Tổng số lượt xem trang

Chủ Nhật, 28 tháng 2, 2016

Những công thức tốt để phát triển

Christian CHAVAGNEUX
Phát triển các nước phương Nam? Không có điều gì dễ hơn, IMF và Ngân hàng Thế giới khẳng định: các chính sách tự do, quản trị tốt và thế là xong. Bằng chứng: đây là cách thức mà nước Anh, ngày hôm qua, và Hoa Kỳ, ngày nay, đã trở thành bá chủ của thế giới. Hoàn toàn sai, Ha-Joon Chang, một nhà kinh tế tại Đại học Cambridge, đáp lại.
Từ lâu, các nước công nghiệp hóa lớn đã không chỉ coi thường chủ nghĩa tự do, mà đã tỏ thái độ từ một cấp độ phát triển các thể chế của họ mà ngày nay được coi là thảm hại. Thử lấy ví dụ của nước Anh. Cho đến giữa thế kỷ XIX, các ngành công nghiệp đã được xây dựng từ các chính sách thuế quan đặc biệt cao, như nhà sử học Paul Bairoch đã chỉ ra, và là người mà Chang lấy cảm hứng nhiều nhất. Và việc bãi bỏ Luật ngũ cốc (Corn Law) nổi tiếng vào năm 1846 (mở đường cho việc nhập khẩu nông sản) là bước đầu tiên cho một sự mở cửa dần dần nền kinh tế... một điều bị bắt đầu đặt lại vấn đề từ những năm 1880.
Paul Bairoch (1930-)

Cũng tương tự đối với Hoa Kỳ, nước chỉ thực sự bắt đầu mở cửa nền kinh tế sau chiến tranh thế giới lần thứ hai. Trước đây, nền kinh tế Mỹ là một nền kinh tế phát triển nhanh nhất trong giai đoạn 1800-1920, trong khi vẫn là một nền kinh tế bảo hộ nhất. Và sự can thiệp của nhà nước không dừng lại ở đó: tài trợ cho công tác nghiên cứu nông nghiệp, phát triển các cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, v.v.. Người ta còn xa lạ với các khái niệm Nhà nước tối thiểu và mở cửa thương mại bắt buộc mà IMF và Tổ chức Thương mại Thế giới đã yêu cầu!
Ngoài ra, một khi đã thiết lập được ưu thế, nước Anh tìm cách ngăn cản sự phát triển của các nước thuộc địa của họ (đặc biệt là Hoa Kỳ) bằng cách làm cho những nước này quanh quẫn trong việc xuất khẩu các sản phẩm sơ cấp. Đối với những nước độc lập hơn, nước Anh đã sử dụng quyền lực chính trị của mình để buộc họ ký kết các hiệp định thương mại tự do, áp đặt các mức thuế quan thấp đối với các sản phẩm của nước Anh (điều mà ngày nay Hoa Kỳ đòi hỏi qua sự trung gian của các định chế quốc tế...). Đối với các nước đối thủ cạnh tranh, nước Anh tìm cách ngăn chặn sự ra đi của các kỹ sư và các máy móc thiết bị của họ sang các nước khác (để đáp trả lại phát triển hoạt động gián điệp công nghiệp, mua chuộc các nhân viên kỹ thuật bỏ việc...). Từ đó mà phát sinh ý tưởng chủ đạo của Chang: các nước giàu nhất luôn tìm cách rút cầu thang dưới chân những nước có thể leo lên con đường giống họ để bắt kịp họ.
Ha-Joon Chang (1963-)
Điều này đúng với các chính sách thương mại: các nước phương Nam bị ngăn cản thực hành chủ nghĩa bảo hộ và sự can thiệp của một Nhà nước mạnh, điều đã giúp các nước lớn hiện nay phát triển. Điều này cũng đúng ở cấp độ thể chế. Lướt qua trạng thái của các thể chế chính của các nước giàu có tại thời điểm phát triển của họ, Chang chỉ ra một nền dân chủ không có thật hoặc mang tính cục bộ, vị trí thẩm phán được mua bán bởi những người giàu nhất, quyền sở hữu trí tuệ chỉ mới trỗi dậy, sự hình thành các tập đoàn nhiều vô kể, hầu như không có các ngân hàng, các ngân hàng trung ương tối thiểu và chịu ảnh hưởng nặng nề của thế lực chính trị, nguồn thu về thuế thấp, v.v.. Toàn những điều trái với các chuẩn mực của quản trị giỏi! Theo nguyên tắc "làm theo những gì tôi nói và không làm theo những gì tôi làm", người ta muốn các nước phương Nam tái tạo lại – và gần như tức thì – những thể chế mà các nước giàu ngày nay đã mất hàng thế kỷ để xây dựng và nay hiện lên như là kết quả hơn là nguyên nhân của sự phát triển đó. Vì sao? Tác giả cho biết: Lại một cách khác nữa để rút cầu thang dưới chân các nước phương Nam.
Ha-Joon Chang vẫn tỏ ra khiêm tốn. Ông chưa bao giờ quên nhấn mạnh đến những điểm yếu của dữ liệu này hay, của một so sánh khác, và đến tầm quan trọng của các lịch sử quốc gia. Nhưng quan điểm lịch sử về các điều kiện mà các thể chế quốc tế đã áp đặt cho các nước phương Nam, theo những chính sách hoàn toàn ngược lại với những gì mà các nước giàu ngày nay đã thiết lập ưu thế của họ, là một luận cứ then chốt trong cuộc tranh luận.
Huỳnh Thiện Quốc Việt dịch
Nguồn: Les bonnes recettes du développement, Alternatives Economiques n° 206, septembre 2002.
Nguồn: http://www.phantichkinhte123.com/2016/02/nhung-cong-thuc-tot-e-phat-trien.html

Tiệc mừng thăng chức và đạo đức quan trường

Lao Động
Nguyễn Duy Xuân
27-2-2016
Ảnh: báo Zing
Ảnh: báo Zing
Một vị phó giám đốc sở vừa nhậm chức mới được 2 ngày đã tổ chức tiệc mừng tưng bừng, hoành tráng với đầy đủ biểu ngữ, phông màn, sân khấu ca nhạc tại nhà khách tỉnh.
Đấy là câu chuyện đang khiến dư luận sôi sùng sục khi báo chí đăng tải thông tin ngày 26.2.2016.
Tân phó giám đốc Sở NN&PTNT Nghệ An ông Hoàng Nghĩa Hiếu nhận quyết định bổ nhiệm hôm 23.2 thì tối 25, bạn bè thân hữu đã tổ chức tiệc chúc mừng và giao lưu. Đấy là cách giải thích của ông Hồ Ngọc Sỹ – Giám đốc Sở, sếp của ông Hiếu.
Nhưng trên tấm panô treo trang trọng trên sâu khấu của đêm tiệc mừng – giao lưu này lại ghi:
“Uỷ ban nhân dân tỉnh Nghệ An – Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nghệ An – Đêm giao lưu chúc mừng đồng chí Hoàng Nghĩa Hiếu, Tỉnh uỷ viên, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT”.
“Giấy trắng mực đen”, thật khó có lời nào để biện minh cho việc tổ chức tiệc mừng linh đình này.
Thứ nhất, đại tiệc này đã được chuẩn bị, sắp đặt trước, không thể nhất thời hứng khởi kéo nhau ra nhà hàng là được. Muốn có tấm phông hoành tráng treo trên sân khấu như trong ảnh thì phải trải qua nhiều công đoạn, từ thiết kế, phê duyệt, in ấn, cho đến việc leo trèo treo lên.
Thứ hai, tiêu ngữ trên tấm phông đã nói lên tất cả: “Uỷ ban nhân dân tỉnh Nghệ An – Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nghệ An”. Chẳng ai dám tự tiện gắn cái mác này cả. Phải có người đứng ra tổ chức chứ, mà là cấp có thẩm quyền đấy nha. Và đây, bà Chánh Văn phòng kiêm Kế toán trưởng Sở đã xác nhận, buổi lễ do Sở NN&PTNT tỉnh Nghệ An đứng ra tổ chức. Thế cho nên đây cũng không phải là cuộc nhậu “cho vui” như tân phó giám đốc sở nói, nó đã được nâng lên tầm rất cao: “Đêm giao lưu chúc mừng đồng chí…”. Chỉ thiếu mỗi món… truyền hình trực tiếp nữa thôi nhé!
Thứ ba, về chuyện tiền nong cho cuộc lễ, bà Chánh Văn phòng kiêm Kế toán trưởng Sở đã xác nhận ””Buổi tiệc đã xong nhưng chưa thanh toán tiền và chưa biết lấy từ nguồn kinh phí nào”. Nghĩa là sở sẽ chịu chi. Nghĩa là thuế của dân phải đóng. Còn như lí giải của ông GĐ sở rằng thì là “bạn bè” góp “vốn” nhưng nhìn cái cụm từ ghi chức danh to nhất của người được mừng “Tỉnh uỷ viên” khiến người ta phải suy nghĩ, bởi tân phó GĐ sẽ là GĐ trong nay mai thôi.
Đấy là lạm bàn tí cho vui chứ nói gì thì nói, không thể chấp nhận cách hành xử như thế này của lãnh đạo sở NN&PTNT Nghệ An được. Chuyện tiệc mừng thăng quan tiến chức không ai cấm nhưng đấy là ở nhà các vị trong phạm vi của gia đình. Còn đây mang danh cơ quan, phô ra giữa bàn dân thiên hạ… nhằm mục đích gì?
Đất nước mình quan chức cỡ như ông tân phó GĐ sở trở lên kể có hàng vạn. Ai thăng chức mà cũng tổ chức tiệc mừng hoành tráng, tưng bừng như thế, đất nước này sẽ đi về đâu? Người dân sẽ nghĩ gì về các ông?
Chắc các ông biết rõ hơn ai hết, tỉnh nhà vừa nhận 3.600 tấn gạo cứu đói khẩn cấp cho nhân dân dịp Tết Nguyên đán Bính Thân 2016 vừa rồi bởi các ông là lãnh đạo ngành nông nghiệp của tỉnh mà?
Chắc các ông cũng đọc báo xem đài, lên mạng để biết được ít nhiều những việc làm đang khiến cả cộng đồng ngưỡng mộ và đồng tình ủng hộ của những vị lãnh đạo như tân Bí thư Đinh La Thăng? Đất nước đang chuyển mình với những cán bộ vì dân hành động như thế, lẽ nào các ông vẫn còn đắm mình trong vòng mê muội của danh lợi và nịnh bợ?

Đi chùa vái Phật thế nào cho đúng?

Đi lễ chùa vái Phật thế nào cho đúng?
Đi lễ chùa vái Phật thế nào cho đúng?

Đầu xuân năm mới cũng là lúc nhiều người bỏ công bỏ việc, chẳng quản đường sá xa xôi mà đi lễ đền lễ chùa để cầu tài cầu lộc, cầu bình an, không cầu cho mình thì là cho người thân, gia quyến.
Mỗi người một kiểu, có người vái tới rồi vái lại “cho chắc,” có người xá xá cho qua lệ… mà không hay rằng mình đã sai.

Vái Phật mà không tin Phật thì cũng là phỉ báng Phật

Theo Kinh A Hàm, Ðức Phật có dạy: “Tin tưởng Như Lai mà không hiểu Như Lai, tức là phỉ báng Như Lai vậy.”
Thật vậy, người bình thường, ai cũng mong có cuộc sống bình an, “vạn sự như ý,” nhưng trong Phật gia đã từng giảng: “làm người là khổ,” cuộc đời là bể khổ, không có khổ này cũng sẽ là khổ khác. Nhiều lúc chính là đang chịu khổ, chịu mê mà cũng không biết đó là khổ. Do vậy các vị Đại Giác giả mới xuất phát từ lòng từ bi, từ sự thương xót con người mà truyền Đạo, giảng Pháp mở đường dẫn chúng sinh về cõi giải thoát khỏi sự luân hồi bể khổ đó. Nếu ở thế gian này đã là sung sướng rồi, cầu gì được nấy, vạn sự như ý thì cũng sẽ chẳng còn ai phải giải thoát đi đâu nữa.
Kinh sách nhà Phật giảng rất nhiều về nhân quả và duyên phận. Mọi chúng sinh và vạn vật trong vũ trụ này đều không thoát khỏi luật nhân quả. Theo đó mọi chuyện xảy ra với mình đều là nhân duyên của chính mình gây nên. Làm việc thiện sẽ kết thiện duyên, làm điều ác sẽ kết ác duyên. Đối với ai cũng vậy, tất cả những bất hạnh hay may mắn của bản thân đều là do những việc mình cố ý hay vô ý đã làm trong quá khứ, có thể là đời này, có thể là đời khác… mà thành. Ý nghĩ xấu, lời nói không tốt, hành động xấu… đến lúc sẽ tạo nên quả xấu, tự mình phải gánh chịu. Do đó, giải hạn, cầu may… không phải là điều Đức Phật dạy.
Chỉ khi con người rung động trước Phật Pháp, xuất tâm tu dưỡng tâm tính đạo đức của mình, thì khi đó các Giác Giả mới có thể giúp. Vậy nên nếu chỉ cầu Phật, xin được cái này cái kia mà không thành tâm thay đổi hướng về lương thiện, thì cũng tựa như tội phỉ báng Phật. Đặc biệt khi cầu không được rồi xuất niệm trách móc, ăn nói hàm hồ hay báng bổ Thần, Phật thì tội nghiệp còn lớn nữa.

Phỉ báng Phật Pháp, tội nặng như núi

Trong «Tây Du Ký» hồi thứ 100 “Kính hồi Đông Thổ, Ngũ thánh thành chân” có đoạn bốn thầy trò Đường Tăng được Phật Như Lai thụ phong. Khi đó Phật Như Lai nói: “Thánh tăng, kiếp trước con nguyên là đồ đệ thứ hai của ta, tên gọi là Kim Thiền Tử. Bởi vì con không nghe giảng Pháp, khinh mạn lời giảng Đạo của ta, cho nên bị đọa chuyển sinh nơi Đông Thổ.
Phật Như Lai không vì Kim Thiền Tử là đồ đệ thứ hai của mình mà có thể thiên vị bỏ qua cho tội không nghe giảng Pháp và khinh thường Phật Pháp được, nên phải đánh hạ Kim Thiền Tử xuống.
Kim Thiền Tử bị đọa sang Đông Thổ Đại Đường liền bắt đầu trải qua kiếp nạn. Vừa mới sinh ra đời thì cha đã bị giết, mới vừa đầy tháng mẹ cậu bé đã phải thả cậu lên bè trôi sông, suýt chút nữa thì bị chết đuối. Lớn lên đi tìm họ hàng báo oan chẳng hề dễ dàng, về sau trên con đường phản bổn quy chân đi Tây Trúc thỉnh kinh phải trải qua muôn vàn sóng gió, hết tai này đến nạn kia. Mỗi khi gặp khó nạn chỉ cần trong tâm thoáng có niệm không chính, tâm cầu Pháp có một chút thiếu kiên định thôi thì đều phí công nhọc sức, lại còn có thể bị nguy hiểm đến tính mạng. Bốn thầy trò Đường Tăng kiên định tâm cầu Phật Pháp, bất kể phía trước có điều gì khó khăn hiểm nạn đều không thể nào ngăn cản nổi bốn người tiến bước về Linh Sơn cõi Phật. Trải qua 81 nạn mới trở về lại được thế giới Phật, có thể thấy muốn tiêu trừ nghiệp xấu gây ra do tội coi thường Phật Pháp là rất gian nan.
Do đó trong văn hóa truyền thống đều răn dạy con người phải biết kính Trời, kính Phật, không được coi thường kinh thư hay hãm hại những người tu luyện chân chính. Trước Phật Pháp, mỗi người đều bình đẳng, ai không kính trọng Phật Pháp thì kết quả đều như nhau. Thực ra không phải Trời Phật trừng phạt họ, mà tự đã có quy luật nhân quả bao trùm chúng sinh vạn vật. “Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo!
Hà Phương Linh

Cười té ghế hay đau thắt lòng với chữ sửa Truyện Kiều?

(ĐSPL) – Mỗi từ, mỗi câu trong Truyện Kiều là mỗi viên ngọc long lanh trong kho tàng ngôn ngữ và văn chương Việt Nam, điều đó có lẽ không cần phải bàn. Nhưng nay có lẽ phải bàn lại vì có người… chê dở, và đã sửa tới 1/3 tác phẩm!
“Trăm năm trong cõi người ta
Chữ Tài, chữ Mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua mỗi cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
Mỗi người thứ có thứ không
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen…”
Đọc những câu thơ trên, ắt hẳn người ta sẽ nghĩ: “Sao mang máng như Truyện Kiều, mà sao hình như không phải Truyện Kiều?
   Cười té ghế hay đau thắt lòng với chữ sửa Truyện Kiều? - Ảnh 1
Ngôn từ Truyện Kiều đang bị người ta dùng bạo lực can thiệp! (Ảnh minh họa)
1/3 kiệt tác bị sửa!
Vâng, nói sao cũng đúng. Là Truyện Kiều cũng đúng, bởi cái gốc là đại thi hào Nguyễn Du viết ra. Nhưng nói không phải Truyện Kiều cũng không sai, vì nó đã được/bị ông Đỗ Minh Xuân, một kỹ sư, sửa đi rồi.
Ngay những câu đầu tiên mở đầu kiệt tác, đã bị ông Đỗ Minh Xuân chọc bút vào. Một câu ông sửa một từ (Trải qua mỗi cuộc bể dâu); còn một câu ông thay đổi hoàn toàn. Chắc chắn những người đã thuộc câu thơ lấp lánh ánh ngọc “Lạ gì bỉ sắc tư phong” của đại thi hào, nay trở thành “Mỗi người thứ có thứ không”, có lẽ không thể nào không bị… sốc phản vệ!
Chuyện cứ tưởng như đùa nhưng lại là có thật 100% ở xứ ta! Xin đừng nóng vội, “dẽ cho thưa hết một lời đã nao” (Kiều - Nguyễn Du). Đó là trong cuộc hội thảo Dòng chảy văn hóa xứ Nghệ - Từ Truyện Kiều đến phong trào Thơ mới, tổ chức vào ngày 15/12/2012 tại khu di tích Nguyễn Du (Hà Tĩnh), mỗi đại biểu tham dự được phát một cuốn sách (bản photo) có nhan đề Truyện Kiều Nguyễn Du với tiếng Việt hiện đại, phổ thông, đại chúng và trong sáng, do Đỗ Minh Xuân khảo dịch - NXB Văn hóa - Thông tin in năm 2012. 
Ông Đỗ Minh Xuân, được biết là một kỹ sư. Không rõ kỹ sư gì, nhưng thông thường danh từ này dành cho giới kỹ thuật, khoa học tự nhiên. Thế nhưng ông đã “dày công nghiên cứu, nghiền ngẫm, đối chiếu, so sánh…”, và ông đã sửa hơn 1.000 chỗ trong Truyện Kiều như thế.  Cứ cho là mỗi đơn vị sửa sẽ rơi vào 1 câu, thì với  Truyện Kiều 3.524 câu, ông Xuân đã sửa đến 1/3 kiệt tác của đại thi hào!
Thật là ngạc nhiên, chưa nói là việc này có giúp làm cho tác phẩm hay hơn hay dở hơn, thì việc sửa tác phẩm của người khác là điều xưa nay chưa bao giờ có trong giới văn chương và kể cả các lĩnh vực học thuật khác. Trước hết, bởi quyền tác giả và trí tuệ của tác giả đã bị xâm phạm.
Lý do ông Xuân đưa ra là, vì người đọc Truyện Kiều ngày nay, không còn thịnh như trước đây do rào cản về điển tích, từ Hán, từ cổ, từ địa phương…, trong khi đó chữ nghĩa của Truyện Kiều lại rườm rà, trùng lặp, không hay, thiếu logic, trái văn cảnh…, nên ông sửa lại cho phù hợp!
Cười đến… dào mạch Tương!
Nói vòng vo không bằng chỉ ra trực diện. Ngoài câu mở đầu “Lạ gì bỉ sắc tư phong” lấp lánh ánh văn chương đã bị hãm hiếp bởi câu “Mỗi người thứ có thứ không” đầy cục súc, thì hàng loạt câu, từ, điển cố điển tích… đã bị ông kỹ sư này ra tay sát hại không thương tiếc. Chiếc cầu Lam, được gọi là “Lam kiều” một cách thướt tha sang trọng trong câu “Xăm xăm đè nẻo Lam kiều lần sang”, được ông thay bằng từ “đánh liều”, thì quả thật không có sự… liều mạng nào bằng!
“Thời trân” thì sửa thành “quả ngon”, “sẵn bày” thành “xách tay”, nên câu thơ miêu tả hành động của Thúy Kiều, một người con gái khuê các với mỗi động tác đều dịu dàng thanh nhã, cao sang “Thời trân thức thức sẵn bày”, thành ra một hành động dung tục “Quả ngon thức thức xách tay”! Nghe cứ như là nàng Kiều đang ăn trộm trái cây nhà mình cho vào giỏ rồi lén lút mang sang cho tình lang Kim Trọng!
   Cười té ghế hay đau thắt lòng với chữ sửa Truyện Kiều? - Ảnh 1
Trộm nghe thơm nức hương lân,"Buồng đào nơi tạm khóa Xuân hai Kiều"! (Đỗ Minh Xuân)
Nhưng chưa! Điều đáng sợ là ông Xuân… sợ điển cố điển tích, nên cứ gặp điển cố là ông cố tình gạt ra và thay vào đó là thứ từ ngữ dung tục của ông! Cái đài Đồng Tước mà Tào Tháo xây lên để tính vui thú với 2 nàng con gái sắc nước hương trời Đại Kiều và Tiểu Kiều - vợ của Tôn Sách và Chu Du - hiện lên trong câu thơ của đại thi hào một cách nên thơ, đẹp đẽ và sang trọng:
Trộm nghe thơm nức hương lân
Một nền Đồng Tước khóa Xuân hai Kiều”
đã bị ông Xuân hô biến thành “Buồng đào nơi tạm khóa Xuân hai Kiều”, nghe cứ như là cái buồng tạm giam tội phạm hình sự!
Không thể nào nói hết cái ngô nghê, ngớ ngẩn với hành động “sát phạt điển cố” đến kỳ dị của ông kỹ sư. Trong đêm gió mát trăng thanh, lửa tình nồng nàn, chàng thư sinh Kim Trọng cũng muốn thụ hưởng cái thơm tho của xác thịt người con gái đẹp như hương như hoa. Để giữ tiết trinh, nàng Kiều đã dẫn chuyện của cặp đôi Thôi Oanh Oanh và Trương Quân Thụy trong “Tây Sương ký”. Cặp đôi này vì quá yêu nhau mà đã ăn nằm với nhau trước khi thành hôn, để rồi sau đó chán nhau, bỏ nhau, khiến người đời sau cứ tiếc mãi cho đôi trai tài gái sắc mà không thành duyên giai ngẫu:
“Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay
Lứa đôi ai dễ đẹp tày Thôi – Trương
Mây mưa đánh đổ đá vàng
Quá chiều nên đã chán chường yến anh
Trong khi chắp cánh liền cành
Mà lòng rẻ rúng đã dành một bên
Mái Tây để lạnh hương nguyền
Cho duyên đằm thắm ra duyên bẽ bàng…”
Ấy thế nhưng ông Xuân sẵn sàng chém ngay cái điển cố:
“Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay
Lứa đôi từng thấy những ngày trái ngang”!
Nàng Kiều thông minh tuyệt đỉnh đã lấy truyện "Tây Sương ký" để thuyết phục Kim Trọng. Như vậy Kim Trọng mới thực sự bị thuyết phục và “Thấy lời đoan chính dễ nghe / Chàng càng thêm nể thêm vì mười phân”. Còn nay, khi ông Xuân cắt quách đi cái điển cố văn học này, thì có nghĩa những lời Kiều nói chỉ là lý luận suông của nàng. Thử hỏi trong đêm gió mát trăng thanh, người yêu như hoa như ngọc, rượu đã ngấm, tình đã nồng, có ông thánh nào chịu chấp nhận những lời lý lẽ suông của người yêu như vậy không?
Lệch lạc, ngớ ngẩn, sai kiến thức, quy chụp… là những thứ nhan nhản trong “bản sửa” của ông kỹ sư. Vua Thuấn đi tuần thú sông Tương và chết, hai người vợ là  Nga Hoàng và Nữ Anh đi tìm, và ngồi bên bờ sông khóc, rồi trầm mình tự vẫn. Từ đó “mạch Tương”, “giọt Tương” chỉ giọt nước mắt, là khóc. Thúy Kiều khóc cho thân phận mình: “Chưa xong điều nghĩ đã dào mạch Tương”. Ấy thế nhưng ông kỹ sư ngang nhiên sửa thành “trời đã sáng”: “Chưa xong điều nghĩ đã chào vừng dương”!
Than ôi, còn sự hàm hồ nào bằng!
Còn nhiều, nhiều lắm, vô kể. Thiếp Lan Đình thì gọi là “thiếp xem tình” (?), Lãm Thúy (có lý giải đây là danh từ riêng) đổi thành “kiểu dáng”; “đỉnh Giáp, non Thần” ngụ ý chuyện nam nữ mây mưa thì bị cưỡng hiếp đổi thành “tiên nữ giáng trần”, Chung (Tử) Kỳ - danh từ riêng, một người nghe đàn giỏi - được biến thành “ngưỡng vì”, lạ hoắc chẳng ăn nhập gì với nhau!...
Đọc những câu từ được ông kỹ sư sửa lại, người ta không khỏi ôm bụng mà cười! Thế nhưng, cười nhưng mà đau xót. Cười nhưng mà không thể không… dào mạch Tương, tức không thể không khóc! Không thể nào nghĩ ra được rằng, người ta có thể dám ngang nhiên mạo phạm văn chương, mạo phạm tiền nhân đến như vậy! Nhà thơ Nguyễn Quang Thân gọi hành động này là “vô đạo”, còn ông Thế Anh, trên tạp chí “Thơ” của Hội Nhà văn Việt Nam, gọi việc làm, hành động này là “vô lối”, “hỗn hào”; có người nói đây là hành động bất kính, người thì cho là hành động phản văn hóa, phản văn chương.
   Cười té ghế hay đau thắt lòng với chữ sửa Truyện Kiều? - Ảnh 1
Hiện nay Truyện Kiều có quá nhiều dị bản. Người ta cố giữ những bản Kiều cổ vì muốn tìm về đúng nguyên bản của nó.
Được cổ xúy bởi nhà nghiên cứu văn hóa lừng danh!
Cứ như vậy, đến hơn 1.000 chỗ sửa, 1/3 tác phẩm chứ không phải ít ỏi, tức gần như bất cứ chỗ nào trong Truyện Kiều, cũng bị ông kỹ sư cắt xé, bức tử!
Điều đáng nói là, việc sửa thơ này của ông kỹ sư lại nhận được cổ xúy của một bậc giáo sư lừng danh: Anh hùng lao động, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học, Giáo sư Đặng Vũ Khiêu!
Người ta đã kinh ngạc với hành động của ông kỹ sư, thì lại càng kinh hãi hơn khi biết rằng, hành động này được một bậc danh tiếng, “đức cao vọng trọng” trong lĩnh vực nghiên cứu văn hóa khuyến khích và tán dương! Quả thật giới văn chương và học thuật không khỏi ngỡ ngàng rồi kinh sợ, khi đọc những dòng đề tựa của vị giáo sư này:
Với một tinh thần khoa học rất nghiêm túc, ông tìm lại hầu hết các bản Truyện Kiều từ trước đến nay, so sánh các dị bản, ông tìm đọc hầu hết các bài đã bình luận, phân tích tác phẩm và tác giả Truyện Kiều. Từ đó, ông đã có ý tưởng lớn là làm thế nào để phổ cập hóa Truyện Kiều cho quảng đại công chúng, ông gạt bỏ những câu chữ khó hiểu từ tiếng Hán để thay bằng ngôn ngữ thuần Việt trong Truyện Kiều… Tôi hoan nghênh công phu nghiên cứu của ông Đỗ Minh Xuân và tin rằng cuốn sách này của ông là một đóng góp đáng kể vào việc nghiên cứu Truyện Kiều…”
Chính vì vậy chả trách tại sao, cứ mỗi chỗ sửa, ông Xuân tự khen là hay hơn cả chữ của Nguyễn Du, đến nỗi còn nói nếu cụ Nguyễn Tiên Điền mà sống dậy thì ắt phải thốt lên “hậu sinh khả úy”!
Quả thật đây là lối nói hàm hồ! Ngày nay, người ta dùng Truyện Kiều để bói, còn gọi “bói Kiều”. Điều này không phải do nàng Kiều linh thiêng linh ứng, mà bởi chính vì tác phẩm của đại thi hào quá súc tích, nó đã chứa đựng tất cả mọi mặt của cuộc sống, của đời người trong đó. Đồng thời, cũng có nghĩa bất cứ người dân nào cũng biết Truyện Kiều, chứ không phải như ông Xuân nói là ít người đọc.
Còn việc hiểu, thẩm thấu, phải nói Truyện Kiều là một hiện tượng đặc biệt: Ngôn ngữ Truyện Kiều là thứ ngôn ngữ văn chương bác học nhưng diễn đạt lại rất giản dị, khiến mọi người, tất cả những ai, khi đọc đều hiểu. Người học ít thì hiểu theo mức của người học ít, người học cao thì hiểu theo cách của người học cao, còn người không biết chữ cũng hiểu được, theo cách của người không biết chữ. Chẳng vì thế mà ông bà ta xưa, dù không biết đọc chữ Nôm, vẫn thuộc làu làu 3.524 câu một mạch không vấp. Thậm chí có người mê Truyện Kiều đến mức, thuộc và đọc ngược nguyên tác phẩm! Thậm chí, dân gian còn thạo Truyện Kiều đến mức còn tập Kiều, vịnh Kiều, đố Kiều... Biết bao nhiêu là hoạt động phong phú, thể hiện dân ta đâu có... dốt Kiều, như ông Xuân nói.
Sở dĩ, trong văn học Việt Nam, chúng ta có một khối lượng đồ sộ tác phẩm, bài viết, công trình nghiên cứu Truyện Kiều, cũng bởi độ uyên bác, thâm sâu của tác phẩm này, mà tất cả đều nằm trong văn chương, ngôn từ của tác phẩm. Vậy thì, khi ông Xuân làm một cái việc là "làm cho dễ hiểu", thì có còn gì là cái bản thể, cái tinh hoa của Truyện Kiều nữa!
Phải nói, ngôn ngữ trong Truyện Kiều cô đọng, súc tích, thâm sâu đến mức, cố học giả Đào Duy Anh đã phải viết một cuốn "Từ điển Truyện Kiều", giải nghĩa từng từ một theo nội dung tác phẩm. Như vậy, khi ông Xuân kỹ sư dùng bạo lực can thiệp vào Truyện Kiều thế này, thì có nghĩa công trình của ông Đào Duy Anh đành phải... vứt sọt rác?
Cách đây gần trăm năm, Phạm Quỳnh, cố học giả, nhà báo, nhà văn, đã viết: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn…”. Một thời quan điểm của học giả Phạm Quỳnh bị ta chỉ trích kịch liệt. Nhưng đến giờ, ngẫm lại câu nói của ông vẫn cứ nguyên giá trị.
Nhưng, nếu vậy thì hiện “tiếng ta” có lẽ bị lung lay bởi việc làm ngông cuồng của một ông kỹ sư! Bởi những viên ngọc long lanh trong Truyện Kiều đang bị chà đạp bằng một thứ ngôn ngữ cục súc, mà được giáo sư Vũ Khiêu cho là kết quả của một một việc làm “với một tinh thần rất khoa học và nghiêm túc”, để thực hiện một “ý tưởng lớn”! Nếu thứ sản phẩm của trí óc điên loạn này mà đem phổ biến ra, tức là thực sự Truyện Kiều đã mất! Mà, cứ tam đoạn luận theo kiểu Đề-các, thì “Truyện Kiều còn – tiếng ta còn”, nên Truyện Kiều mất thì tiếng ta… còn đâu! Rồi “tam đoạn luận” nữa: Tiếng ta mất thì nước ta… Hỡi ôi! Nghĩ đến đây thấy giật mình, không dám nghĩ tiếp nữa! Sợ quá!
ĐẶNG VỸ

Thứ Bảy, 27 tháng 2, 2016

Tin khó tin: Bò đau bụng vì không nghe lãnh đạo, họ Dư mới được nghèo

LĐO LAM CHI 

Bạch Tuyết bị giam 800 ngày vẫn chưa tìm ra tội gì, trong khi bò ở miền Trung bị ỉa chảy do ăn phải dưa không nghe lời lãnh đạo. Còn muốn được trở thành hộ nghèo phải là họ Dư, còn muốn thành Thượng đế hoàn hảo thì nên đau ruột thừa và mua điện của ông độc quyền bắc thang đọc đồng hồ.

1. Viện Kiểm sát không được nghỉ hưu, công dân mơ được tuyên án
  “Đừng nuốt chửng cả lương tâm của mình, để lại tiếng xấu muôn đời!” – hôm qua, dẫn lời của Phó Chủ tịch Quốc hội Tòng Thị Phòng về việc làm sao để tránh gia hạn tạm giam, oan sai cho người dân, Giáo dục Việt Nam đã cảnh báo như vậy. Còn Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng thì nói rằng các lãnh đạo, kiểm sát viên nghỉ hưu nhưng cái Viện kiểm sát thì không nghỉ hưu, do vậy phải làm sao đừng để oan sai, để cho người dân tin tưởng.
Người dân nức lòng với những phát ngôn như vậy. Nhưng bên trong nhà giam, vẫn còn không ít những công dân bị giam giữ mà không có chứng cứ buộc tội. Bà Nguyễn Thị Bạch Tuyết (TPHCM) đã nằm trong tù 800 ngày nhưng đến giờ này vẫn không biết phạm tội gì, trong khi cơ quan chức năng vẫn giữ đúng nguyên lý im lặng là vàng. Còn bao nhiêu người như bà Bạch Tuyết có một ước mơ giản dị nhưng vô cùng lớn là được… đưa ra xét xử (!).
 Vợ chồng ông Hoàng Xuân Tiến: "2 người mặc sắc phục công an nói đưa 25 triệu thì con được về..." Ảnh: Lao Động 
Còn tại Nghệ An, hai vợ chồng già ông Hoàng Xuân Tiến suốt nhiều năm qua đi gõ cửa kêu oan cho con trai là sinh viên bị phạt tù 3 năm rưỡi sau khi có 2 người mặc sắc phục công an đến nhà yêu cầu đưa 25 triệu đồng để cho con đang bị bắt giữ khi đang uống càphê về nhưng bị ông Tiến yêu cầu viết giấy. Rất may là Viện Kiểm sát cấp cao tại Hà Nội vừa có văn bản thông báo là thụ lý để giám đốc thẩm vụ án này. Như này, người dân chỉ mong sao cái viện kiểm sát đừng về hưu cho dân nhờ.
Xem tại đây
Xem tại đây
2. Cho con lạy ông cố nội của Thượng đế 
Người dân sử dụng điện ở P.Trà Bá nháo nhác lục bới hồ sơ điện của mình được đổ đống dưới nền sân - Ảnh: T.B.D. (Nguồn: Tuổi Trẻ) 
1.400 bộ hợp đồng mua bán điện của 700 hộ dân đã được nhân viên của ngành “bắc thang đọc đồng hồ” đổ tung tóe xuống nền đất rồi bắt các Thượng đế mua điện tự giành giật, tìm kiếm hợp đồng của mình trong hỗn loạn. Chuyện xảy từ thời nền kinh tế còn chưa thị trường chưa định hướng mà báo điện tử ra ngày 27.2.2016 đưa tin nhầm chăng?
Không. Thưa bạn đọc chính xác là chuyện vừa xảy ra ngày 26.2.2016 tại phường Trà Bá, thành phố Pleiku. Bạn nhìn bức ảnh hàng chục người mua hàng lục lọi, xáo bới để tìm hợp đồng mua điện của mình mà vẫn không tăng áp, tụt áp và không thốt lên câu “Mịa, cho con lạy sống ông cố nội của Thượng đế…” thì đảm bảo đã là công dân trưởng thành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từ lâu.
Xem tại đây
3.   Không nghe lời lãnh đạo, bò bị đau bụng
Đã bảo rồi, trồng cây gì, nuôi con gì là phải gắn với cái đầu ra. Vậy mà không chịu nghe. Hậu quả là năm nào cũng giống năm nào, cây nào cũng giống cây nào, con nào cũng giống con nào: Thu hoạch xong hoặc là bán đổ bán tháo, hoặc là bị ép giá bán dưới giá thành, hoặc là đem đổ đi mà vẫn không xong… 
Hôm qua và hôm nay là những ngày quá ảm đảm, đau buồn của người trồng dưa hấu ở miền Trung: Lại hàng ngàn tấn dưa hấu vào vụ chín phải đổ đi vì không có người mua, có nơi đem cho bò ăn thì bò bị ỉa chảy. Vậy là với cách đưa tin chỉ cần lấy lại bản thảo năm ngoái thay ngày giờ thôi, bởi vì cũng nông dân ấy, cánh đồng dưa ấy, cũng khóc sụt sùi bên đống dưa ế ấy, truyền thông sẽ còn có nhiều ngày no với dưa hấu.
Nông dân Phạm Văn Luận ở huyện Kon Chro đón một mùa dưa đắng. Ảnh: Đất Việt  
Nhưng, “đỉnh cao” và “có tính phát hiện” là trả lời báo chí của Bí thư Thị ủy An Khê (Gia Lai) rằng lãnh đạo đã cảnh báo rồi, là nông dân không nghe theo khuyến cáo của cơ quan chức năng, trồng dưa ào ạt. Giá thì do bên mua áp đặt. Nhiều gia đình lâm vào cảnh túng quẫn vì gặp phải một vụ dưa đắng chát như thế này…”. Đúng là: “Mất mùa là tại thiên tai/ Được mùa là bởi thiên tài của lãnh đao (ý nói lãnh đạo).
Cùng với dưa hấu, số phận hàng trăm ngàn ha càphê đã đến hạn chết vẫn đang chết hoặc sắp chết già trong khi có cả một chương trình cho vay vốn để tái canh rất hoành tráng, rầm rộ coi người nông dân trồng càphê là số một, là phải tập trung, phải quan tâm, phải tích cực, phải hỗ trợ tận răng, phải, phải… Nhưng bạn đọc biết sao không, sau 2 năm tuyên bố gói vay ưu đãi, chỉ có 2 hộ vay được vốn đó, còn lại họ phải cắn rang vay vốn lãi suất thương mại để tái canh càphê.
Biết sao nữa không, thủ tục vay nó đòi phải sau 2 năm vỡ đất, rồi sau 3 năm trồng mới nữa, nói chung nông dân nếu ăn được đất mà sống và trồng được càphê thì mới dám vay nguồn vốn này. Nói vậy, để thưa với các Bí thư là không phải ở đâu, lúc nào nông dân cũng không chịu nghe lời đâu, và cũng để quý vị biết “nghèo bền vững” nó còn đeo đẳng nông dân nước mình đến bao giờ để còn sớm biết đường mà hoạch định này nọ.
Xem tại đây
Và xem tại đây
4. Phải họ Dư mới trở thành hộ nghèo
Chuyện lão nông 82 tuổi ở Lục Dạ (Nghệ An) nhờ người viết đơn xin ra khỏi hộ nghèo nhưng xã không duyệt cho vì lý do cụ không phải nghèo mà là quá nghèo đã gây bão dư luận rồi. Cụ xin ra khỏi hộ nghèo vì thấy họp hành tranh giành nhau suất hộ nghèo chả ra làm sao cả. 
Ở làng quê bây giờ nảy sinh thêm một cớ mới để xoi mói, xỉa xói, phe phái, giành giật gây mất tình làng nghĩa xóm là chuyện bình bầu để được trong danh sách hộ nghèo. Những cơn “sóng ngầm” trong bình xét hộ nghèo đang làm tha hóa nhân cách, danh dự và những giá trị đạo đức truyền thống của đồng bào mình, từ dân thường cho đến quan chức. Chỉ tại một thôn thuộc thành phố Hà Nội, nhiều người dân bất bình trước cảnh chạy chọt, ban phát hộ nghèo đã lên tiếng đấu tranh và phát hiện ra nhiều gia đình thuộc dòng họ Dư không nghèo khó nhưng vẫn được là hộ nghèo, trong khi nhiều người khác nghèo thật thì không được nghèo!
Xem tại đây
5.   Ấn tượng trong ngày: Muốn được Mẹ hiền mổ ruột thừa, hãy chi 55 nghìn USD

Chẳng ai dám quyết định đưa chi phí y tế về gần với giá thực của nó, chỉ ra sức hô hào, bắt buộc nhân viên y tế phải như “mẹ hiền”. Ảnh minh hoạ (Nguồn: Sức Khỏe & Đời Sống) 
Chính xác là 55.029,31 USD. Đó là số tiền để mổ một ca ruột thừa. Đây, nguyên văn nó là thế này đây:  Khoảng năm 2003, một người Việt Nam đi sang Mỹ bị chấn thương gãy cột sống, được mổ cố định nẹp vít. Sau 3 ngày chi phí lên đến 105.000 USD. Không có tiền trả, người bệnh bị trục xuất về Việt Nam. 
Năm 2005, 1 trường hợp mổ u não tại Đại học Michigan bị biến chứng, mới có chưa đến 2 tuần với 3 cuộc mổ, chi phí đã lên đến trên 1 triệu đô la Mỹ. Cái giá thực sự của Y tế là như vậy đấy: Tổng chi phí cho 1 ca mổ ruột thừa: 55.029,31 USD, 2 giờ tiền phòng hồi tỉnh: 7.501 USD, tiền công mổ: 16.277 USD, công gây mê: 4.562 USD, công chích tĩnh mạch: 1.658 USD, thuốc và chi phí tiêu hao: 4.628,75 USD… 
Tôi thực sự đã ngất xỉu trước những con số này. Nhưng càng ngất xỉu hơn vì những con số sau đây: 3.000 đồng tiền công khám bệnh, 35.000 tiền công mổ đại phẫu… Các Thượng đế Việt Nam đang ngày càng khắc nghiệt hơn (độc ác nữa chăng!) với các bệnh viện và nhân viên y tế của xứ mình với cái giá dịch vụ như vậy đó.
Xem tại đây

Thứ Sáu, 26 tháng 2, 2016

Tập Cận Bình chủ trương độc chiếm Biển Đông


FBTrần Trung Đạo
 
Người viết xin lỗi sẽ dùng chữ La Tinh ‘status quo’ nhiều lần trong bài viết chỉ vì mục đích chính là để bàn về khái niệm này trong chủ trương quân sự hóa Biển Đông của Tập Cận Bình. ‘Status quo’ chỉ tình trạng của các điều kiện thực tế trước khi có sự thay đổi.
Vào thế kỷ thứ 14, danh từ này dùng để chỉ tình trạng hòa bình trước khi chiến tranh bùng nổ giữa hai nước nhưng dần dần được áp dụng trong hầu hết các lãnh vực. Trong các cuộc thảo luận hay tranh luận các bên thường có khuynh hướng chấp nhận một ‘status quo’ và đôi khi còn được xem đó như là một giới hạn mà nếu bị vượt qua sẽ tạo nên nhiều bất trắc. Khi hai bên đồng ý duy trì ‘status quo’ có nghĩa là hai bên chấp nhận tình trạng hiện đang là của một điều kiện về quân sự, địa lý, xã hội hay chính trị.
‘status quo’ về lãnh thổ trong hai cuôc chiến tranh thế giới
Việc chấp nhận ‘status quo’ thường diễn ra trong các cuộc tranh chấp lãnh thổ. Lý do, các bên tranh chấp đều muốn phần lợi về mình nhưng đều không đủ bằng chứng thuyết phục bên kia hay quốc tế và cuối cùng chấp nhận tình trạng thực tế và chỉ thảo luận vào các điểm mới thôi.
Trong thế kỷ hai mươi, trải dài suốt hai thế chiến, ‘status quo’ được sử dụng nhiều nhất trong tranh chấp lãnh thổ tại Châu Âu. Sau thế chiến thứ nhất, các quốc gia bại trận trong đó có Đức mất phần lớn lãnh thổ chiếm được trong các cuộc chiến tranh trước đó, bao gồm chiến tranh Pháp Phổ. Sau khi lên nắm quyền, mục đích đầu tiên của Hitler là phục hồi lãnh thổ mà ông ta cho rằng vốn thuộc Đức.
Các nước mạnh, tự mình hay qua hình thức liên minh, đều nhắm tới việc hủy bỏ các ‘status quo’ và thiết lập các ‘status quo’ mới có lợi cho họ. Đức chiếm Tiệp Khắc. Ý chiếm Albany. Liên Xô tìm cơ hội mở rộng vùng ảnh hưởng phía Tây. Hiệp ước bí mật Bất Tương Xâm (German-USSR Non-Aggression Pact) giữa Đức Quốc Xã và Liên Xô năm 1939 âm mưu chấm dứt ‘status quo’ lãnh thổ và xẻ châu Âu làm hai, mỗi bên chiếm một phần. Đức chiếm Tiệp Khắc, Ba Lan, Liên Xô chiếm một phần Ba Lan và các quốc gia Baltic (Estonia, Latvia, Lithuania). Sau Thế chiến Thứ hai, Stalin lẽ ra phải bị xử như một tội phạm chiến tranh, tuy nhiên, kẻ thắng trận bao giờ cũng đóng vai quan tòa và tội ác của quan tòa thường bị bỏ qua hay che lấp.
Anh và Pháp muốn bảo vệ ‘status quo’ của Châu Âu nên đã nhiều lần lên tiếng phản đối hành động của Đức, Ý khi vi phạm một cách trắng trợn chủ quyền lãnh thổ của các quốc gia nhỏ yếu bị xâm lược. Tuy nhiên, Anh và Pháp, ngoài những lời tuyên bố và biểu dương lực lượng qua vài cuộc tập trận nhỏ, không có một hành động quân sự cụ thể nào chứng tỏ quyết tâm bảo vệ nguyên trạng lãnh thổ Châu Âu như đã phân định trong hiệp ước Versaille.
Chính sách của các lãnh đạo CSTQ trước Tập Cận Bình
Mặc dù bộ máy tuyên truyền Trung Cộng luôn rêu rao chủ quyền Biển Đông không thể tranh cải của Trung Cộng và đã chứng minh qua hai ngàn năm lịch sử, giới lãnh đạo CSTQ cũng biết những lý luận đó chỉ để đun nồi nước sôi dân tộc cực đoan Đại Hán chứ không thể dùng để thuyết phục các quan tòa một khi cuộc tranh chấp được đưa ra trước một tòa án quốc tế.
Bằng chứng, tháng 1 năm 2013, chính phủ Philippines chính thức đệ trình hồ sơ kiện Trung Cộng trước Tòa Án Quốc Tế. Hồ sơ của Philippines nộp lên gồm mười bộ với gần bốn ngàn trang tài liệu chứng minh chủ quyền của Philippines và phản bác các luận cứ cũng như quan điểm đường lưỡi bò chín đoạn của Trung Cộng. Trung Cộng từ chối tranh tụng trước tòa.
Chính sách truyền thống của Trung Cộng là gặm nhắm từng phần của Biển Đông. Sau Hoàng Sa, tháng 8 năm 1988 lần đầu tiên Trung Cộng đặt chân lên quần đảo Trường Sa sau trận Gạc Ma. Từ năm 1989 đến năm 1992 Trung Cộng chiếm một số đảo nhỏ khác của Trường Sa. Tháng 2 năm 1995 Trung Cộng chiếm đảo Vành Khăn (Mischief Reef) và một đảo khác do quân đội Philippines đóng.
Tập Cận Bình chủ trương độc chiếm Biển Đông
- Tập trung quyền lực
Nhà bình luận Doug Bandow của Newsweek đưa ra câu hỏi liệu Tập Cận Bình sẽ trở thành một Mao thứ hai không phải là không có lý do. Khác với các lãnh tụ CSTQ sau Mao, Tập Cận Bình là nhà độc tài đầy tham vọng quyền lực. Nạn sùng bái cá nhân tại Trung Cộng tạm lắng trong ba chục năm qua đã bắt đầu tái phát. Bộ máy tuyên truyền CSTQ đang đánh bóng họ Tập như một lãnh tụ có quyền hạn tối thượng và tuyệt đối trong tập thể lãnh đạo Trung Cộng. Báo chi bắt đầu gọi y là ‘Lãnh tụ Trung tâm’ (The CORE), một danh hiệu chỉ dành để chỉ Đặng Tiểu Bình.
Trong một bài bình luận đầu tháng Hai năm 2016 trên New York Times, nhà bình luận Chris Buckley nhắc đến sự kiện ngày càng đông các lãnh đạo địa phương tuyên bố trung thành với họ Tập. Vai trò lãnh đạo tập thể của Ban chấp hành Trung ương Đảng, của Bộ Chính trị và Ban Thường trực Bộ Chính trị bị đặt qua bên. Lãnh đạo mới được hiểu theo hình tháp và trên đỉnh là duy nhất Tập Cận Bình giống như trước đây chỉ có Mao.
Quách Kim Long (Guo Jinlong) tân bí thư thành ủy Bắc Kinh vừa tuyên bố một câu đầy đe dọa trên Bắc Kinh Nhật Báo “Trật tự thế giới mà chúng ta sống đang tiến hành một sự điều chỉnh và về đối nội, đây là giai đoạn quan trọng của những thay đổi sâu sắc. Hơn bao giờ hết, chúng tôi cần một lãnh đạo tối cao”. Cho đến nay, ít nhất 14 trong số các lãnh đạo cao cấp của đảng tuyên thệ trung thành trước họ Tập.
Việc các viên chức cao cấp Trung Cộng tuyên thệ trung thành, thoạt nhìn chỉ là chuyện nội bộ của Trung Cộng, tuy nhiên, điều này cũng nhắc lại sự kiện các viên chức cao cấp và tướng lãnh Đức phải tuyên thệ trung thành với Hitler khi ông ta vừa nhậm chức Quốc Trưởng Đức và sau đó phát động chiến tranh thế giới. Không phải nhân dân Trung Hoa mà nhân dân các nước nhỏ láng giềng như Việt Nam, Philippines sẽ là những nạn nhân đầu tiên của ‘Lãnh tụ Trung tâm’ này.
Giống như ý định của Mao khi gởi một triệu quân sang Triều Tiên năm1950 hay của Đặng Tiểu Bình khi xua gần nửa triệu sang xâm lăng Việt Nam năm 1979, Tập Cận Bình cũng đang cố tình tạo một không khí chiến tranh chống kẻ thù của Trung Cộng để củng cố quyền lực nội địa.
- Quân sự hóa Biển Đông
Việc Trung Cộng quân sự hóa những vùng chiếm được trên Biển Đông đã quá rõ ràng. Đô Đốc Harry Harris, Tư Lệnh Bộ Tư Lịnh Thái Bình Dương của Mỹ xác nhận ‘Điều đó quá rõ, trừ phi bạn nghĩ rằng trái đất nầy là một mặt bằng, bạn mới nói là là không’. Đô Đốc Harry Harris cũng tin rằng Trung Cộng đã đặt các giàn hỏa tiễn địa không trên đảo Woody (Phú Lâm). Sau hỏa tiễn, Trung Cộng phối trí các phi cơ chiến đấu cũng trên đảo Phú Lâm. Khác với những lần trước, lần này có vẻ các chiến đấu cơ này sẽ là phần của căn cứ không quân thường trực.
Sự hiện diện quân sự của Trung Cộng hiện nay trên Biển Đông chưa phải là một đe dọa trực tiếp đối với an ninh và quyền tự do hàng hải của Mỹ. Với sự chênh lệch còn quá xa về kỹ thuật và phương tiện chiến tranh nghiêng về phía Mỹ, nếu một xung đột quân sự xảy ra, những giàn hỏa tiễm và vài chiến đấu cơ đó sẽ nằm trong đáy biển trong vòng vài phút.
Tuy nhiên, với các quốc gia nhỏ trong vùng sự hiện diện của chúng là những đe dọa trực tiếp. Sự ràng buộc và phụ thuộc vào nhau trong quan hệ kinh tế thương mại vô cùng sâu sắc và phức tạp giữa các cường quốc trong giai đoạn toàn cầu hóa như hiện nay, khả năng rất thấp để Mỹ có thể can thiệp vào các xung đột giữa hai nước.
Biết điều đó nên lập trường giải quyết xung đột của Trung Cộng từ trước đến nay vẫn là giải quyết song phương thay vì đa phương để nếu có leo thang cũng chỉ leo thang giữa hai nước. Không có liên minh quân sự, Việt Nam hay Philippines đều không phải là đối thủ của Trung Cộng.
- Thiết lập một ‘status quo’ mới trên Biển Đông
Theo Andrew Chubb trong một phân tích khá chi tiết trên The Diplomat, The South China Sea: Defining the 'Status Quo', trước 2013, khái niệm ‘status quo’ rất ít được sử dụng. Phía Trung Cộng chẳng những không dùng mà còn kết án.
Lý do? Trong tình trạng hiện nay của quần đảo Trường Sa, số lượng đơn vị đảo do Trung Cộng chiếm (5 đơn vị) vẫn còn ít hơn số đảo Việt Nam đang giữ (21 đơn vị). Đơn vị được xác định theo tiêu chuẩn đảo, vùng đá nổi hay vùng đá chìm. Nếu một ‘status quo’ chỉ dựa trong tình trạng hiện nay, chắc chắn không phải là một hiện trạng mà Trung Cộng muốn.
Trung Cộng có ý định phá vở ‘status quo’ đang có để thiết lập một ‘status quo’ mới phù hợp với quan điểm bành trướng đã phác họa trong’đường lưỡi bò 9 đoạn’ và sau đó vào tháng 6 năm 2014 lại tự ý bổ sung thêm một đoạn nữa. Trung Cộng tuyên bố khoảng 90% Biển Đông thuộc về Trung Cộng và đó cũng là ‘status quo’ mới mà Tập Cận Bình đang nhắm tới.
Để thiết lập được ‘status quo’ mới đó, Tập Cận Bình đưa ra chủ trương gồm hai mặt. Mặt đối ngoại, Tập Cận Bình kêu gọi các bên tranh chấp tự chế các hành động quân sự và giải quyết mọi xung đột bằng các phương tiện hòa bình; mặt đối nội, họ Tập chỉ thị cấp tốc quân sự hóa các vùng đã chiếm được.
Thoạt nghe, hai mặt, vừa thảo luận hòa bình mà vừa lại quân sự hóa, dường như mâu thuẫn. Không, với họ Tập chủ trương hai mặt lại hổ trợ cho nhau một cách hữu hiệu. Các cường quốc cũng như các nước đang tranh chấp khó có một phản ứng thích hợp trước các hành động bành trướng ngang ngược của Trung Cộng.
Tập Cận Bình thúc đẩy ‘status quo’ mới không chỉ bằng số lượng đảo chiếm được hay mở rộng vùng biển rộng mà còn qua mức độ của việc xây dựng các đảo nhân tạo, phi trường, công trình dân sự, quân sự. Những khai triển này bị Mỹ kết án là vi phạm ‘status quo’. Lãnh đạo Trung Cộng lý luận việc xây dựng các phương tiện dù dân sự hay quân sự cũng chỉ xây dựng trên ‘lãnh thổ’ Trung Quốc như họ đã làm từ nhiều năm nay chứ không xâm phạm lãnh thổ của quốc gia nào và lập đi lập lai sẽ không dùng các phương tiện này để xâm lược các quốc gia khác.
Kết luận
Đáp lai những phê bình của Ngoại Trưởng Mỹ John Kerry, Ngoại Trưởng Trung Quốc Vương Nghị mới đây nói rằng việc Trung Quốc phối trí quân sự trên Biển Đông cũng không khác gì Mỹ phối trí quân sự trong khu vực Hawaii. Câu nói ngang ngược và ngu xuẩn vì không có nước nào tranh chấp chủ quyền với một tiểu bang của Mỹ, nhưng phản ảnh chủ trương của Tập Cận Bình không chỉ lấn chiếm mà còn dân sự hóa, quân sự hóa lâu dài, nói rõ hơn để thiết lập một ‘status quo’ mới trên Biển Đông và đặt không chỉ riêng Mỹ mà cả thế giới trước một tình trạng đã rồi.
Rất tiếc, như lịch sử thế giới đã chứng minh, các thay đổi ‘status quo’ về lãnh thổ đều dẫn đến chiến tranh. Con đường thoát duy nhất mà một nước nhỏ, trong trường hợp này là Việt Nam, phải chọn là thực hiện cho bằng được các điểm mà Trung Cộng né tránh và khai thác tối đa các điểm yếu của Trung Cộng, trong đó có (1) dân chủ và hiện đại hóa đất nước, (2) tập trung sức mạnh đoàn kết dân tộc, (3) nhanh chóng chiến lược hóa vị trí Việt Nam, (4) liên kết với các nước bất đồng quyền lợi với Trung Cộng , và (5) chuẩn bị chiến tranh bảo vệ tổ quốc.
Trần Trung Đạo

Tây Tạng và cái ách thực dân Trung Quốc

tfi-
Phạm Hy Sơn
Nhân loại, nhất là những dân tộc ở châu Phi, châu Mỹ tưởng chủ nghĩa đế quốc , thực dân đã tàn lụi vào quá khứ .  Không ai ngờ nó vẫn hiển hiện tại những xứ nhỏ yếu  bên cạnh Trung Quốc .
Vào thế kỷ 17, 18 các nước châu Âu nhờ sớm kỹ nghệ hóa  đã đua nhau đi xâm lăng những nước  lạc hậu trên thế giới để kiếm thị trường tiêu thụ hàng hóa và khai thác nguyên  liệu đem về nước chế biến , nhưng sau khi Thế Chiến thứ II chấm dứt năm 1945 thì những nước bị đế quốc đô hộ đó dần dần tự giải thoát  khỏi ách thực dân .   Ngược lại các dân tộc Mông Cổ, Mãn Châu,  Duy Ngô Nhĩ  và nhất là Tây Tạng vẫn còn bị cái ách đô hộ của Trung Quốc  cho đến nay .
Tây Tạng bị quân đội cộng sản Trung Quốc xâm lăng năm 1950, bị sát nhập thành phủ, huyện của Trung Quốc năm 1951, và cũng như  3 dân tộc kia hiện đang  bị Trung Quốc  áp dụng  chính sách triệt để Hán hóa để xóa bỏ  hẳn trên bản đồ thế giới .
Trung Quốc từ lâu đời có truyền thống xâm lăng những nước nhỏ yếu bên cạnh để bành trướng lãnh thổ và đồng hóa dân bản xứ thành người Hán .   Ngày nay vì nạn nhân mãn trầm trọng với  1.300 triệu người, Trung Quốc càng cần đi xâm lăng các nước khác, nhất là những nước đất rộng ít dân như Tây Tạng, Mông Cổ . . . hầu di dân giải tỏa áp lực dân số .  Do đó  chỉ mới mấy chục năm nay mà người bản xứ của những nước này trở thành dân thiểu số trên chính quê hương của họ với 20% dân số, 80% còn lại là người Hán thực dân .
Tibet-Map
ĐẤT NƯỚC và DÂN TỘC TÂY TẠNG :
  Tây Tạng là 1 quốc gia hiện diện lâu đời ở miền Trung Á, nói rõ hơn ở sườn phía bắc dãy núi Hymalias với độ cao trung bình trên 4.500m (núi Hoàng Liên Sơn cao nhất Việt Nam ở Lào Cai cao hơn 3.000m) nên người ta kêu Tây Tạng là nóc nhà thế giới .  Diện tích Tây Tạng khoảng  2 triệu 500 ngàn km2 ( chiến hơn ¼ diện tích Trung Quốc hiện nay ) bao gồm các khu vực rộng lớn chính như  Amdo, Kham và U-Tsang .  Thủ đô là Lhassa .
Sau khi chiếm Tây Tạng năm 1950, Trung Quốc cắt vùng Amdo rộng lớn phía đông bắc thành những mảnh nhỏ để sát nhập vào các tỉnh Thanh Hải, Cam Túc, Tứ Xyên ; phần phía đông vùng Kham cũng bị cắt nhỏ như thế để sát nhập  vào các tỉnh Vân Nam, Tứ Xuyên , Thanh Hải .     Khu gọi là tự trị Tây Tạng chỉ còn U-Tsang và tây Kham với diện tích hơn 1 triệu km2 .
Cách nay khoảng 5.000 năm,  khi  dân Hoa Hạ (Hán) có mặt ở khu vực tây bắc  (sông) Hoàng Hà thì dân tộc Tây Tạng cũng đã định cư ở vùng Trung Á này rồi và từ từ phát triển về phía đông và đông nam tách ra thành các nước  Nam Chiếu , Miến Điện  và có lẽ cả Thái Lan .  Nước Nam Chiếu rất hùng mạnh vào thế kỷ thứ 8, đã từng đem quân đánh An Nam (VN bây giờ), Miến Điện và tranh hùng với nhà Đường  Trung Quốc vào giữa thế kỷ này .  Nam Chiếu sau đổi thành Đại Lý và bị người Tàu xâm chiếm rồi đồng hóa thành tỉnh Vân Nam hiện nay .
Dân tộc Tây Tạng có 1 nền văn hóa lâu đời và có nhiều nước  từng chịu ảnh hưởng  sâu đậm của nền văn hóa này như  Népal , Boutan ,Sikkim . . . ở phía nam , phía bắc tới tận Mông Cổ và Trung Quốc ( phái Mật Tông) . Tây Tạng có ngôn ngữ riêng (tiếng Tạng Miến), chữ viết riêng, tôn giáo riêng với đạo Bôn xuất hiện  nhiều thế kỷ trước khi đạo Phật từ Ấn Độ truyền sang vào thế kỷ thứ 7 sau TL .   Hiện nay đạo Bôn vẫn còn được 1 số người theo và đạo Phật với phái Mật Tông lan sang Trung Quốc và cả Việt Nam , Mông Cổ .
Ngay từ đầu thế kỷ thứ  7 sau TL. Tây Tạng đã là 1 quốc gia hùng mạnh, đã từng phát triển tới Bangladest, Nam Chiếu ở phía đông, nam ; phía bắc và đông bắc tới Mông Cổ, Trung Quốc .
Liên tiếp 2 năm 635, 636 vua Songsten Gampo (604-650 sau TL ) đem quân đánh Trung Quốc buộc  vua nhà Đường lúc ấy phải gả công chúa Wencheng (Văn Thánh) cho vua Tây Tạng để giảng hòa .  Tuy vậy , sự tranh hùng giữa 2 nước xẩy ra liên miên suốt 3 thế kỷ .   Năm 763 vua Trisong Detsen (756-804) tiến quân tới Trường An , kinh đô nhà Đường, làm vua Đường Thái Tông phải chạy về Lạc Dương .  Vua Tây Tạng lập 1 ông vua bù nhìn ở Trường An để cai trị .  Đến năm 821, dưới triều vua Ralphachen (815-838) hai nước mới có hòa ước ký tại Lhassa, thủ đô Tây Tạng .    Bản hòa ước này được khắc bằng cả chữ Tây Tạng và chữ Hán vào 1 cột đá dựng bên ngoài chùa  Jokhang ở  Lhassa .  Cũng trong thời kỳ này, biên cương 2 nước Tạng, Hoa được vạch rõ, được đánh dấu bằng những trụ đá hay khắc vào núi đá như ở biên giới giữa 2 nước  vùng Vân Nam  .
Tây Tạng cường thịnh được khoảng 500 năm thì bị suy yếu do nạn chia rẽ, tranh chấp quyền hành .  Do đó , đầu thế kỷ thứ 13 nước này bị quân Mông Cổ chiếm để mở 1 con đường tiến quân chinh phục Trung Quốc , sau đó Trung Quốc bị đế quốc Nguyên Mông Cổ  cai trị gần 100 năm .  Khi nhà Nguyên Mông Cổ sụp đổ, Tây Tạng cùng với Trung Hoa và tất cả những nước khác lấy lại độc lập, nhưng đến thế kỷ thứ 16 Tây Tạng lại bị Mông Cổ đô hộ lần nữa .   Đầu thế kỷ thứ 18,  khi đế quốc Mãn Châu củng cố xong sự cai trị ở Trung Quốc thì tiến quân đánh chiếm Tây Tạng, cắt miền đất phía đông  Amdo sát nhập vào Trung Quốc  với cái tên Koko Nor (Hồ Nước Xanh).  Vùng này bị đổi thành tỉnh Thanh Hải năm 1929 dưới chính quyền Quốc Dân Đảng  do Tôn Dật Tiên sáng lập .
Khi đế quốc Mãn châu (nhà Đại Thanh) bị lật đổ ở Trung Hoa năm 1911, nhân cơ hội này Tây Tạng tuyên bố độc lập .   Nền độc lập này  kéo dài  được 39 năm thì bị Mao trạch Đông đem quân xâm chiếm .
Trung Quốc thường viện dẫn rằng trước đây Tây Tạng thuộc quyền đô hộ của nhà Nguyên (đế quốc Mông Cổ) và nhà Thanh (đế quốc Mãn Châu) nên nay họ có quyền tiếp tục cai trị . Lý luận như thế chẳng khác gì nói rằng cái nhà này ông tôi chiếm của hàng xóm, rồi đến bố tôi tiếp tục chiếm nên nay cái nhà này  thuộc về tôi .  Lập luận và lối chứng minh ấy thật lạ lùng  vì Tây Tạng cũng như Trung Quốc xưa kia cùng bị Mông Cổ và Mãn Châu xâm lăng, đều là nạn nhân của 2 đế quốc đó nên nếu lấy lịch sử để chứng minh chủ quyền như thế thì cái quyền ấy là quyền của người Mông Cổ và người Mãn Châu .
Họ có quyền đòi chủ quyền không những ở Tây Tạng mà ở cả Trung Quốc . Tương tự, những nước trong “ Bát Quốc Liên Quân “ Nga, Nhật, Đức . . .  có quyền đòi hỏi chủ quyền trên lãnh thổ Trung Quốc hiện nay,  ít nhất là Nhật có quyền đòi hỏi chủ quyền toàn bộ quần đảo Đài Loan vì quần đảo này đã từng bị sát nhập vào Nhật cho đến hết Thế Chiến thứ II  .
Đế quốc Mãn Thanh  của người Mãn Châu, không phải của người Trung quốc . Hiến Pháp Đại Cương  năm 1908 của đế quốc này gồm  15 điều , điều I ghi rất rõ ràng :
Điều I  : “ Hoàng Đế Đại Thanh thống trị đế quốc Đại Thanh, nối tiếp nhau đến vạn đời .”
Điều II : “Hoàng đế tôn nghiêm như thần, thánh, bất khả xâm phạm . “ . . . .   .
Triều dình của đế quốc Đại Thanh khi ấy thì ông vua Quang Tự là người Mãn,  12 Thượng Thư thì 8 là người Mãn ( trong đó 5 người là hoàng tộc Mãn ), chỉ có 4 là người Tàu ( Nguyễn hiến Lê, Sử Trung Quốc , Chương 8) . 
TÂY TẠNG DƯỚI ÁCH THỰC DÂN  TRUNG QUỐC :
Sau khi chiếm xong Tây Tạng, Mao mở đầu kế hoạch nuốt trọn Tây Tạng bằng cách hủy diệt  nền tảng cấu trúc về tôn giáo và đạo đức của xã hội Tây Tạng .  Đó là chiến dịch  đấu tố Cải Cách Ruộng Đất .  Bên ngoài là tịch thu ruộng đất  của tu viện, chùa chiền và địa chủ, những người giàu có để chia cho dân nghèo xóa bất công xã hội, nhưng bên trong hàm ẩn mục đích tiêu diệt tiềm năng chống đối của người Tây Tạng vì  Đạo Phật và ảnh hưởng của giới tu sĩ bao trùm hầu hết mọi sinh hoạt của Tây Tạng từ đạo đức, chính trị, văn hóa , giáo dục đến phong tục, tập quán  nên diệt được Phật giáo là diệt được Tây Tạng ( khoảng từ 20 đến 25% người trưởng thành Tây Tạng tu trong hàng ngàn tu viện và chùa chiền trên khắp nước (*).  Vì vậy quân đội Trung Quốc tịch thu hết ruộng đất của những cơ sở tôn giáo và đuổi những người tu hành ra khỏi tu viện, chùa chiền bắt phải hoàn tục .  Ai không nghe thì bị đánh đập, bỏ tù, những người chống đối thì bị giết ngay tại chỗ hay bắt đi mất tích .  Hai chữ “ mất tích” ở Tây Tạng từ khi bị Trung Quốc xâm lăng có nghĩa là bị đem đi thủ tiêu , không bao giờ trở lại .
Quân đội Trung Quốc chỉ định những đối tượng của cuộc Cải Cách Ruộng Đất bắt dân chúng phải đấu tố, bắn giết .  Đó là những vị sư sãi, những thân hào nhân sĩ, những người giàu có tại địa phương .   Toàn bộ tài sản liên quan hay thuộc về  họ bị tịch thu;  bạn bè, thân nhân bị canh chừng và bị cô lập bằng cách gạt ra bên ngoài tất cả mọi sinh hoạt xã hội . Dân chúng , giữa cha mẹ và con cái, giữa vợ và chồng, giữa xóm làng phải tố cáo lẫn nhau .
Vì bị cai trị khắc nghiệt như vậy nên chỉ 6 năm sau, năm 1956, người Tây Tạng bùng lên  phản kháng .  Lúc đầu là ở Amdo và đông Kham, những vùng bị cắt nhỏ sát nhập vào các tỉnh Cam Túc- Thanh Hải- Tứ Xuyên- Vân Nam , sau lan cả sang tây Kham và U-Tsang .  Cuộc nổi loạn bị trấn áp thật khủng khiếp, chỉ  trong 3 năm (1956 – 1959) hơn 20.000 người tham dự bị giết chết, dã nam nhất là hơn 200.000 người bị bắt đem đi thủ tiêu .  Đó là cha mẹ, vợ con,anh em,  xóm làng của những người chống đối .    Cuộc tàn sát này giống với cuộc tàn sát diệt chủng người Do Thái mà Hitler ra lệnh cho áp dụng ở châu Âu hồi Thế Chiến thứ 2 .
Từ đó tới nay một mặt Trung Quốc xiết chặt sự cai trị Tây Tạng và mặt khác ồ ạt di dân  cũng như đem hàng triệu tội phạm người Hán tới nhốt rồi cấp phát ruộng đất bắt định cư tại đó sau khi mãn tù (**) . 
Dân tộc Tây Tạng đã được hun đúc bằng  truyền thống văn hóa của ngàn xưa và từng có một lịch sử oai hùng không dễ gì chịu khuất phục trước bạo lực và chính sách Hán hóa của Trung Quốc nên dân chúng luôn luôn có những hành động phản kháng dưới mọi hình thức, từ nhỏ tới lớn .  Ngày  10 tháng 3 năm 2008 dân chúng thủ phủ Lhassa nổi lên biểu tình chống đối  bị công an và Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc đàn áp giết chết hơn 300 người  và mấy trăm người , trong đó có nhiều nhà sư,  bị bắt đem đi mất tích không bao giờ trở lại .  Từ cuộc nổi lên ở thủ phủ Lhassa này, sự cai trị tàn bạo của Trung quốc càng ngày càng tàn bạo thêm .  Bí Thư Tây Tạng ( người Hán ) Zang Qingli công khai tuyên bố : “ Những ai cần bắt sẽ bị bắt, cần bỏ tù sẽ bị  bỏ tù . Những ai cần giết sẽ bị giết .”
Báo Le Monde ra ngày 14-12-2012 viết : “ Sau vụ nổi dậy năm 2008, trấn áp là biện pháp duy nhất .” (Web site RFI ngày 14-12-2012) .     Còn báo Libération ngày  12-12-2012 đăng 1 bài phóng sự dài về Tây Tạng của  Phillippe Grangereau  có ghi lời  nữ văn sĩ Tây Tạng, bà Tsering Woeser,  mô tả :  hiện nay Tây Tạng không khác gì 1 nhà tù, nhất là tại thủ phủ Lhassa .   Công an, cảnh sát khám người trên khắp các nẻo đường, kẻ cả trẻ em . Vào chùa phải đưa thẻ căn cước vào máy và khi vào bên trong lại bị khám xét nữa.    Chỉ trên 1 đoạn đường 500m bà đi qua có 21 chốt gác của cảnh sát và gặp 3 đội tuần tra .
Ở Đồng Nhân không chỉ có công an, quân đội giữ an ninh, trật tự mà cả các cán bộ, công nhân viên cũng phải dành ½ thời gian canh chừng dân chúng.
Tất cả mọi người Tây Tạng ra đường dù ngày hay đêm đều phải mang theo 5 thứ giấy tờ tùy thân và luôn luôn bị khám xét trong khi người Hán ở Tây Tạng thì không bị sách nhiễu gì cả .
Cũng trong bài phóng sự này  Phillippe Grangereau  đưa ra nhận xét :”  Họ (Trung Quốc) muốn đồng hóa,  muốn triệt bỏ ngôn ngữ, văn hóa, tôn giáo, lịch sử, nhân cách của người Tây Tạng .”
Nhận xét ấy rất chính xác vì chỉ riêng trong thời gian Mao trạch Đông phát động Cách Mạng Văn Hóa vào những năm 1960 có hơn 6.000 tu viện và chùa chiền bị tiêu hủy, những cơ sở chưa bị phá thì bị canh giữ, các ni sư phải học tập chủ nghĩa cộng sản ; những nhà tu nào chống đối thì bị bắt, bị giết hay đem đi biệt tăm; học sinh và trẻ em bị cấm đến chùa ; vinh viên, học sinh phải học những môn học viết toàn bằng chữ Hán; phong tục tập quán, lối sống của người Tây Tạng bị chê bai, lăng mạ .
Chính sách Hán hóa khốc liệt ấy không khác gì chính sách mà quân nhà Minh áp dụng khi xâm lăng Việt Nam đầu thế kỷ thứ 15 .    Sắc chỉ của Minh thành Tổ ngày 21-8-1406 ra lệnh bất cứ sách vở, văn, thơ,  vết tích văn hóa nào của Việt Nam cũng phải thu, phải đốt, phải đục cho hết .
Trong Việt Nam Sử Lược, sử gia Trần trọng Kim ghi : “Đến tháng 8 năm Giáp Ngọ (1414 ) Trương Phụ và Mộc Thạnh về Tàu đem theo những đàn bà, con gái về rất nhiều . Bọn Hoàng Phúc ở lại sửa sang các việc trong nước để khiến người An Nam đồng hóa với người Tàu .   Lập đền miếu bắt người mình phải cúng tế theo tục bên Tàu, rồi từ cách ăn mặc cho chí sự học hành, việc gì cũng bắt như người Tàu cả .  Còn cái gì là di tích của nước mình thì thu nhặt đem về Tàu hết sạch .”
Sử gia Trần trọng Kim ghi tiếp rằng Hoàng Phúc bắt các  châu, huyện phải lập văn miếu thờ  Khổng Tử và lập các bàn thờ trong nhà để thờ các thần sơn (núi), xuyên (sông), phong (gió), vân (mây) . . .  . Bắt đàn ông, con trai không được cắt tóc ngắn; đàn bà, con gái thì phải mặc áo ngắn quần dài theo  cách ăn mặc của người Tàu ( đàn bà Việt Nam thì mặc áo dài, váy đen – PH Sơn chú thích).
(Trần trọng Kim, Việt Nam Sử Lược Q.I trang 211&212, Bộ Giáo Dục xb. năm 1971).
Chúng ta đọc lại giai đoạn lịch sử đen tối của Việt Nam để cảm thông nỗi nguy nan của dân tộc Tây Tạng dưới ách cai trị của Trung Quốc hiện nay .
Trong hoàn cảnh ngặt nghèo như thế, toàn dânTây Tạng đang kiên trì tranh đấu cho sự sống còn của dân tộc bằng sự hy sinh vô bờ bến,  hy sinh bằng chính bản thân họ biến thành những ngọn đuốc sống  đang bừng cháy trên vùng trời Hymalias .
Nhân loại đã nhận thấy sự thống khổ của họ, Liên Hiệp Quốc, Cộng Đồng Âu Châu, các quốc gia, các cơ quan bảo vệ nhân quyền . . .  liên tục lên tiếng mạnh mẽ phản đối chế độ thực dân Trung Quốc tại Tây Tạng .
Trước công luận và sự lên án của thế giới, liệu Trung Quốc có thể duy trì mãi mãi chế độ thực dân ở Tây Tạng, Nội Mông Cổ, Tân Cương hay sẽ sớm nở tối tàn như  3 đế quốc  muộn  Đức, Nhật, Ý năm 1945  ? 
Phạm hy Sơn
( 18 – 03 – 2013 ) 
GHI CHÚ :
  -(*) Dù sống đời sống tị nạn tại Ấn Độ, hiện trong 200 ngàn người Tây Tạng ở Dharamsala có 20 ngàn tăng ni tu trong 200 tu viện hay trong các ngôi chùa – như vậy là 10% dân số đi tu .
– (**) Trong  cuộc đàm luận với 1 nhà báo Ấn Độ hồi tháng 4-2012, Đức Đạt Lai Lạt Ma tiết lộ hiện nay ở thủ đô Lhassa người Hán chiếm 2/3 sân số và nắm hết các quyền lợi của người Tây Tạng . Xin xem đầy đủ trên Web site   thuvienhoasen.org  /phần Phật Giáo Thế Giới .
nguồn : khoahocnet.com

NHỮNG THÔNG ĐIỆP CÓ KHẢ NĂNG LÀM SÁNG TỎ NGHI ÁN NGÀN NĂM



Người Trung Hoa luôn tự hào và mạnh miệng tuyên bố rằng chính họ là người sáng tạo ra Hà Đồ, Kinh Dịch… Bất chấp không ít ý kiến, công trình nghiên cứu của nhiều học giả đặt nghi vấn về nguồn gốc thật của nó.
Một trong những nhà nghiên cứu luôn bày tỏ sự nghi ngờ đó chính là tác giả Viên Như. Ông đã từng có hàng loạt khám phá, phân tích và chứng minh lý thú xoay quanh các “nghi án ngàn năm” về chuyện các triều đình Trung Hoa song song với việc xâm lược Việt Nam bằng quân sự còn chú ý thực hiện hàng loạt kế hoạch tiêu diệt văn hóa Việt với nhiều thủ đoạn không thể tưởng.
Một trong các thủ đoạn thâm độc đó là xuyên tạc và bóp méo nhiều tác phẩm quan trọng của các danh nhân người Việt có tư tưởng và công trạng lớn lao trong việc dựng nước và giữ nước trước họa xâm lăng từ phương Bắc, được nhân tôn kính. Đồng thời bịa ra nhiều câu chuyện hư hư thật thật xung quanh cuộc đời của các danh nhân người Việt để bôi đen nhân cách của họ.
Tác giả Viên Như vừa cho công bố một loạt bài nghiên cứu chứng minh Hà Đồ, Kinh Dịch hoàn toàn là thành quả trí tuệ của người Việt cổ, tổ tiên của người Việt Nam ngày nay. “Nói có sách, mách có chứng”, theo tác giả Viên Như toàn bộ các chứng cứ đều được ghi rõ trên mặt trống đồng cổ của người Việt.
Đây có lẽ là một nghi án văn hóa lớn nhất và dài nhất của nhân loại. Tác giả Viên Như tin tưởng rằng với những phát hiện mới và hệ thống chứng cứ của ông về những gì đã ghi lại trên mặt các trống đồng cổ của người Việt, cho phép ông khẳng định: Hà Đồ và Kinh Dịch 100% là của người Việt Nam.
Tuy nhiên, tác giả Viên Như cũng thừa nhận rằng: "Với kiến thức giới hạn, tôi xin lí giải một phần của trống đồng. Tôi tin rằng chắc chắn còn nhiều tầng nghĩa nữa sau chiếc trống đồng im lặng ấy, mong những ai có học thức và chuyên môn hãy cùng chung sức đáp lời tiên tổ, đánh thức những âm thanh của bức thông điệp mà tổ tiên nước Việt đã gửi lại trong vô tự tâm thư – TRỐNG ĐỒNG, để giải oan cho ông cha ta, dân tộc ta từ mấy ngàn năm qua mang tiếng cái gì cũng học của người phương Bắc".
Xin tri ân tổ tiên nước Việt đã dày công tạo nên trống đồng, với một ngôn ngữ kỳ diệu, đồng thời là một văn bản viết tay với những bằng chứng không thể biện bác, như là một sự tiên trị, chuẩn bị cơ sở cho hàng ngàn năm sau để cháu con làm sáng tỏ.
Xin chúc mừng tác giả.
ĐÃ TÌM THẤY HÀ ĐỒ - KINH DỊCH TRÊN TRỐNG ĐỒNG ĐÔNG SƠN
Viên Như
Trước hết xin bàn qua chuyện RỒNG. Theo truyền thuyết con Rồng cháu Tiên thì Lạc Long Quân nói với Âu Cơ “ Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên… không ở với nhau được” Vậy giống Rồng là giống gì? Từ đâu mà có giống này? Tất nhiên là không phải con Rồng trong thần thoại rồi. Căn cứ vào câu chuyện thì ta biết rằng Lạc Long Quân là người Đồng bằng còn Âu cơ là người miền Núi. Chữ Rồng được hình thành theo cách sau : Lạc Long Quân là dân lúa nước, những mảnh đất nhỏ trồng lúa gọi là RUỘNG, miền trung gọi là rọn, còn tất cả những mảnh đất trồng lúa gộp lại thì gọi là ĐỒNG. Hằng năm những cơn mưa đến, nước từ trên trời trút xuống, trên nguồn đổ về dâng lên bao phủ cả bốn bề. Thậm chí người ta chẳng thấy mưa đâu, vì mưa nơi khác, nhưng bổng dưng họ chứng kiến những con nước cứ từ từ dâng lên, bò lên những cánh đồng, vượt qua những bờ đê, leo lên cả mái nhà, nó di chuyến khắp nơi, mà đã di chuyển được, bò đi được thì nhất định thuộc loài gì đó, con gì đó, nhưng không biết con gì, chỉ thấy nó trườn qua Ruộng qua Đồng nên người xưa mỗi lần thấy nước lên thì thông tin cho nhau là có con Ruộng Đồng tới, lâu ngày thành con Rồng theo quy luật giản lượt tự nhiên của ngôn ngữ khi đã nói nhiều, nói nhanh – lướt thành RUỘNG + ĐỒNG = RỒNG. Chính vì vậy trong tâm thức người Việt, con rồng hết sức to lớn, luôn luôn gắn liền với nước, nên khi nước trên trời trút xuống thì họ nghĩ là có con rồng ở trên ấy, ngày ấy không có gì mạnh mẽ hơn sức mạnh của nước hay của rồng . Ngày nay khi nước lên ta vẫn gọi là nước ròng. Từ một con nước không có hình hài cụ thể nhưng do nhu cầu hiện thực, đã là con vật thì phải có hình tướng, nên về sau con rồng đã được mang một thân hình cụ thể với những chi tiết khác nhau, tùy theo mức tưởng tượng của mỗi dân tộc qua các thời đại, chỉ cái bản chất duy nhất của nó là không thay đổi mà thôi. Đó là sức mạnh.
Cũng như chữ RỒNG, trước khi tạo ra trống đồng, chắc chưa có từ TRỐNG, từ này chỉ xuất hiện sau khi trống đồng đã được sử dụng theo dòng chảy sau đây:
Như ta biết người Lạc Việt xưa là cộng đồng cư dân lúa nước, các vuông đất trồng lúa được gọi là ĐỒNG, từ này được thành lập bởi đọc lướt từ ĐẤT + TRỒNG = ĐỒNG 同. Vì vậy khi làm ra khí cụ mà ta gọi là trống đồng người ta đặt tên là CÁI ĐỒNG, khi đánh CÁI ĐỒNG nó phát ra một âm thanh mạnh mẽ như con Rồng gọi là “ RỐNG” từ xa khi nghe thấy người ta bảo nhau rằng : ĐỒNG RỐNG, lướt thành ĐRỐNG rồi thành TRỐNG từ đó người ta gọi khí cụ ấy là TRỐNG ĐỒNG. Tất nhiên người Việt xưa đã có triết lý nòng nọc – âm dương rồi nên đã có CÁI ĐỒNG = dương, thì phải có cái âm nên họ làm tiếp cái khác để biểu trưng cho tượng này, cái đó gọi là CỒNG 共, Từ CỒNG, do đọc lướt từ CÁI + ĐỒNG = CỒNG. Về sau gọi một tập thể người gồm nam nữ là CỒNG ĐỒNG rồi thành CỘNG ĐỒNG 共 同 theo nguyên tắc âm dương như biểu í của con chữ.
Trống đồng là thành quả cao nhất của của cư dân Lạc Việt lúc bấy giờ, những gì được thể hiện trên trống đồng đã thể hiện điều đó, rỏ ràng tư tưởng, kỉ thuật và nghệ thuật đúc đồng lúc bấy giờ đã đạt đến trình độ uyên áo và tinh xảo. Tất nhiên để có được một thành quả như vậy đòi hỏi phải qua một quá trình lâu dài, không những chỉ là vấn đề kỉ thuật mà còn đòi hỏi người Việt phải làm việc tích cực cả cộng đồng để thống nhất tư tưởng, từ đó mới chọn ra được những ngôn ngữ nào thông qua hình ảnh, hoa văn để viết thành một cuốn sử bằng tranh trên trống đồng. Chắc chắn rằng tất cả những gì được đưa vào trống đồng đều có tiếng nói riêng của nó, chính vì vậy từ trước tới giờ đã có rất nhiều người nghiên cứu nhằm giải thích cái thông điệp mà tổ tiên người Việt gởi gắm trong đó. Giải thích thì nhiều nhưng dường như chưa có một lí giải nào có tính hệ thống đầy đủ hay nói khác hơn người ta chưa xâu chuổi được các thông tin thông qua hình ảnh trên trống đồng thành một câu chuyện hợp lí, thuyết phục, từ đó cung cấp cho hậu thế một cái nhìn tương đối về cuộc sống của ông cha ta lúc bấy giờ. Đây là một vấn đề lớn và chắc chắn các nhà nghiên cứu tâm huyết với cội nguồn dân tộc đã bỏ ra rất nhiều thời gian và công sức nhưng kết quả vẫn chưa làm thỏa mãn được nhu cầu của dân tộc. Điều ấy là chuyện bình thường, vì những gì ghi lại trên trống đồng cách chúng ta cả mấy ngàn năm, chừng ấy thời gian thì mọi thông tin đã sai lạc, biến thái, nhưng chúng ta chỉ có thế, chỉ biết lần theo dấu vết của các thông tin từ các truyền thuyết và lịch sử mà tìm về cội nguồn, mà lịch sử thì biến động không ngừng nên đôi khi những gì ghi lại nó lại là bảng chỉ đường sai lạc dẩn ta về những kết quả không như mong đợi.
Với hiểu biết nhỏ bé của mình tôi cũng xin đưa ra đây vài giải thích về trống đồng. Tất nhiên là phải chọn loại xưa nhất theo xếp loại của các nhà nghiên cứu trống đồng, cụ thể ở đây là trống đồng Đông Sơn.
alt
http://www.vietnamvanhien.net
Mặt trống đồng Đông Sơn : Ngoài các hoa văn hình học, mặt trống có bốn vòng chính như sau :
1- Vòng tròn hình ngôi sao hay mặt trời 14 tia, có cái 12, 10, 8, chuyện này ai cũng biết rồi, sống mà thiếu mặt trời thì làm sao sống được, cư dân lúa nước Lạc Việt cũng thế thôi. Vì có sự khác nhau đáng kể như vậy nên nhiều nhà nghiên cứu đề nghị để chỉ thành phần bộ lạc tham gia đúc trống. Tuy nhiên cần phải nghiên cứu sâu thêm. Riêng đối với các tam giác bên trong có biểu tượng mà theo tôi là cóc hướng về mặt trời, vì nhiều trống khác cụ thể bằng con cóc lên bề mặt. Tựu trung thì người Việt xưa thờ mặt trời. Vũ trụ quan và nhân sinh quan đều dựa trên khái niệm nòng nọc, âm dương hay cóc.
2- Vòng có người, tả cảnh sinh hoạt của cộng đồng khi xong mùa. Ta thấy cảnh giả gạo, nhảy múa, thổi khèn, đâm trống, đánh cồng, có lẽ để cúng tế , vì có người đứng trước âu cầu mùa đang dang tay nói gì đó. (hình người ngưỡng mặt lên trên có con gà). Việc cúng tế nơi nào cũng giống nhau, nên hai âu cầu mùa đều giống nhau, còn hình người ngồi trong nhà như đang ăn uống, tuy nhiên số lượng người trong nhà và chim trên mái nhà khác nhau, điều này có thể nói lên là có nhiều gia đình đang vui chơi buổi xong mùa và có nhà thì một người hát, hò hay kể chuyện (một con chim), nhà khác thì mọi người cùng hát, hò (hai con chim). Con chim trên mái nhà theo tôi là biểu tượng cho âm nhạc vì vậy trên âu cầu mùa – chổ đánh cồng- của trống Hoành Hạ, cũng có hai con chim.
altaltaltalt
Cầu nguyện Tổ tiên Tấu cồng Nhảy múa Hát đồng dao
3- Vòng có hình các con gà và hươu. Đây là thú văn chỉ cho thấy rằng người Việt đã bắt đầu có ngôn ngữ hình tượng.
Theo tôi câu “ Nôm na là cha mách qué” là để chỉ về hình ảnh này. Câu này có thể giải thích như sau : 喃Nôm = chữ Việt,那Na = ấy (Hán) Nôm là Nớ = ấy, Cha = người làm ra = tác giả, Mách = Con hươu, ngày nay vẫn gọi hươu nai là con mang. Qué = con gà. Viết thành câu = Nôm nớ là cha mách qué. = Nôm ấy là người làm ra hươu gà. Ta có thể viết ngược lại “Chữ hươu gà ấy là chữ Nôm.
A- Chữ Qué - Ngày trước khi muốn làm việc gì quan trọng, người ta thường làm gà để cúng tổ tiên sau đó đem cặp giò đến ông thầy xem tổ tiên nhắn gửi thế nào, gọi là bói giò gà. Sở dĩ có tục bói gà là vì ngày xưa người Việt thấy con gà khi bới đất tìm thức ăn, để lại trên đất những vạch ngang dọc nên người ta đặt tên nó là quái 卦 nhưng để tránh trùng với các quái người ta gọi trại ra thành qué về sau thành quẻ. Người xưa nghĩ rằng con gà có khả năng biết về dịch lý nên đã vẽ ra những quẻ, nhằm nói lên những điều gì đó, vì vậy sau khi chết, cặp giò của nó là là nơi chứa các thông tin của các quẻ, qua các đường gân máu hiện ra nơi giò tượng trưng cho các quẻ hay những lời nói của tổ tiên. Thầy đoán căn cứ vào đó mà nói. Vì vậy ở vòng tròn nói về sinh hoạt của con người ta thấy có người đang ngưỡng mặt lên trời nói gì đó với qué (tổ tiên). Về sau người phương Bắc chiếm lấy đọc là kê 鷄. Biểu ý của chữ này cho thấy kê là loài chim – Điểu 鳥 biết đặt vấn đề - Hề 奚 = sao mà, sao thế.
B - Chữ Mách – Ngày xưa có lẽ trong các loài hoang dã có sừng, hươu là động vật người ta thường thấy nhất, vì nó hiền, không làm hại đến con người và dĩ nhiên là đối tượng bị con người săn bắn nhiều nhất lúc bấy giờ. Trong quá trình săn bắn người ta quan sát thấy con hươu hay cọ sừng vào gốc cây làm thành những vạch ngang, từ đó họ tin rằng con hươu cũng có khả năng vẽ ra những quẻ như con gà. Vì vậy sau khi ăn thịt họ tin rằng xương hươu có chứa thông tin các quẻ nên lấy một cái que nóng chọc vào xương cho nức ra -卜 Nôm = Bói, Hán = Bốc- , những đường nức đó xem như là lời nói của các quái, thầy bói tùy theo đường nức đó mà đoán, (biểu í của chữ quái 卦 đã cho thấy điều này). Trong hướng suy nghĩ này, về sau, khi đã phát triển chữ viết khá hoàn hảo, người Việt viết các lời đoán lên xương hươu. Cũng chính hình ảnh con hươu cọ sừng vào gốc cây này mà người Việt vẽ thành một chữ tượng hình 角 đọc là GỐC, như trong “gốc cây” có nghĩa là phần dưới của cây. Như vậy chữ 角 tuy là tượng sừng, nhưng nó là đại diện cho xương hươu, chính vì vậy người Việt đã phát triển tiếp í tưởng này vẽ thành một chữ khác đó là chữ 觚CỌ, như trong “cọ xác 觚殼”(cọ lên cái cỏ ngoài) Hán đọc là CÔ, nghĩa hiện nay trong chữ Hán là cái thẻ tre để viết chữ, nhưng chiết tự ra ta thấy là dùng móng nhọn để cọ chữ lên xương hươu, cái mà ngày nay ta gọi là giáp cốt. Điều này đã được minh chứng qua giáp cốt văn mà các nhà khảo cổ, năm 1964, đã tìm thấy thành Ân Khư đời Thương (khoảng 1700 – 1064 TCN). Về sau người phương Bắc chiếm lấy rồi đọc là GIÁC với nghĩa là SỪNG, tuy nhiên âm GIỐC và GÓC đến nay vẫn còn, nhưng để chỉ góc cạnh. Tất nhiên họ thừa biết nghĩa của chữ ấy là gốc cây, nhưng họ chỉ lấy phần tượng hình con chữ là sừng, bỏ đi phần nguyên nhân ra đời của chữ tượng hình đó – từ nguyên- nhằm xóa bỏ nguồn gốc con chữ của người Việt, nhưng vẫn còn đó chữ cọ = 觚 . Vậy là người phương Bắc dấu đầu mà lại lòi đuôi. Như thế ta thấy rằng chữ gốc 角, qué 鷄 là chữ Nôm như câu “Nôm na là cha mách qué” đã cho biết. Điều nay chứng minh rằng chữ vuông là chữ Nôm và nó có từ khi bình minh của con chữ tượng hình chứ không phải từ thế kỉ thứ 10 như ta biết; như vậy chắc chắn rằng chữ vuông mà người phương Bắc đã và đang dùng căn bản là chữ Nôm.
altalt
4 – Vòng có những con chim. Đây là điểu văn. Con chim lớn là con chim thuộc họ hạc như cò, vạc, diệc. Trên trống đồng có thể là con chim diệc, về cơ bản người Việt xưa cũng thấy khi cò, diệc ăn trên đồng, để lại những dấu chân trên những thảm bùn, do di chuyển qua lại nên các dấu chân chồng lên nhau, tạo ra nhiều quẻ khác nhau, người ta nghĩ rằng cũng như gà, hươu, diệc cũng biết quẻ, không những dưới đất mà loài cò diệc, khi làm tổ trên cây thường tha những cái đoạn cây nhỏ, ta gọi là que, xếp ngang dọc để làm tổ nên người xưa cũng nghĩ loài này, nói chung, đều biết quẻ nên lấy tên con diệc để làm biểu tượng cho loại ngôn ngữ siêu hình của họ, vì con diệc ngoài bản thân nó, nó còn có đủ yếu tố của cả hai con hươu, gà– trên trời, trung gian, dưới đất. Có thể từ đó mà có BA GẠCH ☰. Về sau người phương Bắc lấy làm của họ đọc trại đi từ DIỆC thành DỊCH trong KINH DỊCH. Từ hình ảnh của con chim diệc người ta vẽ ra có chữ tượng hình 易 Diệc hay Dịch = thay đổi. Vì vậy cứ hình ảnh trên trống đồng, ta thấy những con chim diệc dang cánh bay, tất cả đều không thay đổi, nhưng bên dưới mỗi con thì có những con chim nhỏ cứ thay đổi dần theo hướng di chuyển của con chim lớn. Tất nhiên đó là nguồn gốc ban đầu chứ không phải là tất cả như Kinh dịch hiện nay, vì Kinh dịch hiện nay là thành quả của biết bao bộ óc minh triết qua mấy ngàn năm, nhưng nếu không có nguồn thì làm gì có sông.
alt alt
Tất cả những hình ảnh trên trống đồng đều ngược vòng kim đồng hồ, có nghĩa là quay về. Ở đây là quay về hướng thần mặt trời, nghĩa bóng là quay về với cội nguồn. Trong nghĩa đó, chữ nghĩa cũng để nói những chuyện trong quá khứ nên chữ vuông ngày xưa viết từ phải sang trái, trên xuống dưới là vậy.
Thân trống đồng : Chủ yếu hình thuyền, qua hình ảnh cho thấy người Việt cổ đã có kỉ thuật đóng thuyền khá cao. Hầu hết các thuyền trên trống đồng đều diễn tả sự chiến đấu gồm có các loại như sau :
alt
1 – Loại nhỏ . Có lẽ để đi câu hay tập kích.
alt
2- Loại vừa. Chắc để tiếp vận lương thực.
3 - Loại lớn.
alt alt
A - Đang chiến đấu. Bắt tù binh.
alt
B – Rút lui có tù binh
alt
Đặc biệt trên thạp Đào Thịnh có hình thủy chiến trực diện, quân Lạc Việt trên thuyền lớn đang hò reo chiến thắng. Chim ca reo mừng. Phe địch rút lui.
Các hình thú quanh thân các loại trống đồng, cá sấu, chồn, nai v.v. theo tôi chỉ để khắc họa các con vật quen thuộc với cư dân lúa nước thời ấy mà thôi.
Trống đồng Đông Sơn là báu vật quốc gia đúng như từ mà xưa kia ông cha ta đã nói – Bửu bối- Tư tưởng của những người làm ra nó rỏ ràng đã vươn tới tầm cao huyền diệu. Toàn bộ trống đồng được xây dựng với một bố cục hết sức chặc chẽ. Không những tổ tiên ta hết sức tài tình trong cách chọn lựa ngôn ngữ hình ảnh để chuyển tải í tưởng của mình, chim biểu tượng cho âm nhạc, gà biểu tượng cho ngôn ngữ tâm linh – hươu cho ngôn ngữ viết, diệc cho ngôn ngữ triết học siêu hình, mà còn tính toán xếp đặt làm sao có thể gợi í cho người đời sau có thể nhận biết được, ví dụ : Bằng cách lập lại nhiều lần, như chim trên nhà sàn, âu cầu mùa, đặc biệt là trong tình huống có tính xung đột như hình những con chim trên thuyền của người lạc Việt. Hai chiến thuyền sát nhau, vậy mà người xưa chỉ khắc họa cả bầy chim trên thuyền chiến thắng, với hình ảnh này dù trong im lặng nhưng ta có thể nghe thấy tiếng reo hò. Thêm vào đó nhận thức của họ về ngôn ngữ phương hướng trong không gian phải nói là vô cùng kinh ngạc - Cách mà người xưa sắp đặt hình ảnh ngược chiều kim đồng hồ để chỉ sự hướng tâm cho thấy là họ đã có sức cảm thụ ngôn ngữ hình ảnh 2 D một cách chính xác. Nhưng quan trọng trên hết đó là cùng một hình ảnh, nhưng qua cách sắp đặc trí tuệ, nó vừa kể cho ta câu chuyện cuộc sống hơn 4000 năm trước, lại vừa kể cho ta một câu chuyện khác về lý âm dương tối quan trọng của nước Việt và chắc là của cả loài người.
Cũng với hình ảnh ấy trước hết với cái nhìn tổng thể thì ta thấy người xưa đã xây dựng một trật tự của vũ trụ hết sức khái quát, với một vòng tròn đồng tâm lớn tượng trưng cho vô cực, vì vô cực nên nó bao trùm hết tất cả vạn hửu. Trong vòng tròn lớn này có vòng trong nhỏ ở trung tâm, cái này người ta có thể thấy được, cảm nhận được như mặt trời, đó là thái cực, từ thái cực này mà sinh ra âm dương, nhị nghi - các hình tượng cóc phân hai trong tam giác hướng về thái cực - Rồi từ trong vòng quay mênh mông của vũ trụ, trùng trùng điệp điệp – các hoa văn hình học khác nhau, từng vòng đồng dạng nối tiếp nhau vận hành quanh thái cực và nhị nghi từ đó sinh ra tứ tượng – Bốn ngôi nhà, biểu tượng cho Thiếu dương – thái dương – thiếu âm - thái âm - cái úp xuống, cái ngược lên, theo hình chày cối, trên ngôi nhà, chim cũng có chẳn lẽ, chỉ rỏ hai tượng âm dương, từ đây mà sinh ra bát quái- (hình con qué) - Hai nhóm đâm trống, mỗi nhóm bốn người. Như vậy là đủ cả vô cực– thái cực- nhị nghi- tứ tượng – bát quái. Tiếp tới nhiên giới cũng thế, từng đàn hươu qué theo nhau quấn quít, âm dương, dương âm, cứ thế mà quay mãi, nhưng có đổi thay bao nhiêu chăng nữa cũng không ngoài vòng vô cực, cái lớn lao huyền ảo đó được người xưa khắc họa bởi một vòng tròn bao trùm mọi thứ, với những hoa văn hình học khác nhau, nhưng đồng dạng nối nhau bao trùm thế giới.
Đó là cách nhìn trống đồng theo trật tự từ trong ra ngoài, giờ đây chúng ta xét trống đồng theo mặt phẳng với cái nhìn toàn bộ mặt trống đồng là thái cực, trong đó chia hai, nữa âm, nữa dương đối lập nhau, chúng ta mới thấy hết cái trí tuệ của tổ tiên nước Việt. Kẻ một vạch thẳng chia hai vòng tròn tại điểm đầu của đoàn người nhảy múa, ta thấy rỏ một nửa là dương, bảy người – số lẻ, nửa kia là âm, sáu người – số chẳn. Đây chính là hướng Nam, Bắc, Càn, Khôn. Căn cứ vào hướng bắc số 6, hướng nam số 7 ta tính theo hướng ngược chiều kim đồng hồ theo sự chỉ dẩn của trống đồng, ta có 8 ở phương đông, 9 ở phương tây , rồi Bắc 1, nam 2, đông 3, tây 4 từ đây ta biết đây là con số của Hà đồ. Mà như ngày nay ta biết trật tự đếm theo Hà đồ là ngược chiều kim đồng hồ. Trong dãy số này ta thấy không có số 5, từ đó ta biết biến số của nó là 5, vì nó ở giữa của số đếm từ 1-9 (cửu cung), Hai số âm dương -nhị nghi – tuy bắt đầu phân hóa nhưng vẫn còn đang quyến luyến trong tứ tượng 2 +4 = 6 (sáu con gà), nhưng rồi cũng phải tiếp tục con đường phân hóa làm ra tám quẻ, (tám con gà nữa). Đến đây xem như vương quốc vũ trụ của ông vua thái cực, cùng với quần thần 6+8 = 14 đã đầy đủ, như đã thể hiện tại trung tâm trống đồng (14 tia sáng). Như đã nói trước số 5 thuộc trung ương, dĩ nhiên đã là trung ương (cung) thì 4 phương chổ nào nó cũng can dự được : 6-1=5, 7-2=5, 8-3=5, 9-4= 5 từ đó ta có 20 con hươu chạy vòng ngoài. Tuy nhiên chạy lui, chạy tới tính ngược, tính xuôi thì cũng nằm trong 9 cung, một âm, một dương làm thành 18 thao túng cả càn khôn, vũ trụ, ấy là 18 con chim diệc. Mấy ngàn năm qua người ta gọi là Tiên thiên bát quái. Khi người Việt di cư lên đến sông Hoàng hà chắc có lẽ thấy nước chảy từ trên ấy xuống phía nam nên mới đổi khảm vào phương bắc, tạo nên một cuộc cách mạng tri thức rúng động mấy ngàn năm qua, gọi là hậu thiên bát quái. Đó là chuyện con người, còn vũ trụ vẫn thế, cũng với số 20 âm dương quấn quít ấy (tổng của chẳn và lẽ trong cửu cung), làm nên cái Lạc thư.
alt altalt
Đến đây có lẽ phiên tòa “Cóc kiện trê” đã kết thúc, phần thắng thuộc về Cóc, một phiên tòa kéo dài chưa từng có trong lịch sử loài người, ít nhất cũng trên 5000 ngàn năm, với biết bao luật sư và luận sư, cùng quá nhiều nhân chứng, vật chứng giả vô cùng tinh vi, bên nguyên tưởng chừng như vô vọng, nhưng cuối cùng luật sư Nhái đã hoàn toàn có lý, một kết thúc có hậu cho công lí loài người. Có điều phiên tòa đã kết thúc, bản án đã có, nhưng để giải quyết được hậu quả mà vụ án này gây ra là không dễ. Biết được nỗi lo của Cóc. Luật sư nhái liền nói- “Thôi anh ạ, đây là phiên tòa danh dự, mà mình đã thắng kiện là được rồi. Từ nay anh hãy lấy bản án này làm đạo bùa chữa bệnh cho những người bị bệnh khom lưng, cúi đầu truyền kiếp, như thế là có ích lắm rồi, chứ anh nên nhớ Trê là loài có ngạnh, dây vào nó mệt lắm”. Cóc nghe nói. Ngước mắt nhìn trời, im lặng.
Với kiến thức giới hạn, tôi xin lí giải một phần của trống đồng. Tôi tin rằng chắc chắn còn nhiều tầng nghĩa nữa sau chiếc trống đồng im lặng ấy, mong những ai có học thức và chuyên môn hãy cùng chung sức đáp lời tiên tổ, đánh thức những âm thanh của bức thông điệp mà tổ tiên nước Việt đã gửi lại trong vô tự tâm thư – TRỐNG ĐỒNG, để giải oan cho ông cha ta, dân tộc ta từ mấy ngàn năm qua mang tiếng cái gì cũng học của người phương Bắc.
Các hình ảnh minh họa lấy từ trang http://chimviet.free.fr
Nguồn Chữ Nôm Mới