Tổng số lượt xem trang

Thứ Ba, 1 tháng 5, 2012

Lượm tin ngày 02/5/2012

http://www.youtube.com/watch?feature=player_detailpage&v=n6sBivNBt1g
  • VN gần chót bảng về tự do báo chí (Boxit) – Việt Nam xếp gần cuối bảng trong tổng số 197 nước được khảo sát về tự do báo chí trên toàn thế giới, theo phúc trình thường niên của tổ chức Freedom House (Ngôi nhà tự do) được công bố thứ Ba ngày 1/5.
  • Hãy tranh đấu cho dân chủ theo quy luật dân chủ của thời đại ngày nay (Hoàng Cơ Định) – Trong mỗi cuộc giao đấu, dầu chỉ là một ván cờ hay một màn tranh tài thể thao, đều có một “luật chơi” phải tôn trọng. Tranh đấu cho dân chủ và tự do cũng vậy, nếu không lưu ý tới một số nguyên tắc căn bản thì chỉ tốn công sức, chẳng đi tới đâu…
  • Tư bản đỏ (Gs Nguyễn Hữu Chi) – Theo Các-Mác, chế độ tư bản tự phát triển, và dần dần đi tới giai đoạn “tư bản tập trung” trong tay một nhóm thiểu số. Tới thời điểm “tư bản giãy chết”, giai cấp tư bản càng ngày càng thu hẹp và càng ngày càng tàn bạo.
  • Tiên Lãng, Văn Giang và ngày 30/4 (NVCL) – Việc chính quyền Văn Giang – Hưng Yên sử dụng một lực lượng hùng hổ hàng trăm công an, dân quân cùng vài chục phương tiện cơ giới để cưỡng đoạt ‘chớp nhoáng’ lấy 5,8Ha đất của 116 nông dân hôm 24/4 vừa qua khiến dư luận không khỏi bàng hoàng. …
  • Đã tỏ tường rồi (Lê Văn Úa) – …bên cạnh những thứ bịnh hoạn rác rưởi của xã hội Việt Nam hôm nay, vẫn còn những con người Việt, những tấm lòng Việt, những tâm hồn Việt luôn tìm đến những điều thiện và ước mơ nhiều điều tốt đẹp cho con người và đất nước Việt
  • Những ngày xưa thân ái (Sông Lô) – Thật ra Những Ngày Xưa “Thân Ái” của hai chúng tôi nếu nói theo nghĩa đen trần trụi thì không có gì gọi là thân ái mà hoàn toàn ngược lại….
  • Ngày 1/5 – Việt Nam khác với thế giới (Minh Văn) – Ngày 1/5 năm nay vẫn chưa được thấy hình ảnh những người công nhân Việt Nam xuống đường, sánh vai với giai cấp công nhân thế giới. Hay họ để giành thời gian ngày nghỉ lễ để nghỉ ngơi, sau đó dồn sức cho sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa nước nhà?
  • Những bài thơ hiện thực hôm nay! (Nguyễn Đăng Hưng) – “Lũ ác ôn/ Lăm lăm gậy gộc/ Náo loạn nghĩa trang/ Đạp hồn liệt sĩ/ Bỗng chúng vượt rào/ Lao ra/ Túm tà áo trắng/ Đang hồn nhiên lặng nhìn/ Chục thằng nhào tới/ Đánh tả tơi/ Nạn nhân vô can…”
  • Mõ làng không yên(Sơn Thi Thư) – Mõ làng xứ Không Yên trân trọng thông cáo: “Quán triệt tinh thần và sự chỉ đạo của ông tổ Đạo Chích, dưới sự chỉ đạo trực tiếp tại hiện trường của Băng trưởng và Băng phó, các bộ phận trong băng cướp
  • Nhà thơ Lê Phú Khải: Điện Biên Phủ thời a còng (Nguyễn Tường Thụy) – “Khi Phan Đình Giót lấy ngực mình bịt lỗ châu mai/ Bế Văn Đàn lấy thân làm giá súng/ Tô Vĩnh Diện chèn lưng cứu pháo/ Các anh có hay đâu/ 58 năm sau/ Bọn xâm lược lại đội mồ đứng dậy/ Cướp ruộng vườn ở Tiên Lãng, Văn Giang…”
  • Lời của những mảnh hài cốt bị cày ủi trên cánh đồng Văn Giang (Trần Nhương) – “Đất có thổ công/ Sông có hà bá/ Hồn thiêng sông núi hội tụ trong mỗi khúc xương này/ Giờ chúng tôi bị cày tung, vỡ vụn/ Hồn chúng tôi biết tụ về đâu?/ Những tưởng con cháu chúng tôi sẽ được hưởng an bình/ Sau những năm máu đổ hy sinh/ Trên mảnh đất mồ hôi nước mắt…”
  • Nhắn cô Bùi Hằng hãy bảo trọng (Mai Xuân Dũng) – “Là một người rất hiểu về chế độ này, tôi chỉ xin cô ấy hãy thận trọng và mọi người hãy bảo vệ cô ấy, rất có thể họ sẽ tìm cách không cho cô ấy làm những gì cô ấy dự định đâu. Rất có thể, một vụ đụng xe, rất có thể một gói hê rô in ngẫu nhiên xuất hiện trong nhà cô ấy bất cứ lúc nào trong cái xã hội nhơ nhuốc này”.
  • TS Nguyễn Văn Khải: Hãy trả ta về (Nguyễn Tường Thụy) – Hãy thả ta ra, hãy thả ta/ Ta thét vang vang, động muôn nhà/ Ngươi không muốn thả, ta bền chí/ Đạp gãy que lồng ta cứu ta
  • Phóng viên Trương Minh Đức sẽ ra khỏi tù vào ngày 5.5.2012 (Dân làm báo) – “Anh Trương Minh Đức vì không chịu ký cam kết nên bị giam cho đủ 5 năm tù. Lẽ ra anh đã được về nhà từ trước ngày 30.4 nhưng vì không chịu ký cam kết nên phía công an không cho về sớm, dù chỉ một vài ngày nữa là mãn hạn”.
  • Ủy ban điều tra nghị viện Anh công bố bản buộc tội ông chủ tập đoàn Murdoch (RFI) – Hôm nay 01/05/2012, Ủy ban nghị viện Anh quốc ra báo cáo dài 121 trang, cáo buộc ông Rupert Murdoch, chủ tập đoàn News Corpration – một trong các tập đoàn truyền thông hàng đầu thế giới -, là không đủ năng lực lãnh đạo doanh nghiệp lớn này. Bên cạnh đó, nhiều lãnh đạo khác của News International, chi nhánh của News Corporation tại Anh sẽ phải chịu trách nhiệm về các vụ nghe lén điện thoại.
  • Tư bản Nhà nước Trung Quốc đang rạn nứt từ bên trong (RFI) – Ba thập kỷ cải cách và mở cửa, đảng Cộng sản Trung Quốc vẫn tự hào đã tạo dựng được một mô hình phát triển thành công. Bắc Kinh vẫn cho rằng việc đảng kiểm soát hệ thống ngân hàng và các doanh nghiệp lớn phần nào đã giúp cho nước này có những tăng trưởng kinh tế khá ngoạn mục trong hai thập kỷ qua. Nhưng giờ đây hệ thống này đã bộc lộ những giới hạn tạo ra những rạn nứt bên trong.
  • Máy bay Trung Quốc đe dọa tàu Việt Nam đi thăm Trường Sa (RFI) – Một thông tin trên mạng cho biết là hai máy bay khu trục Trung Quốc hôm nay 01/05/2012 vừa xâm phạm vùng trời Việt Nam tại khu vực bán đảo Cam Ranh và phía bắc tỉnh Ninh Thuận. Hiện chưa có nguồn tin chính thức xác nhận tin này, nhưng được biết là trước đó, khi đoàn đại biểu Đà Nẵng đi thăm Trường Sa trong tháng tư vừa qua, máy bay Trung Quốc đã bay bên trên để đe dọa
  • Pháp : Tuần hành 1/5 trong bối cảnh bầu cử tổng thống (RFI) – Hôm nay 01/05/2012, các công đoàn, các đảng cánh tả, phe ủng hộ tổng thống cánh hữu mãn nhiệm, cũng như phe cực hữu Mặt trận Quốc gia đồng loạt xuống đường tại Pháp nhân ngày Quốc tế lao động 1/5, trong bối cảnh chỉ còn 5 ngày nữa là đến vòng hai bầu cử tổng thống
  • Tình tiết mới trong cuộc điều tra về vợ ông Bạc Hy Lai (RFI) – Vợ ông Bạc Hy Lai là bà Cốc Khai Lai đã mặc quân phục cấp tướng để nói chuyện với các viên chức công an cao cấp, sau cái chết của doanh nhân Anh Neil Heywood. Hãng tin Reuters hôm nay 01/05/2102 cho biết tình tiết mới này cho thấy bà Cốc Khai Lai có các dấu hiệu bất thường
  • Manila kêu gọi Washington giúp nâng cao khả năng tự vệ (RFI) – Philippines yêu cầu Hoa Kỳ và cộng đồng quốc tế trợ giúp xây dựng một quân đội có khả năng phòng vệ « khả dĩ đáng tin cậy ». Trong bối cảnh bị Trung Quốc ức hiếp, Manila đã đưa ra lời kêu gọi này nhân hội nghị 2+2 đầu tiên với Hoa Kỳ tại Washingtonvào ngày hôm qua 30/04/2012
  • Tổng thư ký LHQ ca ngợi nhà đối lập Miến Điện Aung San Suu Kyi (RFI) – Hôm nay, 01/05/2012, lầu đầu tiên Tổng thư ký Liên hiệp quốc Ban Ki-moon đã gặp nhà đối lập Miến Điện Aung San Suu Kyi tại Rangun, sau khi bà quyết định tuyên thệ nhậm chức dân biểu Quốc hội, mặc dù vẫn bất đồng với chính quyền về ngôn từ của lời tuyên thệ.
  • Ngoại trưởng Hoa Kỳ đi Trung Quốc (VOA) – Bộ trưởng Clinton và Bộ trưởng Tài chính Timothy Geithner đứng đầu phái đoàn Mỹ đến dự cuộc họp mang tên Đối thoại Chiến lược và Kinh tế
  • <a Đặc sứ hạt nhân Hàn quốc đi Bắc Kinh (RFA) – Đặc sứ về hạt nhân và là thứ trưởng ngoại giao của Nam Hàn đến Trung Quốc tuần này, giữa lúc đang có quan ngại về việc Bắc Hàn sẽ thử nghiệm bom nguyên tử.
  • <a Tự do báo chí thế giới không suy giảm (RFA) – Lần đầu tiên trong 8 năm, tự do báo chí thế giới không bị sụt giảm. Đó là kết quả được công bố do Freedom House, một tổ chức phi chính phủ có trụ sở tại Hoa Kỳ chuyên nghiên cứu về vấn đề tự do, dân chủ trên thế giới.
  • <a Hoa Kỳ cam kết giúp Philippines về quân sự, an ninh (RFA) – Hoa Kỳ khẳng định sẽ giúp đỡ Philippines trong vấn đề an ninh biển Đông. Tuyên bố chung của hai nước sau hội nghị các bộ trưởng quốc phòng và ngoại giao hai bên mang nội dung như vừa nêu.
  • <a Philippines gọi thầu dầu khí biển Đông (RFA) – Philippines mời thầu khai thác dầu khí tại biển Đông mà nước này gọi là biển Tây Philippines. Đài phát thanh ABC của Úc loan tin này hôm cuối tuần.
  • <a Iran hy vọng đàm phán thành công (RFA) – Một nhà ngoại giao cao cấp của Iran hôm qua ngỏ ý hy vọng cuộc đối thoại vào giữa tháng Năm sẽ giúp giải quyết vấn đề nguyên tử của Iran.
  • <a Trung Quốc huấn luyện tàu ngầm cho Thái Lan (RFA) – Một nhóm sĩ quan Hải quân Hoàng gia Thái Lan sẽ được cử sang Trung Quốc tham dự khoá huấn luyện về tàu ngầm. Thông tin này mới được Bộ quốc phòng Thái Lan cho biết vào ngày hôm qua.
  • <a Hàn quốc sẽ phản ứng cứng rắn: TT Lee Myung-Bak (RFA) – Tổng thống Hàn Quốc Lee Myung Bak hôm qua cam kết sẽ phản ứng cứng rắn trước những hành động khiêu khích quân sự của phía Bắc Hàn. Tuy nhiên, ông cũng phát biểu rằng nước ông không muốn cạnh tranh quân sự với Bắc Hàn mà chỉ muốn cạnh tranh về việc người dân có cuộc sống ấm no hạnh phúc hơn.
  • <a Châu Âu kêu gọi Trung Quốc kiềm chế trong vụ LS Trần Quang Thành (RFA) – Liên minh Châu Âu hôm qua kêu gọi Trung Quốc phải “kiềm chế tối đa” trong vụ nhà bất đồng chính kiến khiếm thị Trần Quang Thành, người mới vừa trốn khỏi quản thúc tại gia tuần rồi và được cho là đang trú ẩn tại đại sứ quán Hoa Kỳ ở Bắc Kinh.
  • Khủng Bố Cấy Bom Vô Bụng, Lên Phi Cơ… (VietBao) – WASHINGTON — Các cơ quan an ninh Hoa Kỳ và Châu Âu nói với cơ quan thông tấn ABC News rằng trong ngày giỗ tròn một năm ngày trùm khủng bố Osama bin Laden bị biệt kích Mỹ hạ sát
  • CHIỀU 30.4: ĐAU ĐỚN LÒNG TA CHIỀU VĂN GIANG ! (Nguyễn Xuân Diện) – Ở cánh đồng, chiều nay bà con Xuân Quan đi ra nơi những máy xúc, máy ủi của cuộc cưỡng chế để nhặt xương cốt tổ tiên mình bị đào xới tan hoang trong trận càn hôm 24.4.2012
  • Lẩm cẩm thiên hạ sự hay Quê hương là chùm khế ngọt (BoxitVN) – “Đất nước đã Hòa bình 37 năm. Cả Đất nước đang cùng nhau tiến về đỉnh Vinh quang trên con tàu XHCN dưới sự cầm lái của những tài công tài ba xuất sắc của thời đại ‘đỉnh cao trí tuệ XHCN’.
  • Bùi Hoàng Tám: Những ông kễnh… vô học!(Trần Nhương) – “Hình như xe 80B rất ít bị thổi còi”. Đây là câu nói thẳng thắn về một vấn đề rất và rất tế nhị của ĐB Dương Trung Quốc. Còn mình, đã hơn một lần mình nguyền rủa những chiếc ô tô mang biển 80B là: Những ông kễnh… vô học!

BBC Tiếng Việt

Việt Nam gần chót bảng về tự do báo chí

01-05-2012
Việt Nam xếp gần cuối bảng trong tổng số 197 nước được khảo sát về tự do báo chí trên toàn thế giới, theo phúc trình thường niên của tổ chức Freedom House (Ngôi nhà tự do) được công bố thứ Ba ngày 1/5.
Freedom House đánh giá báo chí Việt Nam bị Đảng kiểm soát sâu rộng
Theo đó, nước này đồng hạng với các nước Bahrain, Lào, Ả Rập Saudi và Somalia ở vị trí 182.
Tính trong tổng số 197 nước thì nền tự do báo chí của Việt Nam chỉ xếp trên Miến Điện, Trung Quốc, Syria, Cuba, Guinea xích đạo, Iran, Belarus, Eritrea, Uzbekistan, Turkmenistan và Bắc Hàn.
Phúc trình của Freedom House, tổ chức có trụ sở tại Washington, phân loại các quốc gia ra làm ba nhóm: có tự do, tự do một phần và hoàn toàn không có tự do báo chí.

Việt Nam nằm trong nhóm nước không có tự do báo chí vốn chiếm 30% tổng số các quốc gia được khảo sát.
Bản phúc trình này được đưa ra chỉ 2 ngày trước Ngày tự do báo chí thế giới do Liên Hiệp Quốc đánh dấu vào ngày thứ Năm 3/5.
Nếu tính theo khu vực châu Á-Thái Bình Dương thì Việt Nam chỉ đứng trước Miến Điện, Trung Quốc và Bắc Hàn và đồng hạng với nước láng giềng cộng sản Lào.
“Khu vực châu Á có quốc gia đội sổ, Bắc Hàn, cũng như một vài quốc gia hạn chế truyền thông khác như Trung Quốc, Lào và Việt Nam,” bản phúc trình viết.
“Tất cả những quốc gia này đều có sự kiểm soát báo chí sâu rộng của Đảng và Nhà nước.”

Trung Quốc và Miến Điện

Bản phúc trình này đề cập kỹ đến trường hợp của Trung Quốc, quốc gia lớn nhưng xếp hạng kém về tự do báo chí.
“Chính quyền (Trung Quốc) ngăn chặn truyền thông đưa tin về các cuộc nổi dậy của người dân tại Trung Đông và Bắc Phi, tiếp tục phong tỏa các mạng xã hội nước ngoài như Twitter và thắt chặt kiểm soát với các bài báo điều tra vào trước thời điểm nhạy cảm chuyển giao lãnh đạo vào năm 2012,” bản phúc trình viết.

“Các chỉ thị chi tiết của Đảng cộng sản mà các biên tập nhận được mỗi ngày cũng hạn chế đưa các tin liên quan đến bệnh tật, các thảm họa môi trường, những tù nhân bị chết khi đang bị cảnh sát giam giữ và chính sách đối ngoại cũng như các vấn đề khác.”
Bản phúc trình cũng cho biết trong thời gian qua hàng chục cây viết và các nhà hoạt động thu hút đông đảo cộng đồng Internet đã bị mất tích, bị tra tấn khi giam giữ và trong một số trường hợp bị kết án nhiều năm tù sau khi nhiều thông điệp ẩn danh lan truyền trên mạng kêu gọi làm một cuộc cách mạng giống như Tunisia ở Trung Quốc.
Riêng về trường hợp Miến Điện, nước từng đứng áp chót trong cuộc khảo sát cách đây hai năm, Freedom House đánh giá nước này đã có sự cởi mở quan trọng vào năm 2011 và nhờ đó điểm số về tự do báo chí của họ cũng được cải thiện nhiều.
Các diễn biến tích cực ở nước này, theo bản phúc trình, bao gồm thả các cây viết blog bị cầm tù, nới lỏng kiểm duyệt, các vụ việc sách nhiễu hoặc tấn công nhà báo giảm nhiều, sự gia tăng số lượng báo chí tư nhân và việc một số nhà báo lưu vong có thể trở về nước.

Hoa Kỳ xuống hạng

Trên phạm vi toàn cầu, ba quốc gia thuộc bán đảo Scandinavia là Phần Lan, Na Uy và Thụy Điển là những nước có nền báo chí tự do nhất trên thế giới.
Hầu hết các quốc gia nắm giữ những vị trí đầu trên bảng xếp hạng đến từ châu Âu.
Hoa Kỳ bị đánh tụt xuống hạng 22 trong năm nay do cách hành xử mạnh tay của cảnh sát nước này đối với các nhà báo đưa tin về các cuộc biểu tình phản đối ‘Chiếm phố Wall’ trong năm 2011, Freedom House cho biết.
Trước đó, hồi tháng Giêng năm nay thì tổ chức Nhà báo không biên giới cũng giảm thứ hạng của Hoa Kỳ từ 20 xuống đến vị trí 47 về tự do báo chí cũng với lý do tương tự.
Ý là trường hợp quốc gia Tây Âu hiếm hoi không nằm trong nhóm có tự do báo chí.
Freedom House đánh giá Ý chỉ ‘có tự do phần nào’ do ảnh hưởng sâu rộng của cựu Thủ tướng Silvio Berlusconi đối với truyền thông.
Trong khi đó, cuộc cách mạng Mùa xuân Ả Rập đã giải phóng cho báo chí ở một số nước như Ai Cập, Tunisia và Libya.
“Môi trường báo chí vừa được mở ra ở các quốc gia như Tunisia và Libya… có vai trò trọng yếu đối với tương lai phát triển dân chủ ở khu vực và cần phải được bảo vệ và nuôi dưỡng,” Chủ tịch Freedom House David J. Kramer nói.
Một số nhà báo Việt Nam đã vướng vòng lao lý
Trong tổng số 197 quốc gia được khảo sát, có 66 nước được xếp hạng ‘có tự do’, 72 nước ‘tự do một phần’ và 59 nước ‘không có tự do báo chí’.
Tuy nhiên, do sự hiện diện của Trung Quốc, một trong những quốc gia đàn áp báo chí tinh vi nhất, nên tính trên bình diện toàn cầu thì có đến 40,5% dân số thế giới sống trong môi trường không có tự do báo chí so với 14,5% dân số ở chiều ngược lại.
Freedom House là một tổ chức phi chính phủ có trụ sở ở Hoa Kỳ được thành lập vào năm 1941 chuyên tiến hành các hoạt động nghiên cứu và cổ súy dân chủ, tự do chính trị và nhân quyền.
Bản phúc trình cũng lưu ý xu hướng báo chí ngày càng tự do trên thế giới thể hiện trong các kết quả khảo sát qua từng năm: số lượng quốc gia bị đánh giá là không tự do đã giảm từ 86 vào năm 1981 xuống còn 59 nước vào năm 2011.
Nguồn: BBC Tiếng Việt


“Nếu bọn họ định ép tôi nói, thì tôi chẳng thèm nói gì với họ cả”

Tác giả: Brice Pedroletti
Người dịch: Đại Phúc
30-04-2012
Sáng 30 tháng 4, Hồ Giai nói qua điện thoại với báo Le Monde về việc ông bị giam giữ 24 tiếng đồng hồ, từ chiều thứ bảy đến chiều chủ nhật vì mấy ngày trước đó ông có gặp Trần Quang Thành, nhà bất đồng khiếm thị đang lánh nạn từ hôm thứ năm trong đại sứ quán Hoa Kỳ. Hồ Giai,  39 tuổi, vừa được trả tự do hồi tháng 6 năm 2011 sau ba năm rưỡi bị tù giam vì tội “Kích động lật đổ Nhà nước”, và vẫn đang trong giai đoạn bị mất quyền công dân, song ông vẫn luôn luôn coi mình là có quyền tự do biểu đạt ý kiến trên các mạng xã hội hoặc trên các phương tiện thông tin đại chúng, vì đó là các “quyền hợp hiến” của ông.
Có hai người đã giúp Trần Quang Thành đi trốn: một trí thức Bắc Kinh tên là Guo Yushan và một nhà hoạt động xã hội nữ ở Nam Kinh tên là He Peirong. Báo chí hiện không bắt liên lạc được với hai người này và có thể họ đều đã bị bắt. Người thứ nhất lãnh đạo tổ chức phi chính phủ có tên Viện chuyển tiếp và đã giúp Trần Quang Thành điều tra những bạo lực do chính sách một con gây ra ở Liêu Ninh (Sơn Đông) hồi năm 2005. Ông này không ngừng giúp đỡ cho nhà bất đồng khiếm thị và đã công bố vào năm 2011 một kháng nghị trong đó có chứa nhiều thông điệp có hình ảnh của các nhà trí thức Trung Hoa yêu cầu thả ông.
He Peirong (bí danh trên Internet của cô là Ngọc), là một nữ giáo viên tiếng Anh trẻ tuổi ở Nam Kinh, là người đã nhiệt thành đi theo chính nghĩa của luật gia chân đất Trần Quang Thành.  Nhiều lần cô đã đến sát làng Dongshigu nơi Trần Quang Thành sinh sống cùng gia đình, ở đây cô tổ chức ghi lại hình ảnh để chuyển lên Internet về các vụ đụng độ với công an nhờ các người dùng internet tìm cách chọc tức cho cảnh sát địa phương tới đàn áp. Chính cô đã đi tìm Trần Quang Thành ở Dongshigu sau khi ông này leo trốn qua tường nhà mình hôm chủ nhật và sau đó bí mật đến nơi ẩn náu trong nhiều giờ đồng hồ. Nhiều ngày sau đó lính gác vẫn chẳng hay biết gì về vụ Trần Quang Thảnh bỏ trốn.
Ông bị bắt giữ trong hai mươi bốn giờ, vụ này diễn ra như thế nào, thưa ông Hồ Giai?
Tôi bị bắt đi hôm thứ bảy hồi 17 h 30 (trên giấy tờ họ ghi 17 h50), và được thả lúc 17 h 50 chiều hôm qua [chủ nhật]. Tôi được dẫn tới trụ sở công an Zhongcang, quận Dongcheng thành phố Bắc Kinh, nhưng Cục 1 của cơ quan An ninh Quốc gia làm vụ này (họ không nói với tôi như vậy, nhưng nghe họ nói với nhau thì tôi biết). Mục đích của họ là muốn biết rõ Trần Quang Thành đã trốn khỏi Dongshigu hồi nào, làm cách nào đón được ông ấy và ông ta lẩn trốn ở đâu khi tới Bắc Kinh, ông ấy vào sứ quan Hòa Kỳ khi nào và tôi trông thấy ông ấy vào hồi nào.
Ông được họ đối xử ra sao?
Ban đầu bọn họ không được tử tế lắm. Có hai cảnh sát hình sự hỏi cung tôi. Họ triệu tập tôi để hỏi chuyện an ninh chính trị, nhưng họ cử người của hình sự tới làm việc! Họ tới với vẻ vênh vang xấc xược, nói với tôi như lên lớp dạy dỗ tôi. Tôi phản công lại, và họ dần dần cũng nhũn đi. Tôi không bị tra tấn, nhưng họ không cho tôi nghỉ mặc dù tôi bị sơ gan và tôi cần được nằm dài nghỉ ngơi. Khi biết là cuộc điều tra sẽ kéo dài tới 24 thay vì 8 giờ, tôi yêu cầu được nghỉ ngơi. Họ không đồng ý. Tôi ném mũ đang đội đầu lên bàn của họ.
Sau rồi họ phải cho tôi nằm trên một chiếc ghế băng ở ngoài hành lang và tôi nằm đó ngủ được chừng ba tiếng đồng hồ, thé thôi. Nhưng ngoài hành lang thì lạnh, đèn lại sáng trưng, người qua lại ầm ầm, thực sự tôi không ngủ được. Cái lối không cho nghỉ cũng là một thứ tra tấn. Họ hỏi cung tôi và hỏi thay cho cả những người khác nữa (trong mạng hoạt động). Nhưng tôi nói ngay với họ rằng Trần Quang Thành là một công dân tự do, cũng như He Peirong và Guo Yushan [hai nhà hoạt động khác đã tổ chức chuyến đi Bắc Kinh cho Trần Quang Thắng).
Cục 1 của cơ quan An ninh Quốc gia cũng cho là không có điều luật nào bị vi phạm kể từ khi Trần Quang Thành đi khỏi Sơn Đông cho tới khi ông ầy vào sứ quan Hoa Kỳ. Công an không có quyền can thiệp vào quyền riêng tư của công dân. Chính vì thế mà họ thấy thiếu cơ sở chắc chắn để hỏi cung tôi. Nên họ giải thích cho tôi đây chỉ là “tìm thông tin” và tìm những “xác nhận” mà thôi. Ngay cả khi họ ép buộc tôi nói, thì tôi cũng chẳng nói gì với họ hết. Nhưng họ không ép.
Nhưng khi họ hỏi tôi điều này thì tôi thấy ngạc nhiên "Trần Quang Thành gặp đại sứ Hoa Kỳ Gary Locke khi nào?" Tôi chưa biết rõ liệu đó có nghĩa là bọn an ninh đã biết là hai người đó đã gặp nhau, hay đó là câu hỏi để thăm dò xem tôi có biết gì không. Kể từ buổi chiều hôm thứ năm, Trần Quang Thành đã trốn được vào sứ quán Hoa Kỳ, vì chiều hôm đó người ta đã thấy ông ấy đi cùng Guo Yushan. Có cả một chiếc xe hơi đuổi theo họ nữa. Còn tôi, hôm thứ sáu, tôi có đi ngang sứ quan Hoa Kỳ, nhưng tôi không vào đó. Công an theo dõi sát tôi, tất họ biết, vậy đó là câu hỏi ngu xuẩn.
Về nguyên tắc, ông vẫn còn chưa được hưởng đủ quyền công dân kiể từ sau khi ra tù vào tháng sáu năm 2011. Điều đó có những hệ quả gì?
Họ cho biết họ triệu tập tôi vì tôi vi phạm các quy định của thời kỳ quản thúc. Lý ra tôi không được trả lời phỏng vấn của các cơ quan truyền thông nước ngoài. Họ nói tôi đã trả lời đài RFI của Pháp, trong khi thực ra tôi đã trả lời ít ra là hơn chục lần, có khi hai chục ấy.
Tôi trả lời họ rằng điều bó buộc này không cho trả lời các cơ quan thông tin truyền thông nước ngoài xuất xứ từ Luật thủ tục tố tụng hình sự và các quy định của Bộ Công an, thế nhưng Hiến  Pháp lại quy định tôi có quyền phát biểu ý kiến và phê phán, được nói rõ những gì tôi mong muốn. Tôi có quyền phơi bày những vi phạm các quyền con người của chính quyền địa phương chẳng hạn.
Ông không sợ nếu cứ tiếp tục phát biểu thì sẽ bị trả thù à?
Tôi đã ở tù ba năm rưỡi. Tôi không có ý muốn quay trở lại chốn đó. Nhưng mặt khác, sau khi đã trải qua những thứ đó, tôi thấy mình chẳng còn sợ cái gì sất. Hiển nhiên là sức khỏe tôi không tốt, nhưng ngay cả khi họ giam tôi mười lăm ngày đi, so với 277 ngày trong tù, thì chả là cái gì hết! Tôi lo ngại hơn hết là cho vợ tôi cho con gái tôi và cho mẹ tôi. Gần mười năm qua họ đã sợ hết vía cho tôi rồi.
Bữa kia, khi họ bắt tôi đi, đứa con gái bé bỏng của tôi đã thấy hết. Cháu hỏi: "Ba đi đâu hả má?" Vợ tôi bảo cháu là tôi ra bờ sông chơi. Con gái tôi nói: "Không phải!" Không ai còn có thể nói dối cháu được nữa. Khi tôi ở tù, mỗi lần cùng cháu đi thăm tôi, vợ tôi bảo tôi đang ở Nhà trông giữ người lớn tuổi. Cháu nói: "Chỉ cần ba thay quần áo, thì ba sẽ về nhà với mẹ con mình!". Không ai nói cho cháu biết, nhưng tự cháu biết hết. Tôi thực sự lo sẽ tạo ra một bóng đen trong trái tim non nớt ấy.
Việc ông gặp Trần Quang Thành diễn ra như thế nào?
Cảnh sát hỏi tôi xem tôi gặp Trần Quang Thành khi nào. Nhưng họ không quan tâm tới nội dung hai chúng tôi nói gì với nhau. Khi gặp ông, tôi vô cùng phấn khích đến độ bây giờ nghĩ lại vẫn thấy mình đang còn run lên này. Ông ôm chặt lấy tôi, ôm rất chặt, đến độ ông nhấc bổng tôi lên. Ông bị bệnh nặng: kể từ năm 2006, ông đi ngoài ra máu, và không được chữa chạy gì sau khi ra tù [tháng chín năm 2010], tất cả chúng tôi đều lo cái đó sẽ chuyển thành ung thư. Tôi cũng nhìn thấy những vết thương trên dùi và trên người ông. Nhưng cơ thể ông lúc nào cũng cực kỳ khỏe mạnh và ông rất vững vàng.
Ông có tin tức gì về Guo Yushan và He Peirong, những người đã giúp Trần Quang Thành trốn khỏi nhà ông ấy?
Tôi không làm cách gì liên hệ được với Guo Yushan hoặc He Peirong. Tôi lo cho hai người lắm. Như trường hợp tôi, bọn họ không vi phạm bất kỳ luật lệ nào. Bọn an ninh cũng không có cớ gì để hạn chế tự do của hai bạn đó. Nhưng đó lại có thể là điều tồi tệ hơn cả, họ có thể bị “mất tích”: tôi đã từng được nếm chuyện ” mất tích” trong bốn mươi mốt ngày (năm 2006). Thời kỳ đó, họ hành hạ tôi ghế gớm lắm.
Cô He Peirong đã mất tích từ 11giờ10 sáng thứ sáu, tình đến lúc này là 72 tiếng đồng hồ rồi. Lần cuối cùng tôi liên lạc được với anh Guo Yushan là hồi 22 giờ đêm thứ sáu, sau đó thì không có dấu tích gì của anh kể từ sáng thứ bảy. Guo Yushan bị theo dõi từ chiều thứ năm. Anh ở trong các khách sạn để tránh rắc rối. Tôi vô cùng khâm phục những gì hai bạn đó đã làm. Huynh đệ thực sự là thế đấy.
Khi cô He Peirong biết chuyện điện thoại của Guo Yushan bị cắt, sáng thứ sáu cô lên mạng gửi một tin trên trang Tweet để nhận về mình toàn bộ trách nhiệm vụ cứu Trần Quang Thành, dù biết rằng điều đó khiến cô gặp vô vàn nguy cơ. Về phần mình, để bảo vệ cô, anh Guo Yushan cũng viết các thông điệp nói rõ anh là người tổ chức mọi chuyện, cô không dính dáng chút gì hết!
Nguồn: Le Monde

Foreign Policy

Làn sóng phản ứng các căn cứ Mỹ trên biển Đông

Đâu sẽ là nơi Lầu Năm Góc đặt căn cứ thủy quân lục chiến trong vùng Thái Bình Dương?
Tác giả: Robert Haddick
Người dịch: Nguyễn Tâm
27-04-2012
Tin tức tuần này cho hay, cuối cùng Mỹ đã đạt được thỏa thuận cắt giảm quân số lực lượng thủy quân lục chiến trú đóng tại đảo Okinawa (Nhật), và cuộc giằng co vẫn tiếp diễn trên biển Đông giữa tàu tuần duyên Philippines và tàu hải giám Trung Quốc, nay bước sang tuần thứ ba, đã làm cho tình hình thêm nóng.
Sự cố phát sinh từ đầu tháng 4 khi lực lượng trên một tàu chiến nhỏ của Philippines cố chặn bắt một số ngư dân Trung Quốc đang đánh bắt thủy sản trái phép gần bãi cạn Scarborough trong vòng tranh chấp, cách đảo Luzon của Philippines 124 dặm về phía tây bắc. Trung Quốc nhanh chóng điều hai tàu hải giám đến hiện trường, ngăn cản việc bắt giữ, và giải thoát thành công ngư dân của mình. Sau đó, Trung Quốc đã rút bớt một tàu và Manila thay tàu chiến bằng một tàu tuần duyên, cuộc khủng hoảng lắng dịu được đôi chút. Tại Bắc Kinh, đại biện Philippines hai lần bị triệu tập đến Bộ Ngoại giao Trung Quốc để nghe giải thích vì sao bãi đá ngầm đang tranh chấp này lại hoàn toàn thuộc về “lãnh thổ không thể tách rời” của Trung Quốc.
Trong bối cảnh đó, cuộc tập trận quân sự mang tên “Balikatan 2012″ của Mỹ-Philippines kéo dài 10 ngày đã bắt đầu từ ngày 16 tháng 4. Cuộc tập trận định kỳ hàng năm lần thứ 28 này gồm nhiều nội dung diễn tập khác nhau, trong đó có cuộc tiến công giả định tái chiếm một hòn đảo bởi lực lượng thủy quân lục chiến Mỹ và Philippines, được tiến hành vào ban ngày cho đông đảo phóng viên tường thuật trên đảo Palawan, nhìn ra biển Đông. Bên cạnh các lực lượng quân sự Mỹ và Philippines, tập trận Balikatan 2012 còn có nội dung diễn tập bộ chỉ huy, tiến hành cùng với các đại diện từ Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).
Nhân dịp những sự kiện nói trên, Tổng thống Philippines Benigno Aquino đã cảnh báo các nước láng giềng về sự gây hấn của Trung Quốc tại biển Đông. “Trên thực tế, họ (Trung Quốc) tuyên bố chủ quyền toàn bộ vùng biển này. Hãy nhìn những gì họ đang yêu sách chủ quyền và những gì còn lại”, ông Aquino nói với các phóng viên khi ông chỉ vào một bản đồ khu vực. “Thế thì làm sao các nước khác không khỏi lo ngại về những gì đang xảy ra”. Sau khi cuộc tập trận quân sự kết thúc, vị ngoại trưởng của chính phủ Aquino sẽ bay đi Washington để tham vấn với các quan chức Mỹ.
Nếu ông Aquino và các vị đồng nhiệm trong ASEAN có đủ tự tin đương đầu với Trung Quốc, những ai phản đối yêu cầu có thêm sự ủng hộ về mặt ngoại giao của Mỹ chỉ là con số nhỏ. Thực vậy, hồi năm 2010, khi một vài thành viên ASEAN công khai chỉ trích Bắc Kinh ở hai phiên họp Diễn đàn An ninh Khu vực (ARF) tổ chức tại Hà Nội, ngoại trưởng Hillary Clinton và bộ trưởng quốc phòng Robert Gates có mặt tại đây đã lần lượt lên tiếng ủng hộ lập trường của các nước này. Kể từ đó, lãnh đạo các nước Đông Nam Á, vốn đang nỗ lực đối phó với những đòi hỏi chủ quyền từ phía Trung Quốc, dường như đã hâm nóng ý tưởng về việc cần sự hiện diện quân sự rõ ràng hơn của Mỹ trong khu vực. Đối với biển Đông, điều này có nghĩa cần sự hiện diện của hải quân và thủy quân lục chiến Mỹ nhằm hỗ trợ các đối tác của Washington trong khối ASEAN. Thách thức đối với các các nước trong cuộc là, làm thế nào để bố trí sự hiện diện quân sự hỗ trợ này, không những đáng tin cậy mà phải bền vững về mặt chính trị.
Đáng tiếc, Lầu Năm Góc vẫn chưa xác định nơi sẽ đặt căn cứ cho các đơn vị thủy quân lục chiến trong vùng Thái Bình Dương. Một công việc vẫn đang tiến hành từ thập niên 1990 là kế hoạch lập căn cứ lâu dài cho lực lượng thủy quân lục chiến Mỹ, hết bản kế hoạch này đến bản kế hoạch khác bị hủy bỏ, trong đó phải kể đến sự thất bại khi không di dời được căn cứ Mỹ ra khỏi Okinawa hồi năm 2010, khiến thủ tướng Nhật lúc đó [ông Yukio Hatoyama] phải từ chức. Các đối tác của Mỹ xung quanh khu vực biển Đông muốn có một sự hiện diện ổn định của Mỹ trong khu vực, đó cũng là điều Mỹ muốn thực hiện. Thế nhưng, Lầu Năm Góc không thể cho biết chính xác làm thế nào Mỹ có thể đảm đương sứ mệnh này cho đến khi Mỹ xác định rốt ráo nơi sẽ là địa điểm thực sự cho lực lượng thủy quân lục chiến lập căn cứ.
Hiện nay, các nhà hoạch định đồng ý rằng sự hiện diện của thủy quân lục chiến Mỹ trên đảo Okinawa nên được thu hẹp. Bản kế hoạch năm 2006 đề xuất chuyển 8.600 lính thủy quân lục chiến và 9.000 thân nhân theo cùng đến đảo Guam, cách Okinawa 1.500 dặm về phía đông nam, với khoản chi phí xây dựng hoàn tất lên đến 21,1 tỷ USD. Sự hiện diện của thủy quân lục chiến Mỹ trên đảo Okinawa đã trở thành vấn đề quá đau đầu về phương diện chính trị đối với chính phủ Nhật. Thêm vào đó, một số nhà phân tích quân sự lo ngại trường hợp xảy ra chiến tranh với Trung Quốc, các cuộc tấn công bằng tên lửa sẽ khóa chặt các hải cảng và căn cứ không quân của Mỹ trên đảo Okinawa, ngăn chặn lực lượng trên bộ của thủy quân lục chiến Mỹ triển khai quân đến những nơi cần thiết. Trong khi đó, phí tổn để xây căn cứ quy mô lớn tại Guam đã vượt quá cao, sẽ gây nên tình trạng tập trung quá nhiều nguồn lực vào một địa điểm. Năm ngoái, các thượng nghị sĩ Carl Levin, John McCain và James Webb đã phản đối kế hoạch Guam, và yêu cầu soạn lại một kế hoạch khác.
Kế hoạch mới nhất giảm bớt quân số thủy quân lục chiến chuyển đến Guam xuống còn 4.700 lính, và 2.700 lính còn lại sẽ chuyển đến các căn cứ hiện có tại Hawaii. Kế hoạch này sẽ giúp giảm bớt chi phí xây dựng tại Guam cho Lầu Năm Góc. Tuy nhiên, các thượng nghị sĩ Levin, McCain và Webb vẫn muốn biết đề xuất lập căn cứ mới đây “có liên quan thế nào đến quan điểm chiến lược mở rộng hơn các hoạt động của quân đội Mỹ trong khu vực”.
Triển khai sự hiện diện tích cực tại những nơi như biển Đông, ứng phó với các cuộc khủng hoảng quân sự và nhân đạo sẽ là sứ mệnh chủ yếu của thủy quân lục chiến Mỹ trong vùng Thái Bình Dương. Làm thế nào có được căn cứ tốt nhất cho các đơn vị thủy quân lục chiến Mỹ để họ hoàn thành nhiệm vụ vẫn là vấn đề chưa giải quyết được.  
Tổng thống Aquino có vẻ hoan nghênh sự tăng cường binh lực Mỹ chung quanh Philippines. Nhưng điều đó không có nghĩa ông ấy muốn có sự hiện diện trở lại những căn cứ khổng lồ mang tính áp đặt chính trị của Mỹ từng hoạt động trên lãnh thổ Philippines cho đến năm 1992, thời điểm mà sự đồng thuận chính trị của quốc gia này buộc các lực lượng Mỹ phải ra đi. Có khả năng đa số cộng đồng dân cư trên đảo Okinawa sẽ theo đuổi việc kiện ra tòa nếu họ có thẩm quyền làm điều đó.
Con đường chính trị ít vấp phải sự chống đối nhất sẽ là tái bố trí các đơn vị hoạt động ở nước ngoài trở về các căn cứ trên đất Mỹ (là điều hầu hết các nghị sĩ quốc hội sẽ hoan nghênh), sau đó các đơn vị này sẽ được vận chuyển bằng đường biển hoặc đường hàng không đến các địa điểm triển khai quân tương đối ngắn hạn và tập trận tại các quốc gia đối tác. Darwin (Úc) là nơi đã và đang chuẩn bị đón nhận một lực lượng lên tới 2.500 lính thủy quân lục chiến Mỹ đến triển khai luân phiên 6 tháng mỗi lần. Philippines có thể sớm trải thảm chào đón các lực lượng Mỹ với cách thức tương tự. Tiếp theo có thể là các nước khác trong khu vực.
Bên cạnh giảm bớt tác động tiêu cực của những căn cứ lớn ở nước ngoài như Okinawa và Philippines trước đây, cách triển khai quân luân phiên còn có một số lợi ích khác: Nó tạo điều kiện cho các nhà hoạch định và lực lượng quân sự Mỹ quen với tư duy viễn chinh. Giới chuyên gia hậu cần sẽ phải cải thiện hơn nữa những kỹ năng hết sức phức tạp trong công tác vận chuyển các đơn vị quân đội đi khắp thế giới, những kỹ năng này luôn hữu ích trong những cuộc khủng hoảng. Các đơn vị quân đội Mỹ sẽ phải học cách trở nên linh hoạt hơn, thích nghi tốt hơn và nhanh nhẹn hơn, nâng cao năng lực ứng phó với những cuộc khủng hoảng. Với cách triển khai quân theo mô hình chuẩn nói trên, quân nhân Mỹ sẽ trở nên quen thuộc với các đối tác nước ngoài khác nhau nhiều hơn so với lúc đóng căn cứ cố định. Khi không triển khai quân, các đơn vị này sẽ trở về căn cứ tại Mỹ, nơi có những cơ sở huấn luyện tốt hơn, gần gũi với gia đình hơn khi đóng quân ở nước ngoài.  
Cách triển khai quân này cũng có những rủi ro. Lực lượng không quân và hải quân Mỹ sẽ đối mặt với những thách thức gia tăng từ các loại tên lửa tầm xa, đối không và đối hạm. Khả năng một số lực lượng thù địch sử dụng tên lửa để áp đặt chiến thuật “chống tiếp cận, phong tỏa khu vực”, chống lại sự chuyển quân của các lực lượng Mỹ đến tăng cường tại khu vực khủng hoảng, sẽ đặc biệt gây khó khăn cho mô hình triển khai này. Xét từ viễn cảnh ngoại giao, một số nước sẽ đặt câu hỏi liệu chiến lược của Mỹ, dựa trên mô hình triển khai quân từ xa, giảm bớt sự hiện diện quân sự thường trực, có đủ trấn an các quốc gia đối tác đang trong tình trạng căng thẳng bởi một nước láng giềng hùng mạnh như Trung Quốc.
Trước nguy cơ bị tên lửa tấn công ngày một tăng, các tư lệnh chiến trường Mỹ có thể thích sự linh hoạt theo mô hình viễn chinh hơn là đặc điểm dễ bị tấn công của các căn cứ cố định – chẳng hạn như căn cứ tại Okinawa – hoàn toàn nằm trong tầm bắn dễ dàng của các tên lửa Trung Quốc. Kế hoạch tái bố trí mới chuyển quân đến Guam với quy mô tinh gọn hơn, ước tính sẽ vẫn tiêu tốn đến 8,6 tỷ USD, sẽ chi dùng vào việc xây doanh trại, nhà ở cho gia đình binh sĩ, thao trường tập bắn. Thay vì xây thêm căn cứ cố định khác đang ngày càng dễ bị tấn công, Lầu Năm Góc nên xem xét dùng số tiền này trang bị thêm các loại tàu đổ bộ dành cho thủy quân lục chiến và các tàu khu trục chống tên lửa nhằm bảo vệ lực lượng này. Điều đó sẽ tăng cường tính linh hoạt và sự hiện diện tích cực của lực lượng thủy quân lục chiến Mỹ, giúp củng cố niềm tin của các đối tác đồng minh và cả những tư lệnh quân đội Mỹ trong khu vực.  
Nguồn: Foreign Policy

THÔNG TẤN XÃ VIỆTNAM

TRIỂN VỌNG QUAN HỆ ĐỐI TÁC CHIẾN LƯỢC NGA – TRUNG

Tài liệu tham khảo đặc biệt
Thứ năm, ngày 26/4/2012
TTXVN (Mátxcơva 20/4)
“Báo Độc Lập” (Nga) mới đây đăng bài của tác giả Iuri Tavrovski, nhà nghiên cứu chính trị – chuyên gia phương Đông học phân tích và dự báo triển vọng phát triển của “quan hệ đối tác chiến lược giữa Nga và Trung Quốc sau khi ở hai nước có sự thay đổi lãnh đạo cấp cao nhất, như sau:
Trong năm nay, ở Nga và Trung Quốc đều sẽ có sự thay đổi những người đứng đầu đất nước. Sự thay đổi như vậy thường dẫn đến việc nếu không xem xét lại, thì cũng điều chỉnh chính sách đối ngoại. Liệu quan hệ giữa Mátxcơva và Bắc Kinh có gì thay đổi?
Câu nói “mối quan hệ giữa Nga và Trung Quốc đang ở mức cao nhất trong lịch sử” đã trở thành câu thông dụng. Câu nói này thường được các nhà lãnh đạo của cả hai nước, các chuyên gia và các phương tiện truyền thông sử dụng. Thực tế đúng là như vậy, nếu xem xét không phái là toàn bộ lịch sử 400 năm quan hệ giữa Nga và Trung Quốc, mà xem xét thời kỳ trong khoảng 50 năm, ngay sau Đại hội XX Đảng Cộng sản Liên Xô và sự chỉ trích trong đó tệ sùng bái cá nhân Stalin, những bất hòa về hệ tư tưởng giữa Nikita Khrushchev và Mao Trạch Đông làm cho mối quan hệ song phương trở nên lạnh nhạt. Nhưng điều này hoàn toàn không đúng, và thậm chí không phải như vậy, nếu chúng ta nhớ lại một thời kỳ khác – thời kỳ từ khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời vào năm 1949 và tới thời điểm bắt đầu “đóng băng” các mối quan hệ giữa Liên Xô và Trung Quốc vào năm 1960. Trong khoảng thời gian này, hai bên đã xây dựng được các mối quan hệ còn lưu lại trong tâm trí của nhiều thế hệ người Nga và người Trung Quốc như là quan hệ anh em, còn trong các tác phẩm lịch sử, gọi là các mối quan hệ đồng minh.
Liên minh được củng cố bằng máu
Ngày 14/2/1950, bốn tháng sau khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập (1/10/1949), Liên Xô và Trung Quốc đã ký kết “Hiệp ước Hữu nghị, Liên minh và Tương trợ lẫn nhau”. Văn kiện này, được chuẩn bị với sự tham gia của Stalin và Mao Trạch Đông, đã hình thành Liên minh quân sự – chính trị. Trên thực tế, Liên minh này bắt đầu được hình thành từ những năm Trung Quốc tiến hành cuộc kháng chiến chống Nhật giai đoạn 1937-1945 và được củng cố trong thời gian nội chiến 1945- 1949. Theo Hiệp ước và các thỏa thuận liên quan, Liên Xô đã chuyển giao cho Trung Quốc quyền cùng quản lý tuyến đường sắt Trung Quốc – Trường Xuân, rút quân đội khỏi căn cứ hải quân chung ở Cảng Arthur, bàn giao tài sản của mình ở thành phố Dalni. Trong những năm tháng khó khăn nhất sau chiến tranh, Mátxcơva đã cho Bắc Kinh vay ưu đãi 300 triệu USD để xây dựng 50 cơ sở công nghiệp lớn. Hàng nghìn chuyên gia Liên Xô đã tham gia xây dựng và khôi phục những nhà máy, xí nghiệp hiện có của Trung Quốc. Các sinh viên, nghiên cứu sinh, các chuyên gia Trung Quốc đã sang học tập tại các trường đại học cua Liên Xô.
Năm 1952, thị phần của Liên Xô chiếm hơn một nửa kim ngạch ngoại thương của Trung Quốc. Các mối quan hệ đồng minh giữa Mátxcơva và Bắc Kinh đã được thử thách trong cuộc Chiến tranh Triều Tiên (1950- 1953) Trong những trận chiến đấu chống lại quân Mỹ và các đồng minh, lực lượng chí nguyện quân Trung Quốc đã tổn thất hơn một triệu binh lính và sĩ quan. Không chính thức tham chiến, Liên Xô hỗ trợ cho các lực lượng của Trung Quốc và Bắc Triều Tiên bằng cách cung cấp vũ khí, đạn dược, quân trang quân dụng. Mátxcơva cử cố vấn quân sự của mình tham gia các đơn vị quân đội, toàn bộ lực lượng không quân của Liên Xô đã tham gia các trận chiến trên không, bảo vệ các công trình quân sự quan trọng nhất ở Bắc Triều Tiên và Đông Bắc Trung Quốc.
Không phải ngẫu nhiên trong những năm 1953 – 1956 hệ tư tưởng giữa các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô và Đảng Cộng sản Trung Quốc đã xích gần lại nhau, quan hệ chính trị giữa hai nước được củng cố. Khi đó, các hiệp định về hỗ trợ trong việc xây dựng ở Trung Quốc 156 công trình công nghiệp lớn đã được ký kết, các khoản vay tín dụng tương ứng đã được cấp. Trung Quốc đã được viện trợ không hoàn lại cho 1.400 dự án của các xí nghiệp công nghiệp hiện đại và được chuyển giao hơn 24.000 bộ tài liệu khoa học – kỹ thuật khác nhau. Trên thực tế, hàng nghìn chuyên gia Liên Xô đã làm việc trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, đặc biệt là những ngành lần đầu tiên được tạo ra ở Trung Quốc (ngành chế tạo Ô tô, máy bay, máy kéo, ngành công nghiệp hạt nhân). Với công nghệ của Liên Xô, Trung Quốc bắt đầu chế tạo được bom nguyên tử vấn đề về thành lập hạm đội chung đã được thảo luận. Khối lượng hợp tác về quân sự, chính trị, kinh tế và khoa học — kỹ thuật là chưa từng có trong lịch sử hai quốc gia có chủ quyền. Đó là liên minh quân sự – chính trị thực sự.
Từ quan hệ đồng minh tới Chiến tranh Lạnh
Dấu ấn trong lịch sử vẻ vang, nhưng không dài, của mối quan hệ đồng minh là vào mùa Thu 1960, khi Liên Xô triệu hồi chuyên gia của mình về nước, còn Trung Quốc thì từ chối mua các thiết bị của Liên Xô. Những sự việc này xảy ra là do những nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó có việc các nhà lãnh đạo Liên Xô không muốn làm “cái Ô” cho những hành động không được thoả thuận với họ của các lực lượng vũ trang Trung Quốc ở eo biển Đài Loan và ở biên giới với Ấn Độ. Làn sóng phản đối ở Tây Tạng, Nội Mông và Tân Cương là hậu quả của nạn đói hàng loạt và những hậu quả khác của chính sách “Đại nhảy vọt”, gần 60 nghìn cư dân ở các huyện lân cận đã tràn qua biên giới các nước Cộng hòa Xôviết ở Trung Á, và các vụ vi phạm biên giới đã xảy ra ở các khu vực khác. Chẳng bao lâu, cuộc Chiến tranh Lạnh Trung – Xô đã bắt đâu, một vài lần xung đột đã gần tới ngưỡng chiến tranh thực sự trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa (1966 – 1976).
Lấy lại những năm đã mất
Chỉ tới mùa Xuân 1989, giai đoạn nguy hiểm và trái tự nhiên này đối với hai nước láng giềng mới kết thúc. Từ ngày 15 đến ngày 18/5/1989, Tổng thống Liên Xô Mikhail Gorbachev đã tới thăm Trung Quốc. Kết quả của chuyến thăm này là việc bình thường hóa quan hệ giữa hai nước. Việc này được ghi nhận trong Thông cáo chung. Chuyến thăm này có thể là sự khởi đầu không chỉ việc bình thường hóa, mà còn “đẩy nhanh” các mối quan hệ song phương. Trong điều kiện cuộc cải tổ bị ngưng trệ ngày càng rõ ràng, các giới chính trị ở Mátxcơva ngày càng quan tâm tới những cải cách có hiệu quả của Đặng Tiểu Bình – người nhấn mạnh các cải cách kinh tế cấp tiến trong khi vẫn duy trì sự ổn định chính trị.
Đồng thời, trong Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc, các nhà lãnh đạo có ảnh hưởng do Tổng Bí thư Triệu Tử Dương đứng đầu, muốn bắt đầu việc cải cách của mình với ưu tiên “tư duy mới”, “công khai” và những thay đổi chính trị khác gây ảnh hưởng tới những cải cách kinh tế. Những sự kiện trùng hợp với chuyến thăm lịch sử của ông Gorbachev tại Quảng trường Thiên An Môn đã đặt dấu chấm hết cho những giấc mơ này, còn thực tiễn chính trị đã cho thấy phương án phát triển nào là thành công. “Đẩy nhanh” đã không diễn ra, nhưng quá trình tháo dỡ cơ sở hạ tầng quân sự và tuyên truyền của Chiến tranh Lạnh bắt đầu, các khả năng cho sự xuất hiện những hình thức quan hệ mới giữa hai nước láng giềng đã được mở ra.
Sự sụp đổ của Liên Xô và “thời gian rối loạn” tiếp đó không thể không ảnh hưởng đến tốc độ phục hồi của các mối quan hệ giữa Nga và Trung Quốc. Tuy nhiên, vào năm 1992, sau chuyển thăm Trung Quốc của Tổng thống Nga Boris Yeltsin, “Tuyên bố chung về các cơ sở của sự hiểu biết lẫn nhau giữa Nga và Trung Quốc” đã được ký kết. Văn kiện này bảo đảm nền tảng vững chắc cho việc nhanh chóng thiết lập các mối quan hệ về thương mại, khoa học, thậm chí cả quân sự. Ở cả hai nước, những người còn nhớ tới thời kỳ thân thiện cũ vẫn giữ các vị trí có anh hưởng. Họ đã thúc đẩy để khắc phục tình trạng thiếu tin tưởng tích đọng trong xã hội, đã thoa thuận trao đổi các nhà khoa học, hợp tác ở vùng biên, mua bán các sản phẩm truyền thống. Hàng hoá của Trung Quốc giá rẻ, tuy chất lượng không phải lúc nào cũng tốt, đã đáp ứng được tình trạng thiếu hàng hóa trên các thị trường của Nga. Trung Quốc cũng bắt đầu nhận được nguyên vật liệu giá rẻ và sản phẩm chế tạo máy cần thiết cho ngành công nghiệp của mình. Thậm chí cả trong lĩnh vực nhạy cảm như buôn bán vũ khí, đã đạt được những kết quả chưa từng có. Chỉ từ năm 1992 đến năm 2008, Trung Quốc đã mua 25 tỷ USD vũ khí của Nga: 4 tàu khu trục và 12 tàu ngầm, gần 200 máy bay chiến đấu, trực thăng, hệ thống tên lửa. Việc sản xuất máy bay quân sự và kỹ thuật khác theo giấy phép của Nga đã được mở ra, tại các học viện quân sự (của Nga) đã xuất hiện trở lại các thính giả Trung Quốc, các cuộc tập trận chung quy mô lớn thường xuyên được tổ chức. Giữa Bộ Quốc phòng hai nước đã thiết lập đường dây nóng, lãnh đạo Bộ Tổng tham mưu hai nước thường xuyên tiến hành các cuộc tham vấn về những vấn đề an ninh chiến lược. Đỉnh cao của thập kỷ phục hồi quan hệ song phương đầu tiên là việc ký kết “Hiệp ước Hữu nghị, Hợp tác và Láng giềng thân thiện” ngày 16/6/2001 theo sáng kiến của Bắc Kinh.
Quan hệ đối tác chiến lược
Chính trên cơ sở văn kiện này, “quan hệ họp tác và đối tác chiến lược” đã được thông qua. Thật ra, công thức tương tự đã xuất hiện trong “Tuyên bố chung” được Tổng thống Yeltsin và Chủ tịch Giang Trạch Dân ký kết từ năm 1996, trong đó hai bên tuyên bố quyết tâm “phát triển mối quan hệ đối tác bình đẳng, tin cậy nhằm hợp tác chiến lược trong thế kỷ XXI”. Thuật ngữ ngoại giao lần đầu tiên được sử dụng khi đó đã trở thành mốt và được đưa vào hàng chục văn kiện khác mà Mátxcơva ký kết với các nước khác. Việc đó, tất nhiên, đã làm cho nó phần nào mất đi ý nghĩa. Tuy nhiên, Hiệp ước năm 2001 bao gồm các điều khoản làm cho cụm từ “quan hệ đối tác chiến lược” có ý nghĩa quan trọng. Điều 9 của Văn kiện này nói:
” Trong trường hợp nảy sinh tình hình, mà theo ý kiến của một trong các bên tham gia thỏa thuận, có thể đe dọa hòa bình, vi phạm hòa bình hoặc ảnh hưởng đến lợi ích an ninh, cũng như trong trường hợp xuất hiện mối đe dọa xâm lược đối với một trong các bên tham gia thỏa thuận, thì các bên tham gia thỏa thuận có trách nhiệm ngay lập tức tiếp xúc với nhau và tổ chức tham vấn để loại bỏ mối đe dọa nảy sinh”.
Trong gần 11 năm tồn tại của Hiệp ước, Điều khoản này chưa bao giờ được áp dụng trong thực tế, mặc dù, chẳng hạn, cuộc xung đột Nga – Grudia năm 2008 đã diễn ra trong những ngày Thủ tướng Vladimir Putin đang ở thăm Bắc Kinh. Và trong cuộc khủng hoảng giữa Trung Quốc – Nhật Bản ở khu vực quần đảo Điếu Ngư (Senkaku), quan hệ Trung – Mỹ căng thẳng do Mỹ cung cấp vũ khí cho Đài Loan, v.v.. Trung Quốc cũng không tham vấn Nga. Trong cụm từ “quan hệ đối tác chiến lược”, hai bên nhấn mạnh quan hệ đối tác, để lại các khía cạnh chiến lược đến những thời điểm tốt nhất (hoặc tồi tệ nhất).
Tiềm năng hợp tác quân sự ở khu vực, được đưa vào các văn kiện của Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO), tổ chức trên thực tế được thành lập gần như đồng thời với thời gian ký kết “Hiệp ước Hữu nghị, Hợp tác và Láng giềng thân thiện” năm 2001, cũng chưa được sử dụng. Ban đầu, người ta đánh giá SCO như là “NATO của lục địa Á – Âu”, như là sự đáp lại của Nga – Trung Quốc đối với sự dịch chuyển của khối EU – Đại Tây Dương vào các khu vực Trung Á và Trung Đông. Nhưng việc thành lập Trung tâm chống khủng bố tiếp theo, và các cuộc tập trận đã không diễn ra. Chẳng hạn, trong thời gian bùng nổ cuộc nội chiến ở Cưrơgưxtan năm 2010 cả Mátxcơva lẫn Bắc Kinh đều không nhớ tới các điều đã thoả thuận trong Tuyên bố về thành lập SCO: “Các quốc gia thành viên SCO tăng cường cơ chế tham vấn và phối hợp hành động trong các vấn đề khu vực và quốc tế, giúp đỡ và hợp tác lẫn nhau trong các vấn đề quốc tế và khu vực quan trọng nhất, cùng nhau củng cố hòa bình và sự ổn định trong khu vực…’’.
Số lượng chưa chuyển thành chất lượng
Gần 11 năm đã trôi qua kể từ khi ký kết Hiệp ước năm 2001, nhưng hai bên chủ yếu là mở rộng các thông số số lượng của quan hệ đối tác. Khối lượng thương mại tăng từ 8 tỷ USD năm 2000 lên gần 80 tỷ vào năm 2011. Trung Quốc đã trở thành đối tác thương mại chính của Nga. Đến năm 2015, kim ngạch thương mại có thể đạt tới 100 tỷ USD, và vào năm 2020 là 200 tỷ USD. “Chương trình hợp tác giữa các khu vực Viễn Đông, Đông Xibêri, với các tỉnh Đông Bắc Trung Quốc đến năm 2018” ký kết năm 2009, được thừa nhận đã có vai trò đáng kể trong việc đạt được các chỉ số này. Ngoài chương trình đầy tham vọng này, hơn 200 văn kiện khác nhau về hợp tác song phương đã được ký kết.
Nếu nói về các thông số chất lượng, thì bức tranh kém ấn tượng hơn. Thành tựu chính, không nghi ngờ, là việc giải quyết dứt điểm vấn đe biên giới trong năm 2005. Tuy nhiên, cả việc loại bỏ “quả bom nổ chậm” này lẫn việc tổ chức “Năm Hữu nghị của thanh niên”, “Năm Trung Quốc ở Nga” và “Năm Nga ở Trung Quốc”, “Năm tiếng Nga” và “Năm tiếng Trung”… cũng không thể khôi phục được sự quan tâm và cảm tình đối với nhau. Nói một cách đầy đủ rằng số lượng sinh viên Trung Quốc học tiếng Nga không tới 30 nghìn người, trong khi những người học tiếng Anh là trên 300 triệu! Có lẽ Năm du lịch Nga ở Trung Quốc và Năm du lịch Trung Quốc ở Nga (2012 – 2013) sẽ hiệu quả hơn, bởi số lượng các chuyến thăm lẫn nhau của người dân Nga và người dân Trung Quốc hiện nay là khoảng 3 triệu người/năm.
Có lẽ, những hậu quả của cuộc Chiến tranh Lạnh có vai trò của nó. Trong số những người dân thường của Trung Quốc, việc thể hiện tình cảm đối với nước Nga bị hạn chế bởi việc hát các bài hát Nga tại các quán bar karaoke. Ớ Nga, người ta quan tâm đến văn hóa của Nhật Bản hơn là quan tâm tới tìm hiểu những thành tựu của nền văn minh của “đối tác chiến lược Trung Quốc. Trong số các chuyên gia Trung Quốc, các chuyên gia về Nga, đặc biệt là các chuyên gia trẻ, sự tôn trọng đối với nước Nga hiện nay đối với nền kinh tế và chính trị của Nga đang giảm đi. Các nhà Trung Quốc học của Nga trung thành hơn, nhưng trong số họ, sự tức giận đang tăng lên bởi những bất đông mới trong giao tiếp với các đồng nghiệp và các nhà ngoại giao của Trung Quốc, những người được cho là “hết sức thành công”. Những nhà lãnh đạo các cơ quan độc quyền nhà nước thường giữ lập trường cứng rắn với các đối tác Nga tại các cuộc đàm phán.
Dường như, ở cấp lãnh đạo không phải tất cả mọi việc đều diễn ra tốt đẹp. Cho đến nay, Mátxcơva vẫn từ chối bán cho Bắc Kinh một số loại vũ khí mà họ quan tâm, trong khi lại bán cho Đêli. Bắc Kinh vẫn coi phần phía Nam quần đảo Kuril là lãnh thổ của Nhật Bản. Trong nhiều năm, tranh cãi về giá khí đốt mà Nga hy vọng xuất khẩu cho Trung Quốc vẫn tiếp tục. Các đại diện của Quân đội Trung Quốc, những người đã đóng góp to lớn vào việc đập tan quân Nhật – đồng minh của Đức Quốc xã, năm 2010 đã không được mời tham dự cuộc duyệt binh nhân Kỷ niệm lần thứ 65 Chiến thắng chủ nghĩa phát xít. Sau vài tháng, người ta “khuyên” Tổng thống Nga Dmitry Medvedev thăm mộ của những binh sĩ Nga ở Cảng Arthur, và ông bị giới hạn ở việc đặt vòng hoa tại Đài tưởng niệm những người Liên Xô tham gia các cuộc chiến tranh giai đoạn 1945-1953. Sự không ăn nhịp lại tiếp tục – chỉ mới gần đây, chuyến viếng thăm Mátxcơva của Phó Thủ tướng thứ nhất Quốc Vụ viện Trung Quốc Lý Khắc Cường, người một năm nữa sẽ trở thành Thủ tướng, đã bị hủy bỏ – Tổng thống Medvedev và Thủ tướng Putin không có thời gian để tiếp do “lịch trình dày đặc trước cuộc bầu cử”. Thế nhưng Tổng thống Mỹ Barack Obama và các quan chức hàng đầu của Chính phủ Mỹ, mặc dù ở Mỹ cũng sắp diễn ra cuộc bầu cử, lại có thời gian để gặp gỡ với Phó Chủ tịch nước Tập Cận Bình, người vào mùa Thu này sẽ lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc, và sau đó lãnh đạo Nhà nước Trung Quốc, và cùng với Lý Khắc Cường tạo thành “bộ đôi”. Cả hai nhân vật này, theo thông lệ, sẽ nắm giữ quyền lực hai nhiệm kỳ 5 năm, thực hiện các chuyến công du tới các nước chủ chốt của thế giới, và Lý Khắc Cường muốn mở đầu chuyến viếng thăm tới Mátxcơva …
Liệu “thời kỳ vàng son” có bền vững? Tính tới kinh nghiệm của liên minh quân sự – chính trị trong những năm 1950 và Chiến tranh Lạnh trong những năm 1970, cần gọi mức độ quan hệ Nga-Trung Quốc đã đạt được, không phải là “cao nhất trong lịch sử quan hệ”, mà là “thời kỳ vàng son”. Hiện nay mức độ như vậy làm cho cả Mátxcơva và Bắc Kinh đều hài lòng. Xem xét các bài viết mang tính cương lĩnh của ông Putin, người sắp trở lại Điện Cremlin, thì những hy vọng lãng mạn của người tiền nhiệm của ông vào việc phương Tây hỗ trợ cho công cuộc hiện đại hóa của Nga để đổi lấy sự nhượng bộ trong chính sách đối ngoại, sẽ được điều chỉnh. Tuy nhiên, dường như người ta chưa có kế hoạch bù đắp những điều chỉnh này bằng những thay đổi về chất ở hướng Trung Quốc. Trong bài viết về Liên minh Âu – Á, tổ chức liên kết này được xem là “một phần không thể tách rời của châu Âu lớn, được thống nhất bởi các giá trị chung về dân chủ, tự do và pháp luật thị trường”. Trong khi đó, sự tương tác của Liên minh Âu – Á với Trung Quốc không được đề cập. Trong một bài viết có tính định hướng khác với tổng quan toàn bộ chính sách đối ngoại của Nga, có một vài đoạn nói về Trung Quốc. Nhưng qua đó thấy rõ rằng mặc dù muốn “mượn gió Trung Quốc thổi cánh buồm kinh tế của chúng ta (Nga)”, nhưng vẫn sử dụng tương đối hạn chế “gió từ phương Đông”, bài viết cho rằng: “Chúng ta cần tích cực hơn trong việc xây dựng các mối quan hệ hợp tác mới, đồng thời tranh thủ các khả năng công nghệ và khả năng sản xuất của các nước, thu hút – tất nhiên, với sự thông minh – tiềm năng của Trung Quốc nhằm mục đích phát triển kinh tế của khu vực Xibêri và Viễn Đông”.
Còn về sự hợp tác chính trị thì vẫn trong khuôn khổ hiện nay: “Chúng ta sẽ tiếp tục ủng hộ lẫn nhau trên trường quốc tế”. Tuy nhiên, việc bài báo được viết bằng ngôn ngữ không có đại từ, – đây là một chuyện, nhưng thực tế chính trị lại là một chuyện khác hoàn toàn.
Quan điểm đối ngoại của “bộ đôi” sắp cầm quyền của Trung Quốc hiện còn chưa rõ. ít nhất là trên báo chí công khai, họ không công bố nhũng bài viết của mình. Tuy nhiên, một lần tại một cuộc gặp gỡ với đồng bào của mình ở Mêhicô, ông Tập Cận Bình nói. về những phê phán của phương Tây đối với Trung Quốc: “Có một số người nước ngoài với dạ dày no đủ không tìm thấy việc gì làm tốt hơn là việc chọc ngoáy chúng ta. Thứ nhất, Trung Quốc không tham gia xuất khẩu cách mạng. Thứ hai, Trung Quốc không xuất khẩu đói nghèo. Thứ ba, Trung Quốc không làm cho các vị đau đầu. Vậy các vị muốn gì?”. Trong những năm 2008 – 2011, ông Tập Cận Bình đã thực hiện chuyến công du tới một số nước ở khu vực Đông Á, Trung Đông, Mỹ Latinh, châu Âu và khu vực Nam Á. Tháng 2 năm nay, ông đã tới thăm Mỹ. Năm 2010 ông thăm Mátxcơva và gặp gỡ với Tổng thống Medvedev và Thủ tướng Putin. Con gái ông đang học tập tại Đại học Harvard. Thủ tướng tương lai Lý Khắc Cường có ít kinh nghiệm trên diễn đàn quốc tế. Năm 2010, ông đã nói chuyện ở Davos, Thuỵ Sĩ, đã đi thăm một số nước đang phát triển. Ông chưa tới thăm Nga trên cương vị chính thức. Nhiều khả năng, trước hết “bộ đôi” này sẽ tiếp tục chính sách hiện nay, trong đó Nga được xếp ở vị trí ưu tiên thứ hai, sau Mỹ.
Như vậy, cả Mátxcơva lẫn Bắc Kinh đều không định nâng quan hệ “đối tác chiến lược” hiện nay lên một tầm cao hơn. Nhưng những khả năng có thể xảy ra sẽ buộc họ phải làm điều đó. Bởi rất có thể, phản ứng của phương Tây đối với sự trở lại ghế Tổng thống của ông Putin và việc điều chỉnh chính sách đối ngoại của Nga sẽ là việc kiềm chế chặt chẽ hơn toàn bộ các mối quan hệ quân sự, chính trị, kinh tế – thương mại, thông tin – truyền thông. Trước mắt, đối tượng kiềm chế là Trung Quốc. Việc Bắc Kinh khước từ thực hiện đòi hỏi của phương Tây – sớm nâng tỷ giá đồng nhân dân tệ và như vậy thừa nhận sự hạn chế chủ quyền chính trị, kinh tế, tài chính của họ – đã gây ra sự đánh giá lại có tính chiến lược mối quan hệ giữa phương Tây với Trung Quốc. Các đồng minh của Oasinhtơn vẫn đến Bắc Kinh để giành các hợp đồng và đầu tư có lợi, nhưng trên tàu chỉ huy của hải đoàn phương Tây, cờ hiệu chiến đấu đã được kéo lên. Chiến lược mới thay đổi trọng tâm của những chuẩn bị về quân sự ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương đã được tuyên bố, việc thành lập các liên minh chính trị và quân sự nhằm chống Trung Quốc đã bắt đầu, các hiệp ước quân sự hiện hành đã được khởi động, các căn cứ quân sự mới được thành lập. Dường như hai nhiệm kỳ tổng thống 6 năm có thể của ông Putin và hai nhiệm kỳ 5 năm của “bộ đôi” Tập cận Bình – Lý Khắc Cường sẽ diễn ra trong điều kiện Nga và Trung Quốc bị kiềm chế chặt chẽ hơn. Tình hình phát triển như vậy có thể sẽ thúc đẩy các nhà lãnh đạo và giới tinh hoa hai nước xác định rỗ hơn “mối quan hệ đối tác chiến lược”, và sau đó tạo ra các hình thức hợp tác mới./.