Tổng số lượt xem trang

Thứ Hai, 8 tháng 7, 2013

Bài viết đáng chú ý

Khi Trung Quốc luôn là cạm bẫy

Giữa lúc TQ ngày càng công khai hành động xâm lấn lãnh hải trong khi tiếp tục âm thầm xâm nhập mọi ngõ ngách của quê hương VN, thì GS Trần Khuê từ trong nước lên tiếng với Đài ACTD:

Cái nguy cơ từ phương Bắc thì thường trực từ mấy nghìn năm nay rồi. Và bây giờ nó càng rõ hơn. Cho đến nay, từ nhân dân, trí thức, nói chung là mọi tầng lớp xã hội, đều xót ruột lắm ! Và người dân Việt thấy nguy cơ là vận mệnh đất nước bị đe doạ cùng với sự toàn vẹn lãnh thổ…

000_Hkg8715319-305.jpg
Chuyến viếng thăm Trung Quốc và ký kết hàng loạt văn bản của Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang tại Bắc Kinh vào ngày 20 tháng 6 năm 2013. AFP photo
Ký một lúc 10 văn kiện
Theo cuốn Hồi ký Trần Quang Cơ, thì “Ngày 29.8.1990, đại sứ Trung Quốc tại Hà Nội Trương Đức Duy xin gặp Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh và chủ tịch hội đồng bộ trưởng Đỗ Mười, chuyển thông điệp của Tổng Bí Thư Giang Trạch Dân và chủ tịch Quốc vụ viện Lý Bằng mời Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh, Chủ Tịch Hội Đồng Bộ trưởng Đỗ Mười và cố vấn Phạm Văn Đồng sang Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên vào ngày 3.9.1990 để hội đàm bí mật về Campuchia và vấn đề bình thường hóa quan hệ hai nước”.
Như vậy là “biến cố Thành Đô” ấy – mà nhà báo David Thiên Ngọc gọi là “Chiếu chỉ Thành Đô” - đã diễn ra trong vòng bí mật mà Thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ cho “đó là một sai lầm hết sức đáng tiếc về đối ngoại” của Hà Nội; chính cố vấn Phạm Văn Đồng lúc ấy cũng phải thốt lên rằng “…đi để rồi ký một văn bản mà ta không lường trước được hậu quả…”; Thủ tướng Võ Văn Kiệt có lần phải nhìn nhận rằng “Mình bị nó lừa nhiều cái quá…TQ luôn là cạm bẫy!”.
Lần này, khi Chủ tịch nước Trương Tấn Sang “bệ kiến Thiên Triều” tại Bắc Kinh, tác giả David Thiên Ngọc qua bài tựa đề “Chiếu Chỉ Thành Đô II” lưu ý rằng:
Trong lịch sử ngoại giao từ xưa nay trên toàn thế giới chưa có một ai đại diện cho một nước nào cho dù là nhỏ bé, thiếu độc lập, thiếu tự chủ cũng chưa có một lãnh tụ nào trong một cuộc tạm gọi là bang giao vừa bước chân xuống miền đất khách chưa kịp tẩy trần mà ký một lúc 10 văn kiện như ông Trương Tấn Sang và tập đoàn… theo đuôi! Ở đây xin nói thẳng ra rằng các văn kiện đó, "Họ" đã viết sẵn theo chủ ý và âm mưu của họ theo kịch bản của quân sư mà kẻ ký chỉ biết hạ bút và không được phép biết nội dung nó là gì?
Khi báo động về “Văn kiện đầu hàng”, blogger Bùi Tín khẳng định rằng “Mọi người Việt Nam yêu nước không thể không bàng hoàng và phẫn nộ khi đọc kỹ văn kiện nói trên, không thể không nhận định đây là một văn kiện tuyên bố đầu hàng bọn bành trướng và xâm lược phương Bắc”, nhất là, theo nhà báo Bùi Tín, Bản tuyên bố chung VN-TQ “Không hề có một chữ nào về Hoàng Sa, Trường Sa là đất Việt Nam bị cưỡng chiếm bằng vũ lực. Không một yêu cầu nào về việc bảo vệ tính mạng tài sản của ngư dân VN trong vùng biển quốc gia của mình. Không một lời bác bỏ nào đối với cái lưỡi bò phạm pháp trên bản đồ Trung Quốc. Chủ quyền quốc gia đã bị hoàn toàn từ bỏ. Lũ giặc bành trướng được coi là bạn bè thân thiết nhất, là đồng chí tin cậy nhất, còn hơn anh em ruột thịt”.  Nhà báo Bùi Tín nhận xét tiếp về “Biến cố Thành Đô II” này:
Đọc thật kỹ bản Tuyên Bố Chung, có thể dễ dàng nhận ra nó được phía Trung Quốc khởi thảo và phía Việt Nam hoàn toàn không được đóng góp hay thay đổi gì hết. Bản Tuyên Bố Chung hoàn toàn phản ánh tham vọng bành trướng và xâm lược của đế quốc Cộng sản Đại Hán Trung Hoa đối với đất nước Việt Nam, phục vụ dã tâm biến nhà nước Việt Nam Cộng sản thành một chư hầu của Trung Quốc, biến Việt Nam thành một thuộc địa kiểu mới của Trung Quốc, với sự tiếp tay của nhóm lãnh đạo CS bất tài và tham nhũng đã thoái hóa đến cùng cực.
Blogger Bùi Tín nêu lên câu hỏi rằng đây có phải là một cạm bẫy do nhóm lãnh đạo mới Trung Nam hải giăng ra để “nhử ông Trương Tấn Sang chui vào tròng”, buộc ông Sang phải “nhận cả gói, không sửa đổi, du di gì được, dù một li” ? Vẫn theo nhà báo Bùi Tín, sau khi đọc Kỹ văn bản ấy, Ông có cảm giác như VN đã “hội nhập vào trong lòng TQ. Tuy 2 mà một. Hoà nhập triệt để về mọi mặt, đặc biệt là về quốc phòng, về đối ngoại, về an ninh, trị an xã hội, về đảng, nhà nước, về quân đội, về công tác đảng, bảo vệ đảng, bảo vệ quân đội. Cứ như ở thời kỳ quan hệ anh em đồng chí bền chặt nhất vậy”.
Báo Tổ Quốc báo động rằng “Họ đem đất nước vào hẳn quỹ đạo của TQ”. Tờ báo tin chắc là ông Trương Tấn Sang tới Bắc Kinh để “chính thức hoá những gì đã được quyết định từ trước và do TQ áp đặt”, và lưu ý:
Ai cũng biết quan hệ hiện nay giữa Trung Quốc và Việt Nam là một quan hệ lệ thuộc nhưng sự lệ thuộc đó đã trở thành toàn diện và triệt để sau những gì mà ông Sang vừa ký, bởi vì nó còn được "thúc đẩy", "mở rộng", "tăng cường" và "làm sâu sắc thêm". Đặc biệt nghiêm trọng là Việt Nam đã cam kết "điều phối" và "phối hợp" với Trung Quốc, nói cách khác, nhận mệnh lệnh của Trung Quốc trong các quan hệ đối với thế giới, kể cả với Liên Hiệp Quốc. Chúng ta mất chủ quyền. Và chúng ta cũng có nguy cơ mất cả lãnh thổ bởi vì chính quyền CSVN đã chấp nhận để bảy tỉnh biên giới Việt Nam "hợp tác" và "cùng phát triển" với các khu tự trị của Trung Quốc ở biên giới…
000_SAHK970714052960-250.jpg
Tổng Bí thư Đỗ Mười (P) cùng với Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân (T) tại Đại lễ đường Nhân dân ở Bắc Kinh ngày 14/7/1997. AFP photo
TQ "thuần hóa" VN
Blogger Nguyễn Văn Huy lưu ý về “thời gian thảo luận những vấn đề hệ trọng liên quan đến tương lai đất nước trong vài ngày chắc chắn là không đủ”, và tin chắc rằng “nội dung của những thỏa thuận đã được hai bên trao đổi và thảo luận từ lâu”. Do đó, theo blogger Nguyễn Văn Huy,  chuyến Hoa du của ông Trương Tấn Sang “chỉ là để ký kết những gì đã đồng ý từ trước”. Khi thắc mắc về “ Một sự im lặng khó hiểu”, tác giả Nguyễn Văn Huy đặt ra một số câu hỏi, chẳng hạn như:
-Ông Trương Tấn Sang được ai hay định chế nào cho phép hoặc ủy quyền ký những văn bản hệ trọng liên quan đến tương lai Việt Nam ?
- Bộ Chính trị, Quốc hội và Chính phủ đã có những nhận xét nào về nội dung bản Tuyên bố chung ?
-Những đại biểu quốc hội, có bao nhiêu người được hỏi ý kiến về những văn kiện vừa được ký kết ?
Và tác giả nhận xét tóm tắt rằng:
Qua Tuyên bố chung này, khó có thể biện bạch Việt Nam là một quốc gia độc lập với Trung Quốc, nếu không muốn nói chính quyền cộng sản Việt Nam đang chuyển giao quyền lãnh đạo đất nước sang tay người Trung Quốc. Theo nội dung của bản Truyên bố chung, Trung Quốc có quyền tham gia vào tất cả mọi lãnh vực sinh hoạt chính trị và kinh tế của Việt Nam, trong khi đó phía Việt Nam không thể và cũng không đủ điều kiện để tham gia ngược lại.
Khi báo động về tình trạng TQ đã “thuần hoá” VN, nhà báo Vi Anh nhận xét rằng Chủ Tịch Nước Trương tấn Sang “đi sang Tàu triều cống, diện kiến Tập cận Bình như thần tử diện kiến long nhan, tái xác nhận thái độ thần phục Thiên Triều”. Ông Trương Tấn Sang tuyên bố “nhất trí, đồng tình, hồ hởi, phấn khởi”, giải quyết vấn đề Biển Đông trên nguyên tác song phương do phương Bắc đề ra, chứ tuyệt đối không cho nước thứ ba nào bên ngoài can dự vào. Vẫn theo nhà báo Vi Anh, “Giải quyết những tranh chấp tay đôi giữa con sói và con trừu, thì Biển Đông và đảo của VN coi như từ chết tới bị thương, bị kẻ mạnh nuốt hết !”.
Blogger Gò Cỏ May thì lưu ý rằng mặc dù hai nước CS anh em Việt-Trung từ lâu đã bình thường hoá bang giao và hợp tác chặt chẽ, không ngừng nâng mối quan hệ chiến lược giữa 2 đảng, 2 nhà nước lên “tầm cao mới”, nhưng “ thật lạ kỳ, cứ mỗi đợt gặp gỡ cấp cao như thế là Trung Quốc lại gia tăng các hoạt động gây căng thẳng trên các vùng biển mà Việt Nam và Trung Quốc đều tuyên bố chủ quyền “không tranh cãi”. Phía Trung Quốc thì hành động. Còn phía Việt Nam lại chỉ cho Người phát ngôn Bộ Ngoại Giao  lên tiếng phản đối, chứ giới chóp bu thì đều bị cái vòng kim cô ‘đại cuộc’ mang tên ý thức hệ kiềm tỏa, ngậm tăm”.
Trong khi nhà văn Huỳnh Ngọc Tuấn báo động rằng “Việc ông Trương tấn Sang công du Trung quốc lần này với những cam kết về một sự ‘hợp tác chiến lược toàn diện’ trên tinh thần ‘đồng chí anh em’ chỉ đẩy đất nước lún sâu hơn vào hiểm họa lệ thuộc ngày càng nhiều hơn vào Trung Quốc mà thôi”, thì nhà báo Bùi Tín lưu ý “ Nước cờ này đã đẩy đảng CSVN đang núng thế thụt sâu thêm xuống hố suy thoái”.
Khi nêu lên câu hỏi rằng có phải “ VN thiếu vắng lãnh tụ ?”, tác giả Phạm Dzũng nhận định rằng “ Trong cuộc chiến Tàu-Việt từ ngàn xưa tới nay, sách lược muôn đời của Tàu vẫn là tàn hại nguyên khí của dân Việt, và chúng ra tay rất sớm -‘tiên hạ thủ vi cường’ ”. Vẫn theo tác giả thì “Hiện tượng bế tắc tương lai và suy yếu toàn diện vừa về lãnh đạo, vừa về văn hóa, xã hội, kinh tế và quốc phòng của Việt Nam chứng tỏ rằng TQ đã thành công trong sách lược làm Việt Nam suy thoái triệt để. Mối nguy hiểm lớn nhất là ở chỗ bọn xâm lược không cần phải trực tiếp ra mặt, mà lại sai khiến được chính nhà cầm quyền Việt Nam…”.
Tác giả Phạm Dzũng nhận thấy hành động của giới cầm quyền trong nước liên tục trấn áp dân và liên tiếp nhượng bộ phương Bắc một cách vừa lén lút, vừa công khai chứng tỏ rằng Bắc Kinh đã nắm được giới cầm quyền Hà Nội, mà nổi bật nhất hiện nay là bộ máy công an… Như vậy, theo tác giả, “chính là Tàu đang cai trị VN”. Và mọi phản đối máy móc, chiếu lệ của nhà cầm quyền VN đối với hành vi xâm lược, ngang ngược của TQ ở biển Đông và biên giới phía Bắc chỉ là để “che mắt thiên hạ nhằm chuẩn bị giao hết căn nhà VN cho chủ mới….”.
Tuy nhiên, tác giả bày tỏ tin tưởng rằng “bên này biên giới mong manh của sự bi quan” trước nguy cơ mất nước vào tay phương Bắc, thì phong trào chống đối ngày càng lớn mạnh của tuổi trẻ cùng người dân trong nước trong bối cảnh ngày càng dân chủ hóa toàn cầu, người dân Việt vẫn có thể tin vào tiền đồ của một dân tộc đã chiến đấu mấy ngàn năm để tồn tại.
Thanh Quang, phóng viên RFA
2013-07-08

'Độc lập, Tự do, Hạnh phúc'


'Người dân Mỹ thể hiện tinh thần Độc lập, Tự do qua những việc làm và hành động'

Năm 1976 tôi đón Lễ Độc Lập đầu tiên khi nước Mỹ tròn 200 tuổi. Năm đó đi coi bắn pháo bông ở sân vận động Candlestick, cuốn theo người mấy tấm áo dầy mà vẫn cảm thấy cái lạnh mùa hè San Francisco.

Dịp lễ lớn nhất của Mỹ rơi vào mùa hè, mùa của nhiều thú vui chơi, thư giãn nhất trong năm.

Hai tuần trước leo núi Yosemite, nóng như lửa. Tuần này nhiệt độ vẫn trên 100 vì thế kéo nhau xuống biển Santa Cruz.

Ở đây có những trò chơi nhào lộn cao tốc cho trẻ con. Người lớn cắm dù, dựng lều, đem lò ra nướng thịt, burger, hot dog. Bia chỉ được uống trên khu vực giải trí, không được mang ra bãi biển. Giới hạn thế, nhưng giấu bia trong thùng đá, khi uống rót vào ly giấy. Nhâm nhi, lai rai.

Đường ra biển sáng sớm đã đông xe, chạy rất chậm. Lúc ngừng tại một ngã tư, thấy trên bảng “Welcome to Santa Cruz” có ghi là thành phố kết nghĩa chị em với nhiều nơi trên thế giới: Nhật, Ý, Tây Ban Nha, Ukraine, Nicaragua, Venezuela.

Tấm bảng là biểu hiện tinh thần độc lập và tự do của dân Mỹ.

Kết nghĩa chị em với các nước bạn không nói làm gì, nhưng với Venezuela là điều chú ý vì bao năm nay lãnh đạo nước này hăng hái chống Mỹ, ra rả chửi Mỹ. Bất kể quan hệ ngoại giao hai nước căng thẳng, Santa Cruz vẫn đưa bàn tay thân hữu ra kết nghĩa với Puerto La Cruz.

Trong vụ nhân viên tình báo Edward Snowden tiết lộ bí mật nghe lén của chính phủ Mỹ, Venezuela sẵn sàng đón nhận cho tị nạn.

Và cư dân Santa Cruz cũng ủng hộ Snowden. Trên đường Beach sáng nay có vài chục người cầm biểu ngữ xuống đường hoan hô việc làm của Snowden.

Độc lập, Tự do ở Mỹ là thế. Tổng thống chẳng nhắc đến, người dân cũng không, chỉ thể hiện qua những việc làm và hành động.

'Việt Nam sợ hãi và lệ thuộc'

"Vì sao Trung Quốc lại chỉ có thể bắt nạt được Việt Nam. Vì lãnh đạo Việt Nam đã đánh mất tinh thần độc lập, làm suy yếu tính tự chủ của dân tộc đã có từ thuở 'Nam quốc sơn hà, Nam đế cư'."
Trong khi đó lãnh đạo Việt Nam lại luôn nhắc đến Độc lập, Tự do, Hạnh phúc. Nghe riết, trong các phát biểu của quan chức trên VTV4; đọc riết, trên các báo của nhà nước; và thấy riết trên các giấy tờ, khẩu hiệu và gần đây là trong các phản hồi của những dư luận viên ăn lương nhà nước.

Có nghe, có đọc nhưng tôi không tin.

Vì sao?

Nhìn vào hiệp ước biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, nhìn vào những phản ứng hay cảnh báo của một số người trong nước đối với quan hệ Việt-Trung và âm mưu của Bắc triều, mà hệ quả là họ bị sách nhiễu hay phải vào tù.

Nhìn vào đường khoanh lưỡi bò 9 đoạn của Trung Quốc, nhìn những lần tàu Trung Quốc tấn công tàu Việt Nam, nhìn vào những chuyến đi của lãnh đạo Việt Nam tới Trung Quốc, tất cả cho thấy sự sợ hãi và lệ thuộc của lãnh đạo Việt Nam vào Trung Quốc là điều có thực.

Lãnh đạo các nước khác trong khu vực như Nam Hàn, Nhật Bản, Malaysia, hay Thái Lan, Philippines, Myanmar không thường xuyên đi Trung Quốc. Trong khi đó Tổng Bí thư, Chủ tịch Nước, Thủ tướng của Việt Nam lại luân phiên qua hội họp, bàn bạc với Bắc Kinh.

Vì quan hệ Việt-Trung ở tầm mức cao hơn quan hệ Nhật-Trung hay Hàn-Trung? Tôi không nghĩ thế. Trung Quốc chỉ có thể bắt nạt được Việt Nam thôi, với Nhật Bản hay Nam Hàn nào dám.

Vì sao Trung Quốc lại chỉ có thể bắt nạt được Việt Nam. Vì lãnh đạo Việt Nam đã đánh mất tinh thần độc lập, làm suy yếu tính tự chủ của dân tộc đã có từ thuở “Nam quốc sơn hà, Nam đế cư”.


Các cuộc biểu tình chống Trung Quốc của người dân thường nhanh chóng bị giới chức giải tán

Quan chức nhà nước hay nói đến Độc lập. Nhưng cả nước không có được một tờ báo độc lập của tư nhân. Nhắc đến tự do mà các ban ngành phụ trách thông tin không cho các ý kiến trái với quan điểm của nhà nước được hiển thị, trong khi trả lương cho cả nghìn dư luận viên để viết bài, viết phản hồi với mục đích giải thích chính sách của nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm đánh tan những “tuyên truyền xuyên tạc” của “bọn phản động” trên các mạng thông tin quốc tế và những blog lề trái.

Tự do. Ở Việt Nam chỉ gắn liền với bắt bớ, giam tù vì người Việt ngày nay vẫn chưa có tự do phát biểu, không được biểu tình, không được tự do ra báo, không được hội họp hay lập hội, không được tự do ứng cử.

Nếu có tự do, ở Việt Nam đã có những tờ báo độc lập, nhiều tổ chức xã hội, nghề nghiệp, có nhiều cuộc xuống đường rầm rộ phản đối Trung Quốc lấn chiếm đất biển và mỗi kỳ bầu cử đã nhộn nhịp ứng viên của nhiều đảng chính trị vận động tranh cử.

Tự do ở Việt Nam, như nhận xét của cố thi sĩ Nguyễn Chí Thiện: “Tự do tôi quí thiết tha, mà sao tù ngục hết ra lại vào.”

Lời thơ từ nửa thế kỷ trước mà bây giờ cũng vẫn đúng.

Có thể nhắc đến Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần, Hồ Thị Bích Khương, Đỗ Thị Minh Hạnh, Trần Huỳnh Duy Thức, Việt Khang, Cù Huy Hà Vũ, Trương Duy Nhất, Nguyễn Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha… là những người yêu nước, yêu tự do mà đang bị tù đày.

Hạnh phúc. Điều này khó đong đếm vì hạnh phúc chỉ là khái niệm tương đối, tùy theo hoàn cảnh của mỗi cá thể.

Hơn ba thập niên trước người Việt ra đi bằng thuyền, bằng con đường đoàn tụ gia đình ODP, diện HO, diện con lai, diện vượt biển hồi hương, bằng đường xuất khẩu lao động.

Nay người Việt chọn con đường du học, đường kết hôn với người nước ngoài. Tìm được lối thoát là họ sẵn sàng rời bỏ nơi chôn nhau cắt rún.

Ừ, thì bảo vì hoàn cảnh gia đình nghèo quá, họ ra đi để tương lai có khả năng giúp đỡ người còn ở lại.

Nhưng người giầu cũng tìm đường ra đi. Càng giầu càng muốn cho con cái sớm được ra khỏi nước bằng con đường du học các nước Úc, Anh, Pháp, Mỹ ngay từ cấp hai.

Nếu ai ra đi và không còn muốn trở về. Điều đó có nghĩa là ở một nơi nào đó họ đã tìm được độc lập, tự do và hạnh phúc.

Tác giả dạy đại học cộng đồng và là một nhà báo tự do hiện sống tại vùng Vịnh San Francisco.

Nhà báo tự do Bùi Văn Phú
Gửi cho BBCVietnamese.com từ San Jose

Việt Nam: lòng tin và ưu tiên chiến lược


Quan hệ Mỹ -Việt hiện nặng về quân sự hơn là chia sẻ các giá trị chung

Việt Nam đã và đang thiết lập nhiều mối quan hệ chiến lược với nhiều nước trên thế giới nhằm hội nhập vào cộng đồng quốc tế nhưng những mối quan hệ này rất khó bền vững vì thiếu nền tảng cơ bản: lòng tin.

Nếu Việt Nam muốn các nước khác nghiêm túc xem xét đòi hỏi của mình thì trước tiên cần phải cân nhắc lại và đề ra những ưu tiên đối với các vấn đề quốc nội cũng như quốc tế.

Suốt những năm cuối thập niên 1990, và đặc biệt là đầu thế kỷ 21, Việt Nam trở thành điểm đến lý tưởng cho các nhà đầu tư nước ngoài, và nhanh chóng trở thành một điển hình cho sự giàu có ở Đông Nam Á với nền kinh tế tăng trưởng mạnh dù cuối cùng sụp đổ trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế toàn cầu từ năm 2007 vì sự quản lý yếu kém của chính phủ.

Với mô hình “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, rõ ràng Việt Nam hay Trung Quốc ngày nay không phải là những đất nước cộng sản mà Hồ Chí Minh hoặc Mao Trạch Đông đã vẽ ra, và chắc hẳn cũng không phải những gì Karl Marx đã tưởng tượng.

Đặc biệt, với những tòa nhà cao chọc trời và tầng lớp trên là thiểu số nhưng nắm phần lớn tài sản của toàn bộ quốc gia, thì rõ ràng Việt Nam không phải là thiên đường xã hội chủ nghĩa như nhiều ngưởi tưởng tượng.

Thay vào đó, độc quyền nhà nước của một đảng tại Việt Nam đã tạo ra tình trạng lạm dụng quyền lực; thậm chí hiến pháp và pháp luật do một đảng tự ý sửa đổi và áp dụng tùy tiện.

Nhà nước độc quyền của một đảng chính trị hiển nhiên không phải nhà nước dân chủ.

Việc khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam không qua sự đồng thuận của nhân dân là nguyên nhân dẫn đến sự không chính danh của bản hiến pháp và chế độ hiện hành.

Tính chính danh của một nhà nước chỉ được thể hiện khi được nhân dân trao quyền thông qua bản hiến pháp dân chủ và các cuộc bầu cử tự do, công bằng.

Do đó, mặc dù các nhà lãnh đạo hiện tại có khẳng định rằng “Việt Nam là một người bạn và đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế” thì nhiều người cũng không khỏi lo ngại và tỏ vẻ thận trọng về tính chính danh của chế độ hiện hành.

Đối tác khác bạn bè

Việt Nam đã thiết lập ngoại giao với 178 nước trên thế giới, đồng thời là thành viên của Liên Hiệp Quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), ASEAN và nhiều tổ chức quốc tế khác.

Hiện nay, Việt Nam đang thúc đẩy các mối quan hệ chiến lược với khoảng hơn một chục nước, bao gồm cả Anh Quốc, Nga, Trung Quốc và Ấn Độ; và những ngày tới thì Hà Nội muốn thêm cả Singapore, Pháp và Hoa Kỳ vào danh sách này.


"Việt Nam đã liên tục quay sang cộng đồng quốc tế nhằm tìm kiếm đối tác để đối trọng lại với Trung Quốc"

Về khía cạnh nào đó thì những mối quan hệ này có ý nghĩa nhưng chúng thiếu vắng “sự cam kết” cần thiết trong mối quan hệ an ninh song phương giữa các bên. Và chắc chắn các mối quan hệ này rất khó để nâng cấp lên thành mối quan hệ đồng minh đầy tin cậy.

Trong trận chiến Việt–Trung vào năm 1979, Liên Xô – đồng minh thân cận của Việt Nam, đã quyết định đứng bên ngoài.

Việc này cho thấy các mối quan hệ đối tác chiến lược không kèm theo các hiệp ước phòng thủ chung, vì vậy, khác rất nhiều so với mối quan hệ đồng minh.

Mối quan hệ chiến lược chỉ đơn thuần dựa trên những lợi ích chung và có tính toán giữa hai nước. Nhưng về lâu về dài thì những lợi ích này có thể sẽ thay đổi, và vì vậy, các mối quan hệ chiến lược buộc phải chuyển hướng cho phù hợp.

Cho nên, dù rằng Việt Nam có rất nhiều các đối tác chiến lược thì cũng không nên xem đây là thước đo về số lượng bạn bè hay đồng minh mà Việt Nam có được trên trường quốc tế. Bạn bè và đối tác là hai thứ khác nhau rất xa.

Ví dụ, Việt Nam và Trung Quốc đã thiết lập mối quan hệ đối tác chiến lược vào năm 2008, nhưng trên thực tế việc này không mang nhiều ý nghĩa khi xét tới các vụ xung đột ở Biển Đông trong thời gian qua.

Giữa lúc các lợi ích của hai nước thay đổi và chính sách đối phó trong khu vực cũng ngày càng khác biệt thì thử hỏi mối quan hệ đối tác của hai nước này liệu có mang lại hiệu quả?

Dù rằng hai nước có chung đường biên giới, cùng thể chế chính trị, nhưng họ chỉ có vậy mà thôi!

Việt Nam đã liên tục quay sang cộng đồng quốc tế nhằm tìm kiếm đối tác để đối trọng lại với Trung Quốc, và hy vọng đưa những chính sách ngang ngược của Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông ra trước ánh sáng.

Những việc trên chưa kể đến những trận đụng độ trên biển giữa hai nước và kết quả đã mang lại không ít thương vong.

Thành quả lớn nhất mà hai nước này đạt được dựa trên tinh thần quan hệ chiến lược, là thiết lập và cải thiện các kênh liên lạc thông tin giữa các cấp nhà nước. Nhưng đó chỉ về mặt hình thức, và trong thực tế thì hai nước tuy gần nhưng lại rất xa.

Không cùng giá trị

Rất khó để thiết lập các đối tác chiến lược mang ý nghĩa sâu đậm khi không cùng chung các giá trị tư tưởng và niềm tin.


Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng kêu gọi xây dựng 'lòng tin chiến lược' giữa Việt Nam và các nước lớn

Liệu Việt Nam tìm kiếm điều gì ở Pháp hay Hoa Kỳ nếu không cùng ý chí thượng tôn pháp luật và tôn trọng các ý kiến khác biệt của người dân?

Nếu Việt Nam chỉ đơn thuần sử dụng Pháp hay Hoa Kỳ để thực hiện các kế hoạch khác mà không quan tâm đến việc các nước này tin tưởng vào điều gì, thì có lý do gì để họ trở thành đối tác chiến lược của Việt Nam?

Tại sao Hoa Kỳ phải trở thành đối tác chiến lược với Việt Nam khi mà Việt Nam thiếu thiện chí với những lo ngại của Hoa Kỳ về vấn đề nhân quyền, tù nhân chính trị và thượng tôn pháp luật?

Chế độ cộng sản đã làm Việt Nam suy yếu và cô độc trên trường quốc tế. Đây nên là một mối lo lớn đối với các lãnh đạo tại Hà Nội. Cần phải nhận ra rằng lặp đi lặp lại cùng một chính sách không thể mang lại những kết quả khác nhau.

Việt Nam cần thay đổi, và sự thay đổi này không phải tới từ ‘lòng tin chiến lược’ như Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biểu mà phải tới từ những hành động cụ thể.

Muốn trở thành một người bạn và đối tác đáng tin cậy của tất cả các nước trên thế giới thì Việt Nam cần thực sự tạo dựng lòng tin. Quan trọng hơn hết, hội nhập và “xây dựng lòng tin chiến lược” trước hết đòi hỏi các lãnh đạo Việt Nam phải thật tâm tạo dựng lòng tin đối với nhân dân trong nước và có khả năng hội nhập với cộng đồng người Việt ở hải ngoại.

Không có nhiều cách để thực hiện điều này ngoài việc cần phải làm đầu tiên là cải cách hệ thống chính trị bị lạm dụng để tạo lập xã hội bình đẳng cũng như xây dựng một nhà nước chính danh.

Cần phát huy dân chủ bao gồm việc tháo gỡ hệ thống độc quyền nhà nước của một đảng để xây dựng nhà nước thượng tôn pháp luật, đa nguyên, bắt đầu từ bản hiến pháp dân chủ của toàn dân.

Nhà nước pháp quyền của dân hay nhà nước thượng tôn pháp luật là nền móng nhất thiết không chỉ quan trọng cho việc xây dựng lòng tin mà còn là nhu cầu của mọi xã hội trong mọi thời đại.

Đó là nhu cầu không thể thiếu bên cạnh một nền báo chí khai phóng, trung thực, chế độ tòa án độc lập, và hệ thống bầu cử tự do, dân chủ.

Tác giả Vũ Đức Khanh là luật sư và giáo sư luật bán thời gian tại Đại học Ottawa, chuyên nghiên cứu về chính trị Việt Nam, quan hệ quốc tế và luật pháp quốc tế. Ông Võ Tấn Huân là bác sỹ dược khoa tại Hoa Kỳ.

Luật sư Vũ Đức Khanh và ông Võ Tấn Huân
Gửi cho BBC từ Canada

Học giả Nhật: Cần xem lại quan hệ Nhật-Việt


Thủ tướng Nhật Shinzo Abe và Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng tại Hà Nội, ngày 16 tháng 1, 2013.

08.07.2013
Trong số ra ngày 25/6/2013, tờ Asahi Shinbun, nhật báo lớn nhất của Nhật Bản, có đăng bài viết dưới nhan đề «Thảo luận khó khăn, những vấn đề trong hợp tác với Việt Nam» của Ari Nakano, một học giả khá quen thuộc với bạn đọc Việt Nam.(1)

Tiến sỹ Ari Nakano là một chuyên gia về Việt Nam từ 25 năm nay. Cô vừa là nhà nghiên cứu, vừa là giáo sư đại học, lại là nhà báo có uy tín. Năm nào cô cũng sang Việt Nam một vài lần. Cô đọc, nói và viết thông thạo tiếng Việt. Cô được giới thiệu với đông đảo bạn đọc Nhật như là một người am hiểu tình hình chính trị, quan hệ đối ngoại và vấn đề nhân quyền ở Việt Nam. Gần đây cô đã lên tận Tây Nguyên, đến Đắc Nông, Lâm Đồng xem xét tại chỗ việc khai thác bauxite.

Cô đã có 4 cuốn sách và hàng mấy chục bài báo về Việt Nam, giới thiệu cuộc chiến tranh từ 1946 đến 1975, cuộc chiến tranh biên giới phía Tây Nam và phía Bắc của nước ta, những cuộc đấu tranh cho nhân quyền của trí thức, thanh niên, phụ nữ và nông dân Việt Nam, với cách nhìn khách quan và tiến bộ, tỏ rõ cảm tình với các chiến sỹ dân chủ từ Phạm Hồng Sơn, Cù Huy Hà Vũ đến Phạm Thanh Nghiên, Tạ Phong Tần, rồi Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha gần đây.

Trong bài báo này, Tiến sỹ Ari Nakano chỉ rõ tình trạng khai thác bauxite trong vùng Tây Nguyên đang lâm vào bế tắc, tiến lui đều khó. Cô lưu ý rằng việc Việt Nam mở cửa cho Trung Quốc vào thầu để sản xuất ra nhôm chỉ được ghi trên Tuyên bố chung giữa 2 tổng bí thư đảng CS Nông Đức Mạnh và Giang Trạch Dân, lại không được thảo luận và biểu quyết tại Quốc hội Việt Nam. Cô nói rõ theo quy hoạch lẽ ra nhôm được ra lò từ năm 2010, nay đã đến năm 2013 mà việc chính thức sản xuất nhôm vẫn chưa đi vào quy trình bình thường, chậm mất 3 năm, trong khi cảng Kê Gà ở Bình Thuận lẽ ra phải được xây dựng xong để xuất khẩu nhôm, nay đã bị đình chỉ, làm cho dây chuyền vận chuyển lâm vào bế tắc. Cô tả lại cảnh rời rạc, tiêu điều ở các nơi khai thác quặng bauxite trên khắp vùng Tây Nguyên, cho rằng một số trí thức Việt Nam đã rất có lý khi kiến nghị phải xem xét kỹ về thảm họa môi trường do khai thác bauxite gây ra. Cô cũng tỏ ra rất băn khoăn về ý đồ của lãnh đạo đảng CS ở Việt Nam chủ trương xây dựng một số nhà máy điện hạt nhân, qua các mối quan hệ mua bán với các chính phủ Nhật Bản và Nga, sau khi đã xảy ra những tai nạn hạt nhân bi thảm ở Chernobyl và Fukushima.

Nhà báo Ari Nakano cho biết gần đây cô cùng một số trí thức chuyên gia Nhật Bản và Việt Nam dự định mở một cuộc họp ở Hà Nội trao đổi ý kiến về bảo vệ môi trường trong khai thác quặng bauxite và xây dựng nhà máy điện hạt nhân. Thế nhưng Bộ Công nghiệp của Việt Nam đã ngăn cản ý định ấy, không muốn cho ai tham dự, theo cô là do họ muốn che dấu những sự thật liên quan, ngăn cản sự thảo luận đối thoại và phản biện công khai minh bạch, trong khi đó, họ còn bắt bớ đàn áp, đe dọa những tiếng nói ngay thật của những trí thức tiến bộ.

Kết thúc bài báo, cô Ari Nakano có ý kiến khá mạnh mẽ:«Đã hơn 20 năm nay tôi đã thấy chính quyền VN vẫn giữ một thái độ che lấp những sự thật. Năm nay nhân kỷ niệm 40 năm quan hệ Nhật - Việt, phía Nhật Bản mong muốn thắt chặt hơn quan hệ giữa 2 nước, tôi thấy phía Nhật Bản rất cần nhận rõ tình hình trên đây để xem xét, rút ra những kết luận cần thiết cho quan hệ 2 nước».

Tiếng nói của Tiến sỹ Ari Nakano chắc chắn có trọng lượng đối với công luận Nhật Bản. Được biết hiện trong quỹ chi viện chính thức cho phát triển (Official Development Assistance) cùng với quỹ đầu tư phát triển từ nước ngoài (Foreign Development Investment), nước Nhật hiện đứng đầu bảng trong việc trợ giúp Việt Nam. Nếu việc trợ giúp này bị trắc trở do sự ngăn cản trao đổi, giao lưu, thiếu công khai minh bạch trong học thuật và kỹ thuật, sẽ tác động không ít tới sự nghiệp hiện đại hóa, công nghiệp hóa đất nước.
  1.  Các bạn có thể xem toàn văn bài báo này do Phạm Toàn dịch trên mạng Bauxite Việt Nam ngày 28/6/2013.

    * Blog của Nhà báo Bùi Tín là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
 

An ninh Trung Quốc bắn vào người dân Tây Tạng

(đọc để hiểu Khựa là thế nào, hi vọng không có ngày mà báo chí cũng giật tít: An ninh TQ bắn vào người dân VN)


Lực lượng an ninh Trung Quốc ngăn chận những người Tây Tạng lên đồi để cầu nguyện nhân ngày sinh đức Đạt Lai Lạt Ma, 6/7/13

08.07.2013
Các nguồn tin Tây Tạng nói rằng lực lượng an ninh tại miền tây Trung Quốc đã bắn bị thương nhiều người Tây Tạng tìm cách kỷ niệm sinh nhật Đức Đạt Lai Lạt Ma.

Dân Tây Tạng kỷ niệm sinh nhật thứ 78 của đức Đạt Lai Lạt Ma
Dân Tây Tạng kỷ niệm sinh nhật thứ 78 của đức Đạt Lai Lạt Ma

Các nguồn tin vừa kể nói với đài VOA sự kiện này xảy ra hôm thứ Bảy, là sinh nhật thứ 78 của Đức Đạt Lai Lạt Ma, tại quận hạt tự trị Cam Tư của người Tây Tạng ở tỉnh Tứ Xuyên.

Nguồn tin vừa kể nói rằng hằng trăm người Tây Tạng trong đó có các tăng, ni tìm cách lên ngọn đồi thiêng liêng trong quận Đạo Phu để thắp nhang và cầu nguyện cho nhà lãnh đạo tinh thần của họ, đang bị chính phủ Trung Quốc gọi là phần tử đòi li khai.
Lực lượng an ninh Trung Quốc chận những người Tây Tạng lên đồi
Lực lượng an ninh Trung Quốc chận những người Tây Tạng lên đồi

Những người Tây Tạng lưu vong nói lực lượng an ninh Trung Quốc đã bắn để ngăn chặn đám đông không cho tổ chức lễ kỷ niệm này, làm nhiều người bị thương phải đưa tới bệnh viện.

Chính quyền Trung Quốc không đưa ra bình luận nào ngay về tin này.
(VOA)

Giờ là lúc cho Giấc mơ Trung Hoa?


Khi nền kinh tế có dấu hiệu tăng trưởng chậm lại, liệu có còn đủ việc làm cho khoảng 7 triệu sinh viên Trung Quốc ra trường mỗi năm?

Liệu họ có cơ hội mơ tới một cuộc sống tốt đẹp hơn như cha mẹ họ từng mơ ước? Câu trả lời có lẽ chính là chìa khóa của việc nền kinh tế lớn thứ hai thế giới này có thực hiện được khả năng của mình hay không.

Liệu Giấc mơ Trung Hoa có giống như Giấc mơ Mỹ? Công việc tốt, nhà có hàng rào trắng, có xe hơi, và tỷ lệ con cái khoảng 2.4 con, là mô hình đáng ước của người Mỹ thời hậu chiến.

Giấc mơ Trung Hoa được khơi dậy bởi chủ tịch mới Tập Cận Bình, và sau một thập niên vàng tăng trưởng kinh tế.

Giấc mơ Mỹ đã nổi lên từ những năm 60, khi tầng lớp trung lưu phải đối diện với tương lai ít tốt đẹp hơn sau mười năm tăng trưởng cao mà tới giờ vẫn được gọi là thập kỷ vàng.

Ở đoạn cuối của giai đoạn này, người Mỹ lo lắng không vượt nổi khối Xô Viết.
Bộ mặt tiêu biểu cho tâm trạng chung của nước Mỹ thời kỳ đó là John F. Kennedy (JFK), tổng thống Mỹ năm 1961 – 1963.

JFK nói ông muốn “đất nước lại phát triển” – và người Mỹ “đứng bên một New Frontier (biên giới mới) – của năm 1960 – đường biên của những cơ hội chưa được biết tới và cả hiểm họa – biên giới của những hy vọng chưa được thỏa mãn và cả nhiều đe dọa.”

Ông hô hào người Mỹ cố gắng trở thành quốc gia đầu tiên đưa con người lên mặt trăng.

Bước ngoặt


Chủ tịch Trung Quốc từng nhắc tới Giấc mơ Trung Hoa hồi mới nhậm chức

Với Trung Quốc, đây chính là giờ khắc đó. Thập kỷ năm 2000 cho thấy tăng trưởng mạnh nâng mức thu nhập bình quân ở mức nghèo dưới 1.000 đôla Mỹ hồi đầu thiên niên kỷ, tới nay đã lên mức trung bình.

Giống như Hoa Kỳ trước đó, Trung Quốc đã đạt tới bước ngoặt trong tiến trình phát triển của mình.

Một trong những nguyên nhân là giai đoạn tăng trưởng đầu tiên – 30 năm đầu – chắc chắn rất khó khăn. Nhưng theo một cách nào đó, đây cũng là giai đoạn dễ dàng nhất.

Trung Quốc tăng trưởng chủ yếu nhờ việc cải cách doanh nghiệp vốn nhà nước hoạt động không hiệu quả và sản xuất hàng hóa rẻ phục vụ xuất khẩu.

30 năm tới sẽ cần khéo léo hơn. Giai đoạn này cần tới những cải thiện thực sự trong sản xuất và sáng tạo để giúp Trung Quốc có thể vượt qua điều gọi là cái bẫy của thu nhập trung bình.
"Thách thức của lãnh đạo Trung Quốc là khơi dậy niềm cảm hứng để đưa hơn một tỷ người còn lại lên được mức thu nhập trung bình."
Và điều này chỉ có thể đến được từ những khao khát của người trẻ để có được cuộc sống tốt đẹp hơn và phát triển tài khéo léo để đạt được điều đó. Hay nói cách khác, để mơ Giấc mơ Trung Hoa.

Thế nhưng nó là gì? Không rõ ông Tập Cận Bình muốn nói tới điều gì.

Ông ta nhắc tới nó trong một số dịp vài tháng đầu khi ông lên nắm quyền, cùng với vị phu nhân quyến rũ của mình.

Có thể có chút ảnh hưởng của JFK và Jackie ở đây. Nhưng liệu Trung Quốc những năm 2010 có thật được như nước Mỹ thập niên 60 hay không đều phụ thuộc vào niềm hy vọng và giấc mơ của người dân.

Mặc dù có tới 150 triệu người thuộc tầng lớp trung lưu – gấp đôi dân số Anh quốc – thách thức của lãnh đạo Trung Quốc là khơi dậy niềm cảm hứng để đưa hơn một tỷ người còn lại lên được mức thu nhập trung bình.


Linda Yueh
Phóng viên phụ trách kinh tế (BBC)
 

David Brown - Đối mặt với Trung Quốc - Việt Nam: Chơi với lửa

Theo Mỹ cứu nước, theo Tàu cứu đảng. Câu nói này được nghe nói ở khắp mọi nơi tại Việt Nam, cô đọng được tình thế tiến thoái lưỡng nan về địa chính trị đang đối diện với Đảng Cộng sản cầm quyền của đất nước này.

Bốn mươi năm sau khi người lính Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam, một đảng từng giành được độc lập và thống nhất đất nước đã mất đi nhiều tính hợp pháp của mình. Dù có tìm trông vào nhân đức của Hồ Chí Minh và các đồng chí của ông đến bao nhiêu cũng không thể khôi phục được đà phát triển bình thường của mình, vốn đã băng hoại từ gốc rễ bởi nạn tham nhũng có hệ thống. Trách nhiệm lớn nhất của chế độ là sự thất bại không thể sửa chữa một nền kinh tế sút kém. Nhưng đồng thời dư luận cũng khinh bỉ chế độ về khả năng bảo vệ quyền lợi của Việt Nam trước Trung Quốc.

Từ quan điểm của một người dân trên đường phố Hà Nội hoặc Hồ Chí Minh, Bắc Kinh đã rũ bỏ chiếc áo choàng của "sự trỗi dậy hòa bình" và trở lại vai trò bắt nạt lịch sử của họ trong khu vực. Những khẳng định nực cười của Bắc Kinh về vùng biển và tài nguyên khoáng sản của toàn bộ biển Nam Trung Quốc chỉ là ví dụ nổi bật nhất của sự việc này. Kế hoạch xây dựng một chuỗi các con đập trên sông Mê Kông trên ở tỉnh Vân Nam và hỗ trợ kế hoạch xây dựng thêm 11 đập ở khu vực hạ lưu Lào của Trung Quốc đã đe dọa quét sạch nguồn lũ hàng năm vốn giúp duy trì màu mỡ cho vùng đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam.

Doanh nghiệp Trung Quốc cũng đang theo đuổi khoáng sản và các nguồn tài nguyên gỗ của Lào, thách thức quyền bá chủ của Việt Nam ở trên chính sân sau của mình. Ngay tại Việt Nam, sự gia tăng các đầu tư phát triển, xây dựng và khai thác quặng mỏ của Trung Quốc, đáng chú ý là dự án bauxite nhiều tỷ đô la của Chinalco ở Tây Nguyên, đã bị chỉ trích nặng nề. Hàng hóa giá rẻ và thường là kém chất lượng của Trung Quốc tràn ngập thị trường Việt Nam, nghiền nát các nhà sản xuất địa phương.

Người dân bình thường trên đường phố muốn chống trả lại. Họ không hiểu được rằng lực lượng vũ trang của Việt Nam không sánh nổi với Trung Quốc hay Việt Nam rất dễ tổn thương để bị trả đũa bằng kinh tế. Các nhà phân tích phương Tây thường cho rằng tính "quyết đoán" của Trung Quốc là từ sự gia tăng chủ nghĩa ái quốc phổ biến và các cơ quan an ninh quá hăng say, nhưng đối với người dân Việt Nam bình thường rõ ràng sự gây hấn của Trung Quốc là được chỉ đạo từ Bắc Kinh.

Điều ấy chẳng có gì mới lạ: chủ đề lớn của lịch sử dân tộc mà tất cả mọi người từng học trong nhà trường, là cuộc kháng cự chống ngoại xâm dai dẳng nhưng cuối cùng luôn thành công của người Việt Nam. Và hầu hết những ngưởi lính tràn qua biên giới Việt Nam trong 2000 năm qua đều là người Trung Quốc. Do vậy, chẳng có lý do gì lại sẽ là ai khác trong thời gian này.

Cuộc hợp tác đầy gai góc

Việt Nam và Trung Quốc chia sẻ chung một biên giới 1.350 km và nhiều hơn thế nữa. Cả hai nước đều là những quốc gia theo chủ nghĩa Lênin với một nền văn hóa chính trị được hình thành bởi những ý tưởng tân Nho giáo của một hệ thống công trạng dựa trên các mối quan hệ được chăm sóc tốt.

Đảng Cộng sản cầm quyền của họ đã thoát chết bằng cách từ bỏ kinh tế chủ nghĩa Mác trong khi nuôi dưỡng một bộ máy an ninh nhà nước  rộng khắp. "Nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa" của họ cho phép thị trường tự do sôi động được tồn tại cùng với hàng ngàn doanh nghiệp nhà nước thống trị ngành công nghiệp nặng.

Cả Bắc Kinh và Hà Nội đang bị dày vò bởi những lời chỉ trích thường trực của giới bất đồng chính kiến trên internet. Các yếu tố văn hóa và chính trị cùng chia sẻ chung này củng cố một mạng lưới tham vấn giữa hai đảng và nhà nước nhằm mục đích duy trì sự hợp tác giữa hai chế độ.

Tuy nhiên, mối quan hệ hai nước thường là gai góc. Trung Quốc với sức nặng địa chính trị và kinh tế lớn hơn nhiều đồng  nghĩa với mối quan hệ bất cân xứng với Việt Nam về cơ bản. Mỗi khi người Trung Quốc nhắc đến Việt Nam, họ thường coi đất nước này như là một tỉnh nhỏ ngang bướng từng vuột khỏi sự kiểm soát của mình.

Ngược lại, 90 triệu dân của Việt Nam luôn luôn không thoải mái trong nhận thức về người hàng xóm phía bắc của họ, những người  có dân số đông gấp 15 lần  hơn và có nền kinh tế lớn 50 lần hơn. Tuy nhiên, khi lãnh thổ bị đe dọa, người dân Vìệt Nam chưa hề cúi đầu trước Bắc Kinh. Trừ Hồ Chí Minh, các anh hùng vĩ đại nhất của đất nước này đã từng buộc hết đế chế này qua đến chế khác của Trung Quốc xâm lược phải rút lui. Gần đây nhất là năm 1979, khoảng 20.000 binh sĩ Trung Quốc đã bỏ mạng khi Đặng Tiểu Bình tìm cách "dạy cho Việt Nam một bài học" vì lật đổ chủ nghĩa Mao bảo trợ của Bắc Kinh ở Campuchia và xây dựng một liên minh với Liên Xô.

Đến giữa những năm 1990, Trung Quốc và Việt Nam đã lủi trốn vào trong một mối quan hệ tương đối an toàn dễ chịu. Cả hai nước đều đã bận rộn với những cải cách kinh tế nội bộ. Liên Xô đã tan rã và Trung Quốc quảng cáo cuộc "trỗi dậy hòa bình" của mình với Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), mà hiện nay bao gồm Việt Nam.

Thương mại song phương được mở rộng, đã có thảo luận về nâng cấp "hành lang thương mại" từ các khu vực hiểm trở ở phía tây nam Trung Quốc đến các cửa cảng Việt Nam, và các cuộc đàm phán phân định biên giới đất liền đã tiến triển tốt. Thậm chí những tuyên bố đối nghịch về quyền sở hữu của các rạn san hô, đá và bãi cát ngầm của Biển Đông, nếu chưa có được cách giải quyết cũng đã được thu xếp tốt.

Tuy nhiên, đến năm 2009, tất cả đã thay đổi. Dù nguyên nhân từ sự cố tình hoặc rủi ro chẳng may về ngoại giao, Trung Quốc không bằng lòng xếp lại những yêu sách chồng chéo nữa. Trong tháng Năm năm đó, Trung Quốc đã đưa ra một bản đồ bất chính tại Liên Hiệp Quốc tuyên bố "chủ quyền không thể tranh cãi" trên 80 phần trăm của Biển Đông.

Căng thẳng gia tăng mạnh ngay sau đó, lôi kéo cả những quốc gia không ở trong không khu vực - gồm cả Hoa Kỳ - và thách thức mối đến gắn kết của ASEAN. Việt Nam và Philippines đã chịu đựng gánh nặng từ các nỗ lực, vận động tạo ra "sự kiện" - dù không phù hợp với luật pháp quốc tế nhưng lại rất khó bác bỏ của Trung Quốc. Niềm đam mê chủ nghĩa dân tộc đang sục sôi trong tất cả ba quốc gia, đe dọa cuộc xung đột vũ trang trên biển. Chính sách trì hoãn với Trung Quốc của Hà Nội bị phá huỷ tan nát.

Nhiều tầng lớp ưu tú ngoài đảng của Việt Nam, cũng như bản thân một số trong đảng, tin rằng giải pháp là phải tìm kiếm một liên minh kinh tế và quân sự trên thực tế với Mỹ. Tuy nhiên, các thành viên cao cấp của đảng vẫn còn rất hoài nghi về ý định của Mỹ, xem mình như bị khóa chặt trong một cuộc xung đột hiện hữu với chủ nghĩa tự do phương Tây, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc. Họ đã chỉ nhượng bộ để cải cách nhằm thiết lập năng lực cạnh tranh về kinh tế toàn cầu của quốc gia và để khiến Hoa Kỳ phải tham dự vào như một đối trọng với Trung Quốc.

Các đảng viên thế lực làm ngơ đòi hỏi cho phép Việt Nam tự do dân chủ hơn của Mỹ vì sợ rằng mục tiêu thực sự của Washington là để triệt hạ chế độ Cộng sản. Đối với tất cả các xích mích gần đây, họ không tin rằng nhà lãnh đạo Trung Quốc sẽ phản bội một Đảng Cộng sản cầm quyền giống như của chính họ.

Vẫn chực muốn ăn không

Sự thật, ngày nay Trung Quốc không quan tâm gì nhiều về việc giúp đỡ người bạn Cộng Sản của mình bám lấy quyền lực hơn là việc khai thác tài nguyên trong khu vực và mở rộng các vòi hút kinh tế. Với một một hầu bao đầy tín dụng xuất khẩu và hội đủ điều kiện vay vốn ưu đãi từ các ngân hàng nhà nước, các công ty Trung Quốc đã trở thành đối thủ lớn trong phát triển cơ sở hạ tầng tại Việt Nam, đặc biệt là trong xây dựng các nhà máy nhiệt điện.

Nhìn chung, các công ty Trung Quốc không o ép các nhà thầu Việt Nam nhưng là dành lấy công việc làm ăn từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ hoặc đối thủ cạnh tranh châu Âu bằng cách nhập cuộc đấu thầu giá rẻ. Nhưng các nhà phê bình cáo buộc doanh nghiệp Trung Quốc sử dụng người đồng hương của họ và sản xuất hàng chất lượng thấp, thường xuyên lỡ thời hạn và chi phí quá mức. An ninh Việt Nam còn tiếp tục khẳng định sự phụ thuộc vào nhà thầu Trung Quốc trong các lĩnh vực chiến lược như năng lượng sẽ làm suy yếu an ninh quốc gia.

Một bất đồng khác là thâm hụt thương mại gia tăng của Việt Nam với Trung Quốc, đối tác thương mại lớn nhất của nó, mà nhà kinh tế Trần Văn Thọ gọi là một "cơn sóng thần công nghiệp." Thương mại của Việt Nam với chín nước ASEAN khác và với Nhật Bản là tương đối cân bằng và có một thặng dư rất lớn với Liên minh châu Âu và Mỹ. Nhưng với Trung Quốc mức thâm hụt 16,4 tỷ USD trong năm 2012 đã giúp Trung Quốc có thặng dư thương mại song phương đến 40 phần trăm.

Phần lớn hàng xuất khẩu của Trung Quốc là các sản phẩm lắp ráp trong nhà máy chế biến xuất khẩu của Việt Nam: vải vóc, dây kéo, nút, dây điện, bảng mạch và vật dụng các loại. Nhưng Trung Quốc cũng cung cấp những mặt hàng đắt hơn - các máy móc trang bị cho các nhà máy của Việt Nam và xây dựng cơ sở hạ tầng.

Một mặt hàng thứ ba và rất rõ ràng là hàng tiêu dùng giá rẻ để cạnh tranh với nội địa. Báo chí Việt Nam thường xuyên đăng tải những câu chuyện về việc Trung Quốc thải hàng nguy hiểm hoặc chất lượng kém, và động thái khiêu khích của Bắc Kinh ở Biển Đông dẫn đến hậu quả có tính phản xạ là kêu gọi tẩy chay hàng Trung Quốc.

Nếu không thế, theo dự đoán của các nhà kinh tế, lẽ ra hiện nay Việt Nam đã phải ăn bữa trưa của tỉnh Quảng Đông. Với chi phí lao động thấp hơn nhiều, Việt Nam là điểm đến hợp lý cho các nhà máy từ các trung tâm xuất khẩu, giải quyết di cư của người Trung Quốc đến vùng có chi phí rẻ hơn. Các mặt hàng may mặc đa dạng và các ngành công nghiệp giày dép từ lâu đã chiếm khoảng 20 phần trăm xuất khẩu của Việt Nam, vốn bắt đầu từ những năm 1990 khi hàng may mặc và giày dép xuất khẩu của Trung Quốc bị giới hạn dưới hạn ngạch của EU và của Mỹ.

Dù lao động vẫn còn thấp, tiền lương thực tế đã chỉ tăng ở mức 10 phần trăm một năm trong 2006-11 chủ yếu là Việt Nam đã thất bại trong việc thu hút các nhà sản xuất ra khỏi các ​​căn cứ của họ ở Trung Quốc. Khi chi phí lao động tiếp tục tăng lên ở cả Trung Quốc và Việt Nam, các nhà máy sản xuất đang di chuyển sang Campuchia, Bangladesh và thậm chí cả Myanmar.

Đấy chẳng phải là tất cả các tin xấu. Khi nền kinh tế toàn cầu phục hồi chậm, một lần nữa, khu vực đầu tư nước ngoài của Việt Nam lại đang tăng lên. Thay vì di chuyển nhà máy khỏi Trung Quốc, một số nhà thầu đa quốc gia đã đa dạng hóa cơ sở sản xuất của họ bằng cách mở thêm các nhà máy tại Việt Nam. Bằng chứng cho thấy một xu hướng rõ rệt các khoản đầu tư chất lượng cao hơn, vốn hưởng lợi từ việc được giảm thuế đáng kể.

Các công ty thành lập hoặc mở rộng nhà máy lắp ráp bao gồm những thương hiệu như Canon, Samsung, Intel và IBM, Hitachi, Panasonic và Nokia. Tuy nhiên, gần như tất cả các yếu tố đầu vào để sản xuất hàng xuất khẩu của Việt Nam phải được nhập khẩu, một số từ Trung Quốc. Còn lại tất cả những gì được thêm vào ở Việt Nam, thông thường, là lao động - lại là thứ mà Trung Quốc có thể làm một cái gì đó hiệu quả hơn và trên một quy mô lớn hơn nhiều.

Sai lầm chiến lược toàn diện

Năm 2008 đóng lại một giai đoạn ấm áp hơn trong mối quan hệ, lãnh đạo đảng Trung Quốc Hồ Cẩm Đào và người đồng cấp Việt Nam, Nông Đức Mạnh, tuyên bố một mối quan hệ song phương "hợp tác chiến lược toàn diện." Và nếu Trung Quốc thực sự quan tâm đến việc nuôi dưỡng một mối quan hệ đặc biệt với Việt Nam - để qua đó tăng cường cơ bắp ngoại giao của mình ở Đông Nam Á - thì Bắc Kinh đang ở trong một vị trí có thể giúp hình thành được như thế.

Mặc dù nhà cầm quyền Việt Nam thừa nhận không lo lắng về sự mất cân bằng thương mại song phương, thực tế vẫn là một quan hệ chính trị mãn tính. Trung Quốc nhập khẩu nhiều cao su, than, dầu, gỗ và sản phẩm nông nghiệp, nhưng không quan tâm đến hàng hóa công nghiệp của Việt Nam. Trung Quốc thực chẳng tốn kém bao nhiêu trong các động thái thân hữu giúp thúc đẩy nhập khẩu công nghiệp  trong khi sẽ là những tin rất tốt cho phía Hà Nội.

Nói cho cùng, một đề nghị chân thành nhằm phát triển chung tài nguyên khoáng sản và cùng quản lý nguồn cá trong khu vực tranh chấp ở Biển Đông có thể là một sự thay đổi cuộc chơi - cả cho mối quan hệ với Việt Nam và với các nước ASEAN.

Tuy nhiên, thực tế là mối quan hệ giữa Bắc Kinh và Hà Nội đã trở thành bất ổn và nguy hiểm kể từ cuộc thỏa thuận vào năm 2008. Áp lực của Trung Quốc về các vấn đề chính trị và chiến lược đã dồn cứng các  nhà lãnh đạo của Việt Nam, được cho là đe dọa đến sự sống còn của họ. Bắc Kinh đã củng cố vị thế của mình trong chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc bằng cách phô trương sức mạnh của mình ở Biển Đông, trong khi nỗ lực chống lại hành động khiêu khích của Trung Quốc nhưng không hiệu quả của Hà Nội liên tục xói mòn vị thế của mình giữa những người ái quốc ở trong nước.

Trừ khi xảy ra xung đột vũ trang, rất khó để tưởng tượng hơn về những gì Trung Quốc có thể làm để đẩy nhanh sự sụp đổ một chế độ "thị trường xã hội chủ nghĩa" khác trên thế giới, lẽ ra là người bạn, đồng minh ý thức hệ của mình. Trong tất cả các khả năng, điều này sẽ mang đến các nhà lãnh đạo mới tìm kiếm gây thiện cảm với Mỹ - một kết quả hoàn toàn tự chuốc lấy thất bại cho phía Bắc kinh.

Đáng lo ngại hơn là một cuộc xung đột vũ trang vẫn còn khả năng xảy ra. Trung Quốc có hỏa lực lớn hơn Việt Nam, nhưng Hà Nội đang gia tăng các khả năng quốc phòng trên biển và trên không. Nếu bị dồn vào chân tường, lịch sử cho thấy rằng người Việt Nam sẽ đánh lại. Một tính toán sai lầm của cả hai bên sẽ có thể dẫn đến một cuộc đụng độ. Va chạm này sẽ khốc liệt và đẫm máu với những hậu quả không thể đoán trước. Trung Quốc có thể tiếp tục chơi trò bắt nạt - nhưng họ đang chơi với lửa.

David Brown/Asia Sentinel
Lê Quốc Tuấn dịch Việt ngữ
(X - cafe)

Phác họa một chính sách quốc phòng cho Việt Nam tự do thế kỷ 21

Chính sách quốc phòng phác họa ở đây chỉ có thể áp dụng nếu đảng cộng sản Việt Nam quyết định dân chủ hóa đất nước một cách tiệm tiến, khởi đầu bằng hủy bỏ Điều 4 Hiến pháp hiện hành. Nền quốc phòng của Việt Nam không thể vững mạnh dưới một chế độ độc đảng như hiện nay.

***
Nhiệm vụ quốc phòng


Chính sách quốc phòng của một nước Việt Nam dưới một chế độ dân chủ cần hoàn thành 3 nhiệm vụ chính:
1. Bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ
2. Bảo vệ tiềm năng kinh tế quốc gia.
3. Bảo vệ nhân dân

Bối cảnh thế giới của thế kỷ 21 là cuộc tranh chấp để giành thế siêu cường số 1 trên thế giới giữa Trung quốc và Hoa Kỳ. Mặt trận trước mắt là Biển Đông. Nền quốc phòng của Việt Nam đặt trong khung cảnh tranh chấp đó.

Về phía Hoa Kỳ : Hoa Kỳ đang thiết lập một vòng cung kềm chế Trung Quốc, kéo dài từ Ðông Á (Nhật Bản, Ðại Hàn, Ðài Loan) xuống Ðông Nam Á (các quốc gia ASEAN), Nam Á (Úc Ðại Lợi), qua vùng Ấn Ðộ Dương (Ấn Ðộ, Pakistan, Afghanistan) đến tận các quốc gia Trung Á. Vòng cung này bao gồm mọi lãnh vực từ quân sự, đến chính trị, kinh tế và tài chánh.

Về phía Trung quốc : Vào đầu thập niên 80, do tình hình tại eo biển Đài Loan cũng như nhu cầu ngày càng tăng trong việc bảo vệ hải trình chở nhiên liệu và hàng hóa từ Trung Đông qua eo biển Malacca, Trung Quốc bắt đầu canh tân Hải Quân. Sự tan rã của Liên Bang Xô Viết vào cuối thập niên 80 và sự dính chân của Hoa Kỳ vào hai cuộc chiến Iraq, Afghanistan từ các năm 2001, 2003 giúp Trung Quốc có thì giờ phát triển kinh tế và quân sự đẩy nhanh giấc mộng siêu cường.

Mục tiêu dài hạn của Hải quân Trung quốc gồm ba mũi:

· Nâng cấp Hải Quân để thực hiện hai vòng đai phòng thủ:

Vòng đai thứ nhất (First islands chain) chạy từ Đài Loan qua quần đảo Trường Sa tới Singapore bọc bên trong một số đảo thuộc Nhật Bản, Philippines, Việt Nam và Brunei. Tham vọng của Bắc Kinh là kiểm soát vòng đai thứ nhất này vào năm 2010. Nhưng chưa thực hiện được vì phản ứng của Nhật Bản, Việt Nam và Phi Luật Tân.

· Phát triển Hạm đội nước sâu (Deep water Navy) trong 4 thập niên đầu của thế kỷ 21 để có thể mở rộng khả năng kiểm soát ra vòng đai thứ hai (Second islands chain) từ Ấn Độ Dương bọc Úc châu (trong đó có eo biển Malacca) chạy lên đến quần đảo Aleutian. Chương trình của Bắc Kinh là kiểm soát vòng đai thứ hai vào năm 2040.

· Kiện toàn Hải Quân thành một lực lượng mạnh nhất nhì trên thế giới, có khả năng đối chọi ngang ngữa với Hải Quân Hoa Kỳ. Tầm hoạt động là Ấn Ðộ Dương qua đến nửa phía Tây của Thái Bình Dương kéo dài đến đảo Guam của Hoa Kỳ. Trung quốc dự trù hoàn tất giai đoạn 3 vào hậu bán thế kỷ 21.

Những chính sách cần thiết

Do vị trí địa lý, Việt Nam nằm giữa hai lằn đạn. Trong thế đó để hòan thành 3 nhiệm vụ quốc phòng trên Việt Nam cần có:

1. Một thể chế chính trị dân chủ
2. Một chính sách ngoại giao mềm dẽo
3. Một quân đội hùng mạnh

Chính trị dân chủ:

Kiện toàn chế độ chính trị đa đảng qua bầu cử tự do bằng cách tiệm tiến từ chế độ độc đảng hiện nay sang chế độ dân chủ đa đảng (đa đảng không có nghĩa càng nhiều đảng càng tốt). Đảng Cộng sản Việt Nam là một đảng chính trị có quyền tham dự vào sinh hoạt quốc gia nếu tôn trọng luật chơi dân chủ .

Ngoại giao mềm dẻo:

- Thiết lập một quan hệ chiến lược với Hoa Kỳ để cân bằng quan hệ với Trung Quốc. Quan hệ này đã được khởi đầu tốt qua sự tiếp nhận của Việt Nam đối với những lời tuyên bố của bà Bộ trưởng Ngoại giao Hillary Clinton tháng 7 năm 2010 tại Hà Nội. Tuy nhiên Việt Nam cần thận trọng trong mối quan hệ không thể thiếu đối với Trung quốc. Chính sách “3 Không” (không tham gia các liên minh quân sự hoặc là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, không cho bất kỳ nước nào đặt căn cứ quân sự tại Việt Nam, và không dựa vào nước này để chống nước kia) là một hướng ngoại giao đúng đắn trong mối quan hệ tế nhị đối với Hoa Kỳ và Trung quốc hiện nay. Việt Nam cũng nên nghiên cứu mô hình ngoại giao của Nhật Bản và Ðại Hàn đối với Hoa Kỳ và Trung quốc để ưu tiên hóa những điều cần làm.

- Kết thân với thế giới, đặc biệt với Liên bang Nga, Cộng đồng Âu châu, Ấn Độ và Nhật Bản, Đại Hàn, Úc châu …
- Vươn lên chia sẽ trách nhiệm với Indonesia để giữ vai trò chủ chốt trong khối Asean.

Quân đội hùng mạnh:

Thứ nhất: Hải, Lục, Không Quân nhất là Hải Quân có khả năng bảo vệ đất, bảo vệ biển và bảo vệ vùng trời với sự trợ lực của Liên hiệp quốc qua quan hệ quốc tế.

Thứ hai: Trang bị vũ khí hiện đại quy ước và bất quy ước. Phát huy hiểu biết áp dụng hòa bình của nguyên tử lực như một chuẩn bị .

- Lục quân: Ngoài các sư đoàn chính quy, lục quân Việt Nam cần có: binh đoàn tổng trừ bị, binh chủng đặc công, lực lượng dân quân và phương tiện chuyên chở nhanh chóng để bộ binh có thể tham chiến trong mọi hoàn cảnh và thời tiết.

- Hải quân: Tập trung vào hai mặt: Phòng thủ cận duyên và Phòng thủ viễn duyên. Ngoài hạm đội quy ước, Hải quân Việt Nam cần có hạm đội Khinh tốc đỉnh, hạm đội Tàu ngầm, các Dàn trọng pháo và Hỏa tiễn phòng duyên, các đoàn Tàu đánh cá vũ trang và Hải không quân khi có khả năng. Nhiệm vụ của Hải quân là ngăn chận một cuộc đổ bộ vào ven bờ biển Việt Nam và bảo vệ sự tấn công lấn chiếm các hải đảo quan trọng tại Trường Sa (như năm 1988) đồng thời bảo vệ sự hành nghề hợp luật quốc tế của ngư dân Việt Nam trong vùng Đặc quyền kinh tế (Exclusive Economic Zone) và Thềm lục địa ngoại biên (Extended Continental Shelf) có đăng ký hợp lệ.

Hạm đội Khinh tốc đỉnh: Dùng trong chiến thuật đánh du kích biển trước một hải lực áp đảo. (Kamikaze của Nhật Bản trong những tháng cuối cùng của Thế chiến 2 là một hình thức đánh du kích)

Hạm đội tàu ngầm : Hạm đội tàu ngầm giúp tăng cường khả năng tuần thám, phòng thủ chống tàu ngầm địch, tiêu diệt tàu chiến của đối phương và bảo vệ các căn cứ quân sự trên bờ.

Trọng pháo và Hỏa tiễn phòng duyên: Chống đổ bộ và yểm trợ hạm đội cận duyên.

Tàu đánh cá vũ trang: Tự bảo vệ trước khi hạm đội có thể can thiệp. Các tàu đánh cá vũ trang này sẽ là đội quân tiên phong hy sinh trên tuyến đầu trong nhiệm vụ bảo vệ lãnh hải và bảo vệ ngư dân Việt Nam trong vùng đánh cá hợp pháp khi đụng đầu với một lực lượng mạnh hơn.

Hải Không quân : Nòng cốt của Hải Không quân là những mẫu hạm dùng làm sân bay nổi cho khu trục cơ cất cánh và đáp xuống. Một đơn vị Hải Không quân tấn công (Group Attack) gồm một số chiến hạm hoạt động chung quanh một mẫu hạm có khả năng vừa tấn công vừa tự bảo vệ và hoạt động xa bờ biển.

Tuy nhiên bờ biển Việt Nam chạy dài theo Biển Đông nên việc yểm trợ của Không quân cho Hải quân là một thuận lợi to lớn. Nếu Việt Nam chấp nhận một vị trí khiêm nhường đối với Hải quân Trung quốc và Hoa Kỳ thì Việt Nam không cần Hải Không quân cũng như không cần các chiến hạm khổng lồ (battleships).

- Không quân: Cần trang bị các phi đoàn phóng pháo, không chiến (dog fight), vận tải, tiếp tế trên không, tuần thám, tình báo, vận tải và cứu hộ.

Thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng

1. Bảo đảm sự vẹn toàn lãnh thổ : Đó là nhiệm vụ chính của các lực lượng vũ trang nhằm:

- Chống một cuộc tấn công của Trung quốc vào biên giới phía Bắc
- Bảo vệ vùng yết hầu (Thanh Hóa, Nghệ An) chống một cuộc đổ bộ từ biển vào cắt đôi Việt Nam và uy hiếp thủ đô Hà Nội từ phía nam.
- Chống một cuộc tấn công của Cambốt vào biên giới phía Nam
- Tham gia hợp tác quốc tế bảo vệ quyền lưu thông tự do trên Biển Đông.
- Đòi lại Hoàng Sa
- Bảo vệ Trường Sa chống sự xấm lấn của Trung quốc và của các nước trong khối Asean.
- Bảo vệ hải cảng Cam Ranh để duy trì tính trung lập của hải cảng Cam Ranh bằng mọi giá
- Bảo vệ vùng Đặc quyền kinh tế và bảo đảm quyền kinh tế trên Thềm lục địa ngoại biên theo Luật Biển 1982
Khả năng thiết yếu của quân đội là đủ sức ngăn chận một cuộc tấn công của Trung quốc qua biên giới vào Hà Nội hay một cuộc đổ bộ lên bờ bỉển miền Trung trong thời gian vừa đủ trước khi quốc tế kịp can thiệp.

2. Bảo vệ tiềm năng kinh tế quốc gia:

Tiềm năng lớn nhất của Việt Nam là con người. Người Việt cần cù, chịu khó và có khả năng trí tuệ cao. Người Việt Nam có kỹ luật nếu được làm gương và lãnh đạo tốt. Để khai thác tiềm năng này cần có một nền giáo dục khai phóng và tự do, một ý thức không ràng buộc bởi giáo điều nào.

Tiềm năng khác là đất đai và biển cả. Tiềm năng đất đai của Việt Nam rất to lớn. Đồng bằng châu thổ sông Cửu Long, sông Hồng là nơi sản xuất lúa gạo, thịt cá, rau có thể nuôi cả nước. Cao nguyên miền Trung đất đai thích hợp cho việc trồng cây kỹ nghệ. Sinh thái thích hợp cho viêc chăn nuôi.

Biển Việt Nam dài, nước ấm, nhiều cá, thích hợp cho việc đánh cá, một nguồn thực phẩm cần thiết rẽ và bổ dưỡng và là một tài nguyên xuất khẩu.

Hầm mỏ: Việt Nam còn nhiều hầm mỏ chưa khai thác vì chiến tranh. Mỏ bauxít trên cao nguyên miền Trung là một thí dụ. Cần bảo vệ khoáng sản. Không nên quá dễ dãi để nước ngoài khai thác với lý do mình chưa đủ khả năng kỹ thuật.

Dầu khí nơi Biển Đông: Theo ước lượng của các cuộc đo lường, Biển Đông có trữ lượng khoảng 213 tỉ thùng (barrel). Riêng trong vùng Trường Sa và Hoàng Sa trữ lượng có thể đến 105 tỉ thùng. Theo ước lượng của Trung quốc, vùng Trường Sa có khả năng sản xuất 1.9 triệu thùng mỗi ngày (nguồn Google).

Bảo về nguồn lợi kinh tế của Biển Đông là nhiệm vụ quốc phòng quan trọng nhất. Thất bại trong nhiệm vụ này Việt Nam sẽ mất tất cả và không tránh được suy vong trước tham vọng bành trướng của Trung quốc.

Trong bối cảnh tranh chấp với Trung quốc, chính sách khả dĩ hữu hiệu nhất là quốc tế hóa Biển Đông và biến Cam Ranh thành thương cảng quốc tế. Một khi Biển Đông và Cam Ranh được quốc tế hóa, Trung quốc khó thể thành công trong việc giành giựt Biển Đông. Việt Nam sẽ ít bị đe dọa hơn và triển vọng duy trì hòa bình trong vùng cũng cao hơn.

3. Bảo vệ nhân dân:

Chính sách quốc phòng tối hậu là bảo vệ nhân dân chống thiên tai bão lụt và khi có chiến tranh.

Người dân Việt Nam hằng năm bị đe doa bởi bão lụt, hạn hán và đã từng chịu đựng sự tàn phá khốc liệt của chiến tranh nên rất sợ chiến tranh và thiên tai. Hòa bình đã trở lại, nhưng 38 năm qua phương tiện phòng chống thiên tai của đất nước vẫn còn rất thô sơ nên sinh ra tính “bầt cần” đến đâu hay đó. Tâm lý này cũng là tâm lý của đảng cầm quyền đứng trước đe dọa của thiên tai.
Cho nên nhiệm vụ của chính quyền là chuẩn bị phương tiện phòng chống và cứu trợ trước thiên tai bão lụt. Ưu tiên phòng chống là chuẩn bị phương tiện khoa học nhận tiên báo (đặc biệt tiên báo về sóng thần) và thông tin nhanh chóng đến cho dân chúng trong vùng bị đe dọa.

Bài học động đất và sóng thần tại Nhật Bản tháng 3/2011, trận bão Sandy đánh vào bang New Jersey, Hoa Kỳ cuối tháng 10/2012, và cuồng phong tàn phá thị trấn Moore bang Oklahoma tháng 5/2013 cho thấy đứng trước “tính khí” bất thường của vỏ quả đất và thời tiết, sẽ không có sự chuẩn bị nào là đủ (Nhật Bản và Hoa Kỳ được trang bị phương tiện phòng chống đầy đủ và dân chúng được huấn luyện chống thiên tai cao nhất thế giới vẫn phải khoanh tay chịu đựng những thiệt hại vật chất và sinh mạng to lớn). Nhưng chuẩn bị trong khả năng là trách nhiệm quốc phòng của người cầm quyền.Cần tổ chức hệ thống tiếp tế thực phẩm dân sự gồm dự trữ, vận tải và nhân sự. Cần nhắm vào nhân sự dự trữ là quân đội.

Tổ chức ngăn chận mưu đồ lợi dụng tình hình để cướp bóc trấn lột. Công tác này đòi hỏi một chương trình giáo dục quần chúng tự lo tự quản, và huấn luyện nhân sự (không riêng lực lượng cảnh sát mà còn gồm công nhân viên nhà nước)
 
Sau cùng và trên hết Việt Nam chỉ được an ninh và duy trì được độc lập nếu:
(1) Có khả năng tự túc kinh tế,
(2) Có khả năng kỹ nghệ và sản xuất cơ giới quốc phòng,
(3) đoàn kết được toàn dân
• Tự túc kinh tế có nghĩa là sống và phát triển trong trường hợp không nhận được một sự trợ giúp nào của các nước bạn. Ít nhất là đủ thực phẩm căn bản không cần nhập cảng và vẫn ổn định được sinh họat xã hội như giáo dục, y tế, giao thông và sản xuất.
• Có khả năng kỹ nghệ và sản xuất cơ giới quốc phòng. Khả năng nầy giúp Việt Nam không lệ thuộc vào nước khác. Điều này không phải đơn giản trong một thế giới mà mọi sinh hoạt đều có tính toàn cầu. Tuy nhiên khả năng tự túc càng cao quốc gia càng ít bị áp lực.
• Đoàn kết được toàn dân: Lịch sự Việt Nam chứng tỏ rằng khi toàn dân đoàn kết một lòng dưới một sự lãnh đạo vững vàng nhân dân Việt Nam có một khả năng chống xâm lăng và bảo vệ độc lập vô biên. Vua Trần nhờ đoàn kết được toàn dân đã khích lệ tướng tài Trần Hưng Đạo đại phá quân Nguyên. Và muốn toàn dân đoàn kết cần có tự do và dân chủ. Tự do và dân chủ là điều kiện thiết yếu của một nền quốc phòng vững mạnh./.
Trần Bình Nam
(ĐCV)

Liệu kinh tế Việt Nam sẽ thoát đáy?

Những chỉ số thống kê 6 tháng đầu năm cho thấy kinh tế Việt Nam bắt đầu có những tín hiệu thoát khỏi trì trệ, nhưng liệu Việt Nam có thể thoát được điểm đáy của chu kỳ tăng trưởng trong vòng vài năm trở lại đây hay không?

000_Hkg803181-305.jpg
Một góc khu đô thị mới Phú Mỹ Hưng được biết đến như một hình mẫu thành công về phát triển đô thị và kinh tế ở TPHCM. Một góc khu đô thị Phú Mỹ Hưng. AFP photo
Tăng trưởng thấp
Việt Nam nên đặt ưu tiên cho phát kinh tế trong nửa cuối năm để đạt được tốc độ tăng trưởng GDP như kỳ vọng cho cả năm là 5,5%, đó là khuyến nghị được Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia đưa ra hồi cuối tháng rồi. Mặc dù, với nhiều kết quả tích cực từ các lĩnh vực như công nghiệp, đầu tư nước ngoài, xuất khẩu… nhưng xem ra mục tiêu trên vẫn là thách thức đối với Việt Nam.
Kết quả tăng trưởng nửa đầu năm chỉ dừng ở mức 4,9%, với tổng số vốn đầu tư toàn xã hội xấp xỉ hơn 21 tỷ đô la và chỉ đạt chưa đầy 44% kế hoạch cả năm, vì thế, để đạt được 5.5% như mong muốn, nửa cuối năm Việt Nam sẽ phải nỗ lực hơn rất nhiều.
Một số “điểm nóng” vẫn tồn tại, được giới chuyên gia kinh tế trong nước chỉ rõ là số lượng các doanh nghiệp phải đóng cửa rất cao vài chục ngàn, tốc độ tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống ngân hàng chỉ hơn 3% một chút, thấp hơn cả mức tăng trưởng GDP. Trong khi đó, nợ xấu và lãi suất cao vẫn là nỗi ám ảnh cho cả hệ thống tài chính Việt Nam, đặc biệt, lĩnh vực nông nghiệp một trong những trụ cột chính của nền kinh tế quốc gia đang trong tình trạng khó khăn nhất từ trước cho đến nay.
Khi nhìn nhận về những diễn biến của tình hình kinh tế vĩ mô trong nước nửa đầu năm nay, chuyên gia kinh tế tài chính PGS, TS. Ngô Trí Long cho rằng, kinh tế Việt Nam mới chỉ thoát ra khỏi tình trạng trì trệ và dấu hiệu hồi phục vẫn chưa thực sự rõ nét, kinh tế nội địa chưa có nhiều điểm sáng hay “màu hồng” như các báo cáo mà chính phủ đưa ra, ông thẳng thắn nhận xét:
Nói chung nhìn qua 6 tháng đầu năm, chỉ tiêu kinh tế vĩ mô với tốc độ tăng trưởng GDP, chỉ số lạm phát CPI, hoạt động xuất nhập khẩu, vốn đầu tư toàn xã hội cũng như vốn đầu tư nước ngoài, đánh giá chung về phía chính phủ thì thấy có những điểm sáng rõ, vẫn nhìn thấy màu hồng, nhưng đánh giá thực sự khách quan, thì nó chưa thực sự phản ánh đúng thực trạng toàn bộ của nền kinh tế hiện nay sau 6 tháng, nghĩa là nền kinh tế hiện nay mới thoát khỏi trì trệ thôi, dấu hiệu phục hồi vẫn còn mờ nhạt và chưa có nét. Nó thể hiện, tốc độ tăng trưởng so với cùng kỳ năm trước vẫn thấp hơn, năm nay là 4.9%, cùng kỳ năm ngoái là 4.93%. Nói chung tốc độ sản xuất, tốc độ tăng trưởng đạt một mức thấp nhất trong vòng nhiều năm trở lại đây.
Bước khởi động đầu tiên của Chính phủ nhằm hỗ trợ tăng trưởng và thúc đẩy xuất khẩu là việc phá giá đồng nội tệ 1% và hạ trần lãi suất huy động về mức 7% hồi cuối tháng 6. Trước động thái này, Ngân hàng HSBC đánh giá đó là cách mà Ngân hàng Nhà nước VN “cung cấp thêm thanh khoản cho nền kinh tế” khi tăng trưởng tín dụng của Việt Nam trong nửa đầu năm còn thấp, nếu cộng cả yếu tố lạm phát, thì con số này của Việt Nam là âm. Tuy nhiên, HSBC tỏ ra không mấy lạc quan với biện pháp lãi suất mà NHNN đang áp dụng, HSBC xem “việc giảm trần lãi suất tiền gửi chỉ là một cú hích nhỏ cho tăng trưởng tín dụng mà thôi.”
Cùng với quan điểm của HSBC, tổ chức Capital Economics trụ sở chính tại London cũng phân tích những vấn đề trong hệ thống ngân hàng có thể sẽ còn đè năng lên kinh tế Việt Nam, tăng trưởng một hai năm tới có thể duy trì thấp hơn nhiều so với những gì mà Việt Nam đạt được trong những năm gần đây. Capital Economics kết luận sự giảm tốc tăng trưởng của kinh tế Việt Nam là do những điểm yếu của hệ thống ngân hàng: nợ xấu tăng mạnh và tín dụng bị thắt chặt. Tổ chức này coi nợ xấu là một nút thắt lớn, cản trở hầu hết đến mọi mặt của đời sống kinh tế Việt Nam, vì dù dòng tín dụng được khơi thông, cắt giảm lãi suất được thực hiện, thì hai yếu tố này vẫn không đủ vực dậy nền kinh tế nếu nợ xấu không được giải quyết triệt để.

000_Hkg2687325-250.jpg
Nhân viên một ngân hàng ở Hà Nội đang đếm đô la Mỹ. AFP photo
Nợ xấu cao

Nhìn nhận về thách thức này, chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan nêu lên nhận xét của bà về vấn đề nợ xấu:
“Nợ xấu của các ngân hàng hiện nay liên quan rất nhiều đến nợ xấu của các doanh nghiệp Nhà nước đối với Ngân hàng.  Theo thông tin thì 70% nợ của các ngân hàng thương mại là nợ của các doanh nghiệp Nhà nước; số nợ của các Doanh nghiệp Nhà nước đối với ngân hàng thương mại cũng tăng lên.”
Theo tính toán, số nợ xấu hiện tại tương đương khoảng 60 tỷ đô la, mặc dù, Ngân hàng nhà nước vừa ra quyết định thành lập công ty quản lý tài sản VAMC, nhưng với vốn điều lệ chỉ 500 tỷ đồng, cộng với độ trễ trong tác động của các nghiệp vụ mua bán nợ, xem ra vấn đề nợ xấu vẫn còn là một nỗi lo lớn.
Quay trở lại triển vọng 6 tháng cuối năm, kể từ gần 2 thập kỷ qua, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam gần như xoay quanh mức 7,5% và nếu như năm nay tăng trưởng có đạt được như dự báo 5,5% thì đây cũng sẽ là năm thứ 3 liên tiếp, GDP của Việt Nam dưới mức 6%.
Theo đánh giá của ông Đỗ Thức, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê thì hiện tại Việt Nam đang ở đáy của hình chữ U và khó có thể hồi phục nhanh được.
Cùng với quan điểm trên, PGS, TS. Ngô Trí Long, một lần nữa nêu lên nhận xét:
Kinh tế Việt Nam theo dự báo của một số chuyên gia dự báo rằng, trong năm 2013 là đáy, qua năm này, từ năm sau, điều kiện kinh tế Việt Nam mới có thể khôi phục và mới có điểm sáng, mới có thể bứt phá và đi lên được.
Thách thức 6 tháng cuối năm đặt ra còn rất nhiều vấn đề lớn, thí dụ, tốc độ tăng trưởng có đạt được 5.5% như mục tiêu Quốc hội đã đề ra hay không hay một trong những thách thức quan trọng là nợ xấu đã xử lý được chưa? Vẫn chưa được, tồn kho vẫn còn lớn, hay một vấn đề hết sức quan trọng là vấn đề niềm tin vào thị trường vẫn chưa cao, chưa thực chắc. Chính những điều kiện thách thức, khó khăn trong những tháng cuối năm đặt ra rất nhiều khó khăn đối với nền kinh tế Việt Nam, hay nói một cách khác, những tồn tại, khó khăn đặt ra trong năm 2013 vẫn chưa có nét gì đột phá, chưa có khả năng vượt qua. Cho nên 6 tháng cuối năm còn rất nhiều khó khăn, thách thức đặt ra với nền kinh tế Việt Nam.
Mặc dù kinh tế Việt Nam đang được xem là chạm đáy, nhưng với nhiều tín hiệu khá tích cực đến từ xuất khẩu, cán cân tài khoản vãng lai, dự trữ ngoại hối tăng cao và nhất là “con ngựa bất kham” lạm phát đã phần nào được chế ngự, hi vọng rằng “qua cơn bĩ cực đến hồi thái lai” kinh tế Việt Nam trong thời gian tới sẽ dần đi vào ổn định và sẽ là khởi đầu cho một tiến trình phục hồi bền vững. Điều đó có thành hiện thực hay không, hẳn đó vẫn là câu hỏi bỏ ngỏ lớn cho các nhà lập chính sách Việt Nam.
Vũ Hoàng, phóng viên RFA
2013-07-08 

Làm thế nào khuất phục người công giáo?

Bỏ qua tất cả những gì thuộc về phương pháp luận duy vật biện chứng và quy luật tồn vong của vật chất, Hà Nội lại như tự chuyển hóa bài học tôn giáo vận thời bình sang “địch vận” thời chiến và chuyên chế loại trừ một tư tưởng.
Bất tuân!
Một phép thử nữa, có lẽ là một trong những phép thử cuối cùng vào thời kỳ cuối cùng, sẽ xảy đến với nhà cầm quyền Hà Nội trong mối liên hệ được xem là “tốt đạo, đẹp đời” với 8 triệu tín đồ công giáo Việt Nam: vụ xét xử giáo hữu Lê Quốc Quân vào ngày 9/7/2013.
Nhưng những người công giáo dường như cũng đang tự xác lập cho mình xác tín “Sống phúc âm trong lòng Đảng” thay vì “trong lòng dân tộc” như giáo trình kinh viện của hệ thống tuyên giáo từ gần sáu chục năm qua.
Nếu vào thời gian trước khi diễn ra vụ xét xử 14 thanh niên công giáo, tin lành tháng 5/2013, chỉ có một số ít nhà thờ tổ chức cầu nguyện cho những con chiên bất đắc dĩ của nhà tù, thì đến nay đã có đến gần 30 giáo xứ thực hiện hành vi hiệp thông chúc phúc cho Lê Quốc Quân mà chẳng cần nhà nước địa phương cấp phép cho lòng chia sẻ.
Sau hiện tượng Đoàn Văn Vươn - người được xem là “anh hùng áo vải” và đại diện cho tầng lớp nông dân bị áp chế đất đai, Lê Quốc Quân lại được coi là biểu trưng cho tiếng nói phản biện của giới thiên chúa giáo ở Việt Nam.
Hiển nhiên, đó là những hiện tượng quá đặc thù về xã hội học và tôn giáo học mà không một cơ quan đảng quyền, pháp quyền và giáo trình huấn học nào có thể đang tâm nhắm mắt phủ nhận.
congdoanvinh.com-305.jpg
Giáo xứ Thái Hà trong một lần thắp nến cầu nguyện cho Luật sư Lê Quốc Quân
Photo courtesy of congdoanvinh.com
Một số giáo dân ở công đồng Vinh còn tự hỏi đến khi nào sẽ có một làn sóng thân hữu kitô tràn ra làm tắc nghẽn đạo lộ từ Nghệ An và Hà Tĩnh trực chỉ Hà Nội.
Xem ra, có vẻ như chuyến “hành hương” của Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đến Roma vào đầu năm con Rắn đã không kích thích cho không khí “hiệp thông” giữa Hà Nội và Công đồng Vatican trở nên thanh suốt hơn. Thay vào đó, một tảng băng trì uất vẫn lạnh giá trùm phủ lên mối quan hệ đáng ra phải được sưởi ấm trong ít nhất hai năm qua.
Ngọn lửa tình yêu duy nhất hóa ra lại thuộc về các giáo đoàn và những bản thánh ca. Tinh thần cầu nguyện và các thánh lễ của người công giáo đang tôn vinh một nhân vật thuộc về nước Chúa, một người được đông đảo giáo hữu xem như tấm gương về mục vụ và cho điều còn sót lại của ánh mặc khải trong bóng đêm trần thế.
Dĩ nhiên, sẽ chẳng mấy khó khăn để nhà chức trách Hà Nội “truy thu” một mức án nào đó đối với Lê Quốc Quân liên quan đến tội danh “trốn thuế” - một thủ pháp gần tương tự với Điếu Cày những năm về trước.
Chỉ có điều, một khi đã được thỏa mãn về uy thế quyền lực và hơn thế là thứ quyền lực duy nhất được lên tiếng trên đất nước này, những người cầm quyền sẽ có thể rơi vào một nước cờ lạc hướng: để giam cầm một thân phận kitô hữu, họ sẽ phải gánh chịu cả một bể phẫn nộ từ cõi Thiên đường.
Thái Hà ở Hà Nội chỉ cách đây vài năm là một minh họa ngầy ngật cho cơn sốt tủn mủn của một chính quyền dành cho một khuôn viên nhà thờ. Tinh thần vụn vặt ấy có vẻ còn nhiều nhặn hơn nhiều so với một Lê Quốc Quân hạt cát.
Nhưng cả hai cơn sóng ngầm ấy - Thái Hà và Lê Quốc Quân - lại đồng pha tại một điểm đồng vị trên biển cả: tinh thần bất tuân của người công giáo đối với chính quyền.
“Gươm giáo”?
Làm thế nào để khuất phục người công giáo?
Có thể đó là nỗi khát khao ghê gớm của một chính thể, không kém thua gì nguyện ước bác ái cho anh em của Jesus Christ.
Vào lúc còn sống, tiền nhân của Đảng cộng sản là Hồ Chí Minh đã chân tình: “Tôn giáo Giêsu có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả… Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có những ưu điểm chung đó sao? Họ đều muốn mưu hạnh phúc cho mọi người, mưu phúc lợi cho xã hội. Nếu hôm nay họ còn sống trên cõi đời này, nếu họ hợp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy”.
Nhưng bài học về tôn giáo vận lại như chệch hướng bởi sự xa rời quần chúng giáo dân, trong khi chung đụng thái quá với quyền lực và tiền bạc.
Làm thế nào để sư tử chung sống với đàn cừu?
Những “học trò nhỏ” thời hậu bối lại như tự chuyển hóa bài học tôn giáo vận thời bình sang “địch vận” thời chiến.
Bỏ qua tất cả những gì thuộc về phương pháp luận duy vật biện chứng và quy luật tồn vong của vật chất, người ta vẫn chuyên chế loại trừ một tư tưởng.
Nhưng trong lịch sử từ Công nguyên đến giờ, người công giáo chỉ tuân theo một quy luật riêng tư: họ chỉ có thể bị khuất phục bởi đức tin và tư tưởng của chính họ, tương tự quy luật mà lãnh tụ vô sản Vladimmir Ilitch Lenin từng không úp mở: chỉ người cộng sản mới tiêu diệt được người cộng sản.
Thế loại trừ và tiêu diệt lẫn nhau tất yếu là đường cùng của nhân loại.
Kẻ nào chơi với giáo gươm sẽ chết bởi gươm giáo - như di chỉ của Jesus cho môn đệ và có thể cho cả những kẻ muốn đóng đinh câu rút ngài.
Hình như đang lan truyền tiếng thầm thì sôi sục của khối giáo dân ở công đồng Vinh và khắp các giáo phận: đến khi nào họ sẽ đưa đức tin cầu nguyện cho kitô hữu từ nhà thờ ra đường phố?
Đường phố…
Lẽ nào “phép thử gươm giáo” sẽ phải xảy đến với Hà Nội vào những ngày tới?
Cho những năm tới?
Phạm Chí Dũng gửi RFA từ VN
2013-07-08
 

Blogger Phạm Viết Đào và những người bạn

Chiều 7/7/2013, các anh Vũ Ngọc Tiến-Nhà văn, Nguyễn Đăng Quang-nguyên là đại tá công an, Nguyễn Văn Khải-Tiến sỹ khoa học, đến thăm gia đình nhà văn,blogger Phạm Viết Đào sau “tai nạn” 258.
Sau đây là phỏng vấn ngắn các vị nói trên.


MD: Thân kính chào bác Vũ Ngọc Tiến,bác Nguyễn Đăng Quang,bác Nguyễn Văn Khải. Hôm nay các bác đến thăm gia đình bác Phạm Viết Đào với tư cách là người hâm mộ trang Blog Phạm Viết Đào hay là với tư cách gì?
NĐQ: Dù ít gặp,chưa kết giao nhưng tôi và anh Đào coi nhau là bạn vì chúng tôi trạc tuổi và có sự tương đồng trong suy nghĩ về nhiều vấn đề hiện nay của đất nước. Tôi đến thăm gia đình anh ấy vì thấy anh Đào bị bắt, gia đình rất hoang mang, lo lắng cần được động viên, an ủi.
MD: Bác Vũ Ngọc Tiến, bác có phải là bạn của anh Đào không?
VNT: (Cười) Tôi đến thăm gia đình anh Đào hôm nay là lần đầu tiên. Nhưng tôi biết anh ấy lâu rồi. Tôi mến chủ trang blog Phạm Viết Đào. Tôi không quan tâm nhiều chuyện anh ấy là Nhà Văn,cán bộ Thanh tra trong ngành Văn hóa hoặc đời tư của anh ấy. Tôi đọc blog của anh Đào và thấy rằng tác giả blog là người nhiệt huyết, chân thành,viết hay và viết với tâm nguyện của một công dân trăn trở,  lo lắng về vận nước.
MD: Bác Nguyễn Văn Khải, hình như bác nêu ra ý tưởng đến thăm cụ thân sinh bác Đào, vợ bác ấy và gia đình?
NVK: Đi thăm gia đình một người đồng bào của mình đang gặp hoạn nạn dù người ta là ìthế nào đi nữa mà thưởng cho cái chữ “ý tưởng” thì to quá. (Cười). Quan tâm đến số phận của người gặp hoạn nạn, an ủi gia đình vợ con người ta là một việc tốt, đúng truyền thống tương thân tương ái của người mình. Nó không những là nghĩa vụ của công dân mà còn là trách nhiệm của chính phủ nếu đó là một chính phủ vì dân.
Mấy anhh em già chúng tôi tuy rằng mỗi người đều có việc riêng của mình nhưng thường xuyên điện thoại thăm hỏi nhau. Hôm nay, nhân đến chơi nhà anh Quang liền nghĩ ngay đến việc thăm gia đình anh Đào và rủ nhau cùng đi.
MD: Bác Vũ Ngọc Tiến đọc rất nhiều. Blog của bác Đào, bác cũng để ý khá kỹ và liên tục. Bác có nhận xét gì về những trang viết của bác ấy, thưa bác?
VNT: Thông tin điện tử ngày nay nhiều quá. Ví như chuyện ẩm thực thì các trang mạng, các bài viết như một tập Menu khổng lồ, ta chỉ có thời gian lựa chọn rồi nếm vài món trong hàng triệu thực đơn Đông-Tây mà thôi. Các bài viết của anh Đào tôi cũng chỉ có thể chọn đọc một số. Tôi chú ý đặc biệt các bài viết của anh ấy về cuộc chiến tranh biên giới với Trung quốc, vấn đề bảo vệ chủ quyền lãnh thổ đất nước nhất là những bài viết về cuộc giao tranh trên cao điểm Lão sơn giữa quân Tầu và anh em bộ đội mình.
MD: Bác Tiến có nói về những bài viết của bác Đào đề cập tới cuộc chiến biên giới chống Trung quốc của bộ đội ta. Vậy theo bác có phải chính những bài viết đó đã “đưa” blogger Phạm Viết Đào vào tù không?
VNT: Trên các trang mạng người ta nói về nguyên nhân anh Đào bị bắt là do đề cập nhiều và gần như “độc quyền” thông tin về chiến tranh biên giới phía Bắc nước ta. Những bài viết đó bênh vực,bảo vệ bộ đội ta lẽ đương nhiên bất lợi cho Trung quốc.
Trong lúc nhà nước muốn êm ấm với Tầu thì nhà nước phải nín nhịn. Có khi còn phải “quà cáp” cho họ. Mà làm quà thì chỉ có cách làm sao đấy vừa lòng người ta. Anh Đào có là món quà hay không thì tôi không thể khẳng định nhưng trên mạng họ viết như vậy cũng cần ghi nhận.
Mặt khác blog của anh ấy cũng là một blog viết nhiều về nạn tham nhũng.
Tham nhũng ở mình là quốc nạn, là “bầy sâu” và dĩ nhiên người có chức quyền cao mới có thể tham nhũng. Vậy thì ai viết về tham nhũng đồng nghĩa với việc anh ta “chống lại” cả một tập thể tham nhũng  quyền lực. Người ta ưa anh làm sao được. Thế là anh “bướng quá”. Theo tôi những điều đó là có cơ sở.
MD: Vậy thưa bác Nguyễn Đăng Quang, theo bác còn nguyên nhân nào nữa khiến anh Đào thọ nạn?
NĐQ: Có những thông tin còn cho rằng anh Đào là nạn nhân của những đấu đá chính trường. Anh ấy có nhiều thông tin nhanh, độ tin cậy cao. Nếu các thông tin của anh ấy sai sự thật chắc báo chí nhà nước đã “phang” anh ấy tan xác ra rồi ấy chứ. Họ không nói gì, không phản bác. Vậy cũng có nghĩa là những thông tin đó đúng. Chết cái là anh ấy có thể có nguồn cấp tin từ những người sở hữu thông tin tuyệt mật. Họ bắt anh để lần cho ra cái “nguồn” ấy ở đâu.
MD: Bác Đào bị bắt từ tối 13/6 đến nay là 25 ngày rồi tại sao bây giờ các bác mới đến thăm gia đình bác ấy thưa bác Nguyễn Văn Khải?
NVK: Được tin anh Đào bị bắt tôi đang đi giúp bà con trên Bắc giang chữa bênh cho gia súc. Về lại phải đi một chuyến dài ngày trong các tỉnh đồng bằng sông Cửu long và Tây Nguyên giúp bà con các phương pháp bảo quản thực phẩm, rau củ quả mà không dùng hóa chất độc hại, các phương pháp diệt khuẩn bằng sinh học, quang học, chữa bệnh bằng Anolis cho người và gia súc.
Rồi đến thăm gia đình anh Đào cũng phải liên lạc với vợ anh ấy xem có nhà hay không, gia đình có sẵn lòng tiếp mình hay không. Mặt khác đã đi thì nên đi cùng mấy anh em với nhau mới ý nghĩa. Nhưng hẹn được người này lại lỡ hẹn người khác nên hôm nay mới thực hiện được.
MD: Thưa bác Nguyễn Đăng Quang, bác là một cán bộ từng công tác trong ngành công an tới 40 năm, theo bác việc bắt bác Đào có đúng trình tự theo Bộ luật tố tụng hình sự không?
NĐQ: Xét về sự vụ của anh Đào, ai cũng thấy chẳng có gì mà phải bắt “khẩn cấp” như thế. Nhưng đâu đó người ta vẫn “lách luật’, người ta cứ “đưa vào” cái quyền bắt “khẩn cấp” để đạt được mục đích là bắt anh ấy rồi tiến hành lấy phê chuẩn của Viện kiểm sau như một việc đã rồi.
Theo tôi việc bắt ai chứ bắt anh Đào là một việc bất lợi cho nhà nước vì hai lẽ: một là Anh Đào vô tội. Anh ấy chỉ làm những việc pháp luật không cấm. Anh Đào là một người tốt, có thâm niên công tác và đóng góp nhiều công lao với đất nước và là một công dân hiền lành tử tế, không làm việc gì xấu bao giờ. Thứ hai, trong lúc giữa ta với Trung quốc đang có tranh chấp các đảo và vùng lãnh hải mà bắt người có tiếng là bênh vực bộ đội ta, chống Tầu thì dễ cho nhân dân có cảm giác nhà nước đã bênh vực Tầu, bị Tầu “xỏ mũi”. Chưa kể các bài viết của anh Đào chống tham nhũng mà bị bắt thì chả hóa ra nhà nước đang chứng minh rằng “chúng tao đang tham nhũng đây,thằng nào chống tham nhũng là chống nhà nước, chúng tao gô cổ”.
Vậy thì bắt anh Đào đã không lợi thì giam giữ anh Đào lâu lại càng là một điều bất lợi cho nhà nước.
MD: Bác Vũ Ngọc Tiến và bác Nguyễn Văn Khải có ý kiến khác không thưa hai bác?
VNT: Tôi cho rằng anh Đào sẽ được trả tự do sớm vì nhà nước khôn chán, họ chả dại đâu. Rõ ràng bắt anh Đào và giam giữ anh ấy chỉ làm tình hình xấu thêm.
NVK: Tương lai chuyện này thì chưa thể đoán được. Nhưng tôi hy vọng, chỉ hy vọng thôi là nhà nước còn có những cái đầu sáng suốt để không đưa đất nước lệ thuộc vào những ý tưởng thôn tính biển Đông của Trung quốc và với sự tác động của dư luận tiến bộ trong, ngoài nước, nhà nước sẽ cân nhắc lợi hại, sớm trả tự do cho Anh Đào.
Mai Xuân Dũng
(Blog Mai Xuân Dũng)

Bùi Văn Phú - 'Độc lập, Tự do, Hạnh phúc'

'Người dân Mỹ thể hiện tinh thần Độc lập, Tự do qua những việc làm và hành động'
Năm 1976 tôi đón Lễ Độc Lập đầu tiên khi nước Mỹ tròn 200 tuổi. Năm đó đi coi bắn pháo bông ở sân vận động Candlestick, cuốn theo người mấy tấm áo dầy mà vẫn cảm thấy cái lạnh mùa hè San Francisco.
Dịp lễ lớn nhất của Mỹ rơi vào mùa hè, mùa của nhiều thú vui chơi, thư giãn nhất trong năm.
Hai tuần trước leo núi Yosemite, nóng như lửa. Tuần này nhiệt độ vẫn trên 100 vì thế kéo nhau xuống biển Santa Cruz.
Ở đây có những trò chơi nhào lộn cao tốc cho trẻ con. Người lớn cắm dù, dựng lều, đem lò ra nướng thịt, burger, hot dog. Bia chỉ được uống trên khu vực giải trí, không được mang ra bãi biển. Giới hạn thế, nhưng giấu bia trong thùng đá, khi uống rót vào ly giấy. Nhâm nhi, lai rai.
Đường ra biển sáng sớm đã đông xe, chạy rất chậm. Lúc ngừng tại một ngã tư, thấy trên bảng “Welcome to Santa Cruz” có ghi là thành phố kết nghĩa chị em với nhiều nơi trên thế giới: Nhật, Ý, Tây Ban Nha, Ukraine, Nicaragua, Venezuela.
Tấm bảng là biểu hiện tinh thần độc lập và tự do của dân Mỹ.
Kết nghĩa chị em với các nước bạn không nói làm gì, nhưng với Venezuela là điều chú ý vì bao năm nay lãnh đạo nước này hăng hái chống Mỹ, ra rả chửi Mỹ. Bất kể quan hệ ngoại giao hai nước căng thẳng, Santa Cruz vẫn đưa bàn tay thân hữu ra kết nghĩa với Puerto La Cruz.
Trong vụ nhân viên tình báo Edward Snowden tiết lộ bí mật nghe lén của chính phủ Mỹ, Venezuela sẵn sàng đón nhận cho tị nạn.
Và cư dân Santa Cruz cũng ủng hộ Snowden. Trên đường Beach sáng nay có vài chục người cầm biểu ngữ xuống đường hoan hô việc làm của Snowden.
Độc lập, Tự do ở Mỹ là thế. Tổng thống chẳng nhắc đến, người dân cũng không, chỉ thể hiện qua những việc làm và hành động.
'Việt Nam sợ hãi và lệ thuộc'
Trong khi đó lãnh đạo Việt Nam lại luôn nhắc đến Độc lập, Tự do, Hạnh phúc. Nghe riết, trong các phát biểu của quan chức trên VTV4; đọc riết, trên các báo của nhà nước; và thấy riết trên các giấy tờ, khẩu hiệu và gần đây là trong các phản hồi của những dư luận viên ăn lương nhà nước.
Có nghe, có đọc nhưng tôi không tin.

Vì sao?
Nhìn vào hiệp ước biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, nhìn vào những phản ứng hay cảnh báo của một số người trong nước đối với quan hệ Việt-Trung và âm mưu của Bắc triều, mà hệ quả là họ bị sách nhiễu hay phải vào tù.
Nhìn vào đường khoanh lưỡi bò 9 đoạn của Trung Quốc, nhìn những lần tàu Trung Quốc tấn công tàu Việt Nam, nhìn vào những chuyến đi của lãnh đạo Việt Nam tới Trung Quốc, tất cả cho thấy sự sợ hãi và lệ thuộc của lãnh đạo Việt Nam vào Trung Quốc là điều có thực.
Lãnh đạo các nước khác trong khu vực như Nam Hàn, Nhật Bản, Malaysia, hay Thái Lan, Philippines, Myanmar không thường xuyên đi Trung Quốc. Trong khi đó Tổng Bí thư, Chủ tịch Nước, Thủ tướng của Việt Nam lại luân phiên qua hội họp, bàn bạc với Bắc Kinh.
Vì quan hệ Việt-Trung ở tầm mức cao hơn quan hệ Nhật-Trung hay Hàn-Trung? Tôi không nghĩ thế. Trung Quốc chỉ có thể bắt nạt được Việt Nam thôi, với Nhật Bản hay Nam Hàn nào dám.
Vì sao Trung Quốc lại chỉ có thể bắt nạt được Việt Nam. Vì lãnh đạo Việt Nam đã đánh mất tinh thần độc lập, làm suy yếu tính tự chủ của dân tộc đã có từ thuở “Nam quốc sơn hà, Nam đế cư”.
Các cuộc biểu tình chống Trung Quốc của người dân thường nhanh chóng bị giới chức giải tán
Quan chức nhà nước hay nói đến Độc lập. Nhưng cả nước không có được một tờ báo độc lập của tư nhân. Nhắc đến tự do mà các ban ngành phụ trách thông tin không cho các ý kiến trái với quan điểm của nhà nước được hiển thị, trong khi trả lương cho cả nghìn dư luận viên để viết bài, viết phản hồi với mục đích giải thích chính sách của nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm đánh tan những “tuyên truyền xuyên tạc” của “bọn phản động” trên các mạng thông tin quốc tế và những blog lề trái.
Tự do. Ở Việt Nam chỉ gắn liền với bắt bớ, giam tù vì người Việt ngày nay vẫn chưa có tự do phát biểu, không được biểu tình, không được tự do ra báo, không được hội họp hay lập hội, không được tự do ứng cử.
Nếu có tự do, ở Việt Nam đã có những tờ báo độc lập, nhiều tổ chức xã hội, nghề nghiệp, có nhiều cuộc xuống đường rầm rộ phản đối Trung Quốc lấn chiếm đất biển và mỗi kỳ bầu cử đã nhộn nhịp ứng viên của nhiều đảng chính trị vận động tranh cử.
Tự do ở Việt Nam, như nhận xét của cố thi sĩ Nguyễn Chí Thiện: “Tự do tôi quí thiết tha, mà sao tù ngục hết ra lại vào.”
Lời thơ từ nửa thế kỷ trước mà bây giờ cũng vẫn đúng.
Có thể nhắc đến Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần, Hồ Thị Bích Khương, Đỗ Thị Minh Hạnh, Trần Huỳnh Duy Thức, Việt Khang, Cù Huy Hà Vũ, Trương Duy Nhất, Nguyễn Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha… là những người yêu nước, yêu tự do mà đang bị tù đày.
Hạnh phúc. Điều này khó đong đếm vì hạnh phúc chỉ là khái niệm tương đối, tùy theo hoàn cảnh của mỗi cá thể.
Hơn ba thập niên trước người Việt ra đi bằng thuyền, bằng con đường đoàn tụ gia đình ODP, diện HO, diện con lai, diện vượt biển hồi hương, bằng đường xuất khẩu lao động.
Nay người Việt chọn con đường du học, đường kết hôn với người nước ngoài. Tìm được lối thoát là họ sẵn sàng rời bỏ nơi chôn nhau cắt rún.
Ừ, thì bảo vì hoàn cảnh gia đình nghèo quá, họ ra đi để tương lai có khả năng giúp đỡ người còn ở lại.
Nhưng người giầu cũng tìm đường ra đi. Càng giầu càng muốn cho con cái sớm được ra khỏi nước bằng con đường du học các nước Úc, Anh, Pháp, Mỹ ngay từ cấp hai.
Nếu ai ra đi và không còn muốn trở về. Điều đó có nghĩa là ở một nơi nào đó họ đã tìm được độc lập, tự do và hạnh phúc.
Nhà báo tự do Bùi Văn Phú
Gửi cho BBCVietnamese.com từ San Jose
* Tác giả dạy đại học cộng đồng và là một nhà báo tự do hiện sống tại vùng Vịnh San Francisco.
(BBC)
 

Zhang Tszelyan - Đảng CS Trung Quốc với 85 triệu đảng viên đã bước vào "giai đoạn nguy hiểm"

Mới đây, đảng Cộng sản Trung Quốc thông báo rằng số lượng đảng viên của nó đã vượt quá 85 triệu người. Đây là một kỷ lục trong lịch sử chính trị thế giới.
Thông báo  ngay lập tức gây ra một phản ứng mỉa mai của những người Trung Quốc. Nhiều người đã so sánh đảng CS với  "băng đảng mafia lớn nhất thế giới". Trong khi đó, các nhà phân tích nói rằng nhiều người dân Trung Quốc gia nhập hàng ngũ của đảng phi tự nguyện.
Новость на Newsland: Китай: мясо крыс и безопасность продуктов

Zhang Tszelyan, nhà khoa họcchính trị:
"Thoạt đầu phải là đảng viên của đảng, và bạn có thể được vào các giới cầm quyền của đảng CS. Chỉ sau đó bạn mới có thể nhận được tất cả các loại đặc quyền đặc lợi. Đảng CS đã xây dựng một hệ thống đặc biệt cho việc tuyển chọn đảng viên mới. Ngay từ đầu học sinh tiểu học cần tham gia  vào đội thiếu niên tiên phong, sau đó học sinh trung học - vào đoàn. Trong thực tế, nhiều người Trung Quốc đã trở thành đảng viên của đảng CS một cách thụ động".
Theo số liệu của các truyền thông nhà nước Trung Quốc, đảng CS đã lập các đơn vị cơ sở của mình tại  590  nghìn ở nông thôn và 90 nghìn ở thành thị. Ngoài ra, các chi bộ của nó có mặt trong 99% của các cơ quan, các công ty và các tổ chức xã hội khác đã đăng ký tại Trung Quốc.
Trong khi đó, nhiều người chỉ ra rằng, mặc dù có số lượng lớn đảng viên, đảng CS của CHND Trung Hoa đã bước vào giai đoạn nguy hiểm nhất cho sự tồn vong của mình trong khi đảng tìm cách duy trì quyền kiểm soát tất cả các khía cạnh của cuộc sống, nhưng đồng thời  từ chối thực hiện cải cách nội bộ. Điều này gây nên sự đối kháng với phần còn lại của dân số đang phải đấu tranh với đảng vì lợi ích của mình.
Căng thẳng xã hội đã biến thành phong trào ra khỏi đảng CS Trung Quốc. Nó đã lan rộng trên khắp cả nước và thậm chí bao gồm cả các  quan chức cấp cao. Một số vì sợ bị truy nã đã ra khỏi đảng dưới tên tự. Những người khác thực hiện điều này một cách công khai.
Chẳng hạn, Shi Tszunvey - cựu quan chức của thành phố Trịnh Châu đã ra khỏi Đảng CS với tên thật của mình.
Tszunvey Shi, cựu quan chức của Đảng Cộng sản Trung Quốc:
"Nói một cách ngắn gọn, chúng ta cần phải trung thực với chính mình, và tuân theo luật pháp".
Zhang Tszelyan, nhà khoa học chính trị: "Đây là một cột mốc lịch sử mới. Nó phản ánh những nguyện vọng thực sự của người dân Trung Quốc".
Theo số liệu của  website thu thập các đơn, có hơn 140 triệu người Trung Quốc đã ra khỏi đảng Trung Quốc và các tổ chức con của nó.
Новость на Newsland: Китай станет лидером по въездному туризму в Россию
85-миллионная компартия КНР вошла в "опасную стадию"
Kichbu theo: ntdtv.ru
(Blog Kichbu)

Sơn Thi Thư - Tội phạm nguy hiểm nhất!

Hiện trường một vụ đốt xe và cẩu tặc tại Nghệ An. Ảnh Báo Người lao động
Lý: Theo ông, tội phạm gì hiện nay là nguy hiểm nhất?
Sự: Tội tham nhũng!
Lý: Không phải!
Sự: Vậy nó là tội gì?
Lý: Tội trộm chó.
Sự: Vì sao?
Lý: Vì tội tham nhũng thì người dân tin tưởng để cho "Đảng và Nhà nước lo" còn tội trộm chó thì người dân quyết tự xử cho bằng được. Họ kéo cả làng, cả xã ra đánh chết và đốt luôn cả xe máy của bọn trộm. Thế có phải tội trộm chó là tội nguy hiểm nhất không nào!
Sự: Ừ nhỉ!
Sơn Thi Thư
(Blog Sơn Thi Thư)
 

Lãnh đạo Masan ‘né’ 500 tỷ đồng thuế thu nhập cá nhân ra sao

Đầu tuần này, 17,86 triệu cổ phiếu phát hành theo chương trình lựa chọn cho người lao động (ESOP) của Công ty cổ phần Tập đoàn Ma San chính thức được giao dịch. Đây là số cổ phiếu thưởng cho các lãnh đạo công ty, với giá 10 nghìn/cổ phiếu, trong khi giá được giao dịch ở mức 95 nghìn/cổ phiếu.
Như vậy, sau khi bỏ gần 180 tỷ đồng ra mua cổ phiếu, nếu các lãnh đạo chủ chốt của Masan đem bán với mức giá của thị trường, có thể thu về gần 1.700 tỷ đồng tiền mặt, tức lãi hơn 1.500 tỷ đồng.
Nhìn bảng này có thể dễ dàng thấy sự chênh lệch giữa thuế mà các lãnh đạo Masan phải nộp nếu được thưởng bằng cổ phiếu và bằng tiền mặt.
Phát hành cổ phiếu hoặc quyền chọn cho nhân viên
Vừa qua, giống Masan, hàng loạt doanh nghiệp đã tiến hành hoặc dự kiến phát hành cổ phiếu ESOP cho lãnh đạo, nhân viên của công ty như: FPT, SBT, ITA, MPC, SSI...
Cứ từ Masan suy ra có thể thấy số thuế thu nhập cá nhân mà lãnh đạo các doanh nghiệp này tránh phải nộp lớn ra sao.
có thành tích xuất sắc là cách thưởng phổ biến trên thế giới. Tại các hãng lớn như Google, Facebook, Microsoft, Apple đến Goldman Sachs, JP Morgan, cổ phiếu thưởng luôn là phần lớn nhất trong gói lương thưởng của các lãnh đạo cao cấp.
Cái lợi của hình thức này là công ty không phải trả thưởng bằng tiền mặt. Đồng thời gắn chặt lợi ích của người nhận thưởng với lợi ích của công ty. Nếu kinh doanh tốt, lợi nhuận cải thiện và giá cổ phiếu tăng cao, nhân viên và cũng là cổ đông sẽ lãi to. Ngược lại, công ty đi xuống, tài sản nhân viên tự động bốc hơi, chẳng cần cắt lương trừ thưởng hay yêu cầu nộp phạt.
Thưởng kiểu này còn lợi lớn về thuế, vì thuế thu nhập từ lãi khi bán cổ phiếu chỉ bị đánh 5-10%, trong khi với lương thưởng bình thường có thể lên tới 40-50% (tùy quốc gia). Sở dĩ đầu tư cổ phiếu được hưởng mức thuế suất thấp hơn là vì các nước muốn khuyến khích dân chúng mạo hiểm đầu tư kinh doanh.
Tuy vậy, ở Việt Nam sự “khuyến khích” này có phần hơi quá đà nên cá nhân đầu tư cổ phiếu gần như không phải nộp thuế.
Tận dụng lợi điểm này, các “sếp” Masan đã giảm hơn 500 tỷ đồng thuế thu nhập cá nhân so với nhận thưởng kiểu bình thường.
Giảm 500 tỷ thuế thu nhập như thế nào?
Nếu chia thưởng hơn 1.500 tỷ đồng, số tiền này sẽ bị đánh thuế theo biểu thuế lũy tiến như thu nhập từ tiền lương, tiền công. Do thu nhập của các lãnh đạo chủ chốt Masan vốn đã cao, số tiền thưởng này lại quá lớn, nên các khoản khấu trừ thuế gần như không đáng kể.
Ngắn gọn lại, các “sếp” Masan phải đóng thuế ở mức cao nhất 35%, tức ngân sách có thêm 531,3 tỷ đồng thuế thu nhập cá nhân.
Tuy vậy, khi nhận thưởng bằng cổ phiếu, số thuế thu nhập cá nhân phải đóng đối với hoạt động chuyển nhượng chứng khoán sẽ thực hiện theo một trong hai cách: (1) 0,1% giá trị giao dịch; (2) 20% lợi nhuận chênh lệch giữa giá chuyển nhượng với giá mua cổ phiếu. Đương nhiên không ai chọn cách nộp thuế 20% lợi nhuận, vì chẳng khác nào đóng 20% thuế trên tổng tiền thưởng.
Vì thế, nếu đem bán số cổ phiếu ESOP nói trên, số thuế thực nộp của lãnh đạo Masan chỉ là 0,1% giá trị giao dịch, tức là sẽ nộp khoảng 1,7 tỷ đồng. Tính ra, nhờ am hiểu sơ hở của luật mà lãnh đạo Masan tiết kiệm được hơn 529 tỷ đồng.
Hơn thế nữa, số thuế này thích nộp lúc nào cũng được, nghĩa là chỉ phải nộp thuế khi bán cổ phiếu. Ngược lại, nếu nhận thưởng tiền mặt, họ sẽ bị “khấu trừ tại nguồn”, tức công ty giữ lại toàn bộ số thuế phải nộp ngay khi trả thưởng và chỉ chuyển vào tài khoản số còn lại.
Luật nói gì?
Luật nói Masan nghiêm túc tuân thủ pháp luật hiện hành về thuế cùng các văn bản hướng dẫn đi kèm.
Cách tính thuế kể trên theo đúng hướng dẫn tại Công văn số 14169/BTC-TCT của Bộ Tài chính gửi Cục thuế TP.HCM hướng dẫn xác định nghĩa vụ thuế thu nhập cá nhân đối với hình thức thưởng cổ phiếu hoặc quyền mua.
Chưa nói đến chuyện chính sách thuế hay dở ra sao, nhưng nếu muốn không để vuột những khoản tiền thuế khổng lồ tương tự, chỉ có cách sửa luật theo hướng tăng thuế đối với hoạt động đầu tư cổ phiếu, một việc gần như bất khả thi nếu xét tới sự phản ứng dữ dội của các nhà đầu tư tài chính.
Đứng trên góc độ doanh nghiệp, hình như còn quá ít công ty niêm yết tận dụng được sự “khuyến khích” của luật thuế. Với những công ty này, thật chẳng biết nói sao, thôi đành biểu dương tinh thần quên mình mà đóng góp vào ngân sách nhà nước của họ vậy.
(Tri thức trẻ)

Người dân lĩnh đủ vì cơ chế độc quyền vàng miếng

Bất chấp mọi lời hứa bình ổn của NHNN, thị trường vàng trong nước vẫn xuất hiện những diễn biến bất thường khi vàng SJC có dấu hiệu bị làm giá sau thời hạn tất toán. Việc các ngân hàng gom vàng giá cao làm gia tăng khoảng cách so với giá vàng thế giới không chỉ làm người vay vàng chịu thiệt hại mà còn gây ra tâm lý bất ổn cho người dân đang nắm giữ vàng.

Tuy thời hạn tất toán đã qua, nhưng dường như nhu cầu vàng vẫn như cái thùng không đáy. Ngay cả khi NHNN đã tăng gấp rưỡi lượng vàng bán ra trong các phiên đấu thầu, nhưng các NHTM vẫn mua hết với giá cao, bất chấp các rủi ro phải đối mặt. Đó là nguyên nhân khiến khoảng cách giữa vàng nội và ngoại tiếp tục đứng ở mức cao. Đến 13h30, giá vàng SJC đang giao dịch quanh ngưỡng 37,25 triệu đồng/lượng (mua vào), 37,77 triệu đồng/lượng (bán ra), đắt hơn giá vàng thế giới 6,4 triệu đồng/lượng.

Như vậy, nhu cầu và giá vàng trong nước không hạ nhiệt như dự báo mà các quan chức ngân hàng đưa ra trước đó khiến không ít ý kiến cho rằng: Vàng SJC đang bị làm giá mà đối tượng nghi vấn chính là NHTM. Bởi các ngân hàng đang hưởng lợi khi giá vàng trong nước tiếp tục neo ở mức cao như hiện nay.
 

Theo đó, sau ngày 30/6, dù các ngân hàng đã cơ bản hoàn thành tất toán với trạng thái huy động, nhưng chưa hoàn thành với trạng thái cho vay. Vì thế, số lượng vàng mà các ngân hàng cần để đóng trạng thái hoàn toàn ước đoán khoảng 9 tấn. Trong tình cảnh số vàng huy động gần như bằng không, các ngân hàng không còn cách nào khác là phải mua vàng cân đối. Điều đó cũng có nghĩa các NHTM phải đối mặt với những rủi ro lớn về giá. Nếu giá tăng, ngân hàng sẽ hưởng lợi mà ngược lại thì sẽ lỗ.

Để tránh rơi vào thế khó, các ngân hàng sẽ phải chuyển đổi hợp đồng vay vàng sang tiền đồng. Tuy nhiên, đây là vấn đề không đơn giản. Bởi việc thay đổi các điều khoản trong hợp đồng vay vàng phải dựa trên thỏa thuận giữa hai bên chứ ngân hàng không thể đơn phương điều chỉnh, nếu không muốn phải đối diện với các tranh chấp pháp lý tại tòa án. Do đó, các ngân hàng chỉ có thể tăng lãi suất vay vàng để “ép” khách hàng chuyển hợp đồng vay vàng sang vay tiền như cách một số ngân hàng đã áp dụng trong thời gian qua.

Tuy nhiên, trong bối cảnh người vay vàng đang kỳ vọng giá vàng thế giới sẽ về ngưỡng 1.000 USD/oz, qua đó bớt đi phần nào gánh nặng nợ nần do chót vay vàng ở thời điểm giá thấp sẽ không dễ chấp nhận việc chuyển đổi này. Cho nên, các ngân hàng đã gom hàng đẩy giá lên cao để biến các phiên đấu thầu vàng trở thành sân chơi của riêng họ nhằm dễ bề chi phối thị trường vàng để đề phòng bất trắc.

Ý đồ của các NHTM lại tình cờ diễn ra đúng vào lúc giá vàng trong nước quyết giữ khoảng cách có khi lên tới 7 triệu đồng so với thế giới. Khoảng cách không thể duy trì nếu NHNN, với tư cách là nguồn cung duy nhất, đưa giá chào sàn thấp trong các phiên đấu thầu. Tuy nhiên, trong bối cảnh giá vàng SJC đang được nâng đỡ bởi cơ chế độc quyền, chẳng ai tự nguyện hy sinh những quyền lợi đang có và chính NHNN đang thu lợi hàng trăm tỷ đồng sau mỗi phiên đấu thầu nhờ vàng SJC đắt một cách phi lý như hiện nay.

Giữ giá vàng trong nước cao bất thường so với thế giới, các ngân hàng đang đẩy phần thiệt hại về phía người vay vàng, đồng thời gây ra tâm lý hoang mang trong xã hội khiến người dân vẫn đổ xô đi mua vàng khi giá lên xuống thất thường. Còn người có nhu cầu bán vàng sẽ trở thành những đối tượng chịu thiệt thòi hơn cả. Có thể nói, thị trường vàng trong nước đang đi ngược quy luật thông thường của một nền kinh tế thị trường khiến người dân đang giữ vàng khó mà tâm phục khi mọi thiệt hại đều đổ dồn về phía họ.

Huy Vũ
(Sống mới)

Nhà máy sản xuất Alumin Nhân Cơ bế tắc việc làm cho công nhân

Hàng trăm công nhân được Nhà máy sản xuất Alumin Nhân Cơ (Đắk Nông) gửi đi đào tạo nhưng khi họ tốt nghiệp ra trường lại đang lâm cảnh bơ vơ…
Ngày 18/02/2010 nhà máy Alumin Nhân Cơ được khởi công xây dựng địa điểm đặt tại xã Nhân Cơ huyện Đắk R’Lấp tỉnh Đắk Nông, với tổng mức đầu tư 11.624,2 tỉ đồng.
Sự kiện làm người dân trên địa bàn rất phần khởi vì một phần nhà nước cũng đã giải quyết đền bù thỏa đáng mặc dù chưa đi vào hoạt động, đồng thời hứa hẹn sẽ tạo công ăn việc làm cho con cháu họ.
Chưa thể sử dụng lao động
Theo tìm hiểu của PV, hiện nay có 424 công nhân kỹ thuật được đào tạo bài bản phục vụ dự án Nhà máy sản xuất Alumin Nhân Cơ trên địa bàn tỉnh Đăk Nông vẫn chưa có việc làm theo chuyên ngành đào tạo của Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam.
Nguyên nhân chủ yếu do dự án xây dựng nhà máy Alumin chưa đi vào hoạt động theo như dự kiến ban đầu.
Để đào tạo được công nhân có trình độ chuyên ngành nhằm phục vụ cho nhà máy tốt nhất, Ban Quản lý dự án nhà máy sản xuất Alumin Nhân Cơ – Vinacomin đã tuyển sinh rất bài bản bản, chủ yếu vẫn ưu tiên cho con em người địa phương.
Nhà máy Alumin Nhân Cơ – Vinacomin đã liên kết với Trường trường Cao đẳng Nghề công nghiệp Việt Bắc đào tạo qua các khóa 31, 34, 35. Hiện khóa 31 đã tốt nghiệp với 301 công nhân, khóa 34 ra trường 172 người.
Nhà máy Alumin Nhân Cơ đang hoàn thiện.
Hiện nay, tuy các công nhân đã tốt nghiệp nhưng Nhà máy Alumin Nhân Cơ chưa bố trí được việc làm, chỉ gửi qua làm việc tại Nhà máy Alumin Tân Rai (Lâm Đồng) 49 công nhân. Số công nhân còn lại hiện đang đi làm trong các khu công nghiệp tại Bình Dương, TP Hồ Chí Minh và một số công việc phổ thông khác trên địa bàn tỉnh.
Ông Mai Chiến Thắng, PGĐ Nhà máy Alumin Nhân Cơ cho biết: Chúng tôi sẽ sử dụng tất cả các công nhân đã đào tạo khi nhà máy hoàn thành.
Hiện tại, Ban quản lý dự án nhà máy sản xuất Alumin Nhân Cơ – Vinacomin đã liên hệ một số Trung tâm giới thiệu việc làm, Sở LĐTB&XH để liên hệ tìm việc làm cho các công nhân đã đào tạo nhưng chưa sắp xếp được công việc.
Để vận hành dây chuyền sản xuất alumin Nhân Cơ yêu cầu nhân lực dự kiến trên 2000 người, nhưng đến nay nhà máy mới chỉ đào tạo được 617 công nhân. Ban Quản lý dự án nhà máy sản xuất Alumin Nhân Cơ – Vinacomin tiếp tục tuyển sinh đào tạo công nhân kỹ thuật nhưng không có người nộp hồ sơ do những công nhân trước đây đào tạo xong nhưng vẫn chưa có việc làm.
Được biết hiện nay dư luận đang rất bức xúc vì chuyện con em họ được đào tạo ra nhưng phải đi làm chổ này chổ nọ rất phức tạp, các ngành đào tạo lại không phù hợp với môi trường bên ngoài nên rất khó kiếm việc làm.
Ông Nguyễn Hữu Bình, PCA xã Nhân Cơ có con trai cũng đã tốt nghiệp khóa đào tạo của nhà máy hiện nay đã sang bên nhà máy Tân Rai – Lâm Đồng làm việc cho PV biết: Cháu nó thường xuyên điện về kêu vất vả lắm, lương lại thấp không đủ chi tiêu.
Cháu nó cứ đòi về suốt nhưng tôi cũng bảo cứ ở đi khi nào bên Đắk Nông xong thì sẽ xin về, vì mình được cử đi hơn nữa khi đó mình có kinh nghiệm sẽ được sắp xếp công việc phù hợp, tuy nhiên hiện cháu vẫn cứ đòi về khiến chúng tôi rất lo lắng.
Anh N.V. A (xin được dấu tên) một người dân có đất nằm trong vùng dự án, cũng có con trai đã tốt nghiệp khóa đào tạo của nhà máy cho biết: Hiện con tôi đã đi vào Bình Dương làm công nhân giày da vì chờ việc trên này lâu quá, chúng tôi cũng không biết khi nào sẽ hoạt động.
Được biết, trong các khóa đào tạo có khoảng hơn 20 em  là con em địa phương trên địa bàn xã Nhân Cơ theo học, nhưng mới chỉ có bố trí được 4 người sang Lâm Đồng, điều này khiến chính quyền địa phương rất đau đầu vì không biết số còn lại sẽ như thế nào vì hiện nay nhà máy vẫn chưa hoạt động trở lại.
"Chúng tôi chỉ biết động viên các cháu thôi"
Trao đổi với PV ông Lê Quang Trường, Chủ tịch UBND xã Nhân Cơ cho biết: Chúng tôi đang rất băn khoăn chuyện này vì con em địa phương được đào tạo ra mà chưa sử dụng, đồng nghĩa với việc họ đang thất nghiệp. Với một khoảng trống rất dài về thời gian như thế các lao động được đào tạo ra sẽ phải tự kiếm cho mình một công việc khác, ngặt nỗi là ngành đào tạo lại không phù hợp ở chổ nào bên ngoài cả.
Tuy nhiên chính quyền xã sẽ cố gắng động viên con em cố gắng chờ đợi khi nhà máy hoạt động lại thì phải có chế độ ưu tiên từ nhà máy chứ không thể bỏ họ được, hiện nay chưa thấy vấn đề gì về an ninh trật tự xẩy ra trong số công nhân đã tốt nghiệp, tuy nhiên nếu để lâu dài chúng tôi cũng không dám chắc.
Ông Vũ Du Tư, Trưởng phòng Lao động - Tiền lương Nhà máy Alumin Nhân Cơ cho rằng: Tuy một số công nhân được đào tạo hiện nay chưa có việc làm nhưng chúng tôi sẽ đào tạo tiếp vì như thế chưa đủ.
Trả lời PV về vấn đề sẽ xử số lao động đã đào tạo này như thế nào, ông Mai Chiến Thắng, PGĐ nhà máy Alumin Nhân Cơ cho biết: chúng tôi sẽ sử dụng tất cả số lao động đã được đào tạo chứ không thể bỏ không như thế được, chúng tôi rất băn khoăn về chuyện này, nhà máy cũng đang đẩy nhanh tiến độ xây dựng cơ sở vật chất hoàn thiện nhằm đưa vào hoạt động, dự kiến sẽ hoạt động trong năm nay, các lao động sẽ đi làm và ký hợp đồng lao động bài bản.
Còn ông Vũ Duy Tư, Trưởng phòng Lao động Tiền lương của nhà máy Alumin Nhân Cơ cho biết: “Sau khi nhà máy hoàn thành và đi vào hoạt động chúng tôi sẽ kêu gọi tất cả những công nhân đã đào tạo quay trở lại làm việc cho nhà máy, hiện nay chúng tôi vẫn tiếp tục tuyển dụng và đào tạo thêm vì số lượng công nhân nhà máy cần phải lên con số 2000 người.
Chúng tôi cũng đã báo cáo lên các cơ quan ban ngành của tỉnh Đắk nông, đồng thời cũng liên hệ trung tâm giới thiệu việc làm tỉnh đắk nông xem hiện tại trung tâm có việc gì giải quyết  giúp số lao động đã đào tạo trong thời gian trống này không?”.
Được biết, để đào tạo một công nhân tốt nghiệp có tay nghề và cấp chứng chỉ thợ các bậc phục vụ cho nhà máy sau này kinh phí rơi vào khoảng 17 triệu đồng/1lao động.
Như vậy với số lượng dự kiến lên tới hàng ngàn người nhà máy này sẽ mất rất nhiều tỉ đồng để đào tạo công nhân, nếu như không bố trí được việc làm không những người dân bị thiệt thòi mà chính nhà máy này cũng bị ảnh hưởng rất nặng nề về tài chính.
Nguyễn Hải Dương
(Tầm nhìn)

Xem xét, miễn nhiệm chức Phó Chủ tịch UBND TP.HCM của ông Lê Minh Trí

Từ tháng 4/2013, ông Lê Minh Trí đã được điều động làm Phó trưởng Ban Nội chính Trung ương. Ảnh: Internet.
UBND TP.HCM vừa có tờ trình HĐND TP về việc miễn nhiệm chức vụ Phó Chủ tịch UBND TP.HCM đối với ông Lê Minh Trí.
Tờ trình này sẽ được HĐND TP xem xét tại kỳ họp lần thứ 10 HĐND TP khóa VIII dự kiến diễn ra từ 10 - 12/7 tới.
Hiện ông Trí - Thành ủy viên, Phó Chủ tịch UBND TP.HCM - đã chuyển công tác theo Quyết định số 744-QĐNS/TW ngày 3/4/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, về giữ chức Phó trưởng Ban Nội chính Trung ương.

Theo Nam Anh
(Phụ Nữ TP.HCM)