không vì thế mà ghẻ lạnh, hắt hủi hay tiếp tay như kiểu bây giờ mà người ta gọi là "đấu tố thời đại mới". - Anh tôi - người ở tù Côn Đảo, ngày trở về đất liền vẫn mạnh khỏe, dù ốm o đen đúa, nhưng không hề mang thương tật gì cả.[**]*

*Cá nhân tôi*

Tôi cám ơn Việt Nam Cộng Hòa, không chỉ vì tôi được sống trong một xã hội - có thể chưa phải là tốt đẹp nhất - nhưng tốt đẹp hơn chế độ cộng sản 39 năm qua, mà tôi còn biết ơn vì tôi đã hấp thụ được nền giáo dục, có thể nói, cho đến nay 39 năm, dù VNCH không còn, dù CHXHCNVN cố gắng "cải cách" giáo dục nhiều lần rất tốn kém nhưng không hề mang lại chút tiến bộ nào khả dĩ.

Và nói cho công bằng, giáo dục hiện nay tính về chất lượng, vẫn không thể nào đạt được như trước 1975 của miền Nam.

Nền giáo dục trước 1975 mà tôi hấp thụ, dù ngắn ngủi, nó thật sự là nền giáo dục nhân bản và khai phóng. Trung thực và hiền lương. Ganh đua nhưng không đố kỵ. Biết phẫn nộ nhưng không tàn ác. Đặc biệt nền giáo dục đó giúp cho hầu hết học trò luôn biết dừng lại đúng lúc trước cái sai với nỗi xấu hổ và tính liêm sỉ - tựa như "hàng rào nhân cách" được kiểm soát kịp thời.

Chính xác hơn, tôi cám ơn Thầy - Cô của tôi, có lẽ bây giờ hầu hết đã qua đời, nếu còn sống chắc cũng đã nghễnh ngãng hay quá già yếu.

Tôi biết ơn các Giáo sư [***]. Tôi muốn nói rõ: Tôi không hề có danh vị, bằng cấp gì cả.

Tôi biết ơn Thầy - Cô của tôi, vì nhiều độc giả thương mến (có lẽ qua những bài viết), họ ngỡ tôi là: giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ, nhà văn, nhà giáo v.v... nhưng tôi thưa thật, tôi chỉ là một người "tay ngang" trong viết lách. Qua từng bài viết, tôi rút ra kinh nghiệm. Đặc biệt, tôi luôn cố gắng viết cẩn trọng và khách quan nhất để thuyết phục độc giả. Tính cách này, tôi đã học từ Thầy - Cô tôi, ngày xưa. Dù môn Văn Chương ngày ấy, tôi luôn nhận điểm thấp tệ.

Tôi biết ơn Thầy - Cô của tôi cũng vì, sau 1975, cả nước rơi vào đói kém, làm cho "tính người" trong xã hội cũng mai một dần và tôi không là ngoại lệ. Thảm trạng xã hội lúc đó biến tôi trở nên chai lỳ, mất cảm xúc và lạnh lùng.

Đặc biệt "chữ nghĩa" hầu như trôi sạch hết cùng những "tem phiếu", "xếp sổ mua gạo", chầu chực "mua nhu yếu phẩm" v.v... ngày xưa.

Về sau này, khi cuộc sống đỡ hơn, tôi có thời gian hơn cùng với thời cuộc đảo điên, dần dần, tôi cảm nhận tôi "trầm mình" trong nỗi đau của bản thân, gia đình, từ đó tôi mới thấu hiểu những điều ngày xưa tôi học và tôi giật mình vì sự lãng quên đáng trách đó.

Tôi tìm lại được "tính Người" mà bấy lâu nay tôi đánh mất.

Một lần nữa, tôi cám ơn Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa và các Thầy - Cô của ngày xưa.

Nguyễn Ngọc Già, Việt Nam 11/06/2014

*Nội dung bài viết không nhất thiết phản ảnh quan điểm của RFA.
________________

[*] Vì những năm loạn lạc, đặc biệt tết Mậu Thân, nhiều nơi cháy nhà và thất lạc giấy tờ. Sau khi tạm bình yên, má tôi đã ra Tòa Hành Chánh Quận 3 thời bấy giờ để làm "Trích Lục Bộ Khai Sanh" cho tôi.

[**] Tôi nhớ khoảng đến cả tháng sau (tức đâu khoảng cuối tháng 5/1975) anh tôi mới về tới SG, nhưng chưa được về nhà ngay mà ở đâu đó (lâu quá rồi tôi không còn nhớ địa điểm, hình như lúc đó ở tại một trường học nào đó thì phải?) đợi thẩm vấn điều tra từ "chính quyền cách mạng lâm thời" lúc bấy giờ, đâu hết cả hai tuần nữa mới được về nhà. Tôi nhớ lúc đó, tôi hỏi anh tôi rất ngây ngô: Ủa! Sao hơn cả tháng trời anh mới về nhà? Anh tôi cười và im lặng không nói. Mãi về sau, tôi mới lò mò tìm hiểu, thì ra, dù là "phe mình", nhưng bản chất người cộng sản là "bản chất Tào Tháo". Họ có tin ai bao giờ đâu! Họ giữ lại tất cả tù chính trị để điều tra xem thử có phải là gián điệp (các loại) được cài lại hay không (để tính chuyện lâu dài).

[***] Trước 1975, từ đệ thất (nghĩa là lớp 6 bây giờ), Thầy - Cô được gọi là Giáo Sư - một cách gọi trân trọng, không phải học hàm như bây giờ nhiều người biết.
Mời đọc thêm:
http://www.diendantheky.net/2010/07/oc-sach-hai-muoi-nam-mien-nam-1955-1975.
html

Trung quốc chuyên đánh trống lảng

QĐND - Là người từng có dịp đối đáp, chất vấn trực tiếp với các học giả và chuyên gia Trung Quốc trong vấn đề chủ quyền ở Biển Đông tại các hội nghị quốc tế, Tiến sĩ Tạ Văn Tài, luật sư, cựu giảng viên và đang là nghiên cứu viên tại Trường Luật Harvard (Mỹ) cho rằng, Việt Nam cần phải liên tục phản đối việc Trung Quốc vẽ các lô dầu sẽ cho đấu thầu trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. 

Theo Tiến sĩ Tạ Văn Tài, với việc thực hiện các hành vi sai trái trên, Trung Quốc đang áp dụng một chiến lược “lấn dần”, với hy vọng các quốc gia quanh Biển Đông không phản đối thì họ sẽ “gặm nhấm” dần quyền lợi của những nước này. Cho nên người Đông Nam Á nói chung và người Việt Nam nói riêng, phải liên tục phản đối các hành động nhằm phục vụ cho những toan tính này của Trung Quốc, nhất là tại các diễn đàn quốc tế để vạch rõ cho cộng đồng quốc tế thấy rõ Trung Quốc đuối lý ra sao.

Tiến sĩ Tạ Văn Tài (ngồi giữa) tại Hội nghị “Kỹ thuật khai thác biển khơi” tháng 5-2012, tại Hiu-xtơn. Ảnh tư liệu
Tiến sĩ Tài chia sẻ, bản thân ông từng tham dự một số hội nghị quốc tế cũng không thể chấp nhận được những tuyên bố ngang ngược của Trung Quốc liên quan tới chủ quyền ở Biển Đông, nên ông đã đứng dậy thẳng thắn đối đáp với các đại biểu Trung Quốc. Và tất cả những câu hỏi mà tiến sĩ đặt ra, các học giả Trung Quốc đều không có câu trả lời thuyết phục hoặc cố tình lảng tránh không trả lời.    

Dịp ông nhớ nhất đó là tại Hội nghị “Kỹ thuật khai thác biển khơi” được tổ chức rất quy mô của ngành dầu khí thế giới, diễn ra tại thành phố Hiu-xtơn của Mỹ, vào tháng 5-2012. Tại hội nghị này, đại biểu Trung Quốc đã trình bày bản đồ các lô dầu trong vùng "đường lưỡi bò" mà họ tự vẽ ra trên Biển Đông để mời các hãng dầu thế giới tham gia đấu thầu. Tiến sĩ Tài cho biết, hội nghị này là lần thứ hai ông có dịp để bảo vệ và bênh vực các quyền lợi chính đáng của Việt Nam ở Biển Đông.

Tại Hội nghị “Kỹ thuật khai thác biển khơi” năm 2012 có 2.500 hãng dầu khí thế giới tham dự, bao gồm cả PetroVietnam. Ông cùng một số học giả Việt Nam tham dự buổi thuyết trình của ông Jin Xiaojian về chiến lược phát triển của Công ty Dầu khí Hải Dương Trung Quốc (CNOOC). Ông Jin Xiaojian đưa ra một số bản đồ Biển Đông cho biết có nhiều triển vọng dầu ở phía bắc Biển Đông gần Hải Nam và phía nam Biển Đông, vùng Trường Sa, hơn là vùng ở giữa, nhưng tất cả đều khoanh trong cái vòng đai "đường lưỡi bò", sát vào và có chỗ chắc chắn lấn vào vùng đặc quyền kinh tế của các nước quanh Biển Đông, y như thể Trung Quốc nói với các cử tọa là Trung Quốc dự tính yêu sách chủ quyền tài nguyên trong "đường lưỡi bò" đó. Sau đó, ông ta đưa ra một bản đồ "đường lưỡi bò" y hệt nhưng có thêm các lô dầu khí và phát biểu ám chỉ CNOOC sẽ khai thác hay mời chào các hãng dầu tham dự hội nghị đấu thầu các lô ấy.

Thấy rõ sự phi lý trong phần trình bày này của đại biểu Trung Quốc, ở phần hai của buổi họp hôm đó, tiến sĩ Tài cho biết ông là người đã đặt câu hỏi đầu tiên để chất vấn. Khi đó, ông đã phát biểu rằng: Tôi không phải là đại diện của một trong các công ty ông mời gọi, nhưng là một người trong giới đại học, từ Trường Luật Harvard nơi tôi làm việc nhiều năm, và cũng là luật sư. Ở Harvard, chúng tôi gọi Trung Quốc là “rồng lớn” và Việt Nam là “rồng nhỏ”. Tôi hỏi với tư cách công dân Mỹ và cả tư cách cựu công dân Việt Nam. Câu hỏi thứ nhất: Bản đồ ông đưa ra ghi rõ các khu vực có nhiều hay ít triển vọng dầu khí ở Biển Đông bao gồm vùng đại dương bị khoanh bởi "đường lưỡi bò" vô căn cứ. Do đó chúng tôi hy vọng đây chỉ là một bản đồ về trữ lượng dầu khí chứ không phải là bản đồ yêu sách chủ quyền tài nguyên thiên nhiên. Nhưng nếu đó thực là bản đồ Công ty CNOOC dùng để giành đòi tài nguyên trong vùng xâm lấn vào Vùng đặc quyền kinh tế của các nước nhỏ, thì ông giải quyết cái sự xung đột yêu sách chủ quyền này ra sao?

Câu hỏi thứ hai: Triển vọng của Trung Quốc về dầu đá phiến (shale oil) là lớn nhất thế giới, ở Tứ Xuyên và Tân Cương, có thể giúp giảm mối lo của Trung Quốc về năng lượng, như Chủ tịch Fu Chengyu của Công ty Sinopec nói: “Dầu khí loại bất quy ước của Trung Quốc là tài nguyên hydrocarbon chính cho sự phát triển tương lai của Trung Quốc”. Triển vọng này có làm Trung Quốc bớt lấn lướt trong yêu sách ở Biển Đông, như với khu vực trong "đường lưỡi bò" vốn làm tổn hại cho việc Trung Quốc trở thành cường quốc được các nước khác tôn trọng hay không?

Tiến sĩ Tài nhớ rất rõ rằng, trước khi trả lời hai câu hỏi này, ông Jin Xiaojian đã trao đổi với một số đại biểu khác trong phái đoàn Trung Quốc trên bàn diễn giả. Nhưng sau đó Tiến sĩ Tài chỉ nhận được lời khước từ ngắn gọn của ông Jin Xiaojian: “Đó là những câu hỏi dài, rất dài. Hôm nay, chúng tôi bàn về kỹ thuật khai thác dầu khí, chứ không bàn về các yêu sách chủ quyền về tài nguyên thiên nhiên ở Biển Đông. Về câu hỏi 2, trong phiên họp về dầu ngoài biển này, chúng tôi không bàn về dầu trong đá. Dầu sao, cũng xin cảm ơn ông về mấy câu hỏi rất hay của ông”.

Tiến sĩ Tài khẳng định: “Rõ ràng, ông ta đã cố ý tảng lờ câu hỏi thứ nhất của tôi, trong đó có nói đến bản đồ vẽ "đường lưỡi bò" lấn hết Biển Đông và còn phân ra các lô để mời chào các hãng dầu đấu thầu các lô. Ông ta cũng đánh trống lảng câu hỏi thứ hai của tôi muốn “đánh thức” lòng tự trọng của Trung Quốc, để thành cường quốc vĩ đại thì phải tỏ ra tốt lành, không tham lam ở Biển Đông, vi phạm luật pháp quốc tế, vì đã có số lượng dầu trong đá lớn nhất thế giới. Đánh trống lảng nhưng cũng cố gắng lịch sự”.

Tiến sĩ Tài cho biết thêm, vào cuối tháng 6-2012, khi CNOOC ngang nhiên gọi mời thầu các lô khai thác dầu khí trong cái bản đồ mà họ đã đưa ra tại Hội nghị ở Hiu-xtơn năm 2012, PetroVietnam đã họp báo tại Hà Nội phản đối Trung Quốc xâm phạm vào các lô dầu Việt Nam, cho thầu trong vùng Đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Sau này, tại một hội thảo diễn ra vào ngày 27-6-2012 về tranh chấp ở Biển Đông tại Viện Nghiên cứu chiến lược quốc tế ở Oa-sinh-tơn, nghị sĩ Mỹ Giô-ê Li-bơ-man (Joe Lieberman) đã phải tuyên bố rằng, việc CNOOC cho gọi thầu trong vùng các lô dầu khí của Việt Nam là hành vi rất khiêu khích.
XUÂN PHONG
(Báo QĐND)

« Bia mộ » : Mao Trạch Đông và nạn đói khủng khiếp nhất lịch sử nhân loại


"Bia mộ" của Dương Kế Thằng vừa được phát hành tại Paris.

(AFP & Le Monde) Gần 40 triệu người Trung Quốc đã bị chết đói, hậu quả của chiến dịch Đại nhảy vọt do Mao Trạch Đông đưa ra. Nhà báo kiêm nhà sử học Dương Kế Thằng (Yang Jisheng) đã bỏ ra 15 năm trời thu thập chứng cứ để viết ra tác phẩm « Bia mộ », tài liệu đầy đủ nhất từ trước đến nay về nạn đói khủng khiếp nhất trong lịch sử nhân loại. Sách đã được tái bản đến lần thứ tư tại Hồng Kông.

 « Cuốn sách này là bia mộ cho cha tôi, bị chết đói vào năm 1959, bia mộ cho 36 triệu người dân Trung Quốc nạn nhân của trận đói, bia mộ cho chế độ đã gây ra thảm kịch này ». Tác giả đã viết như trên trong lời nói đầu của bản dịch tiếng Pháp vừa được nhà xuất bản Seuil phát hành tại Paris ngày 13/09/2012.

Sinh năm 1940, Dương Kế Thằng từng là phóng viên kỳ cựu của Tân Hoa Xã, và hiện nay là Phó tổng biên tập tạp chí Viêm Hoàng Xuân Thu (Yanhuang Chunqiu). Mười lăm năm điều tra trên thực địa, với hàng ngàn trang tài liệu tìm được ở địa phương và rất nhiều nhân chứng, tác giả đã thuật lại sự điên cuồng của việc cưỡng bức tập thể hóa.

Xã hội nông thôn bị phá hủy. Để nuôi sống thành thị, người ta đã để cho nông dân phải chết đói. Những thông tin sai lạc (thổi phồng sản lượng, che giấu những trường hợp chết vì đói) được báo cáo lên trên, dẫn đến các chỉ thị mù quáng. Không ai dám cảnh báo với Mao Trạch Đông về nạn đói, vì sợ bị quy là phản cách mạng.

Bắt đầu từ cuối năm 1958, đại họa đã lan tràn : nhiều ngôi làng hoàn toàn bị xóa tên vì dân làng đã chết đói hết, những trường hợp ăn thịt người nhân rộng, những người sống sót trở nên điên loạn. Bên cạnh nạn đói, là hàng loạt các vụ bạo lực, tự tử, nhiều ngàn trẻ em bị bỏ rơi.

…Một số trang sách khiến người ta nghĩ đến sự thinh lặng của một cái xác bị chết trôi. Tại nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, từ năm 1958 đến 1962, « vài chục triệu người đã biến khỏi thế giới này, không một tiếng động, không một tiếng thở dài, trong sự thờ ơ hoặc u mê ». Giống như là một cả một vùng đất lớn và dân cư trên đó đã bị đổ sụp thành vực sâu.

Thế nhưng không phải thiên tai hay chiến tranh đã gây ra cuộc thảm sát, để lại những người sống sót vật vờ, chỉ lo kéo dài sự sống, mà là nạn đói, một nạn đói khủng khiếp do những quyết định ngu xuẩn của lãnh đạo gây ra.


Lao động trong hợp tác xã nông nghiệp

…Từ năm 1958 tất cả phải vào hợp tác xã. Xoong nồi, bàn ghế đều bị trưng dụng, gà vịt cũng thế, không gia đình nào được tự sản xuất. Các bữa ăn được phân phối miễn phí tại các căng-tin được gọi là « điểm đấu tranh giai cấp ở nông thôn ». Chỉ trong vài tháng, sản lượng bị giảm sút thấy rõ. Một « làn sóng phóng đại » lan tràn, đưa đất nước vào cái vòng lẩn quẩn của dối trá. Sợ mất lòng cấp trên, mỗi  cấp cơ sở lần lượt thổi phồng sản lượng, còn báo chí thi nhau ca ngợi các phép lạ. Một địa phương vượt kế hoạch ? Điển hình này luôn bị nơi khác vượt qua, một cuộc đua không có hồi kết.

Từ 1959, người ta tịch thu lúa má của nông dân, kể cả lúa giống, khi họ không còn gì nữa thì bị lên án là đã che giấu. « Tại một làng ở Hà Nam, không còn một hạt thóc nào, dân bắt đầu chết đói hàng loạt. Làng có 26.691 dân, và từ tháng 9/1959 đến tháng 6/1960, đã có 12.314 người chết, tức một phần ba dân số ». Tình trạng tương tự diễn ra ở khắp nơi và trong vòng nhiều tháng trời. Trong khi đó Nhà nước vẫn còn hàng chục triệu tấn ngũ cốc trong kho, và tiếp tục xuất khẩu ! Nhiều ngàn trường hợp ăn thịt người đã được ghi nhận trong tài liệu lưu trữ của các địa phương.

Thế mà tháng 8/1958, Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc vẫn giao cho sáu cơ quan nghiên cứu giải quyết một đề tài - vô nghĩa một cách bi kịch – do Mao nêu ra trong chuyến viếng thăm Hà Bắc : Làm gì đây khi chúng ta có quá nhiều lúa mì ?

Trong vở hài kịch đáng xấu hổ này, Mao Trạch Đông đóng vai chính. Bị ám ảnh bởi cuộc đấu tranh giành quyền lực trong nội bộ Đảng, ông ta không hề quan tâm đến thực tế, nhất là khi nó chứng minh là Mao đã sai lầm. Tại hội nghị Lư Sơn tháng 7/1959, tất cả những ai phản đối lại chính sách của Mao đều bị bất ngờ tuyên bố là « phần tử cơ hội hữu khuynh » và bị loại trừ. Sau đó, thảm họa đói kém đã mặc sức lan tràn, các cán bộ cao cấp của Đảng đều phải im lặng.

« Bia mộ » (Mộ Bi trong nguyên tác tiếng Hoa) là công trình khảo cứu đầu tiên về đề tài này do một người Trung Quốc tiến hành. Bị cấm ở đại lục, nhưng tác phẩm được xuất bản ở Hồng Kông – chính quyền không cản trở cũng không trấn áp tác giả. Về mặt chính thức, thì Bắc Kinh nói là nạn đói do hạn hán gây ra.

Trích đoạn :

« Trong khi nông dân chết đói, cơ quan công an cấm lan truyền tin tức ra ngoài, cấm gởi thư bằng cách kiểm soát tất cả các bưu cục. Đảng ủy Tín Dương đã buộc bưu điện phải ém lại mười hai ngàn lá thư cầu xin giúp đỡ. Tại chi bộ đảng của một làng đã mất đi 20 đảng viên vì bị chết đói, ba đảng viên sống sót đã gởi cho Tỉnh ủy một lá thư viết bằng máu yêu cầu cứu giúp nông dân. Bức thư này bị bí thư Tỉnh ủy giữ lại, ra lệnh truy lùng các tác giả và trừng trị họ. Tại quận Quang San, một bác sĩ đã bị bắt và trừng phạt vì đã nói với một bệnh nhân, chỉ cần hai bát cháo là khỏi bệnh ».
Phỏng vấn tác giả Bia mộ - "Đảo gu-lắc" made in China
Nguồn: Thuỵ My blog

Báo lớn Trung Quốc “tổng công kích” Thủ tướng Việt Nam

Trung Quốc tưởng rằng Thủ tướng Việt Nam đang thân cô thế cô, tưởng chỉ có Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đủ bản lĩnh dám đương đầu với Trung Quốc. Nên họ ra sức sử dụng truyền thông để “tổng công kích” cá nhân Thủ tướng Việt Nam.

Khi nhà cầm quyền Trung Quốc tự lột cái mặt nạ “4 tốt” và “16 chữ vàng” trên Biển Đông bằng hành động kéo cái giàn khoan Hải Dương-981 (Haiyang Shiyou 981) vào vùng biển Việt Nam, thì Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là người lãnh đạo đầu tiên lên tiếng phản đối. Và trên khắp các diễn đàn quốc tế lớn nhỏ mà Thủ tướng tham dự, ông đều lên án mạnh mẽ hành động xâm lược của nhà cầm quyền Trung Quốc. Cụ thể, tại Hội nghị cấp cao ASEAN (Myanmar ngày 11/5), Thủ tướng đã lên án mạnh mẽ hành vi xâm lược của phía Trung Quốc. Còn tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới về Đông Á (Philippines ngày 21/5), Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã mạnh mẽ tuyên bố trước báo chí quốc tế: “Chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo là thiêng liêng, nhất định không chấp nhận đánh đổi điều thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó… Có lẽ như tất cả các nước, Việt Nam chúng tôi đang cân nhắc các phương án để bảo vệ mình, kể cả phương án đấu tranh pháp lý, theo luật pháp quốc tế”…

Mặc những lời đe dọa thách thức từ phía Trung Quốc, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vẫn không hề tỏ ra nao núng, thể hiện một ý chí quyết tâm cao độ, không chùn bước trước Trung Quốc. Hành động quyết liệt nhưng tỉnh táo, buộc Trung Quốc phải rút giàn khoan. Có lẽ chính vì vậy mà Thủ tướng trở thành cái gai trong mắt nhà cầm quyền Trung Quốc.

Thế nên, mới đây, khi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đến thị sát nhà máy đóng tàu Hạ Long, tham quan tàu kiểm ngư KN 781, liền được báo chí Trung Quốc tập trung chú ý theo dõi. Trang mạng quân sự sina của Trung Quốc hôm 5/6 lập tức xuyên tạc, bình luận rằng, điều đáng chú ý là, khi thị sát Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đội mũ cối quân dụng màu xanh truyền thống của Việt Nam như đang thể hiện tư thế “cứng rắn” trên Biển Đông trước hành vi (xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của phía Trung Quốc).

Báo Trung Quốc: Thủ tướng Việt Nam đội mũ cối là muốn thể hiện “hình tượng cứng rắn”
Báo Trung Quốc: Thủ tướng Việt Nam đội mũ cối là muốn thể hiện “hình tượng cứng rắn”

Tờ Tuần báo Bắc Kinh ngày 9/6 tiếp tục có bài kích động, tạo hiểu nhầm trong dư luận về cái gọi là “sự chia rẽ trong ban lãnh đạo Việt Nam” trong quan hệ với Trung Quốc, bất chấp thực tế các nhà lãnh đạo cấp cao Việt Nam đã lên tiếng phản đối các hành vi gây hấn của Trung Quốc với Việt Nam trên Biển Đông.

“Những gì làm phức tạp vấn đề là quan điểm về quan hệ Việt – Trung khác nhau rất nhiều giữa các nhà lãnh đạo Việt Nam”, Tuần báo Bắc Kinh kích động. Với luận điệu xuyên tạc, đâm bị thóc chọc bị gạo hòng chia rẽ người Việt, tờ báo Trung Quốc vu cáo trắng trợn Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng: “Trong khi những người ủng hộ Trung Quốc nhấn mạnh tầm quan trọng của quan hệ hữu nghị Việt – Trung thì một số lãnh đạo cấp cao mà đại diện là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bám vào giáo điều, đặt lợi ích quốc gia lên trên tất cả mọi thứ khác, một quan điểm kích thích chủ nghĩa dân tộc và những người trẻ tuổi”?!

Đúng! Lợi ích quốc gia, dân tộc là trên hết, quan trọng hơn rất nhiều một thứ “quan hệ hữu nghị viển vông” nào đó. Đây là bài học người Việt đã rút ra sau rất nhiều biến cố, mà trong số đó có phần “đóng góp không nhỏ” của gã láng giềng lớn xác nhưng chơi bẩn, thường tìm cách đâm sau lưng đồng chí, bạn bè.

Và không chỉ Việt Nam, trong quan hệ quốc tế ngày nay, quốc gia nào cũng đặt lợi ích quốc gia, dân tộc mình lên trên. Điều khác nhau ở chỗ, những nước văn minh thì bảo vệ lợi ích chính đáng và hợp pháp, trong khi những kẻ ngụy quân tử thì chỉ thích vơ vào, biến của người khác thành của mình và bất chấp mọi thủ đoạn, kể cả đâm bạn sau lưng.

Chưa hết, bất chấp thực tế những nỗ lực không ngừng của chính phủ Việt Nam và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng để ổn định tình hình, hỗ trợ doanh nghiệp, đồng thời tiếp tục chỉ đạo các lực lượng chức năng cuả Việt Nam đối phó với dã tâm, thủ đoạn bành trướng của Bắc Kinh trên Biển Đông. Tuần báo Bắc Kinh tiếp tục vu cáo Thủ tướng Việt Nam “chỉ đạo, xử lý không hiệu quả” cái gọi là “bạo loạn chống Trung Quốc”?!. Tờ báo này lật lọng rằng, việc chính phủ Việt Nam nhanh chóng xử lý một số đối tượng gây rối, ổn định tình hình là do “áp lực từ Trung Quốc”…

Người Việt Nam đủ tỉnh táo để hiểu rằng, hoạt động gây rối của một số đối tượng lợi dụng các cuộc tuần hành yêu nước, phản đối Trung Quốc bành trướng Biển Đông, xâm phạm vùng biển chủ quyền Việt Nam để gây tổn hại cho một số doanh nghiệp nước ngoài đã bị nhà nước Việt Nam nghiêm trị, đồng thời động viên và giúp đỡ kịp thời các doanh nghiệp ổn định sản xuất. Đây đâu phải chỗ để tờ báo Trung Quốc nói lời ly gián, chia rẽ người Việt.

Tuần báo Bắc Kinh còn lo sợ Việt Nam sẽ làm gương cho Philippines chống lại tham vọng bành trướng lãnh thổ của Trung Quốc trên Biển Đông và việc Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố sẽ dùng mọi biện pháp hòa bình để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, trong đó bao gồm biện pháp pháp lý đã khiến tờ báo này lo sợ sẽ “ảnh hưởng đến quan hệ hữu nghị Việt – Trung”, thật nực cười!

Một thái độ trịch thượng của kẻ cả muốn đồng hóa cả các nước láng giềng thành “chư hầu” của Trung Quốc. Nhưng điều này sẽ không bao giờ xảy ra.

Trung Quốc đã quá đà, dồn Việt Nam đến chân tường mà quên mất câu: “con giun xéo lắm cũng quằn”. Người Việt Nam có câu: “Giàu thì phải Sang – Nghèo nhưng không hèn”. Và đúng như Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã dõng dạc tuyên bố: “Chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo là thiêng liêng, nhất định không chấp nhận đánh đổi điều thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó”. Phải chăng, chính những tuyên bố đanh thép của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã khiến Trung Quốc phải “đứng ngồi không yên”, phải lo lắng, suy nghĩ để rồi bày mưu tính kế để loại trừ?

Nếu Trung Quốc nghĩ rằng Thủ tướng Việt Nam đang đơn độc thì Trung Quốc đã nhầm to. Thủ tướng Việt Nam không hề đơn độc mà tất cả các lãnh đạo Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân dân Việt Nam đều kề vai sát cánh, đồng lòng cùng Thủ tướng trong công cuộc bảo vệ chủ quyền Tổ quốc.

Dân tộc Việt Nam, bất luận thời nào đều có quan điểm rõ ràng nhất quán như một lời thề của hồn thiêng sông núi là, cho dù kẻ thù có mạnh đến đâu, hung hãn đến đâu cũng chẳng bao giờ sợ, nếu xâm phạm vào chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc thì đều bị đánh đuổi, nghĩa là sẵn sàng chấp nhận chiến tranh, dù rất yêu chuộng hòa bình. Không ai, đặc biệt là Trung Quốc, nghi ngờ về điều này vì lịch sử đã chứng minh.

Không rõ tinh thần yêu nước của dân tộc Trung Hoa như thế nào, bởi vì từ xưa Trung Quốc chỉ đi xâm lược, mở rộng lãnh thổ, cai trị các láng giềng nhưng khi bị các quốc gia khác tới xâm lược như Nguyên Mông, Anh, Nhật Bản thì họ đều thúc thủ và sự hèn nhát của họ thể hiện trong “Vạn lý trường thành”… thì chỉ có họ mới hiểu, đánh giá được thực chất, sức mạnh kết nối lòng yêu nước của dân tộc họ.

Dân tộc Việt, lòng yêu nước được biểu hiện theo cách như vua Quang Trung từng nói: “Đánh cho để răng đen / Đánh cho để tóc dài / Đánh cho nó nhất chích luân bất phản / Đánh cho nó nhất phiến giáp bất hoàn / Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ“. Về ý chí thì Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm 20 năm hoặc lâu hơn nhưng “dù có đốt cháy dãy Trường Sơn cũng phải dành độc lập”…khác với ý chí xây một “Vạn lý trường thành” của dân tộc Trung Hoa.

Chưa biết chừng, “giấc mơ Trung hoa” sẽ bị tan vỡ bởi bắt đầu bằng “một con kiến lửa đầu đàn” biết đặt lợi ích quốc gia cao hơn tất cả.
Bạch Dương
(Nguyễn Tấn Dũng) 

‘Chúng Tôi Đã Bị Lừa Dối Toàn Bộ Cuộc Đời’

Người dân Trung Quốc tuyên bố thoái xuất khỏi Đảng Cộng Sản Trung Quốc


Những chữ Trung Quốc có nghĩa là ‘Thoái xuất khỏi Đảng Cộng Sản’ (Đại Kỷ Nguyên)

Bởi: Epoch Times 12 Tháng Sáu, 2014

Ghi chú của ban biên tập: Đại Kỷ Nguyên công bố tại đây lời dịch những tuyên bố bởi những người Trung Quốc đã thoái xuất khỏi Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) cũng như các tổ chức thanh niên liên đới. Những tuyên bố này được gửi đến trang Đại Kỷ Nguyên tiếng Trung, Dajiyuan. Phong trào không công nhận, từ bỏ hoặc thoái xuất khỏi ĐCSTQ được gọi là “Tuidang” (Thoái Đảng) trong tiếng Trung, bắt đầu vào cuối năm 2004, sau khi Đại Kỷ Nguyên công bố “Chín bài bình về Đảng Cộng Sản” (Cửu Bình), một loạt bài viết chỉ rõ bản chất và lịch sử của ĐCSTQ. Những lời tuyên bố của những người này cho thấy một thái độ vô tư hiếm có. Người dân Trung Quốc đang quay lưng lại với Đảng Cộng Sản, lựa chọn lương tâm thay vì tiện nghi trước mắt và mong muốn được sống hoà bình trong Trung Quốc tương lai, hoàn toàn không có sự cai trị của Đảng.

Tính đến ngày 4 tháng 6 năm 2014, số người tuyên bố thoái xuất khỏi ĐCSTQ và các tổ chức thanh niên liên đới đã đạt con số 167,388,910 người.

Sau đây là một số tuyên bố “Thoái Đảng” được viết bởi người dân Trung Quốc trong thời gian từ 13 đến 17 tháng 4 năm 2014.

Thoái xuất khỏi Đoàn Thanh Niên Cộng Sản và Thanh Niên Xung Phong

Những năm qua, Đảng Cộng Sản đã buộc thòng lọng vào cổ chúng ta và móc mũi chúng ta bắt đi theo nó. Chúng làm đủ mọi thứ xấu xa trong khi những người dân bình thường thì phải gánh chịu hậu quả! Ngày hôm nay, chúng ta vui mừng vì chúng ta có một cơ hội để biết sự thật! Chúng tôi tuyên bố rời khỏi Đoàn Thanh Niên Cộng Sản và tổ chức Thanh Niên Xung Phong, trừ bỏ dấu ấn của con quỷ, tránh xa mọi thảm hoạ và chọn một tương lai tươi sáng!

Sun Yidan, Gu Dao’an, Gao Tongyi, Guan Weiyu, Zhou Qunqi
Thâm Quyến, Trung Quốc
13 tháng 4 năm 2014, 23:42

Tôi thoái xuất khỏi ĐCSTQ và tất cả các tổ chức liên quan
Bản chất xấu xa và thối rữa của ĐCSTQ giống như là một con quỷ. Tôi tình nguyện thoái xuất khỏi ĐCSTQ cũng như mọi tổ chức có liên quan.
Zhang Yi
13 tháng 4 năm 2014, 18:44

Tuyên bố từ bỏ ĐCSTQ

Tôi tham gia Đội Thiếu Niên Tiền Phong kể từ khi còn rất bé nhưng cái tổ chức ác quỷ này không ngừng tiến hành các cuộc vận động chính trị và đã gây nên những cái chết cho rất nhiều người vô tội. Bây giờ tôi nghiêm cẩn tuyên bố rời khỏi tổ chức này. Tôi không muốn trở thành con dê tế thần. Tôi chỉ muốn làm một người dân Trung Quốc lương thiện và trong sáng.

Hao Yun
13 tháng 4 năm 2014, 20:06

Chúng tôi từ bỏ ĐCSTQ để được nhận sự bảo vệ từ Thượng Đế
Ngày hôm nay, chúng tôi đã xem biểu diễn Thần Vận. Chúng tôi được biết sự thật về Pháp Luân Đại Pháp và lịch sử cũng như bản chất đồi bại của ĐCSTQ. Vì vậy, chúng tôi trịnh trọng tuyên bố từ bỏ ĐCSTQ cũng như tất cả các tổ chức liên quan của nó. Chúng tôi từ bỏ ĐCSTQ để được nhận sự bảo vệ từ Thượng Đế!

Leo Dai
Mỹ
13 tháng 4 năm 2014, 13:45

Tôi từ bỏ ĐCSTQ và các tổ chức liên đới
Chúng ta không thể nói gì bây giờ, nhưng sẽ sớm có ngày chúng ta có thể cất tiếng và tất cả mọi người sẽ nói rằng: Mao chính là tên tội phạm đáng bị nguyền rủa trong nghìn năm tới. Ở Trung Quốc, không hề có tự do ngôn luận nhưng mà ông trời có mắt. Tôi từ bỏ ĐCSTQ cũng như tất cả các tổ chức có liên quan của nó!
Lao Chen, một lái xe
15 tháng 4 năm 2014, 20:46

Tôi cương quyết từ bỏ ĐCSTQ
Chúng tôi đã theo ĐCSTQ suốt cả đời mình. Chúng tôi chưa hề làm điều gì trái lương tâm với đất nước mình và người dân. Chúng tôi đã cống hiến cả cuộc đời cho đất nước và người dân, thậm chí hơn cả cho con cái chúng ta. Tuy nhiên, chúng tôi đã bị tẩy não bởi chủ nghĩa Mác, Lê-nin và Mao. Trong các phong trào cách mạng khác nhau, nhà của chúng tôi đã bị tước đoạt hai lần, chúng tôi bị trừng phạt, bị lăng mạ, bị đày đến vùng nông thôn cưỡng bức lao động. Chúng tôi đã bị lừa dối suốt cả đời mình! Nếu chúng tôi chết ngày hôm nay, sẽ có một điều quan trọng mà chúng tôi chưa yên tâm! Chúng tôi là một đôi vợ chồng đã hơn 80 tuổi, chúng tôi quyết tâm từ bỏ ĐCSTQ!
Wang Guangqi và Zhu Zhongbi
15 tháng 4 năm 2014, 13:01

Tôi rút khỏi Đoàn Thanh Niên
Bút danh của tôi là Lao Jia. Hàng ngàn năm qua, thế hệ nối tiếp thế hệ, gia đình chúng tôi đã sống tại thành phố Trường Trị ở tỉnh Sơn Tây, nhưng bí thư ĐCSTQ thành phố đã bán đất của chúng tôi cho một công ty than mà không hề thương lượng với chúng tôi. Các toà nhà văn phòng được dựng lên trên mảnh đất này và tôi không thể làm ruộng được nữa. Tôi đã kiện lên chính quyền địa phương và tất cả các ban ngành liên quan. Trong 5 năm, tôi đã đi rất nhiều lần nhưng không ai muốn gặp tôi. Tại sao vấn đề này không có ban ngành nào chịu trách nhiệm và giải quyết? Ai sẽ bảo vệ lợi ích của những người nông dân? Tại sao lại quá khó khăn để những người nông dân bảo vệ lợi ích chính đáng của mình? Khi tôi còn là một đứa trẻ, tôi đã tham gia Đội Thiếu Niên Tiền Phong. Nhưng ngày nay, chính quyền quá mục ruỗng, nếu tôi từ bỏ nó càng sớm, tôi càng được sống yên tâm!
Lao Jia
Trường Trị, Sơn Tây, Trung Quốc

Tuyên bố từ bỏ ĐCSTQ
Chủ nhiệm Văn phòng 610 của ĐCSTQ, Lý Đông Sinh đã bị bắt. Những kẻ đàn áp người tốt sẽ nhận lãnh hậu quả. Tôi tuyên bố từ bỏ ĐCSTQ và tất cả các tổ chức liên quan.
Cheng Shunxing
Tế Ninh, Sơn Đông, Trung Quốc
16 tháng 4, 2014, 12:59

Từ bỏ Đoàn Thanh Niên
Chúng tôi tuyên bố một cách trang trọng rằng chúng tôi sẽ từ bỏ Đoàn Thanh Niên Trung Quốc. Khi tôi còn trẻ và thực hiện lời tuyên thệ tham gia Đội Thiếu Niên, tôi cảm thấy cơ thể mình bị điều khiển bởi lời nguyền của một con quỷ. Tôi muốn giải thoát mình khỏi lời nguyền quỷ ám đó. Trong xã hội này, tại sao người tốt luôn luôn bị gièm pha, bắt nạt và không nhận được phần xứng đáng cho mình? Tôi đã luôn luôn đi tìm câu trả lời cho điều đó. Sau khi đọc cuốn “Chín lời bình về Đảng Cộng Sản”, tôi đã đột nhiên hiểu rằng tôi rất may mắn không tham gia Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Trung Quốc hay Đảng Cộng Sản. Thêm vào đó, tôi đã được biết về chương trình radio Phát Thanh Hy Vọng và trở thành một thính giả trung thành, và tôi được biết về tình hình thực sự ở Trung Quốc.
Cám ơn rất nhiều.
Luo Chunhao
Thư Lan, Cát Lâm, Trung Quốc
17 tháng 4 năm 2014, 22:31

Tuyên bố từ bỏ ĐCSTQ
Tôi vô cùng bất mãn với ĐCSTQ bởi vì tôi đã bị nhận án oan trong những năm qua. Những người lính dưới quyền tôi đã gửi các thông tin về trường hợp án oan của tôi lên mạng Internet và rất nhiều người dùng Internet từ nhiều quốc gia đã bình luận về nó. Bởi vì điều này, tài khoản QQ của tôi đã bị theo dõi. Họ (các nhà chức trách) không muốn đưa ra bất cứ lời giải thích nào về trường hợp của tôi và họ cũng không muốn giải quyết nó. Tôi đã không đóng phí thành viên ĐCSTQ nhiều năm nay và tôi muốn tuyên bố rằng: sẽ từ bỏ ĐCSTQ cũng như các tổ chức liên đới của nó.
Shi Daojun
Hồ Nam, Trung Quốc
17 tháng 4 năm 2014, 11:40

Tính đến ngày 31 tháng 7 năm 2013 đã có 143,222,682 người dân Trung Quốc đã tuyên bố công khai việc rút khỏi mọi hoạt động của ĐCSTQ cũng như các tổ chức thanh niên có liên quan

Đang kiểm tra tài sản của phó Tổng thanh tra chính phủ

TTO - Về dư luận tài sản "khủng" của Phó Tổng Thanh tra chính phủ Ngô Văn Khánh,Tổng Thanh tra Chính phủ Huỳnh Phong Tranh cho biết đã chủ động yêu cầu ông Khánh báo cáo trước ban cán sự về nguồn gốc và quá trình kê khai tài sản từ 2007 đến nay.
Tổng Thanh tra Chính phủ Huỳnh Phong Tranh  - Ảnh: Việt Dũng

Đại biểu Nguyễn Thị Kim Thúy (Đà Nẵng) chất vấn ba vấn đề: Thanh tra chính phủ có giải pháp gì mang tính đột phá trong phòng ngừa tham nhũng trong thời gian tới? Thứ hai là nguyên nhân chủ quan liên quan đến đạo đức cán bộ thanh tra phòng chống tham nhũng. Thứ ba là thời gian qua, có dư luận và báo chí có nêu về một phó tổng thanh tra chính phủ có quá nhiều tài sản, điều này có đúng không và hướng xử lý thế nào?
Đại biểu Nguyễn Thị Kim Thúy (Đà Nẵng) - Ảnh: Việt Dũng

Về vấn đề giải pháp, theo ông Huỳnh Phong Tranh, Thanh tra chính phủ đánh giá có 4 giải pháp phòng ngừa hiệu quả tích cực gồm: công khai tài sản, công khai minh bạch hoạt động trong các cơ quan, đơn vị; thứ hai là xây dựng, thực hiện chế độ định mức tiêu chuẩn; thứ ba là thực hiện quy tắc ứng xử, quy tắc nghề nghiệp; thứ tư là cải cách hành chính.

Hai giải pháp được đánh giá là có hiệu quả trung bình gồm: chuyển đổi công tác; trả lương qua tài khoản.

Ba giải pháp được xem là có hiệu quả thấp gồm: minh bạch trong kê khai tài sản, thu nhập; nộp lại quà tặng; xử lý trách nhiệm người đứng đầu.

Thời gian tới, thanh tra chính phủ có đề xuất những giải pháp gồm: Chính phủ và Quốc hội nên nghiên cứu tiếp tục sửa đổi luật phòng chống tham nhũng theo hướng luật càng ngày càng chặt chẽ và có tính pháp lý cao hơn; thứ hai là triển khai tích cực chỉ thị 33 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác kê khai tài sản, thu nhập, thứ ba là siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong bộ máy.

Về năng lực đạo đức cán bộ đáp ứng nhu cầu thanh tra phòng chống tham nhũng, ông Huỳnh Phong Tranh nhận trách nhiệm vì trong thời gian qua ngành thanh tra cũng đã tham gia tích cực trong việc phát hiện và xử lý tham nhũng nhưng mức độ chưa nhiều, chưa đạt.

Về dư luận tài sản "khủng" của Phó Tổng Thanh tra chính phủ Ngô Văn Khánh, ông Huỳnh Phong Tranh cho biết: qua nhiều lần kê khai tài sản của nhiều năm, đối chiếu lại, ông Khánh kê khai tài sản đúng theo quy định của pháp luật.

"Chúng tôi đã đề nghị ông Ngô Văn Khánh báo cáo giải trình về việc kê khai này và ông Khánh đã giải trình trước ban cán sự và tập thể lãnh đạo của Thanh tra Chính phủ và đã gửi các cơ quan chức năng theo dõi, đối chiếu.

Thứ ba, hiện nay ông Khánh thuộc diện Ban bí thư quản lý nên Ủy ban Thanh tra trung ương đã vào kiểm tra và cùng phối hợp với ban cán sự thanh tra chính phủ nắm tình hình và đang đối chiếu tài sản của ông Khánh với bản kê khai để xem mức độ chính xác như thế nào và sẽ có kết luận".

Tham nhũng ít hay phát hiện khó hơn?

Đại biểu Nguyễn Bá Thuyền (tỉnh Lâm Đồng) hỏi ông Tranh: Dù ngành thanh tra đã có nhiều nỗ lực trong việc thanh tra phát hiện tham nhũng nhưng vì sao tình hình tham nhũng ngày càng tăng?

Ông Thuyền dẫn lời của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng rằng muốn chống tham nhũng hiệu quả trước tiên phải chống tham nhũng ngay trong chính cơ quan phòng chống tham nhũng, hỏi tổng Thanh tra Chính phủ rằng việc này có đúng hay không? Thanh tra Chính phủ có giải pháp gì để thực hiện việc này, bắt đầu từ đâu?

Ông Thuyền cũng đặt câu hỏi vì sao có tình trạng số vụ tham nhũng bị phát hiện, có dấu hiệu hình sự nhưng thanh tra không chuyển hoặc chậm chuyển cho cơ quan điều tra để xử lý?

Đại biểu Nguyễn Văn Rinh cũng đặt câu hỏi giải pháp kê khai tài sản hiện nay có phải là giải pháp hữu hiệu để phòng chống tham nhũng hay chưa?

Đại biểu Nguyễn Văn Hiến (tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) dẫn các số liệu về việc phát hiện, xử lý các vụ tham nhũng qua các năm, số vụ phát hiện, chuyển cơ quan điều tra xử lý hình sự càng giảm trong khi nhận định, đánh giá của Thanh tra Chính phủ về công tác phát hiện xử lý tham nhũng là ngày càng tiến bộ.

Ông Hiến hỏi tổng Thanh tra Chính phủ: "Tham nhũng bị đẩy lùi hay việc phát hiện tham nhũng ngày càng hạn chế?". Tương tự ông Hiến, nhiều đại biểu cũng đề nghị Tổng thanh tra Nguyễn Phong Tranh đánh giá: Các số liệu vụ tiêu cực, tham nhũng bị phát hiện có phản ánh đúng tình hình tham nhũng hiện nay hay không?

Ông Nguyễn Văn Hiến cũng chất vấn về công tác phòng chống tham nhũng trong chính lực lượng phòng chống tham nhũng hiện ra sao. Thanh tra Chính phủ có báo cáo đã xử lý 12 cán bộ công chức vi phạm nhưng đọc thấy những vi phạm này chẳng liên quan gì tới tham nhũng (như vi phạm Luật giao thông, sinh con thứ 3...). Thanh tra Chính phủ đã triển khai công tác phòng chống tham nhũng trong lực lượng thanh tra như thế nào?

Đại biểu Nguyễn Anh Sơn nói vừa qua cử tri cả nước quan tâm, đánh giá cao việc chúng ta liên tục xử lý những vụ án tham nhũng lớn, đánh giá cao nỗ lực của các ngành các cấp trong công cuộc chống tham nhũng cam go không thua gì trong chống ngoại xâm.

Ông Sơn chất vấn cụ thể tổng Thanh tra Chính phủ về vụ án Nguyễn Đức Kiên (bầu Kiên) vừa được TAND TP Hà Nội xét xử: Sao các bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ mà hầu hết đều được tuyên ở khung hình phạt thấp? Mức án đó liệu đủ sức răn đe, phòng chống tham nhũng hay không? Sao VKS giữ nguyên quan điểm truy tố, tòa kết tội nhưng các bị cáo vẫn kêu oan, phải chăng luật pháp của chúng ta có cách vận dụng khó hiểu?

Đại biểu Trương Văn Vở (tỉnh Đồng Nai) chất vấn ông Nguyễn Phong Tranh về những món nợ văn bản, việc chậm triển khai chủ trương trong phòng chống tham nhũng: xử lý nghiêm trách nhiệm người đứng đầu, khen thưởng bảo vệ người tố cáo tham nhũng, tố giác tội phạm.

3.000 người có dấu hiệu kê khai tài sản không trung thực

Trả lời câu hỏi của đại biểu Nguyễn Văn Rinh (Hải Dương) về việc tham nhũng diễn ra ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhưng kết quả của việc kê khai tài sản và tác dụng của nó đến nay như thế nào, theo Tổng Thanh tra Chính phủ Huỳnh Phong Tranh, việc kê khai tài sản thu nhập được thực hiện từ năm 2008, đến nay hằng năm đều thực hiện việc kê khai: gồm kê khai lần đầu và kê khai bổ sung cho những người có phát sinh, những người có biến động tài sản cần kê khai bổ sung.

Ông Huỳnh Phong Tranh cho biết, từ năm 2013 đến nay, sau khi luật phòng chống tham nhũng sửa đổi năm 2012 có hiệu lực, việc kê khai có tiến bộ hơn. Chính phủ đã ban hành nghị định số 78 về hướng dẫn thi hành luật phòng chống tham nhũng sửa đổi.

Đầu năm 2013, có trên 642.000 người kê khai, đạt hơn 98% và công khai trên 59%.

Đến nay có hơn 919.000/ 935.000 người đã kê khai tài sản, đạt 98%. Trong số kê khai này, có hơn 200.000 bản kê khai thuộc cấp ủy quản lý.

Trong quá trình kê khai tài sản thu nhập, khoảng 3.000 người có dấu hiiệu kê khai không trung thực, không rõ ràng và đã được xác minh làm rõ. Trong quá trình thực hiện, đã có 88 cán bộ đã được xử lý bằng các hình thức do kê khai không trung thực, chậm kê khai và vi phạm các quy định về kê khai tài sản.

Sẽ tích cực chuyển cơ quan điều tra xử lý vi phạm

Trả lời câu hỏi của đại biểu Nguyễn Bá Thuyền rằng thanh tra ít chuyển, chậm chuyển vụ việc đã phát hiện dấu hiệu vi phạm qua Cơ quan điều tra để xử lý hình sự, ông Nguyễn Phong Tranh nói vừa qua ngành thanh tra đã tích cực trong việc phát hiện, chuyển cơ quan điều tra, nhưng đúng là chuyển chưa nhiều.

Bên cạnh đó, khi chuyển thì tính khả thi của việc điều tra truy tố xét xử cũng chưa đầy đủ lắm, yếu tố cấu thành tội phạm tham nhũng cũng chưa rõ lắm. Vấn đề này, ngành thanh tra sẽ tiếp tục triển khai, quan tâm thực hiện, tích cực chuyển các vụ việc sai phạm tới cơ quan điều tra xử lý.

Vừa qua, thanh tra đã chuyển hơn 200 vụ việc (240 người vi phạm) qua cơ quan điều tra đề nghị xử lý hình sự, trong đó Thanh tra Chính phủ chuyển hơn 40 vụ.

Trả lời chất vấn của đại biểu Điểu K' Rứ (Đắk Nông) về việc giải quyết những vụ khiếu nại kéo dài, ông Tranh cho biết trong 558 vụ việc khiếu nại kéo dài mà Thanh tra đã giải quyết (năm 2012-2013) thì hầu hết là các vụ khiếu nại phức tạp, có vụ đã kéo dài 30-40 năm. Thanh tra đã tích cực phối hợp với các địa phương để phối hợp giải quyết, tăng cường đối thoại với người khiếu nại trước khi ban hành quyết định.

Tổng thanh tra Nguyễn Phong Tranh lý giải nguyên nhân các vụ khiếu nại tồn đọng kéo dài hàng chục năm trên liên quan chính sách đất đai từ trước tới giờ như hợp tác hóa sản xuất nông nghiệp, chính sách thu hồi đền bù giải tỏa... Việc chính sách ban hành sau luôn có lợi hơn cho người dân nên là nguyên nhân phát sinh khiếu nại.

Việc giải quyết các vụ tồn đọng kéo dài đã đạt được một số kết quả như: cơ quan nhà nước đã khôi phục quyền lợi, hỗ trợ cho dân là trên 1.300 tỉ, 34ha đất sản xuất, 0,8ha đất ở... Có lẽ đây là việc giải quyết mang lại quyền lợi trực tiếp cho người dân, khôi phục quyền lợi cho người dân. Hiện vẫn còn 38 vụ kéo dài với khiếu nại phức tạp vẫn đang tiếp tục được giải quyết.

Liên quan việc đấu tranh phòng chống tham nhũng trong chính lực lượng phòng chống tham nhũng (thanh tra) và chủ trương tới, việc xửu lý cán bộ trong ngàng thanh tra toàn quốc, từ 2011-2013 toàn ngàng có 85 cán bộ công chức bị xử lý/28.000 cán bộ toàn ngành, có 14 người bị xử lý hình sự, có 11 người có dấu hiệu tham hhũng.

Riêng về số liệu cán bộ công chức của Thanh Tra Chính phủ bị xử lý ít, ông Tranh cho rằng nhiều năm qua ngành đã khắc phục nhiều hạn chế, yếu kém, nhưng vẫn còn nổi lên mấy nguyên nhân trong đó vẫn còn tình trạng nể nang, né tránh xử lý cán bộ do bệnh thành tích, trong thời gian tới sẽ tập trung hơn.

Giải pháp sắp tới, theo Tổng thanh tra thì có nhiều: như khắc phục tình trạng nể nang, tăng cường giáo dục tư tưởng cán bộ, xử lý nghiêm trách nhiệm người đứng đầu... nhưng theo ông, từ khi thực hiện Nghị quyết 04 thì thanh tra đã kiểm điểm nghiêm việc này.

Liên quan chất vấn của đại biểu về việc xử lý kết luận sau thanh tra còn thấp, Tổng Thanh tra Chính phủ nói có nhiều nguyên nhân. Thứ nhất là do thiếu chế tài trong việc không thực hiện kết luận thanh tra, việc này Thanh tra Chính phủ đã kiến nghị Chính phủ ban hành nghị định xử lý sau thanh tra. 

Quy định của pháp luật hiện nay thì Thanh Tra chỉ có thẩm quyền kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm chứ thanh tra không có quyền tự xử lý, không có quyền cưỡng chế thi hành. Sắp tới, Thanh tra Chính phủ sẽ phối hợp với Ngân hàng nhà nước dự thảo thông tư, cho phong tỏa tải khoản của đơn vị vi phạm đã có kết luận thanh tra nhưng không chịu thi hành.

Xử lý tham nhũng kiểu "Giơ cao đánh khẽ"?

Tiếp tục chất vấn Tổng Thanh tra Chính phủ Nguyễn Phong Tranh liên quan việc xử lý tham nhũng, đại biểu Lê Trọng Sang (đoàn TP.HCM) nói: qua tiếp xúc cử tri, băn khoăn lo lắng vì cho rằng việc xử lý cán bộ tham nhũng thời gian qua còn nhiều vụ chưa nghiêm, còn tình trạng "giơ cao đánh khẽ", một số vụ tham nhũng xử lý còn chậm, vì sao kết quả thu hồi tài sản trong các vụ tham nhũng trong những năm qua còn thấp.

Theo số liệu cụ thể thì năm 2011, tài sản trong các vụ tham nhũng thu hồi được là 59,5/267,4 tỉ; năm 2013 thu hồi 59/117 tỉ đồng. Tổng Thanh tra Chính phủ có giải pháp gì?

Đại biểu Đỗ Văn Đương cũng tiếp tục chất vấn: kết quả giải quyết khiếu nại của người dân có nêu 20% khiếu nại của người dân là đúng, như vậy tức là 20% quyết định của chính quyền là sai? Vậy Thanh tra Chính phủ đã giải quyết những trường hợp làm sai trên như thế nào?
Bầu Kiên bị phạt 30 năm tù là không thấp
Liên quan chất vấn của các đại biểu về vụ án Nguyễn Đức Kiên, ông Trương Hòa Bình, Chánh án TAND Tối cao đã có báo cáo giải trình thêm.
 Chánh án TAND Tối cao Trương Hòa Bình - Ảnh: Việt Dũng
Chánh án Trương Hòa Bình cho biết Hội đồng xét xử TAND TP Hà Nội đã căn cứ vào các hồ sơ tài liệu mà cơ quan điều tra thu thập, kết quả thẩm vấn tại phiên tòa để ra phán quyết và Hội đồng xét xử độc lập, chịu trách nhiệm về phán quyết của mình, Chánh án tôn trọng.
Tuy nhiên, ông Bình cũng giải thích rõ mức án của từng tội danh trong mà tòa đã tuyên án Bầu Kiên, so sánh với mức án mà VKS đề nghị thì bản án tòa tuyên cao hơn. Ngoài việc tuyên phạt và tổng hợp bản án buộc Nguyễn Đức Kiên phải chấp hành 30 năm tù thì tòa còn phạt bổ sung bị cáo 75 tỉ đồng trốn thuế, 100 triệu đồng tội lừa đảo và khởi tố tiếp 2 vụ án hình sự có liên quan.
"Mức án 30 năm tù trong một đời người thì không phải là thấp", ông Bình nói. Theo ông Bình, bản án của TAND TP Hà Nội là khá toàn diện. Khi vụ việc có kháng cáo kháng nghị thì TAND Tối cao cũng sẽ tiếp tục xem xét theo quy trình.
C.MAI - T.MAI
(Tuổi trẻ)

'Đà Nẵng đang làm rõ trách nhiệm các lãnh đạo thời kỳ 2003-2011'

Tổng TTCP Huỳnh Phong Tranh trả lời chất vấn của ĐBQH về vụ sai phạm đất đai ở Đà Nẵng.
Trả lời ĐB Hải Dương, Tổng TTCP Huỳnh Phong Tranh cho biết: Việc kê khai tài sản thu nhập bắt đầu thực hiện hàng năm từ 2008 sau khi có luật PCTN. Sau khi sửa luật năm 2012, CP đã ra nghị định 78 và TTCP ra thông tư hướng dẫn kê khai, việc này đã tiến bộ hơn.

7 ĐB đầu tiên chất vấn Tổng TTCP Huỳnh Phong Tranh sáng nay đưa ra nhiều vấn đề nóng.
ĐB Nguyễn Văn Rinh (Hải Dương) hỏi trong khi cử tri thấy tham nhũng vẫn nhiều, chưa được chặn đứng, thì giải pháp kê khai tài sản cán bộ mà TTCP đề ra đã có tác dụng thiết thực chưa.
Ông Rinh tiếp tục: TTCP kết luận về sai phạm trong quản lý đất ở Đà Nẵng, gây thất thoát hơn 3.400 tỷ đồng, nhưng UBND Đà Nẵng công khai phủ nhận làm dư luận phân tâm, vậy sau đó TTCP thay đổi kết luận không, thực hiện kết luận như thế nào?
"Kê khai của năm 2012 có hơn 642 nghìn người, đến năm 2013 đã có hơn 919 nghìn người. Đã xác minh làm rõ 3000 người có dấu hiệu kê khai không trung thực, xử lý 88 cán bộ bằng nhiều hình thức do thiếu trung thực, chậm hoặc vi phạm quy định về kê khai tài sản", ông Tranh nói.
Theo Tổng TTCP: Tác dụng của việc kê khai là công khai tài sản thu nhập của những người thuộc diện phải kê khai; các cơ quan thẩm quyền nắm được tài sản cán bộ công chức của mình quản lý để kiểm soát, theo dõi; là căn cứ xem xét kê khai đúng hay không, nếu tăng thêm thì phải giải trình.
Với câu hỏi về Đà Nẵng, ông Huỳnh Phong Tranh trình bày: Việc thanh tra trách nhiệm tại UBND Đà Nẵng về quản lý sử dụng đất đai đã được chuẩn bị, nắm tình hình từ trước năm 2010. Năm 2011, Tổng Thanh tra Trần Văn Truyền đã chủ trương thực hiện việc thanh tra này, tổ chức vào cuối năm dưới hình thức thanh tra liên ngành gồm TTCP và Văn phòng Ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng TƯ lúc đó.

thanh tra, Huỳnh Phong Tranh, Đà Nẵng, đất đai
Tổng Thanh tra Chính phủ Huỳnh Phong Tranh
Việc thanh tra làm đúng pháp luật, sau thanh tra đã dự thảo kết luận, làm việc với Đà Nẵng nhiều lần, có Bộ TNMT, Tài chính, KHĐT tham gia dự thảo. Sau khi ban hành kết luận, Thủ tướng đã đồng ý và đề nghị Đà Nẵng thực hiện. Khi kết luận thanh tra được công bố tại đơn vị và trên trang web của TTCP, đã có ý kiến khác nhau, đặc biệt là Đà Nẵng không đồng tình, ông Tranh cho biết.
Để khách quan, Thủ tướng đã giao các Bộ Tư pháp, TNMT và Tài chính kiểm tra tính hợp pháp của kết luận này, sau đó hoàn toàn khẳng định kết luận có cơ sở, làm rõ dấu hiệu cố ý làm trái trong chuyển nhượng đất đai ở Đà Nẵng, đủ căn cứ, trên cơ sở các quy định của nhà nước. Sau kết luận, Bộ Chính trị cũng chỉ đạo kiểm tra dấu hiệu vi phạm đối với cá nhân một số lãnh đạo Đà Nẵng lúc đó và có kết luận.
"Đến hôm nay, Đà Nẵng đã thực hiện kết luận thanh tra. Họ vừa báo cáo đang thực hiện 7 vấn đề, trong đó có kiểm điểm làm rõ trách nhiệm của các lãnh đạo thời kỳ 2003-2011, thực hiện các nội dung TTCP đã kết luận. Đà Nẵng cũng cam kết thực hiện nghiêm túc ý kiến của Thanh tra để kết luận thanh tra có hiệu lực, hiệu quả tốt hơn".
C.Hoàng - M.Thăng - H.Phúc - H.Nhì

Quân đội Thái Lan muốn hợp tác với TQ

Tướng Prayuth Chan-ocha trong cuộc họp báo hôm 26/05, tuyên bố quân đội nắm quyền tối cao

Một nhóm đại biểu của quân đội Thái Lan đã tới Trung Quốc hôm thứ Tư 11/06 để bàn về an ninh khu vực và tập trận chung trong lúc phương Tây tỏ ra không mấy thoải mái trước cuộc đảo chính của quân đội hồi tháng trước.

Tướng Surasak Kanjanarat, Phó tổng tham mưu quân đội Thái Lan, nói cuộc gặp nhằm lên kế hoạch “hành động trong tương lai” với quân đội Trung Quốc - một trong những đồng minh lâu năm trong khu vực, theo hãng tin Reuters.

“Cuộc gặp này nhằm bàn về các mối quan hệ... và kế hoạch hành động tương lai và trao đổi quan điểm về an ninh khu vực,” Tướng Surasak nói.

Đại diện của quân đội cũng khẳng định cuộc gặp sẽ không bàn về tình hình ở Thái Lan hiện nay do “không liên quan”, và tập trung vào vấn đề tăng cường đào tạo quân sự.

Sự kiện các quan chức quân đội Thái Lan muốn tăng cường quan hệ với Trung Quốc diễn ra sau khi vụ đảo chính hôm 22/05 gặp phải chỉ trích từ phương Tây và Hoa Kỳ.

Hoa Kỳ sau đó đã hủy bỏ cuộc tập trận chung sau khi quân đội lên nắm chính quyền.

Đây là động thái mới nhất làm rung chuyển bất ổn chính trị vốn đã kéo dài nhiều năm ở quốc gia này.

Quân đội vẫn kiểm soát chặt chẽ trên toàn Thái Lan

Đại diện quân sự của Thái Lan cũng đã gặp đại sứ Việt Nam ở Bangkok hồi tuần trước, mà phía Thái gọi là nhằm chứng tỏ sự ủng hộ.

Trả lời BBC qua email, Sứ quán Việt Nam ở Bangkok xác nhận Đại sứ mới của Việt Nam “đã chào xã giao tướng Thái Lan Thanasak Patimapragon, người đứng đầu lực lượng quân đội Thái Lan” hôm 3/6.

“Là nước láng giềng và cùng là thành viên ASEAN, Việt Nam quan tâm theo dõi và mong muốn Thái Lan sớm ổn định tình hình để xây dựng và phát triển đất nước, vì hòa bình, ổn định và hợp tác khu vực,” theo thư trả lời.

Trong lúc đó, Hoa Kỳ đang cố gắng củng cố quan hệ với các đồng minh châu Á và với các quốc gia như Việt Nam và Miến Điện nhằm cân bằng lại quyết tâm ngày càng lớn của Trung Quốc.

Quân đội Thái Lan đã áp dụng chính sách kiểm soát hà khắc kể từ khi lên nắm quyền.

Rất nhiều học giả, phóng viên, nhà hoạt động và chính trị gia, với đa số ủng hộ ông Thaksin Shinawatra, đã bị quân đội bắt giữ.

Hôm thứ Hai, công ty nhà nước của Trung Quốc, Mobile Ltd, đã đồng ý mua 19% cổ phần của tập đoàn viễn thông Thái Lan True Corp với giá 881 triệu đô la Mỹ, theo Reuters.

Khách du lịch Trung Quốc cũng đổ tới Thái Lan trong những năm gần đây, vượt qua cả lượng khách từ Hoa Kỳ và châu Âu do lo sợ về bất ổn chính trị.

Ước tính số khách Trung Quốc – gồm cả du lịch và công tác – chiếm 26% tổng số khách vào Thái Lan trong năm tháng đầu năm 2014, theo số liệu của Reuters dẫn lại từ Hiệp hội du lịch Thái Lan.
(BBC)

Ngày 12/6/2014 - Phải kiện trước khi Trung Quốc rút giàn khoan

TIN LÃNH THỔ

TIN XÃ HỘI

TIN KINH TẾ

TIN GIÁO DỤC

TIN ĐỜI SỐNG

TIN CÔNG NGHỆ

TIN VĂN HÓA GIẢI TRÍ

TIN THẾ GIỚI

Trần Kinh Nghị - Phải kiện trước khi Trung Quốc rút giàn khoan

Dư luận trong và ngoài nước đang rộ lên về việc "kiện Trung Quốc". Tuy nhiên, cách hiểu thì khác nhau khá nhiều, chủ yếu tập trung vào các khía cạnh như kiện về cái gì, kiện ra tòa án nào, thời điểm nào, vận dụng lý lẽ ra sao, và khả năng thắng thua...

Thật ra về phần mình Việt Nam đã tính đến việc kiện TQ ra tòa án quốc tế từ nhiều năm rồi chứ không phải bây giờ mới tính. Tuy nhiên không mấy ai "mặn mà" lắm trong việc này, lý do chủ yếu vì sợ chọc giận TQ gây căng thẳng quan hệ lâu dài. Việc này đã được bộc bạch bởi một vài vị lãnh đạo cấp cao mới đây rằng "kiện khác nào bát nước đổ đi". Đồng thời cũng có sự lo ngại khả năng bị thua kiện. Có lẽ cái sự thiếu mặn mà này ít nhiều đã hạn chế quá trình chuẩn bị hồ sơ, chí ít là cho đến trước khi xảy ra vụ giàn khoan 981.
Những mối lo ngại trên đây là hoàn toàn có cơ sở trong bối cảnh mối quan hệ bị ràng buộc và bất bình đẳng giữa Việt Nam và Trung Quốc, nhất là khi TQ là nước lớn lắm tiền và lắm mưu mô chước quỷ. Tuy nhiên đó chỉ là một mặt của toàn bộ vấn đề. Vấn đề còn phụ thuộc vào cách thức và thời điểm của từng vụ kiện. Nếu không thấy điều này thì lúc nào cũng lo sợ và thời cơ sẽ trôi đi không bao giờ lấy lại được; thế hệ này không được thì thế hệ sau càng khó.
Có lẽ có 2 lĩnh vực vấn đề cần xem xét.
Một là cần xác định nội dung kiện là gì. Nếu kiện để đòi lại toàn bộ quần đảo Hoàng Sa vào lúc này là điều không khả thi, thậm chí nhiều khả năng thất bại. Nhưng nếu tập trung kiện về vụ giàn khoan Hải Dương 981 thì Việt Nam hoàn toàn có lợi thế so với Trung Quốc. Bởi lẽ bằng việc cho hạ đặt giàn khoan với sự yểm trợ của hàng ngàn tàu thuyền, kể cả hải quân và không quân gây nhiều thiệt hại về tài sản và tính mạng đối với Việt Nam, TQ không chỉ vi phạm Công ước Luật Biển 1982 mà còn vi phạm luật môi trường và quyền mưu sinh của con người, v.v...Những lý lẽ để bác bỏ đường chín đoạn cũng cần được nêu ra trong dịp này.
Lý lẽ VN kiện TQ là như vậy, còn nếu phía TQ viện dẫn chủ quyền Hoàng Sa này nọ thì đó là dịp để VN lên tiếng bác bỏ để dư luận thế giới thấy. Nếu VN đặt mục đích kiện lần này trước hết là nhằm vào vụ giàn khoan thì không chỉ mạnh về chứng cứ mà còn mạnh về dư luận quốc tế, đồng thời hạn chế việc TQ sử dụng các thủ đoạn phi pháp lý vốn là "thế mạnh" của họ.
Hai là, cần xác định thời điểm phải kịp thời khi giàn khoan Haiyang 981 vẫn còn hoạt động phi pháp trong hải phận Việt Nam. Nếu để nó rút đi rồi thì coi như mất cơ hội. Nói cách khác, mục đích của việc kiện không chỉ là để buộc TQ rút giàn khoan mà cũng để gián tiếp bác bỏ luận điểm sai trái của TQ liên quan vấn đề chủ quyền quần đảo Hoàng Sa. Còn nếu chỉ nhằm mục tiêu TQ rút giàn khoan thì sớm muộn họ cũng phải rút thôi, chậm nhất là đến 15/8 hoặc cùng lắm là đến thời gian sóng to gió chướng tại khu vực này. Lúc đó TQ sẽ tự tuyên bố "hoàn thành nhiệm vụ" ...để lần sau lại tiến hành những "nhiệm vụ" tương tự dọc bờ biển VN thì ta sẽ còn khó hơn nhiều! Hơn nữa, nếu đợi đến sau này VN đem ra kiện thì ít có cơ hội để liên hệ đến vấn đề chủ quyền của quần đảo Hoàng Sa.
Tóm lại, trước mắt Việt Nam chỉ nên kiện đòi TQ rút giàn khoan cùng toàn bộ lực lượng ra khỏi lãnh hải của VN trả lại nguyên trạng trước ngày 1/5/2014. Việc chọn đưa ra toà án Công lý Quốc tế hay UNCLOS tùy thuộc vào mục đích kiện. Tất nhiên trong quá trình xét xử, vấn đề chủ quyền của quần đảo Hoàng Sa dù muốn hay không sẽ được đề cập, và bằng cách đó Việt Nam sẽ có cơ hội để trình bày lý lẽ của mình. Trong trường hợp TQ không đồng ý tham gia vụ kiện thì ít nhất việc khởi kiện của VN cũng góp phần làm sáng tỏ lập trường chính nghĩa của VN trước công luận quốc tế. Cách nào thì vẫn có lợi cho VN hơn là không kiện.
Trần Kinh Nghị
(Blog Bách Việt )

Tại sao Trung Quốc đột ngột giở giọng "quốc tế hóa" vụ giàn khoan 981?

(GDVN) - Quyết định của Trung Quốc đưa vấn đề (vu cáo Việt Nam) ra Liên Hợp Quốc khá khó hiểu, bởi lâu nay Bắc Kinh vẫn "phản đối quốc tế hóa vấn đề Biển Đông".
Vương Dân, Đại sứ - phó đại diện thường trực của Trung Quốc tại Liên Hợp Quốc buông lời xuyên tạc, vu cáo trắng trợn Việt Nam.

Trong một động thái nực cười hơn nữa của Bắc Kinh, hôm 9/6 Vương Dân, Phó đại diện thường trực Trung Quốc tại Liên Hợp Quốc đã gửi thư vu cáo Việt Nam trong vụ giàn khoan 981 và tranh thủ ngụy biện về cái gọi là "chủ quyền đối với quần đảo Tây Sa", tức quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam mà họ đã rắp tâm cất quân xâm lược năm 1956, 1974.

Zachary Keck, biên tập viên tạp chí The Diplomat ngày 10/6 bình luận, thoạt nhìn quyết định của Trung Quốc đưa vấn đề (vu cáo Việt Nam) ra Liên Hợp Quốc khá khó hiểu, bởi lâu nay Bắc Kinh vẫn "phản đối quốc tế hóa vấn đề Biển Đông" tại các diễn đàn khu vực như Đối thoại Shangri-la hay hội nghị ASEAN, từ chối tham dự phiên tòa kiện đường lưỡi bò, nhưng giờ lại giở giọng "quốc tế hóa" vụ giàn khoan 981.

Lý do Trung Quốc muốn "quốc tế hóa" vụ giàn khoan 981 thực chất là muốn biến vụ việc xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam thành "tranh chấp lãnh thổ" với quần đảo Hoàng Sa, mà tranh chấp lãnh thổ thì không tòa án nào thụ lý trừ phi cả 2 bên thống nhất ra tòa, trong khi Trung Quốc đang chiếm đóng bất hợp pháp Hoàng Sa và không bao giờ thừa nhận tranh chấp.

Tranh chấp lãnh thổ nằm ngoài phạm vi của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS). Nhưng bản chất vụ giàn khoan 981 lại là vụ vi phạm trắng trợn UNCLOS mà Trung Quốc đang cố tình giăng bẫy Việt Nam - PV.

Nhà báo Zachary Keck bình luận, Trung Quốc đang khống chế quần đảo Hoàng Sa và liên tục chối bỏ thừa nhận tồn tại tranh chấp lãnh thổ đối với quần đảo này. Nỗ lực của Việt Nam ngăn chặn Bắc Kinh hạ đặt bất hợp pháp giàn khoan 981 trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam đã bị Bắc Kinh bóp méo thành "tranh chấp chủ quyền quần đảo Hoàng Sa". Đây là một hành vi đánh tráo khái niệm pháp lý quốc tế quá trơ trẽn của Bắc Kinh mà chúng ta cần hết sức tỉnh táo - PV.

Theo Zachary Keck, trong thực tế quyết định của Trung Quốc nêu vấn đề (vu cáo Việt Nam) tại Liên Hợp Quốc có thể phản ánh mối lo ngại ngày càng tăng của Bắc Kinh về khả năng Việt Nam sẽ sử dụng biện pháp pháp lý để đối phó với (tham vọng bành trướng lãnh thổ của) Trung Quốc vốn có ưu thế hơn hẳn về quân sự.

Việt Nam khởi kiện Trung Quốc theo UNCLOS sẽ nhận được sự hỗ trợ rất lớn từ Nhật Bản, Úc, Hoa Kỳ và rất nhiều nước khác, Zachary Keck bình luận. Chính vì vậy, Trung Quốc đã chủ động lu loa và đưa ra "tuyên bố chủ quyền" với Hoàng Sa ra Liên Hợp Quốc, một thủ đoạn cố gắng ngăn cản Việt Nam khởi kiện, tách vụ giàn khoan 981 vi phạm trắng trợn UNCLOS khỏi phạm vi của UNCLOS.

Keck bình luận, đây là một canh bạc nguy hiểm, bởi trong khi "dựa vào luật pháp quốc tế" (thực tế là đánh tráo khái niệm, bóp méo luật pháp quốc tế - PV) trong vụ giàn khoan 981 để chiếm ưu thế với Việt Nam ở Hoàng Sa (thực tế giàn khoan 981 đang hạ đặt trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa Việt Nam theo đúng quy định của UNCLOS, không phải cái gọi là "vùng biển Hoàng Sa" như một số phương tiện truyền thông đưa tin. Hoàng Sa không có vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý theo UNCLOS), thì đường lưỡi bò của Bắc Kinh về cơ bản lại mâu thuẫn với luật pháp quốc tế.

Do đó, Trung Quốc có thể thiết lập một tiền lệ nguy hiểm bẻ cong luật pháp quốc tế. Điều thú vị là khi phát biểu tại cuộc họp kỷ niệm 20 năm UNCLOS có hiệu lực hôm Thứ Hai vừa rồi, Vương Dân không trực tiếp nhắc đến Việt Nam hay căng thẳng Biển Đông, thay vào đó ông Dân ca ngợi UNCLOS và nói, Trung Quốc tuân thủ đầy đủ UNCLOS (?!), giải quyết hòa bình các tranh chấp.

Và cũng chính trong bài phát biểu này, Vương Dân nhấn mạnh, Bắc Kinh tin rằng cách hiệu quả nhất giải quyết hòa bình các tranh chấp hàng hải là "đàm phán, tham vấn giữa các bên trực tiếp liên quan", trên cơ sở tôn trọng "sự thật lịch sử" và luật pháp quốc tế. Phát biểu của Vương Dân là minh chứng rõ ràng cho thấy Trung Quốc không hề thay đổi quan điểm của họ về tranh chấp hàng hải, vẫn đòi đàm phán tay đôi (và bẻ cong luật pháp quốc tế, ngăn chặn ra tòa )
  Hồng Thủy

Xin hỏi “Bộ Tổng”


Được đàng chân lân đàng đầu, một lần nữa Trung Quốc (TQ) đặt giàn khoan dầu xâm phạm thô bạo lãnh hải Việt Nam (VN).

Những câu hỏi không thể không đặt ra là: Tự đặt cho mình quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội trực tiếp, toàn diện, tuyệt đối, cớ sao cho đến giờ này Tổng Bí thư, Bộ Chính trị… Đảng CS VN vẫn im hơi lặng tiếng trước hành động xâm lược thô bạo của TQ? Sao lại cấm biểu tình chống TQ xâm lược? Sao không chấp nhận liên minh với các nước để phòng vệ? Sao không thả những người yêu nước chống TQ đang còn bị giam giữ? Và tại sao  trong giới lãnh đạo chóp bu còn có hiện tượng trống đành xuôi kèn thổi ngược?…

Giặc đã đến nhà mà bộ tổng tư lệnh im hơi lặng tiếng thì con dân nước Việt này biết phải làm gì để giữ nước? Hàng hay chiến? Hàng thì vì sao hàng? Nếu chiến thì bằng cách nào? Hỡi ngài Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng!

Giặc đã đến nhà đã hơn tháng trời mà các quan “đại thần” còn ông nói gà bà nói vịt, thì những người dưới trướng biết nghe ai?! Thôi thì ít ra các vị cũng cho chúng dân biết:

1/Sao lại cấm biểu tình chống TQ xâm lược?

Đã chấp nhận giải pháp “đánh giặc miệng”, ngoài việc sử dụng tối đa phương tiện truyền thông đại chúng, thì mũi dân chúng xuống đường biểu tình thị uy, đề cao chính nghĩa, lên án xâm lược phải được xem là mũi chủ công không thể thiếu.

Trong đấu tranh giải phóng dân tộc, biểu tình thị uy đề cao chính nghĩa được áp dụng triệt để, xuyên suốt, thu phục được trái tim khối óc con người, đẩy đối phương vào thế bị động đối phó. Trong đấu tranh vệ quốc càng không thể thiếu mục biểu tình chính trị, đề cao chính nghĩa. Những cuộc biểu tình bất bạo động do 20 tổ chức Xã hội Dân sự phát động chống TQ đặt giàn khoan vào hải phận VN hôm 11/5/2014 gây chấn động trong và ngoài nước, thật sự là mồi lửa làm dấy lên những cuộc biểu tình chống TQ xâm lược khắp nơi trên thế giới, đẩy TQ vào thế bị động đối phó.

Những cuộc biểu tình do thế lực mờ ám nào đó áp đặt, gây bạo loạn ở Bình Dương, Đồng Nai, Hà Tĩnh trước sự làm ngơ của công an, đó là cái lỗi của nhà cầm quyền, cớ sao dựa vào đó rồi cấm biểu tình chống TQ xâm lược? Tay lỡ dính bùn thì rửa, cớ sao lại dùng dao chặt nó gây đau đớn bản thân, làm cho bè bạn nghi ngờ, kẻ thù hớn hở?

Nếu người dân biểu tình theo hiến định, có kẻ xấu xen vào gây mất an ninh trật tự là tả khuynh, dựa vào cớ đó, cấm biểu tình yêu nước là hữu khuynh. Khuynh tả, khuynh hữu gì cũng sai, cũng chuốc lấy hậu quả cả! Vậy thì cơ quan công lực phải có trách nhiệm giữ đừng cho kẻ xấu xen vào gây rối, đảm bảo cho những cuộc biểu tình của người dân  đi đúng hướng. 

2/ Tại sao không chấp nhận liên minh phòng vệ?

Việt Nam là một nước nhỏ và yếu so với TQ, nếu chỉ tự mình đương đầu với TQ thì phần thua ắt nghiêng về phía VN. Lối thoát duy nhất của VN là phải liên minh liên kết với càng nhiều nước càng tốt để phòng vệ. Cớ sao đất nước đang bị TQ giày xéo mà vẫn khư khư “không liên minh với nước nào cả, không cho bất cứ nước nào đặt căn cứquân sự ở VN, không dựa vào nước nào để chống lại nước thứ ba” – anh hùng rơm như thế chỉ còn có chết!

Trong chiến tranh chống xâm lược Pháp và can thiệp Mỹ chẳng phải VN ta cũng liên minh với Liên Xô, Trung Quốc… để sinh tồn hay sao?

Mỹ là cường quốc quân sự số một thế giới thế mà bao giờ họ cũng liên minh với nhiều nước ở khắp các châu lục, vừa tăng sức mạnh cho mình vừa trợ thủ đắc lực cho bè bạn trong liên minh.

Dầu đã là đồng minh với Mỹ từ lâu, vẫn thấy chưa đủ, gần đây, Nhật còn mớm ý muốn liên minh quân sự với Philippines, VN, Malaysia, Indonesia. Quả là Nhật biết phòng xa.

Là nước nhỏ, nhất là nước nhỏ như VN, sống bên cạnh gã khổng lồ đầy tham vọng, phải biết phận mình, liên minh thì sống, lẻ loi thì chết. Hoàn cảnh VN chẳng khác Ukraine, một nước nhỏ ở cạnh nước lớn tham vọng bá quyền, muốn giữ độc lập tự chủ cho mình, đối phó với bá quyền TQ, nếu chưa liên minh được Mỹ, với cả khối Asean thì ít ra VN ta cũng phải tìm cách liên minh với các nước cùng cảnh bị TQ đe dọa biển đảo như Nhật, Phi, Mã, Indo. Đã đến nước này, lãnh đạo VN phải tỉnh táo, loại ra khỏi đầu hoang tưởng đàm phán song phương với TQ. 

3/ Sao chưa thả những người yêu nước còn bị giam cầm?

Không đợi đến giờ này mới thấy tham vọng của TQ, những người yêu nước viễn kiến như Nguyễn Văn Hải, Bùi Hằng chẳng hạn, là những “cây” biểu tình luôn dẫn đầu trong các cuộc xuống đường chống TQ xâm lược. Họ viết trên áo, xăm trên người những dòng chữ yêu nước làm lay động lòng người. Lẽ ra, họ phải được tôn trọng, đàng này chính quyền phịa ra những cái cớ vu vơ nào đó rồi bắt họ nhốt vào tù!

Một câu hỏi đặt ra, tại sao ở VN ta, hơn nửa thập kỷ qua, những người yêu nước, có đầu óc tiên tiến, nhìn xa hiểu rộng luôn là nạn nhân của chế độ?

*

Ngày nào giới lãnh đạo còn chia bè chia cánh, thờ ơ trước vận nước, còn cấm biểu tình yêu nước, còn chưa tạo được liên minh để phòng vệ, còn cầm tù những người yêu nước thì ngày ấy còn nguy cơ mất nước.

Người ta chỉ mừng khi nghe Thủ tướng và một ít người đương quyền khác đồng cảm với dân, công khai lên tiếng chống TQ xâm lược, nhưng người ta đâu đã tin, mà đang chờ xem hành động thật sự của họ. Vì nói và làm không đi đôi đã trở thành bịnh mãn tính của giới lãnh đạo Việt Nam từ lâu rồi.

Cho đến giờ này, chỉ có phía Nhà nước, đứng đầu là Thủ tướng lên tiếng chống TQ xâm lược. Nếu nghe theo Thủ tướng biết đâu sự kiện Thiên An Môn tái hiện ở VN?! Nhớ lại xem, sinh viên TQ nghe theo phái cấp tiến của Tổng bí thư Đảng CSTQ Triệu Tử Dương, tập trung tại quảng trường Thiên An Môn đòi thực hiện dân chủ;  phái bảo thủ Đặng Tiểu Bình sử con bài Lý Bằng, Giang Trạch Dân, dùng chiến xa nghiền nát hàng ngàn sinh viên, đó chẳng phải là bài học nhản tiền của một xã hội mà giới lãnh đạo còn phân chia bè phái?

Có lẽ giờ này, giới cầm quyền TQ tạm yên lòng khi VN còn cấm biểu tình chống TQ, còn thà chết chớ không liên minh với bất cứ nước nào, còn tiếp tục giam cầm những người “cứng đầu” dám chống TQ, và Đảng cầm quyền vẫn còn chưa ra mặt chống TQ xâm lược.

10/6/2014
Thiện Tùng
Tác giả gửi BVN 

Cám ơn cái giàn khoan!

Gượm hãy chụp mũ kẻ viết câu này là "thân Tàu". Vì cái giàn khoan là một phép thử. Đại để như học trò làm thí nghiệm trên tờ giấy quỳ. Nhúng mảnh giấy quỳ vào dung dịch, nếu giấy quỳ giữ nguyên màu tím thì dung dịch đó trung tính, nếu ngả sang màu xanh thì dung dịch đó mang tính kiềm, nếu chuyển sang màu đỏ thì dung dịch đó mang tính axit. Cũng thế với cái giàn khoan 981 kẻ cướp, giữa thanh thiên bạch nhật, hùng hổ, ngang ngược tọa đặt vào vùng biển của Việt Nam với hàng trăm tàu chiến tháp tùng máy bay yểm trợ cố tình khiêu khích. 
 
Chúng định làm gì? Khoan dầu ư? Cũng có thể. Siêu cường "trỗi dậy hòa bình" đang khát nhiên liệu. Nhưng với nhiều nhà bình luận quốc tế cũng như những học giả am hiểu về Trung Quốc thời Đặng Tiểu Bình cũng như thời Tập Cận Bình đều cho rằng đây là một phép thử. Thử bản lĩnh và cách ứng xử của đối phương trong tham vọng bành trướng mà cái "lưỡi bò" ham hố thè ra với đường 9 đoạn tự vẽ trên Biển Đông. Một chiêu giương đông để kích tây, gõ trống khua chiêng, diễu võ giương oai ở Hoàng Sa để ngấm ngầm quyết liệt mưu toan ở Trường Sa?

Trò đời, cái anh già mồm, bạo miệng hùng hùng, hổ hổ lại là anh thiếu tự tin trước đối thủ. Họ muốn thử phản ứng của Mỹ, của Nhật mà họ tự biết sự to xác của một quốc gia với hơn 1,2 tỷ dân, tuy đã có sự trỗi dậy mạnh mẽ khá ngoạn mục để đoạt ngôi vị thứ 2 về kinh tế của Nhật nhưng còn kém xa Nhật về nhiều mặt mà nhiều thập kỷ nữa vẫn chưa có thể đuổi kịp chứ chưa nói đến Mỹ. Và rồi, sự quyết liệt của Thủ tướng Nhật Shinzo Abe, của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel khiến cho Trung Quốc mất mặt ở "Đối thoại Shangri La", trước công luận quốc tế! Nhục quá hóa liều, viên tướng đại diện cho đoàn Trung Quốc nổi đóa làm xôn xao hội trường. "Khó có thể hiểu sao phía TQ lại tỏ ra cộc cằn đến vậy. Có lẽ vì họ bị phê phán quá nhiều tại cuộc đối thoại lần này", ông Christian Le Miere của Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (IISS), đơn vị tổ chức "Đối thoại Shangri-La" nhận xét.

Để chữa thẹn và trấn an người dân Trung Quốc, ngày 3.5.2014, CNR và CCTV phải đưa tin về tàu Trung Quốc tấn công tàu Việt Nam để cho dân họ thấy là tàu họ mạnh hơn, nhiều hơn, hiện đại hơn nhưng đâm ra "giấu đầu hở đuôi", tạo hiệu ứng ngược "lạy ông tôi ở bụi này"! Tính toán sai lầm trong phép thử khiến chiếc mặt nạ "trỗi dậy hòa bình" rơi xuống, để lộ nguyên hình bộ mặt hiếu chiến một "siêu cường nhưng chưa trưởng thành" với sự ngạo mạn của một "kẻ gây hấn tiềm tàng trong khu vực" nhưng tự biết mình yếu thế như nhận định của Gabriel Grésillon, thông tín viên của Les Echos thường trú tại Bắc Kinh.

Nhưng có lẽ cái "phép thử" cho ra kết quả ngoạn mục nhất lại là với Việt Nam, người láng giềng "cùng chung ‎ thức hệ xã hội chủ nghĩa", từng "thắm tình hữu nghị, núi liền núi, sông liền sông, chung một Biển Đông" vốn "sơn thủy tương liên, lý tưởng tương thông, văn hóa tương đồng, vận mệnh tương quan" (?!) với ông chủ cái giàn khoan kẻ cướp kia! Cách đây chưa lâu có những người bị đạp vào mặt, đánh cùi chõ vào mũi, nện dùi cui vào đầu vì đã dám thẳng thắn chỉ ra sự lừa mị của bốn điều đặc biệt nọ cùng với phương châm 16 chữ bịp bợm kia, thì nay chính cái giàn khoan kẻ cướp này đã lột trần sự lừa mị, bịp bợm đó mà không cần phải phân tích lý‎ lẽ, định hướng tuyên truyền, đăng đàn diễn thuyết cho khô cổ bỏng họng làm gì mất công!

Lời tuyên bố rành rọt và đanh thép của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng: "Việt Nam luôn mong muốn có hòa bình, hữu nghị nhưng phải trên cơ sở bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển, và nhất định không chấp nhận đánh đổi điều thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó" đã thể hiện được ý chí và khát vọng của mọi tầng lớp nhân dân, đi thẳng vào lòng người, chạm đến cái điểm sâu kín nhất, thiêng liêng nhất trong tâm thế dân tộc Việt. Những người am hiểu về thời cuộc hiểu rõ rằng không hề đơn giản để nói lên được điều hợp lòng dân đó. Tầng tầng lớp lớp những rào cản đã, đang và sẽ còn giăng ra từ những thế lực vẫn muốn bám víu lấy thứ "hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc" nhằm giữ lấy cái ghế quyền lực đã lung lay rệu rã của những Ích Tắc, Chiêu Thống thế hệ mới! Thì chẳng phải không thiếu những tiếng kèn lạc điệu gây bất bình, căm phẫn công luận nhưng lại được cất lên dõng dạc ở những nơi rất chi là trang nghiêm đó sao!

Cho nên, liệu có phải tuyên bố đó đánh dấu một giai đoạn mới trong ứng xử với Trung Quốc? Câu hỏi được đặt ra đòi hỏi một sự giải đáp. Tuy nhiên, để minh bạch và sòng phẳng cho lời giải đáp ấy thì còn cần phải có sự tiếp sức của ý chí và sức mạnh của dân tộc được khởi đầu từ nhận thức và hành động của mỗi một người dân, của các tầng lớp nhân dân, trước hết là của trí thức và thanh niên. Áp lực của lòng dân, sức dâng trào của làn sóng công luận là động lực thúc đẩy lịch sử đi tới từ những bước tiệm tiến đến những đột phá khó mà nói trước được.

Lịch sử vốn thế. Và thời gian đang ủng hộ cho những quyết sách hợp lòng dân.

Thì đó, liên tục từ đầu tháng 5.2014 đến nay, hệ thống truyền thông đại chúng đã liên tục đưa tin bằng những lời mạnh mẽ, quyết liệt, gọi đúng tên kẻ cướp thật khoái tai. Những chiếc "tàu lạ" dạo nào nay đã được chỉ đích danh là tàu Trung Quốc, là bọn kẻ cướp đang hung hăng hoành hành trên vùng biển của ta. Hy vọng rằng những cố gắng không mệt mỏi của những biên tập viên Đài Truyền hình, những thiên phóng sự nóng hổi được chiếu trên màn hình, những trang báo mạnh mẽ, sống động của "lề phải" đang vạch mặt kẻ xâm lược sẽ đủ sức xua bớt đi những mơ hồ, lệch lạc đã từng gieo bám vào đầu óc của bà con ta về nước "Trung Quốc xã hội chủ nghĩa anh em" nhất là ở nông thôn, những nơi không có đủ điều kiện theo dõi tin tức từ mạng internet, cũng là do họ buộc phải xướng lên, viết lên chứ cũng chẳng phải ai khác. Ngoạn mục cũng ở đây mà xót xa cũng ở đó!

Xem ra, lật mặt nạ kẻ "mượn màu son phấn đánh lừa con đen"*, bắt nó hiện nguyên hình là "cũng phường bán thịt, cũng tay buôn người"* bấy lâu nay cố công tô son, trát phấn cho những điều "thiêng liêng" được xem là "nhạy cảm" bậc nhất này cũng là từ cái giàn khoan đang phơi mặt ra giữa Biển Đông cả đấy thôi. Đúng là họa trung hữu phúc, trong cái rủi có cái may! Không phải ai khác mà chính Trung Quốc, bằng hành động ăn cướp của mình đã lộ diện là một siêu cường hiếu chiến khiến khu vực Đông Á, Đông Nam Á, châu Á và cả thế giới phải cảnh giác. Có thể mượn lời cũng của Gabriel Grésillon để nói về hình ảnh cái giàn khoan 981 bất chấp pháp lý và đạo lý: "Nơi đây là mồ chôn của sự trỗi dậy hòa bình của Trung Quốc"!

Mà thật ra, làm sao "trỗi dậy hòa bình" được khi mà tư tưởng bành trướng Đại Hán đã ăn sâu vào cốt tủy và não trạng giới cầm quyền của đế chế Trung Hoa qua các triều đại từ xưa đến nay. Điều cay đắng phải nói là do vị thế địa-chính trị oái oăm của đất nước liền kề với nước láng giềng khổng lồ khiến cho dân tộc Việt Nam hiểu rõ hơn ai hết về hiểm họa tiềm tàng chưa bao giờ dứt này. Không thể chuyển bán đảo hình chữ S đứng nhìn ra Biển Đông đi nơi khác mà sống thì phải bám trụ lại với khí phách "có cứng mới đứng đầu gió" như bao đời ông cha ta răn dạy.

Cho nên, phải cảnh giác! Tinh thần cảnh giác chống ngoại xâm đã khắc sâu vào tâm thế của một dân tộc luôn phải thường trực chống lại nguy cơ đồng hóa của chủ nghĩa bành trướng đại Hán vốn cũng thường trực trong não trạng các thế lực cầm quyền Trung Quốc. Lịch sử Việt Nam dày đặc những trang chống ngoại xâm. Và dường như chưa đủ, ông cha ta còn tạc vào hình thể núi sông những chứng tích trường tồn cùng năm tháng để răn dạy con cháu bài học cảnh giác. Hình tượng con voi cụt đầu ở vùng đồi trung du miền Bắc trong truyền thuyết về 100 ngọn đồi, 99 còn nguyên vẹn, một bị sạt lở mất đỉnh, đấy là hình ảnh con voi bị chém vì đã lìa đàn quay đầu về phương Bắc là một ví dụ. Hòn Vọng Phu ở Đồng Đăng, Lạng Sơn là một ví dụ khác.

Cần nói thêm rằng, trên đất nước này, không chỉ có một Hòn Vọng Phu ở Lạng Sơn, mà còn nhiều Hòn Vọng Phu khác nữa, chẳng hạn, Hòn Vọng Phu trên đỉnh núi Bà, Bình Định, Hòn Vọng Phu trên đỉnh M'drak, Đắk Lắk, Hòn Vọng Phu trên đỉnh núi Nhồi, Thanh Hoá, Hòn Vọng Phu bên bờ khe Giai, bản Cơ Lêc, Nghệ An... Chiến tranh chống ngoại xâm diễn ra triền miên, hình ảnh người vợ đứng ngóng chồng trở về từ chiến trường đã hóa đá là một biểu tượng bi tráng của dân tộc này. Khát khao hòa bình, chấm dứt chiến tranh, vì thế, là đòi hỏi của cuộc sống.

Tranh thủ mọi điều kiện và phương tiện để duy trì hòa bình, chủ động tránh đẩy tới chiến tranh là chiến lược và sách lược của người lãnh đạo có bản lĩnh và viễn kiến chính trị hiểu rõ khát vọng của dân và xu thế chung của thế giới. Song hòa bình không thể thực hiện bằng sự nhu nhược và đớn hèn. Đơn giản chỉ vì kẻ xâm lược không bao giờ có thiện ý từ bỏ mưu đồ của chúng. Cho nên, hòa bình chỉ giữ được khi chúng ta có thực lực. Thực lực ấy được khởi động, quy tụ và phát huy từ ý chí và sức mạnh của cả dân tộc bắt đầu từ mỗi người dân. Thật dễ hiểu, vì "chúng ta càng nhân nhượng, địch càng lấn tới" đó là chân lý nghiệt ngã. Chúng chỉ buộc phải dừng lại trước khí phách của cả một dân tộc không chịu cúi đầu như đã từng "cửa Hàm tử giết tươi Toa Đô, sông Bạch Đằng bắt sống Ô Mã... khiến cho chúng "ra đến biển chưa thôi trống ngực, về đến Tàu còn đổ mồ hôi" mà Nguyễn Trãi đã viết trong "Bình Ngô Đại Cáo".

Thì chẳng phải là chiến tranh, ngoài những cuộc tranh bá đồ vương khiến người dân buộc phải làm đá lát đường cho những cỗ xe quyền lực lăn bánh, phần lớn là chiến tranh chống xâm lược đến từ phương Bắc của các vương triều Trung Hoa Tần, Hán, Tùy Đường... Tống, Nguyên, Minh, Thanh và hậu duệ của họ. Càng nguy hiểm hơn khi những kẻ bành trướng thế hệ mới lại khoác lên mình bộ áo khoác "ý thức hệ xã hội chủ nghĩa" để dễ bề thực hiện mưu toan bao đời của một đế chế muốn mở rộng cánh cửa về phía Nam.

Chính cái "ý thức hệ xã hội chủ nghĩa" được lồng ghép, nhào nặn vào trong "bốn quan hệ tốt đẹp" và "phương châm 16 chữ" bịp bợm và lừa mị kia là liều thuốc lú đầu độc não trạng đối phương còn thâm hiểm hơn nhiều mọi thứ vũ khí giết người khác mà Trung Quốc đã sử dụng để tàn sát dân ta trong cuộc chiến tranh biên giới tháng 2 năm 1979, cuộc chiến kéo dài ở vùng núi Lão Sơn năm 1984... Những "Viện Khổng Tử" thời Tập Cận Bình xét cho cùng, cũng chỉ là kế tục âm mưu thâm độc thể hiện trong sắc chỉ của Minh Thành Tổ gửi viên tướng viễn chinh Chu Năng ngày 1 tháng 8 năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406): “Một khi binh lính vào nước Nam, trừ các sách kinh và bản in của đạo Phật, đạo Lão thì không thiêu hủy; ngoài ra hết thảy mọi sách vở văn tự, cho đến cả những loại (sách) ca lý dân gian, hay sách dạy trẻ, như loại sách có câu “Thượng đại nhân, khưu ất dĩ” một mảnh một chữ đều phải đốt hết. Khắp trong nước phàm những bia do Trung Quốc dựng từ xưa đến nay thì đều giữ gìn cẩn thận, còn các bia do An Nam dựng thì phá sạch hết thảy, một mảnh một chữ chớ để còn”!

Khởi nguồn từ đây, những lừa mỵ, bịp bợm về bốn điều tốt và phương châm mười sáu chữ khiến cho chiến lược bành trướng càng thêm thâm độc khi mà tội ác chúng gây ra với chiến tranh biên giới phía Tây Nam rồi chiến tranh biên giới phía Bắc 1979 vào lúc đất nước này chưa kịp hàn gắn những vết thương của một cuộc chiến tàn khốc kéo dài. Phải làm vậy vì chúng hiểu rõ Việt Nam là cục xương ngáng ngang họng không cho chúng nuốt trôi miếng mồi chúng thèm muốn. Chỉ tính từ 1974, trong 40 năm "xây đắp tình hữu nghị anh em cùng chung ý‎ thức hệ xã hội chủ nghĩa" thì "người anh em láng giềng" đã 5 lần xua quân xâm lược Việt Nam!

Với lần thứ 5 này thì thủ đoạn của chúng lại tinh vi và nham hiểm gấp bội với những chiêu giương đông kích tây, cùng với màn diễu võ giương oai ngoài biển là thủ đoạn gây rối kích động tại các khu công nghiệp với một mũi tên bắn ra nhằm nhiều đích ngắm đi liều với những thủ đoạn tinh vi thu gom, mua vét rễ cây, móng trâu, móng bò nhằm diệt nguồn nguyên liệu phá hoại sản xuất gây bất ổn về kinh tế xã hội.. Xem ra chủ đích thâm hiểm của cái giàn khoan 981HD không là chuyện dầu mỏ, cho dù đó là sự thèm thuồng khôn nguôi của chúng, vì không dễ để lấy được dầu ở đó với một chi phí khổng lồ mà những tính toán kinh tế không cho phép. Mục tiêu chính trị với ý đồ khuynh loát Biển Đông của Trung Quốc nhằm hợp pháp hóa "cái lưỡi bò" ham hố và bẩn thỉu của những đầu óc điên cuồng mộng bành trướng tự vẽ ra bất chấp pháp lý lẫn đạo lý thông thường mới là điều cần vạch rõ trước công luận. Cái giàn khoan kẻ cướp sớm muộn cũng phải rút, nhưng còn đó sân bay và những căn cứ quân sự nổi tại bãi đá Gạc Ma, bãi đá Chữ Thập mà chúng đang đẩy nhanh tiến độ xây dựng nhằm làm nên một chuyện đã rồi trên Biển Đông. Quyết liệt đuổi cái giàn khoan chính là để quyết liệt vạch trần âm mưu thâm hiểm định làm nên "chuyện đã rồi" đó. Đẩy nhanh việc đưa Trung Quốc ra tòa như Philippines đã làm chính là một trong những hành động quyết liệt đó. Dư luận quốc tế đang đứng về chúng ta, bỏ lỡ cơ hội sẽ có tội với đất nước.

Thật ra, tất cả những điều vừa kể chẳng mới mẻ gì. "Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua ", cuốn sách do nhà xuất bản Sự Thật phát hành năm 1979 đã dẫn ra câu của Mao nói với đoàn đại biểu Đảng Lao động Việt Nam do Tổng bí thư Lê Duẩn dẫn đầu tại Vũ Hán năm 1963 đủ giải thích tất cả. Có lẽ nên dẫn ra đây một tư liệu lưu trữ tại Thư viện QĐNDVN đoạn Lê Duẩn nói về vấn đề này: "Trước khi đoàn ta về nước, Mao có tiếp anh Trường Chinh và tôi. Mao ngồi trò chuyện cùng chúng tôi và đến cuối câu chuyện ông ta tuyên bố: “Các đồng chí, tôi muốn các đồng chí biết việc này. Tôi sẽ là Chủ tịch của 500 triệu bần nông và tôi sẽ mang một đạo quân đánh xuống Đông Nam Á.” Đặng Tiểu Bình cũng ngồi đó và nói thêm: “Đó chủ yếu là vì bần nông của chúng tôi đang ở trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn!”. Khi chúng tôi đã ra ngoài, tôi nói với anh Trường Chinh: “Anh thấy đấy, một âm mưu cướp nước ta và cả Đông Nam Á. Bây giờ chuyện đã minh bạch.” Họ dám ngang nhiên tuyên bố như vậy. Họ nghĩ chúng ta không hiểu. Rõ ràng là không một phút nào họ không nghĩ tới việc đánh Việt Nam!”.

Chính vì thế khi trả lời câu hỏi của nhà báo Pháp Danielle Hunebel, Cơ quan Phát thanh-Truyền hình Quốc gia Pháp ORTF: "Có một vài ý kiến cho rằng miền Bắc Việt Nam đang ở trong hoàn cảnh khá cô lập và nói một cách chính trị, khó có thể tránh khỏi trở thành một thứ vệ tinh của Trung Quốc. Có thể nói gì về việc này", Chủ tịch Hồ Chí Minh đã không một giây do dự, dằn giọng trả lời "Không bao giờ"! Chính ở đây, Hồ Chí Minh đã diễn đạt một cách cô đọng và thấm thía nhất lời nguyền của ông cha ta từ thuở "các vua Hùng có công dựng nước" và nay các thế hệ Việt Nam phải biết cách "giữ lấy nước".

Mà cũng vì thế, cái phép thử nhiệm mầu của cái giàn khoan ăn cướp kia cũng thể hiện rõ nhất ở đây. Cách ứng xử của mỗi người dân Việt Nam, từ bà bán rau ngoài chợ đến ông tiến sĩ trên bục giảng cho đến ông lãnh đạo cao ngất ngưởng chốn thâm cung kín cổng cao tường kia trước "cái giàn khoan made in China" này như một "dung dịch" giúp làm hiện rõ lên họ thuộc loại nào: là "trung tính", "mang tính kiềm" hay "mang tính axit" khi "tấm giấy quỳ" được nhúng vào đó giữ nguyên màu tím hay ngả sang màu xanh hoặc chuyển sang màu đỏ! Những "tính kiềm", "tính axit" hay là "trung tính" hiện hình rõ nét trong rất nhiều sự kiện, việc làm, thái độ, tình huống ứng xử, từ một chủ trương, chính sách cho đến một tuyên bố, một phát ngôn.

Chẳng hạn như có quyết liệt và dứt khoát sử dụng công cụ pháp lý kiện Trung Quốc ra tòa hay không, có quyết liệt đẩy tới việc thực thi dân chủ để huy động được tối đa sức mạnh của dân không. Có quyết liệt xây dựng thể chế nhằm tạo ra động lực phát triển mới, cụ thể hóa bằng những giải pháp của nguyên lý "Dân chủ và Nhà nước pháp quyền là cặp “song sinh” trong một thể chế chính trị hiện đại". Có quyết liệt thực thi những nguyên tắc đã được khẳng định hay không: "Nhà nước pháp quyền phải thượng tôn pháp luật. Pháp luật phải bảo đảm được công lý và lẽ phải. Mọi hạn chế quyền tự do của công dân phải được xem xét cẩn trọng và chủ yếu nhằm bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và những giá trị văn hóa, lịch sử, đạo đức tốt đẹp của dân tộc. Người dân có quyền làm tất cả những gì pháp luật không cấm và sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép. Mọi quyết định quản lý của Nhà nước đều phải minh bạch".

Lời nói đi đôi với việc làm, bằng việc làm để chứng minh rằng đây là những lời nói thật, đó chính là sức mạnh quy tụ được lòng dân. Chỉ khi quy tụ được lòng dân, khởi động sức mạnh của dân thì tư tưởng mới trở thành sức mạnh vật chất. Cuộc sống đã chứng minh những ai đến với dân, đi với dân, đáp ứng được ý chí nguyện vọng của dân, được dân ủng hộ, người ấy sẽ thắng. Mà vì vậy đời sống đang diễn ra muôn màu muôn vẻ mà ở đó cần những tấm giấy quỳ làm hiệ rõ ra màu sắc thật của những con người trong thời buổi nhiễu nhương vàng thau lẫn lộn.

Chao ôi! Chưa lúc nào cuộc sống lại nghiệt ngã một cách bi tráng và thú vị như những ngày tháng 5, tháng 6 này! "Này này sự đã quả nhiên...Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma"*, cái phép thử do ông Tập Cận Bình bày ra "chẳng văng vào mặt mà mày lại nghe"** để bây giờ lộ nguyên hình cả lũ! Đương nhiên, cũng phải dè chừng có kẻ ma mãnh biết chớp lấy thời cơ để như con kỳ nhông đổi màu nhằm "thay bậc đổi ngôi", không chỉ chuyển sang "trung tính" mà còn "cầm đèn chạy trước ô tô" bằng những lời rất chi là quyết liệt. Cũng chẳng sao, dân họ tinh lắm, tím, xanh, vàng, đỏ họ biết cả, khỏi lo! Vả chăng, lịch sử rất sòng phẳng.

Quả thật "trong ánh chớp của những cơn dông sáng lòe trong một giai đoạn chuyển động, người ta thấy các sự việc và con người như trần truồng...", đó là lời của Einstein. Thời gian sẽ là vị quan tòa nghiêm minh phán xét về các sự việc và con người ấy. "Mai sau dầu đến thế nào, Kìa gương nhật nguyệt, nọ dao quỷ thần", đó là cảnh báo của Nguyễn Du.

Vì vậy mà phải "cám ơn" cái giàn khoan kẻ cướp.

TP HCM ngày 7.6.2014

Tương Lai
Tác giả gửi BVN.
___________________
* Truyện Kiều. Lời quan xử kiện và lời tác giả ** Lời Tú Bà mắng Mã Giám Sinh và Thúy Kiều.
 

Tương lai gần của đảng CSVN giữa cuộc khủng hoảng?

Đại sứ Việt Nam tại LHQ Lê Hoài Trung
Đại sứ Việt Nam tại LHQ Lê Hoài Trung
Vietnamplus
Đảng cộng sản Việt nam đang đối diện với nhiều thách thức lớn trong cuộc khủng hoảng biển Đông hiện nay. Kính Hòa tổng hợp một số nhận định về những thách thức này đối với sự tồn tại của đảng cộng sản Việt nam.

Cuộc khủng hoảng lớn

Xung đột giữa hai quốc gia cộng sản không có dấu hiệu dừng lại với việc một mặt Trung quốc cương quyết dùng lực lượng lớn bảo về giàn khoan của họ trong thềm lục địa Việt nam, mặt khác họ tấn công Việt nam trên phương diện quan hệ quốc tế khi cho lưu hành tại Liên Hiệp Quốc thư tố cáo Việt nam xâm phạm chủ quyền của Trung quốc.

Đảng cộng sản Việt nam đang phải đối đầu với một nan đề lớn kể từ khi phải quyết định cải tổ nền kinh tế hồi cuối những năm 80 của thế kỷ trước. Vào thời điểm ấy đảng cộng sản cũng phải có những quyết định khó khăn, nhưng hầu như chỉ có sự phản kháng thụ động từ dân chúng, mà tiêu biểu nhất là bỏ nước ra đi, hoặc là tiến hành những hoạt động kinh tế tư nhân không được phép.

Cuộc khủng hoảng biển Đông 2014 đưa đến cho đảng cộng sản những thách thức trực diện và chủ động hơn từ nhiều tầng lớp. Lớn tiếng nhất có lẽ là những lời yêu cầu Bộ chính trị phải từ bỏ quyền lực của những người bất đồng chính kiến cứng rắn như bác sĩ Nguyễn Đan Quế. Và có những tiếng nói ôn hòa hơn như những người biểu tình chống Trung quốc ngày 11/5/2014. Trong cuộc biểu tình lớn mà có người cho rằng đảng cầm quyền đã ngầm cho phép, những người biểu tình đã kết hợp chuyện chống Trung quốc với những yêu cầu cải tổ đất nước. Một trong những người đưa ra những đòi hỏi ôn hòa đó là blogger Mẹ Nấm nói với chúng tôi sau cuộc biểu tình:
Tàu cá Việt Nam bị chìm ngay sau khi tàu TQ đâm hôm 26/5/2014. Hình chụp từ video.
Tàu cá Việt Nam bị chìm ngay sau khi tàu TQ đâm hôm 26/5/2014. Hình chụp từ video.
Cá nhân tôi cho rằng đây là lúc nhà nước Việt nam phải lựa chọn sự thay đổi về đường lối đối nội lẫn đối ngoại. Đối nội là thay đổi đường lối với chính sách với những tiếng nói phản biện trong nước. Đối ngoại là thay đổi sự quá phụ thuộc vào Trung Quốc. Cái câu vì một quốc gia cường thịnh thì tôi nghĩ là thông điệp ngắn mà ôn hòa.”

Ngoài ra còn có những yêu cầu cụ thể hơn trong chính sách đối ngoại như các nhà bất đồng chính kiến Cù Huy Hà Vũ, Bùi Tín, Nguyễn Thanh Giang cho rằng cần phải nhanh chóng thực hiện một liên minh quân sự với Hoa Kỳ để giữ vững nền độc lập.

Trên bình diện chính thức, Việt nam tuyên bố lúc nào cũng theo đuổi một chính sách “không liên kết.” Ngay trong những ngày cuộc khủng hoảng đang diễn ra hiện nay, giới chức quân sự Việt nam đều lên tiếng phủ nhận việc xích lại với Hoa Kỳ để chống Trung quốc. Bên cạnh đó những động tác ngoại giao của Việt nam lại cho thấy có sự xích lại gần ấy, ví dụ như Việt nam đề nghị Hoa Kỳ lên án mạnh mẽ hơn nữa hành động của Trung quốc trên biển Đông, cũng như phát triển những quan hệ xã giao với hải quân Philippines, một đồng minh thân cận của Hoa Kỳ.

Song nhiều nhà quan sát chính trị nước ngoài trong đó có Tiến Sĩ Vũ Tường từ Đại học Oregon cho rằng thực ra Bộ ngoại giao trong lịch sử tồn tại của đảng cộng sản Việt nam chỉ thực thi đường lối của những nhân vật phụ trách đối ngoại của đảng mà thôi. Hiện nay, nhân vật đứng đầu Bộ ngoại giao không phải là thành viên của bộ chính trị nhiều quyền lực nhất nước mặc dù ông kiêm nhiệm chức vụ Phó Thủ tướng. Lời mời của phía Hoa Kỳ về một chuyến viếng thăm nước Mỹ ngay sau cuộc khủng hoảng bùng nổ vẫn chưa được thực hiện sau gần hai tuần lễ leo thang xung đột.

 Dàn xếp phe phái hay mở rộng dân chủ?

Cuộc khủng hoảng hiện tạo ra nhiều đồn đoán hơn về những quan hệ phe phái hay những khuynh hướng thân phương tây hoặc thân Trung quốc trong nội bộ đảng cộng sản, theo đó nhóm có khuynh hướng chống Trung quốc sẽ mạnh hơn. Tuy nhiên một nhà quan sát thường xuyên theo dõi chính trị Việt nam từ Pháp là ông Nguyễn Gia Kiểng lại cho rằng vấn đề phe phái không có ý nghĩa gì vì những người cộng sản đều có chung một mục đích là bảo vệ sự độc tôn của đảng cộng sản. Nhận định này giống với phát biểu của Tiến sĩ Vũ Tường về những nhân sự cao cấp trong Bộ chính trị khi được hỏi rằng liệu họ có cho phép những cải cách dân chủ không sau khi có những khuôn mặt mới xuất hiện vào năm ngoái trong bộ phận quyền lực này:

Tôi nghĩ là Đảng cộng sản Việt Nam chưa cho phép dân chủ xảy ra. Điều đó nó nằm ngòai những gì mà chúng ta biết về họ, về lịch sử của họ, và do đó họ sẽ làm mọi cách để không cho điều đó xảy ra.”

Đây cũng là nhận định của ông David Brown một người từng làm việc ở bộ ngoại giao Hoa Kỳ về những người chủ trương bảo thủ trong đảng rằng họ ghét cay ghét đắng việc mở rộng dân chủ vì họ xem đó là bước đệm dẫn tới những cuộc cách mạng thách thức sự độc tôn của đảng cộng sản.

Song người ta cũng không phủ nhận là có những thành phần ôn hòa trong giới cầm quyền hiện nay, và dưới áp lực của của cuộc khủng hoảng, một hội thảo về việc làm cách nào thoát ra khỏi ảnh hưởng chính trị của Trung quốc, đồng minh ý thức hệ của đảng cộng sản Việt nam được công khai tổ chức tại Hà nội, tuy rằng cuộc hội thảo cũng bị những người như nhà bất đồng chính kiến Hà Sĩ Phu phê bình là bị giới hạn vì theo ông muốn thoát khỏi Trung quốc thì phải thoát khỏi chủ nghĩa cộng sản.

Sự thách thức về việc từ bỏ ý thức hệ này đối với đảng cộng sản Việt nam là một thách thức dai dẳng từ khi khối cộng sản Đông Âu bị sụp đổ đến nay. Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, một nhà quan sát khác từ Đại học George Mason Hoa kỳ cho rằng chính sách dựa trên ý thức hệ để có những cư xử mềm dẻo với Trung quốc đã mất sự thuyết phục sau khi cuộc khủng hoảng giàn khoan nổ ra.

Tuy nhiên nếu từ bỏ ý thức hệ cũng có nghĩa là chia sẻ sự cầm quyền và không còn độc tôn được nữa.

Tóm lại hiện đảng cộng sản Việt nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức đến cùng một lúc.

Một mặt phải khắc phục sự yếu kém của nền kinh tế với những yêu cầu tư hữu hóa ngày càng cấp bách như chính Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có nói ngay trong một cuộc gặp mặt với doanh nghiệp vừa qua. Và đương nhiên là một nền kinh tế mang tính tư nhân hơn cần có một môi trường xã hội dân chủ hơn để phát triển.

Thách thức thứ hai là đối diện với những yêu cầu mở rộng dân chủ của một số tầng lớp trong nước, mà những yêu cầu này luôn đi đôi với chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ, quốc gia duy nhất có khả năng cân bằng quyền lực quân sự với Trung quốc tại châu Á.

Thách thức thứ ba là sự chính danh của việc cầm quyền khi không thể đối đầu được với kẻ đồng minh ý thức hệ là Trung quốc.

Thời gian không còn nhiều từ nay cho đến đại hội đảng trong năm tới, và những thách thức trong vụ khủng hoảng giàn khoan cho thấy là phải có những giải pháp ngay lập tức. Đó là những thách thức lớn lao trong tương lai gần của đảng cộng sản, mà theo lời một bạn trẻ tham gia cuộc biểu tình ngày 11/5 là sự tồn tại của đảng cộng sản hay bất cứ đảng chính trị nào đều phụ thuộc vào việc đảng đó có giữ được độc lập chủ quyền của đất nước hay không.
Kính Hòa, phóng viên RFA
2014-06-11 

Chứng cứ thu thập từ internet trong vụ án hình sự

Từ khi công nghệ internet được ứng dụng rộng rãi thì các cơ quan điều tra cũng lấy các dữ liệu từ nguồn này làm chứng cứ phổ biến để cáo buộc các bị can, bị cáo có liên quan sử dụng máy tính. Việc làm này có khách quan và có đúng với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện nay hay không?

1.

Khoản 1 điều 64 “Chứng cứ” Bộ luật tố tụng hình sự 2003, quy định:

“ Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án.

Chứng cứ phải đảm bảo tính hợp pháp, tính xác thực.

Các dữ liệu in từ máy tính cá nhân có kết nối internet hoặc in từ internet, để xác định người chủ của các dữ liệu đó cần phải tuân theo những quy định của pháp luật. Máy tính khi kết nối internet thì có khả năng bị hacker thâm nhập vào phần cứng, phần mềm hay mạng máy tính để thay đổi hoặc thiết lập các dữ liệu khác ở trong máy tính. Vì vậy để xác định dữ liệu máy tính là của ai, trong thương mại điện tử đã có quy định từ rất sớm, đó là chữ ký điện tử.

Chữ ký điện tử là thông tin đi kèm theo dữ liệu (văn bản, hình ảnh, video...) nhằm mục đích xác định người chủ của dữ liệu đó. Do vậy, để xác định các dữ liệu in từ máy tính cá nhân có kết nối internet hoặc in từ internet là của ai lưu trữ hoặc do ai tạo ra thì cần phải xác nhận bằng chữ ký điện tử. Chữ ký điện tử chỉ được coi là chứng cứ nếu nó được chứng thực hợp pháp theo điều 21 Luật giao dịch điện tử 2005:

Điều 21. Chữ ký điện tử

1. Chữ ký điện tử được tạo lập dưới dạng từ, chữ, số, ký hiệu, âm thanh hoặc các hình thức khác bằng phương tiện điện tử, gắn liền hoặc kết hợp một cách lô gíc với thông điệp dữ liệu, có khả năng xác nhận người ký thông điệp dữ liệu và xác nhận sự chấp thuận của người đó đối với nội dung thông điệp dữ liệu được ký.

2. Chữ ký điện tử được xem là bảo đảm an toàn nếu chữ ký điện tử đó đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 22 của Luật này.

3. Chữ ký điện tử có thể được chứng thực bởi một tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký điện tử”.

Hay nói cách khác, chữ ký điện tử hợp pháp phải được chứng thực như khoản 2 điều 4 Luật giao dịch điện tử, quy định:Chứng thực chữ ký điện tử là việc xác nhận cơ quan, tổ chức, cá nhân được chứng thực là người ký chữ ký điện tử.

Về bản chất trong tố tụng hình sự cũng như thương mại điện tử để xác định một dữ liệu được lấy từ máy tính đã kết nối internet mà không có chữ ký điện tử hoặc không có quy định tương tự như vậy về công nghệ thì không có cơ sở xác thực, khách quan khẳng định người chủ dữ liệu đó là ai.

2.

Nếu các dữ liệu đó được in ra và được người bị bắt ký xác nhận hoặc căn cứ vào lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo để xác định chủ của các dữ liệu là ai thì đây cũng chỉ là căn cứ gián tiếp để tham khảo chứ không phải là những gì có thật và những chứng cứ này không được coi là thu thập hợp pháp.

Để tránh khỏi tình cảnh giam giữ lâu ngày, bị bức cung, mớm cung, để làm hài lòng cơ quan điều tra… hoặc vì những động cơ cá nhân khác nhau (như để trả thù người khác, để vu khống, hoặc để muốn mình trở thành người nổi tiếng…) những người nêu trên hoàn toàn có thể ký vào những dữ liệu được cơ quan điều tra in ra để làm chứng cứ.

Và theo điều 72 “Lời khai của bị can, bị cáo”, Bộ luật tố tụng, quy định:

“1. Bị can, bị cáo trình bày về những tình tiết của vụ án.

2. Lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ, nếu phù hợp với các chứng cứ khác của vụ án.

Không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để kết tội”.

Kết luận: Từ trước đến nay, nhiều vụ án các cơ quan điều tra chỉ căn cứ vào chứng cứ duy nhất là các dữ liệu được in ra máy tính hay internet do chính bị can, bị cáo ký nhận hoặc do những người khác ký xác nhận để cáo buộc, kết tội bị can, bị cáo. Những chứng cứ này là không khách quan, vi phạm một cách nghiêm trọng quy định của Bộ luật tố tụng năm 2003, làm hàm oan không ít người vô tội. Để chấm dứt tình trạng này, tôi cho rằng Quốc hội, Chính phủ cần sớm ban hành Luật, Pháp lệnh chứng cứ trong tố tụng hình sự hoặc Nghị định hướng dẫn chi tiết về Chương V “Chứng cứ” của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.

Hà Nội, ngày 11/06/2014
Luật sư Hà Huy Sơn
Tác giả gửi BVN