Tổng số lượt xem trang

Chủ Nhật, 3 tháng 11, 2013

Ngày 04/11/2013 - Con ông cháu cha: Gánh nặng của ngân sách quốc gia?

TIN LÃNH THỔ

TIN XÃ HỘI

TIN KINH TẾ

TIN GIÁO DỤC

TIN ĐỜI SỐNG

TIN CÔNG NGHỆ

TIN VĂN HÓA GIẢI TRÍ

TIN THẾ GIỚI


Ơ, hóa ra chủ tịch hội đồng quản trị Ngân hàng Chính sách Xã hội chính là Thống đốc Nguyễn Văn Bình!


TRÍCH TỪ BÀI Bao nhiêu đồng phạm giúp “cậu Thủy” lừa hài cốt liệt sĩ?:
Đối tượng thứ hai mà dư luận có quyền nghi ngờ là Ngân hàng Chính sách xã hội và những cán bộ có liên quan của ngân hàng này, vì họ đã tham gia vào các vụ tìm mộ lừa đảo của đối tượng Thúy, còn ngân hàng thì đã “giải ngân” tiền cho nhà tâm linh rởm này.
Luật sư Phạm Hồng Hải cho rằng, theo các quy định pháp luật, không truy tố hình sự tổ chức, tập thể nên không quy kết ngân hàng chính sách tham gia tìm mộ liệt sĩ là đồng phạm với Nguyễn Thanh Thúy trong hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Nhưng nếu cơ quan điều tra phát hiện được cá nhân nào trong ngân hàng biết rõ Thúy lừa đảo mà vẫn giúp sức cho hắn lừa các gia đình liệt sĩ, cá nhân đó sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự với vai trò đồng phạm với đối tượng Thúy. Mặt khác, nếu Nguyễn Thanh Thúy gây ra hậu quả nghiêm trọng vì có sự giúp sức của Ngân hàng chính sách, có thể lãnh đạo ngân hàng sẽ bị khởi tố theo tội danh: Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng theo điều 285 Bộ luật Hình sự.
Ngân hàng chính sách là một tổ chức của Nhà nước, trong vụ việc này dẫu bị lợi dụng hay giúp sức cho Nguyễn Thanh Thúy lừa đảo, lãnh đạo ngân hàng và các cán bộ tham gia cũng sẽ bị xử lý kỷ luật theo Luật Cán bộ công chức.
Có thể ngân hàng chính sách chỉ là nạn nhân của nhà tâm linh lừa đảo Thúy, song đây cũng là bài học cho những cán bộ công chức lạc hậu, mê tín dị đoan.

Dẫn theo tin 247.com:
“Theo cáo buộc của VTV: Sau 4 cuộc liên kết với ngân hàng Chính sách xã hội,chưa đầy 8 tháng, cậu Thủy đã thu tiền công 7,9 tỷ đồng, chưa kể hàng chục vụ lẻ có Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam cùng đi…. Theo nguồn tin của cơ quan này, chính Ngân hàng CSXH địa phương mới là nơi xuất tiền. Và các phó chủ tịch UBND các tỉnh giữ chức trong HĐQT địa phương của ngân hàng.”

Ơ, hóa ra chủ tịch hội đồng quản trị Ngân hàng Chính sách Xã hội chính là Thống đốc Nguyễn Văn Bình!
Nhìn vào danh sách hội đồng quản trị ngân hàng này mới thấy kỷ lục: các ủy viên gồm 6 thứ trưởng hoặc cấp tương đương của các bộ, ngành…
Chưa hết, ở 63 tỉnh thành mà ngân hàng này có chi nhánh và 618 phòng giao dịch cấp huyện, họ cũng tổ chức sao cho mỗi nơi đều có ban đại diện hội đồng quản trị cũng gồm các quan chức cấp tỉnh và huyện. Biểu sao bộ máy không cồng kềnh, chi phí không cao cho được.
Dù chủ yếu là cho vay các hộ nghèo và các đối tượng chính sách như học sinh, sinh viên, công nhân đi lao động nước ngoài… Ngân hàng Chính sách Xã hội thực chất vẫn là doanh nghiệp. Mà đã là doanh nghiệp thì thành viên hội đồng quản trị hay hội đồng thành viên “không là cán bộ lãnh đạo trong bộ máy nhà nước”, theo quy định của Chính phủ. Thế là thêm một ngoại lệ to đùng.
Lẽ ra ngân hàng cứ được tổ chức một doanh nghiệp bình thường nhưng chính sách cho vay ưu đãi đến một số đối tượng như hộ nghèo, sinh viên gặp khó khăn, doanh nghiệp nhỏ… cứ công khai thật rõ ràng (có thể tốn tiền in tờ giới thiệu, đăng quảng cáo…) Bất kỳ ai thuộc diện được vay đều có thể vay, dựa trên những tiêu chí được công khai, không cần ban bệ duyệt xét gì nữa. Ai bị từ chối không được vay có quyền khiếu nại và được xem xét công minh. Vai trò của Ngân hàng Nhà nước hay Chính phủ là đề ra chính sách cho từng thời kỳ và Ngân hàng Chính sách Xã hội cứ thế thực hiện. Vì sao phải đẻ ra bộ máy cồng kềnh như hiện nay, nghe đâu gần đến 10.000 cán bộ, nhân viên?
THEO FB NGUYỄN VẠN PHÚ

Con ông cháu cha: Gánh nặng của ngân sách quốc gia?

COCC

Cùng với ngân sách Chính phủ gặp nhiều khó khăn, cân đối thu chi căng thẳng, dù kiến nghị giảm lương 100.000 đồng đối với mỗi cán bộ công chức đã bị Thủ tướng bác bỏ, song ít nhiều những động thái này cho thấy túi tiền quốc gia đang nhiều eo hẹp, trong đó, nhân tố gánh nặng công chức khiến nhiều người lo lắng.

Dư 30% số công chức

Với nhận định của Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cách đây không lâu: “có tới 30% số công chức không có cũng được, bởi họ làm việc theo kiểu sáng cắp ô đi, tối cắp ô về không mang lại bất cứ thứ hiệu quả công việc nào”, đã ít nhiều cho thấy thực trạng cồng kềnh và trì trệ của giới công chức Việt Nam. Nếu đối chiếu con số này với một phân tích khác của nguyên Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Vũ Đức Đam rằng: “cứ hình dung nếu ngân sách thu 100 đồng…có 65% chi cho thường xuyên, trong số này khoảng một nửa là chi lương cho công chức, viên chức”, thì mới thấy một lượng ngân sách nhà nước đã bị lãng phí ra sao.
Hãy khoan bàn tới các con số cụ thể của từng bộ ngành hay các cấp tỉnh thành, tính đến hết năm 2012, Việt Nam có trên 2,2 triệu công chức viên. Theo khái niệm của Luật cán bộ, họ là các đối tượng thuộc cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị hay xã hội làm việc trên khắp 63 tỉnh thành Việt Nam.
Bây giờ người ta nói nhiều đến chuyện tinh giản biên chế, nhưng sẽ dẫn đến những khó khăn trong việc sửa luật, nghị định rồi thông tư, điều này rất là khó.
-TS Vũ Ngọc Xuân
Vẫn biết mọi so sánh là khập khiễng, nhưng thử làm một phép tính: Hoa Kỳ có trên 310 triệu dân, số công viên chức quản lý khoảng 2,2 triệu người, trong khi Việt Nam có dân số chưa bằng 1/3 nhưng số công viên chức cũng xấp xỉ, chưa kể xét về địa lý Việt Nam lại nhỏ chưa bằng 1/10 Hoa Kỳ… Những con số biết nói này cho thấy Việt Nam đang gặp một trở ngại lớn về hiệu quả làm việc của đội ngũ công chức… phải chăng túi tiền quốc gia eo hẹp vì lượng công chức quá đông, quá nhiều? Câu hỏi này của dư luận hẳn không phải là không có cơ sở.
Giải thích về hiện tượng trên, T.S Vũ Ngọc Xuân, giảng viên chính khoa Kinh tế, trường Đại học Kinh tế Quốc dân cho chúng tôi biết:
“Về mặt thể chế Việt Nam có mô hình giống với Trung Quốc, công chức viên chức mang tính chất là gắn bó suốt cuộc đời. Cho nên thu nhập của công chức ở Việt Nam thấp, một mặt là do cơ chế của Việt Nam là kinh tế thị trường nhưng định hướng xã hội chủ nghĩa. Về yếu tố con người, để sa thải người lao động thì luật pháp không cho phép mặc dù có một số trường hợp nhưng rất khó để vận dụng. Vì thế, bây giờ người ta nói nhiều đến chuyện tinh giản biên chế, nhưng sẽ dẫn đến những khó khăn trong việc sửa luật, nghị định rồi thông tư, điều này rất là khó.”

cong-chuc-1-250
Công chức làm việc trong một cơ quan hành chính công ở Đà Nẵng, ảnh minh họa chụp trước đây. Courtesy LĐ.

Vấn đề mà T.S Vũ Ngọc Xuân phân tích chính do cơ chế và luật định của “định hướng xã hội chủ nghĩa” là những rào cản khiến việc sa thải công chức tại Việt Nam không dễ dàng… chưa kể những chuyện chưa nói ra ai cũng biết là một lượng lớn thành phần này lại nằm ở những vị trí được xem là “dễ chấm mút,” là con ông cháu cha hay có các mối quan hệ chằng chịt với giới lãnh đạo… vì thế không phải ngẫu nhiên mà bản thân Chủ tịch Nguyễn Sinh Hùng từng thừa nhận “chạy này, chạy kia… khâu nào cũng có.”
Để có góc nhìn của người trong cuộc, chúng tôi trao đổi với ông Trương Văn Quảng, một cán bộ phụ trách nhân sự ở một bộ tại Hà Nội, ông cho biết còn rất nhiều bất cập không chỉ ở khâu cuối sa thải, mà bắt nguồn ngay từ khâu đầu vào tuyển dụng công chức ở Việt Nam:
“Khi tuyển dụng những người mới vào làm thì năng lực còn hạn chế, chưa có kinh nghiệm… nhưng do mối quan hệ cấp trên cấp dưới, do chạy chọt hay nể nang nhau nhưng cứ tuyển người vào làm, nên hiệu quả công việc trong quá trình triển khai thực tế gặp rất nhiều khó khăn, nên không đáp ứng được nhu cầu công việc. Có bức xúc trong vấn đề tuyển dụng cán bộ ngay từ khâu đầu vào.
Đáng lẽ giải quyết công việc nhanh gọn nhưng do cơ chế, chính sách văn bản chồng chéo, thủ tục hành chính cồng kềnh, số lượng người ngồi chơi xơi nước hơi bị nhiều, điều đó làm cản trở công việc.”

Làm ít, thưởng nhiều

Không chỉ những đối tượng được cho là “ngồi chơi xơi nước hơi bị nhiều” mà điểm đáng chú ý là khi có chế độ khen thưởng, tăng lương hay nhận hưởng các quyền lợi thì thường những cán bộ công chức này lại đứng đầu danh sách xét duyệt, ông Quảng cho biết tiếp:
Vấn đề tăng lương hay sắp xếp tổ chức công việc gặp nhiều khó khăn bởi do những quan hệ cấp trên cấp dưới, nể nang đâm ra không đi thẳng vào năng lực cán bộ.
-Ô. Trương Văn Quảng
“Khi họ đã làm việc thì vấn đề tăng lương hay sắp xếp tổ chức công việc gặp nhiều khó khăn bởi do những quan hệ cấp trên cấp dưới, nể nang đâm ra không đi thẳng vào năng lực cán bộ, đây là thực trạng trong bộ máy hành chính sự nghiệp của các bộ ngành hay thành phố hay các cơ sở của các tỉnh.”
Ngoài ra, ông Quảng còn cho biết thêm rằng, bởi nhiều khi trình độ của người quản lý có hạn, họ cần nhận vào tổ chức mình những thành phần “tay chân” để coi như có những người hậu thuẫn anh em, luôn đứng ra ủng hộ mỗi khi bầu cử, bỏ phiếu… Nghiễm nhiên thành phần đó là những kẻ ngồi chơi xơi nước, đi muộn về sớm, ăn cắp giờ công, đến nơi làm việc chỉ để lên mạng mua sắm, facebook, hết giờ về đi nhậu… phải chăng vì thế Việt Nam nghèo nhưng tỉ lệ người dùng internet thuộc diện cao nhất trên thế giới? và Việt Nam cũng trở thành quốc gia tiêu thụ hàng đầu thế giới 2,6 tỉ lít bia mỗi năm?
Nếu nhìn vào gốc gác vấn đề, những đối tượng cán bộ công chức là những người hưởng lương từ ngân sách nhà nước, mà ngân sách nhà nước là tiền thuế của dân. Quay lại chuyện 30% công chức “sáng cắp ô đi tối cắp ô về” nghĩa rằng chúng ta đang có chừng hơn 700.000 cán bộ dôi dư, nhân với con số trung bình 2 triệu đồng/ tháng, nghĩa là, mỗi năm Việt Nam lãng phí khoảng 17.000 tỷ đồng để chi trả cho bộ máy công chức nhà nước.
Số tiền này được chắt chiu từ mồ hôi công sức của những người nông dân chân lấm tay bùn, bán mặt cho đất bán lưng cho trời, của những người công nhân vất vả trong các xưởng may nóng nực…họ đóng thuế để cho những công chức ngồi hưởng thụ trong các phòng điều hòa mát lạnh. Phải chăng nỗi nhức nhối cho vấn đề bội chi ngân sách hay túi tiền quốc gia eo hẹp mà Quốc hội đang đau đầu đã có lời giải đáp?
Hẳn câu hỏi mà quý vị đang đặt ra là làm sao để loại bỏ những thành phần “ăn cơm chúa múa tối ngày”này! Chắc chắn không dễ dàng, bởi họ đã có một hệ thống dày đặc những văn bản pháp lý đứng ra bảo vệ, họ có một lớp quan hệ thần thế đứng ra bao bọc. Chỉ khi nào cái tâm của nhà quản lý, của các cấp lãnh đạo thực sự nghĩ đến lợi ích chung của toàn xã hội thì việc chọn lọc và loại bỏ những đối tượng trên mới có thể trở thành sự thật…
THEO RFA

Ngành thuế xả xì choét cho toàn dân



Ngành thuế, chỉ khác lâm tặc ở chỗ họ cưa bằng răng?
Nghịch lý của cái ngành nắm “nguồn thu chủ yếu của ngân sách quốc gia” hôm qua đã được ĐBQH Hưng Yên Đặng Ngọc Quỳnh nói tới trước nghị trường, rằng “Truy thu thì chậm mà hoàn thuế thì nhanh”.
Để minh chứng, vị ĐBQH, đương nhiệm Giám đốc Sở KH và ĐT nêu ra các con số:
Đến cuối tháng 8.2013, ngành thuế mới truy thu được hơn 17 ngàn tỷ (36% tổng thuế nợ đọng) của năm…2012. Năm 2013 tất nhiên chưa tính.
Thu thuế thì thấp, thì chậm, nhưng hoàn thuế nhanh như thế lắp động cơ siêu xe khi “đến 14.10 hoàn thuế đạt 70/71 ngàn tỷ đồng kế hoạch”. Thậm chí 2011, kế hoạch hoàn thuế 80 ngàn tỷ, thực hoàn 110 ngàn tỷ.
Ông Quỳnh đã tuyệt đối đúng khi coi đây là một khoản “nợ xấu”. Ông Quỳnh cũng không sai khi so sánh “Trong lĩnh vực nợ xấu của ngân hàng nhiều cán bộ và những sai phạm đã được xử lý nhưng trong nợ thuế thì xử lý còn ít”.
Có thể, câu chuyện thuế mà ông Quỳnh nói tới phần nào phản ánh cái khó của DN, những “chiến sĩ xung kích trên mặt trận kinh tế”. Nhưng nó còn hàm chứa một khía cạnh khác. Ấy là sự mất cân bằng trong vấn đề lợi ích. Những con số không nói dối.
Chẳng phải là lợi ích cá nhân đang được chăm bẵm nhiều hơn lợi ích toàn dân!
Ngay trong phiên họp Chính phủ tháng trước, vấn đề “cưa đôi thuế” đã được Bộ trưởng Đinh La Thăng nhắc tới. Nhưng ngay hôm sau, Cục trưởng Cục Thuế Hà Nội phản pháo: “Tôi là người rất bức xúc khi sáng ngủ dậy nghe thấy thông tin Bộ trưởng Thăng phát biểu. Tôi đã điện ngay cho Bộ trưởng Dũng (Bộ trưởng Tài chính Đinh Tiến Dũng) hỏi tại sao lại có chuyện như vậy?”. Và ông Cục trưởng khẳng định “làm gì có chuyện đó” vì ngành thuế có “cơ chế giám sát đặc biệt” và đặc biệt là “thư ngỏ” trực tiếp gửi cho các DN.
Thực ra câu chuyện cưa đôi thuế không phải bây giờ mới có, cũng không phải chờ đến lúc Bộ trưởng Thăng nói công khai trong phiên họp chính phủ người dân mới biết.
Nhớ khi Luật Quản lý thuế được đưa ra Quốc hội vào ngày 11.8.2006, ĐBQH Lê Minh Hồng đã đưa ra câu chuyện “Xe máy Dream bán 17 triệu đồng, viết hóa đơn 13 triệu đồng”, để nói cực kỳ gay gắt về tình trạng “cơ quan thuế không quản lý được hóa đơn, để diễn ra mua bán hóa đơn lòng vòng, viết hóa đơn không đúng giá trị thực tế. Hóa đơn thanh toán thì lớn hơn giá trị thực, không có người lấy hóa đơn thì ghi giá trị thấp để giảm nghĩa vụ thuế…
Còn Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Nguyễn Ngọc Trân dẫn số liệu điều tra của VCCI trên chính địa bàn Hà Nội cho thấy “74,73% doanh nghiệp được hỏi thừa nhận có thương lượng, “ăn chia” với cán bộ thuế, coi là khâu thiết yếu trong kinh doanh, hai bên cùng có lợi”. Luật thuế sau đó cũng được thông qua, mọi sự vẫn vui vẻ. Và ngay cả bây giờ nữa, sau quả bom mà Bộ trưởng Thăng quăng ra, sau lời phủ nhận chắc như đinh đóng cột của ông Cục trưởng, mọi chuyện lại hòa cả làng. Chỉ ngân sách thì hụt thu chưa từng thấy.
Cũng hôm qua, một quan chức ngành thuế tuyên bố toàn ngành “đang thực hiện ký cam kết “không tham nhũng” trong toàn cán bộ, viên chức”. Ồ, thế là ngoài “thư ngỏ”, giờ ngành thuế có thêm cam kết “không tham nhũng”. Nhân dân có lẽ sẽ phải vỗ tay nhiệt liệt khi ý nghĩa của câu chuyện này là một nụ cười ngoác miệng, có giá trị xả stress, trước móc túi đóng thuế.
THEO ĐÀO TUẤN

MỘT BÀI BÁO CỦA PHAN KHÔI NĂM 1935 VIẾT VỀ NGÔ ĐÌNH DIỆM


MỘT VIỆC RẤT CÓ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TÂM THUẬT CỦA SĨ PHU
CÁCH CHỨC VÀ KHAI PHỤC ÔNG NGÔ ĐÌNH DIỆM
***
            Ngót hai năm, từ hồi Nam triều có sự thay đổi cả việc lẫn người trong các bộ, người ta quen gọi là “cuộc cải cách ngày 2 Mai 1933”, đến nay, những việc do cuộc cải cách ấy làm ra có gì khá hơn trước chăng, − Ấy là một đầu đề tốt lắm, chúng tôi đã chọn để có ngày sẽ viết đến. Hôm nay, từ trong cuộc cải cách ấy chúng tôi lấy ra một việc mà bàn, việc tuy đã nguội, song vừa rồi nhờ một lá Sắc của nhà vua nó trở nên sốt dẻo. [a]
            Chưa nói đến hết thảy những việc trong cuộc cải cách, thoáng qua một cái, chúng tôi thấy hình như cũng chỉ có việc chúng tôi sắp bàn đây là lớn hơn hết, vì nó có ảnh hưởng đến tâm thuật của sĩ phu.
            Việc cách chức và khai phục nguyên hàm ông Ngô Đình Diệm.
***
            Ông Ngô Đình Diệm, năm 1933, vì sao mà bị cách chức? Trong đó có cái cớ chánh và cái cớ phụ. Người ngoài chỉ biết được cái cớ phụ mà thôi, tức như cái điều đăng trên các báo lúc bấy giờ: ông Ngô đã bội lời ước với Triều đình, đem những việc bí mật mình đã hứa giữ mà tuyên bố cùng một nhà báo nào đó.
            Tuy vậy, chỉ một cớ phụ ấy thôi, ông không đến nỗi bị như thế. Phải có cái cớ chánh, chính bởi cớ này mà ông từ chức Thượng thơ, rồi mới nhân cái lỗi bội ước là cái lỗi nhỏ mà bị cách chức.
            Nếu cái cớ phụ là sự bội ước đã là cái lỗi nhỏ không đủ cách chức ông Ngô Đình Diệm được, vậy thì sự cách chức ông ấy, ta có thể nói được rằng trực tiếp bởi cái cớ chánh gây ra.
            Cái cớ chánh, từ bấy đến giờ, Triều đình giữ bí mật, ngoại gian không có ai biết được cả. Không biết là không biết cho tường tế, chứ người ta đoán phỏng rằng vì “chánh kiến bất đồng” hay là vì “trái ý bề trên” thì tưởng cũng cọ bia.[b]
            Chỉ vì một chút chánh kiến bất đồng mà đành phủi áo đứng dậy, bỏ ngôi Thượng thơ, rồi nhân đó đến bị phế truất, ấy thật là cái cao tiết của ông Ngô Đình Diệm, 50 năm nay mới có một người! Nhưng nếu ông chỉ từ chức mà thôi, không bị cách chức, thì cái cao tiết ấy e rồi cũng đến mai một đi mà không ai biết. Cho nên, sự cách chức hồi đó làm cho ông Ngô lẫy tiếng bao nhiêu, càng đáng cho ta để ý bấy nhiêu.
***
            Thật, chúng tôi nói 50 năm nay mới có một người như ông Ngô Đình Diệm, không phải là nói quá. Thì từ triều Thành Thái về sau, hỏi có ông đại thần nào có cái thái độ rắn rỏi lấy một chút không? Chúng tôi thấy lắm kẻ đã già rồi, đôi khi bị quở bị rầy nữa mà cũng chịu khó kiếm đủ cách để giữ lấy ngôi. Dù giống gì người ta cũng cứ lăn vào, còn ai kể tới chánh kiến đồng hay không đồng, hiệp cùng chẳng hiệp? Mà than ôi! Có gì đâu để được gọi là chánh kiến!
            Chỗ miếu đường đã thế nên thảo dã cũng hòa theo. Hầu hết đám người có học ít nhiều chỉ biết lấy phú quý lợi lộc làm cái đích cho đời mình mà không biết nhân cách của mình là đáng trọng. Bởi vậy, trong bức thư ông Phan Châu Trinh đưa cho chánh phủ Pháp hồi đó, ông có nói câu này mà không dè dặt chút nào hết: “Sĩ phu nước Nam, cái lòng liêm sỉ của họ đã mất hết rồi!”
            Trong cái xã hội sĩ phu đó, có sự cách chức ông Ngô Đình Diệm, khác nào một tiếng nổ to, đánh thức dậy hết thảy. Nghe tiếng nổ ấy tất họ phải đi tìm cho biết cái con người Ngô Đình Diệm thế nào. Sau khi biết con người ấy chỉ vì chút chánh kiến bất đồng mà dám vứt bỏ số lương tháng bốn trăm luôn với bộ áo chầu nhị phẩm, ít nữa họ cũng ngó lại con người của họ mà sinh lòng hổ thẹn: sao ông Ngô Đình Diệm dám bỏ đến cái nhị phẩm mà mình lại cúi luồn lạy lục để xin lấy cái cửu phẩm!
            Nó có ảnh hưởng đến tâm thuật sĩ phu là thế. Một viêc rất tốt! Một việc rất có bổ ích cho thế đạo nhân tâm.
***
Bài này không cốt bàn về chánh trị, cho nên trên kia có nói tới chánh kiến bất đồng mà chúng tôi không nói đến bên nào dở bên nào hay. Tuy vậy ta nên biết rằng trong trường chánh trị thường có lúc hai cái chánh sách đồng có giá trị như nhau mà phải lấy cái này bỏ cái kia, ấy là tùy theo hoàn cảnh, tùy theo tình thế. Nếu cái hoàn cảnh ấy đổi đi, cái tình thế ấy không còn nữa, bấy giờ cái chánh sách bị bỏ sẽ được phục lại cái giá trị của nó chưa biết chừng.
            Có lẽ vì đó mà nay ông Ngô Đình Diệm được khai phục nguyên hàm. Sự khai phục này hoặc có hàm một cái ý nghĩa rằng cái chánh kiến của ông Ngô là không phải dở, cũng không phải trái nhau với cái chánh kiến khác đến cực đoan.
            Lại nữa, sự khai phục này cũng rất có ảnh hưởng đến sĩ phu như lần trước. Có nhiều người bình nhật giữ một cái ý kiến nào hay một cái thái độ nào, rủi vì đó thất bại, rồi họ đành bỏ hay đổi cái ý kiến ấy, cái thái độ ấy. Ông Ngô Đình Diệm từ khi thất bại (nói vậy đó thôi) đến nay vẫn ôm luôn lấy cái cao tiết ấy mà không hề sai chạy. Rồi ngày nay tự nhiên ông được trả lại phẩm tước cũ, ngoài sự khấn ba cái tạ ơn, ông chẳng hề tốn một tiếng nói nào với ai. Như thế há chẳng phải bồi đắp thêm cái lòng tự trọng cho mọi người?
            Cải cách! Cải cách! Cải cách mà gặp hồi kinh tế khủng hoảng này, đừng nói không làm, làm mà sổ dự toán không cho phép, thì phỏng còn kết quả gì hay? Tuy vậy, ước gì được nhiều việc như việc đối với ông Ngô Đình Diệm đây, nhà ngôn luận chúng tôi có tiếc gì mà không ca tụng?
            “Sĩ phu liêm sỉ chi đạo táng”, chính câu ông Phan Châu Trinh nói như thế. Con người mất cả liêm sỉ là con người bỏ; huống chi cả một đám người mất cả liêm sỉ, mà còn mong gì được ư?
            Nhờ ông Ngô Đình Diệm vớt lại nhiều ít, nhờ sự cách chức và khai phục ông Ngô Đình Diệm vớt lại nhiều ít, họa may cái lòng liêm sỉ của sĩ phu Việt Nam ngóp ngỏi dậy chăng?
PHAN KHÔI
Nguồn:
Tràng An, Huế, s. 9 (29 Mars 1935), tr. 1.
Chú thích
[a] Tràng an s. 8 (26 Mars 1935, tr. 1) đưa tin Cách viên được khai phục, cho biết ba đạo Sắc ra ngày 20 Mars 1935 khai phục cho một đại thần và hai ông quan đã bị cách từ năm Bảo Đại thứ 8, trong đó, kể từ ngày 20 Mars 1935, ông Ngô Đình Diệm được khai phục nguyên hàm và cho lại các huy chương đã được khi trước, theo đạo Dụ số 23.
[b] cọ bia: gần trúng, gần đúng.
———————————–
Năm 1935, khi Phan Khôi (1887-1959) đang làm Chủ bút báo Tràng An ở Huế, ông có viết bình luận nhân sự kiện Triều đình Huế, dưới thời vua Bảo Đại, đã có 2 quyết định liên quan đến Ngô Đình Diệm: cách chức, sau đó khai phục chức Thượng thư cho ông ta. Trong lời bình luận, Phan Khôi lưu ý đến các phương diện khí tiết của người làm quan và “tâm thuật” của sĩ phu trước các quyết định của triều đình.
Bài này có in trong tập: Phan Khôi, Tác phẩm đăng báo 1935 /Lại Nguyên Ân sưu tầm, biên soạn/ Nxb. Tri Thức, Hà Nội, phát hành tháng 10/2013.

Bản tuyên bố mới nhất về Hiến pháp Việt Nam - Tránh nguy cơ "khóa" các quyền hiến định - & Tiến thoái lưỡng nan

Bản tuyên bố mới nhất về Hiến pháp Việt Nam

Bình mới, rượu cũ: 5 độc quyền và ưu quyền


Gia Minh: Qua những diễn tiến từ đầu năm đến nay, linh mục thấy việc lắng nghe góp ý của những tầng lớp quan tâm đến vấn đề sửa đổi hiến pháp dường như không có dấu chỉ tích cực gì, vậy sao Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền vẫn tiếp tục có ý kiến?

Linh mục Phê rô Phan Văn Lợi: Bởi vì chúng tôi nhận thấy rằng khi so sánh bản dự thảo cuối cùng mà quốc hội đưa ra hôm 22 tháng 10 với bản dự thảo đầu tiên, theo chúng tôi nhận thấy không có gì thay đổi về cơ bản. Nên chúng tôi thấy cần lên tiếng một lần nữa cùng với những tiếng nói khác ; không phải để Nhà nước nghe cho bằng để dân chúng thấy được rằng nhà cầm quyền, quốc hội đã bác bỏ tất cả mọi ý kiến; đồng thời cũng để cảnh báo với người dân nhà cầm quyền của Đảng cộng sản đã quyết tâm ra một hiến pháp phi dân chủ, chống lại nhân quyền và hoàn toàn không hợp lòng dân.

Gia Minh: Trong tuyên bố của Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền có 5 điều phản đối và 3 điều kêu gọi, xin linh mục giải thích vì sao lại nêu ra những điều phản đối và kêu gọi như thế?

Linh mục Phê rô Phan Văn Lợi: Chúng tôi thấy rằng trong dự thảo mới nhất mà có lẽ họ sẽ chấp nhận, trong đó có 120 điều, nhưng chúng tôi nghĩ rằng chỉ có 5 nội dung chính. Năm nội dung đó để chỉ có lợi cho đảng mà thôi. Năm điều đó chúng tôi gọi là ưu quyền và độc quyền.

Hai ưu quyền: một là về chủ thuyết Mác- Lê nin để khống chế tư tưởng của người ta; thứ hai là ưu quyền về kinh tế để có lợi cho Nhà nước, có lợi cho Đảng mà thiệt hại cho nền kinh tế của tư nhân và của người dân nói chung.

dissent-priest
LM Phê-Rô Phan Văn Lợi
Courtesy photo 8406victoria.blogspot
Chúng tôi nêu ra 3 độc quyền của đảng Cộng sản: thứ nhất là độc quyền về chính trị tức độc quyền cai trị đất nước để không cho bất cứ một đảng phái nào có thể cùng ra tranh cử, hoặc thay thế để điều khiển quốc gia. Rồi độc quyền về tài nguyên: đảng Cộng sản, Nhà nước muốn nắm độc quyền về mọi tài nguyên, đất đai để có thể sử dụng như ý, đồng thời có phương tiện để bảo vệ quyền lực, để trang trải cho các lực lượng đàn áp, khống chế người dân phải sống trong tình trạng sợ sệt Nhà nước. Thứ ba độc quyền về công lực, tức trong hiến pháp này, Nhà nước lần đầu tiên- trong Hiến pháp 1992 không có, yêu cầu quân đội và công an trung thành tuyệt đối với Đảng. Mặc dù trước chữ đảng, có chữ Tổ quốc và Nhân dân; nhưng chủ yếu họ muốn quân đội và công an phải là một lực lượng sẵn sàng nghe theo ý của Đảng; mà ý đảng này dĩ nhiên không phải vì ích nước lợi dân gì cả mà chỉ để bảo vệ đảng mà thôi. Điều này chúng ta đã thấy qua rất nhiều diễn biến đàn áp người dân, đàn áp những lực lượng biểu tình,hoặc dân oan khiếu kiện từ mấy năm nay rồi.

Chúng tôi nêu lên 5 độc quyền và ưu quyền đó để thấy rõ bản chất Hiến pháp Việt Nam không có dành cho quyền con người. Mặc dù trong Hiến pháp đó có chương 2 dành nói về quyền con người, nhưng quyền con người đó bị đè bẹp dưới độc quyền và ưu quyền của đảng cộng sản. Quyền con người được họ nêu ra chỉ là quyền xin-cho mà thôi.

Cuối cùng chúng tôi đưa ra ba lời kêu gọi: thứ nhất đảng cộng sản hãy sáng suốt, hãy phục thiện nếu không họ sẽ bị bánh xe lịch sử nghiền nát như chính họ đã từng dùng kiểu nói đó, và cũng như họ đã thấy ở Đông Âu với các đảng cộng sản khác vì đi ngược lại với xu thế của thời đại, đi ngược lại lòng dân, đi ngược lại đường hướng của lịch sử.

Do đó chúng tôi kêu gọi Quốc hội nhân cơ hội này ý thức trách nhiệm đối với toàn dân trước lịch sử để làm ra một bản hiến pháp thực sự như ý của người dân muốn, như ý kiến rất tiến bộ của các tầng lớp nhân dân, của các tổ chức trong đời cũng như trong đạo.

Cuối cùng chúng tôi mong đợi để có thể tác động lên Hiến pháp này cách hữu hiệu nhất chỉ có cách toàn dân phải biểu tình, xuống đường biểu tình hằng trăm ngàn người, hằng triệu người như người ta đã làm tại bên Đông Âu, bên Trung Đông mới đây. Lúc đó nhà cầm quyền mới chùn bước để mà nghe tiếng của người dân.
Bản cáo trạng đanh thép

Gia Minh: Sau khi đưa ra thêm một Tuyên bố về Hiến pháp Việt Nam như thế từ cuối tháng 10 đến nay chưa được một tuần, Nhóm của Linh mục có nhận được những ý kiến chia sẻ, phản hồi thế nào?

Linh mục Phê rô Phan Văn Lợi: Trước hết chúng tôi thấy bản lên tiếng này được truyền đi, truyền lại trên mạng rất nhiều; thứ hai chúng tôi thấy những trang mạng lới như Dân Làm Báo có đăng và phản hồi trên trang này đối với tuyên bố nói chung là phản hồi tích cực. Có người gọi đây là bản cáo trạng đanh thép đối với nhà cầm quyền của đảng cộng sản. Chúng tôi cũng mong muốn bản lên tiếng của chúng tôi đóng góp thêm vào những tiếng nói trước đây để nhà cầm quyền cộng sản biết rằng đây thực sự là ý kiến của người dân. Và người dân cũng biết rằng đã có những thành phần lên tiếng nói và bây giờ người dân cố gắng để hợp giọng và đồng thời có những hành động tích cực của quần chúng để làm cho Hiến pháp đúng nghĩa được hình thành tại Việt Nam.

Gia Minh: Chân thành cám ơn linh mục về cuộc nói chuyện vừa rồi.
Gia Minh
2013-11-03
(RFA)

Tránh nguy cơ "khóa" các quyền hiến định

Theo kết quả khảo sát, bất bình đẳng về thông tin đang là rào cản trong việc bảo đảm các quyền cơ bản của người dân.
LTS: Ngày mai (5/11), Quốc hội sẽ dành cả ngày để thảo luận về dự thảo Hiến pháp 1992 sửa đổi. Tuần Việt Nam xin giới thiệu góc nhìn của tác giả Nguyên Lâm về vai trò của Hiến pháp với những tác động cụ thể đến đời sống nhân dân.
Ngay trước kỳ họp Quốc hội bàn và quyết về Hiến pháp sửa đổi, Chỉ số Công lý 2012 đã được công bố.
Theo khảo sát về Chỉ số, tuyệt đại đa số người dân không hề biết hoặc biết rất ít về Hiến pháp. Trong đó, tỷ lệ không hề biết là 2129/5045; biết ít 2778/5045, và chỉ có 136 người biết nhiều.
Con số này khẳng định lại một giả định phổ biến lâu nay cho rằng Hiến pháp là một điều gì đó rất xa lạ với người dân bình thường. Nghiên cứu về các nước khác cũng cho thấy kết quả tương tự.
Tuy nhiên, theo chiều ngược lại, Hiến pháp lại phải gắn với cuộc sống của người dân, hiện diện trong mỗi phận người, cho dù ngay cả người đó cũng không nhận thấy. Ý niệm và kỳ vọng của người dân về pháp luật và công lý được đo đếm từ các trải nghiệm và tiếp xúc thực tế với cơ quan công quyền, từ thực tiễn, những vấn đề người dân va chạm, cảm nhận và chứng kiến hàng ngày. Không phải những quy phạm trên giấy.
Vậy thì Hiến pháp có thể làm gì để đáp ứng kỳ vọng của người dân về công lý? Trên phương diện này, nhiều phát hiện và kiến nghị của báo cáo về Chỉ số công lý có thể gợi ý cho ĐBQH những ý tưởng trước các vấn đề Hiến pháp từ góc nhìn của người dân.
hiến pháp, công lý, minh bạch, đất đai, công bằng, nhân dân, thông tin
Muốn tiếp cận công lý, người dân cần thông tin
Mong đợi đối với sửa đổi Hiến pháp
Không có gì ngạc nhiên khi mặc dù hiểu biết ít về Hiến pháp, nhưng mong đợi của người dân đối với việc sửa đổi Hiến pháp là rất lớn, làm sao mang lại những gì thiết thân cho người dân. Như một nhóm người dân chia sẻ với chuyên gia thực hiện khảo sát giữa năm 2012, họ không biết Hiến pháp là gì, nhưng lại mong đợi là qua đợt sửa đổi Hiến pháp này cuộc sống của họ tốt đẹp hơn.
Điều này càng được phản ánh rõ qua tỷ lệ trả lời câu hỏi về mong đợi của họ đối với việc sửa đổi Hiến pháp.
Trong đó, khoảng 89% số người mong đợi việc sửa đổi Hiến pháp làm cho cuộc sống người dân tốt đẹp hơn; gần 80% mong đợi để đảm bảo dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra; khoảng 85% mong đợi để đảm bảo các quyền cơ bản của con người; hơn 80% muốn các cơ quan, cán bộ nhà nước làm đúng trách nhiệm và không lạm quyền.
Những mong đợi này trực tiếp hay gián tiếp đều liên quan đến đảm bảo công lý trên thực tế. Có thực tế thú vị là, tuyệt đại đa số người được hỏi đã trả lời các câu hỏi về tình hình thực hiện các quyền con người và quyền công dân quy định trong Hiến pháp; đối với hầu hết các quyền, rất ít người không biết hoặc không muốn trả lời.
Như vậy, mặc dù biết ít về bản văn Hiến pháp, nhưng người dân biết và quan tâm nhiều đến các quyền của mình.

Tránh nguy cơ "khóa" các quyền hiến định 
Muốn tiếp cận công lý, người dân cần có thông tin. Trong khi đó, theo kết quả khảo sát, bất bình đẳng về thông tin đang là rào cản trong việc bảo đảm các quyền cơ bản của người dân.

Quyền tiếp cận thông tin chưa được đảm bảo tốt thể hiện từ việc đảm bảo cung cấp thông tin pháp luật của các cơ quan nhà nước nói chung, tới việc công khai minh bạch các thông tin về dịch vụ công như xin giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hay các yêu cầu hành chính tư pháp cơ bản như đăng ký kết hôn, đăng ký khai sinh hay hộ tịch.

Thế nhưng, trong dự thảo Hiến pháp sửa đổi, quyền tiếp cận thông tin (cùng với quyền biểu tình, hội họp, lập hội, tự do báo chí) phải "theo quy định của pháp luật", tức là theo quy định của cả các văn bản không phải do Quốc hội ban hành, thậm chí một quyết định của UBND xã.

Như vậy, quyền hiến định sẽ có nguy cơ bị "khóa" bởi vô số các "quy định pháp luật" nếu các cơ quan nhà nước các cấp muốn vậy. Không những thế, "cái khóa" này cũng sẽ vô hiệu hóa một số quy định khác về sự công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan nhà nước.

Nói chung, việc phân tích sâu hơn kết quả khảo sát cũng cho thấy đánh giá về tính khả thi trên thực tế của các quyền hiến định nhưng chưa luật định thấp hơn nhiều so với các quyền khác.

Đó là các quyền tự do lập hội, quyền biểu tình, quyền tiếp cận thông tin như đã nêu. Đồng thời, theo kết quả khảo sát, nhóm có vị thế xã hội được bảo đảm các quyền cơ bản tốt hơn nhiều so với người nghèo, học vấn thấp, phụ nữ và những người không có vị thế. Nghĩa là còn tồn tại sự bất bình đẳng trong hưởng thụ các quyền.

Như vậy, trong Hiến pháp cũng cần có quy định ràng buộc trách nhiệm của Quốc hội ban hành các luật như Luật Biểu tình, Luật tiếp cận thông tin, Luật về hội...Những luật này quy định các điều kiện cụ thể để thực thi quyền, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước đảm bảo các điều kiện đó một cách bình đẳng, không thiên vị.

Tranh chấp về đất đai

Theo phản ánh của người dân qua khảo sát về Chỉ số công lý, qui định hiện hành về chế độ sở hữu và sử dụng đất đai, thiếu công khai minh bạch về qui hoạch và kế hoạch sử dụng đất ở các địa phương là các nguyên nhân chính làm cho người dân không yên tâm về việc sử dụng ổn định, lâu dài và đầu tư vào đất để sản xuất, kinh doanh.

Gần 43% người được phỏng vấn cho rằng "khiếu nại, tranh chấp về đất đai là vấn đề nóng tại địa phương" nơi họ sinh sống. Báo cáo về Chỉ số công lý nêu rõ: "Điều này một lần nữa khẳng định thực tế, các bất cập về chính sách và quản lý đất đai ở các địa phương đã dẫn tới xung đột, khiếu kiện và khiếu nại đông người".

Trong toàn bộ 513 tranh chấp đất đai ghi nhận từ khảo sát, gần 38% là tranh chấp, khiếu nại hành chính hoặc thậm chí là khiếu kiện cơ quan nhà nước về các vấn đề liên quan tới hỗ trợ, bồi thường di dời, tái định cư, chuyển đổi mục đích sử dụng đất hay giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Khi được hỏi cụ thể về tình huống giả định về di dời và tái định cư, bất chấp khả năng phải tranh đấu với chủ đầu tư và chính quyền thì đa số người dân  trả lời là họ không chấp nhận (mức đền bù chỉ bằng một phần mười giá thị trường) và tiếp tục yêu cầu mức bồi thường hợp lý hơn. Một số người thậm chí chia sẻ là họ không biết phải làm gì.

Những con số này cung cấp thêm các bằng chứng xác thực đâu là nguồn cơn của tranh chấp, bất ổn về đất đai liên quan đến mối quan hệ công - tư. Như vậy các quy định liên quan trong Hiến pháp và Luật đất đai nên được thiết kế theo hướng nào để giảm thiểu rủi ro xảy ra những tranh chấp, bất ổn.

Cũng như thế, con số 62% còn lại là các tranh chấp dân sự về đất giáp ranh với hàng xóm, thừa kế, mua bán nhà/đất, và các vấn đề khác cho thấy, dường như đất đai nhiều phần là cái gì đó thuộc về đời sống "tư", chứ không phải "công".

Cho dù Hiến pháp mà có quy định đất đai "thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước đại diện chủ sở hữu" thì trong tâm thức người dân khi giao dịch pháp lý hàng ngày với nhau, đất đai vẫn là "của tôi", "của anh", "của nó"..., chứ không phải "của toàn dân".

Vậy thì phải chăng bên cạnh những loại đất vẫn thuộc của công, cũng nên nghĩ đến một số loại đất như đất ở thuộc sở hữu tư nhân? Và nếu có dự án của tư nhân mà cần có đất, thì cũng để cho hai bên thương lượng thuận mua, vừa bán, chứ Nhà nước không cần và càng không nên can thiệp vào.
Nguyên Lâm
(Còn nữa)
(VNN)

Tham nhũng màu hồng và bàn tay rửa sạch

Một người nước ngoài xin kín tên kể lại rằng cứ đều đặn mỗi năm một lần, ông được mời dự những cuộc hội thảo sang trọng về chống tham nhũng hoặc bàn về giải pháp chống nạn hối lộ ở Việt Nam. Rồi cứ sau mỗi lần kết thúc hội thảo, ông lại lặng lẽ vào xe hơi, lấy khan mù xoa chà xát lòng bàn tay. Còn khi về nhà, ông vội rửa sạch bàn tay ấy bằng ít nhất hai lớp xà bông.

Đó là bàn tay được dùng để bắt tay những quan chức Việt Nam đến dự cuộc hội thảo, giống như ông.

Nhưng khác hẳn ông, không ai dám chắc bàn tay những quan chức người Việt ấy đã chưa từng vấy bẩn bởi đồng tiền hối lộ.

Khó có thể diễn tả về cảm giác của người nước ngoài đó. Nheo mắt và cả nhăn mũi, cứ như ông đang phải đứng quá gần với một cái xác chuột bị xe cán be bét máu nằm lộ thiên ngoài đường phố - cảnh tượng đã trở thành “món ăn” thường ngày ở ít nhất hai thành phố lớn Hà Nội và Sài Gòn.
Ăn như rồng cuốn…

Cuối tháng 10/2013. Mùa thu Hà Nội. Năm nay, một lần nữa cuộc hội thảo về chống tham nhũng được tổ chức. Nhưng lần này, cái tên của hội thảo được cách điệu khá nhiều so với những năm trước: “Tăng cường sự tham gia của doanh nghiệp, hướng tới thúc đẩy liêm chính trong kinh doanh tại Việt Nam”. Những cơ quan Việt Nam chịu trách nhiệm chính đạo diễn cuộc hội thảo này là Thanh tra chính phủ và Phòng thương mại công nghiệp Việt Nam (VCCI).


Gần như quy luật, luôn có mặt ít nhất một “nhà tài trợ” nào đó của quốc tế. Lần này, đó là Đại sứ quán Anh quốc.

Cuộc hội thảo này lại diễn ra trùng với bầu không khí “thảo luận nghiêm túc” của Quốc hội Việt Nam về những “cơ hội và thách thức” mà nền kinh tế quốc gia và xã hội nước nhà đang phải đối mặt. Nhưng khác với không khí thỏa hiệp trong những kỳ họp quốc hội trước đây, vào lần này một số đại biểu quốc hội đã can đảm hơn khi ẩn dụ về một bức tranh theo trường phái dã thú: báo cáo kinh tế - xã hội của Chính phủ màu hồng, cách nhìn của quốc hội là màu xám, trong khi nhân dân chỉ nhận ra màu tối.

Thế còn bức tranh tham nhũng màu gì?

Như một thông lệ, thực trạng tham nhũng đã trở nên quá tồi tệ luôn không được phản ánh đủ sâu bởi các cơ quan chức năng Việt Nam - một quốc gia nằm gần sát đáy thế giới về tính minh bạch, mà lại do các doanh nghiệp - nạn nhân của nạn nhũng nhiễu, và từ giới chuyên gia quốc tế - những người được xem là sạch sẽ hơn rất nhiều lần giới quan chức tham nhũng bản địa.

“Tham nhũng ở Việt Nam đang nằm trong vòng luẩn quẩn” - như một ngụ ý của ông Soren Davidsen, chuyên gia Ngân hàng thế giới (WB), tại cuộc hội thảo.

Vòng luẩn quẩn đó, theo ông Davidsen, là hành vi công chức nhà nước gây khó dễ khiến doanh nghiệp và người dân phát sinh động cơ đưa hối lộ, sau đó khó khăn được giải quyết khiến công chức có động cơ để tiếp tục chu trình gây khó dễ.

Ông Davidsen cho biết 63% doanh nghiệp phải trả các khoản phí không chính thức nhằm tạo ra cơ chế ngầm để được giải quyết công việc nhanh chóng; 63% doanh nghiệp nói công chức cố tình kéo dài thời gian xử lý để gây khó dễ; 79% công chức đổ lỗi cho lương thấp là động cơ để tham nhũng…

Đặc biệt, 75% doanh nghiệp hối lộ dù không bị gợi ý.

Còn số liệu từ ông Trần Đức Lượng, Phó tổng thanh tra chính phủ Việt Nam, lại thấp hơn một chút: 70% số trường hợp đưa hối lộ là do doanh nghiệp chủ động thực hiện; chỉ có 30% số trường hợp doanh nghiệp đưa hối lộ là do công chức gợi ý, nhũng nhiễu.

Đến lúc này, một tờ báo Việt Nam đã phải mỉa mai: nếu các nghiên cứu trước đây và kể cả dư luận xã hội chủ yếu cho rằng doanh nghiệp là nạn nhân của tham nhũng, thì nay đã rõ hơn khi doanh nghiệp sẵn sàng thỏa hiệp với các tệ nạn, dùng tiền bạc hối lộ để tìm lợi thế trong kinh doanh, giành hợp đồng, hoặc đơn giản “đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn” để phòng ngừa phiền hà, nhũng nhiễu có thể sẽ xảy ra nơi cửa công.

Thậm chí, những người nước ngoài còn thấm nhuần cả câu tục ngữ Việt Nam “Ăn như rồng cuốn, nói như rồng leo, làm như mèo mửa”.
5 tội đồ đặc biệt tham nhũng

Một lần nữa trong không biết bao nhiêu lần từ quá nhiều năm qua, cuộc hội thảo trên đã “phát hiện” ra nạn tham nhũng vặt đang trở nên lan tràn ở Việt Nam khi có tới 80% số cán bộ nhân viên trong các doanh nghiệp cho rằng hiện tượng này là “rất phổ biến”.

Đã từ rất lâu, tham nhũng vặt được hiểu đơn giản là việc doanh nghiệp phải chi các khoản tiền hối lộ nhỏ để đối phó với sự nhũng nhiễu, vòi vĩnh của cán bộ công chức hoặc các đơn vị cung cấp dịch vụ công.

Cũng là số liệu được nêu ra từ ông Davidsen: nếu như năm 2005, 56% doanh nghiệp cho biết có hiện tượng kéo dài thời gian giải quyết công việc, thì năm 2012 tăng lên tới 67%; đối với chuyện giải thích không rõ để cố tình bắt lỗi doanh nghiệp, năm 2005 khoảng 45% thì năm 2012 tăng lên 66%; đối với chuyện bám vào các quy định không chặt chẽ để bắt bí doanh nghiệp thì năm 2005 khoảng 39%, năm 2012 tăng lên 54%; còn đưa thông tin hù dọa gây sức ép tăng từ 16% lên 23% vào năm 2012…

Một cuộc khảo sát ý kiến doanh nghiệp vào năm 2012 đã cho thấy đa số các ý kiến trả lời cho rằng, cán bộ công chức cố tình kéo dài thời gian giải quyết công việc, không giải thích rõ quy trình để bắt lỗi doanh nghiệp, cố tình đặt ra các quy trình sai quy định để gây nhũng nhiễu.

Có tới 81% doanh nghiệp cho rằng, tham nhũng vặt gây lãng phí thời gian, tăng chi phí và gây tâm lý bức xúc cho họ.

“Chứng tỏ doanh nghiệp vừa là nạn nhân vừa là tác nhân của tham nhũng”- Phó tổng thanh tra Trần Đức Lượng trần tình như một lời an ủi. Tình cảm vấn an này cũng rất phù hợp với tên gọi của cuộc hội thảo. Quan chức Việt Nam dường như đồng lòng đá quả bóng về phía các doanh nghiệp cùng xứ, trong khi giới chức điều hành bộ ngành tỏ ra “vô can”.

Thanh tra chính phủ cũng là một trong những cơ quan bị công luận và người dân chỉ trích nhiều nhất, bởi trong nhiều năm qua cơ quan này đã rất ít khi “phát hiện tham nhũng”.

Ngược lại, dẫn số liệu từ khảo sát tham nhũng từ góc nhìn của người dân, doanh nghiệp và cán bộ, công chức, viên chức do Thanh tra Chính phủ và WB công bố vào năm ngoái, ông Davidsen kết luận: từ năm 2005 đến năm 2012, tình trạng tham nhũng của công chức không được cải thiện mà ngày càng tệ hại hơn.

Bà Trần Thị Lan Hương, chuyên gia của Ngân hàng Thế giới, còn nêu ra một kết luận chi tiết hơn: “Các ngành, lĩnh vực tham nhũng nhất theo góc nhìn của doanh nghiệp gồm: cảnh sát giao thông; quản lý đất đai; xây dựng; hải quan; y tế và thuế…”.

Kết luận trên được dựa theo khảo sát 2012, tuy được xem là một “phát hiện”, nhưng thật ra hoàn toàn không mới nếu đối chiếu với vô số điềm chỉ và nguyền rủa tham nhũng từ người dân và báo chí trong những năm qua.

Trong số nguyền rủa đó, tất nhiên có cả giới đầu tư nước ngoài - những người không dám lên tiếng, song không ít ý kiến cho rằng tham nhũng vặt chiếm đến ít nhất 40% lý do giới này không còn tha thiết gì với môi trường đầu tư ở Việt Nam.
Bàn tay nào?

Vẫn như thông lệ, các cuộc hội thảo về phòng chống tham nhũng không nêu ra một địa chỉ cụ thể nào. Trong khi đó, dư luận xã hội Việt Nam đang dậy lên 10 vụ đại án, trong đó có vụ khủng khiếp như Tập đoàn tàu thủy Vinalines.

Trước đó, Tập đoàn công nghiệp tàu thủy Vinashin cũng đã trở thành tai họa cho dân nghèo Việt Nam với số nợ lên đến ít nhất 80.000 tỷ đồng, đủ xây dựng 214.000 phòng học hoặc 53.000 trạm xá xã…

Còn trước đó nữa, không ai có thể lãng quên những vụ tham nhũng chấn động liên quan trực tiếp đến viện trợ ODA như PMU 18, Đại lộ Đông - Tây. Những vụ việc này đều có số “lại quả” ít nhất 10% giá trị hợp đồng.

Gần đây, người ta mới công bố một phát hiện về tỷ lệ nâng khống đến mức trí não bình thường của con người khó mà tưởng tượng: từ việc mua lại thiết bị lặn với giá 100 triệu đồng, Tổng giám đốc Công ty Cho thuê tài chính II (thuộc Ngân hàng Agribank) Vũ Quốc Hảo đã cùng các tòng phạm “thổi” giá lên thành 130 tỉ đồng, tức gấp đến 1.300 lần, để chia chác nhau…

Cuối cùng và vẫn là câu hỏi vĩnh viễn: làm thế nào để hạn chế tham nhũng?

Một quan chức của VCCI - ông Nguyễn Quang Vinh - nêu ra ý kiến: Chỉ khi bàn tay doanh nghiệp - bàn tay Chính phủ cùng hòa nhịp thì phòng chống tham nhũng mới hy vọng chuyển biến.

Bàn tay nào?

Đến giờ này, quá nhiều câu chữ khôn lanh cùng thói vặt vãnh đã biến bức tranh tham nhũng thành màu hồng chuyên, mô tả cho cái bắt tay giữa các doanh nghiệp với cơ quan công quyền để cùng đẩy bộ máy điều hành Việt Nam xuống tiệm cận với đáy minh bạch của thế giới.

Hay phải ngộ về cái bắt tay của vị khách nước ngoài với các quan chức người Việt mà sau khi về nhà ông đã phải chà xát ít nhất hai lần bằng xà bông?

Phạm Chí Dũng, Việt Nam 03-10-2013
*RFA: Nội dung bài viết này không phản ảnh quan điểm của RFA

Sao cứ phải là chủ đạo?

(nắm quyền là để nắm kinh tài rồi nắm tiền... vứt cái chủ đạo đi rồi thì "cạp đất mà ăn" á =)))

Quốc doanh như Vinashin liệu có làm chủ đạo được không? Trong ảnh: Một góc nhà máy đóng tàu Vinashin
Trong dòng thời sự gần đây, các câu chuyện liên quan đến doanh nghiệp nhà nước như vụ tham nhũng hàng chục tỉ đồng và gây thiệt hại đến hàng trăm tỉ ở Vinalines, hay vụ gây thất thoát tài sản lên đến 500 tỉ đồng tại Công ty cho thuê Tài chính II, còn trước đó là việc Chính phủ phải đứng ra trả nợ thay cho Vinashin hàng trăm triệu đôla Mỹ đã khiến rất nhiều người dân, nhất là những người nghèo, cảm thấy xót xa.
Quan trọng hơn là cảm giác ấy có thể trở thành sự chán chường, khi mà bản dự thảo Hiến pháp sửa đổi, vốn đang được các vị đại biểu Quốc hội thảo luận, được bấm nút thông qua mà vẫn giữ quy định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo (tại khoản 1, Điều 51 của dự thảo).
Quốc doanh như Vinashin liệu có làm chủ đạo được không? Trong ảnh: Một góc nhà máy đóng tàu Vinashin
Báo Vneconomy ngày 24/10 tường thuật, khi tham gia thảo luận tại tổ Hà Nội, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cho rằng với phương châm cái gì đã rõ, đã chín, được thực tiễn chứng minh là đúng và tạo được sự thống nhất cao thì chúng ta sửa. Còn những gì chưa rõ, chưa chín, chưa được kiểm nghiệm qua thực tiễn mà ý kiến còn khác nhau thì chưa nên sửa, chưa nên đưa vào.
Trên quan điểm này thì quy định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo cần phải được xem lại và cân nhắc kỹ hơn.
Tại cuộc họp báo ngay trước khi diễn ra kỳ họp Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc đã giải thích: ”Đương nhiên là kinh tế nhà nước phải chủ đạo. Không thể giao kinh tế tư nhân làm chủ đạo.
Nếu kinh tế nhà nước không chủ đạo thì ai lo công tác đảm bảo an sinh xã hội? Còn các thành phần kinh tế đều bình đẳng như nhau, không phân biệt đâu là doanh nghiệp tư nhân, đâu là doanh nghiệp nhà nước, đâu là doanh nghiệp nước ngoài”.
Thực ra cho đến nay, người viết chưa tìm thấy văn bản pháp luật nào quy định về khái niệm kinh tế nhà nước, chỉ được nghe một số chuyên gia kinh tế giải thích rằng kinh tế nhà nước bao gồm các hoạt động của ngân sách nhà nước, các quỹ có nguồn gốc ngân sách, đất đai, tài nguyên và chủ yếu là hệ thống doanh nghiệp nhà nước (DNNN).
Trong các cuộc thảo luận tổ, một số đại biểu Quốc hội đồng thời là chuyên gia kinh tế cũng cho rằng không nên nhầm lẫn kinh tế nhà nước với DNNN.
Cách giải thích như trên dường như chưa ổn, bởi DNNN là một thành phần của kinh tế nhà nước, vì thế một khi hiến định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, thì người dân cũng đương nhiên hiểu rằng DNNN cũng đóng vai trò chủ đạo.
Còn nếu không muốn có sự nhầm lẫn như lo ngại nêu trên, đồng thời để khẳng định mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng, có lẽ trong dự thảo nên ghi rõ “kinh tế nhà nước, chứ không phải DNNN, giữ vai trò chủ đạo”.
Thiết nghĩ, trong những năm qua, thực tiễn đã chứng minh DNNN chưa từng, và trong tương lai, sẽ không thể nào đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Đã có rất nhiều chuyên gia phân tích về điều này, tại các diễn đàn, trên báo chí, có lẽ không cần lặp lại ở đây.
Tuy nhiên, có một điều rất đáng lưu ý là trong bản góp ý cho dự thảo Hiến pháp, đa số thành viên Chính phủ đã ủng hộ bản dự thảo Hiến pháp lần đầu - là bản dự thảo mà trong đó không hề có cụm từ “kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”.
Điều này cho thấy chính những người gắn bó trực tiếp, quản lý khu vực doanh nghiệp này, cũng thừa nhận là DNNN không nên và cũng không thể giữ vai trò chủ đạo.
Và như lời Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói thì “cái gì đã rõ, đã chín, được thực tiễn chứng minh là đúng và tạo được sự thống nhất cao thì chúng ta sửa”, vậy thì dự thảo Hiến pháp cũng nên loại bỏ quy định gây nhiều tranh cãi này.
Quay trở lại với lời giải thích của ông Nguyễn Hạnh Phúc, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, nếu kinh tế nhà nước không chủ đạo thì ai lo công tác đảm bảo an sinh xã hội. Thật vậy sao? Dù ở bất kỳ một đất nước nào, không phân biệt chế độ chính trị xã hội, một trong những chức năng chính của nhà nước là chăm lo công tác an sinh xã hội.
Ở những nước phát triển, DNNN đâu có chủ đạo mà các chế độ phúc lợi xã hội vẫn được thực hiện tốt đấy thôi. Đó chính là nhờ nhà nước đã sử dụng hiệu quả các công cụ có trong tay như tiền thuế, các quỹ xã hội… để tái phân phối thu nhập cho các thành viên trong xã hội, đảm bảo sự công bằng tương đối cũng như làm tốt chính sách an sinh.
Có lẽ Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng đã nhận thấy sự nhầm lẫn trong nhận thức về vấn đề này nên trong bài phát biểu hôm khai mạc Quốc hội (ngày 21/10), ông có nói:
”Nhận thức trên một số vấn đề về chủ trương, quan điểm đã được đề ra vẫn còn khác nhau dẫn đến đổi mới thể chế, chính sách còn ngập ngừng, thiếu nhất quán, nhất là về vai trò của nhà nước và kinh tế nhà nước trong kinh tế thị trường, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, sở hữu và quyền sử dụng đất đai, giá cả một số mặt hàng và dịch vụ công thiết yếu… chưa tạo được đột phá để huy động mạnh mọi nguồn lực cho phát triển”.
Thực ra, việc quy định ai là chủ đạo không quan trọng, mà điều gây phản đối trong dư luận là cách thức để tạo ra vị trí chủ đạo đó, vì việc này liên quan đến chuyện phân bổ nguồn lực quốc gia vốn còn rất hạn hẹp.
Từ trước đến nay, khu vực DNNN đã được hưởng rất nhiều ưu đãi từ các cơ quan nhà nước như chính sách, cơ chế, đất đai, nhà xưởng, tiếp cận vốn, lãi suất… để đóng vai trò chủ lực nhưng hiệu quả mang lại không tương xứng với nguồn lực mà họ được hưởng và ngày càng sa sút, đặc biệt là nếu so với khu vực tư nhân (tính cả FDI).
QUẾ THANH
(DNSGCT)

Tô Văn Trường - Tiến thoái lưỡng nan

Nền kinh tế đất nước đang trong giai đoạn gặp nhiều khó khăn cho nên các quyết sách của Quốc hội đóng vai trò rất quan trọng. Mặc dù đã nghe giải trình nhưng nhiều vấn đề vẫn rối như “canh hẹ” khiến cho các đại biểu Quốc hội tiến thoái lưỡng nan không bấm nút không được mà bấm thì lại thấy không tự tin và tự vấn thấy có lỗi với sự tin cậy của cử tri!

Ngay từ khi sự kiện Vinashin bị tiết lộ trên công luận, tôi đã viết bài “Vinashin đừng đánh bùn sang ao”! Lần này, các đại biểu Quốc hội và người dân được biết Vinashin đã được “phù phép” biến thành một công ty mới không có nợ xấu. Chỉ có người trong cuộc mới rõ nội tình cuộc “lột xác” vô tiền khoáng hậu không giống bất cứ ai bởi vì chỉ có thể dự đoán là: (1) Bắt tất cả các doanh nghiệp Việt Nam kể cả ngân hàng cho Vinashin vay xóa nợ cho nó. Là quốc doanh nên các doanh nghiệp kia phải ngậm bồ hòn, làm ngọt!; (2) Phát hành trái phiếu Chính phủ trả nợ cho Vinashin; và (3) Bắt ngân hàng quốc doanh cho công ty mới vay để có vốn tiếp tục hoạt động dưới tên mới, v.v. Toàn bộ giải pháp này tốn kém cho các doanh nghiệp bao nhiêu và Nhà nước bao nhiêu, ngay các đại biểu Quốc hội cũng tù mù không thể biết được dù đó thực chất là sử dụng tiền thuế của dân và con cháu chúng ta phải è cổ ra trả nợ cho “quả đấm thép” VINA!

Trên diễn đàn Quốc hội, nhiều người nhận ra vấn đề, nhưng do thời gian hạn chế và nhiều nguyên nhân khác nhau nên chủ yếu chỉ nói theo kiểu hô khẩu hiệu chung chung không chỉ ra được cụ thể phải làm cái gì, làm như thế nào, khi nào. Với trách nhiệm của cử tri, tôi đã phản ánh các suy tư, lập luận và dẫn chứng qua các bài viết như “Ai ăn mặn ai khát nước”; “Nguy cơ vỡ trận tài chính”; “Thế là xong, miễn bàn!”. Trong phạm vi bài viết này, tôi đi vào một dự án cụ thể đó là Quan Chánh Bố đã được Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Đinh La Thăng giải trình chiều ngày 1/11 cho là cần thiết, hiệu quả, cần tiếp tục đầu tư.

Phác họa vài nét chính của dự án

Do nguyên nhân độ sâu luồng Định An bị bồi lắng, hàng năm phải nạo vét tốn kém, không tiếp nhận được tàu có trọng tải lớn, cho nên phải tìm một lối đi khác đáp ứng yêu cầu phát triển của thành phố Cần Thơ và khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Đây là yêu cầu chính đáng. Cuối năm 2009, dự án luồng cho tàu biển có trọng tải lớn vào sông Hậu qua kênh tắt Quan Chánh Bố được khởi công xây dựng tại huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh. Đây là dự án trọng điểm quốc gia, với mục tiêu xây dựng luồng tàu biển ổn định cho tàu có trọng tải 10.000 DWT đầy tải và tàu 20.000 DWT giảm tải ra, vào các cảng trên sông Hậu.

Ngay từ năm 2008, GS Lương Phương Hậu chuyên gia hàng đầu về cảng đường thuỷ Việt Nam đã viết bài “Chỉnh trị cửa sông có khi phải chấp nhận trả giá”, có đoạn chính như sau: “Tuyến luồng qua kênh Quan Chánh Bố là phương án đã có ý tưởng từ nghiên cứu của Haecon (Bỉ), sau đó được chính thức đề xuất bởi tư vấn SNC - Lavalin (Canada). Các tư vấn trên là những tổ chức chuyên sâu về công trình cảng - đường thủy nổi tiếng trên thế giới. Những nghiên cứu của họ về cửa sông Hậu khá bài bản, có sự tham gia của các viện nghiên cứu lớn như Viện Nghiên cứu thủy lực Đan Mạch (DHI), Haskoning (Hà Lan).

Giải pháp kênh vòng tránh (by pass) cửa sông đã được sử dụng khá nhiều trên thế giới, thành công nhiều, nhưng thất bại cũng có. Giải pháp này không xa lạ ở Việt Nam vì chính luồng tàu vào cảng Hải Phòng cũng đã đào kênh Đình Vũ (1897¸ 1902) để chuyển luồng từ cửa Cấm sang cửa Nam Triệu và gần đây đào kênh Hà Nam (2004¸2006) để chuyển luồng từ cửa Nam Triệu sang cửa Lạch Huyện.

Tuyến qua kênh Quan Chánh Bố chỉ có thể thành công nếu giải quyết tốt được hai vấn đề khó sau đây:

- Xác định được vị trí, kích thước hợp lý cho cửa Đại An lấy nước từ sông Hậu. Cửa sông này nằm trên bờ bồi, rất nông và hứng nhận dòng bùn cát từ bờ xói đối diện. Làm sao để khi đào sâu, dòng nước vào kênh vừa phải để không quá ít, dẫn đến bồi lắng trở lại quá nhanh, cũng không quá nhiều dẫn đến sự suy thoái của cửa Định An và tạo ra một cửa Định An mới. Hiện nay, tư vấn không bố trí công trình gì ở đây sẽ không thể kiểm soát được sự phát triển của thế sông.

- Xác định được vị trí, quy mô, phương hướng của các đê ngăn cát ở cửa kênh tắt ra biển, ổn định được đoạn luồng biển. Chiều dài 2.500m của đê Đông, 1.500m đê Tây như dự án đề ra chắc chắn là không đủ. Theo tính toán của chúng tôi, chiều dài đê có thể phải tăng lên 3-4 lần.

Những tính toán của Công ty cổ phần Tư vấn thiết kế cảng-kỹ thuật biển (PortCoast) trong giai đoạn dự án đầu tư đúng là còn một số bất cập, chưa đủ sức thuyết phục. Trong quá trình thẩm tra, các chuyên gia Hội Cảng - Đường thủy – Thềm lục địa đã trao đổi trực tiếp, thẳng thắn với các tác giả dự án. Nhưng chúng tôi cho rằng, trong giai đoạn hiện nay, mở luồng theo kênh Quan Chánh Bố là giải pháp khả thi và ít mạo hiểm hơn, vì vậy Chính phủ phê duyệt dự án đầu tư là đúng đắn.”, v.v.

Tháng 10 năm 2009 công tác chuẩn bị đã hoàn tất, Chính phủ và Bộ Giao thông đã phát lệnh khởi công nhưng trong quá trình đang thi công đã phải tạm dừng vì nhận thấy trong điều kiện các phương án phân kỳ đầu tư không đảm bảo mục tiêu khai thác luồng tàu theo dự án được duyệt, cũng như không đảm bảo hiệu quả đầu tư nên đã báo cáo Thủ tướng rà soát để điều chỉnh dự án với tổng mức đầu tư dự kiến lên tới 10.042 tỷ đồng và giãn tiến độ thực hiện sau năm 2015.

Ý kiến phản biện

Trong quá trình chuẩn bị cũng như kể cả khi đang thi công dự án có nhiều luồng ý kiến ủng hộ và phản đối dự án Quan Chánh Bố cũng là điều dễ hiểu vì đây là dự án khá phức tạp tùy thuộc vào nhận thức, góc nhìn của mỗi người.

Mới đây, ngày 27/10/2013 GS Nguyễn Ngọc Trân viết bài “Đừng để đất nước đến nguy cơ vỡ nợ” chủ yếu bàn về hiệu quả đầu tư, trong đó có đoạn đề cập đến dự án Quan Chánh Bố như sau: “Thời sự nhất là dự án luồng hàng hải cho tàu trọng tải vào sông Hậu qua kênh Quan Chánh Bố. Tổng dự toán lúc được khởi công tháng 11-2007 khoảng 3.150 tỉ đồng, nay năm 2013 được nâng lên 10.320 tỉ đồng. Cần nhấn mạnh thêm là dự án này đã bị Ngân hàng Thế giới từ chối cho vay 200 triệu USD vì lý do khả thi không bảo đảm trước sóng, triều và biến đổi khí hậu. Các nhà khoa học cũng đã cảnh báo. Bất chấp, dự án vẫn được khởi công cuối năm 2007 với vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước. Nay dự án này được đưa vào diện đầu tư từ trái phiếu chính phủ mà Quốc hội đang bàn để thông qua”, v.v.

Tôi chia sẻ với tâm tư, trăn trở của GS Trân nhưng có thể do khuôn khổ hạn chế của bài báo hoặc do không phải là chuyên gia chuyên sâu về lĩnh vực chỉnh trị sông nên vẫn chưa vạch rõ ra được các “lỗ hổng” vẫn còn tồn tại của dự án Quan Chánh Bố.

Các “lỗ hổng” cần giải đáp

-Dự án chưa xét đến tác động đến môi trường sinh thái do yếu tố tổng hợp của ba dự án liền kề nhau là dự án Quan Chánh Bố, dự án nhiệt điện Duyên Hải, và dự án nạo vét cửa Định An. Đây là tác động tổng hợp, đồng thời diễn biến rất phức tạp, phải xác định một cách định lượng.

-Sự phân chia lưu lượng tại cửa Đại An, là cửa kênh Quan Chánh Bố lấy nước trên bờ trái sông Hậu sẽ diễn biến ra sao? Dự án có đánh giá cho rằng không thay đổi nhiều, nhưng không thuyết phục vì mô hình toán không mô tả được chính xác kết cấu dòng chảy và chuyển động bùn cát ở đây.

-Biến động đường bờ lâu dài ở vùng cửa Kênh Tắt có tác động như thế nào đến khu Du lịch Ba Động và vùng Cửa Định An chưa được nghiên cứu bài bản và khoa học. Bởi vì ở đây, có hai loại luồng tàu song trùng, luồng tàu nhà máy nhiệt điện có đáy -9,0m; luồng tàu sông Hậu có đáy -6,5m.

- Cần bổ sung tính toán việc sạt lở bờ sông Hậu do sóng chạy tàu lớn gây ra sẽ tác động mạnh trên suốt chiều dài từ cửa sông đến Cảng Cần Thơ.

- Chưa xét đến ảnh hưởng của biến động chế độ thủy văn, thủy lực khi trên thượng nguồn Mekong xây dựng các hồ chứa nhà máy thủy điện.

- Cửa Kênh Tắt làm phá vỡ một đoạn đê biển Trà Vinh, việc khép kín tuyến đê chưa được xem xét.

-Báo cáo đã sử dụng gồm 8 phương pháp gồm: Phương pháp đánh giá nhanh; Phương pháp so sánh; Phương pháp mô hình hóa; Phương pháp kế thừa; Phương pháp khảo sát thực địa, đo đạc hiện trường và phân tích trong phòng thí nghiệm; Phương pháp điều tra xã hội học và Phương pháp phân tích đánh giá tổng hợp. Đánh giá xâm nhập mặn dùng MIKE11, nhưng mạng lưới sông rất sơ sài. Đánh giá xói bờ, diễn biến đường bờ dùng MIKE 21FM nhưng sau thời gian thi công một đoạn kênh, dừng lại đã bị bồi lấp, các điều kiện đầu vào bị thay đổi chưa được cập nhật bổ sung trong tính toán. Đánh giá lan truyền ô nhiễm dầu, không rõ dùng mô hình gì?, v.v.

Thay cho lời kết

Từ bài học bất cập của dự án Quan Chánh Bố, Bộ Giao thông Vận tải cần phải thức tỉnh, kịp thời dừng lại đánh giá một cách toàn diện từ quy hoạch đến phương án cảng Lạch Huyện kể cả thiết kế cầu Tân Vũ vì tác động đến môi trường của dự án Quan Chánh Bố (22 triệu m3 nạo vét đổ vào vùng trũng, chỉ có 5 triệu m3 đổ ra ngoài khơi xa) chưa nghiêm trọng bằng cảng Lạch Huyện đổ tất cả 40 triệu m3 ra ngoài khơi tác động lớn đến môi trường sinh thái kể cả khu vực di sản thiên nhiên.
 
Tô Văn Trường
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.

Vinashin chết, SBIC khai sinh: lộ sáng sự thật gì?

(Kienthuc.net.vn) - Chuyển đổi Vinashin thành SBIC cho thấy  mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước thất bại. SBIC sẽ phải gánh khoản nợ khổng lồ của Vinashin, vậy trả thế nào?
Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam (Vinashin) đã chính thức bị "khai tử" để chuyển sang mô hình hoạt động mới, mô hình tổng công ty với tên gọi là Tổng công ty Công nghiệp tàu thủy Việt Nam (tên giao dịch quốc tế là Shipbuilding Industry Corporation, viết tắt là SBIC).
 
 
Trao đổi với Kiến Thức về việc Vinashin chuyển đổi thành tổng công ty, tiến sĩ Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Quản lý kinh tế trung ương cho biết: Đây là một bước đi tích cực và đúng đắn trong quá trình tái cơ cấu lại các tập đoàn kinh tế nhà nước. Vinashin đã chấm dứt mô hình hoạt động tập đoàn không mang lại hiệu quả lâu nay. Tuy nhiên, việc Vinashin chuyển thành tổng công ty cũng là sự thừa nhận thất bại trong việc thí điểm mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước.
 
Tiến sĩ Doanh cho biết, việc chuyển đổi Vinashin thành tổng công ty sẽ giải quyết được hai vấn đề, một là năng lực quản trị phù hợp với quá trình chuyển đổi, hai là việc chuyển đổi cũng tạo ra những điều kiện thuận lợi nhất định trong tái cơ cấu nợ của Vinashin. SBIC sẽ phải gánh khoản nợ khổng lồ của Vinashin.
 
Tuy nhiên, tiến sĩ Doanh cũng cho rằng, việc chuyển Vinashin thành tổng công ty chỉ là một bước đi quá độ, bởi vì để cải tổ lại doanh nghiệp nhà nước và các tập đoàn thì đòi hỏi vấn đề lớn lớn hơn rất nhiều. Muốn SBIC phát triển tốt cần đặt bước đi đầu tiên là cơ cấu lại tài chính gắn với bộ máy nhân sự cũng như chiến lược phát triển mới. Từ đó, chuyển giao công nghệ kỹ năng quản lý phù hợp với chiến lược bộ máy nhân sự mới. 
 
Cũng về vấn đề này, trả lời báo giới, tiến sĩ Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho biết, việc Vinashin trở thành tổng công ty là khép lại những đầu tư dàn trải của đơn vị này, tạo thành một doanh nghiệp nhà nước gọn gàng hơn về quy mô, chiến lược cũng như cơ cấu nhân sự. 
 
Tiến sĩ Thiên cũng nhìn nhận rằng, mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước không thành công như mong đợi.
 
Ông Võ Trí Thành, Phó viện trưởng Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế trung ương, cũng nhìn nhận: Việc tái cơ cấu Vinashin cho thấy, nếu chiến lược tái cấu trúc mà không đúng, càng kéo dài thời gian thì càng gây khó khăn và tổn thất không cần thiết cho Nhà nước. Các cơ quan chức năng cần quyết liệt và khẩn trương hơn nữa trong việc này.
Theo Bộ Giao thông vận tải, SBIC kế thừa các quyền, nghĩa vụ pháp lý và lợi ích hợp pháp của Vinashin. Tổng cộng 234 doanh nghiệp trực thuộc Vinashin trước đây sẽ không nằm trong cơ cấu của SBIC hiện nay. SBIC sẽ hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con. Trong đó, SBIC - công ty mẹ là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên 100% vốn điều lệ thuộc sở hữu Nhà nước. SBIC sẽ chỉ hoạt động trong các ngành chính, đó là: đóng, sửa chữa, thiết kế tàu và thiết bị nổi; tái chế và phá dỡ tàu cũ.
Về phần Vinashin, nợ của tập đoàn này đã được cơ cấu lại và chậm nhất đến cuối năm 2013 hoặc đầu quý một năm 2014 sẽ hoàn tất. Hiện tại, tổng số nợ của Vinashin khoảng 86.000 tỷ đồng (tương đương với hơn 4 tỷ USD). Tổng số nợ của Vinashin sẽ được phát hành trái phiếu trong nước đợt 1 xấp xỉ 12.000 tỷ đồng (bằng 30% khoản nợ) với lãi suất trái phiếu bằng lãi suất trái phiếu Chính phủ. Riêng khoản nợ bắt buộc gần 200 triệu USD với các nhà đầu tư nước ngoài đã tái cơ cấu xong thông qua việc mua toàn bộ trái phiếu với giá trị dưới 30%.
Minh Phương

Cận cảnh biệt thự trăm tỉ xây trái phép giữa Thủ đô

(PLXH)-Thành phố phê duyệt cao ốc 23 tầng, nhưng doanh nghiệp ngang nhiên xây biệt thự trăm tỉ trên khu đất này bất chấp cơ quan chức năng có công văn yêu cầu dừng xây dựng

Hôm nay, 3/11, sau 2 ngày phá dỡ, công trình trăm tỉ đồng xây dựng trên ô đất NO4-X tại phường Dịch Vọng Hâu, quận Cầu Giấy, Hà Nội đã bị tháo dỡ nhiều hạng mục. Phần tường kiên cố dày khoảng  60cm bao bọc công trình cũng đã được đơn vị phá dỡ là Cty CP Tập đoàn Phương Bắc kéo sập.

“Biệt thự trăm tỉ” có diện tích hơn 1.700m2, gồm một biệt thự 2 tầng diện tích khoảng 150m2, khối nhà một tầng diện tích 200m2, do Công ty CP Xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng (INDECO) làm chủ đầu tư.


            Chủ nhân thực sự của tòa biệt thự vẫn là một bí ẩn        Ảnh: Nam Dũng

Công trình vi phạm trật tự xây dựng bị cưỡng chế theo Quyết định số 17/QĐ-CTUBND ngày 25/3/2013 của Chủ tịch UBND phường Dịch Vọng Hậu, đã được lãnh đạo UBND quận Cầu Giấy phê duyệt. Từ ngày có QĐ cưỡng chế, phía chủ đầu tư liên tục có đơn xin hoãn cưỡng chế, để rồi sau đó tiếp tục xây dựng.


                                  Cấm vẫn thi công               Ảnh: Nam Dũng

Cơ quan chức năng ở cả 2 cấp UBND phường và quận đã thiếu kiên quyết, triệt để đối với biệt thự trăm tỉ trái phép này, dẫn đến khi công trình đã hoàn thiện mới tiến hành việc cưỡng chế.


Ông Nguyễn Quang Hồng, Chủ tịch UBND phường Dịch Vọng Hậu là người trực tiếp chỉ đạo việc cưỡng chế. Ngoài ra còn có một lãnh đạo UBND quận Cầu Giấy có mặt tại buổi cưỡng chế để đảm bảo đúng quy trình, quy định.


Cty Tập đoàn Phương Bắc đang phá dỡ tòa biệt thự trái phép   
Ảnh: Nam Dũng

Lãnh đạo công an phường Dịch Vọng Hậu cho biết, đã bố trí rất nhiều cảnh sát đảm bảo ANTT tuyệt đối trong thời gian diễn ra cưỡng chế.

“Biệt thự trăm tỉ” xây dựng trái phép trên khu đất thuộc dự án đã được phê duyệt theo Quyết định số 1537/QĐ-UBND của UBND TP Hà Nội, để thực hiện dự án đầu tư xây dựng tòa nhà hỗn hợp CARARY TOWER văn phòng kết hợp nhà ở cao 23 tầng.

Điều đáng nói, dù chưa hoàn thành nghĩa vụ tài chính và chưa được cấp phép xây dựng nhưng tháng 11/2012, công ty đã khởi công xây dựng hai công trình nhà ở thấp tầng. UBND phường Dịch Vọng Hậu đã nhiều lần ra văn bản đình chỉ nhưng Công ty INDECO vẫn trì hoãn và cố tình vi phạm. Ngày 25/3/2013, Chủ tịch UBND phường Dịch Vọng Hậu đã ký Quyết định số 17, về việc cưỡng chế công trình vi phạm TTXD của Công ty INDECO.
Quang Khởi

Bình chọn Lăng Hồ Chí Minh – 1 trong 10 công trình xấu nhất

Ho Chi Minh Mausoleum, Hanoi, Vietnam [wikimedia.org]
Ho Chi Minh Mausoleum, Hanoi, Vietnam [wikimedia.org] (Ảnh trên trang China.org
Đó là sự bình chọn của trang mạng China.org. Theo đó, lăng chủ tịch Hồ Chí Minh đứng ở vị trí thứ 5 trong 10 công trình xấu xí nhất. Công trình này, được các nhà bình chọn cho là “vụng về”. Có vẻ như ý tưởng kiến trúc muốn kết hợp dáng dấp ngôi đình ở Việt Nam với 1 bông hoa sen nhưng tác phẩm này trông giống như một nhà vệ sinh công cộng thời La Mã cổ đại.

Lời bình trong đó cũng nhắc lại ý nguyện chôn cất của chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản di chúc và lăng tẩm này đi ngược lại di chúc của người quá cố.

Trong số 10 công trình xấu nhất có sự góp mặt của Brazil, Trung Quốc, Mỹ, Anh, Séc, Romania, Tiểu vương quốc Ả Rập thông nhất và Nam Triều Tiên.

Lăng Hồ Chủ tịch được chính thức khởi công ngày 2 tháng 9 năm 1973, tại vị trí của lễ đài cũ giữa Quảng trường Ba Đình, trên diện tích rộng hơn 2ha.

Lăng được khánh thành vào ngày 29 tháng 8 năm 1975. Lăng xây dựng theo thiết kế cũng như sự trợ giúp kỹ thuật của Liên Xô. Lăng gồm 3 lớp với chiều cao 21,6 mét.

Trong di chúc, Hồ Chí Minh muốn được hỏa táng và đặt tro tại ba miền đất nước. Tuy nhiên, Bộ Chính trị khi đó, với lý do “theo nguyện vọng và tình cảm của nhân dân”, quyết định giữ gìn lâu dài thi hài Hồ Chí Minh để sau này “người dân cả nước, nhất là người dân miền Nam, khách quốc tế có thể tới viếng”.

Gần đây dấy lên những tránh cãi về sự tốn kém của lăng, nhất là sự cần thiết của nó. Từ nhiều năm nay nhà nước duy trì bộ Tư lệnh Lăng và điện dùng cho lăng bằng cả điện cho một huyện miền núi. Tuy nhiên những tranh cãi này vẫn mang tính ‘ngoài luồng’. Về mặt chính thống, lăng Hồ Chí Minh là điều cấm kỵ và tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn được phát động học tập thường xuyên suốt 3 miền đất nước.
© Đàn Chim Việt

Định mệnh xoắn lấy hai gia đình Ngô Đình Diệm và Võ Nguyên Giáp

Bố của ông Võ Nguyên Giáp là cụ Võ Nghiễm chịu nhiều ơn của gia đình cụ Ngô Đình Khả, bố của ông Ngô Đình Diệm.
 Ít ai để ý là cháu ruột của ông Võ Nguyên Giáp (kêu ông Giáp bằng chú) là đương kim giám mục Công giáo ở Nha Trang, là giám mục Giuse Võ Đức Minh. Thân phụ của giám mục Võ Đức Minh là anh ruột của ông Võ Nguyên Giáp, bố mẹ của giám mục Võ Đức Minh đều theo Công giáo và cư ngụ ở miền Nam sau 1954. Không rõ là giám mục Võ Đức Minh có về Hà nội viếng tang chú mình là ông Võ Nguyên Giáp vừa qua hay không?
 Cô ruột của giám mục Giuse Võ Đức Minh là vợ của trung tướng VNCH là ông Nguyễn Ngọc Lễ. Bà theo Công giáo và sống tại miền Nam trước 1975, qua đời tại Mỹ (bà và chồng rời Việt Nam trong biến cố 30/4/1975). Bà cô ruột này là em gái của ông Giáp lẫn bố của giám mục Giuse Võ Đức Minh.
 Kể ra thì gia đình ông Võ Nguyên Giáp chịu ơn gia đình ông Ngô Đình Diệm nhiều. Bố ông Giáp là cụ Võ Nghiễm khi bị Pháp bắt trong tù thì được ông Ngô Đình Cẩn (em trai út của cụ Diệm) giúp thăm nuôi, khi cụ Võ Nghiễm qua đời thì cũng do ông Ngô Đình Cẩn đứng ra lo việc an táng. Lúc cụ Võ Nghiễm còn sống thì được gia đình cụ Ngô Đình Khả mua ruộng vườn giao cho ông Võ Nghiễm trông coi , canh tác và nộp tô. 
 Nếu tổng thống Ngô Đình Diệm có cháu ruột (kêu bằng cậu) làm đến chức hồng y bên Công giáo là hồng y Nguyễn Văn Thuận, thì ông Võ Nguyên Giáp cũng có cháu ruột (kêu bằng chú) làm tới chức giám mục bên Công giáo là giám mục Võ Đức Minh (đang ở Nha Trang) đã nói bên trên.- Ông Giáp và ông Diệm đều có tuổi xấp xỉ nhau, đều ở cùng làng cùng huyện tại Quảng Bình. Cả 2 đều nắm chức vụ cao phía Cộng sản và phía Quốc gia Cộng hòa.
 Chuyện éo le là giám mục Giuse Võ Đức Minh (cháu ông Giáp) cũng chính là người qua Vatican để làm chứng việc phong thánh cho hồng y Nguyễn Văn Thuận (cháu ông Diệm) ngày 5/7/2013 vừa qua."


Đức Giám mục Nha Trang, Giu Se Võ Đức Minh


 Nguyêt Đồng Xoài
(Blog Lữ Thứ) 

Dựng tượng Phật Quan Âm... bồng súng (đúng là Mạt Pháp)

SGTT.VN - Tại một hồ nước trên cánh đồng thuộc xã Đại Cường (Đại Lộc, Quảng Nam) có một pho tượng cô du kích đầu đội mũ tai bèo, vai mang súng. Bức tượng khi xây có thể là thạch cao trắng, nhưng bây giờ, người ta thấy đã loang lổ nhiều mảng đen.
Bức tượng cô du kích đứng trên...toà sen trong hồ nước tại xã Đại Cường, Đại Lộc, Quảng Nam.

Trong hồ nước, nông dân làm chuồng nuôi vịt. Qua mấy ngày mưa lũ, đàn vịt không còn, chỉ còn lại cái chuồng xiêu vẹo tả tơi. Một bác nông dân vác cuốc đi ngang dừng lại góp chuyện: “Mấy tháng trước, hồ nước sạch sẽ lắm, không ai dám thả vịt, thả cá, nước trong vắt. Nhưng từ khi thay Phật bà bằng cô du kích thì ra như ri đây”. Phật Quan Âm? Tôi ngạc nhiên và nhìn kỹ thì thấy có điều lạ là cô du kích này đứng trên... toà sen.
Bác nông dân này nói: “Hồi trước, bà con chúng tôi quyên góp tiền và xây ở đây một tượng Phật bà. Được sáu tháng thì chính quyền không cho để tượng nữa, đòi đập. Ông M., người phát động xây tượng, sợ đập thì uổng phí mới kêu thợ sửa tượng lại thành cô du kích”. Theo bác nông dân này, trước kia, đây là bức tượng Phật Quan Âm trắng tinh, ngự trên toà sen, với tà áo choàng trắng bay phất phơ, một tay cầm bình cam lồ, một tay cầm nhành dương. Thế nhưng, sau đó, người ta đã phải cắt áo choàng đi, đội lên đầu tượng một mũ tai bèo rộng sụp xuống tận trán, bẻ tay cầm hồ lô và tay cầm nhành dương rồi đặt vào đó một cây súng trường.
Tôi đến nhà ông M., chỉ cách bức tượng vài trăm mét. Ông M. nói: “Hồ nước trước kia là đám ruộng. Tôi đề xuất ý tưởng và được huyện hưởng ứng thành lập dự án đào đám ruộng thành hồ nước để lấy nước tưới cho mấy chục hecta đất màu của thôn. Hồ nước ra đời, vì nó nằm ở đầu cái làng này, nên để cho hồ nước sạch sẽ, tôi đã vận động bà con quyên góp xây bức tượng Quan Âm ở giữa hồ. Tôi nghĩ xây bức tượng Phật lên thì cái hồ nước đó mới sạch vì sẽ không ai dám vứt rác, nuôi cá, thả vịt, cho trâu dầm dưới đó. Và đúng như vậy, suốt sáu tháng sau, hồ nước vẫn sạch tinh tươm. Tuy nhiên, đùng một cái, mấy “ổng” không cho đặt tượng nữa”.
“Trước khi xây, anh có xin ý kiến chính quyền không?”, tôi hỏi. “Có chớ, huyện, xã gì tôi cũng nói. Lúc đó ai cũng vui vẻ, bởi vì có chi trầm trọng. Thành phố Đà Nẵng, cách đây 20km, người ta xây tượng Phật bà to gấp mấy lần, xây tượng Phật Như Lai cũng to gấp mấy chục lần, trung ương, địa phương về, trong nước, ngoài nước đến, mà có ai nói chi đâu. Còn của tôi, chỉ là tượng Phật ở làng, tôi là cán bộ (ông M., là cán bộ trung ương vừa nghỉ hưu – NV) chứ có phải ở chùa nào đến, tôn giáo nào tới đâu”.
bài và ảnh Đoàn Nguyễn