Tổng số lượt xem trang

Thứ Ba, 24 tháng 9, 2013

Tin thứ Tư, 25-09-2013

CHÍNH TRỊ-PHÁP LUẬT

1
- Mai Thái Lĩnh: Góp ý về “bộ bản đồ các mốc giới Việt-Trung” (Boxitvn).  - Dương Danh Huy: Về bản đồ mốc giới do Phan Văn Song và Dương Danh Huy. - Tổng hợp tranh luận xung quanh bản đồ biên giới Việt-Trung của bác Dương Danh Huy và bác Phan Văn Song (Quỹ NCBĐ).
- Nguyễn Trung: SUY NGẪM VỀ THỜI CUỘC – Phần 5 (Bùi Văn Bồng).  - Chuyển giao công nghệ trồng rau Đà Lạt cho Trường Sa (QĐND).
<- Lưới lợi ích và lưới vũ khí giăng ở Biển Đông (ĐV).
Trung Quốc dọa tiêu diệt tàu ngầm Mỹ trên biển Đông (PNT).

Tàu Trung Quốc vào vùng đặc quyền kinh tế Nhật Bản (TTXVN).
Việt-Ấn tăng cường quan hệ quốc phòng với Trung Quốc trong tầm nhắm (RFI). - Tướng Đỗ Bá Tỵ thăm Ấn Độ (BBC).  - Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Việt Nam tới Ấn Độ (VOA).
Việt – Pháp hướng tới quan hệ đối tác chiến lược ? (RFI). –  Pháp cần siết chặt quan hệ với Việt Nam (Thụy My RFI).  - Việt-Pháp: Xây dựng lòng tin chiến lược vì hoà bình, hợp tác và thịnh vượng (CP).  - Thủ tướng: Quan hệ Việt-Pháp cập bến thành công (VGP/VNN).
- Tiếp theo TUYÊN BỐ Về thực thi quyền Dân sự và Chính trị (DĐXHDS), hiện đã có Danh sách ký tên Đợt 3 – hưởng ứng Tuyên bố 23/9. Trong danh sách đợt này có tên một số nhà hoạt động được dư luận quan tâm như Blogger Huỳnh Thục Vy, TS Nguyễn Quốc Quân, TS Nguyễn Hồng Kiên, Blogger Nguyễn Lân Thắng, Nhà báo Bùi Tín, TS Âu Dương Thệ …, Ngoài ra còn có thành viên của một số trang mạng tự do có tiếng.
Biến cố Mỹ Yên: Đã đến lúc Hội Đồng Giám mục Việt Nam không thể không lên tiếng (NVCL). - Thư hiệp thông với Giáo phận Vinh Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền (DCCT). - ĐTGM Phanxicô Lê Văn Hồng gởi thư hiệp thông với giáo phận Vinh.
Vụ Mỹ Yên theo lời kể của người dân (DLB). “Bắt đầu có đá từ ‘quần chúng’ ở phía công an được ném vào giáo dân. Rồi có đá ném về phía công an từ một nhóm ‘người lạ’, đứng bên phía giáo dân. Một số giáo dân cũng ném đá theo họ. Khi được hỏi các anh chị lấy đá đâu mà ném, thì bà con Mỹ Yên nói họ không có mang theo đá, nên chỉ lấy đá bên đường. Sau đó, có nhiều đá do nhóm ‘người lạ’ mang đến… Liệu ném đá như vậy có làm chấn thương công an không?: không ảnh hưởng gì cả, vì họ trang bị áo chống đạn và mũ bảo vệ…
- JB Nguyễn Hữu Vinh: “Lợi dụng trẻ em – mưu đồ chính trị” báo Nghệ An chửi đểu Hồ Chí Minh? (RFA’s blog). “Đọc bài báo Nghệ An hôm nay, những hành động, cách nói, trích dẫn đã dẫn người đọc đi đến việc tìm sự thật: Ai đã lợi dụng trẻ em cho mưu đồ chính trị? Và câu hỏi không khó trả lời qua chính những dữ liệu bài viết cung cấp: Hồ Chí Minh. Có phải báo Nghệ An mắc căn bệnh ‘Gần chùa gọi Bụt bằng anh’ như trong dân gian thường nói? Cũng có thể“.
Cha Giám tỉnh DCCT thăm nhà giáo Đinh Đăng Định (DCCT).
Tố cáo hành động ức hiếp và mưu đồ tiêu diệt Phật giáo Hòa Hảo (RFA). - Cụ Lê Quang Liêm kể về Đức Huỳnh Giáo Chủ và PGHH (DCCT)
2Kiên quyết đấu tranh làm thất bại các âm mưu tập hợp lực lượng, thành lập cái gọi là Nhà nước HMông (CAĐN).
- Video: Truyền thông xã hội tại Việt Nam – Vietnam’s Social media (Nguyễn Lân Thắng).  - KỶ NIỆM [SAU] SÁU NĂM LÀM BỜ-LỐC-KHỜ (từ tuổi 81) (Nhát sĩ bảo thủ Tô Hải). Blogger U90 =>
BIÊN BẢN VU KHỐNG VÀ NHỮNG KỊCH BẢN XƯA NHƯ HANG PAC BÓ (Bùi Hằng).
- TS Trần Nhơn: Nghị quyết, chỉ thị Đảng (DLB). “Nghị quyết Đảng là thứ nhảm nhí/ Áp đặt lâu ngày thành thói quen/ Thói quen lâu ngày thành đạo lý/ Đảng lên vua cai trị… dân hèn?!
NGOẠI GIAO VIỆT NAM HƯỚNG TỚI CHIẾN LƯỢC… QUẢ MÍT (FB Sao Hồng).
‘Mù mờ khái niệm sở hữu toàn dân’ (BBC). Luật sư Trần Quốc Thuận: “Chính bản chất của thể chế chính trị dẫn đến những hậu quả mà suy diễn ra trong đó có sở hữu toàn dân về đất đai, chuyên chính vô sản, áp chế dân chủ và tùy tiện trong vấn đề điều hành đất nước, dẫn đến quốc nạn là tệ nạn tham nhũng không cứu chữa được. Tất cả những cái đó nguyên nhân sâu xa vẫn là thể chế chính trị, vẫn là ở đây không có tự do báo chí, không có những tiếng nói độc lập để can ngăn những việc làm sai trái”.
Việt Nam ngày càng tụt hậu so với các nước trong khu vực? (VOA).
Bộ ngành Việt Nam ‘quá nhiều thứ trưởng’ (BBC).
Đề nghị sửa luật để minh bạch ngân sách (TBKTSG).
- Thiện Tùng: Thấy gì, hiểu sao đàng sau việc chống tham nhũng ở nước ta? (Boxitvn).
Thủ tướng cho phép lấy 1.500 ha đất lúa làm dự án (VnEco).  - Đua nhau “ôm”, cùng nhau… trả! (TT).
Cơ quan nhà nước ít dùng thư điện tử (TBKTSG).
Theo đóm ăn tàn (RFA Blog).
Vụ TGĐ đánh nhân viên sân golf bất tỉnh: Chuyển Sở Nội vụ giải quyết (LĐ).  - Vụ “đập đầu caddy”: Thành ủy Hà Nội vào cuộc! (NLĐ).  - Golf và người.  - Tiết lộ chi phí chơi golf của đại gia Hà Thành (VNN).   - Lương 10 triệu vẫn có thể đi đánh golf? (KP).
Công an điều tra vụ nổ súng Suối Tre (BBC). - Người dân kể lại giây phút nổ súng tại trạm CSGT Suối Tre (Soha).  - Đại úy CSGT bị đánh, sỉ nhục trước khi bắn chết cấp trên (NĐT).
Huyện Mê Linh, Hà Nội: Vợ Bí thư thị trấn Chi Đông tuyên truyền “tà đạo” trái phép? (GĐVN).
Con rể nguyên giám đốc sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Vĩnh Long “tố” vì bị ép cung! (Tân Châu).
sạt lở <- Hàng trăm người phản đối nạo vét cát gây sạt lở bờ biển (VNE).
- Phạm Chí Dũng: Tự xử dân chúng hay tự xử chính quyền? (Boxitvn).
Chính quyền Úc bí mật chuẩn bị cưỡng bách hồi hương (ĐCV).
Bác Cháu ta cùng nhau hỗn xược (DLB).  Nhân bài này, lại phải nhắc tới hiện tượng lạ trong nhiều năm nay, ông thầy tu có pháp danh là Thích Chân Quang đi rao giảng những thứ không phải đạo, mà là chính trị và văn hóa hổ lốn đề cao Đại Hán,  khoác lác xuyên tạc lịch sử rất ngô nghê, nhưng lừa được bà con ít học khắp các vùng quê, rồi tung lên mạng búa xua. Không hiểu sao không thấy cơ quan chức năng nào can thiệp. Hay là họ “sợ” cái tin đồn rằng Thích Chân Quang là “bà con” với HCM? Nhưng ngược với lời đồn đại được thêu dệt để đề cao tay thầy tu hú này là những đánh giá cho rằng dòng họ đó tuyệt tự.   Mời xem thử: Biển Đông Dậy Sóng ( Bản Gốc ) – Sư Phụ Thích Chân Quang Tôn Kính… !!! (Youtube).  Xem thêm: Nhiếp Vinh Trang:  Thích Chân Quang – là ai ? (Bà Đầm Xòe). Thật nguy hiểm khi để tay này đi lang thang rao giảng không công (?) cho bọn bành trướng phương Bắc khắp hang cùng ngõ hẻm! Còn với cơ quan an ninh thì cũng nên đặt dấu hỏi khác, khi mà không ít kẻ đang tâm làm gián điệp cho Tàu Cộng đã bị xộ khám.
- Audio phỏng vấn Phó Giáo sư sử học Vũ Quang Hiển, từ Đại học Quốc gia Hà Nội: Bí ẩn tình cảm trong đời Hồ Chí Minh (BBC).  - KỶ NIỆM VỀ HỒ CHỦ TỊCH CỦA BỘ TRƯỞNG TƯ PHÁP ĐẦU TIÊN (Nguyễn Trọng Tạo). 
Làm gì? Đường Kách Mệnh của Hồ Chí Minh (William J. Duiker/Ánh Hiền).  Cùng một tác giả:   HCM-MỘT CUỘC ĐỜI (BS).
Đêm qua có người mơ gặp bác Phi! (DLB).
- VÁCLAV HAVEL: QUYỀN LỰC của KHÔNG QUYỀN LỰC – Phần 3 (Bùi Văn Bồng).
HẺM BUÔN CHUYỆN (KỲ 116) : Mùa thu rồi … ngày 23… (Nhật Tuấn).
Cách làm báo thời VNCH và thời CHXHCNVN (DCCT).
Bằng cách nào để người ta giết chết một tác phẩm nghệ thuật? Và những thảo luận xung quanh (Tào Lao/ Gulpataom). “Bằng cách nào để người ta giết chết một tác phẩm nghệ thuật? Bằng cách thông qua Hội đồng kiểm duyệt để trao án tử vì ‘tác phẩm không phản ánh thực tế cuộc sống’ như cuốn phim Bụi Đời Chợ Lớn. Hay kêu gọi tẩy chay bởi vì ‘vi phạm thuần phong mỹ tục’ như trong phim ‘Tiếng Trống Baranung’, trong khi cuốn phim này vẫn đang nằm trong kho chưa được công chiếu…”
Bắc Kinh bớt kiểm duyệt internet tại Khu Thương mại Tự do Thượng Hải (RFI). - Trung Quốc suy tính bỏ kiểm duyệt Internet tại khu thương mại tự do Thượng Hải (Kichbu).
Công bố video phiên xử Bạc Hy Lai (BBC). - Ban lãnh đạo Trung Quốc kết án Bạc Hy Lai để củng cố quyền lực (RFI). - Bạc Hy Lai suy tàn và tương lai của chủ nghĩa Mao mới.
TQ gây áp lực với Bắc Hàn về hạt nhân (BBC).  - Nam Triều Tiên hoãn thỏa thuận mua chiến đấu cơ  (VOA).  - Bắc Kinh cấm xuất khẩu công nghệ vũ khí cao cấp cho Bình Nhưỡng (RFI). - Seoul hủy mua 7 tỷ đô la chiến đấu cơ của Boeing (RFI). - Bắc Triều Tiên nổi giận trước video khiêu dâm liên quan tới gia đình lãnh tụ. - Sự thật vụ xử tử “ca sĩ khiêu dâm” Triều Tiên (KP).
Bà Suu Kyi khuyến khích Miến kiều trở về quê nhà (VOA).
Campuchia họp Quốc hội dù đảng đối lập không tham dự  (RFA). - Hun Sen vẫn là Thủ tướng (RFI). - Ông Hun Sen tiếp tục làm thủ tướng (BBC).  - Ông Hun Sen tái đắc cử bất chấp sự tẩy chay của phe đối lập (VOA). - Thủ tướng Hun Sen sẵn sàng đàm phán (NLĐ).  - Đảng Cứu quốc Campuchia chỉ đòi ghế chủ tịch Quốc hội(PLTP).
Nguyễn Vị Xuyên – Tại sao Đảng CS Pháp từ bỏ biểu tượng búa liềm trên thẻ đảng? (Dân luận).
Bài diễn văn của TT Obama tại New York (RFA). - Obama bỏ hút thuốc vì sợ vợ? (BBC).
- Nguyễn Xuân Nghĩa: Hoa Kỳ, đi tìm sứ mệnh (NV).
- Huỳnh Văn Úc: Nước Nga và Câu lạc bộ Valdai (Trần Nhương).
- Phan Thành Đạt: Từ những bài học trong quá khứ đến nhiệm vụ bảo vệ quyền con người ở Đức (Boxitvn).

- “Nặng gánh”… nông thôn mới Bài 2: Bán hết lúa cũng không đủ đóng phí (DV).
KINH TẾ
- Chỉ số kinh tế cải thiện, nhưng tình hình vẫn khó (TBKTSG).  - Ba phần tư cỗ máy tăng trưởng đang trục trặc (VnEco).
Lỡ cơ hội giảm giá xăng dầu (NLĐ).
Bơm thêm 20.000 lượng vàng để giảm chênh lệch? (NLĐ).
‘Chứng khoán Việt đang hồi sinh’ (VNE).
- Video: Trao đổi với ông Trần Tuấn Anh – Thứ trưởng Bộ Công Thương xung quanh những vấn đề quản lý xuất khẩu gạo (VTV).
VAMA: Rào cản thuế không giúp cho sản xuất xe nội (TBKTSG).
- Phạm Chí Dũng: Từ WTO đến TPP: Nhận diện sáu năm di căn kinh tế (VOA).
Tôm Việt Nam thoát nạn Mỹ nhưng vướng nạn Tàu (RFI).
- Video: Chính sách kinh tế và cuộc sống: Hệ thống chợ và trung tâm thương mại VN tại Đông Âu (VTV).
Blackberry chuẩn bị được bán (BBC).  - Blackberry có chủ mới  (VOA).
- Phỏng vấn kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa: Khủng hoảng tài chính 2008 : Rủi ro vẫn tồn tại (RFI).
Nhật chuẩn bị mua khí đốt của Canada (RFI).
Apple lập kỷ lục bán 9 triệu smartphone trong 3 ngày (RFI).

- DĐDN Việt Nam tại châu Âu lần thứ 7: ‘Người Việt phải tập hợp nhau lại’ (TVN).
VĂN HÓA-THỂ THAO
- Ngọc Dương: MẤY CHUYỆN ‘VẠ BÚT’ (Bùi Văn Bồng).  - Minh Diện: BỐN QUẢ ‘PHẢN PHÁO’ ! (Bùi Văn Bồng).
Chuyện trống đồng khắc hình chim hạc (Nước đến chân). - Tiếng trống đồng Đông Sơn ở Indonesia (BBC). 
‘Chưa ai bằng được Lưu Quang Vũ’ (BBC).
Nhà văn hóa cấp xã: Nhân lực yếu khó duy trì hoạt động (ĐBND).
- Nhật Tuấn: Cảm xúc trong thơ Đinh Thị Như Thúy (BBC). – Thơ đã ngắn lại còn để…lửng (Trần Nhương).  - Thơ: Tĩnh lặng (II) (Da màu).
Sự đa dạng trong truyện ngắn Nguyễn Hiếu  (Trần Nhương). - ALBERT SCHWEITZER: BA TRUYỆN NGẮN (Sơn Trung). - Khoảnh khắc … (Anh Vũ).
Nghĩ về chữ hiếu (I) (DCVOnline).
Đong đưa cùng Nhạc Muồi (phần 1) (DLB).
Cô gái khuyết tật Việt Nam gặp sứ giả hòa bình LHQ Stevie Wonder (VOA).
Thách thức của phim kinh dị (NLĐ).
hátGiọng hát Việt nhí đang thành “mồi ngon” cho dư luận (TT). =>
Những nữ điệp viên xinh đẹp nổi tiếng trong lịch sử (Kênh 14).
Paris Tuần lễ Thời trang 2013 (RFI).

GIÁO DỤC-KHOA HỌC
Băn khoăn đổi mới giáo dục (NLĐ).  - Nhiều ngành học sẽ không được hỗ trợ từ ngân sách nhà nước (DT).   - Năm 2016: Dự kiến học sinh được lựa chọn môn học (QĐND).
Bất cập từ trường học có yếu tố nước ngoài (GD&TĐ).  - Không thể mang tư duy kinh doanh vào trường học.
Còn hơn 5.000 bộ bàn ghế… nằm học (NLĐ).
Hỗ trợ học phí cho hơn tám nghìn học sinh khó khăn (ND).
Gặp PGS trúng tuyển hiệu trưởng ĐH Hải Phòng (KT).
Tỉ lệ nói dối gia tăng theo cấp học (TT).
Hà Nội: Bồi dưỡng kiến thức về hội nhập quốc tế cho cán bộ quản lý và giáo viên (GD&TĐ).
Nhức nhối tình trạng học sinh phạm tội (ANTV/CAND).  - Nữ sinh lớp 8 lập băng nhóm trấn lột tiền bạn học (NLĐ).
Mang vệ sĩ đến tranh quyền quản lý trường mầm non (VOV).

công nghệ
XÃ HỘI-MÔI TRƯỜNG
Cho tiêm vắc xin Quinvaxem trở lại, đã lường trước các sự cố (LĐ).  - Phập phồng tiêm Quinvaxem! (NLĐ).  - An ninh bệnh viện: Quá nhiều nỗi lo.  - 3 người bị bắt trong vụ dọa ‘xử’ bác sĩ giữa Sài Gòn (VNE). - 40 cảnh sát trấn áp nhóm đòi ‘xử’ bác sĩ giữa Sài Gòn (VNE).

Lực lượng quân đội nỗ lực tìm kiếm các nạn nhân mất tích trên biển (QĐND).  - Vụ tàu cá mất tích: Trên tàu có nhiều vết máu (KP).
Phản ứng dữ dội vì… ‘được’ thoát nghèo (TP).  - Không muốn thoát nghèo? (NLĐ).
Chưa thể công nhận kết hôn đồng tính (PNTP).
- BẤY NHIÊU TÌNH, DÀNH CHO BIÊN CƯƠNG (Mai Thanh Hải). - CLB tình nguyện Tuyên Quang – Có một sự buồn nhẹ (FB Chấn Hưng).
- Lê Trung Tuấn – Bài 3 + 4: “Thông điệp từ thế giới vô hình” của người chăn đàn vịt đông nhất Việt Nam (Đỗ Doãn Hoàng).
Sắm vàng ‘kiểu’ người Việt ở Little Saigon (Người Việt).
Phát hiện 16 người Trung Quốc dùng công nghệ cao lừa đảo (TT).
Dọn “rác trời” ở Hà Nội: Đầu đã xuôi, chờ đuôi sẽ lọt (TTXVN).
Mỗi ngày Việt Nam phát hiện 29 người nhiễm HIV (KP).
- Lấn chiếm sông rạch ở TP HCM: Biết sai vẫn làm ngơ! (NLĐ).
ILO: Số lao động trẻ em nhiều nhất là ở Châu Á (VOA).
Động đất mạnh làm rung chuyển tây nam Pakistan (VOA).  – Pakistan: Động đất mạnh 7,7 độ richter, ít nhất 46 người thiệt mạng (Kênh 14).
Gia tăng cách biệt về tuổi thọ phụ nữ giữa nước giàu và nghèo (RFA).

QUỐC TẾ 
Syria : Nga chấp nhận có thể nêu việc dùng vũ lực trong nghị quyết của HĐBA (RFI).  - Syria, trọng tâm khóa họp Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc. - Khủng hoảng Syria, Iran: Chủ đề chính tại kỳ họp Ðại hội đồng LHQ (VOA).  - Tổng thống Obama kêu gọi Iran hành động cụ thể về vấn đề hạt nhân.  - Tổng thống Iran sẽ phát biểu ‘ôn hòa hơn’ tại LHQ.   - Mỹ – Iran có “đột phá ngoại giao” (NLĐ).  - LHQ có thể dừng hoạt động hỗ trợ cho Palestine (VOV).  - LHQ yêu cầu cường quốc chấm dứt cung cấp vũ khí cho Syria (VNE).   - Nga sẽ không chấp nhận nghị quyết trừng phạt Syria (VOV).  - Nga cáo buộc Mỹ thúc đẩy nghị quyết phi lý về Syria (TTXVN).  - Các tổ chức cứu trợ kêu gọi tăng ngân khoản cho người tị nạn Syria (VOA).
Giải cứu thương xá Kenya sắp kết thúc (BBC).  - Al-Shabab hoạt động ra sao?  - Al-Shabab: Nhiều con tin vẫn bị cầm giữ trong thương xá ở Kenya (VOA).   - Kenya chưa giải quyết xong vụ bắt con tin tại Westgate (RFI). - Phiến quân cảnh báo sẽ còn tấn công Kenya (Tin tức).
Ai Cập cấm tổ chức Huynh Đệ Hồi Giáo hoạt động (RFI). - Ai Cập: Cựu Tổng thống Mubarak có thể sẽ trắng án (TTXVN).
Hồ sơ Bettencourt : Cựu Tổng thống Sarkozy vẫn bị truy tố (RFI).
Trung Quốc bác tin đánh cắp công nghệ máy bay Mỹ (TTXVN).

* RFA: Audio:  + Sáng 24-9-2013; + Tối 24-9-2013Video: + Bản tin video sáng 24-09-2013Bản tin video tối 24-09-2013.  + Diễn đàn của chúng ta #3 .
* RFI:  24-9-2013
* VTV: + Chào buổi sáng – 24/09/2013;  + Cuộc sống thường ngày – 24/09/2013;  + Khoảnh khắc thường ngày – 24/09/2013;  + 360 độ Thể thao – 24/09/2013;  + Tài chính tiêu dùng – 24/09/2013;  + Tài chính kinh doanh sáng – 24/09/2013;  + Tài chính kinh doanh trưa – 24/09/2013;  + Thời sự 12h – 24/09/2013;  + Thời sự 19h – 24/09/2013.

Góp ý về “bộ bản đồ các mốc giới Việt-Trung”

Mai Thái Lĩnh

Bộ bản đồ mốc giới do hai ông Dương Danh Huy và Phan Văn Song thực hiện vừa được giới thiệu trên hai trang Bauxite VietnamDân Luậncách đây khoảng một tuần đã gây ra một cuộc tranh luận khá gay gắt giữa nhà nghiên cứu Trương Nhân Tuấn với các nhà nghiên cứu thuộc Quỹ Nghiên cứu Biển Đông.
Trong bài viết này, tôi không góp ý về khía cạnh kỹ thuật – một vấn đề thuộc lĩnh vực chuyên môn, xin để dành riêng cho các chuyên gia trong lĩnh vực bản đồ học và trắc địa học góp ý và thảo luận. Tôi chỉ xin mạn phép đóng góp một số ý kiến xung quanh một phương diện khác có liên quan đến bộ bản đồ này, đó là: mục đích và ý nghĩa của việc thiết lập bộ bản đồ mốc giới trong hoàn cảnh hiện nay.
1)Tại sao phải xây dựng bộ bản đồ mốc giới?
Theo tôi, việc xây dựng bộ bản đồ mốc giới có lẽ sẽ không cần thiết nếu Chính phủ Việt Nam công bố toàn bộ các bản đồ chi tiết của vùng biên giới Việt-Trung liên quan đến hiệp định biên giới 1999 – hoặc ít nhất là bản đồ của các khu vực tranh chấp đã gây ra nhiều hoài nghi, thắc mắc trong dư luận.
Trong bài “VN có nhượng bộ TQ về biên giới không?” đăng tải trên BBC tiếng Việt ngày 16-9-2013, nhà nghiên cứu Dương Danh Huy (thuộc Quỹ Nghiên cứu Biển Đông) đã phát biểu: “Nhưng cho tới nay, mặc dù tọa độ của các cột mốc đã được công bố, vẫn chưa có thông tin đầy đủ và minh bạch về cuộc đàm phán dẫn đến chúng.”
Thật ra, không chỉ công bố tọa độ của các cột mốc, Chính phủ cũng đã công bố bộ bản đồ của đường biên giới Việt-Trung trên Công báo số 642-649 ngày 16-11-2010[1]:
http://congbao.chinhphu.vn/noi-dung-van-ban-so-36_2010_SL-LPQT-(5924)?cbid=8248
Điều đáng nói là bộ bản đồ này có kích cỡ hết sức “khiêm tốn”:chỉ có  46,5 MB cho 35 tờ bản đồ(nghĩa là trung bình mỗi tờ bản đồ chỉ có kích thước trung bình 1,3 MB), trong khi các bản đồ 1:50.000 của Quân đội Hoa Kỳ hoặc của Quân đội Nhân dân Việt Nam mà tôi và bạn bè tìm thấy được trên trang mạng của một số trường đại học tại Hoa Kỳ có kích cỡ trung bình từ 6 đến 15 MB cho mỗi tờ bản đồ. Hậu quả là các nhà nghiên cứu dù có trong tay các bản đồ biên giới Việt-Trung cũng không thể đối chiếu, so sánh với các bản đồ cũ sưu tập được để có thể khẳng định chắc chắn Việt Nam mất bao nhiêu đất. Lý do đơn  giản là khi phóng to lên thì các chi tiết hết sức mờ mịt. Vd: đường biên giới xung quanh khu vực Hữu Nghị Quan với chi chít những cột mốc mới, khi phóng to lên thì ngay cả con số của cột mốc cũng không thể nhìn rõ chứ chưa nói đến vị trí của từng cột mốc.
Có lẽ vì lý do đó mà hai ông Dương Danh Huy và Phan Văn Song phải bỏ công sức để thiết lập bộ bản đồ các mốc giới biên giới Việt-Trung – dựa trên các dữ liệu đã được công bố trong các số Công báo của Chính phủ.
Tuy nhiên, giả định rằng bộ bản đồ cột mốc biên giới đó đạt được tiêu chuẩn về kỹ thuật mà các bộ môn bản đồ học (cartography), trắc địa học (geodesy) đòi hỏi, thì vấn đề đặt ra là : làm thế nào để bộ bản đồ đó giúp cho người dân Việt (dù ở trong nước hay đang mang quốc tịch nước ngoài nhưng tấm lòng vẫn nặng tình quê hương) giải đáp được câu hỏi: “Việt Nam được hay mất khi ký hiệp định biên giới trên bộ 1999 với nhà cầm quyền Trung Quốc”?
Ở đây, tôi xin lưu ý một điều quan trọng – mà tôi thường nhấn mạnh trong các bài viết của tôi về Ải Nam Quan và Thác Bản Giốc: khi nói đến khái niệm được-mất, chúng ta không nên quá chú ý đến các con số (diện tích, chiều dài, v.v.) mà quên đi ý nghĩa thật sự của từng mảnh đất biên cương. Ví dụ: nếu ta được thêm một số đất đai ở trên cao nhưng lại không có đường thông thương đến đó, cũng không thể đóng quân trên đó để giám sát đường biên giới thì cái phần “được” coi như không có lợi ích gì; ngược lại nếu ta chỉ mất một chút ít ở một vùng xung yếu nào đó mà khi xảy ra chiến tranh, “nước bạn” có thể dùng cao điểm đó để khống chế ta, thì phần “mất” ấy là cực kỳ to lớn. Đó là chưa kể đến tài nguyên nằm dưới lòng đất hoặc ý nghĩa đối với lịch sử dân tộc của các địa điểm bị mất về tay ngoại bang.
Nhưng nếu muốn đạt được mục đích nêu trên thì bản đồ mốc giới phải được so sánh với các bản đồ mà chúng ta nắm chắc được dữ liệu, chứ không nên so sánh với bản đồ của CIA – mà chính các tác giả cũng không biết được xây dựng dựa trên cơ sở nào. Xin trích lại nguyên văn lời của ông Dương Danh Huy: “Xin lưu ý rằng chúng ta không biết CIA World DataBank II đã dùng cơ sở nào để vẽ biên giới Việt-Trung (trước hiệp định 1999), và mức độ đáng tin cậy của nó là bao nhiêu.”
Tôi thật tình không hiểu: nếu đã không biết CIA dựa trên cơ sở nào để vẽ biên giới Việt-Trung thì so sánh làm gì để gây ra ngộ nhận? Tôi xin ghi lại ý kiến của một độc giảđã phản hồi trên tờ Dân Luận:
“Công Nhân-Khách (khách viếng thăm) gửi lúc 06:29, 17/09/2013 – mã số 97659
Cảm ơn Dương Danh Huy và Phan Văn Song vì những thông tin khách quan và bổ ích.Tuy nhiên có vẻ như là các cột mốc biên giới mới của Việt Nam lấn sang đất Trung Quốc nhiều hơn so với bản đồ của CIA. Nhưng đây chỉ là cảm nhận bằng mắt thường nên sợ không chính xác lắm. Nếu các tác giả sử dụng các phần mềm mà chỉ ra được cụ thể hơn số diện tích mà Việt Nam được/mất so với bản đồ của CIA thì tốt quá.Ngoài ra, không biết liệu hai tác giả có thể làm cách nào so sánh cả biên giới từ Hiệp Ước Pháp-Thanh với biên giới của CIA và biên giới từ Hiệp Đinh Biên Giới Việt-Trung được không?Một lần nữa cảm ơn Dương Danh Huy và Phan Văn Song vì những thông tin khách quan và bổ ích.
Ý kiến phản hồi vừa trích cho thấy công trình của hai nhà nghiên cứu Dương Danh Huy và Phan Văn Song dễ gieo cho người xem cái “cảm nhận” rằng Việt Nam “lấn sang đất của Trung Quốc” (!). Đưa ra cách so sánh dễ gây ra ngộ nhận, để rồi sau đó lại phải đính chính; theo tôi đó chính là sơ suất của ông Dương Danh Huy. Đó cũng chính là nguồn gốc của sự phản ứng tự nhiên (tuy hơi thái quá) của ông Trương Nhân Tuấn.
Về phần ông Trương Nhân Tuấn, nếu ông phản biện với giọng văn từ tốn, ôn hòa hơn và tránh đừng gộp chung hai trang Bauxite VietnamDân Luận vào danh sách của “đàn cừu” hoặc các “dư luận viên” thì có lẽ chúng ta đã tránh được một cuộc tranh cãi gay gắt giữa lúc tất cả những người yêu nước thuộc mọi xu hướng chính trị đang cần phải tập trung vào cùng một mục tiêu : bảo vệ chủ quyền quốc gia dựa trên lợi ích chung của toàn dân tộc.
Cho dù sự đánh giá lúc đầu của BBT tờ Bauxite Vietnam là không chính xác thì việc ám chỉ Ban biên tập của hai trang mạng nói trên bằng các khái niệm “đàn cừu” hay “dư luận viên” hoặc việc gộp chung nhóm Bauxite Vietnam với nhóm Quỹ Nghiên cứu Biển Đông (mà tác giả Trương Nhân Tuấn gọi một cách mỉa mai là “các học giả Bô Xít” và “các học giả Quĩ nghiên cứu Biển Đông”) chẳng những xúc phạm đến các trí thức trong nước đang đấu tranh cho công cuộc dân chủ hóa đời sống chính trị của đất nước mà còn có nguy cơ tạo điều kiện cho hệ thống các “dư luận viên” lợi dụng. Những người thường xuyên theo dõi mạng Internet không thể không biết hiện nay các thế lực “đen” đang lập một loạt các trang mạng nặc danh mà một trong mục tiêu công kích hàng đầu của họ là GS Nguyễn Huệ Chi và những người sáng lập trang mạng Bauxite Vietnam. Hơn thế nữa, hai trang mạng nói trên là hai trang đang thường xuyên đăng bài viết của tôi và một số nhà nghiên cứu khác về vấn đề biên giới Việt-Trung, không lẽ hai trang đó lại tiếp tay để “định hướng dư luận” theo hướng có lợi cho những người thực hiện chính sách bành trướng lãnh thổ của Trung Quốc?
Nói thế không có nghĩa là tôi luôn bênh vực cho trang Bauxite Vietnam bằng bất cứ giá nào, bất chấp mọi nguyên tắc, bất chấp sự thật và phương pháp tư duy khoa học. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh rằng trong khoa học, chúng ta có thể phê bình thẳng thắn, không kiêng dè, húy kỵ bất cứ một “thần tượng”, một “giáo điều” nào cả, nhưng rất cần phải tôn trọng lẫn nhau và phải bảo vệ lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống lại một trong những bộ máy chuyên chính (dictatorial) khắc nghiệt và nhiều thủ đoạn nhất trên thế giới.
2) Làm thế nào để bộ bản đồ các mốc giới trở nên có ích?
Để bộ bản đồ các mốc giới đạt được yêu cầu mà người dân mong đợi, trước hết nó phải đạt được yêu cầu về mặt kỹ thuật. Nói cách khác, những người có kiến thức chuyên môn thay vì cãi vã để khoe kiến thức hay để đả kích lẫn nhau, nên cùng nhau hợp tác để làm nên một bộ bản đồ mốc giới khả dĩ có thể chấp nhận được trong hoàn cảnh hiện nay.
Mặt khác, trong khi chờ đợi Đảng cộng sản Việt Nam công khai hóa các tài liệu về biên giới – một khả năng mà hầu hết những trí thức có tư duy độc lập đều ngầm hiểu rằng “rất khó xảy ra dưới một chế độ độc tài toàn trị”, chúng ta nên tìm cách so sánh nó với các bộ bản đồ cũ xuất bảntrước năm 1975.Hiện nay, tại Vietnam Center and Archive trên trang mạng của Đại học Kỹ thuật Texas (Texas Tech University) có một bộ bản đồ 1:50.000 của toàn miền Bắc phát hành vào giữa  thập niên 1960 tại địa chỉ:
http://www.vietnam.ttu.edu/resources/maps/[2]
 
Có lẽ các nhà nghiên cứu trong Quỹ Nghiên cứu Biển Đông nên tham khảo bộ bản đồ này để so sánh với bộ bản đồ mốc giới mới thì hợp lý hơn là tham khảo CIA World DataBank II, vì dữ liệu của CIA không biết dựa trên cơ sở nào.
Tất nhiên, vì bộ bản đồ mà tôi giới thiệusử dụng hệ thống tọa độ UTM (Universal Transverse Mercator coordinate system)chứ không phải hệ thống WGS84 (World Geodetic System 1984)cho nên phải chuyển đổi (convert) dữ liệu để có thể so sánh một cách phù hợp.
Bộ bản đồ của Vietnam Center and Archive có lẽ do các cựu chiến binh Hoa Kỳ đã từng tham chiến ở Việt Nam sưu tập. Nó gồm cả các bản đồ do Cục bản đồ của Quân đội Hoa Kỳ (Army Map Service, AMS) phát hành giữa thập niên 1960 lẫn các bản đồ mà Quân đội Nhân dân Việt Nam in lại sau năm 1975. Tất cả đều có nguồn gốc từ các bản đồ của Sở Địa Dư Đông Dương (Service géographique de l’Indochine, SGI), nhưng đã được nâng cấp nhờ các phương tiện kỹ thuật hiện đại của Hoa Kỳ (vd: kỹ thuật chụp không ảnh). Trước đây, tất cả các bản đồ này đều được lưu trữ tại Nha Địa Dư Quốc gia tại Đà Lạt nhưng vào khoảng thập niên 1990 đã được chuyển hết ra miền Bắc, Nha Địa Dư tại Đà Lạt chỉ còn là một Xí nghiệp In Bản đồ của Quân đội.
Ngoài bộ bản đồ nói trên, còn có nhiều bộ bản đồ khác được lưu trữ tại các thư viện khác ở Hoa Kỳ. Vd: Thư viện Perry-Castañeda của Đại học Texas tại Austin (The University of Texas at Austin); tại đây, chúng ta có thể tìm thấy một số bản đồ của Quân đội Hoa Kỳ liên quan đến vùng biên giới Việt-Trung.
So sánh bản đồ mốc giới mới với các bản đồ cũ của Nha Địa dư Quốc gia tại Đà Lạt, chúng ta mới có hy vọng tìm hiểu những mất mát của đất nước ta khi ký hiệp định 1999. Và hiểu rõ được những mất mát đó, chúng ta mới có thể sửa chữa những lỗi lầm đã xảy ra trong quá khứ để hướng đến việc bảo vệ chủ quyền tại Biển Đông.
Bỏ quên những bài học của quá khứ, không rút kinh nghiệm từ sự thất bại của Hiệp định Biên giới 1999, nhất định chúng ta sẽ tiếp tục thất bại tại Biển Đông. Đó là chính là bài học đau thương mà cả dân tộc chúng ta phải ghi nhớ nếu không muốn lặp lại những “hội nghị Thành-Đô” của thế kỷ 21 hay những mất mát, đau thương tương tự như việc mất quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974, mất bãi đá Gạc Ma (Johnson South Reef) tại Trường Sa vào năm 1988, v.v…
Đà Lạt ngày 24-9-2013
M.T.L.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN
 


[1] Theo Facebook Tin Không Lề thì bộ bản đồ nàymặc dù là Công báo đề ngày 16-11-2010, trong thực tế chỉ mới xuất hiện trên mạng vào lúc 23h26’52″ GMT, ngày 10/08/2013, tức là cách nay đúng 1 tháng 2 tuần.

[2] Để tải xuống, click vào Accessing the Map Collection-  Map Search Page, chọn Navigate the Country -North Vietnam.


SUY NGẪM VỀ THỜI CUỘC - Phần 5

* NGUYỄN TRUNG 
(tiếp theo)
... + Vấn đề (2) – vấn đề quân sự
Trong thời bình, không có yêu cầu tiến hành một cuộc chiến tranh nào, nhưng lại bị thôi thúc bởi đòi hỏi chớp lấy cơ  hội chấm dứt thời kỳ giấu mình chờ thời để mau chóng vươn lên siêu cường, tận dụng xu thế siêu cường Mỹ ngày càng yếu đi và sa lầy vào nhiều vấn đề lớn, tận dụng khoảng thời gian các cường quốc khác còn đang bận rộn với khủng hoảng kinh tế trầm trọng mang tính cơ cấu chưa có lối ra.., Trung Quốc từ hai thập kỷ nay ráo riết tăng cường tiềm lực  quân sự của mình - song song với bành trướng quyền lực kinh tế và quyền lực mềm ở phạm vi toàn cầu.
Ngân sách quốc phòng của Trung Quốc năm 2000 là 30 tỷ USD, năm 2010 vọt lên 120 tỷ USD, năm 2012 là 160 tỷ USD (nghĩa là liên tục hàng thập kỷ tăng trưởng 2 con số/năm) – đấy là theo số liệu được chính phủ công bố, người ta cho rằng con số thực còn cao hơn. Quân số của Giải phóng quân Nhân dân (PLA) hiện nay là 2,3 triệu, đông nhất thế giới. PLA được hiện đại hóa rất nhanh; trang bị vũ khí, khí tài chỉ đứng sau Mỹ và Nga. Tuy nhiên giới nghiên cứu hầu như có nhận xét thống nhất: Thời điểm Trung Quốc có thể thách thức Mỹ và Nga về quân sự còn xa, (có người cho rằng khoảng cách này giữa Trung Quốc và Mỹ là 20 – 30 năm).
                        > Phần 1  Phần 2 ;  Phần 3  ;  Phần 4 
Hiện nay hầu như chưa có khả năng Trung Quốc có thể thách thức trực tiếp Mỹ hay Nga bằng quân sự ở bất kỳ nơi nào. Đụng độ tranh chấp biên giới Trung - Ấn vẫn là nguy cơ thường trực, song ngày nay tiềm lực quốc phòng của Ấn-độ và tương quan lực lượng so sánh khác trước rất nhiều so với thời kỳ xảy ra chiến tranh biên giới năm 1962, hơn nữa thế giới ngày nay đã thay đổi. Tranh chấp Trung – Nhật tại Hoa Đông và đảo Senkaku / Điếu ngư dù căng thẳng thế nào, có lẽ vẫn rất ít khả năng nổ ra chiến tranh hay đụng độ quân sự trực tiếp Trung – Nhật/Mỹ; bởi vì không thể đánh giá thấp sức đề kháng của Nhật với sự hậu thuẫn trực tiếp của Mỹ.
Trong khi đó áp lực quân sự của Trung Quốc đang nhằm vào hướng chính là các nước láng giềng Đông Nam Á.   
So sánh những gì đã xảy ra ở 2 vùng Hoa Đông và Scarborough / Hoàng Nham, kết hợp với đánh giá so sánh lực lượng tổng thể toàn khu vực Biển Đông, không loại trừ tình huống:  Trung Quốc tuy gây áp lực quyết liệt với Nhật ở Hoa Đông để uy hiếp, song có thể đòn tấn công chính, hay là từng đòn tấn công chính của Trung Quốc trước hết vẫn là dành cho phía Nam. Tuy nhiên, Trung Quốc có dám đánh lớn trên Biển Đông hay không, điều này còn tùy thuộc vào thái độ ứng xử của từng nước hoặc cả nhóm ASEAN. “Mềm nắn, rắn buông”, đấy thường là tâm lý phổ biến của mọi kẻ xâm lược. Mối nguy tiềm ẩn khó khắc phục hơn của ASEAN là sự nhất trí rất có giới hạn của nhóm nước này trong đối phó với Trung Quốc[38].
Hiện nay, đánh giá tình hình so sánh lực lượng tại chỗ trên Biển Đông, đánh giá những phản ứng dây chuyền có thể xảy ra ở từng nước bị tiến công, phản ứng dây chuyền có thể xảy ra ở trong và ở ngoài khu vực, thậm chí trên toàn thế giới…  một khi Trung Quốc tiến hành đánh lớn trên Biển Đông, có thể phán đoán: quyết định đánh lớn như vậy đối với Trung Quốc có lẽ cũng không dễ dàng gì, chưa hẳn là cần thiết, trong khi đó Trung Quốc có những thủ đoạn khác rẻ hơn, hữu hiệu hơn.
Bởi vì: Xem xét toàn cục, trận đánh lớn có thể thắng, nhưng làm chủ được những hệ quả tiếp theo thì không hẳn; bản thân Trung Quốc đã có nhiều kinh nghiệm này[39]. Bối cảnh Đông Nam Á - Biển Đông trong cục diện quốc tế hiện nay cho thấy đánh lớn rất ít khả năng giải quyết gọn những vấn đề có liên quan. Vì thế nhìn tổng thể, chung cuộc đánh lớn có thể mang về bại nhiều hơn thắng. Cho đến nay lực của Trung Quốc hoàn toàn cho phép đánh lớn trên Biển Đông (nhằm vào các nước láng giềng), song điều này chưa xảy ra, có lẽ chỉ vì những lý do như vậy.
Trong khi đó Trung Quốc đang có chiến thuật gặm nhấm rất hiệu quả, có cơ hội lại ào lên cắn trộm (1988, 1995…), rồi lại gặm nhấm tiếp. Mấy thập kỷ nay chiến thuật này giành kết quả tốt, rủi ro ít, đỡ ồn ào, vẫn đạt mục tiêu và uy hiếp được đối phương... Càng tác động được quyền lực mềm vào từng nước ASEAN, càng phân hóa được nhóm ASEAN theo thủ đoạn bẻ từng que đũa của bó đũa (chỉ chấp nhận đàm phán song phương), càng chia rẽ được ASEAN với thế giới bên ngoài, hiệu quả của chiến thuật gặm nhấm càng cao. Có lẽ chiến thuật này – cùng với tác động của những thủ đoạn chính trị lung lạc đi kèm, tiếp đến là các thủ đoạn “xâm lăng không vũ khí” bằng các đợt  cho hàng trăm tầu cá lấn biển,  kết hợp với các biện pháp kinh tế khác, kết hợp với tác động của thời gian (gây mất ổn định và kìm hãm sự phát triển của các nước ASEAN…)… Đấy mới là những đòn nguy hiểm hơn cả cho các nước ASEAN – trước hết là cho Việt Nam và Philippines.
Thực tế đã diễn ra là: Ngoài việc lập thành phố Tam Sa và đặt căn cứ cho quân đồn trú thường trực ở Hoàng Sa, đến nay Trung Quốc đã xây dựng xong những công trình cố định mới trên các đảo, các bãi ngầm và các rặng san hô ở Trường Sa do Trung Quốc  đánh chiếm trong các đợt 1988 (gồm 7 đảo và bãi), đợt 1995 (gồm Đá Vành Khăn và một số bãi). Tại những điểm này Trung Quốc đã xây xong các căn cứ đóng quân cố định, căn cứ nổi, ụ pháo, đài quan sát, vạch ra tuyến đường tuần tra cho hạm đội hải giám (tổng cộng 11 đội tầu với 16.000 quân)… để hoạt động thường xuyên, qua đó nhằm khẳng định trên thực tế chủ quyền “đường lưỡi bò”… Không thể nói khác: Một cuộc xâm lược âm ỷ, bền bỉ năm này qua năm khác, vũ trang xen kết phi vũ trang, để gặm nhấm tiếp, để leo thang tiếp, hình thành dần dần một hành lang án ngữ trực tiếp trên biển đối với Việt Nam và Philippines, tiến tới khống chế toàn vùng... Chiến thuật này đang rất hữu dụng, chưa có các yếu tố nào mới khiến Trung Quốc phải thay đổi. Trong khi đó phản ứng đơn phương hay đa phương của các nước nạn nhân ở mức như hiện nay không thể chặn đứng hay đẩy lùi được chiến thuật gặm nhấm này. Để lâu e rằng sẽ là chuyện đã rồi!
Nhưng trong trường hợp nhất định, ví dụ một biến cố lớn bất thường xẩy ra ở bất kỳ đâu trên thế giới, kể cả trong lòng Trung Quốc, hay là ở một nước là đối tượng xử lý (ví dụ quốc gia này lâm vào tình trạng khủng hoảng bất thường),.. khả năng Trung Quốc đánh lớn trên Biển Đông là không thể không tính đến. Cuộc chiến tranh 30 ngày năm 1979 của Trung Quốc chống Việt Nam là một ví dụ thuyết phục.[40]
Hiển nhiên, thế giới ngày nay không hiếm những biến cố lớn bất thường rất quyến rũ. Hiện tại có thể liệt kê ra cả một danh sách dài:
- giả định Mỹ tuột tay trong dàn xếp những mâu thuẫn Israel – Palestin;
- mâu thuẫn Israel – Iran bùng nổ;
- nguy cơ vấn đề sản xuất vũ khí A của Iran hay Bắc Triều Tiên vượt ra ngoài mọi khả năng kiểm soát của thế giới;  
- Al-Qeada có thể bất ngờ tổ chức tấn công lớn vào Mỹ hoặc các nước phương Tây, khiến cho sự quan tâm của Mỹ bị phân tán;  
- nguy cơ đồng Euro sụp đổ;
- một tính toán sai lầm nào đó của Trung Quốc hay của bất kỳ ai (ví dụ những động thái rất nguy hiểm trong năm nay của  Bắc Triều Tiên…);
- những yếu kém của đối tượng được dự định tấn công;
- vụ sử dụng vũ khí hóa học ở Syri có thể mở ra một bước ngoặt bi thảm;
-  vân vân…
Có thể kết luận: So với Mỹ và đồng minh phương Tây, lực lượng tiến hành chiến tranh của Trung Quốc không mạnh bằng, hay chưa mạnh như các phát ngôn của giới diều hâu trong hàng ngũ tướng lĩnh Trung Quốc phô trương. Tuy nhiên, lực lượng tiến hành chiến tranh của Trung Quốc mạnh áp đảo so với các nước láng giềng phía Đông và Đông Nam Á, đã có những hoạt động đủ nguy hiểm, đến mức Mỹ phải nhiều lần chính thức cảnh báo: Trung Quốc đang đẩy Biển Đông đi vào chiến tranh.
Muốn hay không, các nước láng giềng của Trung Quốc đang rơi vào một cuộc chạy đua với thời gian: Hoặc là kịp tạo ra sức mạnh vượt lên những thách thưc mới đặt ra từ phía Trung Quốc, hoặc bị những thách thức mới của Trung Quốc vượt qua.
Tóm lại, về nhiều phương diện như đã trình bầy trên, bao gồm cả những hạn chế ban đầu không thể tránh khỏi, siêu cường đang lên Trung Quốc buộc phải lựa chọn Đông Nam Á là địa bàn chính cho việc bành trướng quyền lực. Mỹ nhất thiết phải tiến hành chiến lược “pivot to Asia & Pacific” và TPP để kiểm soát tình hình. Thực tế này sẽ tạo ra những nhân tố căng thẳng mới trong khu vực. Không phải ngẫu nhiên Mỹ coi Đông Nam Á là trọng tâm trong những nỗ lực chuyển hướng mới của mình.
Gần đây nhất, nghĩa là chỉ ít lâu sau vòng đối thoại kinh tế & chiến lược lần thứ 5 (Obama – Tập Cẩm Bình ngày 7 và 8-06-2013), tổng thống Obama ngày 11-07-2013 đã lên tiếng phê phán những hoạt đông nguy hiểm của Trung Quốc ở Biển Đông và Hoa Đông, đòi Trung Quốc phải giải quyết những tranh chấp bằng thương lượng hòa bình và tuân thủ luật pháp quốc tế. Tiếp đến là Thượng viện Mỹ ngày 03-08-2013 thông qua nghị quyết 167 lên án Trung Quốc cùng nội dung, thúc giục Trung Quốc phải sớm tham gia COC[41].
Trung Quốc phản pháo lại rất gay gắt: “Trung Quốc không bao giờ từ bỏ các quyền và lợi ích chính đáng của mình trên biển, không bao giờ hy sinh lợi ích quốc gia cốt lõi của mình… Trung Quốc sẵn sàng đối phó với mọi diễn biến phức tạp, tăng cường khả năng bảo vệ các  quyền và lợi ích của mình trên biển, kiên quyết bảo vệ các quyền và lợi ích của mình trên biển…’’ Tập Cẩm Bình nhấn mạnh như thế với hàm ý muốn làm cho mọi người hiểu: chỉ có “thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc, gác tranh chấp, cùng khai thác” là lối ra… (Reuters 31-07-2013).  Phát biểu của Tập Cẩm Bình 31-07-2013 là nhiệt kế đo điểm nóng nguy hiểm trên Biển Đông.
Xin đặc biệt lưu ý: Mỹ chuyển hướng chiến lược vào CA-TBD / ĐNA là nhân tố kiềm chế quan trọng tham vọng bá quyền Biển Đông của Trung Quốc. Tuy nhiên, Mỹ kiên định sự chuyển hướng này đến đâu, còn phụ thuộc không ít vào ý chí và sự hợp tác giữa các nước ASEAN với nhau, vào ý chí của nhóm nước này dấn thân cho hòa bình, cho bảo vệ chủ quyền và các quyền lợi chính đáng của mình trên Biển Đông. Không có bất cứ cái gì “free lunch” cho các quốc gia Đông Nam Á trong toàn bộ câu chuyện Biển Đông. Không phải không có lý do, ngay từ đầu Mỹ tuyên bố đòi phải bảo đảm lưu thông tự do trên Biển Đông, mọi tranh chấp phải giải quyết bằng thương lượng trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhưng nói rõ Mỹ không can thiệp vào tranh chấp biển – đảo.

VI - Siêu cường Trung Quốc không thể lãnh đạo thế giới
Vào khoảng giữa thế kỷ này hoặc sớm hơn chút ít Trung Quốc có thể trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới, điều này là hiện thực. Nhưng cũng trong khoảng thời gian dự đoán được như thế hoặc xa hơn chút nữa, hầu như chắc chắn không thể có một siêu cường Trung Quốc lãnh đạo thế giới hay sắm vai trò số 1 như Mỹ đang làm.
Sau đây là một số lập luận chính cho nhận định nói trên.
Một là: Trước hết lịch sử thế giới chưa từng có một siêu cường nào đủ quyền lực lãnh đạo cả thế giới. Trong lịch sử thế giới cận đại và trong nấc thang phát triển của thế giới hiện tại lại càng không! Thế giới dù phải sống trong một trật tự chung nào đấy của quá trình toàn cầu hóa, song vẫn là phân ra thành các mảng lớn khác nhau. (Cũng có thể nói theo cách khác: Thế giới ngày nay quá trưởng thành để chấp nhận một sự lãnh đạo nào đó của một ai, dù đấy là siêu cường Mỹ).
Lịch sử thế giới không thiếu những khát vọng điên cuồng muốn làm như thế, nhưng đều thất bại. Thời chúng ta đang sống, có thể tổng thống Bush ít nhiều đã  mơ ước cái gì đó to tát na ná như điều này - vì những lý do dễ hiểu đã xuất hiện trong thời kỳ hậu chiến tranh lạnh và sau sự kiện 11-09-2001. Song phải chăng chính mơ ước này đã dẫn tổng thống Bush đến chiến tranh Iraq (2003 – 2010) và chung cuộc chịu thất bại trong chiến tranh này?
Cho đến nay, nhất là trong nấc thang văn minh của thời đại ngày nay, chỉ có  tư tưởng nhân văn cùng với các giá trị nổi bật của nó mới có thể có tác động nhất định vào quá trình hình thành xu thế phát triển, hay là trở thành tinh thần hướng dẫn, hấp dẫn xu thế phát triển của thế giới – được gọi dưới cái tên chung là các giá trị toàn cầu.  Ở nấc thang phát triển của thế giới hôm nay, chính xu thế này vừa ngày càng trở thành nguồn gốc sức mạnh, vừa trở thành ngọn cờ tập hợp lực lượng của hầu hết các nước phát triển. (Điều này hoàn toàn khác với tất cả những gì được mô tả trong cái gọi là “xu thế tất yếu của thời đại là tiến lên chủ nghĩa xã hội” và được minh họa bằng sự tồn tại và phát triển của 4 nước XHCN còn sót lại như đang được giảng giải trong các trường đảng ở nước ta, trong một số giáo trình chính trị và trong không ít phát biểu của một số người lãnh đạo).
Đối với một quốc gia cũng như một dân tộc, một con người trong thế giới văn minh ở trình độ phát triển hôm nay, nhận thức đầy đủ sự thật nêu trên như một chân lý và các giá trị toàn cầu là điều vô cùng quan trọng cho việc tự định đoạt số phận và tương lai của chính mình[42].
Hiển nhiên Trung Quốc hôm nay không thể đề ra được bất kỳ tư tưởng, quan niệm hay giá trị nổi bật nào có sức hấp dẫn hay là tác động tích cực vào xu thế phát triển của thế giới. Thậm chí Trung Quốc cũng không đứng trong hàng ngũ các nước đi tiên phong theo đuổi những giá trị toàn cầu ngày nay. Giá trị mà Trung Quốc muốn là chính nước Trung Quốc sẽ định hướng những quan niệm và giá trị của thế giới, chứ không phải ai khác… (“Giấc mơ Trung Quốc” – Lưu Minh Phúc, Đại học Quốc phòng, Bắc Kinh).
Văn hóa Trung Quốc nói chung, nền văn minh Trung Hoa rực rỡ một thời nói riêng, có những đóng góp quý báu vào kho tàng văn minh nhân loại, trong đó có những giá trị phổ cập đóng góp vào những giá trị chung của chân - thiện - mỹ. Ví dụ, những giá trị như nhân – nghĩa – lễ - trí – tín  ngày nay vẫn là những giá trị bền vững trong đạo đức học (ethic). Dĩ nhiên, những giá trị này cũng nằm trong những giá trị nhân bản phổ cập của nhân loại từ ngàn xưa, được văn hóa Trung Quốc – trước hết là Khổng giáo – quan tâm đúc kết, và không tránh khỏi thấm nhuộm màu sắc văn hóa Trung Quốc. Nội hàm của các giá trị bao giờ cũng thường xuyên phát triển trong sự phát triển chung của văn minh nhân loại qua các thời đại.
Song văn hóa đại Trung Hoa với khát vọng lấy lại 5 thế kỷ đánh mất, cùng với mọi chuẩn mực gói ghém trong phạm trù “chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc” đang làm nên cường quốc Trung Quốc hôm nay, hiển nhiên rất khác, rất khó hòa nhập, hoặc thậm chí hàm chứa không ít mâu thuẫn đối kháng với những gì nằm trong các giá trị toàn cầu đang thôi thúc sự phát triển của văn minh nhân loại.
Văn hóa đại Trung Hoa như vậy cùng với những chuẩn mực làm thành nội hàm của chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc có thể đang làm nên “giấc mơ Trung Quốc” hôm nay của không ít người Trung Quốc. Người ta nói ông Tập Cẩm Bình đã từng diễn giải ngắn gọn giấc mơ này như sau: Đó là một Trung Quốc của tầng lớp trung lưu nhỏ và có quân đội mạnh chống lại bất kể kẻ thù nào… (Willy Lam)[43]
Rõ ràng giấc mơ Trung Quốc như thế rất khác với “giấc mơ Mỹ” như Obama  đã nhiều lần đề cập khi tranh cử, và càng khác với những quan niệm và các giá trị toàn cầu đang hướng dẫn hay hấp sự phát triển của văn minh nhân loại ngày nay như đã trình bầy trong các phần trên của bài viết này...
                  (còn tiếp)

“Lợi dụng trẻ em – mưu đồ chính trị” báo Nghệ An chửi đểu Hồ Chí Minh?


 Chạy tội: kích động xung đột tôn giáo
 Thông thường, khi để viết về một lĩnh vực, một đề tài nào đó, tờ báo phải cử người tìm hiểu thấu đáo. Thế nhưng với tư duy cả vú lấp miệng em, tờ báo này bất cần thực tế, bất chấp sự thật. Bởi khi báo chí của đảng đã nói, bố thằng dân nào dám cãi. Từ đó, người đọc thấy được bản chất tờ báo, sự ngu xuẩn và hài hước qua các bài viết của họ. Nó đem lại cho người dân những trận cười nghiêng ngả, khi nói gà hóa… diều hâu. 
Hãy xem Báo Nghệ An viết về việc giáo dân rước lễ. Rất hài hước, tờ báo này gọi là “Liên hoan kết thúc Thánh lễ” như sau: “Kết thúc Thánh lễ, tất cả mọi người từ các Đức Giám mục đến cộng đoàn Dân Chúa tham dự thánh lễ cùng nhau chung vui trong bữa liên hoan nhẹ bằng một hộp bánh, hoặc dùng tại chỗ, hoặc mang về đơn giản, gọn nhẹ mà chân thành, thân mến”.  Nghe kể chi tiết này, một chị nông dân đang uống nước chè xanh, vội vứt bát và ho sặc sụa rồi nói lớn: “Sao có thằng nào mà viết được những cái hay ho như thế?” Chị nông dân này muốn chơi chữ, bởi nghe những lời này, không ai mà không “ho”.
Những bài viết vừa qua của báo Nghệ An về các vụ việc đối với Công giáo, hầu hết một giọng dọa dẫm, áp đặt, kích động mà bất chấp sự thật, bất chấp lòng dân. Thậm chí, họ bất chấp cả mối nguy hiểm đối với cả dân tộc kích động không khoan nhượng và sự chia rẽ mâu thuẫn tôn giáo trong nội bộ nhân dân. Tất cả những việc đàn áp giáo dân, những tội ác nhà cầm quyền gây ra cho người Công giáo, hệ thống tuyên truyền của đảng đề gắn cho “Bên lương” và họ coi những tội ác họ gây ra đó, là sự xung đột lương – giáo.
Đây là một sự đánh tráo khái niệm, bóp méo sự thật hết sức bẩn thỉu và nguy hiểm cho đất nước, dân tộc Việt Nam. Điều này nhằm trốn tội, chạy tội của nhà cầm quyền, kích động bài trừ, xung đột tôn giáo trong nội bộ nhân dân.


Chửi đểu chính thầy mình
 Trên đất Nghệ An, nơi được cho là có quê hương ông Hồ Chí Minh, một nhân vật có một quá trình hoạt động phức tạp, lý lịch mù mờ từ đời ông nội trở đi. Sự mù mờ không nhất quán từ ngày sinh đến ngày mất, từ các tư liệu đời tư đến việc công… Đó chính là màn sương được đảng CS phủ lên nhằm thần thánh hóa một con người. Việc thần thánh hóa một con người bình thường, nhằm tạo một vỏ bọc, một biểu tượng làm ô che, lọng đỡ cho Đảng cộng sản - một tổ chức ngày càng thối nát và mất lòng tin đến tận cùng.
Tất cả những nơi Hồ Chí Minh được cho là đi qua, đều trở thành “Nơi tưởng niệm”, mọi vật dụng, đều trở thành thánh thiêng. Thi hài rữa nát được bảo quản hết sức công phu và tốn kém. Để lớp sương mờ càng dày đặc trở nên bí hiểm, đảng CS đã không tiếc tiền đổ ra cho cái gọi là “Học tập tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh” suốt mấy năm qua để tô vẽ, bôi trát. Nếu có ai động đến Hồ Chí Minh sẽ không khác gì động đến Đấng Alah của những kẻ hồi giáo cực đoan.
Duy nhất, có tờ Nghệ An, bất chấp những màn “thánh thiêng” mà đảng đã tạo ra quanh Hồ Chí Minh, thậm chí chơi xỏ ông khi cần thiết cho công việc xuyên tạc và phục vụ mục đích bẩn thỉu của mình.
Ngày 23/9/2013, báo Nghệ An có bài viết “Lợi dụng trẻ em - mưu đồ chính trị!”. Bài viết nhằm nói lên sự tức tối, hậm hực khi thấy các hoạt động liên đới với các nạn nhân của nhà cầm quyền tại Mỹ Yên những ngày nơi đây lâm nạn. Báo Nghệ An viết là trẻ em “bị “thôi miên” quỳ dưới ánh nến, hồn nhiên giơ cao những tờ giấy A4 có những dòng chữ với nội dung xuyên tạc, kích động, chống đối chính quyền “Thắp lửa tình yêu trong bóng tối bạo quyền”, “Đàn áp dân là tả quyền”, “Chính quyền Nghệ An lừa dối dân”, “Tự do công lý cho Mỹ Yên”, “Lên án hành động vu cáo của truyền thông Nghệ An”, “Nhân phẩm và Nhân quyền”,  “Công an + côn đồ 2 trong 1”…”.
Dù với lời lẽ nào, thì đoạn văn trên đây cũng đã nêu bật được nội dung những điều giáo dân đã muốn gửi gắm qua vụ Mỹ Yên đến những người tiếp xúc tờ báo này để họ suy nghĩ xem những nội dung trên đúng hay sai trong xã hội. Song gắn vào miệng trẻ em những điều không có thật, thì đó là sự bẩn thỉu của tờ báo Đảng. Bởi, trẻ em đâu có bị “thôi miên” dưới ánh nến? Nếu có, chỉ là sự sáng tỏ hơn, ánh nến đã xua tan bóng tối ở đó, bóng tối mà nhà cầm quyền mong muốn.
Thực tế, ở Giáo xứ Bình Thuận, các trẻ em ở đây đã hiệp thông cùng với giáo dân Mỹ Yên bằng những câu khẩu hiệu như sau: “Giáo xứ Bình Thuận sát cánh cùng Giáo xứ Mỹ Yên”, “Giáo xứ Bình Thuận đồng hành cùng Giáo xứ Mỹ Yên”, “Công an, côn đồ: Hai trong một”, “Giáo xứ Bình Thuận phản đối hành vi phạm Thánh”, “Nhân phẩm, Nhân quyền”, “VTV: Vua tin vịt”. Có thể nói, với những khẩu hiệu đó, không cần ai, chính nhà cầm quyền Nghệ An tự cảm nhận được sự thật từ đó.  

Có lẽ cơn hận thù, cuồng bạo và mù quáng đã làm cho tờ báo không còn biết đâu là sự thật. Hoàn toàn ở đó không có những câu mà Báo Nghệ An cho là có “nội dung xuyên tạc, kích động, chống đối chính quyền “Thắp lửa tình yêu trong bóng tối bạo quyền”, “Đàn áp dân là tả quyền”, “Chính quyền Nghệ An lừa dối dân”, “Tự do công lý cho Mỹ Yên”, “Lên án hành động vu cáo của truyền thông Nghệ An” . Những khẩu hiệu này đã xuất hiện nhiều nơi ở Nghệ An, đó là nguyện vọng, là ý chí cũng như thực tế đã xảy ra với những hành động của nhà cầm quyền vừa qua. Nhưng việc gắn cho trẻ em, thì đây chỉ là sẩn phẩm của sự bịa đặt có nghề của tờ báo này. Thậm chí họ còn hiểu sai nên viết lại rằng: “Đàn áp dân là tả quyền”. Quả là dân xứ Nghệ dám vượt mặt chơi chữ làm cho báo Đảng khó hiểu. Điều này cần giải thích lại cho báo Nghệ An được hiểu. Câu khẩu hiệu đó nguyên văn “Đàn áp dân là tà quyền”, (chữ TÀ chứ không phải chữ TẢ) thưa báo Nghệ An. Người dân muốn nói rằng: Ở đây, khi đàn áp người dân bằng bạo lực, thì đó không còn là “Chính quyền” – quyền lực của sự công minh, chính đại mà là một “Tà quyền” – nghĩa là quyền lực của sự đen tối.  
Đọc tiếp bài báo, trừ những kẻ kém hiểu biết, những người còn lại, có đôi chút trí nhớ hoặc được học đâu đó ít chữ, đều hiểu rằng Báo Nghệ An đã chửi đểu Hồ Chí Minh.
Bài báo viết tiếp: “Tâm hồn trẻ em được ví như tờ giấy trắng. Chúng ta, những người lớn, viết hay vẽ lên đó hình ảnh, nội dung gì, thì tờ giấy đó sẽ là niềm vui, nỗi buồn, sẽ thành “tiên nữ hay phù thủy”. Điều này thì tờ báo nói đúng, trẻ em là sản phẩm của nền giáo dục là hiển nhiên. Chính vì thế, ngày nay trước những hiện tượng suy đồi của ngành giáo dục, học sinh đánh thầy, lột áo đánh bạn, con đánh cha, xã hội suy đồi, đạo đức hỗn loạn, tham nhũng trầm trọng, xã hội đảo điên… người ta tự hỏi rằng đây có phải là sản phẩm của “một nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam” mà cách đây gần 70 năm trước (1945) trong Thư gửi học sinh ngày khai trường, Hồ Chí Minh đã khẳng định? Và có phải thế hệ lãnh đạo ngày nay đầy tham nhũng và suy đồi kia chính là thế hệ đã từng được kêu gọi:     

Các cháu hãy xứng đáng
Cháu Bác Hồ Chí Minh. (
Thư Trung thu ngày 25/9/1952) 
Để chơi sát ván hơn nữa, bài báo nêu ra: “Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng dành muôn vàn tình yêu thương cho con trẻ “sữa để em thơ, lụa tặng già”. Người nói “Trẻ em như búp trên cành, biết ăn, biết ngủ biết học hành là ngoan”. 
Có lẽ, nếu chỉ nêu những câu chung chung như trên, hẳn người đọc chỉ liên tưởng đến vài điều xa xôi, song khi tờ báo đưa hai câu thơ trên, hẳn muốn nhắc lại cả bài thơ trong đó Hồ Chí Minh kêu gọi:
Vậy nên trẻ em nước ta
Phải đoàn kết lại để mà đấu tranh

Đấu tranh là gì? Là súng, đạn, là “bạo lực cách mạng”, là "chuyên chính vô sản" theo đúng Chủ nghĩa Mác – Lenin. Là ám sát, là thủ tiêu bọn “ác ôn”.
Trong “Thư gửi nhi đồng trong nước và ngoài nước nhân ngày 1-6” của Hồ Chí Minh thì “Bác còn đặc biệt "gửi lời khen ngợi các cháu trong vùng bị tạm chiếm đã hăng hái tham gia kháng chiến"” ("Báo Nhân Dân số 115, từ ngày 1 đến 5-6-1953"). Như vậy, là thiếu nhi, trẻ em đã được Hồ Chí Minh huy động vào cuộc chiến, cuộc chiến của những người lớn, của những người có suy nghĩ đầy đủ, đẫm máu.
Và hậu quả là gì?  
Những “tấm gương” trẻ em được Đảng và nhà nước luôn nêu gương như sau: Xin trích web của Thành đoàn Đà Nẵng:  
- Hồ Văn Mên: Đến năm 13 tuổi, Mên đã 3 năm làm cách mạng, tham gia 7 trận lớn nhỏ, diệt 79 tên địch bao gồm các thứ lính, sĩ quan Mỹ, ngụy, cùng nhiều xe cơ giới của địch. Trận đánh nổi tiếng nhất là trận diệt hơn 59 tên sĩ quan và binh lính ngụy ở sòng bạc Phú Văn. (Chắc là 59 tên rưỡi người Việt Nam? Nghĩa là Mên biết giết người khi mới 10 tuổi)
- Kơ-pa Kơ-lơng: viết: “Em đã giết ba mươi bốn tên Mỹ Ngụy, phá được tám xe cơ giới. Nay em đã lớn, xin cấp trên cho em được làm giải phóng quân”. Năm 15 tuổi, Kơ-lơng đã đánh 30 trận, giật 12 quả mìn, lật nhào 8 xe cơ giới, diệt 88 tên địch, trong đó có 4 tên xâm lược Mỹ. (Vâng, chỉ có 4 tên xâm lược Mỹ, còn lại là người Việt Nam)…
Vâng, “Sống trong môi trường giáo dục không lành mạnh, hay bị nhồi nhét những suy nghĩ lệch lạc, lớn lên ắt con người cũng sẽ đánh mất tính thiện”. Vậy thì đâu có lạ gì chuyện cháu giết bà, con giết mẹ, vợ đốt chồng ngày nay. Vì đâu mà thế hệ Hồ Chí Minh bạo lực lan tràn từ học đường đến gia đình, đến công sở, chốn thành thị đến thôn quê.
Hôm nay, thiếu niên, học sinh Bình Thuận cùng nhau dâng lời cầu nguyện cho hòa bình, an ủi, cảm thông, tỏ lòng yêu thương đối với anh chị em đồng bào, đồng đạo mình bị nạn, thì Báo Nghệ An qua đó để tố cáo hành động “Lợi dụng trẻ em – mưu đồ chính trị” đã xảy ra trên thực tế ở Việt Nam.

Thánh đã mất linh? 
Từ xưa đến nay, mỗi khi động đến nhân vật Hồ Chí Minh, thần thánh của Đảng, các cơ quan từ trung ương, đến địa phương, thậm chí mỗi phóng viên, đều rùng mình, cẩn thận và dè dặt.
Đọc bài báo Nghệ An hôm nay, những hành động, cách nói, trích dẫn đã dẫn người đọc đi đến việc tìm sự thật: Ai đã lợi dụng trẻ em cho mưu đồ chính trị? Và câu hỏi không khó trả lời qua chính những dữ liệu bài viết cung cấp: Hồ Chí Minh.
Có phải báo Nghệ An mắc căn bệnh “Gần chùa gọi Bụt bằng anh” như trong dân gian thường nói? Cũng có thể.
Phải chăng, những người làm báo Nghệ An không biết rằng khi rút dây, sẽ động rừng, khi nói người hãy nhìn lại mình?
Phải chăng? Đến thời điểm này, khi đảng không còn là một đám thần thánh, thì mọi việc đều có thể mổ xẻ, bất kể đó là ai, vì “mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”. Vì thế, hành động “Lợi dụng trẻ em, mưu đồ chính trị” phải bị vạch trần và báo Nghệ An đang dẫn đầu việc đó, bắt đầu từ hành động và việc làm của Hồ Chí Minh?
Thật hài hước khi lo xắn váy quai cồng lên chửi việc làm chính nghĩa của người khác, báo Nghệ An đã vô tình lộ ra và hình ảnh và hành động của Hồ Chí Minh qua những ngôn từ vu cáo bẩn thỉu độc địa của mình đang phun ra.
Âu rằng đó cũng là quả báo nhãn tiền, khi sự thù hận và dối trá che lấp trí khôn và trí tuệ con người.

Hà Nội, Ngày 24/9/2013 
J.B Nguyễn Hữu Vinh
 

BIÊN BẢN VU KHỐNG VÀ NHỮNG KỊCH BẢN XƯA NHƯ HANG PAC BÓ

Đám kiêu binh hậm hực khi tôi ra về và văng tục khi thấy người dân phòng giúp tôi bắt taxi 
Bước chân vào tới cổng công an phường 1. Tôi thấy bọn họ nhốn nháo,  khoảng 3 chục công an dân phòng và các lực lượng thường phục. Chẳng biết từ đâu ra mà nhanh thế? Chắc lúc giằng co trong chợ họ đã kịp thông báo và "Huy động lực lượng"
Con trai tôi vào trước 1 vài phút. Họ đưa chúng tôi vào cái ô bên phía phải đồn công an. Nơi đó có kê một cái bàn và có viên công an đeo băng đỏ TRỰC BAN ở đó. Bước vào tôi nghe con tôi đang nói với viên công an trực ban tên Quân này rằng : 
-"Anh ăn nói kiểu đó là em không thèm làm việc, em không phải là tội phạm. Các anh "MỜI" em về đây thì đừng có ăn nói kiểu đó...."
Sau này về nhà rồi tôi mới hỏi thì cháu nói rằng " Anh ta cứ xưng hô mày tao nghe rất "Chối" . Trong khi con vẫn rất tử tế , đàng hoàng , cuối cùng con phải nói
-"Anh ăn nói kiểu đó thì em đi về , không làm việc gì hết " Khi đó anh ta thay đổi cách xưng hô
Nhưng đâu phải chỉ một mình cái tên TRỰC BAN đó ăn nói vô lễ với dân. Khi tôi bước vào cổng xong . Tên sĩ quan có khuôn mặt "Bị thịt" , mắt ti hí mà tôi chưa biết chính xác tên tuổi , chức vụ. Ông ta đứng khuỳnh khoàng giữa bậc lên xuống của đồn công an phường 1 - Thành Phố Vũng Tàu khoát tay ra lệnh
"Đưa chúng NÓ vào kia. Đứa nào chụp ảnh công an thì tịch thu hết máy chúng "Nó" lại" ...kinh < tởm> quá...Tôi nghe thế vội nói:
Đây! có thằng quay phim , chụp ảnh đây này. Bắt nó đi, thu máy đi. Công an gì mà ăn nói lỗ mãng và vô học thế ?( Miệng nói, tay tôi chỉ vào mặt viên công an tên Cường )
Lúc này,  có lẽ chưa được "Làm quen" với những công dân biết nhận thức và phát huy quyền làm chủ như tôi,  nên lũ kiêu binh với đủ lực lượng cả công an- dân phòng- thanh niên tự vệ và rồi bắt đầu lác đác cả bọn chìm thường phục xuất hiện. Tất cả  đều tỏ ra rất hống hách , côn đồ như cái bản tính , thói quen vốn dĩ của chúng. Khi thấy tôi mắng thằng xếp chúng xong tôi cũng xưng hô MÀY - TAO - "chúng bay ..." < Họ đâu có lịch sự mà tôi cần đáp lại bằng lịch sự>
Thằng dân phòng bụng phưỡn , côn đồ nhất trong đám vội xấn xổ vào tôi
Nó hỏi tôi một câu thật "Dễ thương"
- Ai cho Mày xưng Mày - Tao? Mày xưng Mày - Tao với ai đấy?
Ka...ka...ka...ka...ka Có ai trả lời được câu hỏi của nó giúp tôi không....
Tôi trả lời trong lúc chúng bu quanh tôi cả chục thằng cả công an , dân phòng
Tao mày tao với "Mày" đấy thằng CON LỢN - Mày có lịch sự tử tế không mà mày đòi hỏi người khác? Chắc mày muốn tao gọi mày bằng "Cha" hả? Mày quen thói thị uy với người dân rồi phải không?
Chúng mày là đồ MẤT DẠY. Thằng dân phòng lúc này nhảy nhổm lên xỉa xói và đòi ĐÁNH tôi...Tôi cũng không "nhịn" được trước cái thái độ mất dạy và vô lối của nó,  nên tôi gào lên:
-Mày giỏi thì đánh tao đi, giết tao đi. Tao nằm xuống cho mày ăn thịt này. . Nhưng mày nhớ một điều rằng thịt tao dai và tanh tưởi lắm
Mày có biết đọc báo , nghe đài không? Mày có xem mấy ngày trước đây thôi ngoài Thái Bình người dân bị chính quyền dồn đến cùng đường đã bắn 4 phát súng vào đầu bọn quan lại không? Chúng mày "chưa thấy quan tài chưa đổ lệ " phải không? Chúng mày đừng tưởng người dân bây giờ còn sợ sệt để chúng mày đè đầu cưỡi cổ như bao năm qua nghe chưa? Rồi sẽ còn nhiều phát súng,  nhiều anh hùng Đoàn Ngọc Viết nghe chưa? Tao báo cho chúng mày biết rằng sẽ không phải là 4 phát súng đâu. Sẽ còn là 40 hay 400 thậm chí là 4 triệu phát súng vào những kẻ gây tội ác với nhân  dân đấy 
Mày hãy nhìn lên đây xem, chúng mày biết chữ không? Hay mù chữ  vô văn hóa hết mà muốn ngồi trên đầu thiên hạ ? Mày hãy đọc cho tao nghe xem chúng mày treo những thứ gì trên kia ?
Miệng nói , tay tôi chỉ lên mấy tấm "Bùa Bịp " chúng treo đó. Nào là 6 điều bác hồ dạy CAND,
Nào thì quy định này , nội quy kia . Rồi tôi hỏi :
-Ở đây có ai thuộc những điều này không hay chỉ là giáo điều - bịp bợm? Các anh đã làm gì đúng luật pháp, đúng những điều do chính các anh đề ra chưa? Các anh muốn người dân tôn trọng mình thì ít nhất các anh phải làm được những việc đáng kính , đáng trọng. Đằng này từ tác phong cho đến nhận thức các anh đều không có mà các anh yêu cầu người dân phải tin yêu kính trọng là sao? Anh xử xự với Dân vô lễ mà anh lại bầy đặt nói đến "Lễ phép" văn hóa là sao ?. Các anh cần phải hiểu rằng : Các anh mới phải làm gương cho người dân nhìn vào. Nếu anh xử xự "Ba que " thì anh sẽ nhận lại " Bảy que" anh biết chưa? Các anh có hiểu vì sao ông Hồ dạy thiếu niên nhi đồng chỉ có 5 điều mà với công an phải dạy tới 6 điều không? Bởi các anh là những kẻ KHÓ DẠY BẢO 
Điên tiết tôi làm cho chúng một hơi. Lúc này bọn chúng mới chịu "trùng xuống" Cái thằng Dân phòng mặt lợn, bụng Trư bát giới cũng không còn dám sấn xổ nữa ...  Cả thằng công an tên Cường cũng đã bớt hung hăng. Nhưng đúng nó là một thằng ĐẦN như tôi nói
Vào đến trong đồn , nó vẫn còn tưởng rằng nó "Ngon" nên cứ "lè vè" quanh chỗ tôi và con tôi đứng. Nhìn cái bản mặt vừa ngu , vừa láo của nó,  khiến cho người đối diện dễ nổi cơn tam bành. Tôi chỉ mặt nó nói :
-Ê , Mày quay phim tao rồi dám đưa lên không? Còn mặt mày vừa xấu, vừa mất dạy. Mày vào đứng trước cái gương điều lệnh mà soi xem mày giống ai? Trên trán mày có chữ NGU  to tổ bố nằm ngay giữa mặt đấy. Ngu mà còn láo khoét, mất dạy...Loại như mày có dậy 60 điều cũng vẫn còn "Thiếu dạy" chứ nói gì 6 điều bác dạy ?
Nó nhe xỉ ra nhăn nhở muốn trêu tức tôi. Nhưng cái mặt nó đâu có chút gì để làm "Duyên" hay gây cười cơ chứ? Mặt nó xám ngoét như thằng nghiện. Bộ răng hô và cáu bẩn như kiểu mấy ông dân quê nghiện thuốc lào. Vì răng lợi nó "Lều phều" nên chưa há họng ra để cất lời thì nước bọt đã muốn văng tung tóe...Nhìn nó đến tởm. Đã thế còn thêm cái mụn ruồi đen xì ngay dưới mép. Một cái tướng tinh mà nhìn vào đã biết một thằng hạ tiện và ăn bẩn. Điều này tôi đã không nhầm. Vì sau đó người trong chợ cũng như bao hộ kinh doanh khắp phường 1 được tôi cho xem hình nó đều có chung nhận xét 
Thằng này bẩn thỉu , nhỏ mọn và ăn tạp, điếm đàng ( Sẽ có hồ sơ riêng về nó)
Thấy tôi không có vẻ gì sợ sệt hay "chịu nhịn" trước thói ngông nghênh côn đồ của mấy thằng đồng đội Vì thế tên Nam và viên trực ban tên Quân cũng "biết điều" hơn 
Chúng cứ 1-2 mời tôi ngồi sang cái ghế giáp với bờ  tường , quay lưng ra đường để người dân bên ngoài không thấy mặt và không nghe được tôi nói. Một mặt chúng cho đội quân "dẹp chợ" cướp đồ ra xua đuổi bà con ngoài cổng . 
Vào đến trong đồn rồi tôi mới thấy bọn họ QUẪN ĐÃO. Họ không biết xử lý chuyện chúng tôi như thế nào.Cứ hết cho người này về  giữ người kia lại . Rồi lại không cho ai về. Lúc này tôi thật sự lo ở nhà xảy ra chuyện vì tôi đi quá lâu. Nồi đun trên bếp sẽ cháy và nổ bình gas. Tôi trình bày kiểu gì bọn họ cũng như điếc nên tôi gào lên . Cuối cùng thì bọn họ -sau một hồi ra vô bàn  thảo đủ đằng họ nói để con tôi và chú Nguyễn Bắc Truyển ra về -Còn tôi họ yêu cầu ở lại . 
 Tôi đoán chừng bọn họ hoàn toàn "Bị động" khi mà bọn an ninh mật vụ gây hấn bị tôi vạch mặt ngoài chợ . Rồi chúng rút thẻ ngành ra đưa mấy thằng quản lý chợ . Bọn kia thấy vậy "rúm" lại. Và bọn mật vụ gọi "Cầu cứu" về tổng hành dinh của chúng. Bọn phường 1 chỉ là nơi "Thừa lệnh" cấp trên . Cộng với thói côn đồ sẵn có từ trong máu và cái nghề bất nhân của chúng nên ra tay thị uy với chúng tôi. Và chính chúng không thể ngờ gặp phải sự phản kháng quyết liệt của chúng tôi như vậy. Điều này chắc chắn "Nằm ngoài dự đoán" của họ
Dù sao thì chúng cũng được một bài học đích đáng từ sự DẠY DỖ về ý thức phản kháng công dân 
Tôi tin rằng chỉ cần vài lần đụng chạm với người dân như hôm đó. Đám kiêu binh và công an phường sẽ biết giật mình soi lại bản thân
Trong khi tôi ngồi và lôi tất cả mọi thói tật hư đốn , sai trái của bọn chúng ra mà nói,  thì tôi thấy xuất  hiện rất nhiều tên thường phục. Rồi thì thêm mấy nhóm mặc đồ sĩ quan an ninh
Một nhóm đi đến bằng chiếc xe đen 7 chỗ. Còn 2 người tên Vinh và Linh thì đến bằng xe Hoda
Viên sĩ quan an ninh trung niên mang bảng tên Vinh và tên trẻ mang biển tên Linh ra chỗ trực ban mà tôi đang ngồi. Ông ta ghé đít ngồi xuống hỏi đám lau nhau " Có chuyện gì thế?" < Gớm quá nhể? Chuyện ở chợ mà phải gọi đến cả gần chục an ninh cơ đấy >
Không hỏi tôi và  tôi thấy cũng chẳng cần quan tâm, nên  tôi mặc họ trao đổi còn mình lúc đó lo trả lời cuộc phỏng vấn của RFA và nhiều nơi  khác đang lo lắng gọi hỏi thăm khi nghe tin "Tôi bị công an bắt"
Lúc này thì  tôi  đã đoán ra hoàn toàn mục đích và kịch bản của họ. Những trò mà mấy chục năm qua họ chẳng có gì cải tiến . Nó xưa như cái hang Pắc Bó ẩm mốc và kịch bản bắt người thì đều giống con "chồn lùi" chui ra chui vào vậy thôi 
Rất bình tâm. Tôi "rà" lại mọi kịch bản bắt người kiểu côn an Việt Nam và tôi chẳng thấy có điều gì run sợ hay bấn loạn,  khi nghĩ đến kịch bản: hôm nay họ sẽ bằng mọi giá bắt tôi bằng cái kiểu chụp mũ , đánh tráo như khi họ dồn mẹ con , chị em tôi vào góc chợ mà  mồm thì lu loa chúng tôi "Gây rối, vu khống cán bộ" Tay thì chỉa máy quay ...Hazzz
Gây hấn- Tạo mâu thuẫn, gây xung đột. Quay phim , chụp hình , ghán ghép tội danh và BẮT
Chẳng có gì mới mẻ  . Tôi công khai nói hết mọi diễn tiến này cho các báo đài và Diễn đàn khắp nơi. Đồng thời cũng nói thẳng với caí đám  côn an , côn đồ quanh mình rằng 
"Các anh thấy chưa? Đối với tôi. Vào đồn công an hay đi tù là một NHIỆM VỤ MỚI . Tôi lúc nào cũng chuẩn bị đầy đủ giáo án và hành trang . Và chắc chắn sẽ dạy dỗ được nhiều những kẻ thừa hành và bảo vệ luật pháp  ,nhưng lại  chuyên môn ngồi xổm trên pháp luật hay "Móc dái đái ướt luật" như mấy anh đấy. Một vài tên cũng nhẩy nhổm lên khi nghe tôi nói thế. Nhất là mấy tên dân phòng luôn tỏ ra hung hăng , bợ đỡ như để "Báo công" với mấy thằng sắc phục . 
Trong khi để tôi ngồi chờ mấy tiếng đồng hồ và họ thì hết màn đe dọa , thị uy xong thì "bận rộn " tiếp chỉ cấp trên...Tôi ngồi bên này với 1 vài dân phòng và viên trực ban. Một anh dân phòng trung tuổi <Nghe nói bằng tuổi tôi> đi lấy nước mời tôi uống. Anh ta nói chị bớt  bức xúc đi. Tôi hạ giọng khi thấy anh ta 
ăn nói đàng hoàng  tử tế với mình. Rồi tôi nói: Cảm ơn anh mời nước, nếu anh muốn tôi nói "hạ giọng" hay " nói nhỏ" thì đây. Mời anh nghe những chuyện giữa con người và con người nhé!
- Nãy giờ anh thấy đồng đội anh làm việc và phát ngôn đúng hay sai? Đồng ý họ làm việc xã hội, nhà nước mà thật ra là làm cho dân, dân trả tiền lương họ bằng thuế đấy. Vậy thái độ mất dạy với dân và bất chấp luật pháp của họ như cái tên Cường , tên Hiệp, tên Nam kia là đúng hay sai? Ai cho họ cái quyền láo toét, sách mé với dân khi họ là "Đầy tớ trung thành " của ND ? 
-Anh thấy ở đây có ai  làm đúng luật pháp hay bất cứ khẩu hiệu nào mà họ treo lên không? Nếu họ nói một đằng làm một nẻo thì họ là ai? Họ chính là những kẻ Bịp bợm...Họ đại diện cho luật pháp , họ mang bộ quân phục CAND vậy sao họ không làm theo pháp luật? Không làm đúng lòng dân và cũng không theo lời bác dạy. Vậy thì anh hiểu rồi chứ?
Họ đi rỉ tai khắp nơi tôi là PHẢN ĐỘNG- Vậy các anh ở đây có tin không? Có hiểu thế nào là phản động không? Này nhé! Để tôi cắt nghĩa cho các anh hiểu
Theo từ điển bách khoa VN " phản động biểu hiện ở những việc làm chống lại các phong trào cách mạng, dân chủ và giải phóng dân tộc; hăm doạ, săn lùng và đàn áp các tổ chức và cá nhân hoạt động chính trị, đàn áp nhân dân lao động; tệ phân biệt chủng tộc, nhen nhóm và khích lệ chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi"
Vậy bây giờ các anh biết ai là PHẢN ĐỘNG chưa?  Ai bán nước hại dân chưa?Tôi làm gì để gọi là PHẢN ĐỘNG ? Tôi đi làm từ thiện giúp người nghèo bao năm nay được gọi là PHẢN ĐỘNG ư? Thế còn những kẻ cướp đất của dân . Bán biển , bán đảo thì gọi là gì? Các anh bị bịp bợm , lừa mị bao nhiêu năm qua mà các anh không nhận ra sao? Tôi hỏi trong số các anh đây đã có ai thám thía nỗi đau bị phân biệt về VNCH chưa? Có bao giờ những kẻ "ngồi xổm lên pháp luật - Chổng mông vào đạo đức" này họ coi các anh thật sự là đồng bào chưa? Tôi xót xa cho các anh , xót xa cho Nhân Dân tôi
Các anh hãy nhìn xem . Mỗi khi cưỡng chế đất  đai, dẹp đường dẹp chợ , cướp bóc , gây hấn với nhân dân có khi nào những kẻ chỉ đạo làm sai nó chịu đưa mặt ra không? Chỉ có các anh thôi đúng không? Các anh có thù oán , mâu thuẫn gì với tôi không? Không! Vậy các anh hùng hổ với tôi để làm gì? Các anh được chia bao nhiêu tiền ? Trả bao nhiêu tiền khi làm những việc bất chấp  đúng sai với người dân như vậy? Các anh có biết mình chỉ là một thứ công cụ phục vụ bọn độc tài "Vô luân , vô pháp" hay không ?  Có người trong số họ như hiểu ra. Lẳng lặng gật đầu , cúi nhẹ xuống
Họ kéo nhau ra ngồi ngoài phía ghế đá sát cổng , nhưng tôi tin chắc có người trong số họ đang suy nghĩ về những gì tôi nói. Mà rõ ràng tôi nói công khai trong đồn công an chứ không phải như họ phải  đi rỉ tai nói sau lưng tôi một cách bất minh và hèn hạ
Hình như họ biết những điều tôi nói là đúng và đáng tin hơn những gì họ nghe nên một anh Dân phòng bỗng hỏi tôi:
"Tôi nghe nói về chị rất nhiều. Chị có trang Web riêng không? Tôi biết chị từng đi làm từ thiện rất lớn và là người sống rất rộng rãi ..."
Tôi trả lời anh ta: Tôi sống ở đất Vũng Tàu này 23 năm rồi. Nói đến tôi rõ ràng người Vũng Tàu gốc không mấy người không biết. Tôi đã làm những gì chắc chắn người dân biết rõ và chính quyền này làm gì thì người dân biết rõ hơn ai hết. Vì vậy người ta mới thấy câu nói của ông Thiệu bây giờ như một chân lý " Đừng nghe những gì cs nói- Hãy nhìn rõ những gì cs làm" Các anh đánh mất hết niềm tin trong nhân dân chúng tôi rồi
Lúc này tên công an đứng đó vội lên tiếng: Chị đừng có mà nói như thế. Chị nói vơ đũa cả nắm như vậy đâu có được
Tôi trả lời: Vậy anh hãy dẫn chứng cho tôi đi. Các anh đã làm gì tốt để người Dân nhìn vào. Đừng nói  đâu xa. Các nh hãy xem ngay sự kiện của tôi vừa rồi xem. Các anh ăn tiền thuế của Dân để bức hại Dân không à? Người Dân bị khủng bố thì phải la lên cầu cứu. Các anh bảo vệ an ninh trật tự cho xã hội mà các anh trấn áp , thị uy Dân để giải vây cho mấy thằng đồng đội cô hồn phát đãng . Như vậy các anh là ai? Bây giờ côn đồ và công an là một hả? Tôi có đầy đủ hình ảnh bằng chứng về bọn bịt mặt đây. Tại sao các anh không xử lý? Các anh thấy rõ bộ mặt bất chính  của mình chưa?Các anh còn không biết xấu hổ khi cả trăm con mắt của bà con nhìn vào à?
Cứ họ đưa ra  câu nào là tôi lên tiếng phản bác lại câu đó. Một điều tôi khẳng định chắc chắn rằng 
Cái thể chế bất chính này nói chung và những tên côn đồ đảng nói riêng chúng chỉ có ĐỘC TÀI- NGU DỐT VÀ ĐỘC ÁC còn ngoài ra chúng không khi nào có đủ lí lẽ thuyết phục để nói với Nhân Dân
Chính vì thế , khi gặp phải người dám phản ứng với đầy đủ lí lẽ thì chúng chỉ biết gằm mặt hay bỏ đi....Tôi cứ lớn tiếng đốp chát lại chúng và chỉ ngừng khi có điện thoại gọi tới mà thôi
Trên trụ sở chính , không biết đám an ninh đi ô tô sang và mấy tên đi xe hon đa tập chung hội ý điều gì. Tôi liếc nhìn nhưng  chưa trông thấy những khuôn mặt NỢ MÁU như tên Thường - Tên Dương Văn Thịnh - Tên Đồng hay một vài thằng hay gây hấn và giở trò với gia đình tôi...Toàn những khuôn mặt lạ hoắc ( Với tôi thì không hề quen mặt an ninh Vũng Tàu vì họ không bao giờ chịu gọi tôi lên "Làm việc" như nhiều anh chị em đấu tranh khác . Thậm chí nếu tôi cần LÀM VIỆC với họ thì tôi phải viết đơn TỐ CÁO cụ thể như tôi từng làm từ tháng 9-2012 đến nay họ vẫn không chịu giải quyết dứt điểm )...
Chẳng hiểu chúng bàn mưu tính kế gì cả hàng tiếng đồng hồ. Đã quá giờ nghỉ trưa. Một viên công an tên Cầm cầm tập giấy đi xuống . Tôi chẳng quan tâm. Ông này biết tôi  quá rõ từ khi ông ta còn làm ở phường nhà tôi . Ông ta thăm hỏi vài 3 câu. Tôi cũng trả lời nhát gừng. Câu nào động chạm đến việc họ bắt giữ tôi vô lý thì tôi phản ứng. Biết không thể thực hiện cái trò "Lấy lời khai" với tôi,  nên ông ta ngồi cắm cúi viết (Tự động viết theo chỉ đạo) 
Hý hoáy một lúc ông ta cầm xấp giấy đi lên trụ sở chính....Rồi cứ thấy đi tới đi lui
Tôi thì ngồi chờ họ với kịch bản bắt giữ chẳng có gì "Tiến bộ" so với mấy chục năm về trước . Nhưng rồi cứ thấy họ loanh quanh. Rồi cũng tới lúc không còn có thể làm gì. Nhìn đồng hồ đa hơn 12 giờ trưa. Tên trưởng hay phó đồn mắt hý đi ra đi vào. Vẫn cố lấy thái độ trịch thượng . Ông ta quát ông Cầm
"Đọc biên bản cho Nó nghe" 
Ông Cầm lại cầm tập giấy đi xuống và nói mời tôi ngồi vào ghế. Có mặt cả 2 viên an ninh. Rồi ông ta đọc. Nội dung biên bản ghi rằng 
Vào hồi ....Ngày...giờ Bà  Bùi Thị Minh Hằng .......
Phạm tội "Gây rối trật tự công cộng và chống người thi hành công vụ "
Nghe thật muốn MỬA 
Tôi nhếch mép hỏi ông Cầm: Anh theo ngành công an này bao nhiêu năm rồi? Anh có hiểu biết pháp luật đến đâu và còn biết đến xấu hổ và liêm  xỉ không mà lập cái biên bản như thế? Sao không lập thêm cả ngàn cái nữa ra đi rồi tôi gọi người kí giùm một thể. Đúng là công an bây giờ toàn 1 bầy chỉ biết cướp bóc , thô lỗ và làm bậy....Một người đang đi chợ bị khủng bố và la lên cầu cứu. Cả trăm người Dân chứng kiến công an kéo nhau vào dùng dùi cui roi điện khống chế NGƯỜI BỊ HẠI lùa về đồn rồi lập biên bản vu khống , chụp mũ không cần căn cứ  bằng chứng....Thật là BỈ ỔI và ĐÊ TIỆN 
Thật nhục nhã và đáng xấu hổ cho 1 thể chế gọi là "Chính quyền" mà họ không thể có được một chút hành xử của thành phần dân Chợ,  chứ đừng nói đến gì to lớn hơn
Tôi thấy họ thật sự trâng tráo và trơ trẽn đến không còn gì để nói
Ông ta đọc vội đọc vàng cố cho xong trách nhiệm . Bởi chính ông ta cũng cảm thấy có chút gì bất nhẫn đến không dám nhìn thẳng vào tôi nữa. Tôi nói ông ta
Anh Cầm nên lập hồ sơ đưa đi trại tam thần thì hợp lý hơn . Đỡ trơ trẽn và còn "Logic". Vì một người Dân đang vội đi chợ đến độ không kịp tắt bếp lại chạy vào đồn công an để "Gây Rối và chống người thi hành công vụ"....Ông ta lúc này cũng thừa biết rằng chẳng thể mời tôi ký , để phải nghe thêm những lời diếc móc cay độc mà một con người,  cho  dù chỉ còn chút cặn bã lương tri cũng phải biết nhục nhã và xấu hổ. Huống chi ông ta lại đã từng nhiều lần đến nhà tôi trong tư thế của những con người để được tôi đón tiếp , đối đãi nồng nhiệt 
Tôi nói: Các ông chẳng cần phải dùng đến những trò Hạ cấp , bẩn thỉu này làm gì. Nhà tôi lúc nào cũng để sẵn 1 giỏ đồ để sẵn sàng ĐI TÙ....Bởi tôi đã chứng minh rằng nếu tôi bị đi tù thì việc dạy dỗ những tên công an vô giáo dục , thiếu hiểu biết sẽ còn nhiều tác dụng hơn. Và xin nói cho các ông biết rằng chẳng có bất kỳ TRÒ MA- TRÒ MÈO nào của các ông có thể khuất phục nổi tôi cả 
Chính các ông đã đánh thức lòng căm thù cái ác trong tôi và làm cho tôi càng ngày càng thấyCẦN PHẢI CHỐNG LẠI NHỮNG KẺ XẤU NHƯ CÁC ÔNG
Đọc cho xong biên bản ông ta nói "Làm gì đâu mà phải đi tù" rồi ông ta gấp vội tập giấy bảo tôi ĐI VỀ rồi đi nhanh khỏi chỗ đó. Tôi đi cùng anh Dân phòng "thức tỉnh " ra phía cổng tôi muốn gọi taxi để về nhà vì đang còn bao việc cúng kiến dang dở ở nhà. Tôi đứng ngay trước cổng đồn công an Phường 1 Thành phố Vũng Tàu chờ vẫy Taxi. Lúc này anh Dân phòng tốt bụng ra vẫy xe dùm....
Và phút chót trước khi rời khỏi hang ổ của loài quỷ dữ , họ vẫn còn muốn ghi dấu thêm những hình ảnh đáng ghê tởm,  để tôi cũng như bất cứ người dân nào . Dù có muốn biện minh cho công an là những "Người tốt và có học" cũng phải bỏ ngay suy nghĩ đó .
Và với tôi, những gì tôi chứng kiến , tôi sẽ  nói rằng HỌ LÀ MỘT BẦY VÔ HỌC , MẤT DẠY
Ai muốn biết tại sao tôi kết luận thế  thì hãy chờ tôi đi tìm anh Dân phòng tốt bụng bị lẫn vào với đám kiêu binh kia , xem anh ấy có bị cho nghỉ việc sau lúc đưa tiễn tôi ra cổng và ân cần đứng ngoắc xe dùm tôi. Chỉ có thế mà 1 bầy công an Dân phòng bên trong cổng . Thậm chí cả cái thằng chỉ huy đứng trong khoát tay mà gào lên "ĐM thằng kia vào, mày có vào không?
Nói thì bảo ngoa ngoắt. Nhưng rõ ràng có ai đó nói rằng bọn người này đâu có thể gọi CAND mà nên gọi chúng nó với cái tên mà chính chúng lúc nào cũng luôn mồm  réo : "Đù cha - đéo mẹ "


 P/S: Hôm sau ra chợ chụp lại cái cổng sau mà tên trưởng hay phó phường bắt dẫn chúng tôi đi vào đây , bị tôi phản đối không đi. Mấy bà con tiểu thương chợ nói
Chị ơi! chụp đưa hết lên cho mọi người nhìn thấy. Chúng nó thu đủ thứ tiền , nhưng rồi một cái chợ ngay khu trung tâm thành phố mà nó để bệ rạc , sập xệ như thế này đây. Nó ăn đớp hết chị ạ"





Mời quý độc giả coi lại toàn bộ những clip quay được tại chợ khi chúng tôi bị bọn bịt mặt khủng bố đe dọa . Vậy mà công an phường 1 Vũng Tàu lại lôi chúng tôi về đồn để lập 1 biên bản với tội danh ngược ngạo : GÂY RỐI TTCC VÀ CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ 
Hazzzzzz...Pháp luật trong tay bọn CÔN ĐỒ nó là như thế đấy
 

Tự xử dân chúng hay tự xử chính quyền?

Phạm Chí Dũng

Thói hoang tưởng quyền lực được sinh thời bởi ý thức hệ cầm cố đã tạo nên vô số món nợ phải đòi trong đầu óc dân quyền.Tự xử của dân cũng vì thế mang hơi hướng tự xử của chính quyền.
5 ngày sau vụ Đặng Ngọc Viết bắn các cán bộ quản lý quỹ đất ở Thái Bình, một số đại biểu quốc hội Việt  Nammới lần đầu tiên “thảo luận tập trung” về hiện tượng “tự xử” đang có chiều hướng lan rộng và “có dấu hiệu nguy hiểm” trong dân chúng.
Tự bắt trộm chó, tự thuê xã hội đen đòi nợ, tự thiêu, tự bắn cán bộ… – những hành tung mang tính “tự xử” đã xảy ra suốt mấy năm suy thoái kinh tế vừa qua, nhưng cho đến tận bây giờ mới được thừa nhận “có phần trách nhiệm của chính quyền địa phương”.
Cho đến khi cơn khủng hoảng chết chóc đã cận kề ngay trước mũi, vài người đại diện cho dân chúng mới dám hé lộ ngoài hành lang về tình trạng “chính quyền địa phương bất động”.
Với tất cả những động thái “hành là chính” đang có chiều hướng bất động một cách nguy hiểm như thế, hẳn đó cũng là một nguồn cơn để nảy sinh ra lời “hiệu triệu cứu quốc” dưới đây.
Hiệu triệu cứu quốc!
Thông báo với toàn thể nhân dân. Hiện nay đang có một đám người lạ mặt, đầu trọc, xăm trổ đầy mình, có hành vi côn đồ, dùng kiếm, dùng dùi cui, đuổi đánh, dọa đâm, chém, giết dân lành. Mọi người, ai có cuốc, xẻng, gậy gộc ra ứng cứu. Giặc đang càn quấy dân làng, mọi người tập trung mau để đánh giặc! Loa, loa, loa…” – ông trưởng thôn Đồng Quân gào vào loa phóng thanh, và từ chiếc loa này như vang dội âm thanh hiệu triệu một mất một còn vào những ngày kháng chiến cứu quốc.
Tháng 6/2013, xóm núi heo khuất ở vùng Ninh Bình lại một lần nữa giận dữ cùng rạo rực. Người dân đang nhìn thấy một đám cướp cạn giữa ban ngày ban mặt. Nhưng người dân cũng đang phải chứng kiến một biểu tả không thể bàng quan hơn của các nhân viên công lực địa phương khi để mặc đám côn đồ thỏa sức hành hung những người bám đất.
Đã hơn 25 năm qua, bãi đất nơi xảy ra tranh chấp giữa người dân Đồng Quân với Công ty cổ phần du lịch Cúc Phương là nguồn sống của dân, bằng chăn nuôi gia súc, trồng ngô và trồng đậu. Cư trú trên địa bàn này chủ yếu là người dân tộc Mường, được di dời từ rừng quốc gia Cúc Phương ra từ năm 1988.
Khoảng gần chục năm trước, Công ty Cúc Phương bắt đầu về xây dựng trên khoảng 15 ha bãi đất. Nhưng vài năm trở lại đây, công ty này lại có những hành vi định chiếm nốt 25ha đất còn lại.
Ở một thái cực còn lại, ông trưởng thôn Đồng Quân khẳng định là không hề nhận được thông báo nào từ chính quyền về việc cho công ty Cúc Phương thầu thêm 25 ha đất.
“Cho dù có thông báo thỏa thuận từ chính quyền về việc sang nhượng đất, chúng tôi cũng không bao giờ đồng ý. Vì 25 ha đất này là nguồn mưu sinh của người dân, bán nốt thì biết làm gì để sống!” – một người dân địa phương thét lên.
Nhưng vào lúc việc tranh chấp còn chưa ngã ngũ thì Công ty Cúc Phương đã liên tục điều “xe múc” vào đào đất.
“Người dân ngăn cản là đương nhiên. Vì thế mà cho côn đồ đến hành hung dân lành là điều không thể chấp nhận được!” – ông trưởng thôn quyết liệt.
Thái độ không khoan nhượng của người dân xóm núi Đồng Quân đã được biểu thị ngay tức thì: ngay sau tiếng loa xé nát buổi trưa hè yên ả, nhân dân hai thôn từ người già, thanh niên đến phụ nữ lập tức túa ra đầy đường. Dân hai đầu dồn lại đánh trả đám côn đồ. Từ bộ dạng hung tợn lúc đầu, bọn côn đồ phải dần rút lui, để cuối cùng đã phải nhận một trận đòn nhớ đời.
“Người dân xóm núi đại thắng!” – một tờ báo trong nước giật tít đầy hả hê. Nhưng còn hả hê hơn nhiều, vào một lần hiếm hoi “luật rừng” đã thành công.
Trong cái tâm cảm “luật rừng” ấy, cả hai phía chính – tà đều hiện diện.Nhưng nhân tố đáng ra phải có mặt – lực lượng bảo vệ pháp luật – thì lại vắng bóng đến không thể hiểu nổi.
Như một thói quen đã trở thành cố tật, chỉ sau khi trận đánh không chính danh trên kết thúc, công an huyện Nho Quan mới chính thức ló mặt tại hiện trường để làm nốt công đoạn cuối của việc “phá án”.

Tự xử dân chúng
Những tay blogger có đầu óc hài hước nhất vẫn thường chua chát giễu cợt” Việt Nam có cả một rừng luật, nhưng chỉ có một thứ duy nhất được dùng là luật rừng”.
“Phép vua thua lệ làng” cũng từ cổ chíkim được viện dẫn và hành xử như một thói quen văn hóa độc đáo của người dân Việt, đặc biệt ở những vùng nông thôn miền Bắc.
Từ năm 2010 về trước, khi kinh tế còn tạm đủ sức cầm cự với lạm phát và phân hóa xã hội chưa lộ ra cái hố đen ngòm ngoác rộng của nó, phân cực dân sinh cũng âm thầm tiềm ẩn hơn chứ chưa bị đẩy tình thế vào cảnh hỗn mang như hiệnnay.
Nhưng khi hiện tượng “rào làng” bắt đầu xuất hiện ở những địa phương như vùng phố núi Ninh Bình, người ta cũng bắt đầu chứng kiến cảnh đồng tâm hiệp lực giữa những gia đình cùng làng xã để bảo vệ quyền lợi “giết trộm”. Cảnh sắc đóđã vừa diễn ra ở Bắc Giang, nơi có đến 800 người dân đồng ký vào một lá đơn chưa từng có tiền lệ: nhận tội danh đánh đến chết những kẻ trộm chó.
Trước hành động phản ứng chưa từng có trên, chính quyền và ngành công anBắc Giang trở nên lúng túng và rơi vào thế bị động. Thay cho việc bắt giữ vài người dân đầu trò trong vụ đánh chết cẩu tặc, vào lúc này nhà chức trách phải đối mặt với một thái độ có thể được xem là vượt qua sợ hãi để “sống chết có nhau” của dân làng. Tinh thần tập thể hành động như thế hẳn làm dư luận nhớ đến 13.000 người dân ở làng Ô Khảm của Trung Quốc, vào năm 2011 đã rào làng để phản kháng chế độ trưng thu đất đai vô lối mà đã gây ra cái chết của một trong những người cầm đầu nhóm phản kháng trong đồn công an địa phương.
Không hề có dấu hiệu hoang tưởng từ những người dân Bắc Giang, mà tinh túy hơn thế nhiều, 800 người dân đồng ký đơn nhận tội ở Bắc Giang đã công khai phơi bày một chủ đích có tính toán và mang dấu ấn thách thức chính quyền. Suy luận đơn giản là chính quyền không thể khởi tố tất cả dân làng, nhưng suy diễn phức tạp hơn là không phải chính quyền muốn làm gì thì làm trong bối cảnh đầu óc dân chúng đã tràn ngập tư tưởng bất mãn và sẵn sàng đối đầu nếu “cần thiết”.
Bắc Giang lại là địa phương mà đã nổ ra những vụ đòi đất tập thể, tương tự Hưng Yên, Thái Bình, ngoại thành Hà Nội, Hà Tĩnh, Nghệ An, Nam Định… Đến lượt những địa phương này lại nằm trong cách nhìn thường trực của chính quyền về một loại “điểm nóng” cần phải tiễu trừ.
Đất đai đã làm nên một biến động lịch sử khôn lường ở nông thôn miền Bắc Việt Nam, kể cả không khí manh nha “hồi tố” như trong cuộc cải cách ruộng đất vào giữa thế kỷ 20.
Trước vụ Đặng Ngọc Viết, một thanh niên ở Quảng Nam cũng đã dùng dao đâm vài cán bộ hiệp thương giá đền bù đất đai. Người thanh niên  này say khi gây án đã chạy về nhà đâm dao vào ngực mình. Nhưng rất may trong vụ đó cả hung thủ lẫn nạn nhân đều bảo toàn được mạng sống.
Còn với trường hợp Đặng Ngọc Viết, động cơ trả thù đã trở thành đỉnh điểm của công tác “hồi tố”. Những quan chức nhà nước thực thi mệnh lệnh cao cả về thu hồi đất của dân với giá bèo đã phải trả một cái giá đắt ngang với sinh mạng của họ. “Tự xử” cũng vì thế đã biến diễn đến mức cực đoan và chắc chắn vượt trên rất nhiều “dấu hiệu nguy hiểm” mà các đại biểu quốc hội đang than thở.
Tự xử chính quyền
Một lần nữa trong rất nhiều lần, dư luận và công luận Việt Nam phải khẩn thiết nhắc lại “cách mạng Thái Bình” mười sáu năm trước. Thế nhưng sự bất hạnh lại lộ đến chân tơ kẽ tóc: đã chẳng có một bài học nào được những người cầm cân nảy mực rút ra từ lịch sử. Mọi chuyện và thế sự vẫn trì miết trong một lối mòn tham lam, lũng đoạn và không kém ngungốc. Thói hoang tưởng quyền lực được sinh thời bởi ý thức hệ cầm cố đã tạo nên vô số món nợ phải đòi trong đầu óc dân quyền.
Vụ xả lũ bị coi là hành động “giết sống” người dân mới xảy ra vào tháng 9/2013 ở Đắc Lắc cũng là một ý thức hệ táng tận lương tâm của giới quan chức điều hành thủy điện và chính quyền địa phương. Thời điểm ấn định xả lũ là vào 8 giờ sáng, nhưng phải đến một tiếng rưỡi đồng hồ sau thông báo  này mới được phát ra. Đó cũng là khoảng thời gian vừa đủ để dòng lũ đỏ ngầu cuốn tung mọi thứ, từ tài sản tích góp cả đời đến ít nhất 12 sinh mạng con người, xuống vùng trũng niềm tin dân chúng…
Với những gì đã hiện tồn cay đắng đến thế, điều bị xem là “vô cảm quan chức” vẫn còn là lời cảnh báo đầy tính nhân đạo. Giờ đây, vượt hơn thế nhiều, nhiều chính quyền địa phương càng như chìm trong cơn hôn mê vô trách nhiệm và chẳng hề đồng cảm với đồng loại. Hàng loạt điểm nóng có thể dẫn đến điểm nổ về đất đai, môi trường, tôn giáo… đã chỉ bị ụp lên bởi hàng núi công văn giấy tờ “xin ý kiến chỉ đạo”, trong đó không thiếu lời quy kết cho hành động của người dân là “xách động, manh động, chống đối…”.
Tâm trạng xã hội rối loạn trong dân chúng cũng tương tác hầu như trực tiếp với tâm lý thoái thác trách nhiệm ở các cấp chính quyền. Vụ việc càng “nhạy cảm” thì các cơ quan từ địa phương đến trung ương càng gia cố sức ép đùn đẩy trách nhiệm cho nhau, và trên hết là quá khó để nhận ra một lãnh đạo nào dám chịu trách nhiệm cuối cùng. Trong khi đó, thời gian không ngừng trôi và hậu quả chẳng bao giờ ngừng lại.Rất thường là đến một thời điểm nào đó, tình hình trở nên xấu tệ để mọi chuyện có thể nhanh chóng rơi nhanh vào tình trạng mất kiểm soát.
Tự xử của dân chúng cũng rất có thể dẫn tới hành động tự phát nối kết, liên kết và gắn bó với nhau giữa các nhóm dân đấu tranh cho quyền lợi, cho dù không phải bao giờ quyền lợi của dân cũng đồng nhất với nhau. Đó cũng gần nhưlà hình ảnh chan hòa giữa những dân oan không tôn giáo với các tín đồ – một hiện tượng đã và đang diễn ra ngày càng rộng tại vùng đáy niềm tin chính thể.
Nếu hiệu ứng vô chính phủ xảy ra, không thể nói khác hơn là tình trạng mất kiểm soát ở Việt Nam có thể trở nên vô phương cứu chữa, rút ngắn tính chính danh của chính thể và ghê gớm hơn nhiều là xâm hại những gì còn lại của một lịch sử văn hóa.
Tự xử của dân cũng vì thế mang hơi hướng tự xử của chính quyền.Tất cả những gì mà một chính thể không thể đáp ứng sẽ luôn phải trả bằng cái giá chân đứng của chính quyền từ bị mài mòn đến tự mục rã.
Nông thôn và một số đô thị ở miền Bắc đang chứng thực xu hướng chuyển động có tính song trùng tự xử rệu mục như thế. Dù chưa có một nghiên cứu nào phân tích về khả năng song trùng này, nhưng đáp án rõ rệt cho bài toán tự xử luôn là một điểm giao thoa, tại một thời điểm được xác định, giữa hai hành động vừa đồng pha vừa ngược chiều nhau – một thuộc về chính quyền và hành động kia bùng phát từ dân chúng.
P.C.D.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN

- HCM-MỘT CUỘC ĐỜI

Đôi lời: “Ho Chi Minh, a life” là cuốn sách của William J. Duiker xuất bản năm 2000, ngay năm 2001 đã được dịch và “lưu hành nội bộ” ở Việt Nam. Có nhiều chuyện quanh cuốn sách này. Ví như: nghe nói phía Việt Nam định cho dịch và xuất bản, đương nhiên sẽ cắt bỏ những chỗ “không có lợi”, nhưng đã không được tác giả đồng ý. Dù có hay không chuyện đó thì cũng là đáng tiếc khi cho tới hôm nay một công trình công phu ngót 700 trang với 10 năm tìm tòi, thu thập tư liệu, nghiền ngẫm … của tác giả mà vẫn chưa có mặt ở Việt Nam.
Ông Vũ Kỳ, thư ký riêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi còn sống đã đánh giá cao cuốn sách này cả về quy mô lẫn độ xác thực.
Xin được trích một số đoạn trong cuốn sách.
(Nội dung này lần đầu tiên được Ba Sàm đưa lên blog Yahoo360! ngày 8/5/2008. Nay đưa lên đây lại).

LỜI NÓI ĐẦU

Sáng 30 tháng 4 năm 1975, những chiếc xe tăng miền bắc Việt Nam do Liên Xô sản xuất ầm ầm tiến qua các vùng ngoại ô phía bắc Sài Gòn hướng về Dinh Độc Lập ở trung tâm thành phố. Ngồi trên những chiếc xe tăng là những người lính mặc quân phục, đội mũ gắn sao vàng, vẫy cờ Chính phủ Cách mạng lâm thời cộng hoà miền Nam Việt Nam.
Ngay sau giờ trưa, một tốp xe tăng từ từ lăn bánh dọc theo đại lộ Thống Nhất ngang qua Đại sứ quán Mỹ, nơi mà cách đó hai tiếng những lính thuỷ đánh bộ Mỹ cuối cùng được máy bay trực thăng đưa đi từ trên nóc toà nhà. Chiếc xe đi đầu lưỡng lự giây lát ngoài cách cổng sắt Dinh Độc Lập rồi húc đổ cánh cổng và dừng lại bên thảm cỏ ngay trước thềm vào dinh. Người chỉ huy xe tăng trẻ tuổi bước vào toà nhà và gặp Tổng Thống Dương Văn Minh – “Minh Lớn”. Sau đó, anh lên nóc dinh, tiến tới cột cờ và thay lá cờ Việt Nam Cộng Hoà bằng lá cờ xanh đỏ của Chính phủ Cách mạng lâm thời.
Cuộc chiến tranh kéo dài ở Việt Nam đã kết thúc. Sau gần một thập kỷ chiến đấu gian khổ và đẫm máu làm 50.000 lính Mỹ tử trận, những lính Mỹ cuối cùng đã lên đường về nước sau khi Hiệp định Pa-ri được ký kết vào tháng Một năm 1973. Tuy nhiên, Hiệp định này đã nhanh chóng bị vi phạm, và vài tháng sau, các lực lượng vũ trang của chế độ Sài Gòn đã liên tiếp đụng độ với bộ đội Việt cộng và quân đội bắc Việt Nam (thường được gọi là Quân đội Nhân dân Việt Nam) trong đó có hơn 100.000 người được Hiệp định ngầm chấp thuận ở lại miền Nam. Tháng 12 năm 1974, khích lệ bởi thắng lợi trên chiến trường và nhận định rằng Hoa Kỳ sẽ không can thiệp lại vào cuộc chiến, các nhà lãnh đạo Đảng (Đảng Cộng sản Việt Nam lúc đó là Đảng Lao động Việt Nam) thông qua kế hoạch của Bộ Tổng tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam tiến hành chiến dịch trong hai năm nhằm đánh đổ chính quyền Sài Gòn vào mùa xuân năm 1976. Tuy nhiên, những trận đánh thăm dò ban đầu dọc biên giới Cam-pu-chia và ở Tây Nguyên đầu năm 1975 đã cho thấy Sài Gòn chống trả yếu ớt. Do vậy, cuối tháng ba, Hà Nội đã lệnh cho chỉ huy ở miền Nam giành thắng lợi cuối cùng trước khi mùa khô kết thúc vào cuối tháng tư. Hệ thống phong thủ của Sài Gòn phía bắc Nam Bộ đã nhanh chóng sụp đổ và tới giữa tháng tư những đoàn quân Bắc Việt đã hành quân nam tiến về Sài Gòn. Tổng thống Nam Việt Nam Nguyễn Văn Thiệu từ chức ngày 21 tháng 4 năm 1975. Người kế nhiệm là một chính trị gia Sài Gòn lớn tuổi Trần Văn Hương cũng chỉ nắm chính quyền trong bảy ngày và lại bị ông Minh “Lớn” thay thế với mong muốn tuyệt vọng rằng viên tướng miền Nam được nhiều người biết đến có thể sẽ khiến cho Bắc Việt Nam chấp nhận thoả hiệp hoà bình. Nhưng những cử chỉ thăm dò hoà bình của tướng Minh đã bị Hà Nội lờ đi.
Thắng lợi của cộng sản ở Sài Gòn là kết quả của lòng quyết tâm và sự lãnh đạo tài tình của nhà lãnh đạo Đảng lao động Việt Nam Lê Duẩn và những cộng sự kỳ cựu của ông ở Hà Nội. Một đóng góp không kém phần quan trọng là những đoàn quân bắc Việt Nam và du kích Việt cộng – những người bộ đội giản dị (từ bộ đội tiếng Việt có nghĩa là lính quân đội), những người đã chiến đấu và hy sinh cả một thế hệ cho sự nghiệp cách mạng trong những khu rừng rậm và đầm lầy ở miền Nam Việt Nam. Nhưng quan trọng hơn cả là tầm nhìn, ý chí và khả năng lãnh đạo của một con người. Hồ Chí Minh, người sáng lập Đảng Cộng Sản Việt Nam, nhà lãnh đạo phong trào cách mạng và Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tới khi ông mất vào năm 1969, sáu năm trước khi chiến tranh kết thúc. Để tỏ lòng kính trọng đối với những cống hiến của ông, sau khi Sài Gòn sụp đổ, các cộng sự của ông đã đổi tên Sài Gòn thành Thành phố Hà Chí Minh.
Là nhân viên của Quốc tế Cộng sản tại Mát-xcơ-va, thành viên phong trào cộng sản quốc tế, kiến trúc sư cho sự thắng lợi của Việt Nam, Hồ Chí Minh rõ ràng là một trong những nhân vật chính trị có ảnh hưởng lớn nhất của thế kỷ 20. Hồ Chí Minh còn là một trong những nhân vật huyền bí nhất, một con người với những động cơ và hành động gây nhiều tranh cãi. Trong ba thập kỷ, đã có những tranh luận về một câu hỏi bề ngoài có vẻ đơn giản về những động cơ xuyên suốt cuộc đời Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách mạng. Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa dân tộc hay theo chủ nghĩa cộng sản? Hình ảnh giản dị, vô tư của Hồ Chí Minh trước công chúng là chân thực hay giả dối? Đối với những người ủng hộ mình, Hồ Chí Minh là biểu tượng của chủ nghĩa nhân đạo cách mạng, là bậc cha anh đã cống hiến tất cả cho hạnh phúc của nhân dân và công cuộc giải phóng tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Đối với những người đã được gặp ông, cả người Việt Nam cũng như người nước ngoài, ông là một “người ngọt ngào”. Cho dù là nhà lãnh đạo lớn trên thế giới, thực chất ông là nhà ái quốc vị tha gần gũi với nhân dân và nguyện suốt đời mang lại cuộc sống ấm no cho nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên, một số nhà phê bình lại chỉ trích những hành động cách mạng thái quá mà người ta vẫn cho rằng là của ông và cho rằng ông có tính cách hay thay đổi theo tình cảnh, một con sói đội lốt cừu.
Nghi ngờ về tính cách và những động cơ bên trong của Hồ Chí Minh là trọng tâm của cuộc tranh luận ở Hoa Kỳ về mặt đạo lý của cuộc chiến Việt Nam. Đối với nhiều người chỉ trích chính sách của Hoa Kỳ, Hồ Chí Minh là người yêu nước giản dị đã lãnh đạo cuộc đấu tranh giành độc lập cho nhân dân Việt Nam và là người đấu tranh mạnh mẽ chống lại chủ nghĩa đế quốc toàn cầu trong thế giới thứ ba. Những người ủng hộ nỗ lực chiến tranh của Hoa Kỳ nghi ngờ động cơ yêu nước của Hồ Chí Minh gián tiếp chỉ ra rằng ông từ lâu là nhân viên của Xta-lin và đã có năm thập kỷ phấn đấu cho cách mạng thế giới. Họ cho rằng, hình ảnh chủ nghĩa dân tộc mà Hồ Chí Minh cần mẫn gây dựng chỉ là mưu đồ để giành sự ủng hộ trong nước và quốc tế cho sự nghiệp cách mạng.
Đối với những người Mỹ, cuộc tranh luận về Hồ Chí Minh tạo ra những cảm xúc mạnh mẽ về một cuộc chiến tranh đã đi vào dĩ vãng. Đối với người Việt Nam cuộc tranh luận gợi nên những câu hỏi quan trọng hơn nhiều bởi điều này xác định những vấn đề trọng tâm trong cuộc cách mạng Việt Nam-mối quan hệ giữa quyền tự do con người và bình đẳng về kinh tế ở nước Việt Nam mới trỗi dậy sau chiến tranh. Kể từ khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, các cộng sự của Hồ Chí Minh, một số vẫn đang nắm giữ các chức vụ tại Hà Nội, đã không ngừng đúc rút từ những ký ức của Hồ Chí Minh để thần thánh hoá mô hình phát triển đất nước cộng sản. Những người này cho rằng, mục tiêu của Hồ Chí Minh trong suốt sự nghiệp của mình là xoá bỏ bóc lột [của] chủ nghĩa tư bản toàn cầu và tạo ra một thế giới cách mạng mới với đặc điểm chính là chủ nghĩa xã hội không tưởng của Mác. Tuy nhiên, một số ý kiến khác lại không đồng tình, cho rằng mục tiêu chính trong sự nghiệp của ông là quyết tâm làm mềm mỏng nguyên tắc bất di bất dịch trong cuộc đấu tranh giai cấp theo luận thuyết của Mác thông qua việc kết hợp nguyên tắc này với Khổng Tử và ba nhân tố cách mạng của Pháp: tự do, bình đẳng, bác ái. Để biện hộ, họ trích dẫn một trong những khẩu hiệu của ông thường thấy ở Việt Nam ngay nay “Không có gì quý hơn độc lập tự do”
Do vậy, cuộc tranh luận về Hồ Chí Minh là cốt lõi của một số vấn đề quan trọng tạo nên dấu ấn thế kỷ 20, kỷ nguyên của chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa cách mạng, chủ nghĩa quân bình và phấn đấu vì quyền tự do của con người. Phức tạp trong tính cách của ông Hồ phản ánh phức tạp của thời đại. Ông vẫn là một thế lực đầy uy quyền ở Việt Nam sau chiến tranh được hàng triệu người kính trọng nhưng rõ ràng cũng bị nhiều người căm ghét. Dù tốt hay xấu, Hồ Chí Minh đã thể hiện trong ông hai động lực quan trọng của xã hội hiện đại – khao khát độc lập dân tộc và phấn đấu vì công bằng kinh tế và xã hội. Mặc dù chúng ta chưa có đủ tất cả mọi bằng chứng nhưng đã đến lúc phải phân tích đánh giá nhân vật có ảnh hưởng trong thế kỷ 20 dưới góc độ lịch sử.
Những khó khăn mà bất kỳ một nhà viết tiểu sử nào muốn tìm hiểu vấn đề này gặp phải là rất lớn. Mặc dù tên Hồ Chí Minh được hàng triệu người trên thế giới biết đến nhưng lâu nay rất thiếu những nguồn thông tin có thể kiểm chứng được về cuộc đời ông. Phần lớn thời thanh niên hoạt động cách mạng chống lại chế độ thực dân Pháp ở Đông Dương, ông đã phải tha hương trong nhiều năm cũng như sống bí mật ngay trên đất nước mình. Suốt thời gian đó, ông sống và đi lại một cách bí mật với nhiều bí danh khác nhau. Người ta ước tính rằng khi sinh thời, ông Hồ đã sử dụng khoảng hơn năm mươi bí danh. Rất nhiều bài viết của ông được đăng dưới các bí danh đó trong khi nhiều bài viết khác của ông bị thất lạc hoặc bị huỷ hoại trong gần ba mươi năm chiến tranh.
Hồ Chí Minh cũng đã tạo ra sự mơ hồ bằng việc chấp nhận điều bí ẩn thú vị về cuộc đời mình. Trong nhiều năm, ông đã phủ nhận rằng nhân vật nổi tiếng chưa được xác định sau chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh thực ra là Nguyễn Ái Quốc, người sáng lập Đảng Cộng Sản Đông Dương và là nhân viên lỗi lạc của Quốc tế cộng sản III trong thời kỳ trước chiến tranh. Thậm chí khi sự thật về con người ông được khám phá, ông Hồ vẫn hết sức giữ bí mật về những sự kiện quan trọng trong cuộc đời trước đây của mình và một số ít tác phẩm tự truyện của ông được viết dưới các bí danh khác nhau. Một trong số những tác phẩm đó được chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà xuất bản bằng nhiều thứ tiếng vào cuối những năm 1950. Chỉ trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu ở Hà Nội mới có thể khẳng định được rằng những tác phẩm đó được chính Hồ Chí Minh viết.
Khó khăn trong việc biên soạn tiểu sử Hồ Chí Minh lại càng lớn hơn vì không thể tiếp cận được các nguồn thông tin. Do ông đã sống và đi qua nhiều nước trong suốt cuộc đời nên những thông tin về các hoạt động của ông cũng bị tản mát ở nhiều châu lục. Ông còn biết một số ngoại ngữ và số lượng lớn các tác phẩm ông (bao gồm những cuốn sách nhỏ, những bài báo, phóng sự và những bức thư) được viết bằng nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Trung Quốc và Nga cũng như bằng tiếng Việt là tiếng mẹ đẻ của ông.
Mãi gần đây, các học giả vẫn chưa có được phần lớn những thông tin này. Thậm chí ngày nay các nhà nghiên cứu Việt Nam và nước ngoài không được tiếp cận các tư liệu lưu trữ tại Hà Nội. Những thông tin liên quan đến các hoạt động của ông ở Trung Quốc và Liên Xô cũng rất hạn chế và hiếm khi được chính phủ Trung Quốc hay Liên Xô tiết lộ. Hầu như chỉ có một quãng thời gian trong cuộc đời Hồ Chí Minh được tìm hiểu kỹ lưỡng là thời gian ngẵn ngủi ông ở Pháp sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918). Việc Pháp công khai các tài liệu lưu trữ thực dân vào đầu những năm 1970 đã giúp công chúng lần đầu tiên được tìm hiểu về những năm tháng đó của cuộc đời ông. Gần đây, những tuyển tập dày các tác phẩm của ông đã được xuất bản tại Việt Nam, tuy nhiên những tuyển tập này hoàn toàn không đầy đủ trong khi việc chính thức hiệu đính một số văn bản lại gây ra mối lo ngại về độ chính xác. Tài liệu lưu trữ của Quốc tế cộng sản III tại Mát-Xcơ-va một phần đã được công khai cho các học giả sử dụng, tuy nhiên các biên bản chi tiết về mối quan hệ giữa ông và các nhà Lãnh đạo Xô viết vẫn chưa được công bố cho các nhà quan sat bên ngoài.
Còn một câu hỏi nữa về Hồ Chí Minh liên quan tới đặc điểm lãnh đạo của ông. Mặc dù là người sáng lập Đảng Cộng Sản Đông Dương và là một nhân vật hàng đầu trong Phong trào cộng sản quốc tế nhưng ông không phải là một nhân vật có ảnh hưởng lớn như những nhà lãnh đạo cách mạng hiện đại khác như Lê-nin, Xta-lin hay Mao Trạch Đông; dường như sự lãnh đạo của ông Hồ dựa vào sự thuyết phục và đồng thuận thay vì áp đặt ý định của mình thông qua ảnh hưởng cá nhân. Ông cũng không viết nhiều về những tư tưởng hay động cơ bên trong của mình. Trái với các nhân vật cách mạng kiệt xuất khác, Hồ Chí Minh rất ít quan tâm đến ý thức hệ hay tranh luận tri thức, thay vào đó tập trung suy nghĩ và hành động của mình vào những vấn đề thực tiễn để giúp đất nước và các xã hội thuộc địa khác thoát khỏi chủ nghĩa đế quốc phương Tây. Vì những lý do đó, các học giả, và đôi khi cả những người đồng sự, luôn xem ông chỉ là một người hoạt thực tiễn hơn là một nhà lý luận cách mạng. Sự phân biệt này dường như không làm ông bận tâm. Một người khi phỏng vấn ông đã hỏi tại sao ông chưa bao giờ viết luận thuyết về ý thức hệ, ông đã hài hước trả lời rằng ý thức hệ là điều ông dành cho Chủ tịch Mao Trạch Đông. Các công trình nghiêm túc về học thuyết chủ nghĩa hay về chiến lược được xuất bản ở Việt Nam thường được các cộng sự của ông là Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh hay Lê Duẩn thực hiện.
Do chủ đề này còn gây tranh cãi cũng như sự hạn chế về những nguồn thông tin đáng tin cậy, không có gì ngạc nhiên vẫn chưa có một bản tiểu sử nghiêm chỉnh về Hồ Chí Minh được xuất bản bằng tiếng Anh trong hai mươi năm qua. Vào lúc cuộc chiến tranh ở Việt Nam lên đến đỉnh điểm, một số nghiêm cứu về tiểu sử Hồ Chí Minh đã được xuất bản, tuy nhiên phần lớn trong số này chỉ nhằm vào các đối tượng chứ không tận dụng triệt để các nguồn tài liệu sẵn có. Ở miền Bắc Việt Nam, một số tiểu sử chính thức hoặc bán chính thức đã được xuất bản nhưng tất cả đều bị mất đi giá trị bởi các nỗ lực thần thoại hoá ông như một vị thánh hơn là một nhân vật chính trị, mang tính biếm hoạ hơn là thực tế.
Ngày nay, khi những cảm xúc mạnh về chiến tranh ở Việt Nam đã bắt đầu lắng xuống và đã có thêm các nguồn tư liệu bổ sung ở nhiều nơi trên thế giới, chúng ta có đủ lý do lạc quan rằng có thể hiểu rõ hơn về cuộc đời Hồ Chí Minh. (Bản chất của những nguồn tư liệu này được đề cập ngắn gọn trong phần chú giải về các nguồn tư liệu về cuốn sách). Cho dù không thể làm sáng tỏ toàn bộ những bí mật cuộc đời ông, những người viết tiểu sử chuyên cần giờ đây đã có thể tập hợp được một số giả thuyết để trả lời một số câu hỏi thường xuyên được nêu ra về cuộc đời và nhân cách của ông. Tôi đã cố gắng trả lời những câu hỏi này trong cuốn sách cũng như trong phần chú giải cuốn sách về những vấn đề mang nhiều tính học thuật.
Rõ ràng là phần lớn những năm đầu cuộc đời ông – giai đoạn trước khi ông đến Pa-ri vào cuối Chiến tranh thế giới thư nhất thì chỉ có nguồn từ các bút tích của ông như đã nói trên và các nguồn lịch sử ở Việt Nam. Tuy nhiên, ở Việt Nam lĩnh vực được nhà nước hỗ trợ để mô ta ông như một truyền thuyết hay một nhân tài của thời đại rất phát triển. Một số nhà phê bình đã hoài nghi độ tin cậy của những thông tin về cuộc đời ông được các nguồn chính thức tại Việt Nam công bố. Sau khi xác minh kỹ các bằng chứng, tôi cho rằng phần lớn những thông tin đó là đáng tin cậy mặc dù có một số chi tiết còn gây thắc mắc và một số khác rõ ràng là không chính xác. Để tránh sự tranh luận kéo dài vô tận liên quan tới độ chính xác của các sự kiện về các hoạt động của ông, tôi đã quyết định thể hiện sự hiểu biết của mình về cuộc đời Hồ Chí Minh dưới dạng tường thuật đồng thời dành phần chú giải cuốn sách cho những tranh luận về các bằng chứng. Nếu có một số lý do hợp lý để nghi ngờ các giải thích nào đó về các sự kiện, vấn đề được nêu trong bài viết. Tôi hy vọng rằng điều này sẽ giúp thể hiện đặc điểm đầy kịch tính về cuộc đời Hồ Chí Minh và tầm quan trọng của đặc điểm đó trong việc hình thành lịch sử Việt Nam và thế kỷ hai mươi.
Hiện vẫn tồn tại vấn đề về thiên hướng chính trị. Cũng như thế hệ vừa qua không thể có cách nhìn về cuộc chiến ở Việt Nam một cách khách quan, và người viết tiểu sử này cũng khó tạo ra một bức tranh về người đã mang lại chiến thắng cho cộng sản mà không đưa ra thiên hướng chính trị của người đó. Qua nhiều thập kỷ, từ khi tôi hiểu biết nhiều hơn về cuộc đời của Hồ Chí Minh, tôi đã kính trọng tài năng và sự tận tâm của ông với tư cách là một nhà cách mạng mà không hề làm tôi mất đi khả năng đánh giá ông như một nhà cách mạng, một nhà chính trị và một con người. Tôi dần tin rằng sự thật bao giờ cũng phức tạp hơn hình ảnh trước công chúng mà người ta vẫn tưởng tượng, và đây là điều thường xẩy ra. Mặc dù luôn có sự thôi thúc để tìm ra một số sợi dây đơn lẻ xuyên suốt (“nhân vật giấu mặt…, trong câu kinh điển của Lê-ôn Ê-đen) tôi lại muốn để cho sự thật tự nói lên tất cả. Do vậy, tôi không cố gắng tạo ra những suy nghĩ hư cấu hay những câu chuyện hội thoại nhằm tìm cách giải thích của riêng tôi về những đặc điểm bên trong của ông. Giống như các nhân vật vĩ đại khác trong lịch sử, Hồ Chí Minh là một con người phức tạp và tương phản, có những tài năng và tính cách có một không hai làm cho ông khác biệt với những nhân vật quan trọng khác của thời đại.
Có thể một số độc giả sẽ thất vọng vì bài viết không đề cập nhiều tới những năm tháng cuối trong cuộc đời ông vào thời kỳ cao điểm của cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Trên thực tế, vai trò của Hồ Chí Minh trong việc tạo ra cuộc chiến nhìn chung quan trọng hơn nhiều do với ảnh hưởng của ông ở Hà Nội trong toàn bộ cuộc chiến tranh khi mà ông thường bị ốm hay phải sang trung Quốc trị bệnh. Do vậy, nhiều độc giả cũng sẽ nhận ra rằng phần lớn cuốn sách này sẽ đề cập đến những cá nhân và các sự kiện mà độc giả chưa biết tới. Tôi hy vọng rằng độc giả sẽ cảm thấy được bù lại bởi họ sẽ có được sự hiểu biết sâu sắc hơn về những nguyên nhân quan trọng của cuộc chiến tranh và những hậu quả của nó.
Trong tất cả những con người vĩ đại đều tiềm ẩn một vẻ huyền bí. Và một số người cảm thấy thích thú những vẻ huyền bí đó hơn cả về bản thân Hồ Chí Minh. Trong một cuộc phỏng vấn với Bơ-na-Phôn, một học giả nghiêm cứu về Việt Nam vào năm 1962, Hồ Chí Minh đã trả lời một trong những câu hỏi của ông Phôn: “Người già thích có một vẻ bí ẩn nho nhỏ về mình. Tôi muốn giữ lại những vẻ bí ẩn của mình. Tôi tin rằng anh sẽ hiểu được điều đó”. Trong ngôi đền thờ các nhân vật anh hùng cách mạng, Hồ Chí Minh hẳn sẽ rất vui khi biết rằng ít ra trong tiểu sử của mình, vẻ huyền bí xung quanh ông vẫn còn nguyên vẹn.
(Dưới đây là bài phỏng vấn GS William J. Duiker quanh cuốn sách này do BBC thực hiện)

Một cái nhìn Hồ Chí Minh từ nước Mỹ (BBC Việt ngữ)

Trước đây, người Mỹ nghiên cứu cuộc đời ông Hồ Chí Minh để hiểu đối thủ của họ trong cuộc chiến. Vậy ngày nay họ nhìn nhận Hồ Chí Minh như thế nào? Để có thêm một cái nhìn về ông Hồ, BBC phỏng vấn giáo sư người Mỹ William Duiker, tác giả cuốn “Hồ Chí Minh-Một cuộc đời”.
Chúng tôi hỏi giáo sư Duiker là vì sao mà vào lúc này nhà nước Việt Nam vẫn tiếp tục đề cao hình ảnh ông Hồ, như qua bộ phim ‘Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông”.
Giáo sư William Duiker: Nhận định cơ bản mà tôi có thể đưa ra ở đây là kể từ khi cuộc chiến Việt Nam chấm dứt và cùng với thời gian, qua quá trình thực hiện những nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội thì đảng cộng sản và nhà nước Việt Nam dần mất đi một phần lớn sự tin tưởng vào dân chúng vào khả năng của chính quyền trong kiến thiết hòa bình, trong việc đem lại thịnh vượng.
Và cùng với thời gian, người ta ngày càng lạnh nhạt cả về mặt tình và lý với những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác-Lênin, và sự thiếu vắng một nhân vật lãnh tụ có uy tín tầm cỡ như ông Hồ Chí Minh, vì thế có một khoảng trống về lãnh đạo. Và thế là họ tìm cách đưa ra một hình ảnh hiền từ và thân ái của ông Hồ để bù vào khoảng trống ̣đó và cũng để liên kết xã hội Việt Nam và tiếp nối truyền thống cách mạng của họ.
BBC:Ông nói rằng việc dùng hình ảnh của ông Hồ Chí Minh có tác dụng như một biện pháp liên kết và thống nhất xã hội, vậy ông nghĩ thế nào rằng có những người Việt Nam, nhất là những người ở miền Nam và những người phải bỏ chạy khỏi Việt Nam sau chiến tranh. Họ không thích ông Hồ như là những người khác?
Tôi hoàn toàn đồng ý với ý kiến đó và kinh nghiệm tôi thu lượm được trong những chuyến đi Việt Nam, sớm nhất là giữa thập niên 80 cho thấy điều đó. Tại miền Bắc Việt Nam thời gian đó, vẫn còn có khá nhiều người tôn kính ông Hồ, vì dù sao ông ấy cũng là lãnh tụ, là chủ tịch nước trong nhiều năm. Còn trong những lần tới miền Nam, tôi ghi nhận được rằng thái độ của nhiều người đối với ông Hồ nếu không hoàn toàn là phê phán thì cũng là không một chiều.
Một nhóm đông người Việt ở miền Nam cho rằng ông Hồ đã chịu trách nhiệm cho việc chia cắt Việt Nam, đưa đến cuộc chiến, một cuộc chiến có rất nhiều nạn nhân bị giết.
Nhưng điều tôi nói là nhìn từ phía chính quyền thì sau những năm hậu chiến, khi mà tham nhũng trở thành vấn đề lớn cả ở miền Nam lẫn miền Bắc, khi mà sự quản lý tồi tệ của nhiều cán bộ khiến dân chúng mất niềm tin thì đảng cộng sản thấy có nhu cầu tạo ra một động lực tinh thần khuyến khích dân chúng tin vào họ, tin vào những mục tiêu của cuộc cách mạng của họ.
Và họ thấy rằng ông Hồ Chí Minh là một nhân vật, dù đã chết, nhưng để lại một hình ảnh có thể giúp họ làm chuyện đó, tức là hỗ trợ cho đảng cộng sản trong việc liên kết xã hội. Họ muốn chuyển đổi tên tuổi rất nổi tiếng của ông Hồ khi sống thành một cái gì đó giúp họ đưa đẩy các chính sách bây giờ.
Tôi phải nói rằng theo ý tôi, họ tuy có thành công nhưng đó là một thành công ngày càng yếu đi, vì tôi thấy trong giới trẻ Việt Nam hiện nay, uy tín của ông Hồ ngày càng nhạt dần.
BBC:Nhìn ra bên ngoài Việt Nam thì tại sao cho đến giờ vẫn có các nhà nghiên cứu ở Phương Tây như ông quan tâm đến nhân vật Hồ Chí Minh? Ngay mới đây thôi Tiến sĩ Sophie Quinn-Judge cũng ra một cuốn sách về ông Hồ, ông thì ra một cuốn năm 2000. Tại sao các vị lại quan tâm tìm hiểu ông Hồ Chí Minh như vậy?
Phải trở lại với cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Khi đó, với tôi, để hiểu được cuộc chiến đó, để hiểu được vì sao người Việt Nam lại chiến đấu chống lại người Pháp và sau này là người Mỹ thì phải tìm ra một chìa khóa cho việc nghiên cứu. Chìa khóa đó là nhân vật Hồ Chí Minh. Ông là hiện thân của cuộc kháng chiến ở Việt Nam, có uy tín duy trì sự thống nhất tuy không phải hoàn toàn của phong trào cách mạng Việt Nam. Tôi nghĩ đối với bất cứ ai muốn tìm hiểu cuộc chiến Việt Nam thì việc tìm hiểu về ông Hồ Chí Minh là điều không thể thiếu.
BBC:Vậy ông đã tìm hiểu được những gì về ông Hồ Chí Minh?
Theo tôi ông Hồ Chí Minh đã rất thành công trong việc biến hai động lực trong xã hội Việt Nam thời gian đó thành chính con người ông ta. Tức là trong phong cách cá nhân của mình, ông Hồ Chí Minh đã thể hiện được ham muốn của dân Việt Nam, muốn được có công lý, gồm cả công bằng xã hội và công lý về chính trị, quyền được bên ngoài đối xử công bằng. Và điều thứ hai ông thể hiện được là tạo ra một cuộc cách mạng với mục tiêu đem lại cuộc sống tốt hơn cho người Việt Nam.
BBC:Nhưng có những người Việt Nam, nhất là những người chống lại chủ nghĩa cộng sản cho rằng ông Hồ Chí Minh phải chịu trách nhiệm cho việc đem chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam, người ta còn nhắc đến thời kỳ Cải cách Ruộng Đất khi ông làm lãnh tụ, khi mà hàng nghìn người đã bị giết?
Điều tôi muốn nói ở đây là ông Hồ có tài, có khả năng biến những ước vọng của người dân thành điều gì đó gắn liền với hình ảnh và phong cách của ông ta. Còn con người ông và những gì ông làm về mặt thực tế lại là chuyện khác. Tôi chỉ muốn nói đến hình ảnh về bản thân mà ông thể hiện ra.
Ông Hồ Chí Minh không chỉ thể hiện bằng bản thân mình những khát vọng của dân chúng mà còn tạo ra hình ảnh như một người chí sĩ của truyền thống. Từ điểm này, tôi còn muốn đi xa hơn nữa để nói rằng ông Hồ Chí Minh trong cuộc đời thực là một con người khác với hình ảnh đó, nhưng ông đã dùng thủ đoạn một cách cố ý để sử dụng hình ảnh về bản thân cho mục đích chính trị.
Và trong quá trình nghiên cứu ông Hồ Chí Minh tôi đã đi đến nhận xét rằng có những lúc ông Hồ đã nhận định sai các động lực trong xã hội Việt Nam và thậm chí trình bày con người ông và đảng của ông ra bên ngoài một cách không chính xác.
Còn nói về giai đoạn ông cầm quyền trong thập niên 50 và 60 ở miền Bắc Việt Nam thì tôi cho rằng ông đã không có khả năng hạn chế những hành động cực đoan trong đảng và nhà nước vào thời gian Cải Cách Ruộng Đất và Nhân văn Giai phẩm. Vì thế, thành tích chung cuộc lại của ông Hồ Chí Minh với tư cách một nhà chính trị là khá phức tạp chứ không đơn giản như những gì người ta đưa ra.
BBC:Hiện nay, cuộc chiến Việt Nam đã chấm dứt 27 năm rồi, vậy hình ảnh ông Hồ Chí Minh ở Hoa Kỳ là thế nào, hay ít nhất trong giới trí thức Mỹ là thế nào?
Nay, khi mà cuộc chiến đã kết thúc hơn một phần tư thế kỷ rồi thì hình ảnh ông Hồ Chí Minh ở Hoa Kỳ như một kẻ đối kháng lại nước Mỹ đã nhạt đi nhiều. Trong giới trẻ Mỹ, nhiều người không có bất cứ một cảm nghĩ gì về ông cả.
Nhưng điều thú vị mà tôi quan sát thấy là trong những người cao tuổi hơn, còn nhớ đến chiến tranh Việt Nam ở Hoa Kỳ thì có một sự chia rẽ rõ ràng trong cách nhìn ông Hồ Chí Minh, và nó giống hệt như sự chia rẽ trong người Mỹ vào thời gian cuộc chiến. Những người Mỹ nào từng chống lại cuộc chiến thì nay vẫn giữ quan điểm mến mộ ông Hồ Chí Minh, còn những người tham gia tích cực hay ủng hộ chính phủ Hoa Kỳ trong cuộc chiến thì có quan điểm phê phán ông dù tình cảm đó không còn mạnh như trước nữa.
Tôi cũng nhắc luôn là sự khác biệt trong cách nhìn nhận nhân vật Hồ Chí Minh còn rất nặng nề trong những người Mỹ gốc Việt. Tôi hiểu ra điều này khi ra cuốn sách về ông vài năm trước. Đa số những người thuộc thế hệ đã sống trước 1975 ở miền Nam Việt Nam và phải bỏ Việt Nam sang Hoa Kỳ sau chiến tranh, họ có thái độ chống đối ông Hồ Chí Minh rất mạnh mẽ, và họ cho rằng cuốn sách của tôi không phê phán ông đủ mức độ.
Còn những người Mỹ gốc Việt trẻ tuổi, những người sinh trưởng ở Mỹ thì tuy có một sự quan tâm như là hiếu kỳ về con người ông Hồ Chí Minh nhưng họ không có một tình cảm mạnh nào, dù về hướng này hay hướng kia, đối với ông Hồ.
Nhìn chung thì ở Mỹ bây giờ người ta không quan tâm nhiều đến ông Hồ như là một nhân vật gây tranh cãi trong những người Mỹ như trước nữa.
BBC:Theo ông, việc nhà nước Việt Nam cổ xuý cho cách tạo dựng hình ảnh ông Hồ Chí Minh có ảnh hưởng xấu gì đến quan hệ Việt Nam với Hoa Kỳ ngày nay không?
Tôi không nghĩ rằng điều đó có tạo ra một tác động, một ảnh hưởng nào đến nước Mỹ. Theo tôi hiểu thì việc chính quyền Việt Nam dùng hình tượng Hồ Chí Minh theo ý họ bây giờ là nhằm vào mục đích chính trị nội bộ. Tôi tin rằng đa số người Việt cho rằng hình ảnh được tạo dựng ra về ông Hồ Chí Minh là giả tạo mà thôi.
Còn trong quan hệ với Hoa Kỳ thì tôi cho là chuyện đó không có gì quan trọng cả. Nhưng nhân đây tôi xin kể một câu chuyện mà chính tôi là người tham gia. Trong thập niên 80, khi tôi phỏng vấn và nói chuyện với các nhân vật của chính quyền Việt Nam khi soạn các tài liệu về ông Hồ Chí Minh thì người ta đã cố gắng đưa ra hình ảnh ông Hồ Chí Minh như một người bạn của nước Mỹ. Trong những cuộc nói chuyện với tôi, các quan chức và nhà nghiên cứu của Việt Nam lộ rõ ý định này. Tôi hiểu đó là vì mục tiêu chính trị của Việt Nam khi ấy muốn cải thiện và bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ.
BBC:Cách họ làm việc đó ra sao thưa giáo sư?
Các quan chức và các sử gia Việt Nam mà tôi gặp đã tìm cách thuyết phục tôi rằng theo họ, ông Hồ Chí Minh là một người rất thân thiện với nước Mỹ nhưng bị nước Mỹ phản bội. Họ nhắc lại sự kiện năm ông Hồ Chí Minh viết thư cho tổng thống Truman xin Hoa Kỳ công nhận nước Việt Nam sau thế chiến thứ Hai. Nhưng ông Hồ Chí Minh đã không nhận được thư trả lời. Họ nhắc đến chuyện ông Hồ đã giúp quân đồng minh và người Mỹ đánh Nhật v.v.
BBC:Và các nỗ lực tạo ra hình ảnh ông Hồ Chí Minh là người bạn của Hoa Kỳ đó có tác dụng gì không?
Tôi chỉ có thể nói về phần mình là tôi luôn ý thức được rằng việc làm đó của họ có mục đích chính trị là bình thường hóa quan hệ với Washington. Còn về mặt lịch sử, tôi đã trả lời họ rằng: “Quý vị có biết là thời gian đó ông Hồ Chí Minh còn viết cả thư tương tự cho lãnh tụ Liên Xô là Stalin (cười) xin công nhận Việt Nam nhưng cũng chẳng nhận được thư đáp lại gì cả”. Và họ nói là họ không biết chuyện ấy.
BBC:Vậy theo ông tại sao Hoa Kỳ khi đó không muốn công nhận nước Việt Nam?
Phải nói rằng trong chính giới Mỹ cho đến nay và trong cả các sử gia Mỹ có một xu hướng cho rằng đúng là người Mỹ khi đó đáng ra phải nhìn nhận rõ hơn nhân vật Hồ Chí Minh sau Thế Chiến. Nhưng nên nhớ rằng thời gian đó, ở Hoa Kỳ không có một sự quan tâm đáng kể nào về Việt Nam cả.
Sau Thế Chiến Hai, Washington chỉ quan tâm đến quan hệ tốt với nước Pháp, nhất là tại châu Âu vì chúng tôi muốn ngăn chặn sự bành trướng của cộng sản Nga tại châu Âu và Hoa Kỳ phải giúp nước Pháp. Thực ra khi đó người Mỹ cũng chẳng mấy lo ngại về chuyện ông Hồ có phải là cộng sản hay không. Mà vì cả nước Việt Nam không nằm ở một vị trí nào trong nghị trình chính trị của nước Mỹ. Hoa Kỳ khi đó lo lắng cho vai trò của Pháp. Còn Việt Nam khi đó, nói một cách hình ảnh là, không phải là một điểm đáng chú ý nào trên màn ra-đa của nước Mỹ khi đó.
BBC:Thế còn bây giờ thì sao? Theo những gì giáo sư biết thì Việt Nam được nhìn nhận trong chính giới Hoa Kỳ ra sao?
Tôi nghĩ rằng tình hình thế giới bây giờ sau các vụ tấn công khủng bố 11/09 đã khác trước rất nhiều. Hoa Kỳ quan tâm đặc biệt đến Iraq, đến Trung Đông, đến tình hình ở Palestin. Còn về Việt Nam thì có rất ít, rất ít sự chú ý. Mà không chỉ Việt Nam, các nước khác ở Đông Nam Á cũng không còn được quan tâm ở Hoa Kỳ.
Theo ý tôi, thì nếu có một tâm lý, một thái độ chung về Việt Nam trong giới chính trị Hoa Kỳ thì nó là Hoa Kỳ đã có một quyết định thông minh khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam thời tổng thống Clinton. Và sau khi đã bình thường hóa quan hệ với Việt Nam thì nay có một thái độ của đa số trong Hạ Viện là Hoa Kỳ cần đưa người Việt Nam, cả về mặt kinh tế và xã hội cũng như chính trị, tham gia vào nhiều hơn các hoạt động hướng tới kinh tế thị trường, để Việt Nam cải thiện hơn tình hình nhân quyền trong nước và đi về hướng kinh tế thị trường hơn nữa.
Có một nhóm trong chính giới Hoa Kỳ có thái độ phê phán mạnh hơn đối với Việt Nam về vấn đề nhân quyền. Nhưng nhìn chung thì Việt Nam không phải là một điểm quan trọng trong các vấn đề của nước Mỹ. Tuy vậy, theo tôi nghĩ, các chính trị gia Hoa Kỳ có chung quan điểm rằng sau khi đã bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, đã ký với Việt Nam hiệp định thương mại thì nay hãy để Việt Nam tiến dần dần nhưng nhất quán về hướng gia nhập các tổ chức quốc tế. Họ tin và hy vọng rằng tất cả những điều này sẽ làm cho chính sách của Việt Nam ôn hòa hơn và khuyến khích một xu hướng trong xã hội Việt Nam đi về phía một xã hội đa nguyên hơn về kinh tế và đa nguyên hơn cả về chính trị trong tương lai.
BBC:Trở lại câu chuyện của chúng ta về ông Hồ Chí Minh, nói một cách giả tưởng thì giáo sư có cho rằng nếu ông Hồ Chí Minh còn sống bây giờ, ông ấy có đem lại thay đổi gì cho chính trị Việt Nam ngày nay không?
Ngay cả sau nhiều năm bỏ công sức ra nghiên cứu về ông Hồ Chí Minh tôi phải nói rằng có nhiều mặt trong cuộc đời của ông ta quả thật là khó tìm hiểu một cách thấu đáo. Nhưng nói như vậy thì tôi phải nói ngay rằng nếu còn sống hay sống lại ngày hôm nay thì ông Hồ Chí Minh đã đứng đầu trong việc thực hiện các cuộc cải tổ gọi chung là Đổi Mới.
Ông ta sẽ nhanh chóng hơn trong việc bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ, với Trung Quốc. Vì khi còn sống, ông ta là một người thích làm những việc tưởng như không làm nổi. Và ông là một người rất thực tiễn. Ông có cái nhìn thực tiễn hơn về cán cân quyền lực trên thế giới. Nếu ông sống vào thời nay thì tôi tin là ông sẽ cố gắng có hiệu quả hơn trong việc nhân đạo hóa cuộc cách mạng Việt Nam, hơn những người đã lãnh đạo Việt Nam từ chiến tranh đến nay.
BBC:Ông có nghĩ là ông Hồ Chí Minh nếu sống vào thời gian này thì có thay đổi nền tảng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hay không?
Không. Khác với một số nhà nghiên cứu cho rằng nếu còn sống thì ông Hồ Chí Minh đã bỏ chủ nghĩa xã hội, tôi tin rằng ông ấy về bản thân là một nhân vật theo chủ nghĩa xã hội. Nhưng vì là người có làm quen với Phương Tây, ông sẽ có thái độ dung thứ hơn với những người bất đồng chính kiến, khác với các nhân vật lãnh đạo sau ông chỉ chịu ảnh hưởng của Trung Quốc và Liên Xô.
Nhưng có một vài điểm tôi muốn làm rõ ở đây. Theo tôi, ông Hồ Chí Minh vẫn theo đuổi CHXH nhưng là một thứ CHXN thực tiễn hơn. Tuy vậy, cũng phải nói rằng dù trong nhiều năm người ta cứ nghĩ rằng ông Hồ Chí Minh là một chính trị gia mạnh mẽ, thuyết phục người khác bằng phép lạ của uy tín cá nhân, luôn liên kết cả đảng và nhà nước và làm chủ được những nhân vật đứng dưới ông trong đảng.
Nhưng thực tế không phải như vậy. Trong cả hai chục năm trước khi ông chết, tức là sau khi những người cộng sản làm chủ miền Bắc Việt Nam, ông Hồ Chí Minh trong những năm cuối đời, ông không có đủ ảnh hưởng, đủ sức mạnh ý chí để tác động hạn chế những việc làm cực đoan của các đồng chí của ông trong đảng.
Bây giờ, nếu ông Hồ Chí Minh còn sống hay có sống lại, chưa chắc ông đã làm chủ được tình thế và các nhân vật khác trong đảng cộng sản Việt Nam. Vì thế, tôi tin là nếu còn hoạt động vào thời gian này, chắc chắn ông sẽ là người cổ vũ mạnh cho cải cách chủ nghĩa xã hội theo chiều hướng thực tiễn hơn nhưng tôi không dám chắc là ông có đủ sức mạnh để áp dụng đường lối đó một cách có hiệu quả như ông muốn hay không.
—-

CHƯƠNG XIII

ĐỊA ĐIỂM MANG TÊN ĐIỆN BIÊN PHỦ

Dự đoán rằng Hồ Chí Minh sẽ về thủ đô ăn Tết năm 1951 quả là hấp tấp. Mặc dù trong giai đoạn khởi đầu, cuộc tấn công của Việt Minh đã bắt đầu một cách đầy hứa hẹn – với việc các đơn vị Việt Minh từ các cánh rừng dưới chân núi Tam Đảo tràn ra trong một cuộc tấn công theo kiểu “biển người” của Trung Quốc nhằm vào các vị trí của đối phương tại Vĩnh Yên – các chỉ huy của họ đã đánh giá thấp quyết tâm của tướng Giăng Đơ Lát Đơ Tát-xi-nhi mới đến Đông Dương ngày 19 tháng 12 năm 1950 với tư cách là Cao uỷ mới và Tổng tư lệnh các Lực lượng viễn chinh Pháp (FEF) tại Đông Dương. Đơ Lát là đối thủ xứng đáng của tướng Giáp. Là một anh hùng chiến tranh và một con người vô cùng tự tin và có hàm quân sự cao nhất, Đơ Lát đã hành động ngay lập tức để củng cố vị thế quân Pháp. Để nâng cao tinh thần binh lính, ông huỷ bỏ lệnh của người tiền nhiệm sơ tán nhân dân Pháp khỏi Hà Nội. Để bẻ gẫy cuộc tấn công của Việt Minh, ông đã huy động lực lượng dự bị chiến lược từ các nơi khác đồng thời ra lệnh cho máy bay Pháp sử dụng bom na-pan mới tiếp nhận từ Hoa Kỳ.
Kết quả thật kinh ngạc. Binh lính Việt Minh chưa từng gặp phải tác động của ga cháy, đã tháo chạy tán loạn và thị xã Vĩnh Yên vẫn nằm trong quyền kiểm soát của người Pháp. Một người tham gia lực lượng tấn công sau này viết:
“Đơn vị của chúng tôi tấn công từ buổi sáng. Từ xa, ba con chim yến hiện ra to dần. Đó là những chiếc máy bay. Chúng bổ nhào và địa ngục mở ra ngay trước mắt tôi. Địa ngục trông giống như một chiếc công-te-nơ chứa đầy những quả trứng khổng lồ rời xuống từ chiếc máy bay đầu tiên, rồi từ chiếc thứ hai rơi xuống ngay bên phải tôi…Một quầng lửa dữ dội lan ra tới hàng trăm mét, gieo rắc kinh hoàng trong binh lính. Đó là bom na-pan, đám cháy từ trên trời rơi xuống. Một chiếc máy bay khác lại đến và các đám cháy mới lại bùng lên. Bom rơi phía sau chúng tôi và tôi cảm thấy hơi lửa đang lan toả khắp người tôi. Binh lính tháo chạy và tôi không thể nào cản họ lại được. Không có cách nào sống được dưới quầng lửa đang hoành hành và thiêu rụi mọi thứ trên đường đi của nó.”
Theo một báo cáo tình báo của Mỹ, khoảng từ 3.500 đến 4.000 lính trong tổng số 10.000 lính tham gia cuộc tấn công của Việt Minh đã bị thương. 400 lính Pháp chết và 1.200 bị thương. Các cuộc tiến công sau đó vào Mạo Khê và các cứ điểm dọc sông Đáy ít thành công hơn và cuối cùng, sau khi chịu nhiều thương vong, họ phải rút lên núi. Khi mối đe doạ đối với Hà Nội tạm thời dịu xuống, Đơ Lát thú nhận rằng quyết định huỷ bỏ lệnh sơ tán của ông chỉ là “tiếng huýt sáo trong bóng tối” và là một cuộc trình diễn trên khán đài nhằm khôi phục niềm tin của công chúng.
Không những không mở được đường tiến về Hà Nội, cuộc tiến công lại là một thất bại của các lực lượng Việt Minh và thực sự là một thất bại cá nhân đáng xấu hổ của Võ Nguyên Giáp – nhà chiến lược thượng hạng của Hồ Chí Minh. Mấy tuần sau đó, Bộ Tổng tham mưu bắt đầu suy tính lại cách đánh của mình. Tại một cuộc họp của các cán bộ cao cấp trong Đảng tổ chức giữa tháng 4, Hồ Chí Minh kêu gọi tự kiểm điểm để rút kinh nghiệm từ những bài học vừa qua và chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới. Một chương trình phát thanh của Việt Minh tháng 5 đã nói rằng chỉ nên phát động các chiến dịch quân sự lớn khi cầm chắc chiến thắng. Các nguồn tin chính thức đã thôi thúc không dùng khẩu hiệu “chuẩn bị chuyển sang giai đoạn tổng tấn công” và bắt đầu nhấn mạnh đến tầm quan trọng của một cuộc kháng chiến trường kỳ. Trong các bài viết và nói chuyện của mình cuối năm 1951, Hồ Chí Minh đã gián tiếp đưa ra quan điểm tương tự, nói đến tầm quan trọng của kỹ thuật chiến tranh du kích trong việc tiến hành một cuộc đấu tranh lâu dài chống lại kẻ thù. Các cố vấn Trung Quốc rũ bỏ trách nhiệm thất bại bằng cách báo cáo cho cấp trên (một cách muộn màng) rằng binh lính Việt Minh thiếu kinh nghiệm cần thiết để tiến hành một chiến dịch quân sự đầy tham vọng như vậy. Họ cũng khuyên nên chuyển sang áp dụng chiến tranh du kích. Ông Giáp cũng thừa nhận rằng đối đầu với quân đội Pháp được trang bị tốt hơn trong một trận chiến bằng những lực lượng vẫn còn thiếu kinh nghiệm của mình là một sai lầm, và các lực lượng này đôi khi không có được một mức độ quyết chiến và quyết tâm cần thiết.
Tuy ảnh hưởng của Trung Quốc đối với chiến lược chiến tranh du kích của Việt Minh ngày càng trở lên nên rõ nét sau năm 1950, tác động của nó cũng rõ nét trong các thay đổi đang diễn ra trong chính sách đối nội của Việt Minh. Từ giữa những năm 50, các cán bộ Trung Quốc mặc trang phục kiểu Mao miệng hô hào các khẩu hiệu cách mạng bắt đầu đến Việt Nam với số lượng lớn để cố vấn cho phía Việt Nam trên mọi phương diện quản lý và hành vi ứng xử. Trước khi họ rời Trung Quốc, Lưu Thiếu Kỳ đã cẩn thận chỉ thị cho các thành viên của đoàn cố vấn không được áp đặt các kỹ thuật Trung Quốc vào Việt Nam, nhưng nhiều người đã phớt lờ lời khuyên này và làm dấy lên sự bực tức trong hàng ngũ binh lính và sĩ quan Việt Nam, những người từ lâu đã nhạy cảm trước thái độ trịnh thượng của những người anh em phương Bắc.
Đối với nhiều người Việt Nam, việc thiết lập các chương trình giáo dục tư tưởng cho đảng viên biểu hiện rõ nhất của ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc. Theo lý thuyết của Mao, mục đích của chương trình này là khích lệ cải huấn tư tưởng các đảng viên, nhưng nó lại thường biến tướng thành sự sỉ nhục và trừng phạt, thường mang đặc điểm của xung đột giai cấp khi các cán bộ xuất thân trong hoàn cảnh nghèo khó trả thù các đồng đội xuất thân từ các gia đình giàu có. Theo lời kể của một số người tham gia các chương trình này, chiến thuật tự kiểm điểm – trọng tâm của chương trình- đã làm kinh hoàng rất nhiều các bộ Việt Minh, những người hầu hết đã đọc một số tác phẩm Mác-xít-Lê-nín và động cơ tham gia phong trào Việt Minh của họ thường là vì lòng yêu nước hơn là ý thức hệ.
Kết quả của việc giáo dục tư tưởng này nhiều khi là bi kịch. Theo Gioóc Bu-đa-ren, một người cộng sản Pháp từng phục vụ trong một đơn vị của Việt Minh trong những năm đầu thập kỷ 50, người ta tịch thu dao cạo râu của các cán bộ Việt Minh bị tổn thương về tinh thần nhằm ngăn họ tự sát; đèn trong các lều của các trại huấn luyện được thắp sáng suốt đêm có lẽ cũng vì lý do này. Chính uỷ Việt Minh được cử xuống tất cả các đơn vị để theo dõi động cơ tư tưởng của binh sĩ. Nếu như chính uỷ và sĩ quan chỉ huy của một đơn vị bất đồng thì chính uỷ sẽ có quyền quyết định cuối cùng.
Bu-đa-ren cho rằng chính sách này có tác dụng tiêu cực. Trước mắt, chính sách này đẩy nhiều trí thức yêu nước ra khỏi phong trào và phá vỡ sự đoàn kết đang tồn tại trước đó giữa những người trung hoà và cấp tiến trong Đảng. Về lâu dài, hậu quả của các chính sách này rất nguy hại vì lo sợ bị phê bình và trả thù sẽ làm tê liệt tính sáng tạo của các văn nghệ sĩ. Các nguồn tin tình báo Pháp đã thu được nhiều tài liệu nói về sự rạn nứt giữa cán bộ Việt Nam và chuyên gia Trung Quốc; những người đào ngũ khỏi hàng ngũ Việt Minh thường viện dẫn việc họ rời bỏ cách mạng là do ảnh hưởng thái quá của học thuyết Mao-ít. Ngay cả những người ủng hộ Việt Minh và chấp thuận việc cần phải nghe theo những lời khuyên chiến lược từ các cố vấn Trung Quốc đôi khi cũng chán nản trước việc các chuyên gia Trung Quốc gần như đang chỉ huy các đơn vị quân đội của Việt Nam. Những người đào ngũ nói rằng nhiều cán bộ trung – cao cấp của Việt Minh đã bị thanh trừng do sức ép của Trung Quốc. Theo các nguồn tin từ phía Pháp, có thể là do sức ép của phía Trung Quốc mà tướng Nguyễn Bình, tư lệnh các lực lượng Vịêt Minh ở miền Nam và là người bị cho là phê phán ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc trong phong trào Việt Minh đã bị mất chức tháng 9 năm 1951 và được lệnh ra bắc để “định hướng lại” . Các nguồn tin chính thức của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tuyên bố rằng ông đã bị giết trong một cuộc đụng độ với các lực lượng bảo hoàng Cam-pu-chia-a trên đường ra Việt Bắc; các báo cáo chưa được kiểm chứng thì nói rằng ông bị bắt đưa đi và “vui vẻ chấp thuận cái chết định mệnh trong chiến đấu hơn là bị xử tử”.
Ảnh hưởng của Trung Quốc bắt đầu lan đến vùng nông thôn nơi chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà áp dụng các quy định về cải cách ruộng đất ngày càng chặt chẽ hơn. Các quy định này tập trung xoá bỏ ảnh hưởng kinh tế và chính trị của giai cấp địa chủ ở cấp xã. Kể từ khi chiến tranh bùng nổ tháng 12 năm 1946, chính sách ruộng đất của chính phủ phản ánh quyết định của Hồ Chí Minh đặt ưu tiên vào cuộc đấu tranh phản đế lên trên cách mạng phản phong. Vì thế chương trình kêu gọi giảm tô nhưng chỉ giới hạn việc tịch thu đất canh tác thuộc quyền sở hữu của các công dân Pháp và những người cộng tác với chính quyền Bảo Đại. Đất của các địa chủ yêu nước và các nông dân giàu có không bị tịch thu nhằm lôi kéo sự ủng hộ của những đối tượng này đối với phong trào.
Tuy nhiên, đến đầu những năm 50, ngày càng có nhiều chỉ trích từ giới quân sự rằng rất nhiều quy định của chương trình này đã bị phớt lờ ở cấp địa phương nơi rất nhiều địa chủ không thực hiện quy định giảm tô. Các lãnh tụ của Đảng như Trường Chinh lập luận rằng do không huy động được sự ủng hộ mạng mẽ hơn nữa của những tầng lớp dân nghèo ở nông thôn, chương trình này không đáp ứng lợi ích của cách mạng. Các cố vấn Trung Quốc với những kinh nghiệm mới mẻ về chương trình cải cách ruộng đất triệt để đang được tiến hành tại Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa bắt đầu thúc giục các cán bộ Việt Nam đối đầu với các phần tử “phong kiến” ở nông thôn một cách trực diện hơn. Kết quả là các quy định giảm tô và giới hạn việc tham gia của các địa chủ trong hội đồng xã bắt đầu được thực hiện chặt chẽ hơn.
Sự kiện nổi bật nhất đánh dấu sự chuyển hướng quyết định sang phía tả của chính phủ xẩy ra vào tháng 2 năm 1951 khi Đảng tổ chức Đại hội toàn quốc lần thứ hai – đại hội đầu tiên được tổ chức sau đại hội tại Ma Cao tháng 3-1935 – tại một địa điểm bí mật ở tỉnh Tuyên Quang, sâu trong rừng Việt Bắc. Tổng số 200 đại biểu đại diện cho khoảng nửa triệu đảng viên đã tham dự cuộc họp.
Có nhiều lý do xác đáng để tổ chức đại hội. Trước hết, mặc dù Đảng Cộng sản Đông Dương đã giải thể công khai tháng 11 năm 1945, tổ chức này vẫn lớn mạnh nhanh chóng trong những năm cuối thập kỷ 40 và rất nhiều đảng viên – đại đa số có nguồn gốc là nông dân và tiểu tư sản – mới chỉ được rèn luyện rất ít về hệ tư tưởng. Nhiều cán bộ bị nhiễm cái mà tài liệu của Đảng gọi là “thái độ phong kiến” (bao gồm những điều bị coi là tệ nạn xã hội như tín ngưỡng và mê tín, hống hách, gia trưởng), “đầu óc du kích” (ngụ ý thái độ bí mật và nghi ngờ người ngoài) và trình độ nhận thức chính trị thấp. Trong báo cáo trước các đại biểu, Tổng bí thư Trường Chinh tuyên bố rằng việc chống lại ảnh hưởng to lớn của chủ nghĩa cá nhân, ngạo mạn, thái độ và việc làm quan liêu, tham nhũng và đạo đức lỏng lẻo trong đảng viên là vô cùng quan trọng. Ông khẳng định rằng chỉ một Đảng Cộng sản có kỷ luật cao và trong sáng trước công chúng mới có khả năng đóng vai trò tích cực trong đấu tranh chống những tệ nạn đó và đóng vai trò tiên phong trong lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc trong việc hoạch định chính sách đối nội cũng được thừa nhận công khai tại Đại hội. Trường Chinh tuyên bố rằng nước Việt Nam tương lai sẽ áp dụng mô hình “chuyên chính dân chủ nhân dân” kiểu Trung Quốc chứ không theo mô hình “chuyên chính vô sản” Đông Âu theo kiểu Liên Xô. Theo mô hình Trung Quốc, mục tiêu trước mắt là tiến hành giai đoạn đầu của cách mạng dân tộc chủ để chuẩn bị cho cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa sau này, nhưng không có thời kỳ quá độ kéo dài giữa hai giai đoàn này. Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, theo cách nói của Lê-nin, sẽ “phát triển” sang giai đoạn xã hội chủ nghĩa. Để giành được sự ủng hộ rộng rãi của dân chúng, Mặt trận Việt Minh – một liên minh rộng rãi của các lực lượng yêu nước được hình thành năm 1941 và hiện công chúng thấy rõ là đang chịu sự lãnh đạo của những người cộng sản – cần được đổi tên thành Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam hay Mặt trận Liên Việt.
Để hoàn thành nhiệm vụ của mình, Đảng Cộng sản Đông Dương cũng cần có tên mới – Đảng Lao động Việt Nam. Khi đưa từ dễ gây xúc động “Việt Nam” vào tên Đảng, các nhà lãnh đạo rõ ràng đã công nhận tầm quan trọng to lớn của cuộc đấu tranh phản đế trong việc giành sự ủng hộ của dân chúng, một quan điểm mà bản thân Hồ Chí Minh luôn tâm niệm kể từ giữa những năm 20. Đồng thời, quyết định này cũng là một cử chỉ ngầm đáp lại tinh thần dân tộc chủ nghĩa đang dâng lên ở các nước Lào và Cam-pu-chia-a, nơi các đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương người Lào và Khơ-me ngày càng thấy khó chịu trước sự chỉ đạo, đôi khi có tính chất nhồi nhét của các cấp trên người Việt và đòi phải có Đảng riêng của mình. Đảng lúc này đã chính thức công nhận rằng cách mạng ở ba nước sẽ phát triển với tốc độ khác nhau và mỗi nước sẽ có đảng riêng của mình để đóng vai trò tiên phong trong quá trình đó. Trong khi Việt Nam đang tiến tới cách mạng dân tộc dân chủ và sau đó tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, Lào và Căm-pu-chia đã đi theo hướng dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa của họ sẽ bị trì hoãn một số năm.
Tuy nhiên, quyết định tách Đảng Cộng sản Đông Dương thành ba đảng riêng biệt không có nghĩa là Hồ Chí Minh và các cộng sự không còn quan tâm đến các nước khác ở Đông Dương. Ngược lại, mặc dù các tổ chức được thiết lập tại Lào và Cam-pu-chia-a mang tên Đảng Nhân dân Cách mạng, kế hoạch thiết lập một liên minh chặt chẽ giữa ba nhóm đã được đưa ra ngay sau khi Đại hội II kết thúc. Theo một tài liệu chính thức của Đảng được đưa ra tại Đại hội sau này Pháp lấy được, người Việt Nam không hề có ý định chấm dứt sự kiểm soát đối với phong trào cách mạng trên toàn Đông Dương. Tài liệu này tuyên bố “Đảng Việt Nam giữ quyền giám sát hoạt động của các đảng anh em ở Lào và Cam-pu-chia-a.” Và mặc dù các nguồn tin của Việt Nam sau này xác nhận rằng quan niệm về một liên bang Đông Dương (lần đầu tiên được đề cập tại Hội nghị Ma Cao năm 1935) đã được công khai từ bỏ lại Đại hội năm 1951, nhưng tài liệu tịch thu được này lại nói ngược lại, rằng mặc dù có ba đảng riêng biệt, “sau này, nếu điều kiện cho phép, ba đảng cách mạng ở Việt Nam, Lào, Cam-pu-chi-a sẽ có thể thống nhất lại để thành lập một đảng duy nhất : Đảng liên bang Việt-Khơ-me-Lào”
Quyết định duy trì quan hệ chặt chẽ giữa ba nước, đoàn kết thống nhất trong Liên hiệp Pháp chứng tỏ rằng giới lãnh đạo Đảng nhận thấy tầm quan trọng chiến lược của Đông Dương như một khối thống nhất. Trong một cuốn sách học của Đảng mà người Pháp thu được năm 1950, ba nước được miêu tả như một khối thống nhất từ quan điểm đến địa lý, kinh tế, chính trị và chiến lược. Tài liệu này nói rằng các phong trào cách mạng ở ba nước được định hướng giúp đỡ lẫn nhau trong mọi lĩnh vực để tiến hành cuộc đấu tranh chống đế quốc xâm lược và xây dựng “nền dân chủ mới” trong tương lai.
Dấu ấn của Hồ Chí Minh có thể được tìm thấy trong nhiều tài liệu được Đại hội thông qua. Các cộng sự của ông đã chiếu theo ý kiến kiên quyết của Hồ Chí Minh cần phải đặt mục tiêu phản đế lên trên phản phong ở Đông Dương và công nhận cần phải hiệu triệu những phần tử ôn hoà trong xã hội Việt Nam. Nhấn mạnh đến tầm quan trọng của cuộc cách mạng hai giai đoạn (dù có ngắn đến đâu) và sự cần thiết phải áp dụng ý thức hệ cách mạng vào điều kiện cụ thể ở mỗi nước, các đảng viên đã hưởng ứng khuynh hướng thực dụng, điều luôn là ý tưởng của ông từ những ngày đầu tiên của phong trào.
Tuy nhiên, khó tránh khỏi kết luận là Bắc Kinh cũng có ảnh hưởng chính đằng sau những quyết định tại Đại hội II. Bằng việc quyết định lập lại Đảng Cộng sản như một “lực lượng đưa đường chỉ lối” hiện hữu thúc đẩy cách mạng Việt Nam, người Việt Nam đã đáp lại chỉ trích từ Trung Quốc và Liên Xô rằng cuộc đấu tranh của họ từ trước đến giờ vẫn thiếu màu sắc Mác-xít cần thiết. Việc sử dụng thuật ngữ “nền dân chủ mới” là một sự bắt chước trực tiếp từ một mô hình mới được chính người Trung Quốc áp dụng, trong khi nhấn mạnh đến “sự lớn mạnh” của cách mạng từ giai đoạn một sang giai đoạn hai, họ nhấn mạnh đến những quan ngại từ phía Mát-xcơ-va và Bắc Kinh rằng Đảng Cộng sản Đông Dương vẫn chưa chính thống trong các hoạt động của mình.
Phản ứng của Hồ Chí Minh trước các quyết định tại Đại hội có lẽ lẫn lộn. Là một người có đầu óc thực tế, ông hiểu tầm quan trọng của việc xoa dịu Bắc Kinh để khuyến khích sự ủng hộ của Trung Quốc cho cách mạng Việt Nam và ít người sánh được với ông về khả năng quỵ luỵ trước Mao Chủ tịch và các cộng sự hãnh tiến của Mao. Nhưng chắc ông cũng lo lắng về hiểm hoạ của những ảnh hưởng thái quá của Trung Quốc và nhận thức được rằng nhiều yếu tố trong mô hình Trung Quốc – cụ thể là nâng cao vai trò của Đảng, sự nhấn mạnh ngày càng nhiều tới cải huấn tư tưởng và sự trừng phạt nặng nề giành cho những ai bị tình nghi là phản động – có thể sẽ không thành công trên mảnh đất nhiệt đới của xứ Đông Dương thuộc Pháp này. Những bản năng bao quát của ông chắc chắn đã phản kháng khi biết rằng nhiều người yêu nước Việt Nam sẽ bị đẩy ra khỏi hàng ngũ của Mặt trận Việt Minh và rơi vào tay kẻ thù.
Những lo lắng của ông Hồ không qua được mắt những nhà quan sát thời đó và có nhiều lời đồn rằng mặc dù Hồ Chí Minh được khẳng định là Chủ tịch Đảng, cuộc họp đã đánh dấu một thất bại lớn của ông Hồ và ảnh hưởng của ông trong phong trào cách mạng Việt Nam. Theo các nguồn tin tình báo Pháp, một trong những kết quả của Đại hội là thay thế ảnh hưởng của những người ôn hoà như Hồ Chí Minh bằng những thành phần cứng rắn đứng đầu là trường Chinh – người vừa được bầu lại vào vị trí Tổng Bí thư Đảng và một nguồn tin báo chí tại Sài Gòn thậm chí đưa tin rằng ông Hồ đã bị tử hình theo lệnh của Võ Nguyên Giáp. Các nguồn thạo tin tại Hà Nội thừa nhận rằng Đại hội thể hiện thất bại của Hồ Chí Minh và thắng thế của những người như Trường Chinh – những người quyết tâm đi theo lời khuyên của Trung Quốc và áp dụng đường lối cứng rắn hơn đối với cách mạng Việt Nam. Một Uỷ ban Trung ương mới gồm 29 uỷ viên đã được bầu ra (thành phần chủ yếu là những nhà cách mạng lão thành đã hoạt động tích cực trong Đảng từ trước Chiến tranh thế giới thứ hai). Uỷ ban Trung ương lại bầu ra một Ban Chấp hành (bắt chước theo mô hình của Liên Xô là Bộ Chính Trị), gồm 7 đảng viên hàng đầu của Đảng và một uỷ viên dự khuyết. Bộ Chính trị sẽ điều khiển công việc của Đảng và chính phủ.
Các thành viên chính của tổ chức này được mọi người coi là “tứ trụ” là Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh. Tóm tắt tiểu sử đăng trên báo Nhân dân của Đảng tháng ba mô tả Trường Chinh như kiến trúc sư và người lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong khi Hồ Chí Minh là linh hồn của cuộc cách mạng.
Sau khi ông Giáp thất bại trong cuộc tấn công ở đồng bằng sông Hồng, cuộc xung đột dần lắng xuống và trở thành cuộc chiến cân bằng. Năm 1951, hầu hết các cố gắng của Việt Minh tập trung vào phía Bắc. Sau thất bại của cuộc tiến công của ông Nguyễn Bình mùa hè năm 1950, các nhà chiến lược Việt Minh tạm gác cuộc đấu tranh ở Nam Bộ. Ông Bình tổ chức những cuộc tuần hành lớn ở Sài Gòn chống lại chiến tranh và những khó khăn kinh tế và xã hội do chiến tranh gây ra. Ông coi đó là một phần chiến lược của mình. Nhân dân, đặc biệt là công nhân và sinh viên, phải chịu cảnh lạm phát và quân dịch, đã tham gia vào các cuộc tuần hành nhưng nhiều người trung dung cảm thấy đường đột vì các cuộc tuần hành này có khả năng dẫn đến bạo lực và không ủng hộ phong trào. Nguyễn Văn Tâm, Thủ tướng mới của Bảo Đại, trước là Tổng trưởng cảnh sát được mọi người gọi là “mãnh hổ Mai Lai” vì đã áp đặt mạnh mẽ những hoạt động nổi dậy ở miền Nam, phá vỡ bộ máy của Việt Minh tại Sài Gòn và đến tháng 8, bộ máy Việt Minh hầu như đã chấm dứt hoạt động. Để chỉ đạo hoạt động cách mạng ở miền Nam, Đảng Lao động Việt Nam thành lập Trung ương Cục (tiếng Anh gọi là COSVN) và đặt trực tiếp dưới sự kiểm soát của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam.
Chiến trường Nam Bộ hầu như không hoạt động, ông Giáp và cộng sự của ông chuyển cố gắng của mình sang Lào và Cam-pu-chi-a cũng như vùng núi Tây Bắc Bắc Bộ. Mục tiêu của ông Giáp là giữ chặt lực lượng quân sự của Pháp và buộc Pháp phải dàn trải quân khắp Đông Dương. Điều này tạo điều kiện cho Việt Minh có thể chọn được điểm yếu của quân Pháp. Việt Minh có thể tấn công công khai lực lượng thù địch và rồi có thể giáng cho lực lượng này thất bại nhuc nhã.
Hoà Bình là một thời cơ như vậy. Quân Pháp cho rằng thành phố Hoà Bình nằm ở ngoại vi đồng bằng sông Hồng là ngã ba trọng yếu nối tổng hành dinh của Việt Minh ở Việt Bắc với miền Trung và miền Nam, nguồn cung cấp tân binh và lương thực chính. Hồ Chí Minh đã nói với cộng sự của mình: “Ruộng lúa là chiến trường”. Các đơn vị Pháp chiếm thành phố tháng 11 năm 1951 và với sự đồng ý của cố vấn Trung Quốc, Việt Minh tấn công mạnh vào các vị trí của Pháp ở khu vực này. Chiến sự dồn dập – như nhà sử học Béc-na Phôn gọi là cối xay thịt – đã diễn ra sau đó và quân Pháp đã bị bỏ vị trí của mình tháng 2 năm 1952, rút quân về đồng bằng. Vào lúc đó, tướng Đơ Lát về Pháp và chết vì ung thư vào tháng giêng. Đến thời điểm này, cách nhìn lạc quan trong các phần tử thân Pháp ở Đông Dương do tính năng động của ông Đơ Lát đem lại đã biến mất. Trận Hoà Bình được coi là thất bại lớn của Pháp; sứ quán Mỹ ở Sài Gòn báo cáo những người quốc gia chủ nghĩa không cộng sản nản lòng và ngày càng tin rằng đến mùa hè Việt Minh sẽ chiếm Hà Nội.
Theo lệnh của Đơ Lát, quân Pháp xây dựng một loạt đồn bốt hòng ngăn chặn Việt Minh xâm nhập đồng bằng, những phòng tuyến Đơ Lát cũng không hữu hiệu hơn phòng tuyến Ma-gi-nô của Pháp trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Việt Minh bỏ qua các đồn bốt đó hoặc tấn công và đánh chiếm từng đồn một. Đến cuối năm 1952, các đơn vị Việt Minh đã có thể tự do di chuyển trong vùng quanh Hà Nội, tổ chức cách mạng đã được thành lập trong nửa số làng ở vùng đồng bằng. Chiến thắng Hoà Bình mở ra triển vọng lớn.
Mùa thu năm ấy, các nhà chiến lược Việt Minh đã mở một mặt trận mới ở vùng Tây Bắc xa xôi. Quân Pháp đã chiếm giữ vùng rộng lớn đầy núi cao và thung lũng nhỏ hiểm trở từ khi cuộc chiến bắt đầu. Vào mùa thu năm 1952, theo gợi ý của cố vấn Trung Quốc, các nhà chiến lược Việt Minh bắt đầu soạn thảo kế hoạch tấn công vào đồn bốt quân Pháp ở vùng này chuẩn bị cho một chiến dịch ở Trung và Bắc Lào. Làm như vậy, Việt Minh đã đánh lạc hướng lực lượng địch chú ý tới vùng đồng bằng, càng làm cho quân địch dễ bị tấn công hơn. Tháng 9, Hồ Chí Minh bí mật đi Bắc Kinh tham khảo ý kiến về chiến dịch này. Ông còn đi tiếp Liên Xô, tham dự Hội nghị lần thứ 19 Đảng Cộng sản Liên Xô. Vào cuối tháng 9, kế hoạch tấn công căn cứ của Pháp tại Nghĩa Lộ được thông qua. Ông Hồ về Việt Nam tháng 12.
Vào giữa tháng 10 năm 1952, ba sư đoàn của Việt Minh tấn công căn cứ của Pháp ở Nghĩa Lộ. Các đơn vị của Pháp rút lui về vị trí đóng quân gần đó ở Nà Sản và Lai Châu, bỏ vị trí của mình ở Sơn La, cách Nghĩa Lộ 65 cây số về phía Tây. Quân Việt Minh chiếm Sơn La, tập trung tấn công Nà Sản nhưng không thành công và tổn thương hàng ngàn quân. Nhưng thất bại không chiếm được Nà Sản chỉ là tạm thời. Vào đầu mùa thu sau, Việt Minh tập kết và tiến quân sang phía bên kia biên giới Lào, chiếm Sầm Nưa và đe doạ kinh đô Luông Pra-băng. Và rồi sau khi buộc quân Pháp phải phân tán lực lượng của mình, quân Việt Minh trở về Việt Bắc.
Trong suốt giai đoạn này, Hồ Chí Minh vẫn là người vô hình đối với thế giới bên ngoài, một nhân vật huyền bí không được nguồn tin đáng tin cậy nào của phương Tây nói đến từ mùa thu năm 1947. Ở Hà Nội, có một số người dựa trên tin là ông ốm liên miên trong thời gian sau Chiến tranh thế giới thứ, đoán rằng ông đã chết và thậm chí còn bị đày ở Trung Quốc vì chống lại sự có mặt ngày càng tăng của Quân đội nhân dân Trung Hoa. Các nguồn tin tình báo của Pháp khẳng định rằng ông vẫn sống dựa vào bức ảnh của báo Nhân Đạo chụp khoảng tháng 7 năm 1952. Cuối cùng Giô-dép Xta-rô-bin, phóng viên tờ Công nhân hàng ngày đã gặp ông tại một địa điểm bí mật ở Việt Bắc tháng 3 năm 1953 và đăng bài phỏng vấn này lên báo của các nước nói tiếng Anh.
Tuy nhiên, ở vùng giải phóng, Hồ Chí Minh là người ai cũng biết đến, ông là nhà chiến lược chiến tranh, cổ động viên chính cho sự nghiệp cách mạng. Tháng 2 năm 1952, một tù binh Pháp được thả cho biết rằng người ta thấy ông Hồ ở khắp nơi, ở mặt trận, ở trong làng, trên đồng ruộng và trong các cuộc họp cán bộ địa phương. Ăn mặc như một nông dân, ông liên tục tiếp cận những người theo ông, đùa với họ và khuyến khích họ hy sinh tất cả vì mục tiêu chung. Mặc dù điều kiện sống ở vùng giải phóng có phần tốt hơn nhưng những tháng cuối cùng của Chiến tranh thế giới thứ hai, quân Pháp vẫn liên tục ném bom vùng này và cứ ba đến năm ngày thì ông Hồ phải thay đổi chỗ ở một lần để tránh bị phát hiện và bắt. Mặc dù đã hơn 60 tuổi, ông vẫn đi bộ 50 cây số mỗi ngày qua những đường núi ngoằn nghèo, trên lưng địu một gùi hàng. Ông dậy sớm tập thể dục. Sau khi làm việc, vào buổi tối ông chơi bóng chuyền, bơi và đọc sách.
Theo những tin tức lẻ tẻ của những người đào nhiệm hay tù binh được thả, tinh thần trong vùng giải phóng suy giảm và số người phàn nàn về điều kiện sống ngày càng tăng. Các nhà lãnh đạo Việt Minh đã buộc phải áp đặt lại chế độ lao động bắt buộc trong những vùng thuộc quyền kiểm soát của mình để thực hiện những dự án công. Theo chế độ này, người làm việc không được nhận lương ngoài một lượng lương thực rất nhỏ đủ ăn. Giới trí thức ngày càng lo sợ những buổi học chính trị và tự phê trong khi thuế thì cao, lao động tự nguyện và các trận ném bom không ngừng của quân Pháp làm nhân dân mất tinh thần. Tuy vậy, hầu hết các nhà quan sát đều cho rằng đa số cư dân địa phương tiếp tục ủng hộ Việt Minh vì đã có những cố gắng giành lại độc lập từ quân Pháp.
Chiến tranh leo thang, việc huy động quân và cung cấp lương thực ngày càng khó khăn hơn. Đến thời điểm này, nguồn nhân lực từ nông thôn hầu như đã cạn và bộ máy Việt Minh ở những thành phố lớn hầu như đã bị phá vỡ và Đảng buộc phải sử dụng các phương pháp mạng mẽ hơn để bắt lao động và bắt lính ở nông thôn. Có tin không chính thức là một số nông dân phải chuyển đi sinh sống ở vùng khác để trốn nghĩa vụ. Trong những năm đầu của cuộc xung đột, những đóng góp bằng thóc của nông dân theo nguyên tắc tự nguyện, sau này chính quyền buộc phải đánh thuế nông nhiệp là 15% hoa màu thu hoạch được hàng năm.
Một trong những khó khăn để huy động giúp đỡ và ủng hộ của nhân dân vùng nông thôn là thái độ bàng quan của nhiều nông dân đối với cuộc đấu tranh bởi vì họ không thấy được ý nghĩa của cuộc đấu tranh này đối với họ. Vào cuối những năm 40 đã có những biện pháp giảm địa tô, lãi suất tiền vay và phân phối lại đất của những người cộng tác với Pháp cho dân nghèo, nhưng những biện pháp này có kết quả rất hạn chế. Do vậy, nhiều địa chủ cảm thấy hoàn toàn an tâm khi không chú ý gì đến chỉ thị của Việt Minh hoặc tiếp tục ủng hộ quân Pháp trong một số trường hợp ở ngay trong vùng do cách mạng kiểm soát.
Đến thời điểm Hội nghị toàn quốc lần thứ hai của Đảng đầu năm 1951, những khó khăn này trở nên nghiêm trọng, cần phải có hành động và Trung ương Đảng đã thông qua một số biện pháp sửa đổi nhỏ. Nhưng những biện pháp quyết định vẫn không thể có được vì Đảng cố thực hiện chiến lược tạo dựng một mặt trận đoàn kết rộng rãi nhất có thể được chống kẻ thù chung là đế quốc. Mặc dù phương pháp giải quyết này chính là của Hồ Chí Minh, ngay cả Trường Chinh trong báo cáo của mình tại Đại hội đã thừa nhận rằng nhiệm vụ trọng yếu hiện tại là phản đế. Mặc dù phản phong cũng là nhiệm vụ rất quan trọng và “phải được thực hiện đồng thời với nhiệm vụ phản đế”, ông nói, nhiệm vụ này phải được thực hiện “từng bước” nhằm duy trì đoàn kết dân tộc trong cuộc đấu tranh chung. Do vậy, chính phủ đã không thực hiện chính sách trưng thu và phân phối lại toàn bộ đất đai do giai cấp địa chủ sở hữu. Tuy vậy, đến năm 1952, một số lãnh đạo có ảnh hưởng của Đảng đã bắt đầu lập luận rằng cần có những biện pháp triệt để hơn nữa để giành được sự ủng hộ của người nghèo ở nông thôn.
Tháng 1 năm 1950, một chỉ thị mới được công bố. Dựa trên kinh nghiệm của Trung Quốc trong thời kỳ nội chiến ác liệt nhất, chỉ thị này thông báo giảm tô mạnh và trưng thu đất của địa chủ không hợp tác tích cực trong kháng chiến. Toà án cải cách ruộng đất gồm nông dân cấp tiến được thành lập ở cấp xã tiến hành điều tra sở hữu đất đai trong xã để có thể phân chia lại. Các buổi phê bình công khai tương tự như các buổi “ôn nghèo kể khổ” ở Trung Quốc đã được tổ chức trong các xã giải phóng, khuyến khích người nghèo chỉ trích thái độ độc tài của các phần tử giàu có trong cộng đồng. Có những tin cho rằng trong một số trường hợp, do cố vấn Trung Quốc hối thúc, các nhà hoạt động Việt Minh đã hành quyết ngay những người bị buộc tội là phạm “tội phản dân”. Như tác giả Dương Văn Mai mô tả trong cuốn sách đầy hấp dẫn về những điều đã xẩy ra đối với gia đình bà trong cuộc xung đột. Cán bộ cải cách ruộng đất bắt giam những địa chủ bị buộc là đàn áp dân ngèo. Và rồi:
“Họ xử địa chủ tại phiên toà không chính thức, được chuẩn bị cẩn thận để những phiên toà này thể hiện ý chí của nhân dân. Khoảng 10 nông dân nghèo từng chịu đau khổ nhất và căm thù địa chủ nhất được chọn và chuẩn bị sẵn từ trước để tố cáo địa chủ trước toà. Khi nông dân lần lượt tố cáo dịa chủ ở toà, các nông dân ngèo khác sẽ hô to: “địa chủ cút đi” để tăng bầu không khí thù địch. Nếu là án tử hình, địa chủ sẽ bị hành hình ngay tại chỗ. Nếu là án tù, họ sẽ bị chuyển đi nơi khác. Tài sản của địa chủ phạm tội bao gồm đất đai, nhà cửa, trâu bò kéo và công cụ bị trưng dụng và phân phối lại cho những nông dân thiếu thốn nhất”.
Các nhà lãnh đạo Đảng hy vọng rằng những biện pháp như vậy sẽ làm nông dân nghèo nhất phấn khởi và khuyến khích họ tham gia kháng chiến. Ngày 4 tháng 6 năm 1953, đài phát thanh của Việt Minh đã truyền đi một bức thư mà theo đài là của một phụ nữ nông dân gửi cho Hồ Chí Minh:
‘Trong thời gian bị Pháp đô hộ, tôi và con tôi không có cơm ăn và cũng chẳng có áo mặc. Con của tôi phải đi ở đợ và tôi phải mót khoai và tìm củ mài để sống qua ngày…Cuối năm 1952, nông dân bắt đầu đấu tranh chống địa chủ bất lương và sấu xa…Nhờ có Chủ tịch, chúng tôi mới có cuộc sống dễ chịu. Chúng tôi không bao giờ quyên ơn này”.
Với các phần tử cấp tiến thì những biện pháp này chưa đủ vì số nông dân không có ruộng đất ở vùng giải phóng dù đã giảm nhưng vẫn ở mức 15% dân số. Tại Hội Nghị Nông nghiệp toàn quốc tháng 11, Trường Chinh đề xuất phải có chính sách cứng rắn hơn và đệ trình dự án luật cải cách ruộng đất mới cho phép tịch thu ruộng đất và tài sản của toàn bộ giai cấp địa chủ.
Thái độ của Hồ Chí Minh với dự án luật này chưa bao giờ rõ ràng, mặc dù rất có thể là ông đã có lập luận chống lại chương trình cải cách ruộng đất được tiến hành chặt chẽ đến mức phân hoá các phần tử trung dung. Tuy nhiên, nhu cầu về nhân lực của cách mạng cuối cùng đã thắng thế. Trong một diễn văn đọc trước Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vài tuần sau Hội nghị Nông nghiệp toàn quốc, ông Hồ công nhận rằng các chính sách trước đó của chính phủ chú ý quá nhiều đến quan điểm của giai cấp địa chủ mà không chú ý đầy đủ đến mỗi quan tâm của nông dân. Tháng sau, luật cải cách ruộng đất mới quy định thực hiện việc giảm tô và trưng thu đất đai của toàn bộ giai cấp địa chủ. Địa chủ được xếp là tiến bộ về mặt chính trị sẽ được đền bù bằng công trái nhà nước, nhưng vẫn phải từ bỏ toàn bộ ruộng đất của mình ngoài phần cần thiết để sống. Địa chủ bị buộc tội là cường hào ác bá sẽ bị trừng trị. Mục tiêu của luật mới này không những chỉ nhằm giành được sự ủng hộ của nông dân mà còn phá bỏ quyền lực của giai cấp địa chủ ở nông thôn. Tuy chương trình cải cách ruộng đất quy định tiến hành cải huấn cho địa chủ không bị buộc tội là phản dân, trên thực tế những quy định này không được các cán bộ đầy tham vọng cấp xã chú ý đến. Lần đầu tiên kể từ cuộc nổi dậy Nghệ Tĩnh năm 1930-1931, Đảng đã quyết định mở cuộc đấu tranh giai cấp ở nông thôn.
Tháng 1 năm 1953, Ai-xen-hao trở thành Tổng thống thứ 34 của Hoa Kỳ. Trong khi tranh cử, ông đưa ra Cương lĩnh “đẩy lùi cộng sản” và lãnh đạo Đảng Cộng Hoà chỉ trích việc mất Trung Hoa và tình thế tiến thoái lưỡng nam ở Triều Tiên và coi đó là di sản của Tổng thống Dân chủ trước đó. Trong diễn văn tình hình liên bang đầu tháng 2, Ai-xen-hao hầu như chẳng đề cập đến Đông Dương, mà chỉ nói rằng cuộc chiến tranh Triều Tiên là “một phần của cuộc tấn có tính toán trước của kẻ địch ở Đông Dương và Ma-lai-xi-a và một phần của tình hình chiến lược rõ ràng bao gồm Đài Loan và lực lượng Quốc dân Đảng đang chiếm giữ tại đó”. Trong khi hội đàm với Thủ Tướng Pháp Rơ-nê May-ê tại Nhà Trắng cuối tháng 3. Tổng thống Mỹ mới cho biết rằng ông sẵn sàng tăng viện trợ cho quân Pháp với điều kiện là nếu quân Pháp chứng tỏ ý chí giải quyết vấn đề mạnh bạo hơn trong công cuộc tìm kiếm thắng lợi cuối cùng ở Đông Dương.
Tuy nhiên, Pháp từ lâu đã từ bỏ ý định này. Ngay từ đầu tháng 12 năm 1949, tướng Các-păng-chi-lê đã cảnh báo Tổng thống Vanh-xăng Ô-ri-ô là nhiều nhất thì Pháp cũng chỉ có thể đạt được một giải pháp chính trị. Việc quân Pháp rút khỏi vùng biên giới một năm sau đó thể hiện sự chấp nhận ngầm quan điểm bi quan của Các-păng-chi-ê. Việc cử tướng Đơ-Lát Đơ Tát-xi-nhi chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương cuối năm 1950 đã làm cho mọi người tin rằng quân Pháp có thể thắng cộng sản, việc tướng Tát-xi-nhi về nước và cử tướng Xa-lăng thay thế một năm sau đã làm cho các tướng lĩnh và các nhà chính trị Pháp chỉ còn thấy giải pháp chính trị mà thôi.
Để nhận viện trợ của Mỹ nhằm cải thiện vị thế của mình trước khi có giải pháp thương lượng, quân Pháp cần phải chứng minh rằng họ đã có cách giải quyết vấn đề mạnh hơn. Trách nhiệm thuyết phục Nhà trắng tăng viện trợ quân sự của Mỹ nay thuộc về chỉ huy mới của Pháp là tướng Hăng-ri Na-va. Là tổng tham mưu trưởng lực lượng NATO của Pháp tại châu Âu, Na-va hoàn toàn không phải là người Oa-sinh-tơn ưa để thay Xa-lăng vì ông có tiếng là thận trọng và thậm chí không quyết đoán. Sau khi được cử làm chỉ huy lực lượng viễn chinh Pháp, Na-va đã cố giảm bớt mối nghi ngờ về mình bằng cách đưa ra một chiến lược đầy tham vọng giành thế chủ động trong chiến trận Đông Dương.
Việc May-ê tỏ ra có vẻ có lập trường mạnh bạo đối với Đông Dương có kết quả rất hạn chế ở OA-sinh-tơn và Oa-sinh-tơn vẫn nghi ngờ ý định của Pháp. Đầu tháng 8 năm 1953, một bài báo của tạp chí Đời sống chỉ trích mạnh mẽ những nỗ lực của Pháp ở Đông Dương và khẳng định rằng Pháp “đã thua”. Tuy vậy, chính quyền mới ở Oa-sinh-tơn không có mấy lựa chọn nữa. Tham mưu trưởng liên quân đã đồng ý với kế hoạch Na-va và tháng 9 chính quyền Ai-xem-hao ký hiệp ước mới tăng viện trợ của Mỹ cho lực lượng viễn chinh Pháp. Tuy vậy, Pa-ri đánh giá tình hình không khả quan. Rơ-nê Pơ-lê-ven, Bộ trưởng Quốc phòng Pháp, cảnh báo rằng kế hoạch Na-va là không thực tế và tháng 7 sứ quán Mỹ tại Pa-ri cho biết chính phủ Pháp đã không chấp nhận đề nghị của tướng Na-va chuyển từ châu Âu sang thêm 12 tiểu đoàn. Sự ủng hộ của dân chúng đối với cuộc chiến tranh giảm sút nhanh chóng và khi tin tức về hiệp định viện trợ được thông báo tại Pa-ri ngày 29 tháng 9, những người chỉ trích cuộc chiến tranh lại nói rằng máu của người Pháp đang được đổi lấy đô-la-Mỹ.
Kế hoạch Na-va dự kiến sẽ phát huy tác dụng vào mùa thu và mùa hè năm 1954. Trong thời gian này, quân Pháp sẽ thực hiện chính sách phòng ngự, đồng thời củng cố vị trí của mình ở đồng bằng sông Hồng và các khu vực trọng yếu khác ở Việt Nam. Một trong những khu vực trọng yếu này là ở vùng Tây Bắc xa xăm, khu vực bị các đơn vị Việt Minh chiếm giữ từ mùa thu năm 1952 làm bàn đạp tấn công Lào. Tháng 11 năm 1953 theo lệnh của Pa-ri phải bảo vệ thủ đô Luông pha bang của Lào khỏi sự đe doạ của địch, Na-va quyết định chiếm giữ cứ điểm Điện Biên Phủ, một huyện lỵ nhỏ trong thung lũng núi xa xăm gần biên giới với Lào và coi đó là cách làm gián đoạn liên kết giữa Trung và Bắc Lào của Vịêt Minh. Huyện lỵ này trước đây đã bị Việt Minh chiếm giữ trong chiến dịch Tây Bắc. Giờ đây , quân Pháp nhảy dù xuống để chiếm lại. 
Trong khi tướng Na-va cố thực hiện giai đoạn đầu chiến lược của mình, các nhà chiến lược Việt Minh cũng vạch ra kế hoạch tác chiến cho chiến dịch năm 1953. Tại một cuộc họp Trung ương đầu năm , các nhà hoạch định chính sách của Đảng đã quyết định tránh đối đầu công khai với lực lượng thù địch trong tương lai gần đồng thời tìm điểm yếu trong lá chắn của địch, đặc biệt là ở Lào, Cam-pu-chi-a và vùng Tây Bắc. Chiến lược này không thay đổi trong cả năm, thậm chí ngay cả khi Na-va đã quyết định một cách rõ ràng là phải tập trung lực lượng ở đồng bằng sông Hồng để ngăn chặn mối đe doạ của Việt Minh đối với vùng phụ cận Hà Nội. Ông Võ Nguyên Giáp đề xuất tiến hành chiến dịch lớn ở đồng bằng với mục tiêu cuối cùng là đánh chiếm Hà Nội và Hải Phòng, những cố vấn Trung Quốc lại muốn có chiến lược thận trọng hơn tập trung vào vùng núi Tây Bắc. Hồ Chí Minh ủng hộ ý kiến của các cố vấn Trung Quốc và Bộ Chính trị đã chấp thuận ý kiến này vào tháng 9. Kế hoạch này dự kiến sẽ được khẳng định tại một cuộc họp của Quận uỷ Trung ương tháng 11.
Tin quân Pháp chiếm đóng Điện Biên Phủ đến tổng hành dinh của Việt Minh trong lúc các nhà chỉ huy quân sự đang chuẩn bị trình Quân uỷ Trung ương kế hoạch tấn công Pháp ở Lai Châu, vị trí quân sự biệt lập cách Điện Biên Phủ 50 cây số về hướng Bắc. Với các nhà lãnh đạo Việt Minh, nếu Việt Minh chiếm lại căn cứ này thì sẽ tác động tới tinh thần quân Pháp và chuẩn bị cho những bước tiếp theo trong những năm tới. Khu vực này cũng có những lợi thế chiến lược. Cách Hà Nội 320 cây số, quân Pháp sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp viện cho Điện Biên Phủ.
Mặt khác, đánh Điện Biên Phủ sẽ là lần đầu tiên Việt Minh tấn công trực diện một căn cứ được lực lượng Pháp bảo vệ vững chắc. Tuy vậy, Điện Biên Phủ nằm ở thung lũng, gần biên giới với Trung Quốc và tổng hành dinh Việt Minh ở Việt Bắc cho phép Việt Minh dễ dàng chuyển khối lượng lớn vật dụng từ Trung Quốc. Sau khi tính toán kỹ lưỡng các khả năng và được cố vấn Trung Quốc và cấp trên ở Bắc Kinh khuyến khích, ngày 6 tháng 12, lãnh đạo Đảng quyết định tập trung nỗ lực trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Trong năm đó , lãnh đạo Đảng bắt dầu bí mật chuyển ba sư đoàn chủ lực mới được thành lập ở vùng núi quanh Điện Biên Phủ trong khi các đơn vị khác tiến vào Bắc Lào để đánh lạc hướng và buộc quân Pháp phải dàn trải lực lượng của mình.
Tại sao các nhà lãnh đạo Trung Quốc lại đột nhiên quyết định kêu gọi khẩn thiết đồng minhViệt Minh tham gia vào cuộc đụng đầu lớn với quân Pháp? Nghĩ cho cùng quyết định tấn công Điện Biên Phủ sẽ buộc Trung Quốc phải tăng viện trợ cả về chất và lượng; điểm mấu chốt dẫn đến thành công sẽ là khả năng pháo cao xạ của Việt Minh có thể làm yếu đi hoặc ngăn được quân Pháp tiếp viện và cung ứng cho khu vực này khi chiến sự leo thang. Mặc dù Bắc Kinh đã viện trợ cho Việt Minh trong cuộc chiến suốt ba năm và thấy được điểm lợi là vừa hoàn thành nghĩa vụ quốc tế Trung Quốc và bảo vệ biên giới phía Nam chống lại sự kiểm soát của đế quốc, trong những tháng đó các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã bắt đầu suy nghĩ. Tháng 7, ngừng bắn đã có hiệu lực ở bán đảo Triều Tiên. Trung Quốc đã trả giá cao cho hành động can thiệp của Quân Giải phóng Nhân dân và đã có dấu hiệu chứng tỏ các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã quyết định tìm cách cải thiện quan hệ với phương Tây để giảm bớt nguy cơ xung đột trong tương lai và tạo điều kiện cho chính phủ chuyển những nguồn lực hiếm hoi cho kế hoạch 5 năm tới. Trong môi trường mới, cách nhìn nhận ngày tận thế của Mao Trạch Đông về chiến tranh với đế quốc tất yếu ở châu Á đã mất đi sức mạnh. Trong một cuộc phỏng vấn ngày 24 tháng 8, Thủ tướng và Bộ trưởng Ngoại giao Chu Ân Lai tuyên bố rằng “các vấn đề khác” có thể được bàn đến tại Hội nghị hoà bình nhằm chấm dứt cuộc xung đột ở Triều Tiên. Tháng 12, ông thảo luận với các thành viên của một phái đoàn Ấn Độ về ý tưởng có một thoả thuận chung dựa trên những điều mà sau này trở thành “năm nguyên tắc chung sống hoà bình” giữa các quốc gia. Oa-sinh-tơn đã đáp lại một cách tế nhị khi Bộ trưởng Ngoại giao Đa-lét, trong một diễn văn cho đội quân lê dương Mỹ đầu tháng chín, đã gián tiếp nói rằng “Hoà Kỳ sẵn sàng xem xét một thoả thuận đàm phán để chấm dứt xung đột ở Đông Dương”.
Mát-xcơ-va cũng ngày càng quan tâm nhiều tới việc chấm dứt xung đột ở Đông Dương. Thủ tướng Liên Xô mới, ông Gioóc-gi Ma-len-cốp, đã trở thành nhân vật trên chính trường sau khi Giô-dép Xta-lin chết tháng ba. Ông có lý do phải có quan hệ tốt với phương Tây, kể cả việc phải giảm bớt ngân sách quốc phòng đã phình to để tập trung nguồn vốn hiếm hoi vào các dự án kinh tế. Cuối tháng 9, Liên Xô đề nghị họp hội nghị năm nước lớn nhằm giảm bớt tình hình căng thẳng quốc tế. Một vài ngày sau, Trung Quốc cũng làm như vây.
Quân Pháp chiếm Điện Biên Phủ đúng lúc các nhà lãnh đạo Trung Quốc (giống các nhà lãnh đạo Liên Xô) quyết định mở cuộc tấn công hoà bình nhằm đưa lại giải pháp đàm phán ở Đông Dương. Thắng lợi của Việt Minh ở Điện Biên Phủ có thể sẽ làm tình hình trong khu vực căng thẳng thêm khiến Hoa Kỳ can thiệp trực tiếp. Mặt khác, điều này có thể làm tăng thêm phong trào chống chiến tranh ở Pháp và tạo điều kiện cho một hiệp định hoà bình có lợi cho Việt Minh và Trung Quốc. Với Bắc Kinh, họ sẵn sàng chấp nhận nước cờ rủi ro này.
Trong khi Hồ Chí Minh và các cộng sự của ông chắc hẳn đã biết ơn Trung Quốc vì đã tăng cường giúp đỡ chiến dịch Tây Bắc, trước một loạt biểu hiện mong muốn có đàm phán hoà bình của các nước trên thế giới, Tổng hành dinh Việt Minh chắc đã có phản ứng thận trọng. Trong những tháng đầu của cuộc chiến khi Việt Minh rõ ràng yếu hơn kẻ thù của mình, ông Hồ đã bằng mọi cách cố gắng đạt được một giải pháp thoả hiệp. Điều kiện trên mặt trận ngày càng được cải thiện và Pháp rõ ràng không còn tìm kiếm một thắng lợi hoàn toàn thì rất có thể các nhà lãnh đạo Việt Minh cũng không mặn mà gì nữa với một thoả hiệp. Trong khi nói chuyện với ông Lê-ô Phi-ghe-rơ của Đảng Cộng sản Pháp tháng 3 năm 1950, ông Hồ nhấn mạnh rằng tuy vẫn muốn có một giải pháp thông qua thương lượng nhưng các nhà lãnh đạo Đảng không muốn có thoả hiệp lớn. Ông Trường Chinh thậm chí còn có thái độ thù địch hơn. Trong diễn văn kỷ niệm sáu năm ngày thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tháng 9 năm 1951, ông Trường Chinh cảnh báo rằng Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẽ không bị dụ dỗ vào bàn đàm phán và nhất mực cho rằng cần phải “xoá bỏ mọi ảo tưởng của những kẻ cơ hội về đàm phán hoà bình với kẻ thù”. Khi Pa-ri có những bước thăm dò về một giải pháp thoả hiệp cuối năm 1952, Việt Nam Dân chủ Cộng hóa đã không để ý tới. Đến tháng 9 năm 1953, Hãng thông tấn (TASS) của Liên Xô đã đưa tin rằng trong diễn văn kỷ niệm lần thứ 8 ngày thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Hồ Chí Minh đã tuyên bố rằng chỉ có thắng lợi trên chiến trường mới đem lại hoà bình.
Tuy nhiên, vài tuần sau các nhà lãnh đạo Đảng Việt Nam quyết định theo đề nghị của Mát-xcơ-va và Bắc Kinh là tìm một giải pháp chính trị. Trong một bài phỏng vấn ngày 20 tháng 10 với phóng viên tờ Expesse của Thuỵ Điển, ông Hồ tuyên bố rằng chính phủ sẵn sàng tham dự hội nghị quốc tế nhằm tìm giải pháp hoà bình cho Đông Dương. Ông Hồ nói “Nếu chính phủ Pháp mong muốn đình chiến và giải quyết vấn đề Việt Nam thông qua thương lượng, thì nhân dân và chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẵn sàng xem xét đề nghị của Pháp”. Cuộc phỏng vấn này được báo chí thế giới đưa tin nhiều lần. Ít lâu sau, Bắc Kinh công khai bày tỏ sự dồng ý trong một xã luận của báo Nhân dân Nhật báo. Theo một nguồn ngoại giao Mỹ ở Sài Gòn, đề nghị tiến hành đàm phán hoà bình của ông Hồ đã gây ra một sự “khó hiểu, kinh ngạc và sợ hãi” trong những người Việt không cộng sản ở Sài Gòn.
Là người có đầu óc thực tế, Hồ Chí Minh biết rằng một giải pháp thông qua thương lượng là một khả năng tiến tới chấm rứt chiến tranh. Việc Hoa Kỳ tháng 7 năm 1953 quyết định tìm cách chấm dứt xung đột ở Triều Tiên là dấu hiệu an ủi cho thấy rằng đế quốc sẵn sàng nhượng bộ khi gặp phải khó khăn, tin tức này đã làm Việt Minh hy vong rằng Đông Dương có thể có một kết cục tương tự. Nhưng trong một bài diễn văn đọc trước một nhóm trí thức ở Việt Bắc sau đó vài tuần, ông Hồ lại cảnh báo rằng không nên có ảo tưởng là hoà bình sẽ đến một cách dễ dàng. Cũng như người Mỹ, người Pháp không sẵn sàng có nhượng bộ lớn trên bàn đàm phán trừ khi thua trên chiến trường. Ông cảnh báo rằng quân địch “đang bẫy chúng ta bằng mồi, nếu chúng ta vội vã như đàn cá và quên phải cảnh giác để tự vệ, chúng sẽ đánh bại”. Do vậy, điều quan trọng là phải cảnh giác và tiếp tục đấu tranh, thậm chí ngay cả khi Mỹ quyết định tham gia xung đột.
Trong tình hình như vậy, thậm chí ngay cả khi ông tỏ ý sẵn sàng tham gia hoà đàm, ông Hồ chắc phải có chút nghi ngờ vì điều kiện cho thắng lợi chưa hoàn toàn chín muồi như ông đã nêu với cộng sự của mình trong cuộc gặp tháng 11. Đồng thời, thái độ của Liên Xô và Trung Quốc là đáng lo ngại. Ủng hộ của Liên Xô đối với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam là cầm chừng, và do vậy không hy vọng gì nhiều từ Mát-xcơ-va. Nhưng sự ủng hộ vững chắc của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa là một phần trọng yếu trong chiến lược của Việt Minh, do vậy bất kỳ dấu hiệu nào chứng tỏ Bắc Kinh sẵn sàng thoả hiệp vấn đề này vì lợi ích dân tộc của họ chắc sẽ làm ông Hồ và cộng sự của ông ở Việt Bắc càng lo lắng hơn.
Mặt khác, Hồ Chí Minh biết rằng Việt Minh không thể tiếp tục đấu tranh lâu dài nếu không có sự hỗ trợ hoàn toàn của Trung Quốc. Đây không phải là lần đầu ông Hồ chấp nhận phải nhượng bộ để tiếp tục chiến đấu. Về phần mình, Mát-xcơ-va và Bắc Kinh hầu như chẳng cần sự đồng ý của Hà Nội để bảo vệ lợi ích an ninh quốc gia của mình. Tại một Hội nghị tổ chức đầu năm 1954 ở Béc-lin, đại biểu các nước lớn thoả thuận rằng một hội nghị quốc tế khác sẽ được tổ chức tại Giơ-ne-vơ tháng 4 để thảo luận các vấn đề liên quan đến hoà bình thế giới. Tuy chính quyền Ai-xen-hao khó chịu, Đông Dương và tình hình ở Triều Tiên đều nằm trong đề mục thảo luận. Tháng ba, một phái đoàn Việt Nam đến Bắc Kinh tham khảo ý kiến các quan chức Trung Quốc và xây dựng một chiến lược chung tại Giơ-ne-vơ. Ít lâu sau, một phái đoàn Việt Nam do Hồ Chí Minh dẫn đầu đi Bắc Kinh và Mát-xcơ-va để hoạch định chiến lược đàm phán chung với các nhà lãnh đạo Trung Quốc và Liên Xô. Dựa trên kinh nghiệm đàm phán với Mỹ nhằm chấm dứt xung đột ở Triều Tiên, Trung Quốc và Liên Xô khuyên Việt Nam phải có mục tiêu “thực tế” tại Hội nghị Giơ-ne-vơ.
Hai ngày sau khi Hội nghị Giơ-ne-vơ được công bố triệu tập, nguồn tin tình báo Pháp cho hay đơn vị Việt Minh ở thượng Lào đã chuyển quân theo hướng đông về Điện Biên Phủ. Mặc dù hoạt động của Việt Minh còn được tiến hành ở nhiều nơi khác như Bắc Bộ, Tây Nguyên, Lào và hành lang Hà Nội-Hải Phòng-vào đầu tháng 3, tài liệu do Pháp bắt được cho thấy rằng Việt Minh đang chuẩn bị tấn công lớn ở vùng Tây Bắc và cuộc tấn công này sẽ phối hợp với cuộc đàm phán sắp tới tại Giơ-ne-vơ. Có thêm những dấu hiệu chứng tỏ viện trợ quân sự của Trung Quốc cho Việt Minh đã tăng nhiều, tăng khả năng Việt Minh thắng trận.
Lần nay, nguồn tin tình báo của Pháp đã đúng. Bắt đầu từ tháng 12, các đơn vị Việt Minh đã dần tập trung ở vùng núi bao quanh căn cứ của Pháp tại Điện Biên Phủ, trong khi hàng ngàn dân công được huy động để chuyển đạn dược và pháo cao xạ từ biên giới Trung Quốc đến khu vực này. Một người tham gia đã kể lại cho một nhà báo Mỹ:
“Chúng tôi phải vượt núi, băng rừng, ban đêm thì hành quân còn ban ngày thì ngủ để tránh bom của kẻ thù. Có lúc chung tôi ngủ hầm, có lúc chúng tôi ngủ ngay cạnh đường. Mỗi chúng tôi đeo súng, đạn và ba-lô. Chúng tôi có chăn, màn và một bộ quần áo. Mỗi người đều có đủ gạo ăn một tuần và được nhận thêm tại các trạm dọc đường. Chúng tôi ăn rau và măng lấy trong rừng và thỉnh thoảng dân làng lại cho chúng tôi thịt. Tôi đã tham gia Việt Minh chín năm rồi nên quen như vậy”.
Để mang lại điều thuận lợi cần thiết trên chiến trường nhằm đạt được một giải pháp hoà bình tại bàn hội nghị, trong vài tháng liền Trung Quốc tăng viện trợ quân sự. Theo một nguồn tin của Trung Quốc, hơn 2.00 xe tải, 10.000 thùng dầu, hơn 100 súng ca-nông, 60.000 đạn cao xạ, 3.000 súng và khoảng 1.700 tấn ngũ cốc đã được chuyển cho quân đội Việt Nam cố thủ quanh Điện Biên Phủ. Để khuyến khích cố vấn Trung Quốc ở Việt Nam cố đạt được thắng lợi quân sự, Chu Ân Lai Gửi thông điệp sau: “ Nhằm giành thắng lợi trong lĩnh vực ngoại giao, chúng ta có thể cần phải tính đến việc giành thắng lợi mạnh ở Việt Nam trước đình chiến ở Triều Tiên”. Hồ Chí Minh hiểu rõ điều này. Trong một bức thư gửi ông Giáp tháng 12, ông viết: “Chiến dịch này rất quan trọng, không chỉ về mặt quân sự mà còn về mặt chính trị, không chỉ vì lý do trong nước mà còn vì lý do quốc tế nữa. Do vậy, toàn thể nhân dân ta, toàn thể lực lượng vũ trang ta và toàn thể Đảng ta phải đoàn kết để thực hiện việc này.”
Với ông Hồ và các cộng sự của ông, vấn đề không còn là liệu có tấn công cứ điểm quân Pháp hay không mà làm thế nào mà tấn công được. Ông Võ Nguyên Giáp vốn thận trọng ủng hộ kế hoạch làm suy yếu quân địch, sử dụng pháo binh bắn phá sân bay nhỏ ở thung lũng Điện Biên Phủ và cắt đường tiếp tế của quân Pháp. Quân Việt Minh sau đó có thể dần vô hiệu hoá hỏa lực của quân Pháp và chiếm từng cứ điểm bên ngoài căn cứ. Theo các nguồn tin Việt Nam, tướng Hoa Quốc Thanh, cố vấn cao cấp của trung Quốc, đã ủng hộ cách giải quyết khác, tiến hành cuộc tấn công thần tốc dựa trên chiến thuật “biển người” đã được các đơn vị giải phóng sử dụng rất có hiệu quả chống lại quân của Liên hợp quốc tại Triều Tiên.
Cuộc tấn công đầu tiên của Việt Minh vào Điện Biên Phủ bắt đầu vào giữa tháng một. Việt Minh đã tập trung 23 tiểu đoàn chính quy bao gồm 50.000 quân ở vùng núi quanh cứ điểm. Số quân này đối chọi với kẻ địch gồm 16.000 quân. Ngoài lực lượng chính quy, Việt Minh có hơn 55.000 quân hỗ trợ và khoảng 100.000 dân công. Nhiều dân công là phụ nữ ở các tỉnh miền trung đã phải đi qua khu vực địch chiếm ở đồng bằng sông Hồng để đến được khu tập kết dọc biên giới Trung Quốc. “Đội quân tóc dài” này mang vác pháo và phương tiện chiến tranh khác hàng trăm dặm đường địa hình khó khăn đến khu vực căn cứ. Mỗi dân công chuyển trung bình 15 cân hàng qua 16 cây số đường rừng mỗi đêm. Tuy hầu hết hàng cung cấp là xăng dầu và đạn dược, nhưng cũng còn có những khẩu pháo lớn của Liên Xô được chuyển từng bộ phận từ biên giới Trung Quốc ở Lạng Sơn, cách hơn 300 cây số.
Trong giai đoạn đầu, những người tấn công đã theo lời khuyên của Trung Quốc sử dụng chiến thuật “biển người”, nhưng tổn nặng nề đến mức cuối tháng một, Bộ Tư lệnh Việt Nam (theo kêu gọi khẩn thiết của Bắc Kinh) đã đánh giá lại tình hình và quyết định chuyển sang cách đánh thận trọng hơn. Trong vài tuần sau đó, quân Việt Minh đào mấy trăm cây số giao thông hào để tiến vào hệ thống phòng thủ bên ngoài của Pháp mà không bị hoả lực của Pháp khống chế. Đồng thời quân Việt Minh cũng đào một loạt đường hầm quanh cứ điểm đã bị bao vây. Pháo được dân công chuyển từ biên giới Trung Quốc từng phần đến đã được lắp ráp lại tại chỗ và đặt bên trong đường hầm; pháo có thể di động nhanh giữa các địa điểm khác nhau, ngăn không cho quân Pháp dưới cứ điểm phát hiện chính xác điểm bắn.
Lúc đầu, hàng tiếp tế và quân tiếp cận đến bằng đường không, nhưng rồi sân bay bên ngoài căn cứ không thể sử dụng được nữa vì bị bắn phá rất ác liệt. Máy bay hạ cánh để dỡ đồ tiếp tế hầu như bị pháo của Việt Minh từ núi bao quanh cứ điểm bắn phá. Ít lâu sau, phi công Pháp buộc phải bay vội qua thung lũng và thả dù tiếp tế và tiếp viện. Cuối cùng hoả lực của Việt Minh mạnh đến mức quân tiếp viện nhảy dù xuống thường chết trước khi xuống được đến đất.
Tình hình càng nguy hiểm, quân Pháp càng khẩn thiết cầu cứu viện trợ của Mỹ. Vào giữa tháng 3, Pa-ri cử tướng Pôn Ê-ly đến Oa-sinh-tơn yêu cầu Mỹ tiến hành không kích để giảm căng thẳng cho cứ điểm của Pháp và bảo vệ cho cứ điểm này khỏi nguy cơ sụp đổ. Đề nghị này được đô đốc A-thơ-Rét-pho, Chủ tịch Tham mưu trưởng liên quân và Phó Tổng thống Nich-xơn ủng hộ. Trong một cuộc nói chuyện với Đại sứ Pháp Hăng-ri Bô-nê ngày 28 tháng 4, Ních-xơn tuyên bố “ông hoàn toàn nhất trí với quan điểm của Đô đốc Rét-pho và ủng hộ máy bay Mỹ can thiệp ồ ạt để cứu Điện Biên Phủ”. Nhưng Tổng thống Ai-xen-hao, do ý nguyện tham gia cuộc chiến trên bộ ở châu Á của ông đã giảm vì kết cục không dứt khoát của hành động can thiệp tại bán đảo Triều Tiên, lại chần chừ không muốn đưa quân vào Đông Dương nếu không bảo đảm rằng cuộc chiến đấu sẽ được thực hiện trên cơ sở đa phương và với điều kiện là Pháp phải hứa sẽ trao quyền độc lập hoàn toàn cho ba nước Đông Dương. Trong chuyến đi Luân Đôn, Pa-ri, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Đa-lét phát hiện ra rằng cả Anh lẫn Pháp đều không đồng ý với điều kiện của Mỹ; Ai-xen-hao sau đó đã không chấp nhận yêu cầu của Pháp cung cấp yểm trợ bằng máy bay tuy vẫn thăm dò khả năng Mỹ can thiệp. Ai-xem-hao cũng chần chừ không muốn có một giải pháp thoả đáng trên bàn hội nghị.
Đầu tháng 5, Việt Minh thâm nhập vào tuyến phòng thủ bên ngoài của cứ điểm Điện Biên Phủ và bắt đầu bắn pháo vào các điểm bên trong. Theo nguồn tin của Trung Quốc, cuối cùng lòng tin của các nhà hoạch định kế hoạch chiến tranh của Việt Minh bị nao núng vì tổn thất lớn và mối đe doạ can thiệp của Mỹ. Với sự cổ vũ mạnh mẽ của Bắc Kinh, Việt Minh cuối cùng quyết định tấn công toàn bộ cứ điểm giành thắng lợi. Cuộc tấn công diễn ra ngày 6 tháng 5. Ông Võ Nguyên Giáp đã miêu tả một cách ngắn gọn là “bộ đội tấn công từ mọi phía, chiếm tổng hành dinh của địch và bắt sống toàn Bộ tham mưu” Quân Pháp thất bại hoàn toàn. Hơn 1.500 quân lính Pháp bị chết, 4.000 bị thương và số còn lại bị bắt làm tù binh hay mất tích. Khoảng 70 quân Pháp thoát trở về phòng tuyến của mình. Tổn thất của Việt Minh lớn hơn nhiều, 25.000 bị chết và bị thương, trong đó có 10.000 bị chết.
Ngày 7 tháng 5, một ngày sau khi quân Pháp đầu hàng tại Điện Biên Phủ, đàm phán hoà bình để giải quyết cuộc xung đột Đông Dương bắt đầu như đã định tại Giơ-ne-vơ. Tham dự hội nghị có đoàn đại biểu của Pháp, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Anh, Liên Xô, Trung Quốc và Hoa Kỳ cũng như đại diện chính phủ Bảo Đại, đại diện của chính phủ hoàng gia Cam-pu-chi-a và Lào, bấy giờ gọi là nước liên hiệp. Các nhà lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, thể hiện cảnh báo trước đây của Hồ Chí Minh cho rằng thắng lợi sẽ không dễ dàng, đến Hội nghị với thái độ thận trọng tuy nhiên họ cảm thấy rằng đó là cơ hội có những bước tiến quan trọng trong cuộc đấu tranh để hoàn toàn thống nhất đất nước.
Tại phiên khai mạc Hội nghị, phái đoàn Pháp đã nêu điều kiện cho một giải pháp, kêu gọi cả hai bên tập kết quân dưới sự giám sát của Uỷ ban Kiểm soát quốc tế. Ông Phạm Văn Đồng, đứng đầu đoàn đàm phán của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (cũng như tại Hội nghị Phông-ten-nơ-bơ-lô năm 1946) chấp nhận đề nghị của Pháp cần có ngừng bắn trước khi có giải pháp về các vấn đề chính trị, nhưng trong tất cả các lĩnh vực khác, điều kiện (do Bộ Chính trị soạn thảo) của ông khác hẳn với đề nghị của Pháp. Ông đòi quốc tế công nhận chủ quyền và độc lập hoàn toàn của ba nước Đông Dương, rút hết quân đội nước ngoài và tổ chức tuyển cử tự do dưới sự giám sát của chính quyền địa phương. Ngoài ra, ông còn yêu cầu đại diện của phong trào cách mạng Lào và Cam-pu-chi-a (mọi người vẫn gọi là Pa-thet Lào và Khơ-me đỏ) được dự Hội nghị với tư cách là đại diện của nhân dân hai nước này. Ông Đồng đã đồng ý xem xét khả năng gia nhập Liên hiệp Pháp dựa trên cơ sở tự nguyện và công nhận quyền lợi kinh tế và văn hoá của Pháp tại ba nước Đông Dương.
Pa-ri không còn khả năng mặc cả được gì. Các nguồn tin tình báo Pháp công khai dự đoán rằng Hà Nội có thể thất thủ nếu Việt Minh tấn công mạnh. Oa-sinh-tơn cũng có quan điểm bi quan như vậy. Tại một buổi thông báo tình hình của Hội nghị an ninh quốc gia ngày 8 tháng 5, giám đốc CIA A-len Đun dự rằng với 5.000 chiếc xe tải, quân Việt Minh có thể di chuyển dễ dàng từ Điện Biên Phủ đến đồng bằng Bắc Bộ trong vòng từ hai đến ba tuần. Mặc dù lực lượng vũ trang của Pháp ở đồng bằng là 200.000 quân so với 76.000 quân chủ lực của Việt Minh, hầu hết quân Pháp có tinh thần suy sụp và nằm bẹp trong đồn xung quanh toàn là dân cư thù địch hoặc không quan tâm gì. Còn quân đội quốc gia Việt Nam do chính phủ Bảo Đại thành lập sau khi ký Hiệp ước Ê-li-dê, như tướng Na-va gọi họlà “lũ ô hợp”.
Tuy nhiên, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà gặp khó khăn nghiêm trọng tại Hội nghị. Mặc dù đại diện Việt Minh đã gặp đại diện của Trung Quốc và Liên Xô trước Hội nghị để soạn thảo chiến lược đàm phán chung, điều rõ ràng là cả Mát-xcơ-va và Bắc Kinh đều không muốn ủng hộ Việt Minh tiếp tục cuộc chiến, và họ cũng chẳng sẵn sàng đáp ứng hoàn toàn mọi yêu cầu của Việt Minh. Cả hai đều chú ý đến lợi ích an ninh của chính mình tại Giơ-ne-vơ và đều mong tránh phải đụng đầu với Hoa Kỳ. Sau khi các cuộc tranh cãi ban đầu lắng đi, rõ ràng cả Ngoại trưởng Liên Xô, ông Vi-a-chê-láp Mô-lô-tốp và trưởng phái đoàn Trung Quốc tại Hội nghị, ông Chu Ân Lai đều mong có thoả hiệp dựa trên việc chia cắt Việt Nam thanh hai khu vực tập kết, một do Việt Minh chiếm giữ và một do chính phủ Bảo Đại và những người ủng hộ chính phủ này chiếm giữ. Hơn nữa, sau thời gian đầu ủng hộ quan điểm của Việt Minh về Cam-pu-chi-a và Lào, Ngoại trưởng Chu Ân Lai nói rõ với ông Phạm Văn Đồng là Trung Quốc không ủng hộ yêu cầu của Việt Nam dân chủ Cộng hoà đòi Pa-thét Lào và Khơ-me đỏ tham gia Hội nghị như là đại diện chân chính của nhân dân Lào và Căm pu chia. Ông Chu Ân Lai còn cảnh báo vấn đề này sẽ gây nguy cơ đối với quá trình đạt đến giải pháp và dẫn đến can thiệp trực tiếp của Mỹ vào cuộc chiến. Ông tin rằng tốt hơn là chấp nhận trung lập hóa hai quốc gia này với chính phủ hoàng gia hiện hành. Để khuyến khích Việt Nam Dân chủ cộng hòa chấp nhận, ông Chu Ân Lai đồng ý kiên quyết lập trường phải cho lực lượng Pa – thét Lào có một khu vực tập kết sau khi xung đột kết thúc. Ông Phạm Văn Đồng rõ ràng là đã lưỡng lự do [?] đồng ý.
Nhiều năm sau các nguồn chính thức của Việt Nam lại cho rằng cách Chu Ân Lai cư xử tại Hội nghị Giơ-ne-vơ là do Trung Quốc muốn kéo Lào và Cam-pu-chi-a vào khu vực ảnh hưởng của mình. Mặc dù hầu như không có bằng chứng gì chứng tỏ điều này là đúng, rất có thể Bắc Kinh đã coi hai nước này có tầm quan trọng thiết yếu đối với an ninh của mình ở khu vực và do vậy không muốn có một Liên bang Đông Dương. Tuy nhiên, tại thời điểm đó, lý do chính là ngăn không cho đàm phán hoà bình sụp đổ loại bỏ khả năng Mỹ thiết lập căn cứ ở hai nước. Chắc chắn vì những lý do này mà ông Chu Ân Lai đã khẩn thiết kêu gọi ông Đồng chấp nhận thoả hiệp, một quan điểm mà phái đoàn Liên Xô ủng hộ mạnh mẽ.
Giải quyết xong vấn đề Lào và Cam-pu-chi-a, Hội nghị tạm nghỉ. Trong khi đó đoàn đại biểu Pháp và Việt Nam Dân chủ cộng hoà bắt đầu chú ý đến chi tiết của giải pháp ở Việt Nam. Trong hội đàm riêng về quân sự với Pháp, đại biểu Việt Minh nói rõ ràng họ muốn có một khu vực lãnh thổ liền kề nhau làm khu vực tập kết quân và những người theo họ bao gồm đồng bằng sông Hồng, kể cả Hà Nội và Hải Phòng. (Một nhà đàm phán cao cấp của Việt Minh nói: “ Chúng tôi phải được Hà Nội, chúng tôi phải có đường thoát”). Quân Pháp không muốn mất Hà Nội, nhưng lại nói một cách dán tiếp rằng họ muốn được rảnh tay ở phía Nam và ít nhất là một khu vực riêng ở phía Bắc để chuyển quân và dân ra khỏi vùng đồng bằng.
Do vậy, cuộc tranh luận tập trung vào đường phân chia hai khu vực tập kết và việc thực hiện những thảo thuận chung. Lúc đầu, ông Phạm Văn Đồng đòi đường phân chia phải ở vĩ tuyến 13 trong khi Pháp muốn đường này ở ngay phía Nam đồng bằng sông Hồng ở miền Bắc. Để giám sát Hiệp định, đại biểu của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà muốn trong nước giám sát nhưng Pháp (với sự hỗ trợ của Hoa Kỳ) yêu cầu phải thành lập Uỷ ban Giám sát quốc tế dưới sự bảo trợ của Liên hợp quốc.
Trong khi hai phái đoàn Pháp và Việt Nam tranh cãi về chi tiết, Chu Ân Lai về Bắc Kinh tham khảo ý kiến của Mao Trạch Đông và các nhà lãnh đạo chính phủ khác. Trên đường về, ông dừng chân tại Ấn Độ, ông yêu cầu Thủ tướng Gia-oa-hắc-la Nê-ru ủng hộ lập trường của Trung Quốc tại bàn Hội nghị. Để giảm bớt lo lắng của Nê-ru về khả năng toàn bộ Đông Dương sẽ sớm rơi vào tay Cộng Sản (và do vậy rơi vào sự kiểm soát của Trung Quốc), Chu Ân Lai hứa rằng toàn bộ quân Việt Minh sẽ rút khỏi Lào và Cam-pu-chi-a, và hai nước này sẽ có chính phủ độc lập do họ tự chọn. Về tình hình Việt Nam, ông bảo đảm với các nhà lãnh đạo Ấn Độ rằng Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẽ tôn trọng bất kỳ thoả thuận nào chia cắt Việt Nam thành hai miền, ông tuyên bố thêm rằng chủ nghĩa xã hội không phải để “xuất khẩu”. Trong một thông báo đưa ra sau một loạt các cuộc gặp gỡ, hai nhà lãnh đạo đã khẳng định ủng hộ khái niệm năm nguyên tắc chung sống hoà bình và coi năm nguyên tắc này là cơ sở thích hợp cho quan hệ quốc tế ở châu Á và thế giới.
Dừng chân ngắn ở Răng-gun, ông đã thảo luận với Thủ tướng Miến Điện, ông U Nu. Sau đó ông Chu Ân Lai về Bắc Kinh và đi thẳng đến Lôi Châu, nơi đã từng là đại bản doanh của Trương Phát Khuê ở Nam Trung Quốc. Ở Lôi Châu, ông gặp Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp. Cuộc gặp này không được mấy ai chú ý. Một tuyên bố báo chí sauđó của Tân Hoa Xã chỉ nói rằng “Thủ tướng Chu Ân Lai và Chủ tich Hồ Chí Minh đã trao đổi toàn bộ ý kiến về Hội nghị Giơ-ne-vơ, vấn đề khôi phục hoà bình ở Đông Dương và các vấn đề có liên quan”. Tuy nhiên, một nguồn tin Trung Quốc gần đây cho biết ông Chu đã thuyết phục được ông Hồ thấy sự cần thiết phải có một giải pháp thoả hiệp ở Giơ-ne-vơ để tránh can thiệp trực tiếp của Mỹ vào cuộc chiến. Hai vị lãnh tụ đã thoả thuận chấp nhận vĩ tuyến 16 làm đường phân giới giữa hai khu tập kết. Hai vị lãnh tụ cũng thoả thuận chấp nhận việc thành lập chính phủ không cộng sản ở Lào và Cam-pu-chi-a, với điều kiện Pa-thét Lào cũng có một khu vực tập kết nhỏ. Ông Hồ cũng đồng ý đưa ra tuyên bố chung nói rằng ba nước Đông Dương sẽ tuân thủ năm nguyên tắc cùng chung sống hoà bình. Để đổi lại, Chu Ân Lai hứa Trung Quốc sẽ tiếp tục ủng hộ và viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Trong những hiệp định viện trợ ký tại Bắc Kinh ngày 7 tháng 7, Trung Quốc cam kết tăng thêm viện trợ thương mại và kinh tế. Những nguồn tin chính thức ở Việt Nam chỉ đưa tin cụt lủn về kết quả cuộc gặp. Báo Nhân dân của Đảng ghi nhận một cách không rõ ràng rằng “việc khôi phục hoà bình ở Đông Dương không thể chỉ do một bên quyết định”
Sau những cuộc tham khảo ý kiến ngắn ở Bắc Kinh, Chu Ân Lai trở lại Giơ-ne-vơ trong khi các đại biểu đang giải quyết nốt những vẫn đề tồn đọng, hiệp định đã được ký kết ngày 21 tháng 07 năm 1954. Một Uỷ ban Quốc tế sẽ giám sát Hiệp định. Uỷ ban này bao gồm Ấn Độ, Ca-na-da và Ba Lan. Một tuyên bố chính trị không mang tính ràng buộc kêu gọi chính quyền ở hai khu vực tập kết tiến hành hiệp thương và tổ chức tổng tuyển cử thống nhất đất nước hai năm sau. Điểm khó khăn cuối cùng là thảo thuận thiết lập đường phân giới giữa hai khu vực tập kết tại vĩ tuyến 17. Khi Phạm Văn Đồng có vẻ chần chừ không chấp nhận nhượng bộ, ông Chu lập luận rằng cho phép Thủ tướng Pháp, ông Pi-e Men-đéc-xơ Phơ-ran-xơ, giữ thể diện của mình là giá nhỏ phải trả cho việc quân Pháp tút. Ông Chu còn nói “Khi quân Pháp rút hoàn toàn, toàn bộ Việt Nam là của các bạn”
Tuy nhiên, theo quan điểm của Hồ Chí Minh và các cộng sự của ông thì có những tiến triển bất lợi ngay sau khi Hội nghị kết thúc. Chính quyền Ai-xen-hao đã lo ngại theo dõi đàm phán tại Giơ-ne-vơ và quyết định không chấp nhận các điều kiện của Hiệp định trừ khi ít nhất một phần của Việt Nam vẫn an toàn. Vì điều khoản về thống nhất hoàn toàn đất nước thông qua tuyển cử tổ chức năm 1956 mở ra khả năng cộng sản thắng lợi hoàn toàn, Oa-sinh-tơn cho thấy là sẽ không đồng tình với tuyên bố chính trị và sẽ không cam kết ủng hộ Hiệp định Giơ-ne-vơ. Phái đoàn của Bảo Đại cũng làm như vậy và không chịu chấp thuận tuyên bố chính trị, lập luận rằng quyết định chia cắt đất nước là của một nước lớn thuộc địa chứ không phải là nguyện vọng của nhân dân. Một vài ngày sau khi hội nghị kết thúc, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Đa-lét thông báo tại một cuộc họp báo rằng Mỹ sẽ gây dựng sự phát triển của một nhà nước không cộng sản ở Nam Việt Nam, Lào và Cam-pu-chi-a. Tuyên bố này tuyệt nhiên không hề là dấu hiệu tốt lành cho cuộc tổng tuyển cử trong tương lai.
Nhiều nhà quan sát tại hội nghị đã nhận thấy thái độ cay cú của phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trước việc Trung Quốc và Liên Xô phản bội lợi ích của mình. Nhớ lại điều này, Vương Bình Nam, một nhà ngoại giao Trung Quốc sau này nói rằng một số đại biểu “hy vọng sẽ thống nhất Việt Nam được ngay”.
Thái độ cay cú này rõ ràng không chỉ là thái độ của đoàn đại biểu Việt Nam mà còn thể hiện ở trong nước Việt Nam. Tình hình này rõ ràng nghiêm trọng đến mức Hồ Chí Minh cũng bắt đầu chú ý. Trong báo cáo chính trị cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam vài ngày trước khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, ông Hồ viết:
“Mốt số người say sưa với thắng lợi liên tục của chúng ta, muốn tiếp tục chiến đấu đến cùng với bất kỳ giá nào; họ chỉ thấy cây mà không thấy rừng; tập trung vào việc quân Pháp rút, họ không thấy âm mưu của chúng; họ thấy Pháp nhưng không thấy Mỹ; họ thiên về hành động quân sự và coi nhẹ ngoại giao. Họ không biết rằng chúng ta đang đấu tranh tại các hội nghị quốc tế cũng như tại chiến trường để đạt được mục tiêu”.
Hồ Chí Minh tranh luận với những người “muốn có kết quả nhanh, không biết rằng cuộc đấu tranh giành hoà bình là khó khăn và phức tạp.” Điều họ không thấy là ba nước đã có những bước tiến lớn trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho các nước Đông Dương. Tuy nhiên, bây giờ cần có một chiến lược, vì quân Mỹ đã kiên quyết phá hoại khả năng hoà bình can thiệp và biện hộ cho xung đột ở Đông Dương. Do hoàn cảnh mới, khẩu hiệu hiệu cũ “Kháng chiến đến cùng” phải được thay thế bằng khẩu hiệu “Hoà bình, đoàn kết, độc lập, dân chủ”. Một chính sách như vậy góp phần cô lập Hoa Kỳ (nay trở thành kẻ thù chính trực tiếp của nhân dân Đông Dương) trên trường quốc tế và đánh bại âm mưu thâm độc của chúng.
Hồ Chí Minh công nhận rằng giá phải trả cho hoà bình là sự chia cắt đất nước, Ông nhất mực cho rằng việc thiết lập khu vực tập kết không có nghĩa là đất nước bị chia cắt vĩnh viễn mà chỉ là tạm thời.
Do việc hoạch định và trao đổi vùng, một số vùng tự do trước đây sẽ bị địch tạm chiếm; nhân dân sẽ không bằng lòng; một số người sẽ chán nản và bị địch lừa bịp. Chúng ta phải làm cho đồng bào rõ là thử thách họ sẽ trải qua là vì lợi ích toàn đất nước, vì lợi ích lâu dài của chúng ta và sẽ là một sự nghiệp vinh quang mà cả nước đều biết ơn.
Hồ Chí Minh hứa rằng, với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và sự ủng hộ của các dân tộc trên thế giới , độc lập hoàn toàn và đoàn kết dân tộc chắc chắn sẽ đạt được.
Kêu gọi cộng sự của mình trong Đảng chấp nhận một giải pháp thông qua đàm phán về thực chất không phải là chiến thắng hoàn toàn, Hồ Chí Minh chắc chắn đã nghe theo lời khuyên của Chu Ân Lai. Ông Chu Ân Lai đã khẩn thiết kêu gọi ông Hồ chấp nhận một giải pháp như vậy trong cuộc gặp gỡ ở Lôi Châu trước đó vài ngày. Tuy vậy, thái độ sẵn sàng chấp nhận hoà bình trong nhân nhượng trên đường đến thắng lợi cuối cùng làm chúng ta nhớ lại cách giải quyết vấn đề của ông trong những dịp trước đó, đặc biệt là vào cuối chiến tranh Thái Bình Dương. Hồ Chí Minh nhận thấy rằng độc lập dân tộc và thống nhất đất nước không thể đạt được một cách riêng rẽ, nhưng phải đạt được trong bối cảnh những thay đổi phức tạp diễn ra trên trường quốc tế.

PHẦN KẾT

TỪ MỘT CON NGƯỜI TỚI MỘT HUYỀN THOẠI

Những lời bình luận đổ dồn về từ khắp nơi trên thế giới khi có tin đồn Hồ Chí Minh qua đời. Các bài viết ca ngợi Hồ Chí Minh từ các thành phố lớn được tới tấp gửi đến và Hà Nội nhận được hơn 22.000 thông điệp từ 121 quốc gia chia buồn với nhân dân Việt Nam khi biết nhà lãnh đạo của họ qua đời. Một vài nước xã hội chủ nghĩa tổ chức tang lễ và có thể thấy trước được lời lẽ các bài điếu văn của họ là thiện chí. Một tuyên bố chính thức từ Mát-xcơ-va ca ngợi ông Hồ là “người con vĩ đại của nhân dân Việt Nam anh hùng, lãnh tụ kiệt xuất của phong trào giải phóng dân tộc và quốc tế cộng sản, người bạn lớn của Liên Xô”. Các nước thế giới thứ 3 ca ngợi ông là người bảo vệ cho các dân tộc bị áp bức. Một bài báo ở Ấn Độ miêu tả ông là tinh hoa của “dân tộc, hiện thân cho khát vọng cháy bỏng vì tự do, cho tinh thần kiên cường và sự nghiệp đấu tranh của họ”. Những người khác nhắc đến đức tính giản dị và đạo đức cao cả của ông. Một bài xã luận trên báo U-ru-goay nói rằng “ông có một tấm lòng bao la như vũ trụ và tình yêu thương vô bờ bến đối với nhi đồng. Ông là biểu tượng của đức giản dị trên tất cả các mặt”.
Phản ứng từ các thành phố phương Tây im ắng hơn. Nhà Trắng tránh không bình luận, và các quan chức chính quyền Ních-xơn cũng như vậy. Tuy nhiên, phương tiện truyền thông của phương tây cũng sôi nổi đưa tin về cái chết của ông. Các tờ báo ủng hộ sự nghiệp chống chiến tranh có khuynh hướng mô tả ông như một đối thủ đáng được kính trọng và người bênh vực các dân tộc yếu hèn bị áp bức. Thậm chí những người kịch liệt phản đối chế độ Hà Nội cũng kính trọng ông vì những cống hiến toàn bộ đời mình trước hết cho độc lập và thống nhất đất nước và sự ủng hộ bênh vực các dân tộc bị bóc lột trên thế giới.
Một vấn đề chủ chốt mà nhiều nhà bình luận suy nghĩ là việc ông qua đời có ảnh hưởng thế nào tới diễn biến của cuộc chiến tranh ở Đông Dương. Được biết đến như một người cộng sản kỳ cựu và một nhà cách mạng tận tuỵ, nhiều người xem Hồ Chí Minh như một người thực dụng, nắm vững diễn biến phức tạp của tình hình chính trị thế giới và biến động theo thời thế. Thậm chí cả Giôn-xơn, có lẽ là đối thủ đáng gờm nhất của ông trong những năm 60, đôi khi cũng nhận xét rằng nếu ông ta có thể ngồi với “ông Hồ”, hai nhân vật chính trị kỳ cựu bằng cách này hay cách khác có thể sẽ đi đến một thoả hiệp nào đó.
Với những người kế nhiệm, không ai được thế giới kính trọng như ông Hồ. Rất ít cộng sự của ông Hồ nổi tiếng ở thế giới bên ngoài. Trừ ông Hồ, không có quan chức cao cấp nào của Đảng từng sống hoặc đi khắp nước Pháp , huống hồ các nước phương tây khác. Trong số những người từng ra nước ngoài, hầu hết họ được đào tạo tại Trung Quốc hoặc Liên Xô, và thế giới quan của họ hạn chế bởi giáo lý cứng nhắc của chủ nghĩa Mác-lê-nin. Tổng Bí thư Lê Duẩn, người đã nhanh chóng thiết lập uy tín là người kế nhiệm chức của ông Hồ ở Hà Nội, hầu như không được phương Tây biết đến. Thậm chí ở Mát-xcơ-va và Bắc Kinh, ông Duẩn cũng không được biết đến nhiều.
Trong bản di chúc cuối cùng của mình và trong suốt đời mình, Hồ Chí Minh tìm cách cân bằng cam kết giành độc lập cho dân tộc Việt Nam với cam kết cống hiến cho phong trào thế giới. Trong bản di chúc khởi thảo lần đầu tiên năm 1965 và sau đó tự tay sửa đổi vào năm 1968 và 1969, mặc dù nhấn mạnh phải đặt ưu tiên hàng đầu cho hàn gắn vết thương chiến tranh và cải thiện mức sống của người dân Việt Nam, ông Hồ vẫn khẳng định tầm quan trọng của cả chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Ông đặc biệt chú trọng thực hiện bình đẳng giữa nam và nữ. Ông ca ngợi Đảng đóng vai trò hàng đầu trong cuộc cách mạng Việt Nam nhưng cũng kêu gọi phát động chiến dịch tự phê bình và chỉnh đốn Đảng nhằm dân chủ hoá tổ chức và nâng cao đạo đức cho số cán bộ Đảng sau khi chiến tranh kết thúc. Cuối cùng, ông nhiệt thành kêu gọi thôi thúc tình đoàn kết của phong trào Cộng sản theo nguyên tắc chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Đám tang Hồ Chí Minh được tổ chức tại Quảng trường Ba Đình ở Hà Nội ngày 8 tháng 9 năm 1969 với hơn 100.000 người tham dự gồm cả đại diện từ các nước xã hộ chủ nghĩa. Trong bài phát biểu trước Quốc hội, Lê Duẩn hứa rằng các nhà lãnh đạo Đảng sẽ tìm cách thực hiện khát khao cháy bỏng của Hồ Chí Minh đánh bại quân xâm lược Mỹ, giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước. Sau đó ông hứa Đảng sẽ đem hết nỗ lực xây dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và khôi phục tinh thần đoàn kết trong phe xã hội chủ nghĩa.
Về khía cạnh nào đó, Lê Duẩn cũng đã thực hiện lời hứa của mình. Dưới sự lãnh đạo cương quyết của ông, thời gian sau khi Hồ Chí Minh qua đời, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tiếp tục theo đuổi chiến thắng cuối cùng ở Miền Nam. Mục tiêu trước mắt của Hà Nội là củng cố lực lượng ở miền Nam chuẩn bị phát động một cuộc tấn công quân sự mới trong thời gian diễn ra chiến dịch bầu cử tổng thống Mỹ năm 1972. Các đại diện miền Bắc Việt Nam tiến hành đàm phán với Mỹ ở Pa-ri, nhưng hầu hết không đạt được kết quả gì vì cả hai phía đều tìm cách tạo ra một bước ngoặt quân sự ở miền Nam Việt Nam làm phương tiện giành lợi thế trên bàn hội nghị. Mặc dù số thương vong của Hà Nội vẫn ở mức cao, các nhà lãnh đạo Đảng vẫn lạc quan vì tình cảm chống chiến tranh ở Mỹ đang dâng cao buộc Tổng thống Ních-xơn phải tuyên bố chương trình kêu gọi rút quân Mỹ về nước vào cuối nhiệm kỳ đầu của ông ta.
Trong những ngày lễ phục sinh năm 1972, với chưa đầy 50.000 quân Mỹ vẫn ở miền Nam Việt Nam, Hà Nội phát động một chiến dịch tấn công ở miền Nam Việt Nam. Giống như cuộc tổng tấn công tết Mậu Thân năm 1968, cuộc tấn công trong ngày lễ phục sinh lần này không đem lại chiến thắng hoàn toàn nhưng nó khiến cho cả hai phía đẩy nhanh tiến trình hoà bình . Tháng 1 năm 1973, Hà Nội và Oa-sinh-tơn cuối cùng đi đến một hiệp định thoả hiệp. Hiệp định hoà bình Pa-ri kêu gọi ngừng bắn và rút toàn bộ đơn vị lính chiến đấu của Mỹ về nước. Các cuộc đàm phán giữa hai bên sẽ quyết định phân chia lãnh thổ dưới quyền kiểm soát của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam và chính quyền Sài Gòn thông qua việc thành lập một cơ cấu hành chính bên cạnh chính phủ (đó là Hội đồng quốc gia Hoà giải và Hoà hợp dân tộc) gồm đại diện của cả hai phía cũng như những phần tử trung lập. Hội đồng này sau đó sẽ bàn vấn đề tổ chức tổng tuyển cử.
Giống như Hiệp định Giơ-ne-vơ cách đây hai thập kỷ, Hiệp định Pa-ri không chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Hiệp định này chỉ đơn thuần giải quyết vấn đề quân Mỹ rút khỏi Việt Nam và khôi phục nguyên trạng tình hình đầu những năm 1960 ở miền Nam Việt Nam. Khi chẳng bên nào tỏ thái độ mong muốn tôn trọng các điều khoản của Hiệp định Pa-ri, xung đột ở các vùng nông thôn lại nổ ra. Đầu năm 1975, Hà Nội mở một cuộc tấn công mới với mục tiêu hoàn thành việc chiếm lại miền Nam một năm sau đó. Nước Mỹ suy yếu vì mùa hè trước Ních-xơn đã từ chức và người kế nhiệm của ông, tổng thống Pho, không dám đưa quân chiến đấu Mỹ trở lại miền Nam Việt Nam. Trên đà thắng lợi, tháng 3 quân đội Bắc Việt Nam tiến quân ra khỏi Tây Nguyên và tiến thẳng tới Sài Gòn trong khi các lực lượng khác đã chiếm được Đà Nẵng và toàn bộ phía Bắc. Vào tuần cuối cùng của tháng 4, lực lượng cộng sản gần như giành được chiến thắng khi các lực lượng kháng cự Sài Gòn suy sụp và những người Mỹ còn lại được trực thăng đưa đi từ nóc toà nhà đại sứ quán Mỹ tới hàng không mẫu hạm đậu ngoài khơi. Sau cuộc đấu tranh ác liệt kéo dài 15 năm khiến hơn một triệu người Việt Nam thiệt mạng, Tổng thống Pho tuyên bố “cuộc chiến đã chấm rứt”. Đồng thời trước đó hai tuần, lực lượng Khơ-me Đỏ đã nắm được chính quyền ở Phnôm Pênh, và một chính phủ cách mạng sẽ lên nắm chính quyền ở Lào vào cuối năm.
Đầu tháng 7 năm 1976, hai miền Việt Nam được thống nhất thành nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Lê Duẩn đã thực hiện lời hứa của mình hoàn thành một trong những ước nguyện của Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, khi thực hiện các điểm khác trong di chúc của Hồ Chí Minh, Lê Duẩn không tạo ấn tượng như vậy. Năm 1968, một chuyên gia của Liên Xô bí mật tới Hà Nội dạy Việt Nam thuật ướp xác. Tháng 3 năm đó, một đội chuyên gia Việt Nam sang Mát-xcơ-va tham khảo thêm ý kiến và báo cáo những tiến triển trong việc áp dụng kỹ thuật đó. Tuy nhiên, theo một nguồn tin, đây vẫn là một vẫn đề nhạy cảm trong giới lãnh đạo Đảng vì bản thân Hồ Chí Minh chắc sẽ phản đối rất mạnh bất cứ kế hoạch nào đi ngược lại ý nguyện được thiêu xác của ông. Vào thời điểm đó Hồ Chí Minh qua đời, Bộ Chính trị chưa có quyết định cuối cùng về cách thức giải quyết vẫn đề này. Sau khi tham khảo ý kiến khẩn cấp với Mát-xcơ-va, một chuyên gia khác của Liên Xô đến Hà Nội giữa tháng 9 giúp chuyên gia y tế của Việt Nam giữ gìn thi thể của ông Hồ.
Ngày 29 tháng 11 năm 1969, Bộ Chính trị chính thức thông qua kế hoạch khởi công xây dựng lăng để lưu giữ thi hài ông Hồ nhằm giáo dục thế hệ trẻ tương lai. Một uỷ ban có đại diện Bộ Xây dựng và Bộ Quốc phòng được chỉ định giám sát công trình với sự giúp đỡ của các cố vấn Liên Xô. Trong báo cáo cuối cùng gửi các nhà lãnh đạo Đảng, Uỷ ban này kết luận rằng lăng cần phải được thiết kế hiện đại nhưng phải thấm nhuần bản sắc dân tộc. Phù hợp với tính cách của Hồ Chí minh, vẻ bề ngoài của lăng cần phải đơn giản và được đặt ở địa điểm thuần tiện và dễ đi lại. Để đưa ra được khuyến nghị về thiết kế công trình, Uỷ ban đã nghiêm cứu một số cấu trúc lăng khác bao gồm cả kim tự tháp Ai Cập, tượng đài kỷ niệm Vích-to Ê-ma-nu-en ở Rôm, đài kỷ niệm Lin-côn ở Oa-sinh-tơn D.C., và lăng mộ Lê-nin ở Mát-xcơ-va. Sau khi Bộ Chính trị đưa ra gợi ý bổ sung, mô hình cấu trúc lăng được trưng bày ở khắp cả nước để trưng cầu ý kiến của công chúng. Cuối cùng có hơn 30.000 gợi ý khác nhau được trình lên Uỷ ban.
Tháng 12 năm 1971, Bộ Chính trị thông qua đề xuất cuối cùng và công việc xây dựng bắt đầu ngay sau khi hiệp định Pa-ri được ký kết. Địa điểm được chọn xây lăng là một trong những thánh địa của cách mạng Việt Nam – Quảng trường Ba Đình, Hà Nội gần với Phủ Chủ tịch và nhà sàn Hồ Chí Minh. Vào ngày 29 tháng 8 năm 1975, khi chính thức được mở công khai cho dân chúng, lăng Hồ Chí Minh gợi nhớ đến lăng Lê-nin ở Quảng trường Đỏ. Các mặt của lăng được ốp đá cẩm thạch xám, hầu hết được khai thác ở núi đá cẩm thạch, một mỏ đá lộ thiên ở phía nam Đà Nẵng – nơi quân Việt cộng sống tại một hang đá trong núi có thể xem lính Mỹ bơi tại bờ biển nổi tiếng gọi là bờ biển Trung Hoa, đây cũng là một trong những khu nghỉ mát nổi tiếng nhất trong vùng. Lăng được thiết kế mô tả hình tượng bông sen vươn lên từ bùn đen với vẻ hiện đại và do đó tạo ra sự tương phản với một ngôi chùa phật thế kỷ 11 ở một khuôn viên gần đó. Tuy nhiên, nhiều nhà quan sát cho rằng kiến trúc của lăng nặng nề chán ngắt hoàn toàn trái với tính cách hài hước và khiêm tốn của Hồ Chí Minh – người đang nằm trong lăng, hai tay bắt chéo và mặc bộ đại cán giản dị kiểu Tôn Trung Sơn. Như nhà sử học Huế, Tâm Hồ Tài, nhận xét, điều đó có tác dụng mô tả Hồ Chí Minh như một nhà lãnh đạo Cộng sản quốc tế chứ không tạo ra hình ảnh gần gũi hơn về Bác Hồ được các đồng bào của ông – hơn 15.000 lượt người đến thăm lăng mỗi tuần.
Khi thực hiện kế hoạch giữ gìn thi thể Hồ Chí Minh trong lăng, các nhà lãnh đạo Đảng rõ ràng đã không tổ chức lễ tang và lễ hoả táng đơn giản theo như yêu cầu của ông Hồ. Ông luôn coi thường cạm bẫy vật chất xa hoa. Năm 1959 ông thậm chí phản đối đề nghị xây một bảo tàng nhỏ tại làng Kim Liên khi mọi người biết ông là nhà cách mạnh nổi tiếng Nguyễn Ái Quốc, với lập luận rằng tốt hơn là sử dụng số tiền hiếm hoi đó để xây trường học. Để tránh bị công chúng chỉ trích vì quyết định làm trái với di nguyện của ông Hồ, các nhà lãnh đạo Đảng đã bỏ đi những phần trong di chúc của ông nói về việc thiêu xác. Bản di chúc công bố năm 1969 cũng không nói tới yêu cầu của ông Hồ miễn một năm thuế nông nghiệp cho nông dân và lời cảnh báo của ông đối với đồng bào mình rằng chiến tranh ở miền Nam còn có thể kéo dài một vài năm nữa. Đảng cũng tuyên bố rằng ông Hồ mất ngày 3 tháng 9, một sau khi ông Hồ thực sự qua đời để khỏi ảnh hưởng đến không khí kỷ niệm ngày quốc khánh mồng 2 tháng 9 năm 1945 khi Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng trường Ba Đình *.
Sau Đại hội toàn quốc lần thứ 4 tháng 12 năm 1976, các nhà lãnh đạo Đảng tuyên bố sẽ xây dựng “về cơ bản” chủ nghĩa xã hội trên toàn quốc vào thập kỷ này. Để biểu trưng cho giai đoạn mới của cuộc cách mạng này, Đảng Lao động Việt Nam đổi tên thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Những người kế vị Hồ Chí Minh cố dùng hình ảnh của ông để giành được sự ủng hộ của dân chúng cho chương trình đầy tham vọng của mình. Chân dung vị cố chủ tịch xuất hiện trên tem, tiền và tường của các toà nhà trên khắp cả nước trong khi sách giáo khoa và các cuốn sách nhỏ về cuộc đời, tư tưởng, và đạo đức cách mạng của ông được in rất nhiều. Các nhà lãnh đạo Đảng như Trường Chinh, Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp kể lại chi tiết những kỷ niệm về ông Hồ và nhấn mạnh tư tưởng Hồ Chí Minh như một công cụ cốt yếu giúp xây dựng Việt Nam trong tương lai. Người ta khuyến khích thanh niên Việt Nam đi theo con đường Hồ Chí Minh, lấy đó làm định hướng cho hành động hằng ngày của mình và tên của ông được đặt cho các tổ chức thanh niên được thành lập trên khắp cả nước. Một số nước xã hội chủ nghĩa khác cố dùng danh tiếng của ông phục vụ mục đích riêng của mình, lấy tên đặt cho trường học, nhà máy, đường phố, quảng trường và tổ chức hội thảo học tập di chúc và các thành công trong sự nghiệp của ông.
Giá trị thực sự của tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện trong bảo tàng Hồ Chí Minh. Bảo tàng này được hoàn thành vào mùa thu năm 1990 nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông. Được xây ngay sau lăng gần Quảng trường Ba Đình, kích thước của Bảo tàng gây ấn tượng mạnh nhưng không nặng nề như những công trình cạnh đó. Với các mặt được ốp đá cẩm thạch, bảo tàng cũng được thiết kế giống hình bông sen, mặc dù đối với một số nhà quan sát, cấu trúc bốn mặt với đường vào ở một góc gợi nhớ hơn đến mũi của một con tàu.
Cho dù Đảng rất cố gắng nêu bật tư tưởng Hồ Chí Minh như hiện thân của một nước Việt Nam mới, nhiều nhà quan sát vẫn nhận ra những khác biệt lớn giữa phong cách của Lê Duẩn và phong cách của người tiền nhiệm nổi tiếng của ông. Trong khi ông Hồ kiên trì khuyến khích cần phải từng bước tiến hành cách mạng Việt Nam nhằm phát huy tối đa sự ủng hộ của quần chúng từ mọi thành phần xã hội, Lê Duẩn lại thường áp dụng sách lược tham vọng hơn, gây chia rẽ trong ban lãnh đạo Đảng và cô lập bộ phận dân chúng. Và trong khi ông Hồ luôn chú trọng thích đáng tới thực tế tình hình thế giới khi tìm cách thực hiện chiến lược của mình thì những người kế nhiệm của ông lại theo đuổi chính sách đối ngoại hung hăng, không chỉ gây thù địch với các nước láng giềng của Hà Nội ở Đông Nam Á mà còn khiến Trung Quốc – từng là đồng minh thân cận nhất và là nước ủng hộ mạnh mẽ nhất của Hà Nội – khó chịu. Những người phản đối chính sách của Lê Duẩn bị đưa ra khỏi ban lãnh đạo Đảng (một thí dụ nổi bật là Võ Nguyên Giáp) hoặc chọn giải pháp sống lưu vong ở nước ngoài (như trường hợp Hoàng Văn Hoan).
Kết quả đó là bi kịch đối với một đất nước mới vừa thoát khỏi chiến tranh. Khi chế độ này đột nhiên tuyên bố quốc hữu hoá ngành công nghiệp và thương mại tháng 3 năm 1978, hàng ngàn người ra đi tìm nơi ẩn náu ở nước ngoài. Chương trình tập thể hoá nông nghiệp khiến hầu hết nông dân miền Nam phản kháng. Cuối những năm 70, nền kinh tế của Việt Nam lâm vào tình trạng hỗn độn, bị lung lay bởi nỗ lực không khôn ngoan của Đảng định hoàn thành xây dựng cơ sở cho một xã hội xã hội chủ nghĩa trước khi kết thúc thập kỷ.
Khủng hoảng ở bên ngoài đã làm tình hình trong nước trầm trọng hơn. Khi lên nắm quyền, chế độ diệt chủng và cuồng tín Pôn Pốt ở Cam-pu-chia phản đối gợi ý của Việt Nam thành lập liên minh quân sự giữa ba nước Đông Dương. Tháng 12 năm 1978, Hà Nội xâm lược Cam-pu-chia và dựng lên một chế độ bù nhìn ở Phnông Pênh. Để trả đũa, các lực lượng Trung Quốc mở chiến dịch tràn qua biên giới Việt Nam. Mặc dù không kéo dài, chiến dịch đã buộc Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam tập trung những nguồn lực quân sự quý báu cho sự nghiệp bảo vệ đất nước. Giữa những năm 80, thái độ bất bình của dân chúng đối với ban lãnh đạo Đảng đã lên tới mức báo động – vì lãnh đạo chỉ còn là một nhóm người không làm theo lời khuyên của Hồ Chí Minh là phải mang lại hạnh phúc cho nhân dân sau khi giành chiến thắng.
Mùa hè năm 1986, sau khi lê Duẩn qua đời, các nhà lãnh đạo Đảng muộn màng nhận ra sai lầm của mình (như một ai đó mô tả là “chủ nghĩa phấn khích”) và bước vào một con đường mới. Dưới sự lãnh đạo của một vị Tổng Bí thư mới, một nhân vật cứng rắn người miền Nam cũ, ông Nguyễn Văn Linh, Bộ Chính trị thông qua kế hoạch khôi phục nền kinh tế trì trệ bằng việc áp dụng thị trường xã hội chủ nghĩa và mở cửa cho đầu tư nước ngoài, đồng thời khuyến khích thái độ khoan dung tự do tư tưởng của dân chúng. Được biết đến như chương trình cải cách, đổi mới, chương trình mới này làm người ta nhớ lại chính sách cải tổ của Goóc-ba-chốp ở Liên Xô, mặc dù những nguồn tin ở Hà Nội quả quyết rằng chiến lược này là của Việt Nam.
Tuy nhiên, đến cuối thập kỷ, các lực lượng bảo thủ trong Đảng đã suy nghĩ lại. Mặc dù giúp kích thích tăng trưởng kinh tế Việt Nam, việc áp dụng ý tưởng của nước ngoài ngày càng dẫn đến (ít nhất theo những người có quan điểm bảo thủ) những tệ nạn như thuốc phiện, gái điếm, AIDS và chủ nghĩa hưởng lạc trong thanh niên Việt Nam cũng như làm tăng thái độ chỉ trích sự thống trị của Đảng trên tất cả các mặt trong vấn đề nội bộ. Được báo động bởi sự sụp đổ của hệ thống cộng sản ở Đông Âu và nỗi lo lắng ngày càng tăng trước tác động của văn hoá phương Tây làm suy yếu dần những thể chế xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Đảng bắt đầu thẳng tay đàn áp những nhân vật bất đồng chính kiến và những người mà các nhân vật bảo thủ coi là “cỏ độc của chủ nghĩa tư bản”. Dưới sự lãnh đạo của ông Đỗ Mười – người kế nhiệm Nguyễn Văn Linh và là một đảng viên lão thành – Hà Nội cũng áp dụng chính sách hậu Thiên An Môn của Trung Quốc thẳng tay đàn áp những nhà hoạt động bất đồng chính kiến dưới khẩu hiệu “cải cách kinh tế, ổn định chính trị” Trong khi tự do hoá kinh tế tiến triển với một nhịp độ khiêm tốn, Đảng khẳng định lại vai trò truyền thống của mình là một lực lượng chính trị duy nhất trên toàn đất nước.
Những người Việt Nam chủ trương cải cách nhanh chóng dùng di sản của Hồ Chí Minh để thúc đẩy sự nghiệp của chính họ. Khi nhắc đến ông Hồ như một người thực dụng, họ cho rằng ông có thể đã hiểu rằng cần phải nâng cao mức sống cho nhân dân trước khi tiến lên con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa. Khi nhắc tới hình ảnh của ông như một người theo chủ nghĩa nhân văn với tinh thần vị tha cao cả trước những ý kiến đối lập, họ quả quyết rằng ông có thể đã ngăn cản sự chia rẽ trong ban lãnh đạo Đảng và tiến hành mọi biện pháp nhằm giành được sự ủng hộ của nhân dân. Vào cuối những năm 80, phe cải cách thắng thế khi người thư ký riêng cuối cùng của Hồ Chí Minh tiết lộ rằng Lê Duẩn và một số cộng sự của mình đã chữa lại bản di chúc của ông Hồ bằng cách không thực hiện lời kêu gọi miễn thuế nông nghiệp và tổ chức một lễ tang đơn giản. Bộ Chính trị buộc phải thừa nhận lỗi lầm này, nhưng bào chữa cho hành động của mình nói rằng Bộ Chính trị làm như vậy là vì có lợi ích cao cả của nhân dân Việt Nam và phù hợp với mục tiêu suốt đời của Hồ Chí Minh.
Không chỉ người Việt Nam mà người nước ngoài cũng không biết nên hiểu thế nào về nhân cách đích thực và di sản mà Hồ Chí Minh để lại. Nhiều người xem ông là một vị thánh suốt đời cống hiến cho sự nghiệp giải phóng người dân bị áp bức khỏi ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc phương Tây, người làm cho chuyên chính cộng sản phát triển khắp thế giới (có lẽ là quan điểm tệ hại nhất) hoặc là nhân vật cơ hội chủ nghĩa vô nguyên tắc, người đã sử dụng danh tiếng đứng đắn và giản dị của mình để ca tụng bản thân. Khi UNESCO tài trợ cho một hội nghị tại Hà Nội năm 1990 kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông, những lời ca ngợi Hồ Chí Minh tại hội nghị bị bác lại bằng rất nhiều quan điểm chỉ trích của những người đến từ khắp nơi trên thế giới, những người phản đối sự sùng bái một con người mà họ cảm thấy phải chịu trách nhiệm cuối cùng đối với cái chết của quá nhiều đồng bào mình.
Đối với nhiều nhà quan sát, trọng tâm của cuộc tranh luận về Hồ Chí Minh tập trung vào vấn đề nên xác định ông là nhà cộng sản hay là người dân tộc chủ nghĩa. Rất nhiều người bạn nước ngoài của ông khăng khăng cho rằng ông Hồ là người yêu nước hơn là nhà cách mạng theo chủ nghĩa Mác. Dường như ông Hồ khẳng định quan điểm này năm 1961 khi ông công khai tuyên bố rằng chính lòng mong muốn cứu vớt đồng bào ngay từ đầu đã đưa ông đến với chủ nghĩa Lê-nin. Nếu ông cũng nói như vậy trong một số dịp khác, thì có lẽ không có lời giải thích nào rõ ràng hơn lời giải thích mà ông nhận xét với một điệp viên của Mỹ Sác-lơ phen năm 1945 rằng ông xem chủ nghĩa cộng sản là phương tiện đạt được mục tiêu dân tộc chủ nghĩa. Khi được yêu cầu giải thích, ông nói:
“Trước hết, bạn phải hiểu rằng giành độc lập từ một cường quốc lớn như Pháp là một nhiệm vụ nặng nề không thể đạt được nếu không có sự giúp đỡ từ bên ngoài, không nhất thiết là trang thiết bị như súng đạn mà bằng các cuộc tiếp xúc và những lời khuyên. Trên thực tế, không thể giành được độc lập bằng ném bom hay làm những việc tương tự như vậy. Đó là sai lầm mà các cuộc cách mạng trước đó thường gặp phải. Phải giành độc lạp bằng tổ chức , tuyên truyền, huấn luyện, và kỷ luật. Cũng cần phải có niềm tin, nguyên tắc chỉ đạo, phân tích thực tiễn, có thể bạn phải vận dụng kinh thánh. Chủ nghĩa Mác-Lê-nin đã trao cho tôi những khuôn mẫu như vây”.
Phen hỏi ông Hồ lý do tại sao ông không chọn chế độ dân chủ hay một hệ thống chính trị khác mà lại chọn một chế độ mà rõ ràng sẽ làm tổn thương thiện chí của Mỹ, đất nước mà ông nói ông rất ngưỡng mộ? Hồ Chí Minh trả lời chỉ khi ông đến Mát-xcơ-va thì ông mới nhận được viện trợ thực tế. Liên Xô là nước cường quốc duy nhất trong số các cường quốc thể hiện “bạn lúc khó khăn mới là bạn tốt” Lòng trung thành của Liên Xô đã giành được lòng trung thành của Hồ Chí Minh.
Điều rõ ràng là đối với Hồ Chí Minh sự sống còn của đất nước trước hết và luôn luôn là mối quan tâm lớn nhất của ông. Quả thực, điều đó khiến các nhà lãnh đạo Đảng cao cấp ở Hà Nội, Bắc Kinh và Mát-xcơ-va nghi ngờ không biết ông Hồ có phải là một nhà Mác-xít thực thụ hay không. Tuy nhiên, điều đó rõ ràng là, không nói đến chuyện ông có phải là một nhà Mác-xít chân chính hay không, ông là một nhà yêu nước có trái tim của nhà cách mạng tận tâm. Khuynh hướng cách mạng trong quan điểm của ông rất có thể là kết quả của những điều ông chứng kiến trong khi làm việc trên tàu thuỷ trước chiến tranh thế giới I. Ông nhận thấy nỗi đau khổ của đồng bào ông cũng là nỗi đau khổ của các dân tộc Á, Phi sống dưới ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc. Điều đó càng được củng cố thêm trong thời gian ở Pa-ri. Tại đó, ông nhận thấy thái độ giả dối của người Pháp không vận dụng những lý tưởng của mình vào các dân tộc thuộc địa. Hai năm ở Mat-xcơ-va trong những ngày đầu đầy sóng gió của cuộc thử nghiệm Xô-viết dường như đã làm dấy lên lòng nhiệt thành ngây thơ mong muốn xây dựng một xã hội cộng sản trong tương lai. Trong thế giới hoàn toàn mới mẻ của ông Hồ, chủ nghĩa yêu nước bị thay thế bởi quan điểm của Lê-nin về một liên bang xã hội chủ nghĩa cộng sản toàn cầu trong tương lai.
Rõ ràng, những sự kiện sau này có tác động cảnh tỉnh thái độ của ông. Những vụ thanh trừng ở Mát-xcơ-va, rõ ràng gần như đe doạ tới sự an toàn của ông, chắc hẳn làm tổn hại tới niềm tin của ông vào cuộc thử nghiệm của Xô-viết. Việc Mát-xcơ-va không tôn trọng cam kết tích cực ủng hộ sự nghiệp giải phóng dân tộc thuộc địa khiến ông nghi ngờ chủ nghĩa quốc tế vô sản trong một thế giới chính trị cường quyền. Tuy nhiên, không gì có thể làm lung lay niềm tin vào tính siêu việt của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Cho tới cuối đời, ông vẫn theo quan điểm cho rằng mô hình tư bản chủ nghĩa đã gây đau khổ vô hạn cho hàng triệu người bị áp bức trên toàn châu Á, châu Phi và Mỹ La-tinh.
Do đó, vấn đề không phải là liệu ông là một nhà dân tộc chủ nghĩa hay một người cộng sản – bằng con đường riêng của chính mình, ông là cả hai. Nói đúng hơn đó là vấn đề sách lược của ông. Hồ Chí Minh là một người tin vào nghệ thuật nắm bắt thời cơ, điều chỉnh lý tưởng của mình tuỳ theo điều kiện của phong trào. Đối với nhiều người, thậm chí những người trong đảng mình, lối cư xử của ông có vẻ như không có nguyên tắc, nhưng theo ông có thể đạt được tiến bộ bằng những bước rất nhỏ. Đối với Hồ Chí Minh, theo một câu trích nổi tiếng của một nhà khoa học xã hội Anh Oát-tơ-Bê-gơ-hốt, chín quá hoá nẫu. Ông Hồ có thái độ thực dụng trong chính sách đối ngoại. Thí dụ, ông thà chấp nhận những giải pháp thoả hiệp năm 1946 và 1954 chứ không tiến hành chiến tranh trong những điều kiện bất lợi. Ông còn có thái độ thực dụng trong những vấn đề nội bộ, luôn tin rằng cần từng bước tiến hành quá trình chuyển sang xã hội chủ nghĩa đồng thời với nỗ lực giành được sự ủng hộ rộng rãi của quần chúng. Giống như Tổng thống Mỹ, Giôn-xơn, Hồ Chí Minh cho rằng ông là một nhà giao tiếp lớn, một người lãnh đạo tận dụng mọi cơ hội để đạt được mục đích của mình không bằng sức mạnh mà bằng lý lẽ. Trong một số trường hợp, ông thành công. Một số trường hợp khác, sự sẵn lòng thoả hiệp của ông đã tước đi vũ khí của đối thủ và cho phép ông biến yếu điểm quân sự trở thành thế mạnh chính trị. Đồng thời, hình ảnh giản dị , tốt bụng và vị tha tạo ra sức quyến rũ mạnh mẽ và do vậy đóng góp ý nghĩa vào sự ủng hộ rộng rãi ở trong nước cũng như ngoài nước đối với cách mạng và cuộc đấu tranh giành độc lập. Khó có thể tưởng tượng được làn sóng ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam trong những năm 60 trên toàn thế giới nếu như gương mặt ở Hà Nội lúc đó lại là Lê Duẩn hay Trường Chinh chứ không phải là Hồ Chí Minh.
Liệu hình ảnh Hồ Chí Minh có xác thực không? Cõ lẽ không có câu trả lời dễ dàng cho câu hỏi. Rõ ràng ông không thích sống xa hoa mà chỉ thích sống giản dị, khiêm tốn. Tuy nhiên, nhiều người hiểu rõ ông Hồ hơn nhận xét rằng có vẻ giả tạo bên ngoài cách ông sống như một người khổ hạnh, một học giả Nho giáo trở thành một nhà cách mạng theo chủ nghĩa Mác. Trong thời gian sống ở Pháp sau Chiến tranh thế giới thứ hai, ông nói với thư ký riêng của mình, ông Vũ Đình Huỳnh rằng đôi khi nhưng giọt nước mắt giả dối cũng có ích để truyền đạt ý tới người nghe. Nhiều năm sau , đại diện của Ba Lan tại Uỷ ban giám sát và kiểm soát tại Hà Nội nhận xét rằng mặc dù công khai phản đối , ông Hồ dường như thích đồng bào khen mình. Cái tôi của ông rõ ràng đã nổi lên trong những năm 40 và 50 khi ông viết hai cuốn tự truyện tự khen mình dưới bút danh khác. Không chỉ những người khác nói về hình ảnh có tính chất thần thánh của Hồ Chí Minh mà bản thân ông còn khai thác điều này.
Dĩ nhiên có những lý do chính trị đáng để ông khuyến khích thái độ sùng bái cá nhân này. Năm 1947, một phóng viên Mỹ hỏi ông tại sao ông lại được ca tụng nhiều như vậy, ông trả lời rằng một phần người ta xem ông là biểu tượng của những ước nguyện của bản thân họ. Ông nói thêm có lẽ lý do là ông yêu tất cả trẻ em Việt Nam như thể chúng là cháu ông và để đáp lại họ dành tình yêu đặc biệt cho “Bác Hồ”. Thời gian đầu của cuộc đời ông khi dân tộc và nền văn hoá dường như đứng trên bờ vực của sự diệt vong , ông đã chứng kiến sự sùng kính mà thanh niên Việt Nam dành cho những ông đồ nho quê mùa, những người dành trọn cuộc đời và những lời giáo huấn của họ theo đuổi nguyên tắc bất dịch của nghĩa nhân văn Nho giáo. Trong suốt đời mình, ông Hồ dùng tính cách đó làm phương tiện cứu vớt nhân dân và phong trào nổi dậy của dân tộc mình.
Không biết quyết định đó đem lại lợi ích chính trị gì nhưng đôi khi Hồ Chí Minh phải trả giá cho hình ảnh vị tha và thực dụng của mình. Ông là một nhà hoà giải luôn tin vào sức mạnh của thuyết phục hơn là hăm doạ khi chỉ đạo Đảng Cộng sản Đông Dương. Ngay từ đầu ông dựa vào sách lược lãnh đạo tập thể hơn là dựa vào sự thống trị của một cá nhân như cách của Lê-nin, Xta-lin, hay của Mao Trạch Đông. Trong thời gian những năm 30 và 40, sức mạnh thuyết phục, trên cơ sở uy tín và những gì ông đã trải qua trong suốt một thời gian dài là nhân viên Quốc tế Cộng sản, nhìn chung là thành công. Tuy nhiên, điều đó bắt đầu không có hiệu quả trong những năm 50 khi các cộng sự cao cấp bắt đầu đặt câu hỏi về tính đúng đắn trong những khuyến nghị của ông và xác lập vai trò của họ khi vạch ra chiến lược. Cuối cùng, Hồ Chí Minh gần như bất lực. Những cộng sự chỉ hứa sẽ cân nhắc những ý kiến của ông song những ý kiến đó ngày càng bị bác bỏ phản đối và bị xem là không thích hợp.
Phải chăng Hồ Chí Minh đã ngây thơ và tin vào cách ngôn của Tôn tử cho rằng chiến thắng thành công nhất là chiến thắng không dùng bạo lực? Nhìn lại, có thể nói rằng ông hơi nhẹ dạ vì hy vọng sẽ thuyết phục được Pháp rút khỏi Việt Nam một cách hoà bình sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Sau đó một vài năm, ông Hồ đã tính toán sai khi ông lập luận rằng Mỹ có thể quyết định chấp nhận chính phủ do Đảng Cộng sản thống trị ở Việt Nam nếu như chính phủ đó được thành lập không làm Mỹ bẽ mặt. Tuy nhiên, có bằng chứng cho rằng ông thường đánh giá tình hình quốc tế rất rõ ràng và nhận thấy cần phải có chính sách linh hoạt lường trước được tất cả các khả năng khác nhau. Mặc dù ông luôn cố đạt được mục tiêu của mình mà không dùng đến bạo lực, ông cũng săn sàng dùng tới lực lượng quân sự khi cần thiết. Những cộng sự của ông không thể làm những điều tương tự vì họ thiếu đi sự tinh tế và kiên nhẫn theo đuổi một giải pháp ngoại giao.
Người ta thường nói rằng Mỹ mất đi cơ hội vàng, tránh được một cuộc xung đột trong tương lai ở Đông Dương khi Mỹ không đáp lại những cử chỉ thiện chí của Hồ Chí Minh cuối chiến tranh thế giới thứ hai. Xét cho cùng, là người thực dụng ông Hồ chắc đã nhận ra rằng sau chiến tranh, Việt Nam có thể giành được nhiều viện trợ hơn từ Oa-sinh-tơn chứ không phải từ Mát-xcơ-va. Ông cũng thú nhận mình là người ngưỡng mộ văn minh Mỹ và đã đưa những lý tưởng của Mỹ vào bản Tuyên ngôn Độc lập. Nhiều nhà chỉ trích quả quyết rằng sau khi xem xét lại tình hình Đông Dương trong bối cảnh Mỹ và Liên Xô cạnh tranh ngày càng quyết liệt về tư tưởng, chính quyền Tơ-ru-man đã chuẩn bị cho cuộc chiến tranh Việt Nam.
Mặc dù điều này có phần đúng, cũng có thể phần nào là vì người Mỹ chỉ có hiểu biết mang tính huyền thoại về Hồ Chí Minh. Trước hết, có chứng cứ cho thấy ông Hồ đã tính toán chứ không phải là vấn đề hệ tư tưởng khi ông bày tỏ sự ngưỡng mộ của mình đối với Mỹ. Ông Hồ ca ngợi văn minh Mỹ cũng giống như ông ca ngợi nhiều đồng minh của mình và những đối thủ tiềm tàng của ông, chủ yếu để giành được lợi thế chiến thuật. Mặc dù ông ta luôn nghĩ rằng có khả năng các nhà lãnh đạo Mỹ cuối cùng sẽ nhận ra can thiệp vào Đông Dương là vô ích, ông luôn tin rằng những nhà lãnh đạo đó là đại diện cho hệ thống tư bản chủ nghĩa bóc lột ở mức độ nào đó có thể nguy hiểm cho các nước thành viên của khối xã hội chủ nghĩa. Ông không nghi ngờ về lòng trung thành của mình đối với cuộc chiến.
Vấn đề nổi lên là liệu Hồ Chí Minh có toàn quyền vạch ra chiến lượng ở Hà Nội giống như Xta-lin thống trị chính trường ở Mát-xcơ-va hay không. Trên thực tế, rất nhiều đồng nghiệp của ông Hồ không có chung niềm tin với ông về khả năng không dùng vũ lực để giải phóng dân tộc và có thể phản đối những điều mà họ cho là thoả hiệp vô nguyên tắc với kẻ thù giai câp. Giống như các Tổng thống phải cân nhắc những vấn đề nội bộ khi họ đề ra những mục tiêu chính sách đối ngoại của mình, Hồ Chí Minh cũng phải tranh luận với các cử tri của mình, chủ yếu với những cộng sự luôn luôn sốt ruột của mình trong Bộ Chính trị – rất nhiều người trong số họ như Trường Chinh và Lê Duẩn không thể chia sẻ thái độ nhẹ dạ tin vào sức mạnh của lỹ lẽ.
Có những lý do chính đáng cho thấy cử chỉ hoà giải của Nhà Trắng năm 1945 và năm 1946 đủ để đưa Hồ Chí Minh và các cộng sự của mình theo con đường tư bản chủ nghĩa. Rõ ràng việc Mỹ công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hoà rất được Hà Nội hoan nghênh song điều đó chưa đủ làm cho Đảng Cộng sản Đông Dương từ bỏ miền tin vào Mát-xcơ-va và từ bỏ học thuyết Mác-Lê-nin. Rất giỏi trong việc cân bằng quan hệ giữa Mát-xcơ-va và Bắc Kinh, ông Hồ và các cộng sự của mình chắc đã phải cố lèo lái trong quan hệ với Oa-sinh-tơn nhằm đạt được mục tiêu của mình. Như chúng ta đã biết, một số mục tiêu này có liên quan tới các nước khác. Cuối cuộc chiến tranh Thái Bình Dương, Đông Nam Á đã trải qua một giai đoạn bất ổn chính trị và xã hội tương đối lớn. Nhiều người vẫn còn nghi ngờ về khả năng các nhà hoạch định chính sách của Mỹ có sẵn sàng ngồi đàm phán hay không trong khi Hà Nội tìm cách thúc đẩy phong trào cách mạng đang còn trong kỳ trứng nước ở các nước láng giềng Lào và Cam-pu-chia.
Tuy nhiên, việc các nhà hoạch định chính sách ở Pa-ri và Oa-sinh-tơn không nắm lấy bàn tay hữu nghị mà Hồ Chí Minh chìa ra cho họ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đã đem lại hậu quả xấu cho nhân dân Việt Nam và toàn thế giới. Tuy có mạo hiểm khi trao quy chế chính đáng cho một chính phủ mới ở Hà Nội, rõ ràng chính phủ này còn tốt hơn sự lựa chọn khác. Nếu vấn đề đạo đức và chính trị trong những nguyên tắc tư tưởng của Hồ Chí Minh ưu việt hơn so với những nguyên tắc của những đối thủ của ông là một vấn đề cần phải tranh luận, thì rất khó có thể bác bỏ luận điểm cho rằng trong điều kiện lúc đó các nhà lãnh đạo Việt Minh là lực lượng được chuẩn bị tốt nhất để đối phó với rất nhiều vấn đề có tác động đến các đồng bào của họ. Khả năng duy trì sự ủng hộ rộng rãi của quần chúng đối với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ít nhất là ở miền Bắc, phụ thuộc và khả năng duy trì thái độ trung thành của một thế hệ đấu tranh chống lại những âm mưu của Pháp và sau này là của Mỹ.
Ngày nay, ba thập kỷ sau khi ông qua đời, tệ sùng bái cá nhân Hồ Chí Minh vẫn tồn tại ở Hà Nội. Tệ sùng bái này chủ yếu làm chỗ dựa cho một chế độ tuyệt vọng tìm cách duy trì tính chính đáng của mình khi tình hình đã thay đổi theo thời gian. Đối với nhiều người Việt Nam (đặc biệt là ở miền Bắc sự sùng kính ông Hồ vẫn rất mạng mẽ), hình ảnh ông vẫn còn đậm nét. Hình ảnh của ông mờ nhạt hơn ở miền Nam và ở đây chính phủ trung ương thường bị mất lòng tin, những người đại diện của chính phủ bị coi là những người đầu cơ chính trị. Tuy nhiên, những ước vọng suốt đời không dứt của ông Hồ về một đảng với nền tảng là sự trong sáng chính trị và quan tâm đến dân ngày nay không còn nguyên vẹn nữa. Trong những năm gần đây, hầu như chẳng ai làm gì để giải quyết nạn tham nhũng đang đe doạ nhấn chìm cuộc cách mạng trong sự giận giữ và bất bình đang dâng cao của nhân dân.
Rất khó khăn duy trì sự sùng bái ông Hồ trong tương lai. Có những dấu hiệu rõ ràng cho thấy cho dù hầu hết thanh niên Việt Nam tôn trọng Hồ Chí Minh vì những đóng góp của ông cho sự nghiệp giành độc lập và tái thống nhất đất nước, nhiều người không còn coi ông là nhân vật trung tâm trong đời sống của họ. Gần đây, một thanh niên Việt Nam nói với tôi “Chúng tôi kính trọng ông Hồ, nhưng chúng tôi không quan tâm đến chính trị”. Đối với thế hệ trẻ lớn lên trước thềm thiên niên kỷ tới, ảnh hưởng của Hồ Chí Minh cũng chỉ như ảnh hưởng của A-bra-ham-Lin-côn đối với người dân Mỹ bình thường.
Thậm chí trong số những người thấy được giá trị của sự sùng bái ông Hồ, nhiều người xem đó như một thứ thuốc phiện đối với nhân dân. Như một trí thức Việt Nam nhận xét: Tất cả những người sống trong thời kỳ chiến tranh phải có những điều bí ẩn riêng của họ. Ngày nay, nhiều người cảm thấy rằng quan điểm chính thức coi Hồ Chí Minh như một mẫu mực hoàn hảo về đạo đức cách mạng cần phải được thay thế bằng một hình ảnh thực tế hơn, mô tả ông như một con người có thể có sai lầm. Trong những năm gần đây, có những lời đồn đại không được kiểm chứng về những đám cưới trong quá khứ và những vụ tình ái – và thậm chí những người con hoang – đã được lưu truyền rộng rãi bất chấp những lời chối bỏ mạnh mẽ về tính xác thực của nó từ các nguồn tin chính thức. Một bộ phim gần đây của Việt Nam đã bóng gió thể hiện mối quan hệ bất chính mà theo như đồn đại xảy ra trước khi ông bắt đầu đi Châu Âu.
Tương rự như vậy trên chính trường thế giới, hình ảnh của ông Hồ là một nhân vật có ảnh hưởng sâu rộng trong thế kỷ 20 không còn sức quyến rũ như cách đây một thế hệ, mặc dù sự hiện diện của những bức chân dung của ông trong một cửa hàng của một người di cư Việt Nam ở Ca-li-phoóc-ni-a đã đủ gây ra sự tức giận cho những người Mỹ gốc Việt. Cách đây một thế hệ, các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc nổ ra trên khắp thế giới thứ ba lúc đó nước Mỹ dường như là một nền văn minh đang suy tàn. Trong điều kiện như vậy, ông Hồ có vẻ như là tiếng nói của tương lai. Với việc chủ nghĩa cộng sản mất uy tín và chủ nghĩa tư bản đang lên trước thềm thiên niên kỷ mới, sự kết hợp đặc biệt của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội của ông Hồ có vẻ như là điều kỳ quặc, giống như Cách mạng văn hoá của Mao Trạch Đông hoặc những ý tưởng tinh thần của Ma-hát-ma Gan-đi. Ngày nay, Hồ Chí Minh thường được xem như là một nhà chiến thuật cách mạng thông minh của cuộc cách mạng và chỉ vậy thôi. Những bài viết của ông có vẻ như tẻ nhạt, phong cách tầm thường và không có nội dung tư tưởng. Tầm nhìn của ông về cách mạng thế giới xa rời thời gian không khác gì Mác nhìn người vô sản giận dữ đập cửa của những người áp bức tư bản chủ nghĩa.
Tuy nhiên, thái độ như vậy không đánh giá đúng tầm quan trọng của Hồ Chí Minh đối với thời đại của chúng ta. Nếu như tầm nhìn tương lai của ông về một xã hội cộng sản thế giới trong tương lai không hoàn mỹ (ít nhất giống như ngày nay người ta nhìn nhận) thì người ta cũng không phủ nhận rằng sự nghiệp mà ông thúc đẩy và chỉ đạo tạo ra những thời khắc có một không hai trong thế kỷ 20, là đỉnh cao của kỷ nguyên giải phóng dân tộc ở thế giới thứ ba và sự thừa nhận rõ ràng đầu tiên về hạn chế của chính sách ngăn chặn cộng sản của Mỹ . Sau Việt Nam, thế giới không bao giờ như cũ nữa.
Khó tưởng tượng ra một cuộc cách mạng Việt Nam không có sự tham gia tích cực của Hồ Chí Minh. Mặc dù xu hướng lịch sử hiện tại nhấn mạnh tầm quan trọng của những lực lượng xã hội lớn trong việc tạo ra những sự kiện lớn của thời đại chúng ta, điều rõ ràng là trong nhiều trường hợp như trong cuộc cách mạng Bôn-sê-vích và cuộc nội chiến của Trung Quốc, vai trò cá nhân đôi khi rất lớn. Điều đó cũng đúng với Việt Nam . Ông Hồ không chỉ là người sáng lập Đảng và sau này là Chủ tịch nước, mà ông còn là một nhà chiến lược chủ chốt và là một biểu tượng giành được nhiều cảm tình nhất. Một nhà tổ chức tài năng cũng như là một nhà chiến lược tinh tế và một nhà lãnh đạo lôi cuốn, Hồ Chí Minh là một nửa Lê-nin và một nửa Gan-đi. Đó là một sự kết hợp sống động. Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam là một sự thực không thể phủ nhận làm thay đổi số phận của mỗi cá nhân, nếu không có ông thì có thể nó đã trở thành một vấn đề hoàn toàn khác và một kết cục hoàn toàn khác.
Đối với nhiều nhà quan sát thì bi kịch của cuộc đời Hồ Chí Minh là một tài năng kỳ lạ về nghệ thuật lãnh đạo mà đáng lẽ ra phải được sử dụng để hoàn thiện hệ tư tưởng chưa hoàn hảo và trên thực tế, hệ tư tưởng đó bị chối bỏ bởi nhiều người trước đây đã chân thành theo đuổi trên toàn thế giới, mặc dù vẫn chưa được từ bỏ trên đất nước của ông. Một câu hỏi chưa có trả lời là liệu trong hoàn cảnh khác, chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành có quyết định theo đuổi lý tưởng và tập quán của nền văn minh phương Tây đương đại hay không. Giống như nhiều nhà lãnh đạo châu Á trong những ngày đó, những gì ông đã trải qua khi sống ở các nước tư bản chủ nghĩa không phải là những điều dễ chịu và những tội ác gây ra bởi chủ nghĩa thực dân của phương Tây mà ông nhận thấy trong những năm đầu của cuộc đời mình đã làm tổn thương tới sự nhạy cảm của ông. Tuy nhiên, rất nhiều niềm tin triết lý của ông dường như đúng với các lý tưởng của phương Tây hơn là với Các Mác và Lê-nin. Mặc dù ông tìm cách xây dựng hình ảnh của bản thân mình trước các cộng sự của ông như một nhà Mác-xít chính thống, dường như rõ ràng rằng ông không thích những vấn đề mang tính học thuyết giáo điều và thường cố làm mềm những giáo lý khô khan của cộng sản khi áp dụng vào Việt Nam. Tuy nhiên, là người thành lập Đảng và Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về những hậu quả đối với những hành động của mình, dù tốt hay xấu xuất phát từ điều kiện Việt Nam hiện nay, thậm chí nhiều người nhiệt tình bảo vệ ông cũng phải thừa nhận rằng di sản của ông là tốt xấu lẫn lộn.
Hồ Chí Minh là “người tạo ra sự kiện” (trong một đoạn trích đáng nhớ của Sít-ni Húc, triết gia của Mỹ), một “đứa con của khủng hoảng” hiện thân hai sức mạnh trung tâm trong lịch sử của Việt Nam hiện đại: mong muốn độc lập dân tộc và tìm kiếm công lý xã hội và kinh tế. Do hai sức mạnh này vượt qua biên giới nước mình, ông Hồ có khả năng chuyển tải thông điệp cho các dân tộc thuộc địa trên toàn thế giới và lên tiếng đòi chân lý giá trị và tự do thoát khỏi sự áp bức của chủ nghĩa đế quốc. Cho dù người dân của ông có đánh giá cuối cùng về di sản của ông như thế nào chăng nữa, ông cũng đã nằm trong đền thờ các vị anh hùng cách mạng dành cho người đấu tranh mạnh mẽ đem lại cho những người thống khổ tiếng nói thực sự.

- HCM-MỘT CUỘC ĐỜI

Đôi lời: “Ho Chi Minh, a life” là cuốn sách của William J. Duiker xuất bản năm 2000, ngay năm 2001 đã được dịch và “lưu hành nội bộ” ở Việt Nam. Có nhiều chuyện quanh cuốn sách này. Ví như: nghe nói phía Việt Nam định cho dịch và xuất bản, đương nhiên sẽ cắt bỏ những chỗ “không có lợi”, nhưng đã không được tác giả đồng ý. Dù có hay không chuyện đó thì cũng là đáng tiếc khi cho tới hôm nay một công trình công phu ngót 700 trang với 10 năm tìm tòi, thu thập tư liệu, nghiền ngẫm … của tác giả mà vẫn chưa có mặt ở Việt Nam.
Ông Vũ Kỳ, thư ký riêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi còn sống đã đánh giá cao cuốn sách này cả về quy mô lẫn độ xác thực.
Xin được trích một số đoạn trong cuốn sách.
(Nội dung này lần đầu tiên được Ba Sàm đưa lên blog Yahoo360! ngày 8/5/2008. Nay đưa lên đây lại).

LỜI NÓI ĐẦU

Sáng 30 tháng 4 năm 1975, những chiếc xe tăng miền bắc Việt Nam do Liên Xô sản xuất ầm ầm tiến qua các vùng ngoại ô phía bắc Sài Gòn hướng về Dinh Độc Lập ở trung tâm thành phố. Ngồi trên những chiếc xe tăng là những người lính mặc quân phục, đội mũ gắn sao vàng, vẫy cờ Chính phủ Cách mạng lâm thời cộng hoà miền Nam Việt Nam.
Ngay sau giờ trưa, một tốp xe tăng từ từ lăn bánh dọc theo đại lộ Thống Nhất ngang qua Đại sứ quán Mỹ, nơi mà cách đó hai tiếng những lính thuỷ đánh bộ Mỹ cuối cùng được máy bay trực thăng đưa đi từ trên nóc toà nhà. Chiếc xe đi đầu lưỡng lự giây lát ngoài cách cổng sắt Dinh Độc Lập rồi húc đổ cánh cổng và dừng lại bên thảm cỏ ngay trước thềm vào dinh. Người chỉ huy xe tăng trẻ tuổi bước vào toà nhà và gặp Tổng Thống Dương Văn Minh – “Minh Lớn”. Sau đó, anh lên nóc dinh, tiến tới cột cờ và thay lá cờ Việt Nam Cộng Hoà bằng lá cờ xanh đỏ của Chính phủ Cách mạng lâm thời.
Cuộc chiến tranh kéo dài ở Việt Nam đã kết thúc. Sau gần một thập kỷ chiến đấu gian khổ và đẫm máu làm 50.000 lính Mỹ tử trận, những lính Mỹ cuối cùng đã lên đường về nước sau khi Hiệp định Pa-ri được ký kết vào tháng Một năm 1973. Tuy nhiên, Hiệp định này đã nhanh chóng bị vi phạm, và vài tháng sau, các lực lượng vũ trang của chế độ Sài Gòn đã liên tiếp đụng độ với bộ đội Việt cộng và quân đội bắc Việt Nam (thường được gọi là Quân đội Nhân dân Việt Nam) trong đó có hơn 100.000 người được Hiệp định ngầm chấp thuận ở lại miền Nam. Tháng 12 năm 1974, khích lệ bởi thắng lợi trên chiến trường và nhận định rằng Hoa Kỳ sẽ không can thiệp lại vào cuộc chiến, các nhà lãnh đạo Đảng (Đảng Cộng sản Việt Nam lúc đó là Đảng Lao động Việt Nam) thông qua kế hoạch của Bộ Tổng tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam tiến hành chiến dịch trong hai năm nhằm đánh đổ chính quyền Sài Gòn vào mùa xuân năm 1976. Tuy nhiên, những trận đánh thăm dò ban đầu dọc biên giới Cam-pu-chia và ở Tây Nguyên đầu năm 1975 đã cho thấy Sài Gòn chống trả yếu ớt. Do vậy, cuối tháng ba, Hà Nội đã lệnh cho chỉ huy ở miền Nam giành thắng lợi cuối cùng trước khi mùa khô kết thúc vào cuối tháng tư. Hệ thống phong thủ của Sài Gòn phía bắc Nam Bộ đã nhanh chóng sụp đổ và tới giữa tháng tư những đoàn quân Bắc Việt đã hành quân nam tiến về Sài Gòn. Tổng thống Nam Việt Nam Nguyễn Văn Thiệu từ chức ngày 21 tháng 4 năm 1975. Người kế nhiệm là một chính trị gia Sài Gòn lớn tuổi Trần Văn Hương cũng chỉ nắm chính quyền trong bảy ngày và lại bị ông Minh “Lớn” thay thế với mong muốn tuyệt vọng rằng viên tướng miền Nam được nhiều người biết đến có thể sẽ khiến cho Bắc Việt Nam chấp nhận thoả hiệp hoà bình. Nhưng những cử chỉ thăm dò hoà bình của tướng Minh đã bị Hà Nội lờ đi.
Thắng lợi của cộng sản ở Sài Gòn là kết quả của lòng quyết tâm và sự lãnh đạo tài tình của nhà lãnh đạo Đảng lao động Việt Nam Lê Duẩn và những cộng sự kỳ cựu của ông ở Hà Nội. Một đóng góp không kém phần quan trọng là những đoàn quân bắc Việt Nam và du kích Việt cộng – những người bộ đội giản dị (từ bộ đội tiếng Việt có nghĩa là lính quân đội), những người đã chiến đấu và hy sinh cả một thế hệ cho sự nghiệp cách mạng trong những khu rừng rậm và đầm lầy ở miền Nam Việt Nam. Nhưng quan trọng hơn cả là tầm nhìn, ý chí và khả năng lãnh đạo của một con người. Hồ Chí Minh, người sáng lập Đảng Cộng Sản Việt Nam, nhà lãnh đạo phong trào cách mạng và Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tới khi ông mất vào năm 1969, sáu năm trước khi chiến tranh kết thúc. Để tỏ lòng kính trọng đối với những cống hiến của ông, sau khi Sài Gòn sụp đổ, các cộng sự của ông đã đổi tên Sài Gòn thành Thành phố Hà Chí Minh.
Là nhân viên của Quốc tế Cộng sản tại Mát-xcơ-va, thành viên phong trào cộng sản quốc tế, kiến trúc sư cho sự thắng lợi của Việt Nam, Hồ Chí Minh rõ ràng là một trong những nhân vật chính trị có ảnh hưởng lớn nhất của thế kỷ 20. Hồ Chí Minh còn là một trong những nhân vật huyền bí nhất, một con người với những động cơ và hành động gây nhiều tranh cãi. Trong ba thập kỷ, đã có những tranh luận về một câu hỏi bề ngoài có vẻ đơn giản về những động cơ xuyên suốt cuộc đời Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách mạng. Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa dân tộc hay theo chủ nghĩa cộng sản? Hình ảnh giản dị, vô tư của Hồ Chí Minh trước công chúng là chân thực hay giả dối? Đối với những người ủng hộ mình, Hồ Chí Minh là biểu tượng của chủ nghĩa nhân đạo cách mạng, là bậc cha anh đã cống hiến tất cả cho hạnh phúc của nhân dân và công cuộc giải phóng tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Đối với những người đã được gặp ông, cả người Việt Nam cũng như người nước ngoài, ông là một “người ngọt ngào”. Cho dù là nhà lãnh đạo lớn trên thế giới, thực chất ông là nhà ái quốc vị tha gần gũi với nhân dân và nguyện suốt đời mang lại cuộc sống ấm no cho nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên, một số nhà phê bình lại chỉ trích những hành động cách mạng thái quá mà người ta vẫn cho rằng là của ông và cho rằng ông có tính cách hay thay đổi theo tình cảnh, một con sói đội lốt cừu.
Nghi ngờ về tính cách và những động cơ bên trong của Hồ Chí Minh là trọng tâm của cuộc tranh luận ở Hoa Kỳ về mặt đạo lý của cuộc chiến Việt Nam. Đối với nhiều người chỉ trích chính sách của Hoa Kỳ, Hồ Chí Minh là người yêu nước giản dị đã lãnh đạo cuộc đấu tranh giành độc lập cho nhân dân Việt Nam và là người đấu tranh mạnh mẽ chống lại chủ nghĩa đế quốc toàn cầu trong thế giới thứ ba. Những người ủng hộ nỗ lực chiến tranh của Hoa Kỳ nghi ngờ động cơ yêu nước của Hồ Chí Minh gián tiếp chỉ ra rằng ông từ lâu là nhân viên của Xta-lin và đã có năm thập kỷ phấn đấu cho cách mạng thế giới. Họ cho rằng, hình ảnh chủ nghĩa dân tộc mà Hồ Chí Minh cần mẫn gây dựng chỉ là mưu đồ để giành sự ủng hộ trong nước và quốc tế cho sự nghiệp cách mạng.
Đối với những người Mỹ, cuộc tranh luận về Hồ Chí Minh tạo ra những cảm xúc mạnh mẽ về một cuộc chiến tranh đã đi vào dĩ vãng. Đối với người Việt Nam cuộc tranh luận gợi nên những câu hỏi quan trọng hơn nhiều bởi điều này xác định những vấn đề trọng tâm trong cuộc cách mạng Việt Nam-mối quan hệ giữa quyền tự do con người và bình đẳng về kinh tế ở nước Việt Nam mới trỗi dậy sau chiến tranh. Kể từ khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, các cộng sự của Hồ Chí Minh, một số vẫn đang nắm giữ các chức vụ tại Hà Nội, đã không ngừng đúc rút từ những ký ức của Hồ Chí Minh để thần thánh hoá mô hình phát triển đất nước cộng sản. Những người này cho rằng, mục tiêu của Hồ Chí Minh trong suốt sự nghiệp của mình là xoá bỏ bóc lột [của] chủ nghĩa tư bản toàn cầu và tạo ra một thế giới cách mạng mới với đặc điểm chính là chủ nghĩa xã hội không tưởng của Mác. Tuy nhiên, một số ý kiến khác lại không đồng tình, cho rằng mục tiêu chính trong sự nghiệp của ông là quyết tâm làm mềm mỏng nguyên tắc bất di bất dịch trong cuộc đấu tranh giai cấp theo luận thuyết của Mác thông qua việc kết hợp nguyên tắc này với Khổng Tử và ba nhân tố cách mạng của Pháp: tự do, bình đẳng, bác ái. Để biện hộ, họ trích dẫn một trong những khẩu hiệu của ông thường thấy ở Việt Nam ngay nay “Không có gì quý hơn độc lập tự do”
Do vậy, cuộc tranh luận về Hồ Chí Minh là cốt lõi của một số vấn đề quan trọng tạo nên dấu ấn thế kỷ 20, kỷ nguyên của chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa cách mạng, chủ nghĩa quân bình và phấn đấu vì quyền tự do của con người. Phức tạp trong tính cách của ông Hồ phản ánh phức tạp của thời đại. Ông vẫn là một thế lực đầy uy quyền ở Việt Nam sau chiến tranh được hàng triệu người kính trọng nhưng rõ ràng cũng bị nhiều người căm ghét. Dù tốt hay xấu, Hồ Chí Minh đã thể hiện trong ông hai động lực quan trọng của xã hội hiện đại – khao khát độc lập dân tộc và phấn đấu vì công bằng kinh tế và xã hội. Mặc dù chúng ta chưa có đủ tất cả mọi bằng chứng nhưng đã đến lúc phải phân tích đánh giá nhân vật có ảnh hưởng trong thế kỷ 20 dưới góc độ lịch sử.
Những khó khăn mà bất kỳ một nhà viết tiểu sử nào muốn tìm hiểu vấn đề này gặp phải là rất lớn. Mặc dù tên Hồ Chí Minh được hàng triệu người trên thế giới biết đến nhưng lâu nay rất thiếu những nguồn thông tin có thể kiểm chứng được về cuộc đời ông. Phần lớn thời thanh niên hoạt động cách mạng chống lại chế độ thực dân Pháp ở Đông Dương, ông đã phải tha hương trong nhiều năm cũng như sống bí mật ngay trên đất nước mình. Suốt thời gian đó, ông sống và đi lại một cách bí mật với nhiều bí danh khác nhau. Người ta ước tính rằng khi sinh thời, ông Hồ đã sử dụng khoảng hơn năm mươi bí danh. Rất nhiều bài viết của ông được đăng dưới các bí danh đó trong khi nhiều bài viết khác của ông bị thất lạc hoặc bị huỷ hoại trong gần ba mươi năm chiến tranh.
Hồ Chí Minh cũng đã tạo ra sự mơ hồ bằng việc chấp nhận điều bí ẩn thú vị về cuộc đời mình. Trong nhiều năm, ông đã phủ nhận rằng nhân vật nổi tiếng chưa được xác định sau chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh thực ra là Nguyễn Ái Quốc, người sáng lập Đảng Cộng Sản Đông Dương và là nhân viên lỗi lạc của Quốc tế cộng sản III trong thời kỳ trước chiến tranh. Thậm chí khi sự thật về con người ông được khám phá, ông Hồ vẫn hết sức giữ bí mật về những sự kiện quan trọng trong cuộc đời trước đây của mình và một số ít tác phẩm tự truyện của ông được viết dưới các bí danh khác nhau. Một trong số những tác phẩm đó được chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà xuất bản bằng nhiều thứ tiếng vào cuối những năm 1950. Chỉ trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu ở Hà Nội mới có thể khẳng định được rằng những tác phẩm đó được chính Hồ Chí Minh viết.
Khó khăn trong việc biên soạn tiểu sử Hồ Chí Minh lại càng lớn hơn vì không thể tiếp cận được các nguồn thông tin. Do ông đã sống và đi qua nhiều nước trong suốt cuộc đời nên những thông tin về các hoạt động của ông cũng bị tản mát ở nhiều châu lục. Ông còn biết một số ngoại ngữ và số lượng lớn các tác phẩm ông (bao gồm những cuốn sách nhỏ, những bài báo, phóng sự và những bức thư) được viết bằng nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Trung Quốc và Nga cũng như bằng tiếng Việt là tiếng mẹ đẻ của ông.
Mãi gần đây, các học giả vẫn chưa có được phần lớn những thông tin này. Thậm chí ngày nay các nhà nghiên cứu Việt Nam và nước ngoài không được tiếp cận các tư liệu lưu trữ tại Hà Nội. Những thông tin liên quan đến các hoạt động của ông ở Trung Quốc và Liên Xô cũng rất hạn chế và hiếm khi được chính phủ Trung Quốc hay Liên Xô tiết lộ. Hầu như chỉ có một quãng thời gian trong cuộc đời Hồ Chí Minh được tìm hiểu kỹ lưỡng là thời gian ngẵn ngủi ông ở Pháp sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918). Việc Pháp công khai các tài liệu lưu trữ thực dân vào đầu những năm 1970 đã giúp công chúng lần đầu tiên được tìm hiểu về những năm tháng đó của cuộc đời ông. Gần đây, những tuyển tập dày các tác phẩm của ông đã được xuất bản tại Việt Nam, tuy nhiên những tuyển tập này hoàn toàn không đầy đủ trong khi việc chính thức hiệu đính một số văn bản lại gây ra mối lo ngại về độ chính xác. Tài liệu lưu trữ của Quốc tế cộng sản III tại Mát-Xcơ-va một phần đã được công khai cho các học giả sử dụng, tuy nhiên các biên bản chi tiết về mối quan hệ giữa ông và các nhà Lãnh đạo Xô viết vẫn chưa được công bố cho các nhà quan sat bên ngoài.
Còn một câu hỏi nữa về Hồ Chí Minh liên quan tới đặc điểm lãnh đạo của ông. Mặc dù là người sáng lập Đảng Cộng Sản Đông Dương và là một nhân vật hàng đầu trong Phong trào cộng sản quốc tế nhưng ông không phải là một nhân vật có ảnh hưởng lớn như những nhà lãnh đạo cách mạng hiện đại khác như Lê-nin, Xta-lin hay Mao Trạch Đông; dường như sự lãnh đạo của ông Hồ dựa vào sự thuyết phục và đồng thuận thay vì áp đặt ý định của mình thông qua ảnh hưởng cá nhân. Ông cũng không viết nhiều về những tư tưởng hay động cơ bên trong của mình. Trái với các nhân vật cách mạng kiệt xuất khác, Hồ Chí Minh rất ít quan tâm đến ý thức hệ hay tranh luận tri thức, thay vào đó tập trung suy nghĩ và hành động của mình vào những vấn đề thực tiễn để giúp đất nước và các xã hội thuộc địa khác thoát khỏi chủ nghĩa đế quốc phương Tây. Vì những lý do đó, các học giả, và đôi khi cả những người đồng sự, luôn xem ông chỉ là một người hoạt thực tiễn hơn là một nhà lý luận cách mạng. Sự phân biệt này dường như không làm ông bận tâm. Một người khi phỏng vấn ông đã hỏi tại sao ông chưa bao giờ viết luận thuyết về ý thức hệ, ông đã hài hước trả lời rằng ý thức hệ là điều ông dành cho Chủ tịch Mao Trạch Đông. Các công trình nghiêm túc về học thuyết chủ nghĩa hay về chiến lược được xuất bản ở Việt Nam thường được các cộng sự của ông là Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh hay Lê Duẩn thực hiện.
Do chủ đề này còn gây tranh cãi cũng như sự hạn chế về những nguồn thông tin đáng tin cậy, không có gì ngạc nhiên vẫn chưa có một bản tiểu sử nghiêm chỉnh về Hồ Chí Minh được xuất bản bằng tiếng Anh trong hai mươi năm qua. Vào lúc cuộc chiến tranh ở Việt Nam lên đến đỉnh điểm, một số nghiêm cứu về tiểu sử Hồ Chí Minh đã được xuất bản, tuy nhiên phần lớn trong số này chỉ nhằm vào các đối tượng chứ không tận dụng triệt để các nguồn tài liệu sẵn có. Ở miền Bắc Việt Nam, một số tiểu sử chính thức hoặc bán chính thức đã được xuất bản nhưng tất cả đều bị mất đi giá trị bởi các nỗ lực thần thoại hoá ông như một vị thánh hơn là một nhân vật chính trị, mang tính biếm hoạ hơn là thực tế.
Ngày nay, khi những cảm xúc mạnh về chiến tranh ở Việt Nam đã bắt đầu lắng xuống và đã có thêm các nguồn tư liệu bổ sung ở nhiều nơi trên thế giới, chúng ta có đủ lý do lạc quan rằng có thể hiểu rõ hơn về cuộc đời Hồ Chí Minh. (Bản chất của những nguồn tư liệu này được đề cập ngắn gọn trong phần chú giải về các nguồn tư liệu về cuốn sách). Cho dù không thể làm sáng tỏ toàn bộ những bí mật cuộc đời ông, những người viết tiểu sử chuyên cần giờ đây đã có thể tập hợp được một số giả thuyết để trả lời một số câu hỏi thường xuyên được nêu ra về cuộc đời và nhân cách của ông. Tôi đã cố gắng trả lời những câu hỏi này trong cuốn sách cũng như trong phần chú giải cuốn sách về những vấn đề mang nhiều tính học thuật.
Rõ ràng là phần lớn những năm đầu cuộc đời ông – giai đoạn trước khi ông đến Pa-ri vào cuối Chiến tranh thế giới thư nhất thì chỉ có nguồn từ các bút tích của ông như đã nói trên và các nguồn lịch sử ở Việt Nam. Tuy nhiên, ở Việt Nam lĩnh vực được nhà nước hỗ trợ để mô ta ông như một truyền thuyết hay một nhân tài của thời đại rất phát triển. Một số nhà phê bình đã hoài nghi độ tin cậy của những thông tin về cuộc đời ông được các nguồn chính thức tại Việt Nam công bố. Sau khi xác minh kỹ các bằng chứng, tôi cho rằng phần lớn những thông tin đó là đáng tin cậy mặc dù có một số chi tiết còn gây thắc mắc và một số khác rõ ràng là không chính xác. Để tránh sự tranh luận kéo dài vô tận liên quan tới độ chính xác của các sự kiện về các hoạt động của ông, tôi đã quyết định thể hiện sự hiểu biết của mình về cuộc đời Hồ Chí Minh dưới dạng tường thuật đồng thời dành phần chú giải cuốn sách cho những tranh luận về các bằng chứng. Nếu có một số lý do hợp lý để nghi ngờ các giải thích nào đó về các sự kiện, vấn đề được nêu trong bài viết. Tôi hy vọng rằng điều này sẽ giúp thể hiện đặc điểm đầy kịch tính về cuộc đời Hồ Chí Minh và tầm quan trọng của đặc điểm đó trong việc hình thành lịch sử Việt Nam và thế kỷ hai mươi.
Hiện vẫn tồn tại vấn đề về thiên hướng chính trị. Cũng như thế hệ vừa qua không thể có cách nhìn về cuộc chiến ở Việt Nam một cách khách quan, và người viết tiểu sử này cũng khó tạo ra một bức tranh về người đã mang lại chiến thắng cho cộng sản mà không đưa ra thiên hướng chính trị của người đó. Qua nhiều thập kỷ, từ khi tôi hiểu biết nhiều hơn về cuộc đời của Hồ Chí Minh, tôi đã kính trọng tài năng và sự tận tâm của ông với tư cách là một nhà cách mạng mà không hề làm tôi mất đi khả năng đánh giá ông như một nhà cách mạng, một nhà chính trị và một con người. Tôi dần tin rằng sự thật bao giờ cũng phức tạp hơn hình ảnh trước công chúng mà người ta vẫn tưởng tượng, và đây là điều thường xẩy ra. Mặc dù luôn có sự thôi thúc để tìm ra một số sợi dây đơn lẻ xuyên suốt (“nhân vật giấu mặt…, trong câu kinh điển của Lê-ôn Ê-đen) tôi lại muốn để cho sự thật tự nói lên tất cả. Do vậy, tôi không cố gắng tạo ra những suy nghĩ hư cấu hay những câu chuyện hội thoại nhằm tìm cách giải thích của riêng tôi về những đặc điểm bên trong của ông. Giống như các nhân vật vĩ đại khác trong lịch sử, Hồ Chí Minh là một con người phức tạp và tương phản, có những tài năng và tính cách có một không hai làm cho ông khác biệt với những nhân vật quan trọng khác của thời đại.
Có thể một số độc giả sẽ thất vọng vì bài viết không đề cập nhiều tới những năm tháng cuối trong cuộc đời ông vào thời kỳ cao điểm của cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Trên thực tế, vai trò của Hồ Chí Minh trong việc tạo ra cuộc chiến nhìn chung quan trọng hơn nhiều do với ảnh hưởng của ông ở Hà Nội trong toàn bộ cuộc chiến tranh khi mà ông thường bị ốm hay phải sang trung Quốc trị bệnh. Do vậy, nhiều độc giả cũng sẽ nhận ra rằng phần lớn cuốn sách này sẽ đề cập đến những cá nhân và các sự kiện mà độc giả chưa biết tới. Tôi hy vọng rằng độc giả sẽ cảm thấy được bù lại bởi họ sẽ có được sự hiểu biết sâu sắc hơn về những nguyên nhân quan trọng của cuộc chiến tranh và những hậu quả của nó.
Trong tất cả những con người vĩ đại đều tiềm ẩn một vẻ huyền bí. Và một số người cảm thấy thích thú những vẻ huyền bí đó hơn cả về bản thân Hồ Chí Minh. Trong một cuộc phỏng vấn với Bơ-na-Phôn, một học giả nghiêm cứu về Việt Nam vào năm 1962, Hồ Chí Minh đã trả lời một trong những câu hỏi của ông Phôn: “Người già thích có một vẻ bí ẩn nho nhỏ về mình. Tôi muốn giữ lại những vẻ bí ẩn của mình. Tôi tin rằng anh sẽ hiểu được điều đó”. Trong ngôi đền thờ các nhân vật anh hùng cách mạng, Hồ Chí Minh hẳn sẽ rất vui khi biết rằng ít ra trong tiểu sử của mình, vẻ huyền bí xung quanh ông vẫn còn nguyên vẹn.
(Dưới đây là bài phỏng vấn GS William J. Duiker quanh cuốn sách này do BBC thực hiện)

Một cái nhìn Hồ Chí Minh từ nước Mỹ (BBC Việt ngữ)

Trước đây, người Mỹ nghiên cứu cuộc đời ông Hồ Chí Minh để hiểu đối thủ của họ trong cuộc chiến. Vậy ngày nay họ nhìn nhận Hồ Chí Minh như thế nào? Để có thêm một cái nhìn về ông Hồ, BBC phỏng vấn giáo sư người Mỹ William Duiker, tác giả cuốn “Hồ Chí Minh-Một cuộc đời”.
Chúng tôi hỏi giáo sư Duiker là vì sao mà vào lúc này nhà nước Việt Nam vẫn tiếp tục đề cao hình ảnh ông Hồ, như qua bộ phim ‘Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông”.
Giáo sư William Duiker: Nhận định cơ bản mà tôi có thể đưa ra ở đây là kể từ khi cuộc chiến Việt Nam chấm dứt và cùng với thời gian, qua quá trình thực hiện những nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội thì đảng cộng sản và nhà nước Việt Nam dần mất đi một phần lớn sự tin tưởng vào dân chúng vào khả năng của chính quyền trong kiến thiết hòa bình, trong việc đem lại thịnh vượng.
Và cùng với thời gian, người ta ngày càng lạnh nhạt cả về mặt tình và lý với những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác-Lênin, và sự thiếu vắng một nhân vật lãnh tụ có uy tín tầm cỡ như ông Hồ Chí Minh, vì thế có một khoảng trống về lãnh đạo. Và thế là họ tìm cách đưa ra một hình ảnh hiền từ và thân ái của ông Hồ để bù vào khoảng trống ̣đó và cũng để liên kết xã hội Việt Nam và tiếp nối truyền thống cách mạng của họ.
BBC:Ông nói rằng việc dùng hình ảnh của ông Hồ Chí Minh có tác dụng như một biện pháp liên kết và thống nhất xã hội, vậy ông nghĩ thế nào rằng có những người Việt Nam, nhất là những người ở miền Nam và những người phải bỏ chạy khỏi Việt Nam sau chiến tranh. Họ không thích ông Hồ như là những người khác?
Tôi hoàn toàn đồng ý với ý kiến đó và kinh nghiệm tôi thu lượm được trong những chuyến đi Việt Nam, sớm nhất là giữa thập niên 80 cho thấy điều đó. Tại miền Bắc Việt Nam thời gian đó, vẫn còn có khá nhiều người tôn kính ông Hồ, vì dù sao ông ấy cũng là lãnh tụ, là chủ tịch nước trong nhiều năm. Còn trong những lần tới miền Nam, tôi ghi nhận được rằng thái độ của nhiều người đối với ông Hồ nếu không hoàn toàn là phê phán thì cũng là không một chiều.
Một nhóm đông người Việt ở miền Nam cho rằng ông Hồ đã chịu trách nhiệm cho việc chia cắt Việt Nam, đưa đến cuộc chiến, một cuộc chiến có rất nhiều nạn nhân bị giết.
Nhưng điều tôi nói là nhìn từ phía chính quyền thì sau những năm hậu chiến, khi mà tham nhũng trở thành vấn đề lớn cả ở miền Nam lẫn miền Bắc, khi mà sự quản lý tồi tệ của nhiều cán bộ khiến dân chúng mất niềm tin thì đảng cộng sản thấy có nhu cầu tạo ra một động lực tinh thần khuyến khích dân chúng tin vào họ, tin vào những mục tiêu của cuộc cách mạng của họ.
Và họ thấy rằng ông Hồ Chí Minh là một nhân vật, dù đã chết, nhưng để lại một hình ảnh có thể giúp họ làm chuyện đó, tức là hỗ trợ cho đảng cộng sản trong việc liên kết xã hội. Họ muốn chuyển đổi tên tuổi rất nổi tiếng của ông Hồ khi sống thành một cái gì đó giúp họ đưa đẩy các chính sách bây giờ.
Tôi phải nói rằng theo ý tôi, họ tuy có thành công nhưng đó là một thành công ngày càng yếu đi, vì tôi thấy trong giới trẻ Việt Nam hiện nay, uy tín của ông Hồ ngày càng nhạt dần.
BBC:Nhìn ra bên ngoài Việt Nam thì tại sao cho đến giờ vẫn có các nhà nghiên cứu ở Phương Tây như ông quan tâm đến nhân vật Hồ Chí Minh? Ngay mới đây thôi Tiến sĩ Sophie Quinn-Judge cũng ra một cuốn sách về ông Hồ, ông thì ra một cuốn năm 2000. Tại sao các vị lại quan tâm tìm hiểu ông Hồ Chí Minh như vậy?
Phải trở lại với cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Khi đó, với tôi, để hiểu được cuộc chiến đó, để hiểu được vì sao người Việt Nam lại chiến đấu chống lại người Pháp và sau này là người Mỹ thì phải tìm ra một chìa khóa cho việc nghiên cứu. Chìa khóa đó là nhân vật Hồ Chí Minh. Ông là hiện thân của cuộc kháng chiến ở Việt Nam, có uy tín duy trì sự thống nhất tuy không phải hoàn toàn của phong trào cách mạng Việt Nam. Tôi nghĩ đối với bất cứ ai muốn tìm hiểu cuộc chiến Việt Nam thì việc tìm hiểu về ông Hồ Chí Minh là điều không thể thiếu.
BBC:Vậy ông đã tìm hiểu được những gì về ông Hồ Chí Minh?
Theo tôi ông Hồ Chí Minh đã rất thành công trong việc biến hai động lực trong xã hội Việt Nam thời gian đó thành chính con người ông ta. Tức là trong phong cách cá nhân của mình, ông Hồ Chí Minh đã thể hiện được ham muốn của dân Việt Nam, muốn được có công lý, gồm cả công bằng xã hội và công lý về chính trị, quyền được bên ngoài đối xử công bằng. Và điều thứ hai ông thể hiện được là tạo ra một cuộc cách mạng với mục tiêu đem lại cuộc sống tốt hơn cho người Việt Nam.
BBC:Nhưng có những người Việt Nam, nhất là những người chống lại chủ nghĩa cộng sản cho rằng ông Hồ Chí Minh phải chịu trách nhiệm cho việc đem chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam, người ta còn nhắc đến thời kỳ Cải cách Ruộng Đất khi ông làm lãnh tụ, khi mà hàng nghìn người đã bị giết?
Điều tôi muốn nói ở đây là ông Hồ có tài, có khả năng biến những ước vọng của người dân thành điều gì đó gắn liền với hình ảnh và phong cách của ông ta. Còn con người ông và những gì ông làm về mặt thực tế lại là chuyện khác. Tôi chỉ muốn nói đến hình ảnh về bản thân mà ông thể hiện ra.
Ông Hồ Chí Minh không chỉ thể hiện bằng bản thân mình những khát vọng của dân chúng mà còn tạo ra hình ảnh như một người chí sĩ của truyền thống. Từ điểm này, tôi còn muốn đi xa hơn nữa để nói rằng ông Hồ Chí Minh trong cuộc đời thực là một con người khác với hình ảnh đó, nhưng ông đã dùng thủ đoạn một cách cố ý để sử dụng hình ảnh về bản thân cho mục đích chính trị.
Và trong quá trình nghiên cứu ông Hồ Chí Minh tôi đã đi đến nhận xét rằng có những lúc ông Hồ đã nhận định sai các động lực trong xã hội Việt Nam và thậm chí trình bày con người ông và đảng của ông ra bên ngoài một cách không chính xác.
Còn nói về giai đoạn ông cầm quyền trong thập niên 50 và 60 ở miền Bắc Việt Nam thì tôi cho rằng ông đã không có khả năng hạn chế những hành động cực đoan trong đảng và nhà nước vào thời gian Cải Cách Ruộng Đất và Nhân văn Giai phẩm. Vì thế, thành tích chung cuộc lại của ông Hồ Chí Minh với tư cách một nhà chính trị là khá phức tạp chứ không đơn giản như những gì người ta đưa ra.
BBC:Hiện nay, cuộc chiến Việt Nam đã chấm dứt 27 năm rồi, vậy hình ảnh ông Hồ Chí Minh ở Hoa Kỳ là thế nào, hay ít nhất trong giới trí thức Mỹ là thế nào?
Nay, khi mà cuộc chiến đã kết thúc hơn một phần tư thế kỷ rồi thì hình ảnh ông Hồ Chí Minh ở Hoa Kỳ như một kẻ đối kháng lại nước Mỹ đã nhạt đi nhiều. Trong giới trẻ Mỹ, nhiều người không có bất cứ một cảm nghĩ gì về ông cả.
Nhưng điều thú vị mà tôi quan sát thấy là trong những người cao tuổi hơn, còn nhớ đến chiến tranh Việt Nam ở Hoa Kỳ thì có một sự chia rẽ rõ ràng trong cách nhìn ông Hồ Chí Minh, và nó giống hệt như sự chia rẽ trong người Mỹ vào thời gian cuộc chiến. Những người Mỹ nào từng chống lại cuộc chiến thì nay vẫn giữ quan điểm mến mộ ông Hồ Chí Minh, còn những người tham gia tích cực hay ủng hộ chính phủ Hoa Kỳ trong cuộc chiến thì có quan điểm phê phán ông dù tình cảm đó không còn mạnh như trước nữa.
Tôi cũng nhắc luôn là sự khác biệt trong cách nhìn nhận nhân vật Hồ Chí Minh còn rất nặng nề trong những người Mỹ gốc Việt. Tôi hiểu ra điều này khi ra cuốn sách về ông vài năm trước. Đa số những người thuộc thế hệ đã sống trước 1975 ở miền Nam Việt Nam và phải bỏ Việt Nam sang Hoa Kỳ sau chiến tranh, họ có thái độ chống đối ông Hồ Chí Minh rất mạnh mẽ, và họ cho rằng cuốn sách của tôi không phê phán ông đủ mức độ.
Còn những người Mỹ gốc Việt trẻ tuổi, những người sinh trưởng ở Mỹ thì tuy có một sự quan tâm như là hiếu kỳ về con người ông Hồ Chí Minh nhưng họ không có một tình cảm mạnh nào, dù về hướng này hay hướng kia, đối với ông Hồ.
Nhìn chung thì ở Mỹ bây giờ người ta không quan tâm nhiều đến ông Hồ như là một nhân vật gây tranh cãi trong những người Mỹ như trước nữa.
BBC:Theo ông, việc nhà nước Việt Nam cổ xuý cho cách tạo dựng hình ảnh ông Hồ Chí Minh có ảnh hưởng xấu gì đến quan hệ Việt Nam với Hoa Kỳ ngày nay không?
Tôi không nghĩ rằng điều đó có tạo ra một tác động, một ảnh hưởng nào đến nước Mỹ. Theo tôi hiểu thì việc chính quyền Việt Nam dùng hình tượng Hồ Chí Minh theo ý họ bây giờ là nhằm vào mục đích chính trị nội bộ. Tôi tin rằng đa số người Việt cho rằng hình ảnh được tạo dựng ra về ông Hồ Chí Minh là giả tạo mà thôi.
Còn trong quan hệ với Hoa Kỳ thì tôi cho là chuyện đó không có gì quan trọng cả. Nhưng nhân đây tôi xin kể một câu chuyện mà chính tôi là người tham gia. Trong thập niên 80, khi tôi phỏng vấn và nói chuyện với các nhân vật của chính quyền Việt Nam khi soạn các tài liệu về ông Hồ Chí Minh thì người ta đã cố gắng đưa ra hình ảnh ông Hồ Chí Minh như một người bạn của nước Mỹ. Trong những cuộc nói chuyện với tôi, các quan chức và nhà nghiên cứu của Việt Nam lộ rõ ý định này. Tôi hiểu đó là vì mục tiêu chính trị của Việt Nam khi ấy muốn cải thiện và bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ.
BBC:Cách họ làm việc đó ra sao thưa giáo sư?
Các quan chức và các sử gia Việt Nam mà tôi gặp đã tìm cách thuyết phục tôi rằng theo họ, ông Hồ Chí Minh là một người rất thân thiện với nước Mỹ nhưng bị nước Mỹ phản bội. Họ nhắc lại sự kiện năm ông Hồ Chí Minh viết thư cho tổng thống Truman xin Hoa Kỳ công nhận nước Việt Nam sau thế chiến thứ Hai. Nhưng ông Hồ Chí Minh đã không nhận được thư trả lời. Họ nhắc đến chuyện ông Hồ đã giúp quân đồng minh và người Mỹ đánh Nhật v.v.
BBC:Và các nỗ lực tạo ra hình ảnh ông Hồ Chí Minh là người bạn của Hoa Kỳ đó có tác dụng gì không?
Tôi chỉ có thể nói về phần mình là tôi luôn ý thức được rằng việc làm đó của họ có mục đích chính trị là bình thường hóa quan hệ với Washington. Còn về mặt lịch sử, tôi đã trả lời họ rằng: “Quý vị có biết là thời gian đó ông Hồ Chí Minh còn viết cả thư tương tự cho lãnh tụ Liên Xô là Stalin (cười) xin công nhận Việt Nam nhưng cũng chẳng nhận được thư đáp lại gì cả”. Và họ nói là họ không biết chuyện ấy.
BBC:Vậy theo ông tại sao Hoa Kỳ khi đó không muốn công nhận nước Việt Nam?
Phải nói rằng trong chính giới Mỹ cho đến nay và trong cả các sử gia Mỹ có một xu hướng cho rằng đúng là người Mỹ khi đó đáng ra phải nhìn nhận rõ hơn nhân vật Hồ Chí Minh sau Thế Chiến. Nhưng nên nhớ rằng thời gian đó, ở Hoa Kỳ không có một sự quan tâm đáng kể nào về Việt Nam cả.
Sau Thế Chiến Hai, Washington chỉ quan tâm đến quan hệ tốt với nước Pháp, nhất là tại châu Âu vì chúng tôi muốn ngăn chặn sự bành trướng của cộng sản Nga tại châu Âu và Hoa Kỳ phải giúp nước Pháp. Thực ra khi đó người Mỹ cũng chẳng mấy lo ngại về chuyện ông Hồ có phải là cộng sản hay không. Mà vì cả nước Việt Nam không nằm ở một vị trí nào trong nghị trình chính trị của nước Mỹ. Hoa Kỳ khi đó lo lắng cho vai trò của Pháp. Còn Việt Nam khi đó, nói một cách hình ảnh là, không phải là một điểm đáng chú ý nào trên màn ra-đa của nước Mỹ khi đó.
BBC:Thế còn bây giờ thì sao? Theo những gì giáo sư biết thì Việt Nam được nhìn nhận trong chính giới Hoa Kỳ ra sao?
Tôi nghĩ rằng tình hình thế giới bây giờ sau các vụ tấn công khủng bố 11/09 đã khác trước rất nhiều. Hoa Kỳ quan tâm đặc biệt đến Iraq, đến Trung Đông, đến tình hình ở Palestin. Còn về Việt Nam thì có rất ít, rất ít sự chú ý. Mà không chỉ Việt Nam, các nước khác ở Đông Nam Á cũng không còn được quan tâm ở Hoa Kỳ.
Theo ý tôi, thì nếu có một tâm lý, một thái độ chung về Việt Nam trong giới chính trị Hoa Kỳ thì nó là Hoa Kỳ đã có một quyết định thông minh khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam thời tổng thống Clinton. Và sau khi đã bình thường hóa quan hệ với Việt Nam thì nay có một thái độ của đa số trong Hạ Viện là Hoa Kỳ cần đưa người Việt Nam, cả về mặt kinh tế và xã hội cũng như chính trị, tham gia vào nhiều hơn các hoạt động hướng tới kinh tế thị trường, để Việt Nam cải thiện hơn tình hình nhân quyền trong nước và đi về hướng kinh tế thị trường hơn nữa.
Có một nhóm trong chính giới Hoa Kỳ có thái độ phê phán mạnh hơn đối với Việt Nam về vấn đề nhân quyền. Nhưng nhìn chung thì Việt Nam không phải là một điểm quan trọng trong các vấn đề của nước Mỹ. Tuy vậy, theo tôi nghĩ, các chính trị gia Hoa Kỳ có chung quan điểm rằng sau khi đã bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, đã ký với Việt Nam hiệp định thương mại thì nay hãy để Việt Nam tiến dần dần nhưng nhất quán về hướng gia nhập các tổ chức quốc tế. Họ tin và hy vọng rằng tất cả những điều này sẽ làm cho chính sách của Việt Nam ôn hòa hơn và khuyến khích một xu hướng trong xã hội Việt Nam đi về phía một xã hội đa nguyên hơn về kinh tế và đa nguyên hơn cả về chính trị trong tương lai.
BBC:Trở lại câu chuyện của chúng ta về ông Hồ Chí Minh, nói một cách giả tưởng thì giáo sư có cho rằng nếu ông Hồ Chí Minh còn sống bây giờ, ông ấy có đem lại thay đổi gì cho chính trị Việt Nam ngày nay không?
Ngay cả sau nhiều năm bỏ công sức ra nghiên cứu về ông Hồ Chí Minh tôi phải nói rằng có nhiều mặt trong cuộc đời của ông ta quả thật là khó tìm hiểu một cách thấu đáo. Nhưng nói như vậy thì tôi phải nói ngay rằng nếu còn sống hay sống lại ngày hôm nay thì ông Hồ Chí Minh đã đứng đầu trong việc thực hiện các cuộc cải tổ gọi chung là Đổi Mới.
Ông ta sẽ nhanh chóng hơn trong việc bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ, với Trung Quốc. Vì khi còn sống, ông ta là một người thích làm những việc tưởng như không làm nổi. Và ông là một người rất thực tiễn. Ông có cái nhìn thực tiễn hơn về cán cân quyền lực trên thế giới. Nếu ông sống vào thời nay thì tôi tin là ông sẽ cố gắng có hiệu quả hơn trong việc nhân đạo hóa cuộc cách mạng Việt Nam, hơn những người đã lãnh đạo Việt Nam từ chiến tranh đến nay.
BBC:Ông có nghĩ là ông Hồ Chí Minh nếu sống vào thời gian này thì có thay đổi nền tảng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hay không?
Không. Khác với một số nhà nghiên cứu cho rằng nếu còn sống thì ông Hồ Chí Minh đã bỏ chủ nghĩa xã hội, tôi tin rằng ông ấy về bản thân là một nhân vật theo chủ nghĩa xã hội. Nhưng vì là người có làm quen với Phương Tây, ông sẽ có thái độ dung thứ hơn với những người bất đồng chính kiến, khác với các nhân vật lãnh đạo sau ông chỉ chịu ảnh hưởng của Trung Quốc và Liên Xô.
Nhưng có một vài điểm tôi muốn làm rõ ở đây. Theo tôi, ông Hồ Chí Minh vẫn theo đuổi CHXH nhưng là một thứ CHXN thực tiễn hơn. Tuy vậy, cũng phải nói rằng dù trong nhiều năm người ta cứ nghĩ rằng ông Hồ Chí Minh là một chính trị gia mạnh mẽ, thuyết phục người khác bằng phép lạ của uy tín cá nhân, luôn liên kết cả đảng và nhà nước và làm chủ được những nhân vật đứng dưới ông trong đảng.
Nhưng thực tế không phải như vậy. Trong cả hai chục năm trước khi ông chết, tức là sau khi những người cộng sản làm chủ miền Bắc Việt Nam, ông Hồ Chí Minh trong những năm cuối đời, ông không có đủ ảnh hưởng, đủ sức mạnh ý chí để tác động hạn chế những việc làm cực đoan của các đồng chí của ông trong đảng.
Bây giờ, nếu ông Hồ Chí Minh còn sống hay có sống lại, chưa chắc ông đã làm chủ được tình thế và các nhân vật khác trong đảng cộng sản Việt Nam. Vì thế, tôi tin là nếu còn hoạt động vào thời gian này, chắc chắn ông sẽ là người cổ vũ mạnh cho cải cách chủ nghĩa xã hội theo chiều hướng thực tiễn hơn nhưng tôi không dám chắc là ông có đủ sức mạnh để áp dụng đường lối đó một cách có hiệu quả như ông muốn hay không.
—-

CHƯƠNG XIII

ĐỊA ĐIỂM MANG TÊN ĐIỆN BIÊN PHỦ

Dự đoán rằng Hồ Chí Minh sẽ về thủ đô ăn Tết năm 1951 quả là hấp tấp. Mặc dù trong giai đoạn khởi đầu, cuộc tấn công của Việt Minh đã bắt đầu một cách đầy hứa hẹn – với việc các đơn vị Việt Minh từ các cánh rừng dưới chân núi Tam Đảo tràn ra trong một cuộc tấn công theo kiểu “biển người” của Trung Quốc nhằm vào các vị trí của đối phương tại Vĩnh Yên – các chỉ huy của họ đã đánh giá thấp quyết tâm của tướng Giăng Đơ Lát Đơ Tát-xi-nhi mới đến Đông Dương ngày 19 tháng 12 năm 1950 với tư cách là Cao uỷ mới và Tổng tư lệnh các Lực lượng viễn chinh Pháp (FEF) tại Đông Dương. Đơ Lát là đối thủ xứng đáng của tướng Giáp. Là một anh hùng chiến tranh và một con người vô cùng tự tin và có hàm quân sự cao nhất, Đơ Lát đã hành động ngay lập tức để củng cố vị thế quân Pháp. Để nâng cao tinh thần binh lính, ông huỷ bỏ lệnh của người tiền nhiệm sơ tán nhân dân Pháp khỏi Hà Nội. Để bẻ gẫy cuộc tấn công của Việt Minh, ông đã huy động lực lượng dự bị chiến lược từ các nơi khác đồng thời ra lệnh cho máy bay Pháp sử dụng bom na-pan mới tiếp nhận từ Hoa Kỳ.
Kết quả thật kinh ngạc. Binh lính Việt Minh chưa từng gặp phải tác động của ga cháy, đã tháo chạy tán loạn và thị xã Vĩnh Yên vẫn nằm trong quyền kiểm soát của người Pháp. Một người tham gia lực lượng tấn công sau này viết:
“Đơn vị của chúng tôi tấn công từ buổi sáng. Từ xa, ba con chim yến hiện ra to dần. Đó là những chiếc máy bay. Chúng bổ nhào và địa ngục mở ra ngay trước mắt tôi. Địa ngục trông giống như một chiếc công-te-nơ chứa đầy những quả trứng khổng lồ rời xuống từ chiếc máy bay đầu tiên, rồi từ chiếc thứ hai rơi xuống ngay bên phải tôi…Một quầng lửa dữ dội lan ra tới hàng trăm mét, gieo rắc kinh hoàng trong binh lính. Đó là bom na-pan, đám cháy từ trên trời rơi xuống. Một chiếc máy bay khác lại đến và các đám cháy mới lại bùng lên. Bom rơi phía sau chúng tôi và tôi cảm thấy hơi lửa đang lan toả khắp người tôi. Binh lính tháo chạy và tôi không thể nào cản họ lại được. Không có cách nào sống được dưới quầng lửa đang hoành hành và thiêu rụi mọi thứ trên đường đi của nó.”
Theo một báo cáo tình báo của Mỹ, khoảng từ 3.500 đến 4.000 lính trong tổng số 10.000 lính tham gia cuộc tấn công của Việt Minh đã bị thương. 400 lính Pháp chết và 1.200 bị thương. Các cuộc tiến công sau đó vào Mạo Khê và các cứ điểm dọc sông Đáy ít thành công hơn và cuối cùng, sau khi chịu nhiều thương vong, họ phải rút lên núi. Khi mối đe doạ đối với Hà Nội tạm thời dịu xuống, Đơ Lát thú nhận rằng quyết định huỷ bỏ lệnh sơ tán của ông chỉ là “tiếng huýt sáo trong bóng tối” và là một cuộc trình diễn trên khán đài nhằm khôi phục niềm tin của công chúng.
Không những không mở được đường tiến về Hà Nội, cuộc tiến công lại là một thất bại của các lực lượng Việt Minh và thực sự là một thất bại cá nhân đáng xấu hổ của Võ Nguyên Giáp – nhà chiến lược thượng hạng của Hồ Chí Minh. Mấy tuần sau đó, Bộ Tổng tham mưu bắt đầu suy tính lại cách đánh của mình. Tại một cuộc họp của các cán bộ cao cấp trong Đảng tổ chức giữa tháng 4, Hồ Chí Minh kêu gọi tự kiểm điểm để rút kinh nghiệm từ những bài học vừa qua và chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới. Một chương trình phát thanh của Việt Minh tháng 5 đã nói rằng chỉ nên phát động các chiến dịch quân sự lớn khi cầm chắc chiến thắng. Các nguồn tin chính thức đã thôi thúc không dùng khẩu hiệu “chuẩn bị chuyển sang giai đoạn tổng tấn công” và bắt đầu nhấn mạnh đến tầm quan trọng của một cuộc kháng chiến trường kỳ. Trong các bài viết và nói chuyện của mình cuối năm 1951, Hồ Chí Minh đã gián tiếp đưa ra quan điểm tương tự, nói đến tầm quan trọng của kỹ thuật chiến tranh du kích trong việc tiến hành một cuộc đấu tranh lâu dài chống lại kẻ thù. Các cố vấn Trung Quốc rũ bỏ trách nhiệm thất bại bằng cách báo cáo cho cấp trên (một cách muộn màng) rằng binh lính Việt Minh thiếu kinh nghiệm cần thiết để tiến hành một chiến dịch quân sự đầy tham vọng như vậy. Họ cũng khuyên nên chuyển sang áp dụng chiến tranh du kích. Ông Giáp cũng thừa nhận rằng đối đầu với quân đội Pháp được trang bị tốt hơn trong một trận chiến bằng những lực lượng vẫn còn thiếu kinh nghiệm của mình là một sai lầm, và các lực lượng này đôi khi không có được một mức độ quyết chiến và quyết tâm cần thiết.
Tuy ảnh hưởng của Trung Quốc đối với chiến lược chiến tranh du kích của Việt Minh ngày càng trở lên nên rõ nét sau năm 1950, tác động của nó cũng rõ nét trong các thay đổi đang diễn ra trong chính sách đối nội của Việt Minh. Từ giữa những năm 50, các cán bộ Trung Quốc mặc trang phục kiểu Mao miệng hô hào các khẩu hiệu cách mạng bắt đầu đến Việt Nam với số lượng lớn để cố vấn cho phía Việt Nam trên mọi phương diện quản lý và hành vi ứng xử. Trước khi họ rời Trung Quốc, Lưu Thiếu Kỳ đã cẩn thận chỉ thị cho các thành viên của đoàn cố vấn không được áp đặt các kỹ thuật Trung Quốc vào Việt Nam, nhưng nhiều người đã phớt lờ lời khuyên này và làm dấy lên sự bực tức trong hàng ngũ binh lính và sĩ quan Việt Nam, những người từ lâu đã nhạy cảm trước thái độ trịnh thượng của những người anh em phương Bắc.
Đối với nhiều người Việt Nam, việc thiết lập các chương trình giáo dục tư tưởng cho đảng viên biểu hiện rõ nhất của ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc. Theo lý thuyết của Mao, mục đích của chương trình này là khích lệ cải huấn tư tưởng các đảng viên, nhưng nó lại thường biến tướng thành sự sỉ nhục và trừng phạt, thường mang đặc điểm của xung đột giai cấp khi các cán bộ xuất thân trong hoàn cảnh nghèo khó trả thù các đồng đội xuất thân từ các gia đình giàu có. Theo lời kể của một số người tham gia các chương trình này, chiến thuật tự kiểm điểm – trọng tâm của chương trình- đã làm kinh hoàng rất nhiều các bộ Việt Minh, những người hầu hết đã đọc một số tác phẩm Mác-xít-Lê-nín và động cơ tham gia phong trào Việt Minh của họ thường là vì lòng yêu nước hơn là ý thức hệ.
Kết quả của việc giáo dục tư tưởng này nhiều khi là bi kịch. Theo Gioóc Bu-đa-ren, một người cộng sản Pháp từng phục vụ trong một đơn vị của Việt Minh trong những năm đầu thập kỷ 50, người ta tịch thu dao cạo râu của các cán bộ Việt Minh bị tổn thương về tinh thần nhằm ngăn họ tự sát; đèn trong các lều của các trại huấn luyện được thắp sáng suốt đêm có lẽ cũng vì lý do này. Chính uỷ Việt Minh được cử xuống tất cả các đơn vị để theo dõi động cơ tư tưởng của binh sĩ. Nếu như chính uỷ và sĩ quan chỉ huy của một đơn vị bất đồng thì chính uỷ sẽ có quyền quyết định cuối cùng.
Bu-đa-ren cho rằng chính sách này có tác dụng tiêu cực. Trước mắt, chính sách này đẩy nhiều trí thức yêu nước ra khỏi phong trào và phá vỡ sự đoàn kết đang tồn tại trước đó giữa những người trung hoà và cấp tiến trong Đảng. Về lâu dài, hậu quả của các chính sách này rất nguy hại vì lo sợ bị phê bình và trả thù sẽ làm tê liệt tính sáng tạo của các văn nghệ sĩ. Các nguồn tin tình báo Pháp đã thu được nhiều tài liệu nói về sự rạn nứt giữa cán bộ Việt Nam và chuyên gia Trung Quốc; những người đào ngũ khỏi hàng ngũ Việt Minh thường viện dẫn việc họ rời bỏ cách mạng là do ảnh hưởng thái quá của học thuyết Mao-ít. Ngay cả những người ủng hộ Việt Minh và chấp thuận việc cần phải nghe theo những lời khuyên chiến lược từ các cố vấn Trung Quốc đôi khi cũng chán nản trước việc các chuyên gia Trung Quốc gần như đang chỉ huy các đơn vị quân đội của Việt Nam. Những người đào ngũ nói rằng nhiều cán bộ trung – cao cấp của Việt Minh đã bị thanh trừng do sức ép của Trung Quốc. Theo các nguồn tin từ phía Pháp, có thể là do sức ép của phía Trung Quốc mà tướng Nguyễn Bình, tư lệnh các lực lượng Vịêt Minh ở miền Nam và là người bị cho là phê phán ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc trong phong trào Việt Minh đã bị mất chức tháng 9 năm 1951 và được lệnh ra bắc để “định hướng lại” . Các nguồn tin chính thức của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tuyên bố rằng ông đã bị giết trong một cuộc đụng độ với các lực lượng bảo hoàng Cam-pu-chia-a trên đường ra Việt Bắc; các báo cáo chưa được kiểm chứng thì nói rằng ông bị bắt đưa đi và “vui vẻ chấp thuận cái chết định mệnh trong chiến đấu hơn là bị xử tử”.
Ảnh hưởng của Trung Quốc bắt đầu lan đến vùng nông thôn nơi chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà áp dụng các quy định về cải cách ruộng đất ngày càng chặt chẽ hơn. Các quy định này tập trung xoá bỏ ảnh hưởng kinh tế và chính trị của giai cấp địa chủ ở cấp xã. Kể từ khi chiến tranh bùng nổ tháng 12 năm 1946, chính sách ruộng đất của chính phủ phản ánh quyết định của Hồ Chí Minh đặt ưu tiên vào cuộc đấu tranh phản đế lên trên cách mạng phản phong. Vì thế chương trình kêu gọi giảm tô nhưng chỉ giới hạn việc tịch thu đất canh tác thuộc quyền sở hữu của các công dân Pháp và những người cộng tác với chính quyền Bảo Đại. Đất của các địa chủ yêu nước và các nông dân giàu có không bị tịch thu nhằm lôi kéo sự ủng hộ của những đối tượng này đối với phong trào.
Tuy nhiên, đến đầu những năm 50, ngày càng có nhiều chỉ trích từ giới quân sự rằng rất nhiều quy định của chương trình này đã bị phớt lờ ở cấp địa phương nơi rất nhiều địa chủ không thực hiện quy định giảm tô. Các lãnh tụ của Đảng như Trường Chinh lập luận rằng do không huy động được sự ủng hộ mạng mẽ hơn nữa của những tầng lớp dân nghèo ở nông thôn, chương trình này không đáp ứng lợi ích của cách mạng. Các cố vấn Trung Quốc với những kinh nghiệm mới mẻ về chương trình cải cách ruộng đất triệt để đang được tiến hành tại Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa bắt đầu thúc giục các cán bộ Việt Nam đối đầu với các phần tử “phong kiến” ở nông thôn một cách trực diện hơn. Kết quả là các quy định giảm tô và giới hạn việc tham gia của các địa chủ trong hội đồng xã bắt đầu được thực hiện chặt chẽ hơn.
Sự kiện nổi bật nhất đánh dấu sự chuyển hướng quyết định sang phía tả của chính phủ xẩy ra vào tháng 2 năm 1951 khi Đảng tổ chức Đại hội toàn quốc lần thứ hai – đại hội đầu tiên được tổ chức sau đại hội tại Ma Cao tháng 3-1935 – tại một địa điểm bí mật ở tỉnh Tuyên Quang, sâu trong rừng Việt Bắc. Tổng số 200 đại biểu đại diện cho khoảng nửa triệu đảng viên đã tham dự cuộc họp.
Có nhiều lý do xác đáng để tổ chức đại hội. Trước hết, mặc dù Đảng Cộng sản Đông Dương đã giải thể công khai tháng 11 năm 1945, tổ chức này vẫn lớn mạnh nhanh chóng trong những năm cuối thập kỷ 40 và rất nhiều đảng viên – đại đa số có nguồn gốc là nông dân và tiểu tư sản – mới chỉ được rèn luyện rất ít về hệ tư tưởng. Nhiều cán bộ bị nhiễm cái mà tài liệu của Đảng gọi là “thái độ phong kiến” (bao gồm những điều bị coi là tệ nạn xã hội như tín ngưỡng và mê tín, hống hách, gia trưởng), “đầu óc du kích” (ngụ ý thái độ bí mật và nghi ngờ người ngoài) và trình độ nhận thức chính trị thấp. Trong báo cáo trước các đại biểu, Tổng bí thư Trường Chinh tuyên bố rằng việc chống lại ảnh hưởng to lớn của chủ nghĩa cá nhân, ngạo mạn, thái độ và việc làm quan liêu, tham nhũng và đạo đức lỏng lẻo trong đảng viên là vô cùng quan trọng. Ông khẳng định rằng chỉ một Đảng Cộng sản có kỷ luật cao và trong sáng trước công chúng mới có khả năng đóng vai trò tích cực trong đấu tranh chống những tệ nạn đó và đóng vai trò tiên phong trong lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc trong việc hoạch định chính sách đối nội cũng được thừa nhận công khai tại Đại hội. Trường Chinh tuyên bố rằng nước Việt Nam tương lai sẽ áp dụng mô hình “chuyên chính dân chủ nhân dân” kiểu Trung Quốc chứ không theo mô hình “chuyên chính vô sản” Đông Âu theo kiểu Liên Xô. Theo mô hình Trung Quốc, mục tiêu trước mắt là tiến hành giai đoạn đầu của cách mạng dân tộc chủ để chuẩn bị cho cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa sau này, nhưng không có thời kỳ quá độ kéo dài giữa hai giai đoàn này. Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, theo cách nói của Lê-nin, sẽ “phát triển” sang giai đoạn xã hội chủ nghĩa. Để giành được sự ủng hộ rộng rãi của dân chúng, Mặt trận Việt Minh – một liên minh rộng rãi của các lực lượng yêu nước được hình thành năm 1941 và hiện công chúng thấy rõ là đang chịu sự lãnh đạo của những người cộng sản – cần được đổi tên thành Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam hay Mặt trận Liên Việt.
Để hoàn thành nhiệm vụ của mình, Đảng Cộng sản Đông Dương cũng cần có tên mới – Đảng Lao động Việt Nam. Khi đưa từ dễ gây xúc động “Việt Nam” vào tên Đảng, các nhà lãnh đạo rõ ràng đã công nhận tầm quan trọng to lớn của cuộc đấu tranh phản đế trong việc giành sự ủng hộ của dân chúng, một quan điểm mà bản thân Hồ Chí Minh luôn tâm niệm kể từ giữa những năm 20. Đồng thời, quyết định này cũng là một cử chỉ ngầm đáp lại tinh thần dân tộc chủ nghĩa đang dâng lên ở các nước Lào và Cam-pu-chia-a, nơi các đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương người Lào và Khơ-me ngày càng thấy khó chịu trước sự chỉ đạo, đôi khi có tính chất nhồi nhét của các cấp trên người Việt và đòi phải có Đảng riêng của mình. Đảng lúc này đã chính thức công nhận rằng cách mạng ở ba nước sẽ phát triển với tốc độ khác nhau và mỗi nước sẽ có đảng riêng của mình để đóng vai trò tiên phong trong quá trình đó. Trong khi Việt Nam đang tiến tới cách mạng dân tộc dân chủ và sau đó tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, Lào và Căm-pu-chia đã đi theo hướng dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa của họ sẽ bị trì hoãn một số năm.
Tuy nhiên, quyết định tách Đảng Cộng sản Đông Dương thành ba đảng riêng biệt không có nghĩa là Hồ Chí Minh và các cộng sự không còn quan tâm đến các nước khác ở Đông Dương. Ngược lại, mặc dù các tổ chức được thiết lập tại Lào và Cam-pu-chia-a mang tên Đảng Nhân dân Cách mạng, kế hoạch thiết lập một liên minh chặt chẽ giữa ba nhóm đã được đưa ra ngay sau khi Đại hội II kết thúc. Theo một tài liệu chính thức của Đảng được đưa ra tại Đại hội sau này Pháp lấy được, người Việt Nam không hề có ý định chấm dứt sự kiểm soát đối với phong trào cách mạng trên toàn Đông Dương. Tài liệu này tuyên bố “Đảng Việt Nam giữ quyền giám sát hoạt động của các đảng anh em ở Lào và Cam-pu-chia-a.” Và mặc dù các nguồn tin của Việt Nam sau này xác nhận rằng quan niệm về một liên bang Đông Dương (lần đầu tiên được đề cập tại Hội nghị Ma Cao năm 1935) đã được công khai từ bỏ lại Đại hội năm 1951, nhưng tài liệu tịch thu được này lại nói ngược lại, rằng mặc dù có ba đảng riêng biệt, “sau này, nếu điều kiện cho phép, ba đảng cách mạng ở Việt Nam, Lào, Cam-pu-chi-a sẽ có thể thống nhất lại để thành lập một đảng duy nhất : Đảng liên bang Việt-Khơ-me-Lào”
Quyết định duy trì quan hệ chặt chẽ giữa ba nước, đoàn kết thống nhất trong Liên hiệp Pháp chứng tỏ rằng giới lãnh đạo Đảng nhận thấy tầm quan trọng chiến lược của Đông Dương như một khối thống nhất. Trong một cuốn sách học của Đảng mà người Pháp thu được năm 1950, ba nước được miêu tả như một khối thống nhất từ quan điểm đến địa lý, kinh tế, chính trị và chiến lược. Tài liệu này nói rằng các phong trào cách mạng ở ba nước được định hướng giúp đỡ lẫn nhau trong mọi lĩnh vực để tiến hành cuộc đấu tranh chống đế quốc xâm lược và xây dựng “nền dân chủ mới” trong tương lai.
Dấu ấn của Hồ Chí Minh có thể được tìm thấy trong nhiều tài liệu được Đại hội thông qua. Các cộng sự của ông đã chiếu theo ý kiến kiên quyết của Hồ Chí Minh cần phải đặt mục tiêu phản đế lên trên phản phong ở Đông Dương và công nhận cần phải hiệu triệu những phần tử ôn hoà trong xã hội Việt Nam. Nhấn mạnh đến tầm quan trọng của cuộc cách mạng hai giai đoạn (dù có ngắn đến đâu) và sự cần thiết phải áp dụng ý thức hệ cách mạng vào điều kiện cụ thể ở mỗi nước, các đảng viên đã hưởng ứng khuynh hướng thực dụng, điều luôn là ý tưởng của ông từ những ngày đầu tiên của phong trào.
Tuy nhiên, khó tránh khỏi kết luận là Bắc Kinh cũng có ảnh hưởng chính đằng sau những quyết định tại Đại hội II. Bằng việc quyết định lập lại Đảng Cộng sản như một “lực lượng đưa đường chỉ lối” hiện hữu thúc đẩy cách mạng Việt Nam, người Việt Nam đã đáp lại chỉ trích từ Trung Quốc và Liên Xô rằng cuộc đấu tranh của họ từ trước đến giờ vẫn thiếu màu sắc Mác-xít cần thiết. Việc sử dụng thuật ngữ “nền dân chủ mới” là một sự bắt chước trực tiếp từ một mô hình mới được chính người Trung Quốc áp dụng, trong khi nhấn mạnh đến “sự lớn mạnh” của cách mạng từ giai đoạn một sang giai đoạn hai, họ nhấn mạnh đến những quan ngại từ phía Mát-xcơ-va và Bắc Kinh rằng Đảng Cộng sản Đông Dương vẫn chưa chính thống trong các hoạt động của mình.
Phản ứng của Hồ Chí Minh trước các quyết định tại Đại hội có lẽ lẫn lộn. Là một người có đầu óc thực tế, ông hiểu tầm quan trọng của việc xoa dịu Bắc Kinh để khuyến khích sự ủng hộ của Trung Quốc cho cách mạng Việt Nam và ít người sánh được với ông về khả năng quỵ luỵ trước Mao Chủ tịch và các cộng sự hãnh tiến của Mao. Nhưng chắc ông cũng lo lắng về hiểm hoạ của những ảnh hưởng thái quá của Trung Quốc và nhận thức được rằng nhiều yếu tố trong mô hình Trung Quốc – cụ thể là nâng cao vai trò của Đảng, sự nhấn mạnh ngày càng nhiều tới cải huấn tư tưởng và sự trừng phạt nặng nề giành cho những ai bị tình nghi là phản động – có thể sẽ không thành công trên mảnh đất nhiệt đới của xứ Đông Dương thuộc Pháp này. Những bản năng bao quát của ông chắc chắn đã phản kháng khi biết rằng nhiều người yêu nước Việt Nam sẽ bị đẩy ra khỏi hàng ngũ của Mặt trận Việt Minh và rơi vào tay kẻ thù.
Những lo lắng của ông Hồ không qua được mắt những nhà quan sát thời đó và có nhiều lời đồn rằng mặc dù Hồ Chí Minh được khẳng định là Chủ tịch Đảng, cuộc họp đã đánh dấu một thất bại lớn của ông Hồ và ảnh hưởng của ông trong phong trào cách mạng Việt Nam. Theo các nguồn tin tình báo Pháp, một trong những kết quả của Đại hội là thay thế ảnh hưởng của những người ôn hoà như Hồ Chí Minh bằng những thành phần cứng rắn đứng đầu là trường Chinh – người vừa được bầu lại vào vị trí Tổng Bí thư Đảng và một nguồn tin báo chí tại Sài Gòn thậm chí đưa tin rằng ông Hồ đã bị tử hình theo lệnh của Võ Nguyên Giáp. Các nguồn thạo tin tại Hà Nội thừa nhận rằng Đại hội thể hiện thất bại của Hồ Chí Minh và thắng thế của những người như Trường Chinh – những người quyết tâm đi theo lời khuyên của Trung Quốc và áp dụng đường lối cứng rắn hơn đối với cách mạng Việt Nam. Một Uỷ ban Trung ương mới gồm 29 uỷ viên đã được bầu ra (thành phần chủ yếu là những nhà cách mạng lão thành đã hoạt động tích cực trong Đảng từ trước Chiến tranh thế giới thứ hai). Uỷ ban Trung ương lại bầu ra một Ban Chấp hành (bắt chước theo mô hình của Liên Xô là Bộ Chính Trị), gồm 7 đảng viên hàng đầu của Đảng và một uỷ viên dự khuyết. Bộ Chính trị sẽ điều khiển công việc của Đảng và chính phủ.
Các thành viên chính của tổ chức này được mọi người coi là “tứ trụ” là Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh. Tóm tắt tiểu sử đăng trên báo Nhân dân của Đảng tháng ba mô tả Trường Chinh như kiến trúc sư và người lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong khi Hồ Chí Minh là linh hồn của cuộc cách mạng.
Sau khi ông Giáp thất bại trong cuộc tấn công ở đồng bằng sông Hồng, cuộc xung đột dần lắng xuống và trở thành cuộc chiến cân bằng. Năm 1951, hầu hết các cố gắng của Việt Minh tập trung vào phía Bắc. Sau thất bại của cuộc tiến công của ông Nguyễn Bình mùa hè năm 1950, các nhà chiến lược Việt Minh tạm gác cuộc đấu tranh ở Nam Bộ. Ông Bình tổ chức những cuộc tuần hành lớn ở Sài Gòn chống lại chiến tranh và những khó khăn kinh tế và xã hội do chiến tranh gây ra. Ông coi đó là một phần chiến lược của mình. Nhân dân, đặc biệt là công nhân và sinh viên, phải chịu cảnh lạm phát và quân dịch, đã tham gia vào các cuộc tuần hành nhưng nhiều người trung dung cảm thấy đường đột vì các cuộc tuần hành này có khả năng dẫn đến bạo lực và không ủng hộ phong trào. Nguyễn Văn Tâm, Thủ tướng mới của Bảo Đại, trước là Tổng trưởng cảnh sát được mọi người gọi là “mãnh hổ Mai Lai” vì đã áp đặt mạnh mẽ những hoạt động nổi dậy ở miền Nam, phá vỡ bộ máy của Việt Minh tại Sài Gòn và đến tháng 8, bộ máy Việt Minh hầu như đã chấm dứt hoạt động. Để chỉ đạo hoạt động cách mạng ở miền Nam, Đảng Lao động Việt Nam thành lập Trung ương Cục (tiếng Anh gọi là COSVN) và đặt trực tiếp dưới sự kiểm soát của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam.
Chiến trường Nam Bộ hầu như không hoạt động, ông Giáp và cộng sự của ông chuyển cố gắng của mình sang Lào và Cam-pu-chi-a cũng như vùng núi Tây Bắc Bắc Bộ. Mục tiêu của ông Giáp là giữ chặt lực lượng quân sự của Pháp và buộc Pháp phải dàn trải quân khắp Đông Dương. Điều này tạo điều kiện cho Việt Minh có thể chọn được điểm yếu của quân Pháp. Việt Minh có thể tấn công công khai lực lượng thù địch và rồi có thể giáng cho lực lượng này thất bại nhuc nhã.
Hoà Bình là một thời cơ như vậy. Quân Pháp cho rằng thành phố Hoà Bình nằm ở ngoại vi đồng bằng sông Hồng là ngã ba trọng yếu nối tổng hành dinh của Việt Minh ở Việt Bắc với miền Trung và miền Nam, nguồn cung cấp tân binh và lương thực chính. Hồ Chí Minh đã nói với cộng sự của mình: “Ruộng lúa là chiến trường”. Các đơn vị Pháp chiếm thành phố tháng 11 năm 1951 và với sự đồng ý của cố vấn Trung Quốc, Việt Minh tấn công mạnh vào các vị trí của Pháp ở khu vực này. Chiến sự dồn dập – như nhà sử học Béc-na Phôn gọi là cối xay thịt – đã diễn ra sau đó và quân Pháp đã bị bỏ vị trí của mình tháng 2 năm 1952, rút quân về đồng bằng. Vào lúc đó, tướng Đơ Lát về Pháp và chết vì ung thư vào tháng giêng. Đến thời điểm này, cách nhìn lạc quan trong các phần tử thân Pháp ở Đông Dương do tính năng động của ông Đơ Lát đem lại đã biến mất. Trận Hoà Bình được coi là thất bại lớn của Pháp; sứ quán Mỹ ở Sài Gòn báo cáo những người quốc gia chủ nghĩa không cộng sản nản lòng và ngày càng tin rằng đến mùa hè Việt Minh sẽ chiếm Hà Nội.
Theo lệnh của Đơ Lát, quân Pháp xây dựng một loạt đồn bốt hòng ngăn chặn Việt Minh xâm nhập đồng bằng, những phòng tuyến Đơ Lát cũng không hữu hiệu hơn phòng tuyến Ma-gi-nô của Pháp trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Việt Minh bỏ qua các đồn bốt đó hoặc tấn công và đánh chiếm từng đồn một. Đến cuối năm 1952, các đơn vị Việt Minh đã có thể tự do di chuyển trong vùng quanh Hà Nội, tổ chức cách mạng đã được thành lập trong nửa số làng ở vùng đồng bằng. Chiến thắng Hoà Bình mở ra triển vọng lớn.
Mùa thu năm ấy, các nhà chiến lược Việt Minh đã mở một mặt trận mới ở vùng Tây Bắc xa xôi. Quân Pháp đã chiếm giữ vùng rộng lớn đầy núi cao và thung lũng nhỏ hiểm trở từ khi cuộc chiến bắt đầu. Vào mùa thu năm 1952, theo gợi ý của cố vấn Trung Quốc, các nhà chiến lược Việt Minh bắt đầu soạn thảo kế hoạch tấn công vào đồn bốt quân Pháp ở vùng này chuẩn bị cho một chiến dịch ở Trung và Bắc Lào. Làm như vậy, Việt Minh đã đánh lạc hướng lực lượng địch chú ý tới vùng đồng bằng, càng làm cho quân địch dễ bị tấn công hơn. Tháng 9, Hồ Chí Minh bí mật đi Bắc Kinh tham khảo ý kiến về chiến dịch này. Ông còn đi tiếp Liên Xô, tham dự Hội nghị lần thứ 19 Đảng Cộng sản Liên Xô. Vào cuối tháng 9, kế hoạch tấn công căn cứ của Pháp tại Nghĩa Lộ được thông qua. Ông Hồ về Việt Nam tháng 12.
Vào giữa tháng 10 năm 1952, ba sư đoàn của Việt Minh tấn công căn cứ của Pháp ở Nghĩa Lộ. Các đơn vị của Pháp rút lui về vị trí đóng quân gần đó ở Nà Sản và Lai Châu, bỏ vị trí của mình ở Sơn La, cách Nghĩa Lộ 65 cây số về phía Tây. Quân Việt Minh chiếm Sơn La, tập trung tấn công Nà Sản nhưng không thành công và tổn thương hàng ngàn quân. Nhưng thất bại không chiếm được Nà Sản chỉ là tạm thời. Vào đầu mùa thu sau, Việt Minh tập kết và tiến quân sang phía bên kia biên giới Lào, chiếm Sầm Nưa và đe doạ kinh đô Luông Pra-băng. Và rồi sau khi buộc quân Pháp phải phân tán lực lượng của mình, quân Việt Minh trở về Việt Bắc.
Trong suốt giai đoạn này, Hồ Chí Minh vẫn là người vô hình đối với thế giới bên ngoài, một nhân vật huyền bí không được nguồn tin đáng tin cậy nào của phương Tây nói đến từ mùa thu năm 1947. Ở Hà Nội, có một số người dựa trên tin là ông ốm liên miên trong thời gian sau Chiến tranh thế giới thứ, đoán rằng ông đã chết và thậm chí còn bị đày ở Trung Quốc vì chống lại sự có mặt ngày càng tăng của Quân đội nhân dân Trung Hoa. Các nguồn tin tình báo của Pháp khẳng định rằng ông vẫn sống dựa vào bức ảnh của báo Nhân Đạo chụp khoảng tháng 7 năm 1952. Cuối cùng Giô-dép Xta-rô-bin, phóng viên tờ Công nhân hàng ngày đã gặp ông tại một địa điểm bí mật ở Việt Bắc tháng 3 năm 1953 và đăng bài phỏng vấn này lên báo của các nước nói tiếng Anh.
Tuy nhiên, ở vùng giải phóng, Hồ Chí Minh là người ai cũng biết đến, ông là nhà chiến lược chiến tranh, cổ động viên chính cho sự nghiệp cách mạng. Tháng 2 năm 1952, một tù binh Pháp được thả cho biết rằng người ta thấy ông Hồ ở khắp nơi, ở mặt trận, ở trong làng, trên đồng ruộng và trong các cuộc họp cán bộ địa phương. Ăn mặc như một nông dân, ông liên tục tiếp cận những người theo ông, đùa với họ và khuyến khích họ hy sinh tất cả vì mục tiêu chung. Mặc dù điều kiện sống ở vùng giải phóng có phần tốt hơn nhưng những tháng cuối cùng của Chiến tranh thế giới thứ hai, quân Pháp vẫn liên tục ném bom vùng này và cứ ba đến năm ngày thì ông Hồ phải thay đổi chỗ ở một lần để tránh bị phát hiện và bắt. Mặc dù đã hơn 60 tuổi, ông vẫn đi bộ 50 cây số mỗi ngày qua những đường núi ngoằn nghèo, trên lưng địu một gùi hàng. Ông dậy sớm tập thể dục. Sau khi làm việc, vào buổi tối ông chơi bóng chuyền, bơi và đọc sách.
Theo những tin tức lẻ tẻ của những người đào nhiệm hay tù binh được thả, tinh thần trong vùng giải phóng suy giảm và số người phàn nàn về điều kiện sống ngày càng tăng. Các nhà lãnh đạo Việt Minh đã buộc phải áp đặt lại chế độ lao động bắt buộc trong những vùng thuộc quyền kiểm soát của mình để thực hiện những dự án công. Theo chế độ này, người làm việc không được nhận lương ngoài một lượng lương thực rất nhỏ đủ ăn. Giới trí thức ngày càng lo sợ những buổi học chính trị và tự phê trong khi thuế thì cao, lao động tự nguyện và các trận ném bom không ngừng của quân Pháp làm nhân dân mất tinh thần. Tuy vậy, hầu hết các nhà quan sát đều cho rằng đa số cư dân địa phương tiếp tục ủng hộ Việt Minh vì đã có những cố gắng giành lại độc lập từ quân Pháp.
Chiến tranh leo thang, việc huy động quân và cung cấp lương thực ngày càng khó khăn hơn. Đến thời điểm này, nguồn nhân lực từ nông thôn hầu như đã cạn và bộ máy Việt Minh ở những thành phố lớn hầu như đã bị phá vỡ và Đảng buộc phải sử dụng các phương pháp mạng mẽ hơn để bắt lao động và bắt lính ở nông thôn. Có tin không chính thức là một số nông dân phải chuyển đi sinh sống ở vùng khác để trốn nghĩa vụ. Trong những năm đầu của cuộc xung đột, những đóng góp bằng thóc của nông dân theo nguyên tắc tự nguyện, sau này chính quyền buộc phải đánh thuế nông nhiệp là 15% hoa màu thu hoạch được hàng năm.
Một trong những khó khăn để huy động giúp đỡ và ủng hộ của nhân dân vùng nông thôn là thái độ bàng quan của nhiều nông dân đối với cuộc đấu tranh bởi vì họ không thấy được ý nghĩa của cuộc đấu tranh này đối với họ. Vào cuối những năm 40 đã có những biện pháp giảm địa tô, lãi suất tiền vay và phân phối lại đất của những người cộng tác với Pháp cho dân nghèo, nhưng những biện pháp này có kết quả rất hạn chế. Do vậy, nhiều địa chủ cảm thấy hoàn toàn an tâm khi không chú ý gì đến chỉ thị của Việt Minh hoặc tiếp tục ủng hộ quân Pháp trong một số trường hợp ở ngay trong vùng do cách mạng kiểm soát.
Đến thời điểm Hội nghị toàn quốc lần thứ hai của Đảng đầu năm 1951, những khó khăn này trở nên nghiêm trọng, cần phải có hành động và Trung ương Đảng đã thông qua một số biện pháp sửa đổi nhỏ. Nhưng những biện pháp quyết định vẫn không thể có được vì Đảng cố thực hiện chiến lược tạo dựng một mặt trận đoàn kết rộng rãi nhất có thể được chống kẻ thù chung là đế quốc. Mặc dù phương pháp giải quyết này chính là của Hồ Chí Minh, ngay cả Trường Chinh trong báo cáo của mình tại Đại hội đã thừa nhận rằng nhiệm vụ trọng yếu hiện tại là phản đế. Mặc dù phản phong cũng là nhiệm vụ rất quan trọng và “phải được thực hiện đồng thời với nhiệm vụ phản đế”, ông nói, nhiệm vụ này phải được thực hiện “từng bước” nhằm duy trì đoàn kết dân tộc trong cuộc đấu tranh chung. Do vậy, chính phủ đã không thực hiện chính sách trưng thu và phân phối lại toàn bộ đất đai do giai cấp địa chủ sở hữu. Tuy vậy, đến năm 1952, một số lãnh đạo có ảnh hưởng của Đảng đã bắt đầu lập luận rằng cần có những biện pháp triệt để hơn nữa để giành được sự ủng hộ của người nghèo ở nông thôn.
Tháng 1 năm 1950, một chỉ thị mới được công bố. Dựa trên kinh nghiệm của Trung Quốc trong thời kỳ nội chiến ác liệt nhất, chỉ thị này thông báo giảm tô mạnh và trưng thu đất của địa chủ không hợp tác tích cực trong kháng chiến. Toà án cải cách ruộng đất gồm nông dân cấp tiến được thành lập ở cấp xã tiến hành điều tra sở hữu đất đai trong xã để có thể phân chia lại. Các buổi phê bình công khai tương tự như các buổi “ôn nghèo kể khổ” ở Trung Quốc đã được tổ chức trong các xã giải phóng, khuyến khích người nghèo chỉ trích thái độ độc tài của các phần tử giàu có trong cộng đồng. Có những tin cho rằng trong một số trường hợp, do cố vấn Trung Quốc hối thúc, các nhà hoạt động Việt Minh đã hành quyết ngay những người bị buộc tội là phạm “tội phản dân”. Như tác giả Dương Văn Mai mô tả trong cuốn sách đầy hấp dẫn về những điều đã xẩy ra đối với gia đình bà trong cuộc xung đột. Cán bộ cải cách ruộng đất bắt giam những địa chủ bị buộc là đàn áp dân ngèo. Và rồi:
“Họ xử địa chủ tại phiên toà không chính thức, được chuẩn bị cẩn thận để những phiên toà này thể hiện ý chí của nhân dân. Khoảng 10 nông dân nghèo từng chịu đau khổ nhất và căm thù địa chủ nhất được chọn và chuẩn bị sẵn từ trước để tố cáo địa chủ trước toà. Khi nông dân lần lượt tố cáo dịa chủ ở toà, các nông dân ngèo khác sẽ hô to: “địa chủ cút đi” để tăng bầu không khí thù địch. Nếu là án tử hình, địa chủ sẽ bị hành hình ngay tại chỗ. Nếu là án tù, họ sẽ bị chuyển đi nơi khác. Tài sản của địa chủ phạm tội bao gồm đất đai, nhà cửa, trâu bò kéo và công cụ bị trưng dụng và phân phối lại cho những nông dân thiếu thốn nhất”.
Các nhà lãnh đạo Đảng hy vọng rằng những biện pháp như vậy sẽ làm nông dân nghèo nhất phấn khởi và khuyến khích họ tham gia kháng chiến. Ngày 4 tháng 6 năm 1953, đài phát thanh của Việt Minh đã truyền đi một bức thư mà theo đài là của một phụ nữ nông dân gửi cho Hồ Chí Minh:
‘Trong thời gian bị Pháp đô hộ, tôi và con tôi không có cơm ăn và cũng chẳng có áo mặc. Con của tôi phải đi ở đợ và tôi phải mót khoai và tìm củ mài để sống qua ngày…Cuối năm 1952, nông dân bắt đầu đấu tranh chống địa chủ bất lương và sấu xa…Nhờ có Chủ tịch, chúng tôi mới có cuộc sống dễ chịu. Chúng tôi không bao giờ quyên ơn này”.
Với các phần tử cấp tiến thì những biện pháp này chưa đủ vì số nông dân không có ruộng đất ở vùng giải phóng dù đã giảm nhưng vẫn ở mức 15% dân số. Tại Hội Nghị Nông nghiệp toàn quốc tháng 11, Trường Chinh đề xuất phải có chính sách cứng rắn hơn và đệ trình dự án luật cải cách ruộng đất mới cho phép tịch thu ruộng đất và tài sản của toàn bộ giai cấp địa chủ.
Thái độ của Hồ Chí Minh với dự án luật này chưa bao giờ rõ ràng, mặc dù rất có thể là ông đã có lập luận chống lại chương trình cải cách ruộng đất được tiến hành chặt chẽ đến mức phân hoá các phần tử trung dung. Tuy nhiên, nhu cầu về nhân lực của cách mạng cuối cùng đã thắng thế. Trong một diễn văn đọc trước Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vài tuần sau Hội nghị Nông nghiệp toàn quốc, ông Hồ công nhận rằng các chính sách trước đó của chính phủ chú ý quá nhiều đến quan điểm của giai cấp địa chủ mà không chú ý đầy đủ đến mỗi quan tâm của nông dân. Tháng sau, luật cải cách ruộng đất mới quy định thực hiện việc giảm tô và trưng thu đất đai của toàn bộ giai cấp địa chủ. Địa chủ được xếp là tiến bộ về mặt chính trị sẽ được đền bù bằng công trái nhà nước, nhưng vẫn phải từ bỏ toàn bộ ruộng đất của mình ngoài phần cần thiết để sống. Địa chủ bị buộc tội là cường hào ác bá sẽ bị trừng trị. Mục tiêu của luật mới này không những chỉ nhằm giành được sự ủng hộ của nông dân mà còn phá bỏ quyền lực của giai cấp địa chủ ở nông thôn. Tuy chương trình cải cách ruộng đất quy định tiến hành cải huấn cho địa chủ không bị buộc tội là phản dân, trên thực tế những quy định này không được các cán bộ đầy tham vọng cấp xã chú ý đến. Lần đầu tiên kể từ cuộc nổi dậy Nghệ Tĩnh năm 1930-1931, Đảng đã quyết định mở cuộc đấu tranh giai cấp ở nông thôn.
Tháng 1 năm 1953, Ai-xen-hao trở thành Tổng thống thứ 34 của Hoa Kỳ. Trong khi tranh cử, ông đưa ra Cương lĩnh “đẩy lùi cộng sản” và lãnh đạo Đảng Cộng Hoà chỉ trích việc mất Trung Hoa và tình thế tiến thoái lưỡng nam ở Triều Tiên và coi đó là di sản của Tổng thống Dân chủ trước đó. Trong diễn văn tình hình liên bang đầu tháng 2, Ai-xen-hao hầu như chẳng đề cập đến Đông Dương, mà chỉ nói rằng cuộc chiến tranh Triều Tiên là “một phần của cuộc tấn có tính toán trước của kẻ địch ở Đông Dương và Ma-lai-xi-a và một phần của tình hình chiến lược rõ ràng bao gồm Đài Loan và lực lượng Quốc dân Đảng đang chiếm giữ tại đó”. Trong khi hội đàm với Thủ Tướng Pháp Rơ-nê May-ê tại Nhà Trắng cuối tháng 3. Tổng thống Mỹ mới cho biết rằng ông sẵn sàng tăng viện trợ cho quân Pháp với điều kiện là nếu quân Pháp chứng tỏ ý chí giải quyết vấn đề mạnh bạo hơn trong công cuộc tìm kiếm thắng lợi cuối cùng ở Đông Dương.
Tuy nhiên, Pháp từ lâu đã từ bỏ ý định này. Ngay từ đầu tháng 12 năm 1949, tướng Các-păng-chi-lê đã cảnh báo Tổng thống Vanh-xăng Ô-ri-ô là nhiều nhất thì Pháp cũng chỉ có thể đạt được một giải pháp chính trị. Việc quân Pháp rút khỏi vùng biên giới một năm sau đó thể hiện sự chấp nhận ngầm quan điểm bi quan của Các-păng-chi-ê. Việc cử tướng Đơ-Lát Đơ Tát-xi-nhi chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương cuối năm 1950 đã làm cho mọi người tin rằng quân Pháp có thể thắng cộng sản, việc tướng Tát-xi-nhi về nước và cử tướng Xa-lăng thay thế một năm sau đã làm cho các tướng lĩnh và các nhà chính trị Pháp chỉ còn thấy giải pháp chính trị mà thôi.
Để nhận viện trợ của Mỹ nhằm cải thiện vị thế của mình trước khi có giải pháp thương lượng, quân Pháp cần phải chứng minh rằng họ đã có cách giải quyết vấn đề mạnh hơn. Trách nhiệm thuyết phục Nhà trắng tăng viện trợ quân sự của Mỹ nay thuộc về chỉ huy mới của Pháp là tướng Hăng-ri Na-va. Là tổng tham mưu trưởng lực lượng NATO của Pháp tại châu Âu, Na-va hoàn toàn không phải là người Oa-sinh-tơn ưa để thay Xa-lăng vì ông có tiếng là thận trọng và thậm chí không quyết đoán. Sau khi được cử làm chỉ huy lực lượng viễn chinh Pháp, Na-va đã cố giảm bớt mối nghi ngờ về mình bằng cách đưa ra một chiến lược đầy tham vọng giành thế chủ động trong chiến trận Đông Dương.
Việc May-ê tỏ ra có vẻ có lập trường mạnh bạo đối với Đông Dương có kết quả rất hạn chế ở OA-sinh-tơn và Oa-sinh-tơn vẫn nghi ngờ ý định của Pháp. Đầu tháng 8 năm 1953, một bài báo của tạp chí Đời sống chỉ trích mạnh mẽ những nỗ lực của Pháp ở Đông Dương và khẳng định rằng Pháp “đã thua”. Tuy vậy, chính quyền mới ở Oa-sinh-tơn không có mấy lựa chọn nữa. Tham mưu trưởng liên quân đã đồng ý với kế hoạch Na-va và tháng 9 chính quyền Ai-xem-hao ký hiệp ước mới tăng viện trợ của Mỹ cho lực lượng viễn chinh Pháp. Tuy vậy, Pa-ri đánh giá tình hình không khả quan. Rơ-nê Pơ-lê-ven, Bộ trưởng Quốc phòng Pháp, cảnh báo rằng kế hoạch Na-va là không thực tế và tháng 7 sứ quán Mỹ tại Pa-ri cho biết chính phủ Pháp đã không chấp nhận đề nghị của tướng Na-va chuyển từ châu Âu sang thêm 12 tiểu đoàn. Sự ủng hộ của dân chúng đối với cuộc chiến tranh giảm sút nhanh chóng và khi tin tức về hiệp định viện trợ được thông báo tại Pa-ri ngày 29 tháng 9, những người chỉ trích cuộc chiến tranh lại nói rằng máu của người Pháp đang được đổi lấy đô-la-Mỹ.
Kế hoạch Na-va dự kiến sẽ phát huy tác dụng vào mùa thu và mùa hè năm 1954. Trong thời gian này, quân Pháp sẽ thực hiện chính sách phòng ngự, đồng thời củng cố vị trí của mình ở đồng bằng sông Hồng và các khu vực trọng yếu khác ở Việt Nam. Một trong những khu vực trọng yếu này là ở vùng Tây Bắc xa xăm, khu vực bị các đơn vị Việt Minh chiếm giữ từ mùa thu năm 1952 làm bàn đạp tấn công Lào. Tháng 11 năm 1953 theo lệnh của Pa-ri phải bảo vệ thủ đô Luông pha bang của Lào khỏi sự đe doạ của địch, Na-va quyết định chiếm giữ cứ điểm Điện Biên Phủ, một huyện lỵ nhỏ trong thung lũng núi xa xăm gần biên giới với Lào và coi đó là cách làm gián đoạn liên kết giữa Trung và Bắc Lào của Vịêt Minh. Huyện lỵ này trước đây đã bị Việt Minh chiếm giữ trong chiến dịch Tây Bắc. Giờ đây , quân Pháp nhảy dù xuống để chiếm lại. 
Trong khi tướng Na-va cố thực hiện giai đoạn đầu chiến lược của mình, các nhà chiến lược Việt Minh cũng vạch ra kế hoạch tác chiến cho chiến dịch năm 1953. Tại một cuộc họp Trung ương đầu năm , các nhà hoạch định chính sách của Đảng đã quyết định tránh đối đầu công khai với lực lượng thù địch trong tương lai gần đồng thời tìm điểm yếu trong lá chắn của địch, đặc biệt là ở Lào, Cam-pu-chi-a và vùng Tây Bắc. Chiến lược này không thay đổi trong cả năm, thậm chí ngay cả khi Na-va đã quyết định một cách rõ ràng là phải tập trung lực lượng ở đồng bằng sông Hồng để ngăn chặn mối đe doạ của Việt Minh đối với vùng phụ cận Hà Nội. Ông Võ Nguyên Giáp đề xuất tiến hành chiến dịch lớn ở đồng bằng với mục tiêu cuối cùng là đánh chiếm Hà Nội và Hải Phòng, những cố vấn Trung Quốc lại muốn có chiến lược thận trọng hơn tập trung vào vùng núi Tây Bắc. Hồ Chí Minh ủng hộ ý kiến của các cố vấn Trung Quốc và Bộ Chính trị đã chấp thuận ý kiến này vào tháng 9. Kế hoạch này dự kiến sẽ được khẳng định tại một cuộc họp của Quận uỷ Trung ương tháng 11.
Tin quân Pháp chiếm đóng Điện Biên Phủ đến tổng hành dinh của Việt Minh trong lúc các nhà chỉ huy quân sự đang chuẩn bị trình Quân uỷ Trung ương kế hoạch tấn công Pháp ở Lai Châu, vị trí quân sự biệt lập cách Điện Biên Phủ 50 cây số về hướng Bắc. Với các nhà lãnh đạo Việt Minh, nếu Việt Minh chiếm lại căn cứ này thì sẽ tác động tới tinh thần quân Pháp và chuẩn bị cho những bước tiếp theo trong những năm tới. Khu vực này cũng có những lợi thế chiến lược. Cách Hà Nội 320 cây số, quân Pháp sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp viện cho Điện Biên Phủ.
Mặt khác, đánh Điện Biên Phủ sẽ là lần đầu tiên Việt Minh tấn công trực diện một căn cứ được lực lượng Pháp bảo vệ vững chắc. Tuy vậy, Điện Biên Phủ nằm ở thung lũng, gần biên giới với Trung Quốc và tổng hành dinh Việt Minh ở Việt Bắc cho phép Việt Minh dễ dàng chuyển khối lượng lớn vật dụng từ Trung Quốc. Sau khi tính toán kỹ lưỡng các khả năng và được cố vấn Trung Quốc và cấp trên ở Bắc Kinh khuyến khích, ngày 6 tháng 12, lãnh đạo Đảng quyết định tập trung nỗ lực trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Trong năm đó , lãnh đạo Đảng bắt dầu bí mật chuyển ba sư đoàn chủ lực mới được thành lập ở vùng núi quanh Điện Biên Phủ trong khi các đơn vị khác tiến vào Bắc Lào để đánh lạc hướng và buộc quân Pháp phải dàn trải lực lượng của mình.
Tại sao các nhà lãnh đạo Trung Quốc lại đột nhiên quyết định kêu gọi khẩn thiết đồng minhViệt Minh tham gia vào cuộc đụng đầu lớn với quân Pháp? Nghĩ cho cùng quyết định tấn công Điện Biên Phủ sẽ buộc Trung Quốc phải tăng viện trợ cả về chất và lượng; điểm mấu chốt dẫn đến thành công sẽ là khả năng pháo cao xạ của Việt Minh có thể làm yếu đi hoặc ngăn được quân Pháp tiếp viện và cung ứng cho khu vực này khi chiến sự leo thang. Mặc dù Bắc Kinh đã viện trợ cho Việt Minh trong cuộc chiến suốt ba năm và thấy được điểm lợi là vừa hoàn thành nghĩa vụ quốc tế Trung Quốc và bảo vệ biên giới phía Nam chống lại sự kiểm soát của đế quốc, trong những tháng đó các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã bắt đầu suy nghĩ. Tháng 7, ngừng bắn đã có hiệu lực ở bán đảo Triều Tiên. Trung Quốc đã trả giá cao cho hành động can thiệp của Quân Giải phóng Nhân dân và đã có dấu hiệu chứng tỏ các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã quyết định tìm cách cải thiện quan hệ với phương Tây để giảm bớt nguy cơ xung đột trong tương lai và tạo điều kiện cho chính phủ chuyển những nguồn lực hiếm hoi cho kế hoạch 5 năm tới. Trong môi trường mới, cách nhìn nhận ngày tận thế của Mao Trạch Đông về chiến tranh với đế quốc tất yếu ở châu Á đã mất đi sức mạnh. Trong một cuộc phỏng vấn ngày 24 tháng 8, Thủ tướng và Bộ trưởng Ngoại giao Chu Ân Lai tuyên bố rằng “các vấn đề khác” có thể được bàn đến tại Hội nghị hoà bình nhằm chấm dứt cuộc xung đột ở Triều Tiên. Tháng 12, ông thảo luận với các thành viên của một phái đoàn Ấn Độ về ý tưởng có một thoả thuận chung dựa trên những điều mà sau này trở thành “năm nguyên tắc chung sống hoà bình” giữa các quốc gia. Oa-sinh-tơn đã đáp lại một cách tế nhị khi Bộ trưởng Ngoại giao Đa-lét, trong một diễn văn cho đội quân lê dương Mỹ đầu tháng chín, đã gián tiếp nói rằng “Hoà Kỳ sẵn sàng xem xét một thoả thuận đàm phán để chấm dứt xung đột ở Đông Dương”.
Mát-xcơ-va cũng ngày càng quan tâm nhiều tới việc chấm dứt xung đột ở Đông Dương. Thủ tướng Liên Xô mới, ông Gioóc-gi Ma-len-cốp, đã trở thành nhân vật trên chính trường sau khi Giô-dép Xta-lin chết tháng ba. Ông có lý do phải có quan hệ tốt với phương Tây, kể cả việc phải giảm bớt ngân sách quốc phòng đã phình to để tập trung nguồn vốn hiếm hoi vào các dự án kinh tế. Cuối tháng 9, Liên Xô đề nghị họp hội nghị năm nước lớn nhằm giảm bớt tình hình căng thẳng quốc tế. Một vài ngày sau, Trung Quốc cũng làm như vây.
Quân Pháp chiếm Điện Biên Phủ đúng lúc các nhà lãnh đạo Trung Quốc (giống các nhà lãnh đạo Liên Xô) quyết định mở cuộc tấn công hoà bình nhằm đưa lại giải pháp đàm phán ở Đông Dương. Thắng lợi của Việt Minh ở Điện Biên Phủ có thể sẽ làm tình hình trong khu vực căng thẳng thêm khiến Hoa Kỳ can thiệp trực tiếp. Mặt khác, điều này có thể làm tăng thêm phong trào chống chiến tranh ở Pháp và tạo điều kiện cho một hiệp định hoà bình có lợi cho Việt Minh và Trung Quốc. Với Bắc Kinh, họ sẵn sàng chấp nhận nước cờ rủi ro này.
Trong khi Hồ Chí Minh và các cộng sự của ông chắc hẳn đã biết ơn Trung Quốc vì đã tăng cường giúp đỡ chiến dịch Tây Bắc, trước một loạt biểu hiện mong muốn có đàm phán hoà bình của các nước trên thế giới, Tổng hành dinh Việt Minh chắc đã có phản ứng thận trọng. Trong những tháng đầu của cuộc chiến khi Việt Minh rõ ràng yếu hơn kẻ thù của mình, ông Hồ đã bằng mọi cách cố gắng đạt được một giải pháp thoả hiệp. Điều kiện trên mặt trận ngày càng được cải thiện và Pháp rõ ràng không còn tìm kiếm một thắng lợi hoàn toàn thì rất có thể các nhà lãnh đạo Việt Minh cũng không mặn mà gì nữa với một thoả hiệp. Trong khi nói chuyện với ông Lê-ô Phi-ghe-rơ của Đảng Cộng sản Pháp tháng 3 năm 1950, ông Hồ nhấn mạnh rằng tuy vẫn muốn có một giải pháp thông qua thương lượng nhưng các nhà lãnh đạo Đảng không muốn có thoả hiệp lớn. Ông Trường Chinh thậm chí còn có thái độ thù địch hơn. Trong diễn văn kỷ niệm sáu năm ngày thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tháng 9 năm 1951, ông Trường Chinh cảnh báo rằng Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẽ không bị dụ dỗ vào bàn đàm phán và nhất mực cho rằng cần phải “xoá bỏ mọi ảo tưởng của những kẻ cơ hội về đàm phán hoà bình với kẻ thù”. Khi Pa-ri có những bước thăm dò về một giải pháp thoả hiệp cuối năm 1952, Việt Nam Dân chủ Cộng hóa đã không để ý tới. Đến tháng 9 năm 1953, Hãng thông tấn (TASS) của Liên Xô đã đưa tin rằng trong diễn văn kỷ niệm lần thứ 8 ngày thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Hồ Chí Minh đã tuyên bố rằng chỉ có thắng lợi trên chiến trường mới đem lại hoà bình.
Tuy nhiên, vài tuần sau các nhà lãnh đạo Đảng Việt Nam quyết định theo đề nghị của Mát-xcơ-va và Bắc Kinh là tìm một giải pháp chính trị. Trong một bài phỏng vấn ngày 20 tháng 10 với phóng viên tờ Expesse của Thuỵ Điển, ông Hồ tuyên bố rằng chính phủ sẵn sàng tham dự hội nghị quốc tế nhằm tìm giải pháp hoà bình cho Đông Dương. Ông Hồ nói “Nếu chính phủ Pháp mong muốn đình chiến và giải quyết vấn đề Việt Nam thông qua thương lượng, thì nhân dân và chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẵn sàng xem xét đề nghị của Pháp”. Cuộc phỏng vấn này được báo chí thế giới đưa tin nhiều lần. Ít lâu sau, Bắc Kinh công khai bày tỏ sự dồng ý trong một xã luận của báo Nhân dân Nhật báo. Theo một nguồn ngoại giao Mỹ ở Sài Gòn, đề nghị tiến hành đàm phán hoà bình của ông Hồ đã gây ra một sự “khó hiểu, kinh ngạc và sợ hãi” trong những người Việt không cộng sản ở Sài Gòn.
Là người có đầu óc thực tế, Hồ Chí Minh biết rằng một giải pháp thông qua thương lượng là một khả năng tiến tới chấm rứt chiến tranh. Việc Hoa Kỳ tháng 7 năm 1953 quyết định tìm cách chấm dứt xung đột ở Triều Tiên là dấu hiệu an ủi cho thấy rằng đế quốc sẵn sàng nhượng bộ khi gặp phải khó khăn, tin tức này đã làm Việt Minh hy vong rằng Đông Dương có thể có một kết cục tương tự. Nhưng trong một bài diễn văn đọc trước một nhóm trí thức ở Việt Bắc sau đó vài tuần, ông Hồ lại cảnh báo rằng không nên có ảo tưởng là hoà bình sẽ đến một cách dễ dàng. Cũng như người Mỹ, người Pháp không sẵn sàng có nhượng bộ lớn trên bàn đàm phán trừ khi thua trên chiến trường. Ông cảnh báo rằng quân địch “đang bẫy chúng ta bằng mồi, nếu chúng ta vội vã như đàn cá và quên phải cảnh giác để tự vệ, chúng sẽ đánh bại”. Do vậy, điều quan trọng là phải cảnh giác và tiếp tục đấu tranh, thậm chí ngay cả khi Mỹ quyết định tham gia xung đột.
Trong tình hình như vậy, thậm chí ngay cả khi ông tỏ ý sẵn sàng tham gia hoà đàm, ông Hồ chắc phải có chút nghi ngờ vì điều kiện cho thắng lợi chưa hoàn toàn chín muồi như ông đã nêu với cộng sự của mình trong cuộc gặp tháng 11. Đồng thời, thái độ của Liên Xô và Trung Quốc là đáng lo ngại. Ủng hộ của Liên Xô đối với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam là cầm chừng, và do vậy không hy vọng gì nhiều từ Mát-xcơ-va. Nhưng sự ủng hộ vững chắc của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa là một phần trọng yếu trong chiến lược của Việt Minh, do vậy bất kỳ dấu hiệu nào chứng tỏ Bắc Kinh sẵn sàng thoả hiệp vấn đề này vì lợi ích dân tộc của họ chắc sẽ làm ông Hồ và cộng sự của ông ở Việt Bắc càng lo lắng hơn.
Mặt khác, Hồ Chí Minh biết rằng Việt Minh không thể tiếp tục đấu tranh lâu dài nếu không có sự hỗ trợ hoàn toàn của Trung Quốc. Đây không phải là lần đầu ông Hồ chấp nhận phải nhượng bộ để tiếp tục chiến đấu. Về phần mình, Mát-xcơ-va và Bắc Kinh hầu như chẳng cần sự đồng ý của Hà Nội để bảo vệ lợi ích an ninh quốc gia của mình. Tại một Hội nghị tổ chức đầu năm 1954 ở Béc-lin, đại biểu các nước lớn thoả thuận rằng một hội nghị quốc tế khác sẽ được tổ chức tại Giơ-ne-vơ tháng 4 để thảo luận các vấn đề liên quan đến hoà bình thế giới. Tuy chính quyền Ai-xen-hao khó chịu, Đông Dương và tình hình ở Triều Tiên đều nằm trong đề mục thảo luận. Tháng ba, một phái đoàn Việt Nam đến Bắc Kinh tham khảo ý kiến các quan chức Trung Quốc và xây dựng một chiến lược chung tại Giơ-ne-vơ. Ít lâu sau, một phái đoàn Việt Nam do Hồ Chí Minh dẫn đầu đi Bắc Kinh và Mát-xcơ-va để hoạch định chiến lược đàm phán chung với các nhà lãnh đạo Trung Quốc và Liên Xô. Dựa trên kinh nghiệm đàm phán với Mỹ nhằm chấm dứt xung đột ở Triều Tiên, Trung Quốc và Liên Xô khuyên Việt Nam phải có mục tiêu “thực tế” tại Hội nghị Giơ-ne-vơ.
Hai ngày sau khi Hội nghị Giơ-ne-vơ được công bố triệu tập, nguồn tin tình báo Pháp cho hay đơn vị Việt Minh ở thượng Lào đã chuyển quân theo hướng đông về Điện Biên Phủ. Mặc dù hoạt động của Việt Minh còn được tiến hành ở nhiều nơi khác như Bắc Bộ, Tây Nguyên, Lào và hành lang Hà Nội-Hải Phòng-vào đầu tháng 3, tài liệu do Pháp bắt được cho thấy rằng Việt Minh đang chuẩn bị tấn công lớn ở vùng Tây Bắc và cuộc tấn công này sẽ phối hợp với cuộc đàm phán sắp tới tại Giơ-ne-vơ. Có thêm những dấu hiệu chứng tỏ viện trợ quân sự của Trung Quốc cho Việt Minh đã tăng nhiều, tăng khả năng Việt Minh thắng trận.
Lần nay, nguồn tin tình báo của Pháp đã đúng. Bắt đầu từ tháng 12, các đơn vị Việt Minh đã dần tập trung ở vùng núi bao quanh căn cứ của Pháp tại Điện Biên Phủ, trong khi hàng ngàn dân công được huy động để chuyển đạn dược và pháo cao xạ từ biên giới Trung Quốc đến khu vực này. Một người tham gia đã kể lại cho một nhà báo Mỹ:
“Chúng tôi phải vượt núi, băng rừng, ban đêm thì hành quân còn ban ngày thì ngủ để tránh bom của kẻ thù. Có lúc chung tôi ngủ hầm, có lúc chúng tôi ngủ ngay cạnh đường. Mỗi chúng tôi đeo súng, đạn và ba-lô. Chúng tôi có chăn, màn và một bộ quần áo. Mỗi người đều có đủ gạo ăn một tuần và được nhận thêm tại các trạm dọc đường. Chúng tôi ăn rau và măng lấy trong rừng và thỉnh thoảng dân làng lại cho chúng tôi thịt. Tôi đã tham gia Việt Minh chín năm rồi nên quen như vậy”.
Để mang lại điều thuận lợi cần thiết trên chiến trường nhằm đạt được một giải pháp hoà bình tại bàn hội nghị, trong vài tháng liền Trung Quốc tăng viện trợ quân sự. Theo một nguồn tin của Trung Quốc, hơn 2.00 xe tải, 10.000 thùng dầu, hơn 100 súng ca-nông, 60.000 đạn cao xạ, 3.000 súng và khoảng 1.700 tấn ngũ cốc đã được chuyển cho quân đội Việt Nam cố thủ quanh Điện Biên Phủ. Để khuyến khích cố vấn Trung Quốc ở Việt Nam cố đạt được thắng lợi quân sự, Chu Ân Lai Gửi thông điệp sau: “ Nhằm giành thắng lợi trong lĩnh vực ngoại giao, chúng ta có thể cần phải tính đến việc giành thắng lợi mạnh ở Việt Nam trước đình chiến ở Triều Tiên”. Hồ Chí Minh hiểu rõ điều này. Trong một bức thư gửi ông Giáp tháng 12, ông viết: “Chiến dịch này rất quan trọng, không chỉ về mặt quân sự mà còn về mặt chính trị, không chỉ vì lý do trong nước mà còn vì lý do quốc tế nữa. Do vậy, toàn thể nhân dân ta, toàn thể lực lượng vũ trang ta và toàn thể Đảng ta phải đoàn kết để thực hiện việc này.”
Với ông Hồ và các cộng sự của ông, vấn đề không còn là liệu có tấn công cứ điểm quân Pháp hay không mà làm thế nào mà tấn công được. Ông Võ Nguyên Giáp vốn thận trọng ủng hộ kế hoạch làm suy yếu quân địch, sử dụng pháo binh bắn phá sân bay nhỏ ở thung lũng Điện Biên Phủ và cắt đường tiếp tế của quân Pháp. Quân Việt Minh sau đó có thể dần vô hiệu hoá hỏa lực của quân Pháp và chiếm từng cứ điểm bên ngoài căn cứ. Theo các nguồn tin Việt Nam, tướng Hoa Quốc Thanh, cố vấn cao cấp của trung Quốc, đã ủng hộ cách giải quyết khác, tiến hành cuộc tấn công thần tốc dựa trên chiến thuật “biển người” đã được các đơn vị giải phóng sử dụng rất có hiệu quả chống lại quân của Liên hợp quốc tại Triều Tiên.
Cuộc tấn công đầu tiên của Việt Minh vào Điện Biên Phủ bắt đầu vào giữa tháng một. Việt Minh đã tập trung 23 tiểu đoàn chính quy bao gồm 50.000 quân ở vùng núi quanh cứ điểm. Số quân này đối chọi với kẻ địch gồm 16.000 quân. Ngoài lực lượng chính quy, Việt Minh có hơn 55.000 quân hỗ trợ và khoảng 100.000 dân công. Nhiều dân công là phụ nữ ở các tỉnh miền trung đã phải đi qua khu vực địch chiếm ở đồng bằng sông Hồng để đến được khu tập kết dọc biên giới Trung Quốc. “Đội quân tóc dài” này mang vác pháo và phương tiện chiến tranh khác hàng trăm dặm đường địa hình khó khăn đến khu vực căn cứ. Mỗi dân công chuyển trung bình 15 cân hàng qua 16 cây số đường rừng mỗi đêm. Tuy hầu hết hàng cung cấp là xăng dầu và đạn dược, nhưng cũng còn có những khẩu pháo lớn của Liên Xô được chuyển từng bộ phận từ biên giới Trung Quốc ở Lạng Sơn, cách hơn 300 cây số.
Trong giai đoạn đầu, những người tấn công đã theo lời khuyên của Trung Quốc sử dụng chiến thuật “biển người”, nhưng tổn nặng nề đến mức cuối tháng một, Bộ Tư lệnh Việt Nam (theo kêu gọi khẩn thiết của Bắc Kinh) đã đánh giá lại tình hình và quyết định chuyển sang cách đánh thận trọng hơn. Trong vài tuần sau đó, quân Việt Minh đào mấy trăm cây số giao thông hào để tiến vào hệ thống phòng thủ bên ngoài của Pháp mà không bị hoả lực của Pháp khống chế. Đồng thời quân Việt Minh cũng đào một loạt đường hầm quanh cứ điểm đã bị bao vây. Pháo được dân công chuyển từ biên giới Trung Quốc từng phần đến đã được lắp ráp lại tại chỗ và đặt bên trong đường hầm; pháo có thể di động nhanh giữa các địa điểm khác nhau, ngăn không cho quân Pháp dưới cứ điểm phát hiện chính xác điểm bắn.
Lúc đầu, hàng tiếp tế và quân tiếp cận đến bằng đường không, nhưng rồi sân bay bên ngoài căn cứ không thể sử dụng được nữa vì bị bắn phá rất ác liệt. Máy bay hạ cánh để dỡ đồ tiếp tế hầu như bị pháo của Việt Minh từ núi bao quanh cứ điểm bắn phá. Ít lâu sau, phi công Pháp buộc phải bay vội qua thung lũng và thả dù tiếp tế và tiếp viện. Cuối cùng hoả lực của Việt Minh mạnh đến mức quân tiếp viện nhảy dù xuống thường chết trước khi xuống được đến đất.
Tình hình càng nguy hiểm, quân Pháp càng khẩn thiết cầu cứu viện trợ của Mỹ. Vào giữa tháng 3, Pa-ri cử tướng Pôn Ê-ly đến Oa-sinh-tơn yêu cầu Mỹ tiến hành không kích để giảm căng thẳng cho cứ điểm của Pháp và bảo vệ cho cứ điểm này khỏi nguy cơ sụp đổ. Đề nghị này được đô đốc A-thơ-Rét-pho, Chủ tịch Tham mưu trưởng liên quân và Phó Tổng thống Nich-xơn ủng hộ. Trong một cuộc nói chuyện với Đại sứ Pháp Hăng-ri Bô-nê ngày 28 tháng 4, Ních-xơn tuyên bố “ông hoàn toàn nhất trí với quan điểm của Đô đốc Rét-pho và ủng hộ máy bay Mỹ can thiệp ồ ạt để cứu Điện Biên Phủ”. Nhưng Tổng thống Ai-xen-hao, do ý nguyện tham gia cuộc chiến trên bộ ở châu Á của ông đã giảm vì kết cục không dứt khoát của hành động can thiệp tại bán đảo Triều Tiên, lại chần chừ không muốn đưa quân vào Đông Dương nếu không bảo đảm rằng cuộc chiến đấu sẽ được thực hiện trên cơ sở đa phương và với điều kiện là Pháp phải hứa sẽ trao quyền độc lập hoàn toàn cho ba nước Đông Dương. Trong chuyến đi Luân Đôn, Pa-ri, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Đa-lét phát hiện ra rằng cả Anh lẫn Pháp đều không đồng ý với điều kiện của Mỹ; Ai-xen-hao sau đó đã không chấp nhận yêu cầu của Pháp cung cấp yểm trợ bằng máy bay tuy vẫn thăm dò khả năng Mỹ can thiệp. Ai-xem-hao cũng chần chừ không muốn có một giải pháp thoả đáng trên bàn hội nghị.
Đầu tháng 5, Việt Minh thâm nhập vào tuyến phòng thủ bên ngoài của cứ điểm Điện Biên Phủ và bắt đầu bắn pháo vào các điểm bên trong. Theo nguồn tin của Trung Quốc, cuối cùng lòng tin của các nhà hoạch định kế hoạch chiến tranh của Việt Minh bị nao núng vì tổn thất lớn và mối đe doạ can thiệp của Mỹ. Với sự cổ vũ mạnh mẽ của Bắc Kinh, Việt Minh cuối cùng quyết định tấn công toàn bộ cứ điểm giành thắng lợi. Cuộc tấn công diễn ra ngày 6 tháng 5. Ông Võ Nguyên Giáp đã miêu tả một cách ngắn gọn là “bộ đội tấn công từ mọi phía, chiếm tổng hành dinh của địch và bắt sống toàn Bộ tham mưu” Quân Pháp thất bại hoàn toàn. Hơn 1.500 quân lính Pháp bị chết, 4.000 bị thương và số còn lại bị bắt làm tù binh hay mất tích. Khoảng 70 quân Pháp thoát trở về phòng tuyến của mình. Tổn thất của Việt Minh lớn hơn nhiều, 25.000 bị chết và bị thương, trong đó có 10.000 bị chết.
Ngày 7 tháng 5, một ngày sau khi quân Pháp đầu hàng tại Điện Biên Phủ, đàm phán hoà bình để giải quyết cuộc xung đột Đông Dương bắt đầu như đã định tại Giơ-ne-vơ. Tham dự hội nghị có đoàn đại biểu của Pháp, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Anh, Liên Xô, Trung Quốc và Hoa Kỳ cũng như đại diện chính phủ Bảo Đại, đại diện của chính phủ hoàng gia Cam-pu-chi-a và Lào, bấy giờ gọi là nước liên hiệp. Các nhà lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, thể hiện cảnh báo trước đây của Hồ Chí Minh cho rằng thắng lợi sẽ không dễ dàng, đến Hội nghị với thái độ thận trọng tuy nhiên họ cảm thấy rằng đó là cơ hội có những bước tiến quan trọng trong cuộc đấu tranh để hoàn toàn thống nhất đất nước.
Tại phiên khai mạc Hội nghị, phái đoàn Pháp đã nêu điều kiện cho một giải pháp, kêu gọi cả hai bên tập kết quân dưới sự giám sát của Uỷ ban Kiểm soát quốc tế. Ông Phạm Văn Đồng, đứng đầu đoàn đàm phán của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (cũng như tại Hội nghị Phông-ten-nơ-bơ-lô năm 1946) chấp nhận đề nghị của Pháp cần có ngừng bắn trước khi có giải pháp về các vấn đề chính trị, nhưng trong tất cả các lĩnh vực khác, điều kiện (do Bộ Chính trị soạn thảo) của ông khác hẳn với đề nghị của Pháp. Ông đòi quốc tế công nhận chủ quyền và độc lập hoàn toàn của ba nước Đông Dương, rút hết quân đội nước ngoài và tổ chức tuyển cử tự do dưới sự giám sát của chính quyền địa phương. Ngoài ra, ông còn yêu cầu đại diện của phong trào cách mạng Lào và Cam-pu-chi-a (mọi người vẫn gọi là Pa-thet Lào và Khơ-me đỏ) được dự Hội nghị với tư cách là đại diện của nhân dân hai nước này. Ông Đồng đã đồng ý xem xét khả năng gia nhập Liên hiệp Pháp dựa trên cơ sở tự nguyện và công nhận quyền lợi kinh tế và văn hoá của Pháp tại ba nước Đông Dương.
Pa-ri không còn khả năng mặc cả được gì. Các nguồn tin tình báo Pháp công khai dự đoán rằng Hà Nội có thể thất thủ nếu Việt Minh tấn công mạnh. Oa-sinh-tơn cũng có quan điểm bi quan như vậy. Tại một buổi thông báo tình hình của Hội nghị an ninh quốc gia ngày 8 tháng 5, giám đốc CIA A-len Đun dự rằng với 5.000 chiếc xe tải, quân Việt Minh có thể di chuyển dễ dàng từ Điện Biên Phủ đến đồng bằng Bắc Bộ trong vòng từ hai đến ba tuần. Mặc dù lực lượng vũ trang của Pháp ở đồng bằng là 200.000 quân so với 76.000 quân chủ lực của Việt Minh, hầu hết quân Pháp có tinh thần suy sụp và nằm bẹp trong đồn xung quanh toàn là dân cư thù địch hoặc không quan tâm gì. Còn quân đội quốc gia Việt Nam do chính phủ Bảo Đại thành lập sau khi ký Hiệp ước Ê-li-dê, như tướng Na-va gọi họlà “lũ ô hợp”.
Tuy nhiên, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà gặp khó khăn nghiêm trọng tại Hội nghị. Mặc dù đại diện Việt Minh đã gặp đại diện của Trung Quốc và Liên Xô trước Hội nghị để soạn thảo chiến lược đàm phán chung, điều rõ ràng là cả Mát-xcơ-va và Bắc Kinh đều không muốn ủng hộ Việt Minh tiếp tục cuộc chiến, và họ cũng chẳng sẵn sàng đáp ứng hoàn toàn mọi yêu cầu của Việt Minh. Cả hai đều chú ý đến lợi ích an ninh của chính mình tại Giơ-ne-vơ và đều mong tránh phải đụng đầu với Hoa Kỳ. Sau khi các cuộc tranh cãi ban đầu lắng đi, rõ ràng cả Ngoại trưởng Liên Xô, ông Vi-a-chê-láp Mô-lô-tốp và trưởng phái đoàn Trung Quốc tại Hội nghị, ông Chu Ân Lai đều mong có thoả hiệp dựa trên việc chia cắt Việt Nam thanh hai khu vực tập kết, một do Việt Minh chiếm giữ và một do chính phủ Bảo Đại và những người ủng hộ chính phủ này chiếm giữ. Hơn nữa, sau thời gian đầu ủng hộ quan điểm của Việt Minh về Cam-pu-chi-a và Lào, Ngoại trưởng Chu Ân Lai nói rõ với ông Phạm Văn Đồng là Trung Quốc không ủng hộ yêu cầu của Việt Nam dân chủ Cộng hoà đòi Pa-thét Lào và Khơ-me đỏ tham gia Hội nghị như là đại diện chân chính của nhân dân Lào và Căm pu chia. Ông Chu Ân Lai còn cảnh báo vấn đề này sẽ gây nguy cơ đối với quá trình đạt đến giải pháp và dẫn đến can thiệp trực tiếp của Mỹ vào cuộc chiến. Ông tin rằng tốt hơn là chấp nhận trung lập hóa hai quốc gia này với chính phủ hoàng gia hiện hành. Để khuyến khích Việt Nam Dân chủ cộng hòa chấp nhận, ông Chu Ân Lai đồng ý kiên quyết lập trường phải cho lực lượng Pa – thét Lào có một khu vực tập kết sau khi xung đột kết thúc. Ông Phạm Văn Đồng rõ ràng là đã lưỡng lự do [?] đồng ý.
Nhiều năm sau các nguồn chính thức của Việt Nam lại cho rằng cách Chu Ân Lai cư xử tại Hội nghị Giơ-ne-vơ là do Trung Quốc muốn kéo Lào và Cam-pu-chi-a vào khu vực ảnh hưởng của mình. Mặc dù hầu như không có bằng chứng gì chứng tỏ điều này là đúng, rất có thể Bắc Kinh đã coi hai nước này có tầm quan trọng thiết yếu đối với an ninh của mình ở khu vực và do vậy không muốn có một Liên bang Đông Dương. Tuy nhiên, tại thời điểm đó, lý do chính là ngăn không cho đàm phán hoà bình sụp đổ loại bỏ khả năng Mỹ thiết lập căn cứ ở hai nước. Chắc chắn vì những lý do này mà ông Chu Ân Lai đã khẩn thiết kêu gọi ông Đồng chấp nhận thoả hiệp, một quan điểm mà phái đoàn Liên Xô ủng hộ mạnh mẽ.
Giải quyết xong vấn đề Lào và Cam-pu-chi-a, Hội nghị tạm nghỉ. Trong khi đó đoàn đại biểu Pháp và Việt Nam Dân chủ cộng hoà bắt đầu chú ý đến chi tiết của giải pháp ở Việt Nam. Trong hội đàm riêng về quân sự với Pháp, đại biểu Việt Minh nói rõ ràng họ muốn có một khu vực lãnh thổ liền kề nhau làm khu vực tập kết quân và những người theo họ bao gồm đồng bằng sông Hồng, kể cả Hà Nội và Hải Phòng. (Một nhà đàm phán cao cấp của Việt Minh nói: “ Chúng tôi phải được Hà Nội, chúng tôi phải có đường thoát”). Quân Pháp không muốn mất Hà Nội, nhưng lại nói một cách dán tiếp rằng họ muốn được rảnh tay ở phía Nam và ít nhất là một khu vực riêng ở phía Bắc để chuyển quân và dân ra khỏi vùng đồng bằng.
Do vậy, cuộc tranh luận tập trung vào đường phân chia hai khu vực tập kết và việc thực hiện những thảo thuận chung. Lúc đầu, ông Phạm Văn Đồng đòi đường phân chia phải ở vĩ tuyến 13 trong khi Pháp muốn đường này ở ngay phía Nam đồng bằng sông Hồng ở miền Bắc. Để giám sát Hiệp định, đại biểu của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà muốn trong nước giám sát nhưng Pháp (với sự hỗ trợ của Hoa Kỳ) yêu cầu phải thành lập Uỷ ban Giám sát quốc tế dưới sự bảo trợ của Liên hợp quốc.
Trong khi hai phái đoàn Pháp và Việt Nam tranh cãi về chi tiết, Chu Ân Lai về Bắc Kinh tham khảo ý kiến của Mao Trạch Đông và các nhà lãnh đạo chính phủ khác. Trên đường về, ông dừng chân tại Ấn Độ, ông yêu cầu Thủ tướng Gia-oa-hắc-la Nê-ru ủng hộ lập trường của Trung Quốc tại bàn Hội nghị. Để giảm bớt lo lắng của Nê-ru về khả năng toàn bộ Đông Dương sẽ sớm rơi vào tay Cộng Sản (và do vậy rơi vào sự kiểm soát của Trung Quốc), Chu Ân Lai hứa rằng toàn bộ quân Việt Minh sẽ rút khỏi Lào và Cam-pu-chi-a, và hai nước này sẽ có chính phủ độc lập do họ tự chọn. Về tình hình Việt Nam, ông bảo đảm với các nhà lãnh đạo Ấn Độ rằng Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẽ tôn trọng bất kỳ thoả thuận nào chia cắt Việt Nam thành hai miền, ông tuyên bố thêm rằng chủ nghĩa xã hội không phải để “xuất khẩu”. Trong một thông báo đưa ra sau một loạt các cuộc gặp gỡ, hai nhà lãnh đạo đã khẳng định ủng hộ khái niệm năm nguyên tắc chung sống hoà bình và coi năm nguyên tắc này là cơ sở thích hợp cho quan hệ quốc tế ở châu Á và thế giới.
Dừng chân ngắn ở Răng-gun, ông đã thảo luận với Thủ tướng Miến Điện, ông U Nu. Sau đó ông Chu Ân Lai về Bắc Kinh và đi thẳng đến Lôi Châu, nơi đã từng là đại bản doanh của Trương Phát Khuê ở Nam Trung Quốc. Ở Lôi Châu, ông gặp Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp. Cuộc gặp này không được mấy ai chú ý. Một tuyên bố báo chí sauđó của Tân Hoa Xã chỉ nói rằng “Thủ tướng Chu Ân Lai và Chủ tich Hồ Chí Minh đã trao đổi toàn bộ ý kiến về Hội nghị Giơ-ne-vơ, vấn đề khôi phục hoà bình ở Đông Dương và các vấn đề có liên quan”. Tuy nhiên, một nguồn tin Trung Quốc gần đây cho biết ông Chu đã thuyết phục được ông Hồ thấy sự cần thiết phải có một giải pháp thoả hiệp ở Giơ-ne-vơ để tránh can thiệp trực tiếp của Mỹ vào cuộc chiến. Hai vị lãnh tụ đã thoả thuận chấp nhận vĩ tuyến 16 làm đường phân giới giữa hai khu tập kết. Hai vị lãnh tụ cũng thoả thuận chấp nhận việc thành lập chính phủ không cộng sản ở Lào và Cam-pu-chi-a, với điều kiện Pa-thét Lào cũng có một khu vực tập kết nhỏ. Ông Hồ cũng đồng ý đưa ra tuyên bố chung nói rằng ba nước Đông Dương sẽ tuân thủ năm nguyên tắc cùng chung sống hoà bình. Để đổi lại, Chu Ân Lai hứa Trung Quốc sẽ tiếp tục ủng hộ và viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Trong những hiệp định viện trợ ký tại Bắc Kinh ngày 7 tháng 7, Trung Quốc cam kết tăng thêm viện trợ thương mại và kinh tế. Những nguồn tin chính thức ở Việt Nam chỉ đưa tin cụt lủn về kết quả cuộc gặp. Báo Nhân dân của Đảng ghi nhận một cách không rõ ràng rằng “việc khôi phục hoà bình ở Đông Dương không thể chỉ do một bên quyết định”
Sau những cuộc tham khảo ý kiến ngắn ở Bắc Kinh, Chu Ân Lai trở lại Giơ-ne-vơ trong khi các đại biểu đang giải quyết nốt những vẫn đề tồn đọng, hiệp định đã được ký kết ngày 21 tháng 07 năm 1954. Một Uỷ ban Quốc tế sẽ giám sát Hiệp định. Uỷ ban này bao gồm Ấn Độ, Ca-na-da và Ba Lan. Một tuyên bố chính trị không mang tính ràng buộc kêu gọi chính quyền ở hai khu vực tập kết tiến hành hiệp thương và tổ chức tổng tuyển cử thống nhất đất nước hai năm sau. Điểm khó khăn cuối cùng là thảo thuận thiết lập đường phân giới giữa hai khu vực tập kết tại vĩ tuyến 17. Khi Phạm Văn Đồng có vẻ chần chừ không chấp nhận nhượng bộ, ông Chu lập luận rằng cho phép Thủ tướng Pháp, ông Pi-e Men-đéc-xơ Phơ-ran-xơ, giữ thể diện của mình là giá nhỏ phải trả cho việc quân Pháp tút. Ông Chu còn nói “Khi quân Pháp rút hoàn toàn, toàn bộ Việt Nam là của các bạn”
Tuy nhiên, theo quan điểm của Hồ Chí Minh và các cộng sự của ông thì có những tiến triển bất lợi ngay sau khi Hội nghị kết thúc. Chính quyền Ai-xen-hao đã lo ngại theo dõi đàm phán tại Giơ-ne-vơ và quyết định không chấp nhận các điều kiện của Hiệp định trừ khi ít nhất một phần của Việt Nam vẫn an toàn. Vì điều khoản về thống nhất hoàn toàn đất nước thông qua tuyển cử tổ chức năm 1956 mở ra khả năng cộng sản thắng lợi hoàn toàn, Oa-sinh-tơn cho thấy là sẽ không đồng tình với tuyên bố chính trị và sẽ không cam kết ủng hộ Hiệp định Giơ-ne-vơ. Phái đoàn của Bảo Đại cũng làm như vậy và không chịu chấp thuận tuyên bố chính trị, lập luận rằng quyết định chia cắt đất nước là của một nước lớn thuộc địa chứ không phải là nguyện vọng của nhân dân. Một vài ngày sau khi hội nghị kết thúc, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Đa-lét thông báo tại một cuộc họp báo rằng Mỹ sẽ gây dựng sự phát triển của một nhà nước không cộng sản ở Nam Việt Nam, Lào và Cam-pu-chi-a. Tuyên bố này tuyệt nhiên không hề là dấu hiệu tốt lành cho cuộc tổng tuyển cử trong tương lai.
Nhiều nhà quan sát tại hội nghị đã nhận thấy thái độ cay cú của phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trước việc Trung Quốc và Liên Xô phản bội lợi ích của mình. Nhớ lại điều này, Vương Bình Nam, một nhà ngoại giao Trung Quốc sau này nói rằng một số đại biểu “hy vọng sẽ thống nhất Việt Nam được ngay”.
Thái độ cay cú này rõ ràng không chỉ là thái độ của đoàn đại biểu Việt Nam mà còn thể hiện ở trong nước Việt Nam. Tình hình này rõ ràng nghiêm trọng đến mức Hồ Chí Minh cũng bắt đầu chú ý. Trong báo cáo chính trị cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam vài ngày trước khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, ông Hồ viết:
“Mốt số người say sưa với thắng lợi liên tục của chúng ta, muốn tiếp tục chiến đấu đến cùng với bất kỳ giá nào; họ chỉ thấy cây mà không thấy rừng; tập trung vào việc quân Pháp rút, họ không thấy âm mưu của chúng; họ thấy Pháp nhưng không thấy Mỹ; họ thiên về hành động quân sự và coi nhẹ ngoại giao. Họ không biết rằng chúng ta đang đấu tranh tại các hội nghị quốc tế cũng như tại chiến trường để đạt được mục tiêu”.
Hồ Chí Minh tranh luận với những người “muốn có kết quả nhanh, không biết rằng cuộc đấu tranh giành hoà bình là khó khăn và phức tạp.” Điều họ không thấy là ba nước đã có những bước tiến lớn trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho các nước Đông Dương. Tuy nhiên, bây giờ cần có một chiến lược, vì quân Mỹ đã kiên quyết phá hoại khả năng hoà bình can thiệp và biện hộ cho xung đột ở Đông Dương. Do hoàn cảnh mới, khẩu hiệu hiệu cũ “Kháng chiến đến cùng” phải được thay thế bằng khẩu hiệu “Hoà bình, đoàn kết, độc lập, dân chủ”. Một chính sách như vậy góp phần cô lập Hoa Kỳ (nay trở thành kẻ thù chính trực tiếp của nhân dân Đông Dương) trên trường quốc tế và đánh bại âm mưu thâm độc của chúng.
Hồ Chí Minh công nhận rằng giá phải trả cho hoà bình là sự chia cắt đất nước, Ông nhất mực cho rằng việc thiết lập khu vực tập kết không có nghĩa là đất nước bị chia cắt vĩnh viễn mà chỉ là tạm thời.
Do việc hoạch định và trao đổi vùng, một số vùng tự do trước đây sẽ bị địch tạm chiếm; nhân dân sẽ không bằng lòng; một số người sẽ chán nản và bị địch lừa bịp. Chúng ta phải làm cho đồng bào rõ là thử thách họ sẽ trải qua là vì lợi ích toàn đất nước, vì lợi ích lâu dài của chúng ta và sẽ là một sự nghiệp vinh quang mà cả nước đều biết ơn.
Hồ Chí Minh hứa rằng, với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và sự ủng hộ của các dân tộc trên thế giới , độc lập hoàn toàn và đoàn kết dân tộc chắc chắn sẽ đạt được.
Kêu gọi cộng sự của mình trong Đảng chấp nhận một giải pháp thông qua đàm phán về thực chất không phải là chiến thắng hoàn toàn, Hồ Chí Minh chắc chắn đã nghe theo lời khuyên của Chu Ân Lai. Ông Chu Ân Lai đã khẩn thiết kêu gọi ông Hồ chấp nhận một giải pháp như vậy trong cuộc gặp gỡ ở Lôi Châu trước đó vài ngày. Tuy vậy, thái độ sẵn sàng chấp nhận hoà bình trong nhân nhượng trên đường đến thắng lợi cuối cùng làm chúng ta nhớ lại cách giải quyết vấn đề của ông trong những dịp trước đó, đặc biệt là vào cuối chiến tranh Thái Bình Dương. Hồ Chí Minh nhận thấy rằng độc lập dân tộc và thống nhất đất nước không thể đạt được một cách riêng rẽ, nhưng phải đạt được trong bối cảnh những thay đổi phức tạp diễn ra trên trường quốc tế.

PHẦN KẾT

TỪ MỘT CON NGƯỜI TỚI MỘT HUYỀN THOẠI

Những lời bình luận đổ dồn về từ khắp nơi trên thế giới khi có tin đồn Hồ Chí Minh qua đời. Các bài viết ca ngợi Hồ Chí Minh từ các thành phố lớn được tới tấp gửi đến và Hà Nội nhận được hơn 22.000 thông điệp từ 121 quốc gia chia buồn với nhân dân Việt Nam khi biết nhà lãnh đạo của họ qua đời. Một vài nước xã hội chủ nghĩa tổ chức tang lễ và có thể thấy trước được lời lẽ các bài điếu văn của họ là thiện chí. Một tuyên bố chính thức từ Mát-xcơ-va ca ngợi ông Hồ là “người con vĩ đại của nhân dân Việt Nam anh hùng, lãnh tụ kiệt xuất của phong trào giải phóng dân tộc và quốc tế cộng sản, người bạn lớn của Liên Xô”. Các nước thế giới thứ 3 ca ngợi ông là người bảo vệ cho các dân tộc bị áp bức. Một bài báo ở Ấn Độ miêu tả ông là tinh hoa của “dân tộc, hiện thân cho khát vọng cháy bỏng vì tự do, cho tinh thần kiên cường và sự nghiệp đấu tranh của họ”. Những người khác nhắc đến đức tính giản dị và đạo đức cao cả của ông. Một bài xã luận trên báo U-ru-goay nói rằng “ông có một tấm lòng bao la như vũ trụ và tình yêu thương vô bờ bến đối với nhi đồng. Ông là biểu tượng của đức giản dị trên tất cả các mặt”.
Phản ứng từ các thành phố phương Tây im ắng hơn. Nhà Trắng tránh không bình luận, và các quan chức chính quyền Ních-xơn cũng như vậy. Tuy nhiên, phương tiện truyền thông của phương tây cũng sôi nổi đưa tin về cái chết của ông. Các tờ báo ủng hộ sự nghiệp chống chiến tranh có khuynh hướng mô tả ông như một đối thủ đáng được kính trọng và người bênh vực các dân tộc yếu hèn bị áp bức. Thậm chí những người kịch liệt phản đối chế độ Hà Nội cũng kính trọng ông vì những cống hiến toàn bộ đời mình trước hết cho độc lập và thống nhất đất nước và sự ủng hộ bênh vực các dân tộc bị bóc lột trên thế giới.
Một vấn đề chủ chốt mà nhiều nhà bình luận suy nghĩ là việc ông qua đời có ảnh hưởng thế nào tới diễn biến của cuộc chiến tranh ở Đông Dương. Được biết đến như một người cộng sản kỳ cựu và một nhà cách mạng tận tuỵ, nhiều người xem Hồ Chí Minh như một người thực dụng, nắm vững diễn biến phức tạp của tình hình chính trị thế giới và biến động theo thời thế. Thậm chí cả Giôn-xơn, có lẽ là đối thủ đáng gờm nhất của ông trong những năm 60, đôi khi cũng nhận xét rằng nếu ông ta có thể ngồi với “ông Hồ”, hai nhân vật chính trị kỳ cựu bằng cách này hay cách khác có thể sẽ đi đến một thoả hiệp nào đó.
Với những người kế nhiệm, không ai được thế giới kính trọng như ông Hồ. Rất ít cộng sự của ông Hồ nổi tiếng ở thế giới bên ngoài. Trừ ông Hồ, không có quan chức cao cấp nào của Đảng từng sống hoặc đi khắp nước Pháp , huống hồ các nước phương tây khác. Trong số những người từng ra nước ngoài, hầu hết họ được đào tạo tại Trung Quốc hoặc Liên Xô, và thế giới quan của họ hạn chế bởi giáo lý cứng nhắc của chủ nghĩa Mác-lê-nin. Tổng Bí thư Lê Duẩn, người đã nhanh chóng thiết lập uy tín là người kế nhiệm chức của ông Hồ ở Hà Nội, hầu như không được phương Tây biết đến. Thậm chí ở Mát-xcơ-va và Bắc Kinh, ông Duẩn cũng không được biết đến nhiều.
Trong bản di chúc cuối cùng của mình và trong suốt đời mình, Hồ Chí Minh tìm cách cân bằng cam kết giành độc lập cho dân tộc Việt Nam với cam kết cống hiến cho phong trào thế giới. Trong bản di chúc khởi thảo lần đầu tiên năm 1965 và sau đó tự tay sửa đổi vào năm 1968 và 1969, mặc dù nhấn mạnh phải đặt ưu tiên hàng đầu cho hàn gắn vết thương chiến tranh và cải thiện mức sống của người dân Việt Nam, ông Hồ vẫn khẳng định tầm quan trọng của cả chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Ông đặc biệt chú trọng thực hiện bình đẳng giữa nam và nữ. Ông ca ngợi Đảng đóng vai trò hàng đầu trong cuộc cách mạng Việt Nam nhưng cũng kêu gọi phát động chiến dịch tự phê bình và chỉnh đốn Đảng nhằm dân chủ hoá tổ chức và nâng cao đạo đức cho số cán bộ Đảng sau khi chiến tranh kết thúc. Cuối cùng, ông nhiệt thành kêu gọi thôi thúc tình đoàn kết của phong trào Cộng sản theo nguyên tắc chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Đám tang Hồ Chí Minh được tổ chức tại Quảng trường Ba Đình ở Hà Nội ngày 8 tháng 9 năm 1969 với hơn 100.000 người tham dự gồm cả đại diện từ các nước xã hộ chủ nghĩa. Trong bài phát biểu trước Quốc hội, Lê Duẩn hứa rằng các nhà lãnh đạo Đảng sẽ tìm cách thực hiện khát khao cháy bỏng của Hồ Chí Minh đánh bại quân xâm lược Mỹ, giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước. Sau đó ông hứa Đảng sẽ đem hết nỗ lực xây dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và khôi phục tinh thần đoàn kết trong phe xã hội chủ nghĩa.
Về khía cạnh nào đó, Lê Duẩn cũng đã thực hiện lời hứa của mình. Dưới sự lãnh đạo cương quyết của ông, thời gian sau khi Hồ Chí Minh qua đời, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tiếp tục theo đuổi chiến thắng cuối cùng ở Miền Nam. Mục tiêu trước mắt của Hà Nội là củng cố lực lượng ở miền Nam chuẩn bị phát động một cuộc tấn công quân sự mới trong thời gian diễn ra chiến dịch bầu cử tổng thống Mỹ năm 1972. Các đại diện miền Bắc Việt Nam tiến hành đàm phán với Mỹ ở Pa-ri, nhưng hầu hết không đạt được kết quả gì vì cả hai phía đều tìm cách tạo ra một bước ngoặt quân sự ở miền Nam Việt Nam làm phương tiện giành lợi thế trên bàn hội nghị. Mặc dù số thương vong của Hà Nội vẫn ở mức cao, các nhà lãnh đạo Đảng vẫn lạc quan vì tình cảm chống chiến tranh ở Mỹ đang dâng cao buộc Tổng thống Ních-xơn phải tuyên bố chương trình kêu gọi rút quân Mỹ về nước vào cuối nhiệm kỳ đầu của ông ta.
Trong những ngày lễ phục sinh năm 1972, với chưa đầy 50.000 quân Mỹ vẫn ở miền Nam Việt Nam, Hà Nội phát động một chiến dịch tấn công ở miền Nam Việt Nam. Giống như cuộc tổng tấn công tết Mậu Thân năm 1968, cuộc tấn công trong ngày lễ phục sinh lần này không đem lại chiến thắng hoàn toàn nhưng nó khiến cho cả hai phía đẩy nhanh tiến trình hoà bình . Tháng 1 năm 1973, Hà Nội và Oa-sinh-tơn cuối cùng đi đến một hiệp định thoả hiệp. Hiệp định hoà bình Pa-ri kêu gọi ngừng bắn và rút toàn bộ đơn vị lính chiến đấu của Mỹ về nước. Các cuộc đàm phán giữa hai bên sẽ quyết định phân chia lãnh thổ dưới quyền kiểm soát của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam và chính quyền Sài Gòn thông qua việc thành lập một cơ cấu hành chính bên cạnh chính phủ (đó là Hội đồng quốc gia Hoà giải và Hoà hợp dân tộc) gồm đại diện của cả hai phía cũng như những phần tử trung lập. Hội đồng này sau đó sẽ bàn vấn đề tổ chức tổng tuyển cử.
Giống như Hiệp định Giơ-ne-vơ cách đây hai thập kỷ, Hiệp định Pa-ri không chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Hiệp định này chỉ đơn thuần giải quyết vấn đề quân Mỹ rút khỏi Việt Nam và khôi phục nguyên trạng tình hình đầu những năm 1960 ở miền Nam Việt Nam. Khi chẳng bên nào tỏ thái độ mong muốn tôn trọng các điều khoản của Hiệp định Pa-ri, xung đột ở các vùng nông thôn lại nổ ra. Đầu năm 1975, Hà Nội mở một cuộc tấn công mới với mục tiêu hoàn thành việc chiếm lại miền Nam một năm sau đó. Nước Mỹ suy yếu vì mùa hè trước Ních-xơn đã từ chức và người kế nhiệm của ông, tổng thống Pho, không dám đưa quân chiến đấu Mỹ trở lại miền Nam Việt Nam. Trên đà thắng lợi, tháng 3 quân đội Bắc Việt Nam tiến quân ra khỏi Tây Nguyên và tiến thẳng tới Sài Gòn trong khi các lực lượng khác đã chiếm được Đà Nẵng và toàn bộ phía Bắc. Vào tuần cuối cùng của tháng 4, lực lượng cộng sản gần như giành được chiến thắng khi các lực lượng kháng cự Sài Gòn suy sụp và những người Mỹ còn lại được trực thăng đưa đi từ nóc toà nhà đại sứ quán Mỹ tới hàng không mẫu hạm đậu ngoài khơi. Sau cuộc đấu tranh ác liệt kéo dài 15 năm khiến hơn một triệu người Việt Nam thiệt mạng, Tổng thống Pho tuyên bố “cuộc chiến đã chấm rứt”. Đồng thời trước đó hai tuần, lực lượng Khơ-me Đỏ đã nắm được chính quyền ở Phnôm Pênh, và một chính phủ cách mạng sẽ lên nắm chính quyền ở Lào vào cuối năm.
Đầu tháng 7 năm 1976, hai miền Việt Nam được thống nhất thành nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Lê Duẩn đã thực hiện lời hứa của mình hoàn thành một trong những ước nguyện của Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, khi thực hiện các điểm khác trong di chúc của Hồ Chí Minh, Lê Duẩn không tạo ấn tượng như vậy. Năm 1968, một chuyên gia của Liên Xô bí mật tới Hà Nội dạy Việt Nam thuật ướp xác. Tháng 3 năm đó, một đội chuyên gia Việt Nam sang Mát-xcơ-va tham khảo thêm ý kiến và báo cáo những tiến triển trong việc áp dụng kỹ thuật đó. Tuy nhiên, theo một nguồn tin, đây vẫn là một vẫn đề nhạy cảm trong giới lãnh đạo Đảng vì bản thân Hồ Chí Minh chắc sẽ phản đối rất mạnh bất cứ kế hoạch nào đi ngược lại ý nguyện được thiêu xác của ông. Vào thời điểm đó Hồ Chí Minh qua đời, Bộ Chính trị chưa có quyết định cuối cùng về cách thức giải quyết vẫn đề này. Sau khi tham khảo ý kiến khẩn cấp với Mát-xcơ-va, một chuyên gia khác của Liên Xô đến Hà Nội giữa tháng 9 giúp chuyên gia y tế của Việt Nam giữ gìn thi thể của ông Hồ.
Ngày 29 tháng 11 năm 1969, Bộ Chính trị chính thức thông qua kế hoạch khởi công xây dựng lăng để lưu giữ thi hài ông Hồ nhằm giáo dục thế hệ trẻ tương lai. Một uỷ ban có đại diện Bộ Xây dựng và Bộ Quốc phòng được chỉ định giám sát công trình với sự giúp đỡ của các cố vấn Liên Xô. Trong báo cáo cuối cùng gửi các nhà lãnh đạo Đảng, Uỷ ban này kết luận rằng lăng cần phải được thiết kế hiện đại nhưng phải thấm nhuần bản sắc dân tộc. Phù hợp với tính cách của Hồ Chí minh, vẻ bề ngoài của lăng cần phải đơn giản và được đặt ở địa điểm thuần tiện và dễ đi lại. Để đưa ra được khuyến nghị về thiết kế công trình, Uỷ ban đã nghiêm cứu một số cấu trúc lăng khác bao gồm cả kim tự tháp Ai Cập, tượng đài kỷ niệm Vích-to Ê-ma-nu-en ở Rôm, đài kỷ niệm Lin-côn ở Oa-sinh-tơn D.C., và lăng mộ Lê-nin ở Mát-xcơ-va. Sau khi Bộ Chính trị đưa ra gợi ý bổ sung, mô hình cấu trúc lăng được trưng bày ở khắp cả nước để trưng cầu ý kiến của công chúng. Cuối cùng có hơn 30.000 gợi ý khác nhau được trình lên Uỷ ban.
Tháng 12 năm 1971, Bộ Chính trị thông qua đề xuất cuối cùng và công việc xây dựng bắt đầu ngay sau khi hiệp định Pa-ri được ký kết. Địa điểm được chọn xây lăng là một trong những thánh địa của cách mạng Việt Nam – Quảng trường Ba Đình, Hà Nội gần với Phủ Chủ tịch và nhà sàn Hồ Chí Minh. Vào ngày 29 tháng 8 năm 1975, khi chính thức được mở công khai cho dân chúng, lăng Hồ Chí Minh gợi nhớ đến lăng Lê-nin ở Quảng trường Đỏ. Các mặt của lăng được ốp đá cẩm thạch xám, hầu hết được khai thác ở núi đá cẩm thạch, một mỏ đá lộ thiên ở phía nam Đà Nẵng – nơi quân Việt cộng sống tại một hang đá trong núi có thể xem lính Mỹ bơi tại bờ biển nổi tiếng gọi là bờ biển Trung Hoa, đây cũng là một trong những khu nghỉ mát nổi tiếng nhất trong vùng. Lăng được thiết kế mô tả hình tượng bông sen vươn lên từ bùn đen với vẻ hiện đại và do đó tạo ra sự tương phản với một ngôi chùa phật thế kỷ 11 ở một khuôn viên gần đó. Tuy nhiên, nhiều nhà quan sát cho rằng kiến trúc của lăng nặng nề chán ngắt hoàn toàn trái với tính cách hài hước và khiêm tốn của Hồ Chí Minh – người đang nằm trong lăng, hai tay bắt chéo và mặc bộ đại cán giản dị kiểu Tôn Trung Sơn. Như nhà sử học Huế, Tâm Hồ Tài, nhận xét, điều đó có tác dụng mô tả Hồ Chí Minh như một nhà lãnh đạo Cộng sản quốc tế chứ không tạo ra hình ảnh gần gũi hơn về Bác Hồ được các đồng bào của ông – hơn 15.000 lượt người đến thăm lăng mỗi tuần.
Khi thực hiện kế hoạch giữ gìn thi thể Hồ Chí Minh trong lăng, các nhà lãnh đạo Đảng rõ ràng đã không tổ chức lễ tang và lễ hoả táng đơn giản theo như yêu cầu của ông Hồ. Ông luôn coi thường cạm bẫy vật chất xa hoa. Năm 1959 ông thậm chí phản đối đề nghị xây một bảo tàng nhỏ tại làng Kim Liên khi mọi người biết ông là nhà cách mạnh nổi tiếng Nguyễn Ái Quốc, với lập luận rằng tốt hơn là sử dụng số tiền hiếm hoi đó để xây trường học. Để tránh bị công chúng chỉ trích vì quyết định làm trái với di nguyện của ông Hồ, các nhà lãnh đạo Đảng đã bỏ đi những phần trong di chúc của ông nói về việc thiêu xác. Bản di chúc công bố năm 1969 cũng không nói tới yêu cầu của ông Hồ miễn một năm thuế nông nghiệp cho nông dân và lời cảnh báo của ông đối với đồng bào mình rằng chiến tranh ở miền Nam còn có thể kéo dài một vài năm nữa. Đảng cũng tuyên bố rằng ông Hồ mất ngày 3 tháng 9, một sau khi ông Hồ thực sự qua đời để khỏi ảnh hưởng đến không khí kỷ niệm ngày quốc khánh mồng 2 tháng 9 năm 1945 khi Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng trường Ba Đình *.
Sau Đại hội toàn quốc lần thứ 4 tháng 12 năm 1976, các nhà lãnh đạo Đảng tuyên bố sẽ xây dựng “về cơ bản” chủ nghĩa xã hội trên toàn quốc vào thập kỷ này. Để biểu trưng cho giai đoạn mới của cuộc cách mạng này, Đảng Lao động Việt Nam đổi tên thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Những người kế vị Hồ Chí Minh cố dùng hình ảnh của ông để giành được sự ủng hộ của dân chúng cho chương trình đầy tham vọng của mình. Chân dung vị cố chủ tịch xuất hiện trên tem, tiền và tường của các toà nhà trên khắp cả nước trong khi sách giáo khoa và các cuốn sách nhỏ về cuộc đời, tư tưởng, và đạo đức cách mạng của ông được in rất nhiều. Các nhà lãnh đạo Đảng như Trường Chinh, Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp kể lại chi tiết những kỷ niệm về ông Hồ và nhấn mạnh tư tưởng Hồ Chí Minh như một công cụ cốt yếu giúp xây dựng Việt Nam trong tương lai. Người ta khuyến khích thanh niên Việt Nam đi theo con đường Hồ Chí Minh, lấy đó làm định hướng cho hành động hằng ngày của mình và tên của ông được đặt cho các tổ chức thanh niên được thành lập trên khắp cả nước. Một số nước xã hội chủ nghĩa khác cố dùng danh tiếng của ông phục vụ mục đích riêng của mình, lấy tên đặt cho trường học, nhà máy, đường phố, quảng trường và tổ chức hội thảo học tập di chúc và các thành công trong sự nghiệp của ông.
Giá trị thực sự của tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện trong bảo tàng Hồ Chí Minh. Bảo tàng này được hoàn thành vào mùa thu năm 1990 nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông. Được xây ngay sau lăng gần Quảng trường Ba Đình, kích thước của Bảo tàng gây ấn tượng mạnh nhưng không nặng nề như những công trình cạnh đó. Với các mặt được ốp đá cẩm thạch, bảo tàng cũng được thiết kế giống hình bông sen, mặc dù đối với một số nhà quan sát, cấu trúc bốn mặt với đường vào ở một góc gợi nhớ hơn đến mũi của một con tàu.
Cho dù Đảng rất cố gắng nêu bật tư tưởng Hồ Chí Minh như hiện thân của một nước Việt Nam mới, nhiều nhà quan sát vẫn nhận ra những khác biệt lớn giữa phong cách của Lê Duẩn và phong cách của người tiền nhiệm nổi tiếng của ông. Trong khi ông Hồ kiên trì khuyến khích cần phải từng bước tiến hành cách mạng Việt Nam nhằm phát huy tối đa sự ủng hộ của quần chúng từ mọi thành phần xã hội, Lê Duẩn lại thường áp dụng sách lược tham vọng hơn, gây chia rẽ trong ban lãnh đạo Đảng và cô lập bộ phận dân chúng. Và trong khi ông Hồ luôn chú trọng thích đáng tới thực tế tình hình thế giới khi tìm cách thực hiện chiến lược của mình thì những người kế nhiệm của ông lại theo đuổi chính sách đối ngoại hung hăng, không chỉ gây thù địch với các nước láng giềng của Hà Nội ở Đông Nam Á mà còn khiến Trung Quốc – từng là đồng minh thân cận nhất và là nước ủng hộ mạnh mẽ nhất của Hà Nội – khó chịu. Những người phản đối chính sách của Lê Duẩn bị đưa ra khỏi ban lãnh đạo Đảng (một thí dụ nổi bật là Võ Nguyên Giáp) hoặc chọn giải pháp sống lưu vong ở nước ngoài (như trường hợp Hoàng Văn Hoan).
Kết quả đó là bi kịch đối với một đất nước mới vừa thoát khỏi chiến tranh. Khi chế độ này đột nhiên tuyên bố quốc hữu hoá ngành công nghiệp và thương mại tháng 3 năm 1978, hàng ngàn người ra đi tìm nơi ẩn náu ở nước ngoài. Chương trình tập thể hoá nông nghiệp khiến hầu hết nông dân miền Nam phản kháng. Cuối những năm 70, nền kinh tế của Việt Nam lâm vào tình trạng hỗn độn, bị lung lay bởi nỗ lực không khôn ngoan của Đảng định hoàn thành xây dựng cơ sở cho một xã hội xã hội chủ nghĩa trước khi kết thúc thập kỷ.
Khủng hoảng ở bên ngoài đã làm tình hình trong nước trầm trọng hơn. Khi lên nắm quyền, chế độ diệt chủng và cuồng tín Pôn Pốt ở Cam-pu-chia phản đối gợi ý của Việt Nam thành lập liên minh quân sự giữa ba nước Đông Dương. Tháng 12 năm 1978, Hà Nội xâm lược Cam-pu-chia và dựng lên một chế độ bù nhìn ở Phnông Pênh. Để trả đũa, các lực lượng Trung Quốc mở chiến dịch tràn qua biên giới Việt Nam. Mặc dù không kéo dài, chiến dịch đã buộc Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam tập trung những nguồn lực quân sự quý báu cho sự nghiệp bảo vệ đất nước. Giữa những năm 80, thái độ bất bình của dân chúng đối với ban lãnh đạo Đảng đã lên tới mức báo động – vì lãnh đạo chỉ còn là một nhóm người không làm theo lời khuyên của Hồ Chí Minh là phải mang lại hạnh phúc cho nhân dân sau khi giành chiến thắng.
Mùa hè năm 1986, sau khi lê Duẩn qua đời, các nhà lãnh đạo Đảng muộn màng nhận ra sai lầm của mình (như một ai đó mô tả là “chủ nghĩa phấn khích”) và bước vào một con đường mới. Dưới sự lãnh đạo của một vị Tổng Bí thư mới, một nhân vật cứng rắn người miền Nam cũ, ông Nguyễn Văn Linh, Bộ Chính trị thông qua kế hoạch khôi phục nền kinh tế trì trệ bằng việc áp dụng thị trường xã hội chủ nghĩa và mở cửa cho đầu tư nước ngoài, đồng thời khuyến khích thái độ khoan dung tự do tư tưởng của dân chúng. Được biết đến như chương trình cải cách, đổi mới, chương trình mới này làm người ta nhớ lại chính sách cải tổ của Goóc-ba-chốp ở Liên Xô, mặc dù những nguồn tin ở Hà Nội quả quyết rằng chiến lược này là của Việt Nam.
Tuy nhiên, đến cuối thập kỷ, các lực lượng bảo thủ trong Đảng đã suy nghĩ lại. Mặc dù giúp kích thích tăng trưởng kinh tế Việt Nam, việc áp dụng ý tưởng của nước ngoài ngày càng dẫn đến (ít nhất theo những người có quan điểm bảo thủ) những tệ nạn như thuốc phiện, gái điếm, AIDS và chủ nghĩa hưởng lạc trong thanh niên Việt Nam cũng như làm tăng thái độ chỉ trích sự thống trị của Đảng trên tất cả các mặt trong vấn đề nội bộ. Được báo động bởi sự sụp đổ của hệ thống cộng sản ở Đông Âu và nỗi lo lắng ngày càng tăng trước tác động của văn hoá phương Tây làm suy yếu dần những thể chế xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Đảng bắt đầu thẳng tay đàn áp những nhân vật bất đồng chính kiến và những người mà các nhân vật bảo thủ coi là “cỏ độc của chủ nghĩa tư bản”. Dưới sự lãnh đạo của ông Đỗ Mười – người kế nhiệm Nguyễn Văn Linh và là một đảng viên lão thành – Hà Nội cũng áp dụng chính sách hậu Thiên An Môn của Trung Quốc thẳng tay đàn áp những nhà hoạt động bất đồng chính kiến dưới khẩu hiệu “cải cách kinh tế, ổn định chính trị” Trong khi tự do hoá kinh tế tiến triển với một nhịp độ khiêm tốn, Đảng khẳng định lại vai trò truyền thống của mình là một lực lượng chính trị duy nhất trên toàn đất nước.
Những người Việt Nam chủ trương cải cách nhanh chóng dùng di sản của Hồ Chí Minh để thúc đẩy sự nghiệp của chính họ. Khi nhắc đến ông Hồ như một người thực dụng, họ cho rằng ông có thể đã hiểu rằng cần phải nâng cao mức sống cho nhân dân trước khi tiến lên con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa. Khi nhắc tới hình ảnh của ông như một người theo chủ nghĩa nhân văn với tinh thần vị tha cao cả trước những ý kiến đối lập, họ quả quyết rằng ông có thể đã ngăn cản sự chia rẽ trong ban lãnh đạo Đảng và tiến hành mọi biện pháp nhằm giành được sự ủng hộ của nhân dân. Vào cuối những năm 80, phe cải cách thắng thế khi người thư ký riêng cuối cùng của Hồ Chí Minh tiết lộ rằng Lê Duẩn và một số cộng sự của mình đã chữa lại bản di chúc của ông Hồ bằng cách không thực hiện lời kêu gọi miễn thuế nông nghiệp và tổ chức một lễ tang đơn giản. Bộ Chính trị buộc phải thừa nhận lỗi lầm này, nhưng bào chữa cho hành động của mình nói rằng Bộ Chính trị làm như vậy là vì có lợi ích cao cả của nhân dân Việt Nam và phù hợp với mục tiêu suốt đời của Hồ Chí Minh.
Không chỉ người Việt Nam mà người nước ngoài cũng không biết nên hiểu thế nào về nhân cách đích thực và di sản mà Hồ Chí Minh để lại. Nhiều người xem ông là một vị thánh suốt đời cống hiến cho sự nghiệp giải phóng người dân bị áp bức khỏi ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc phương Tây, người làm cho chuyên chính cộng sản phát triển khắp thế giới (có lẽ là quan điểm tệ hại nhất) hoặc là nhân vật cơ hội chủ nghĩa vô nguyên tắc, người đã sử dụng danh tiếng đứng đắn và giản dị của mình để ca tụng bản thân. Khi UNESCO tài trợ cho một hội nghị tại Hà Nội năm 1990 kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông, những lời ca ngợi Hồ Chí Minh tại hội nghị bị bác lại bằng rất nhiều quan điểm chỉ trích của những người đến từ khắp nơi trên thế giới, những người phản đối sự sùng bái một con người mà họ cảm thấy phải chịu trách nhiệm cuối cùng đối với cái chết của quá nhiều đồng bào mình.
Đối với nhiều nhà quan sát, trọng tâm của cuộc tranh luận về Hồ Chí Minh tập trung vào vấn đề nên xác định ông là nhà cộng sản hay là người dân tộc chủ nghĩa. Rất nhiều người bạn nước ngoài của ông khăng khăng cho rằng ông Hồ là người yêu nước hơn là nhà cách mạng theo chủ nghĩa Mác. Dường như ông Hồ khẳng định quan điểm này năm 1961 khi ông công khai tuyên bố rằng chính lòng mong muốn cứu vớt đồng bào ngay từ đầu đã đưa ông đến với chủ nghĩa Lê-nin. Nếu ông cũng nói như vậy trong một số dịp khác, thì có lẽ không có lời giải thích nào rõ ràng hơn lời giải thích mà ông nhận xét với một điệp viên của Mỹ Sác-lơ phen năm 1945 rằng ông xem chủ nghĩa cộng sản là phương tiện đạt được mục tiêu dân tộc chủ nghĩa. Khi được yêu cầu giải thích, ông nói:
“Trước hết, bạn phải hiểu rằng giành độc lập từ một cường quốc lớn như Pháp là một nhiệm vụ nặng nề không thể đạt được nếu không có sự giúp đỡ từ bên ngoài, không nhất thiết là trang thiết bị như súng đạn mà bằng các cuộc tiếp xúc và những lời khuyên. Trên thực tế, không thể giành được độc lập bằng ném bom hay làm những việc tương tự như vậy. Đó là sai lầm mà các cuộc cách mạng trước đó thường gặp phải. Phải giành độc lạp bằng tổ chức , tuyên truyền, huấn luyện, và kỷ luật. Cũng cần phải có niềm tin, nguyên tắc chỉ đạo, phân tích thực tiễn, có thể bạn phải vận dụng kinh thánh. Chủ nghĩa Mác-Lê-nin đã trao cho tôi những khuôn mẫu như vây”.
Phen hỏi ông Hồ lý do tại sao ông không chọn chế độ dân chủ hay một hệ thống chính trị khác mà lại chọn một chế độ mà rõ ràng sẽ làm tổn thương thiện chí của Mỹ, đất nước mà ông nói ông rất ngưỡng mộ? Hồ Chí Minh trả lời chỉ khi ông đến Mát-xcơ-va thì ông mới nhận được viện trợ thực tế. Liên Xô là nước cường quốc duy nhất trong số các cường quốc thể hiện “bạn lúc khó khăn mới là bạn tốt” Lòng trung thành của Liên Xô đã giành được lòng trung thành của Hồ Chí Minh.
Điều rõ ràng là đối với Hồ Chí Minh sự sống còn của đất nước trước hết và luôn luôn là mối quan tâm lớn nhất của ông. Quả thực, điều đó khiến các nhà lãnh đạo Đảng cao cấp ở Hà Nội, Bắc Kinh và Mát-xcơ-va nghi ngờ không biết ông Hồ có phải là một nhà Mác-xít thực thụ hay không. Tuy nhiên, điều đó rõ ràng là, không nói đến chuyện ông có phải là một nhà Mác-xít chân chính hay không, ông là một nhà yêu nước có trái tim của nhà cách mạng tận tâm. Khuynh hướng cách mạng trong quan điểm của ông rất có thể là kết quả của những điều ông chứng kiến trong khi làm việc trên tàu thuỷ trước chiến tranh thế giới I. Ông nhận thấy nỗi đau khổ của đồng bào ông cũng là nỗi đau khổ của các dân tộc Á, Phi sống dưới ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc. Điều đó càng được củng cố thêm trong thời gian ở Pa-ri. Tại đó, ông nhận thấy thái độ giả dối của người Pháp không vận dụng những lý tưởng của mình vào các dân tộc thuộc địa. Hai năm ở Mat-xcơ-va trong những ngày đầu đầy sóng gió của cuộc thử nghiệm Xô-viết dường như đã làm dấy lên lòng nhiệt thành ngây thơ mong muốn xây dựng một xã hội cộng sản trong tương lai. Trong thế giới hoàn toàn mới mẻ của ông Hồ, chủ nghĩa yêu nước bị thay thế bởi quan điểm của Lê-nin về một liên bang xã hội chủ nghĩa cộng sản toàn cầu trong tương lai.
Rõ ràng, những sự kiện sau này có tác động cảnh tỉnh thái độ của ông. Những vụ thanh trừng ở Mát-xcơ-va, rõ ràng gần như đe doạ tới sự an toàn của ông, chắc hẳn làm tổn hại tới niềm tin của ông vào cuộc thử nghiệm của Xô-viết. Việc Mát-xcơ-va không tôn trọng cam kết tích cực ủng hộ sự nghiệp giải phóng dân tộc thuộc địa khiến ông nghi ngờ chủ nghĩa quốc tế vô sản trong một thế giới chính trị cường quyền. Tuy nhiên, không gì có thể làm lung lay niềm tin vào tính siêu việt của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Cho tới cuối đời, ông vẫn theo quan điểm cho rằng mô hình tư bản chủ nghĩa đã gây đau khổ vô hạn cho hàng triệu người bị áp bức trên toàn châu Á, châu Phi và Mỹ La-tinh.
Do đó, vấn đề không phải là liệu ông là một nhà dân tộc chủ nghĩa hay một người cộng sản – bằng con đường riêng của chính mình, ông là cả hai. Nói đúng hơn đó là vấn đề sách lược của ông. Hồ Chí Minh là một người tin vào nghệ thuật nắm bắt thời cơ, điều chỉnh lý tưởng của mình tuỳ theo điều kiện của phong trào. Đối với nhiều người, thậm chí những người trong đảng mình, lối cư xử của ông có vẻ như không có nguyên tắc, nhưng theo ông có thể đạt được tiến bộ bằng những bước rất nhỏ. Đối với Hồ Chí Minh, theo một câu trích nổi tiếng của một nhà khoa học xã hội Anh Oát-tơ-Bê-gơ-hốt, chín quá hoá nẫu. Ông Hồ có thái độ thực dụng trong chính sách đối ngoại. Thí dụ, ông thà chấp nhận những giải pháp thoả hiệp năm 1946 và 1954 chứ không tiến hành chiến tranh trong những điều kiện bất lợi. Ông còn có thái độ thực dụng trong những vấn đề nội bộ, luôn tin rằng cần từng bước tiến hành quá trình chuyển sang xã hội chủ nghĩa đồng thời với nỗ lực giành được sự ủng hộ rộng rãi của quần chúng. Giống như Tổng thống Mỹ, Giôn-xơn, Hồ Chí Minh cho rằng ông là một nhà giao tiếp lớn, một người lãnh đạo tận dụng mọi cơ hội để đạt được mục đích của mình không bằng sức mạnh mà bằng lý lẽ. Trong một số trường hợp, ông thành công. Một số trường hợp khác, sự sẵn lòng thoả hiệp của ông đã tước đi vũ khí của đối thủ và cho phép ông biến yếu điểm quân sự trở thành thế mạnh chính trị. Đồng thời, hình ảnh giản dị , tốt bụng và vị tha tạo ra sức quyến rũ mạnh mẽ và do vậy đóng góp ý nghĩa vào sự ủng hộ rộng rãi ở trong nước cũng như ngoài nước đối với cách mạng và cuộc đấu tranh giành độc lập. Khó có thể tưởng tượng được làn sóng ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam trong những năm 60 trên toàn thế giới nếu như gương mặt ở Hà Nội lúc đó lại là Lê Duẩn hay Trường Chinh chứ không phải là Hồ Chí Minh.
Liệu hình ảnh Hồ Chí Minh có xác thực không? Cõ lẽ không có câu trả lời dễ dàng cho câu hỏi. Rõ ràng ông không thích sống xa hoa mà chỉ thích sống giản dị, khiêm tốn. Tuy nhiên, nhiều người hiểu rõ ông Hồ hơn nhận xét rằng có vẻ giả tạo bên ngoài cách ông sống như một người khổ hạnh, một học giả Nho giáo trở thành một nhà cách mạng theo chủ nghĩa Mác. Trong thời gian sống ở Pháp sau Chiến tranh thế giới thứ hai, ông nói với thư ký riêng của mình, ông Vũ Đình Huỳnh rằng đôi khi nhưng giọt nước mắt giả dối cũng có ích để truyền đạt ý tới người nghe. Nhiều năm sau , đại diện của Ba Lan tại Uỷ ban giám sát và kiểm soát tại Hà Nội nhận xét rằng mặc dù công khai phản đối , ông Hồ dường như thích đồng bào khen mình. Cái tôi của ông rõ ràng đã nổi lên trong những năm 40 và 50 khi ông viết hai cuốn tự truyện tự khen mình dưới bút danh khác. Không chỉ những người khác nói về hình ảnh có tính chất thần thánh của Hồ Chí Minh mà bản thân ông còn khai thác điều này.
Dĩ nhiên có những lý do chính trị đáng để ông khuyến khích thái độ sùng bái cá nhân này. Năm 1947, một phóng viên Mỹ hỏi ông tại sao ông lại được ca tụng nhiều như vậy, ông trả lời rằng một phần người ta xem ông là biểu tượng của những ước nguyện của bản thân họ. Ông nói thêm có lẽ lý do là ông yêu tất cả trẻ em Việt Nam như thể chúng là cháu ông và để đáp lại họ dành tình yêu đặc biệt cho “Bác Hồ”. Thời gian đầu của cuộc đời ông khi dân tộc và nền văn hoá dường như đứng trên bờ vực của sự diệt vong , ông đã chứng kiến sự sùng kính mà thanh niên Việt Nam dành cho những ông đồ nho quê mùa, những người dành trọn cuộc đời và những lời giáo huấn của họ theo đuổi nguyên tắc bất dịch của nghĩa nhân văn Nho giáo. Trong suốt đời mình, ông Hồ dùng tính cách đó làm phương tiện cứu vớt nhân dân và phong trào nổi dậy của dân tộc mình.
Không biết quyết định đó đem lại lợi ích chính trị gì nhưng đôi khi Hồ Chí Minh phải trả giá cho hình ảnh vị tha và thực dụng của mình. Ông là một nhà hoà giải luôn tin vào sức mạnh của thuyết phục hơn là hăm doạ khi chỉ đạo Đảng Cộng sản Đông Dương. Ngay từ đầu ông dựa vào sách lược lãnh đạo tập thể hơn là dựa vào sự thống trị của một cá nhân như cách của Lê-nin, Xta-lin, hay của Mao Trạch Đông. Trong thời gian những năm 30 và 40, sức mạnh thuyết phục, trên cơ sở uy tín và những gì ông đã trải qua trong suốt một thời gian dài là nhân viên Quốc tế Cộng sản, nhìn chung là thành công. Tuy nhiên, điều đó bắt đầu không có hiệu quả trong những năm 50 khi các cộng sự cao cấp bắt đầu đặt câu hỏi về tính đúng đắn trong những khuyến nghị của ông và xác lập vai trò của họ khi vạch ra chiến lược. Cuối cùng, Hồ Chí Minh gần như bất lực. Những cộng sự chỉ hứa sẽ cân nhắc những ý kiến của ông song những ý kiến đó ngày càng bị bác bỏ phản đối và bị xem là không thích hợp.
Phải chăng Hồ Chí Minh đã ngây thơ và tin vào cách ngôn của Tôn tử cho rằng chiến thắng thành công nhất là chiến thắng không dùng bạo lực? Nhìn lại, có thể nói rằng ông hơi nhẹ dạ vì hy vọng sẽ thuyết phục được Pháp rút khỏi Việt Nam một cách hoà bình sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Sau đó một vài năm, ông Hồ đã tính toán sai khi ông lập luận rằng Mỹ có thể quyết định chấp nhận chính phủ do Đảng Cộng sản thống trị ở Việt Nam nếu như chính phủ đó được thành lập không làm Mỹ bẽ mặt. Tuy nhiên, có bằng chứng cho rằng ông thường đánh giá tình hình quốc tế rất rõ ràng và nhận thấy cần phải có chính sách linh hoạt lường trước được tất cả các khả năng khác nhau. Mặc dù ông luôn cố đạt được mục tiêu của mình mà không dùng đến bạo lực, ông cũng săn sàng dùng tới lực lượng quân sự khi cần thiết. Những cộng sự của ông không thể làm những điều tương tự vì họ thiếu đi sự tinh tế và kiên nhẫn theo đuổi một giải pháp ngoại giao.
Người ta thường nói rằng Mỹ mất đi cơ hội vàng, tránh được một cuộc xung đột trong tương lai ở Đông Dương khi Mỹ không đáp lại những cử chỉ thiện chí của Hồ Chí Minh cuối chiến tranh thế giới thứ hai. Xét cho cùng, là người thực dụng ông Hồ chắc đã nhận ra rằng sau chiến tranh, Việt Nam có thể giành được nhiều viện trợ hơn từ Oa-sinh-tơn chứ không phải từ Mát-xcơ-va. Ông cũng thú nhận mình là người ngưỡng mộ văn minh Mỹ và đã đưa những lý tưởng của Mỹ vào bản Tuyên ngôn Độc lập. Nhiều nhà chỉ trích quả quyết rằng sau khi xem xét lại tình hình Đông Dương trong bối cảnh Mỹ và Liên Xô cạnh tranh ngày càng quyết liệt về tư tưởng, chính quyền Tơ-ru-man đã chuẩn bị cho cuộc chiến tranh Việt Nam.
Mặc dù điều này có phần đúng, cũng có thể phần nào là vì người Mỹ chỉ có hiểu biết mang tính huyền thoại về Hồ Chí Minh. Trước hết, có chứng cứ cho thấy ông Hồ đã tính toán chứ không phải là vấn đề hệ tư tưởng khi ông bày tỏ sự ngưỡng mộ của mình đối với Mỹ. Ông Hồ ca ngợi văn minh Mỹ cũng giống như ông ca ngợi nhiều đồng minh của mình và những đối thủ tiềm tàng của ông, chủ yếu để giành được lợi thế chiến thuật. Mặc dù ông ta luôn nghĩ rằng có khả năng các nhà lãnh đạo Mỹ cuối cùng sẽ nhận ra can thiệp vào Đông Dương là vô ích, ông luôn tin rằng những nhà lãnh đạo đó là đại diện cho hệ thống tư bản chủ nghĩa bóc lột ở mức độ nào đó có thể nguy hiểm cho các nước thành viên của khối xã hội chủ nghĩa. Ông không nghi ngờ về lòng trung thành của mình đối với cuộc chiến.
Vấn đề nổi lên là liệu Hồ Chí Minh có toàn quyền vạch ra chiến lượng ở Hà Nội giống như Xta-lin thống trị chính trường ở Mát-xcơ-va hay không. Trên thực tế, rất nhiều đồng nghiệp của ông Hồ không có chung niềm tin với ông về khả năng không dùng vũ lực để giải phóng dân tộc và có thể phản đối những điều mà họ cho là thoả hiệp vô nguyên tắc với kẻ thù giai câp. Giống như các Tổng thống phải cân nhắc những vấn đề nội bộ khi họ đề ra những mục tiêu chính sách đối ngoại của mình, Hồ Chí Minh cũng phải tranh luận với các cử tri của mình, chủ yếu với những cộng sự luôn luôn sốt ruột của mình trong Bộ Chính trị – rất nhiều người trong số họ như Trường Chinh và Lê Duẩn không thể chia sẻ thái độ nhẹ dạ tin vào sức mạnh của lỹ lẽ.
Có những lý do chính đáng cho thấy cử chỉ hoà giải của Nhà Trắng năm 1945 và năm 1946 đủ để đưa Hồ Chí Minh và các cộng sự của mình theo con đường tư bản chủ nghĩa. Rõ ràng việc Mỹ công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hoà rất được Hà Nội hoan nghênh song điều đó chưa đủ làm cho Đảng Cộng sản Đông Dương từ bỏ miền tin vào Mát-xcơ-va và từ bỏ học thuyết Mác-Lê-nin. Rất giỏi trong việc cân bằng quan hệ giữa Mát-xcơ-va và Bắc Kinh, ông Hồ và các cộng sự của mình chắc đã phải cố lèo lái trong quan hệ với Oa-sinh-tơn nhằm đạt được mục tiêu của mình. Như chúng ta đã biết, một số mục tiêu này có liên quan tới các nước khác. Cuối cuộc chiến tranh Thái Bình Dương, Đông Nam Á đã trải qua một giai đoạn bất ổn chính trị và xã hội tương đối lớn. Nhiều người vẫn còn nghi ngờ về khả năng các nhà hoạch định chính sách của Mỹ có sẵn sàng ngồi đàm phán hay không trong khi Hà Nội tìm cách thúc đẩy phong trào cách mạng đang còn trong kỳ trứng nước ở các nước láng giềng Lào và Cam-pu-chia.
Tuy nhiên, việc các nhà hoạch định chính sách ở Pa-ri và Oa-sinh-tơn không nắm lấy bàn tay hữu nghị mà Hồ Chí Minh chìa ra cho họ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đã đem lại hậu quả xấu cho nhân dân Việt Nam và toàn thế giới. Tuy có mạo hiểm khi trao quy chế chính đáng cho một chính phủ mới ở Hà Nội, rõ ràng chính phủ này còn tốt hơn sự lựa chọn khác. Nếu vấn đề đạo đức và chính trị trong những nguyên tắc tư tưởng của Hồ Chí Minh ưu việt hơn so với những nguyên tắc của những đối thủ của ông là một vấn đề cần phải tranh luận, thì rất khó có thể bác bỏ luận điểm cho rằng trong điều kiện lúc đó các nhà lãnh đạo Việt Minh là lực lượng được chuẩn bị tốt nhất để đối phó với rất nhiều vấn đề có tác động đến các đồng bào của họ. Khả năng duy trì sự ủng hộ rộng rãi của quần chúng đối với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ít nhất là ở miền Bắc, phụ thuộc và khả năng duy trì thái độ trung thành của một thế hệ đấu tranh chống lại những âm mưu của Pháp và sau này là của Mỹ.
Ngày nay, ba thập kỷ sau khi ông qua đời, tệ sùng bái cá nhân Hồ Chí Minh vẫn tồn tại ở Hà Nội. Tệ sùng bái này chủ yếu làm chỗ dựa cho một chế độ tuyệt vọng tìm cách duy trì tính chính đáng của mình khi tình hình đã thay đổi theo thời gian. Đối với nhiều người Việt Nam (đặc biệt là ở miền Bắc sự sùng kính ông Hồ vẫn rất mạng mẽ), hình ảnh ông vẫn còn đậm nét. Hình ảnh của ông mờ nhạt hơn ở miền Nam và ở đây chính phủ trung ương thường bị mất lòng tin, những người đại diện của chính phủ bị coi là những người đầu cơ chính trị. Tuy nhiên, những ước vọng suốt đời không dứt của ông Hồ về một đảng với nền tảng là sự trong sáng chính trị và quan tâm đến dân ngày nay không còn nguyên vẹn nữa. Trong những năm gần đây, hầu như chẳng ai làm gì để giải quyết nạn tham nhũng đang đe doạ nhấn chìm cuộc cách mạng trong sự giận giữ và bất bình đang dâng cao của nhân dân.
Rất khó khăn duy trì sự sùng bái ông Hồ trong tương lai. Có những dấu hiệu rõ ràng cho thấy cho dù hầu hết thanh niên Việt Nam tôn trọng Hồ Chí Minh vì những đóng góp của ông cho sự nghiệp giành độc lập và tái thống nhất đất nước, nhiều người không còn coi ông là nhân vật trung tâm trong đời sống của họ. Gần đây, một thanh niên Việt Nam nói với tôi “Chúng tôi kính trọng ông Hồ, nhưng chúng tôi không quan tâm đến chính trị”. Đối với thế hệ trẻ lớn lên trước thềm thiên niên kỷ tới, ảnh hưởng của Hồ Chí Minh cũng chỉ như ảnh hưởng của A-bra-ham-Lin-côn đối với người dân Mỹ bình thường.
Thậm chí trong số những người thấy được giá trị của sự sùng bái ông Hồ, nhiều người xem đó như một thứ thuốc phiện đối với nhân dân. Như một trí thức Việt Nam nhận xét: Tất cả những người sống trong thời kỳ chiến tranh phải có những điều bí ẩn riêng của họ. Ngày nay, nhiều người cảm thấy rằng quan điểm chính thức coi Hồ Chí Minh như một mẫu mực hoàn hảo về đạo đức cách mạng cần phải được thay thế bằng một hình ảnh thực tế hơn, mô tả ông như một con người có thể có sai lầm. Trong những năm gần đây, có những lời đồn đại không được kiểm chứng về những đám cưới trong quá khứ và những vụ tình ái – và thậm chí những người con hoang – đã được lưu truyền rộng rãi bất chấp những lời chối bỏ mạnh mẽ về tính xác thực của nó từ các nguồn tin chính thức. Một bộ phim gần đây của Việt Nam đã bóng gió thể hiện mối quan hệ bất chính mà theo như đồn đại xảy ra trước khi ông bắt đầu đi Châu Âu.
Tương rự như vậy trên chính trường thế giới, hình ảnh của ông Hồ là một nhân vật có ảnh hưởng sâu rộng trong thế kỷ 20 không còn sức quyến rũ như cách đây một thế hệ, mặc dù sự hiện diện của những bức chân dung của ông trong một cửa hàng của một người di cư Việt Nam ở Ca-li-phoóc-ni-a đã đủ gây ra sự tức giận cho những người Mỹ gốc Việt. Cách đây một thế hệ, các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc nổ ra trên khắp thế giới thứ ba lúc đó nước Mỹ dường như là một nền văn minh đang suy tàn. Trong điều kiện như vậy, ông Hồ có vẻ như là tiếng nói của tương lai. Với việc chủ nghĩa cộng sản mất uy tín và chủ nghĩa tư bản đang lên trước thềm thiên niên kỷ mới, sự kết hợp đặc biệt của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội của ông Hồ có vẻ như là điều kỳ quặc, giống như Cách mạng văn hoá của Mao Trạch Đông hoặc những ý tưởng tinh thần của Ma-hát-ma Gan-đi. Ngày nay, Hồ Chí Minh thường được xem như là một nhà chiến thuật cách mạng thông minh của cuộc cách mạng và chỉ vậy thôi. Những bài viết của ông có vẻ như tẻ nhạt, phong cách tầm thường và không có nội dung tư tưởng. Tầm nhìn của ông về cách mạng thế giới xa rời thời gian không khác gì Mác nhìn người vô sản giận dữ đập cửa của những người áp bức tư bản chủ nghĩa.
Tuy nhiên, thái độ như vậy không đánh giá đúng tầm quan trọng của Hồ Chí Minh đối với thời đại của chúng ta. Nếu như tầm nhìn tương lai của ông về một xã hội cộng sản thế giới trong tương lai không hoàn mỹ (ít nhất giống như ngày nay người ta nhìn nhận) thì người ta cũng không phủ nhận rằng sự nghiệp mà ông thúc đẩy và chỉ đạo tạo ra những thời khắc có một không hai trong thế kỷ 20, là đỉnh cao của kỷ nguyên giải phóng dân tộc ở thế giới thứ ba và sự thừa nhận rõ ràng đầu tiên về hạn chế của chính sách ngăn chặn cộng sản của Mỹ . Sau Việt Nam, thế giới không bao giờ như cũ nữa.
Khó tưởng tượng ra một cuộc cách mạng Việt Nam không có sự tham gia tích cực của Hồ Chí Minh. Mặc dù xu hướng lịch sử hiện tại nhấn mạnh tầm quan trọng của những lực lượng xã hội lớn trong việc tạo ra những sự kiện lớn của thời đại chúng ta, điều rõ ràng là trong nhiều trường hợp như trong cuộc cách mạng Bôn-sê-vích và cuộc nội chiến của Trung Quốc, vai trò cá nhân đôi khi rất lớn. Điều đó cũng đúng với Việt Nam . Ông Hồ không chỉ là người sáng lập Đảng và sau này là Chủ tịch nước, mà ông còn là một nhà chiến lược chủ chốt và là một biểu tượng giành được nhiều cảm tình nhất. Một nhà tổ chức tài năng cũng như là một nhà chiến lược tinh tế và một nhà lãnh đạo lôi cuốn, Hồ Chí Minh là một nửa Lê-nin và một nửa Gan-đi. Đó là một sự kết hợp sống động. Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam là một sự thực không thể phủ nhận làm thay đổi số phận của mỗi cá nhân, nếu không có ông thì có thể nó đã trở thành một vấn đề hoàn toàn khác và một kết cục hoàn toàn khác.
Đối với nhiều nhà quan sát thì bi kịch của cuộc đời Hồ Chí Minh là một tài năng kỳ lạ về nghệ thuật lãnh đạo mà đáng lẽ ra phải được sử dụng để hoàn thiện hệ tư tưởng chưa hoàn hảo và trên thực tế, hệ tư tưởng đó bị chối bỏ bởi nhiều người trước đây đã chân thành theo đuổi trên toàn thế giới, mặc dù vẫn chưa được từ bỏ trên đất nước của ông. Một câu hỏi chưa có trả lời là liệu trong hoàn cảnh khác, chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành có quyết định theo đuổi lý tưởng và tập quán của nền văn minh phương Tây đương đại hay không. Giống như nhiều nhà lãnh đạo châu Á trong những ngày đó, những gì ông đã trải qua khi sống ở các nước tư bản chủ nghĩa không phải là những điều dễ chịu và những tội ác gây ra bởi chủ nghĩa thực dân của phương Tây mà ông nhận thấy trong những năm đầu của cuộc đời mình đã làm tổn thương tới sự nhạy cảm của ông. Tuy nhiên, rất nhiều niềm tin triết lý của ông dường như đúng với các lý tưởng của phương Tây hơn là với Các Mác và Lê-nin. Mặc dù ông tìm cách xây dựng hình ảnh của bản thân mình trước các cộng sự của ông như một nhà Mác-xít chính thống, dường như rõ ràng rằng ông không thích những vấn đề mang tính học thuyết giáo điều và thường cố làm mềm những giáo lý khô khan của cộng sản khi áp dụng vào Việt Nam. Tuy nhiên, là người thành lập Đảng và Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về những hậu quả đối với những hành động của mình, dù tốt hay xấu xuất phát từ điều kiện Việt Nam hiện nay, thậm chí nhiều người nhiệt tình bảo vệ ông cũng phải thừa nhận rằng di sản của ông là tốt xấu lẫn lộn.
Hồ Chí Minh là “người tạo ra sự kiện” (trong một đoạn trích đáng nhớ của Sít-ni Húc, triết gia của Mỹ), một “đứa con của khủng hoảng” hiện thân hai sức mạnh trung tâm trong lịch sử của Việt Nam hiện đại: mong muốn độc lập dân tộc và tìm kiếm công lý xã hội và kinh tế. Do hai sức mạnh này vượt qua biên giới nước mình, ông Hồ có khả năng chuyển tải thông điệp cho các dân tộc thuộc địa trên toàn thế giới và lên tiếng đòi chân lý giá trị và tự do thoát khỏi sự áp bức của chủ nghĩa đế quốc. Cho dù người dân của ông có đánh giá cuối cùng về di sản của ông như thế nào chăng nữa, ông cũng đã nằm trong đền thờ các vị anh hùng cách mạng dành cho người đấu tranh mạnh mẽ đem lại cho những người thống khổ tiếng nói thực sự.