Tổng số lượt xem trang

Thứ Năm, 16 tháng 1, 2014

Thứ Sáu, 17-01-2014 - VẤN ĐỀ HOÀNG SA DƯỚI KHÍA CẠNH PHÁP LÝ - Bài học đắng cay

CHÍNH TRỊ-PHÁP LUẬT
- Người Việt trong và ngoài nước tưởng nhớ trận hải chiến Hoàng Sa 1974 (RFA). – Chiến tranh thử thách và cơ hội để lấy lại Hoàng Sa (DĐXHDS).
- Nhìn về 40 năm hải chiến Hoàng Sa – Bài 1: Trung Quốc chiếm Hoàng Sa như thế nào? (PLTP). – Câu kết Mỹ-Trung và cuộc hải chiến Hoàng Sa (TQ).  – Vì sao Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa (VNE).  – 30 phút đấu pháo trong trận hải chiến Hoàng Sa. – Nga tổ chức hội thảo Quần đảo Hoàng Sa 40 năm qua (VOV).
- Phỏng vấn blogger Mẹ Nấm Gấu về Hải chiến Hoàng Sa và các chiến sỹ Hải quân Việt Nam Cộng Hòa (DLB). – Nam Dao – Mộ Gió (Dân Luận). “Mất Hoàng Sa,/ Mộ gió biết bao/ Gió nào cũng buồn/ Gió nào cũng đau/ Góp gió thành bão/ Cho bọn cướp đảo/ Góp gió thành phiền/ Cho bọn cướp biển/ Góp gió thành lạnh/ Cho bọn cướp mạng!

1<- Cựu binh: ‘Hoàng Sa đáng ra không mất’ (BBC).  – Audio phỏng vấn ông Đỗ Văn Thọ, cựu hạ sỹ quan điện tử trên khu trục hạm HQ-4 Trần Khánh Dư: ‘Sẵn sàng lên đường tái chiếm Hoàng Sa’. “Tôi vẫn còn căm hận lắm đấy. Tôi giờ sức khoẻ còn dồi dào lắm, nếu phải ra đi để tái chiếm lại [Hoàng Sa] thì tôi cũng sẵn sàng ra đi thôi”.  – Audio phỏng vấn bà Huỳnh Thị Sinh, góa phụ của ông Ngụy Văn Thà, thuyền trưởng hộ tống hạm Nhựt Tảo HQ-10: ‘Tôi đau buồn nhưng hãnh diện’. – ‘Bài học 40 năm và hành động hôm nay’. – BÀI HỌC ĐẮNG CAY (Bùi Văn Bồng).
- Ông Nguyễn Khắc Mai gửi thư cho Thủ tướng, Bí thư và Chủ tịch Hà Nội về việc Tưởng niệm Hải chiến Hoàng Sa (DĐXHDS). “Nên thay mặt Chính Phủ, Thủ đô Hà Nội có lời tuyên bố nhân sự kiện 40 năm mất hoàng Sa. Hãy cùng xuống đường cùng Nhân Dân và Tuổi trẻ/ Hãy chỉ thị cho Đoàn TNCS HN, Hội SV tổ chức cho thanh niên tình nguyện, mang nước uống, quạt, xôi, bánh, đến tiếp sức cho nhân dân, như họ đã làm khi đám tang Cố Đại tướng Võ Nguyên Giáp/ Hãy chỉ thị cho công an ăn mặc sắc phục chỉnh tề, với tinh thần phụng sự Dân trong một công việc có ý nghĩa lớn,trang nghiêm, hòa nhã, văn hóa để bảo vệ cho cuộc mít tinh này…” – Nhiều lời kêu gọi xuống đường nhân 40 năm hải chiến Hoàng Sa (VOA). – Nguyễn Anh Dũng: THỨC TỈNH (DĐXHDS).
- Thông cáo báo chí: lá thư gửi Liên Hợp Quốc được 10 nghìn chữ ký (DĐXHDS).
- Hoa bàng vuông tô sắc xuân Trường Sa (TP). – Trao hơn 1 tỉ đồng cho bộ đội Trường Sa xuất ngũ (TT).  – Xuân sớm trên nhà giàn (QĐND).
- PHÓ THỦ TƯỚNG GỐC TÀU HOÀNG TRUNG HẢI CHỈ ĐẠO XÂY “NGHĨA TRANG LIỆT SỸ” 25 TỶ CHO 52 NGƯỜI TRUNG QUỐC (Lê Anh Hùng).
- Khuyến cáo ngư dân phản ánh tàu nước ngoài xâm phạm lãnh hải Việt Nam (TN).
- Vì sao Trung Quốc cải tổ quân đội và tăng cường quân khu Quảng Châu ? (RFI). – Học giả TQ vạch sai lầm của việc dùng vũ lực chiếm đảo (KT).
- Philippines khuyên ngư dân ra biển đánh cá, bất chấp các quy định của Trung Quốc (RFI). – Philippines tố Trung Quốc bắt nạt nước nhỏ (NLĐ).  – Philippines kêu gọi ngư dân phớt lờ lệnh cấm đánh cá của Trung Quốc ở biển Đông (TN).  – Hải quân Philippines sẽ hộ tống tàu cá (TT).  – Philippines thách thức trực diện Trung Quốc (VnM).
- Đấu khẩu Nhật-Trung thêm gay gắt (RFI). – Kiềm chế ‘chảo dầu’ thế nào ở Đông Á? (VNN).  – Trung Quốc công kích Nhật Bản về chuyến công du châu Phi (VOA).  – Đại sứ Trung Quốc lăng mạ Thủ tướng Nhật là “kẻ phá đám” (Soha).  – Tàu sân bay Nhật có thể thành trung tâm chỉ huy khi xung đột (TP).
- “Mỹ không nên rời mắt khỏi hành động khiêu khích của Trung Quốc” (GDVN). – Mỹ chê Trung Quốc thiếu kinh nghiệm trên biển (NLĐ).
- Điều trần tại Quốc hội Mỹ về tình trạng tù nhân lương tâm VN (VOA). – Video: Những người đến từ Việt Nam họp báo trước giờ đi vận động nhân quyền cho Việt Nam (Trí Tuệ). – Thân nhân những tù nhân lương tâm VN kêu cứu trước phiên điều trần (DCCT). – Trực tiếp: Buổi điều trần về Tù Nhân Lương Tâm tại Quốc hội Mĩ (DLB).
- Nguyễn Hữu Cầu, người tù lâu nhất VN sắp được thả? (RFA). - Tin rất vui từ Quỹ Tù nhân Lương tâm: Thông tin chính thức, TNLT Nguyễn Hữu Cầu sẽ được về trong dịp Tết (FB Tin Không Lề).
- Cao Huy Thuần: Chuyện cũ nói lại: “QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN” (viet-studies). – Nguyễn Nhân Trung – Dấu hiệu mới với tình hình dân chủ nhân quyền Việt Nam (Dân Luận). – Thanh Hóa: Công an đốt tiền để chống nhân quyền, dân phải xin gạo cứu đói (DLB).
- Trần Quang Hạ: Nghĩ về 2 bài viết của ông Đặng Văn Âu (ĐCV). “Những tố giác tội ác cộng sản của tác giả là không mới, chưa kể đến tác dụng ngược khi kêu gọi ai đó xuống đường, nằm lăn ra để công an xả súng bắn hay xe tăng cán lên cho máu đổ thịt tan để phát động cuộc cách mạng bạo lực“.
- Phạm Trần: Tương lai đảng CSVN và chế độ đã đặt trên bàn cân (DCCT). – Mình thương Đảng quá chừng (Nguyễn Hoa Lư).  – Những con bạch tuộc (Phi Vũ).
- Về bà Phạm Thị Triều, vợ nhà văn Giang Nam: Cô Du Kích (Blog RFA). “Tuy được an táng năm 2013 nhưng tôi e rằng cô du kích của chúng ta đã chết hồi năm 1977, vào lúc những kẻ khai sinh ra Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam quyết định khai tử nó. Còn với quần chúng thì cô chết sớm hơn nữa – từ tháng 9 năm 1975 – ngay sau khi mà ‘chính quyền cách mạng’ đã hiện nguyên hình là một bọn cướp ngày, qua phương thức đổi tiền và cải tạo công thương nghiệp tư doanh, ở miền Nam“.
- Việt Nam hôm nay, 16.01.2014 (DCCT). – Vô Thường – Lối sống này thì rồi một ngày nào đó bệnh tật sẽ kéo đến (Dân Luận). – Ba mảng hành động xoay quanh “chuyện tử tế”([1]) (Boxitvn).
- Lê Công Giàu: Cải cách là đòi hỏi cấp bách (Boxitvn).
- Hiến pháp – Bước tiến mới trong quá trình đổi mới toàn diện (TTXVN).
- Chủ tịch nước Trương Tấn Sang: Xử lý nghiêm cán bộ thoái hóa (NLĐ).   – ‘Sửa sai càng làm tăng uy tín công an’ (BBC). – Tướng Chung trảm tướng: Chuyện tướng Thước, BT Thăng, BT Tuyển (Soha). – Khởi tố, tạm giam công an xã đánh học sinh gây tử vong (NLĐ).  – Ghi hình điều tra viên tiếp xúc bị can (PLTP).
- Hạ Đình Nguyên: Tham nhũng, chống tham nhũng và thể chế (Boxitvn/DĐXHDS).
- Nguyễn Hưng Quốc: Bản án dành cho chế độ (Blog VOA). “Bất cứ một thái độ chần chừ nào, ví dụ, bỏ qua lời khai của Dương Chí Dũng đối với Thứ trưởng Bộ công an Phạm Quý Ngọ, chẳng hạn, cũng đều tố giác việc bao che tham nhũng của đảng và chính phủ. Niềm tin của dân chúng đối với chế độ, nếu còn, sẽ nhanh chóng bị sụp đổ vì sự bao che ấy”.  – Bùi Tín: Thanh bảo kiếm han rỉ.
- “Bắt cọp” coi chừng thành … bóp c.! (DĐXHDS). – Lời đồn – đại án tham nhũng và chính trị gia lão luyện (Han Times). – Trần Mạnh Trung, cán bộ hưu trí: Vì sao Dương Tự Trọng được khen ngợi (DLB). – Cuộc chiến bắt sâu và hai ngả đường Dân tộc (Bà Đầm Xòe).
- ÔNG NGUYỄN BÁ THANH NGHE ĐƯỢC Ý KIẾN NHIỀU PHÍA (Tân Châu).
- Đồng phạm của Huyền Như (TBKTSG).  – Luật sư của VietinBank nói khách hàng tự dính bẫy lãi suất cao (PNTP).  – Xét xử đại án Huyền Như: Căng thẳng quanh trách nhiệm của Vietinbank (TN).  – Nữ đại gia: “cáo trạng gây hình ảnh xấu cho tôi” (VNN).  – Bị Huyền Như lừa nhưng “níu” VietinBank (PLTP).  – Luật sư của Vietinbank: ‘Chúng tôi không có trách nhiệm trả nợ’ (VNE).
- Vụ án bầu Kiên: Ông Phạm Trung Cang có tội hay không? (NLĐ).
- “Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thăm Báo Năng lượng Mới – PetroTimes” – tưởng lạ mà không lạ! (DĐXHDS).
- Trong bản tin tối 15/1, có điểm bài – GS Hoàng Xuân Phú: “Được trả tiền mới hót thì đâu còn là chim?” (VietQ/VNN). Tuy nhiên, GS Hoàng Xuân Phú cho biết ông hoàn toàn không có cuộc phỏng vấn nào như bài báo đăng (có nghĩa cuộc phỏng vấn hoàn toàn do VietQ ngụy tạo, VNN đăng lại). Ông đã liên lạc với BBT 2 trang báo này, và đã nhận được lời xin lỗi, bài đã được gỡ bỏ.
1- Báo mạng coi độc giả chẳng bằng … đít con vi trùng (Lều Báo).
- Phóng viên bị cấm tác nghiệp tại phiên tòa xử công khai  (ĐS&PL). “Lý do mà cán bộ này đưa ra là: “Bọn tôi bị cấp trên nhắc nhở nhiều, nên không thể để cho các chú chụp được”.” =>
- Bắt 4 người gây rối ở nhà máy Samsung Thái Nguyên (TT).
- THỊ TRƯỜNG và ĐẠO ĐỨC (Bùi Văn Bồng).
- Lương thấp làm ‘CHẢY MÁU CHẤT XÁM‘ (Bùi Văn Bồng). Nguyên nhân sâu xa là thể chế này không trọng nhân tài, người tài không có đất sống ở VN.
- Chủ tịch Hà Nội: Tại sao gà TQ lại vào tận thủ đô? (Infonet).
- VN hoãn xây dựng nhà máy điện hạt nhân đến năm 2020 (RFA). – Việt Nam hoãn xây nhà máy hạt nhân đầu tiên (RFI). - Việt Nam ‘hoãn xây nhà máy điện hạt nhân’ (VOA). – Năm 2020, có thể chưa sản xuất điện nguyên tử (TBKTSG).
- Trung Quốc bắt giữ một học giả Duy Ngô Nhĩ (RFI). – Cảnh sát TQ câu lưu nhà tranh đấu người Uighur nổi tiếng (VOA). – Triệu Tử Dương vẫn còn gây cảm hứng (BBC). “Với bức thư vừa được tìm lại, ông Triệu như đã lên tiếng từ nấm mồ ở bên kia thế giới và hậu thuẫn phong trào dân chủ hôm nay của Hong Kong.
- Tướng TQ bị tịch thu vàng ròng (BBC).
- Ba bóng hồng của Kim Jong Il (2) (Thụy My). – Nghị sĩ Nhật: “Triều Tiên vẫn bình thường hậu thanh trừng Jang Song-thaek” (KT).  – Triều Tiên quảng bá khu trượt tuyết (NLĐ).
- Seoul tập trận như dự kiến, bất chấp đe dọa của Bình Nhưỡng (RFI).
- Thái Lan: Huy động cảnh sát bắt giữ lãnh đạo phong trào biểu tình (RFI). – Người biểu tình Thái Lan tuần hành tới các văn phòng chính phủ (VOA).  – Thủ lĩnh biểu tình Thái Lan tuyên bố không thương lượng (Tin tức).  – Thủ tướng Thái Lan bị điều tra (BBC).  – Bà Yingluck sắp bị điều tra (NLĐ).  – Tư dinh của lãnh đạo Đảng Dân chủ Thái Lan bị đánh bom (ANTĐ).  – Thái Lan: Chính phủ yêu cầu bắt giữ thủ lĩnh biểu tình (CAND).  – Thái Lan hạ thấp dự báo tăng trưởng kinh tế vì biểu tình (TTXVN).
- Xứ Chùa Tháp lung lay (RFA). – Pháp kêu gọi chính quyền Cam Bốt thương thuyết với đối lập (RFI). – LHQ sẵn sàng can thiệp vào bế tắc chính trị ở Campuchia (RFA).
- Mỹ dọa trừng phạt Ukraina (RFI).


- Ai Là Tác Giả Bài Thơ “Tưởng Niệm Hoàng Sa”? (FB Osin HuyDuc). - Trầm Kha – Trung úy Hải Quân Nguyễn Văn Đồng: Trường ca ngày về (DLB). – Hoàng Sa ơi!
- Tư liệu quý: Cuộc Hải Chiến Hoàng Sa 1974 (Phay Van). Trang 33 của tài liệu này, có đoạn: “Trong một bài bình luận, đài phát thanh BBC đã nhận định rằng: ‘Cộng sản Bắc Việt hiện đang ở vào một cái thế khó xử, đúng ra Cộng sản Bắc Việt phải lên tiếng ủng hộ Việt Nam Cộng Hòa, nhân danh những người Việt Nam, nhưng nếu Cộng sản Bắc Việt làm như vậy sẽ khiến cho Trung Cộng phẩn nộ. Và cũng bởi sợ Trung Cộng sẽ thôi không cung cấp các nguồn tài trợ dành cho chiến tranh. Vì vậy, các lãnh tụ Cộng sản Hà Nội đành phải ngậm miệng, để nhận lãnh những mũi dùi mà những người Việt Nam dành cho họ’.” (năm 74 thì TQ đâu có còn viện trợ cho VN nữa đâu nhỉ?!)
- Công tác phòng chống nhân quyền ?! (Nguyễn Tiến Dũng).
KINH TẾ
- Triển vọng kinh tế năm 2014 sẽ khả quan hơn (DĐDN).  – Tín dụng năm 2014: Tăng cả chất và lượng (CT).  – TCTD không được thực hiện cơ cấu lại nợ để che giấu nợ xấu (TBNH).
- Cơ chế thị trường phải đi đôi với cạnh tranh (TBKTSG).
- USD chợ đen: Bao nhiêu cũng có! (NLĐ).  – ‘Khát’ tiền lì xì mệnh giá 20.000 – 50.000 đồng (TN).  – ‘Chặt chém’ phí đổi tiền lì xì.
- Doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh nữ trang: Vàng mắt chờ vốn (DNSG).
- Độc quyền lãi “khủng” (NLĐ).
- Dự báo khả năng xuất khẩu gạo 2014 (VTV).
holo- TP.HCM: Nhiều chủ doanh nghiệp bỏ trốn, nợ nần để lại (VTV).
<- Gà Đông Tảo “cháy” hàng, bưởi hồ lô khan hiếm (TTXVN). – Thực phẩm Tết bị “thổi” giá (NLĐ).
- Người Việt tò mò với cuộc chơi Bitcoin (VNE).  – Đầu tư tiền ảo Bitcoin sôi sục, canh bạc bỏng tay (ĐT).  – Tiền ảo và hệ lụy thật (ĐĐK).  – Coi chừng rủi ro lớn khi đầu tư vào tiền ảo Bitcoin (CAND).
- Mạng lưới Việt Anh tròn một tuổi (BBC).
- Diễn đàn Kinh tế Thế giới thảo luận về khó khăn của một thế giới đang thay đổi (VOA).
- Quốc hội Mỹ sắp thông qua dự luật ngân sách  (VOA).
- Kho nợ Mỹ của Trung Quốc lớn chưa từng có (VnEco).


VĂN HÓA-THỂ THAO
1- Tranh dân gian Việt Nam (ĐBND).  – Tranh dân gian đang dần bị mai một.
- Các lễ hội lớn của Hà Nội đã sẵn sàng khai hội (TTXVN).
- ‘Phố Ông Đồ’ chuyển vào bên trong Văn Miếu (Tin tức). =>
- Cấp phép thêm 22 ca khúc của Phạm Duy (PNTP).
- BAC BA PHI ĐI THĂM MỸ (KỲ 87) (Nhật Tuấn).
- Thích Phước An: Phạm Công Thiện Hiu Hắt Quê Hương Bến Cỏ Hồng (Phần 1) (Nguyễn Hoa Lư). – Phạm Công Thiện Hiu Hắt Quê Hương Bến Cỏ Hồng (Phần 2)
- Người trọng chữ Tình chữ Nghĩa (Nguyễn Vĩnh).
- Hai người trò chuyện (Nhị Linh).
- KHÔNG ĐỀ NĂM MỚI (Nguyễn Trọng Tạo).
- Những ngôi nhà của một đời người (Da Màu).
- Hoàng Nhất Phương – Điểm sách “Nhà Mẹ Lê” của Thạch Lam (Dân Luận).
- Tiếp theo loạt bài về VN: Sài Gòn – quyến rũ ngọt ngào của thời kỳ mới (Phan Ba). – Long Xuyên ký sự (Lê Thiếu Nhơn).
- Dễ dãi như… giải thưởng (PNTP).
- Tháng Giêng tưởng niệm ‘thi sĩ Mai Thảo’ (Blog VOA).
- Gọi tên xì căng đan (Phạm Vũ Lửa Hạ).
- « American Bluff » và « Gravity » được đề cử 10 giải Oscar (RFI).


- Giỗ đầu nhạc sĩ Phạm Duy: Con ngựa hoang của thảo nguyên nhạc Việt (MTG).
- Vietnam Airlines và … học nói (Nguyễn Văn Tuấn).
- Cái nạn mừng tuổi (Vương Trí Nhàn). – Chiếc hồng bao (DCCT).
- GIƯỜNG XUÂN   –   TIẾNG XUÂN   -   CHỜ MAI MỘNG NỐI   –   XUÂN TƯỞNG   –   LÌ XÌ ĐẦU NĂM (Tương Tri).
Chống tham nhũng (TTVH).
GIÁO DỤC-KHOA HỌC
- ĐH Quốc gia TP.HCM tuyển sinh riêng một số ngành vào năm 2015 (TN).
- Cuộc đua năm 2000 (DNSG).
- Về cuộc “chạy đua bằng cấp”! (ND).
- Chọn đúng nghề để tránh lãng phí (NLĐ).
IMG_0301_EHOU- TUYÊN BỐ CỦA PHẠM HIỂN VỀ VIỆC THU CHI QUỸ HỘI CHA MẸ HỌC SINH (FB Phạm Hiển).
<- Nghị lực phi thường của mẹ con chàng sinh viên bị liệt hai chân (PLVN).
- Trà Vinh ‘nuôi’ 48.000 heo đất khuyến học (Tin tức).
- Canada muốn thu hút gấp đôi số sinh viên nước ngoài (RFI).


- MỘT BÀI VIẾT CỰC HAY VỀ GIÁO DỤC (Trần Nhương/ Văn Công Hùng). – Tống Văn Công: Giáo dục trước hai vấn đề cốt lõi (Ngô Minh).
XÃ HỘI-MÔI TRƯỜNG
- Kết luận cháu bé tử vong do tiêm vacxin ở Đà Lạt (VTV).
- Quyết liệt ngăn chặn bệnh dịch từ quốc tế vào Việt Nam (TTXVN).
- Gạo cứu đói ngày Tết (RFA).
- Nan giải TNGT trên quốc lộ (NLĐ).  – Sụp ổ gà bị thương, chết vì rơi vali trên đường (PLTP).
- Hà Nội: Đề nghị truy tố bác sĩ thẩm mỹ viện Cát Tường (PNTP).
- Cư dân mạng làm “thám tử” (NLĐ).
140116105352_waste_picker_vietnam_512x288_afp- “Dội bom” tin nhắn lừa đảo (NLĐ).
- Vụ cháy lò than Quảng Ninh: Nạn nhân duy nhất sống sót (ĐS&PL).  – Giây phút sinh tử trong đường lò đỏ lửa (TN).
- Buồn và lo cho nghề nhặt rác kiếm cơm (BBC). =>
- Voi rừng phá hại nhà cửa, tài sản của người dân (VOV).
- Singapore: Một người Việt lãnh 15 tháng tù vì buôn sừng tê (PNTP).
- Khói mù ô nhiễm tăng cao tại Bắc Kinh (BBC).
- Úc tiếp tục nóng bức gay gắt (BBC).   – Indonesia: Núi lửa phun trào, 26.000 dân sơ tán (VOV).  – Indonesia: 13 người thiệt mạng, 40.000 người sơ tán vì lũ lụt (TP).
- Phá vỡ một mạng lưới ấu dâm tại Philippines (RFI). - Vatican điều trần trước LHQ về ấu dâm (BBC).  – Phá đường dây ấu dâm qua internet.


QUỐC TẾ
- Ngoại trưởng Iran và Syria đến Nga trước hội nghị Genève  (RFI). – LHQ: Hành quyết tập thể ở Syria có thể là tội ác chiến tranh (VOA).  – Viện trợ hơn 2,4 tỉ USD cho Syria (NLĐ).  – Nga nhấn mạnh vai trò của Iran trong giải quyết khủng hoảng Syria (Tin tức).
- Jordan hối thúc Israel, Palestine nắm bắt cơ hội hòa bình (TTXVN).
- Palestine lên án việc đốt phá nhà thờ Hồi giáo (PT).
1<- Thủ tướng Iraq kêu gọi quốc tế trợ giúp chống quân khủng bố (VOA).
- Khai mạc phiên tòa quốc tế xử các nghi phạm giết cựu Thủ tướng Liban (RFI). – Phiên xử vụ ám sát cựu Thủ tướng Libăng bắt đầu (VOA).  – Nổ bom xe hơi giết chết 3 người ở Libăng.
- LHQ chỉ trích Vatican không tích cực chống lạm dụng tình dục trẻ em (RFI).
- Ai Cập: tỷ lệ cử tri bỏ phiếu Hiến pháp cao (BBC).  – Cử tri Ai Cập tán đồng hiến pháp mới (VOA).  – Ánh sáng cuối đường hầm (ND).
- Ấn Độ bắt hung thủ hãm hiếp du khách (BBC). – Ấn Độ : Bắt hai nghi phạm vụ cưỡng hiếp một phụ nữ Đan Mạch (RFI).
- Trung Quốc xác nhận vụ thử nghiệm phi đạn siêu thanh (VOA).  – Chạy đua vũ khí siêu thanh (NLĐ).
- EU đề nghị các biện pháp mới chống chủ nghĩa cực đoan (VOA).
- Cải tổ NSA: Tổng thống Mỹ tiến thóai lưỡng nan (RFI).
- Dữ liệu cá nhân được khai thác triệt để ra sao (Phạm Vũ Lửa Hạ).



* RFA: Audio: + Sáng 16-01-2014; + Tối 16-01-2014.

* RFI: 
* Video: + Bản tin video tối 15-01-2014; + Bản tin video sáng 16-01-2014; + Thế giới trong tuần 15.01.2014; + ‘Mỹ phải cứng rắn trước đòi hỏi chủ quyền lãnh hải của TQ’; + Ðại công ty nhà nước VN chuẩn bị bán cổ phần; + Lãnh tụ đối lập Campuchia ủng hộ TQ trong tranh chấp Biển Đông.

* VTV: + Chào buổi sáng – 16/01/2014;  + Điểm báo – 16/01/2014;  + Cuộc sống thường ngày – 16/11/2013;  + Đối thoại chính sách – 15/01/2014;  + Tài chính tiêu dùng – 16/01/2014;  + Tài chính kinh doanh sáng – 16/01/2014;  + Tài chính kinh doanh trưa – 16/01/2014;  + Tài chính kinh doanh tối – 16/01/2014;  + Bản tin quốc tế 17h – 16/01/2014;  + Thế giới trong ngày – 16/01/2014;  + Thời sự 12h – 16/01/2014;  + Thời sự 19h – 16/01/2014.

Tướng Chung trảm tướng: Chuyện tướng Thước, BT Thăng, BT Tuyển

Sự kiện tướng Nguyễn Đức Chung, GĐ công an TP. Hà Nội trảm nóng phó trưởng công an phường Giảng Võ Đinh Bá Pha ngay tại cuộc họp đã lan trên mạng với tốc độ sóng thần. ại sao việc trảm một quan chức nhỏ như Phó Trưởng công an phường lại có thể gây xôn xao không khác nào việc Tổng thống nước ngoài cách chức một Thủ tướng như vậy?
Câu trả lời rất đơn giản: Việc “rất bình thường ở nước người” đó thực sự là “của hiếm” ở Việt Nam.
Thái độ của tướng Chung khiến nhiều người nghĩ đến vụ trảm tướng của Bộ trưởng Thăng ngay khi thị sát công trình nhà ga cảng hàng không Đà Nẵng.
Hiệu quả của vụ trảm tướng quyết đoán đó cao đến nỗi, dù ông Thăng chưa cần ra uy, thì ngay sau đó đã có 2 tổng giám đốc ngành giao thông tự nguyện đem chức vụ của mình đánh cược với Bộ trưởng: Nếu không hoàn thành tiến độ làm đường, họ chấp nhận mất chức.
Khi đi trên những chiếc cầu vượt, đường trên cao thông thoáng ở Hà Nội, không ít người đi đường sẽ nhớ tới ông Thăng.
Nhưng không chỉ đến thời Bộ trưởng Thăng và tướng Chung, thì mới xuất hiện những “tư lệnh” quyết liệt đến như vậy.
Ông Trương Đình Tuyển, khi rời ghế Bộ trưởng Thương mại về Nghệ An nắm chức Bí thư Tỉnh ủy, chỉ trong 3 năm, đã kịp “trảm” đến 9 Bí thư Huyện ủy quan liêu, năng lực kém. Sự thanh liêm, giản dị và quyết đoán ấy của ông Tuyển đã trở thành những giai thoại sống mãi trong lòng không chỉ người Nghệ An.
Một người Nghệ An khác, Trung tướng Nguyễn Quốc Thước, nguyên tư lệnh Quân khu 4, cũng là một người quyết liệt đến độ không ngại va chạm nảy lửa ngay cả với thượng cấp.
Trong kỳ họp Quốc hội, tướng Thước đã nói những lời gần như không ai dám nói với Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng (Thủ tướng) Đỗ Mười.
Khi ông Đỗ Mười than phiền về tình trạng trên bảo dưới không nghe: “Tôi làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng mà nói có Bộ trưởng không nghe”, tướng Thước đã đứng lên: “Kính thưa anh Mười, tôi làm tư lệnh quân khu, tôi nói mà các sư trưởng không nghe, tôi đình chỉ chức vụ. Nếu vì lý do nào đó mà tôi không thể cách chức được các sư trưởng, thì tôi sẽ xin từ chức. Anh nên cách chức Bộ trưởng không nghe đó, nếu không cách chức được, thì anh nên từ chức”.
Ông Thước đã “không gặp vấn đề gì” vì những lời nói khó nghe ấy đã được ông Đỗ Mười lắng nghe trọn vẹn và vì những lời nói ấy xuất phát một cách chí công vô tư từ gan ruột chứ không vì mưu cầu lợi ích cá nhân. Sự quyết liệt và tấm lòng của tướng Thước cũng đã giúp ông trở thành một đại biểu Quốc hội được nhân dân và báo chí kính phục.
Tướng Chung cũng đã bắt đầu ghi điểm theo cách ấy. Nhưng vẫn còn quá sớm để nói về một biểu tượng.
Không một biểu tượng nào được tạo dựng chỉ bằng vài hành động lẻ tẻ.
Vì vậy, cái được đón chờ nhiều nhất sẽ là những hành động nhất quán trong “thì tương lai” của tướng Chung.
THEO TRÍ THỨC TRẺ

Bài học đắng cay


Bây giờ các tài liệu bí mật của Mỹ liên quan đến cuộc chiến Việt Nam đã được giải mã gần hết. Những tài liệu này đã giúp chúng ta tìm hiểu tại sao miền Nam Việt Nam có một quân lực khá hùng mạnh và thiện chiến, có tinh thần chiến đấu rất cao, đã từng giữ vững miền Nam trong suốt 20 năm, lại có thể bị sụp đổ chỉ trong 40 ngày?
Câu trả lời sẽ là một bài học lịch sử đắt giá mà mọi người Việt khi chiến đấu cho quê hương không thể không biết đến.
QUYẾT ĐỊNH BỎ MIỀN NAM
Vào tháng 8 năm 2004, nhân kỷ niệm 30 năm ngày Tổng Thống Nixon từ chức (từ 9.8.1974 đến 9.8.2004), Miller Center of Public Affairs thuộc Đại Học Virgina đã cho công bố cuốn băng ghi âm các cuộc nói chuyện giữa Nixon và Kissinger về cuộc bầu cử Tổng Thống Mỹ cuối năm 1972, trong đó có đề cập đến số phận của miền Nam Việt Nam.
Tài liệu cho thấy mặc dầu đang mở cuộc oanh tạc Bắc Việt trong suốt mùa xuân và mùa hè 1972, Tổng thống Nixon đã đi đến kết luận rằng Hoa Kỳ ủng hộ việc “Nam Việt Nam có thể không bao giờ còn tồn tại dù bất cứ cách nào.” (South Vietnam probably can never even survive anyway). Ông nói với Cố vấn An ninh Kissinger: “Henry, chúng ta cũng phải nhận thức rằng thắng trong một cuộc bầu cử là hết sức quan trọng. Nó hết sức quan trọng trong năm nay, nhưng chúng ta có thể có một chính sách ngoại giao sống còn (a viable foreign policy) nếu một năm kể từ bây giờ hay hai năm kể từ bây giờ, Bắc Việt thôn tính Nam Việt Nam? Đó thật là vấn đề.”
Kissinger trả lời: “Nếu một hay hai năm kể từ bây giờ, Bắc Việt thôn tính Nam Việt Nam, chúng ta có thể có một chính sách ngoại giao sống còn nếu coi điều đó như thể là kết quả của sự bất tài của người Nam Việt Nam (if it’s the result of South Vietnamese incompetence.)
Lúc đó, Tổng Thống Thiệu và các nhà cầm quyền tại miền Nam không hay biết gì. Khi Hoa Kỳ ép buộc VNCH phải ký Hiệp Định Paris có những điều khoản hoàn toàn bất lợi cho miền Nam, Tổng Thống Thiệu cũng đã chấp nhận ký sau khi Tổng Thống Nixon hứa: “Tôi tuyệt đối cam đoan với Ngài rằng nếu Hà Nội không tuân theo những điều kiện của Hiệp Định nầy thì tôi cương quyết sẽ có hành động trả đủa mau lẹ và ác liệt.”
Nhưng để cho miền Nam sụp đổ trong vòng một hay hai năm sau Hiệp Định Paris không phải là chuyện dễ, vì lúc đó Quân Lực VNCH còn khá mạnh.
TÌNH HÌNH QUÂN LỰC VNCH NĂM 1975
Đầu năm 1975, QLVNCH vẫn còn có một lực lượng khá hùng hậu, với quân số khoảng 1.351.000 người, trong đó có 495.000 chủ lực quân, 475.000 địa phương quân và 381.000 quân “phòng vệ dân sự” có vũ trang.
Lục quân gồm 11 sư đoàn bộ binh, 1 sư đoàn nhảy dù, 1 sư đoàn thủy quân lục chiến, liên đoàn 81 biệt cách dù, 15 liên đoàn biệt động quân (tương đương với 5 sư đoàn), lực lượng Lôi Hổ và Biệt Hải thuộc Nha Kỹ thuật, 4 lữ đoàn kỵ binh thiết giáp (với 2074 xe thiết giáp). Về pháo binh, QLVNCH có 1492 khẩu đại bác (hơn một nửa là 105 ly, 1/4 là 155 ly và khoảng 15% là 175 ly).
Không quân có khoảng 60.000 quân, có 5 sư đoàn không quân tác chiến gồm 20 phi đoàn khu trục cơ, 23 phi đoàn trực thăng, 1 sư đoàn vận tải, 1 không đoàn tân trang chế tạo, 4 phi đoàn hỏa long, v.v, với 1850 phi cơ các loại (trong đó có 510 máy bay chiến đấu và 900 trực thăng).
Hải quân có hơn 40.000 quân, gồm 3 lực lượng tác chiến:
(1) Hành quân lưu động sông (với 14 giang đoàn trang bị khoảng 260 chiến đỉnh),
(2) Hành quân lưu động biển (một hạm đội trang bị tuần dương hạm, hộ tống hạm, khu trục hạm, tuần duyên hạm, giang pháo hạm, trợ chiến hạm, dương vận hạm, hải vận hạm và giang vận hạm).
(3) các lực lượng đặc nhiệm, trong đó có Liên đoàn Người nhái.
Làm thế nào để hủy hoại lực lượng này rồi giao cho Trung Quốc và CSVN trong một thời gian khoảng hai năm và Mỹ sẽ không còn dính líu gì đến cuộc chiến nữa?
ĐÁNH LỪA TỔNG THỐNG THIỆU
Để thực hiện chủ trương nói trên, Hoa Kỳ vừa cắt bớt viện trợ để miềm Nam suy yếu dần, vừa đánh lừa Thổng Thống Thiệu.
Miền Nam lúc đó cũng có nhiều nhà phân tích tình hình chính xác, nhưng Tổng Tống Thiệu là người độc đoán và thích hành động theo cảm tính nên chẳng nghe ai. Trong cuốn “Tâm tư Tổng Thống Thiệu”, Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng cho biết chính Tổng Thống Thiệu đã nói với ông: “Tôi luôn là người quyết định. Luôn luôn như vậy. Tôi có thể nghe người khác gợi ý một quyết định, nhưng rồi làm quyết định ngược lại.” (tr. 373).
Khi chọn người để thay thế ông Ngô Đình Diệm, người Mỹ không chọn một nhà chính trị có khả năng bảo vệ miền Nam mà chỉ chọn những người bảo đảm sẽ làm theo ý họ. Trước hết Mỹ chọn Tướng Nguyễn Khánh và Tướng Trần Thiện Khiêm. Nhưng khi Tướng Nguyễn Khánh gây rối loạn, họ dùng cặp Nguyễn Văn Thiệu và Trần Thiện Khiêm. Đây là những người không có tầm nhìn chiến lược cả về chính trị lẫn quân sự. Mọi việc đều để Mỹ lèo lái.
Quả thật ông Thiệu không có khả năng nhìn thấy Mỹ sẽ bỏ miền Nam và tìm ra được một con đường nào khác để cứu miền Nam. Ông coi miền Nam như của Mỹ. Mỹ đưa đủ tiền, ông giữ cả miền Nam. Mỹ rút bớt tiền, ông thu nhỏ lãnh thổ lại.
1.- Cắt bớt viện trợ
“ Như chúng ta đã biết số viện trợ quân sự Mỹ cho VNCH đã bị giảm dần sau Hiệp Định Paris ngày 27.1.1973:
1972 – 1973: 1 tỷ 614 triệu;
1973 – 1974: 1 tỷ 026 triệu và
1974 – 1975 xuống còn: 700 triệu.
2.- Đánh lừa bằng tài liệu
Trong cuốn “Khi Đồng Minh Tháo Chạy” (từ tr. 231 – 236), ông Hưng có kể lại rằng ông có được đọc trong “Phòng Tình Hình” của Dinh Độc Lâp một tập báo cáo do Tướng John E. Murray (người điều khiển cơ quan DAO) và Bộ Tổng Tham Mưu trình lên.
Mặc dầu có nhiều báo cáo của DAO đã được giải mã, chúng tôi chưa tìm thấy bản văn này, nhưng ông Hưng cho biết ông nhớ được những điểm chính của bản báo cáo đó như sau:
- Nếu mức độ quân viện là 1,4 tỷ thì có thể giữ được tất cả những khu đông dân cư của cả bốn Vùng Chiến Thuật.
- Nếu là 1,1 tỷ thì Quân Khu I phải bỏ;
- Nếu là 900 triệu thì khó lòng giữ được QK I và II, hoặc khó đương đầu với cuộc tấn công của Bắc Việt;
- Nếu là 750 triệu thì chỉ có thể phòng thủ vài khu vực chọn lọc, và khó điều đình được với Bắc Việt;
- Nếu quân viện dưới 600 triệu thì chính phủ VNCH chỉ còn giữ được Sài Gòn và vùng châu thổ song Cửu Long.
Ông Hưng cho biết Tướng John Murray kết luận: “Tôi có thể ví sự mất tiền xấp xỉ như mất đất vậy.”.
Từ ngày Mỹ tham chiến ở Việt Nam đến ngày miền Nam mất, chúng ta chưa bao giờ thấy các báo cáo hay tài liệu phân tích nào của cơ quan MACV hay DAO được tiết lộ cho Bộ Tổng Tham Mưu hay bất cứ cơ quan nào của VNCH. Chúng ta chỉ biết được một số tài liệu này sau khi được chính phủ Hoa Kỳ giải mã. Thế thì tại sao tài liệu nói trên lại được tiết lộ cho Bộ Tổng Tham Mưu VNCH? Chắc chắn là phải có âm mưu gì.
Ông Hưng cho rằng vì bản báo cáo này, ông Thiệu đã nghĩ ra chiến lược mới “Đầu bé đít to”, tức bỏ Vùng I và II (đầu).
Ông Thiệu thường nói: “Từng chiến lược cho từng mức viện trợ.” (tr. 235), sau đó ông dùng chữ “tái phối trí”.
Thật ra, bản báo cáo mà ông Hưng nhắc đến ở trên, nếu có, cũng chỉ là một bản phân tích tình hình chứ không phải là một giải pháp hay một kế hoạch hành động được đề nghị. Nếu Tổng Thống Thiệu nghĩ đó là một đề nghị về kế hoạch hành động là hoàn toàn sai lầm.
3.- Đánh lừa bằng kế hoạch giả
Cơ quan tình báo Hoa Kỳ đã không dùng một tướng Mỹ mà dùng một tướng Úc để đánh lừa Tổng Thống Thiệu.
Trong bài thuyết trình “”Get Me Ten Years’: Australia’s Ted Serong in Vietnam, 1962-1975″, bà Tiến sĩ Anne Blair, một giảng viên về Quan Hệ Quốc Tế và Nghiên Cứu về Á Châu tại Đại Học Victoria University of Technology ở Úc, đã cho biết vào tháng 12 năm 1974, Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm có tiếp xúc với Tướng Ted Serong và yêu cầu ông ta đưa ra một kế hoạch cứu vãn miền Nam. Tướng Ted Serong đã khuyến cáo rút khỏi Quân Khu I và Quân Khu II, với lý do là 2/3 Quân Lực VNCH đã được triển khai ở phía bắc trong khi ở nơi này chỉ có 1/10 dân số và 1/3 tài nguyên của miền Nam.
Chúng ta nên nhớ rằng cả Tướng Trần Thiện Khiêm lẫn tướng Đặng Văn Quang đều là nhân viên CIA được cài vào để theo dõi và kiểm soát các hành động của Tổng Thống Thiệu. Nhiều người nghi ngờ việc Tướng Khiêm đi tìm gặp tướng Ted Seron là theo lệnh của CIA.
Ông Hưng cho biết Tổng Thống Thiệu đã chỉ thị Tướng Đặng Văn Quang, Cố Vấn An Ninh Phủ Tổng Thống, phối hợp với Tướng Ted Serong nghiên cứu lập một phòng tuyến kéo dài từ Tuy Hoà đến Tây Ninh để làm phòng tuyến rút quân!
Tướng Ted Seron là ai mà được giao cho nhiệm vụ lập phòng tuyến ở Tuy Hoà?
Tướng Francis Philip “Ted” Serong (1915 – 2002) tốt nghiệp Trường Huấn Luyện Quân Đội Hoàng Gia tại Duntroon vào năm 1937, có nhiều kinh nghiệm về chiến trường Đông Nam Á. Năm 1961 ông được cử làm cố vấn cho quân đội Miến Điện. Do kinh nghiệm của ông về chống nổi dậy (counterinsurgency), theo đề nghị của CIA, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã yêu cầu chính phủ Úc cho ông đến phục vụ tại miền Nam Việt Nam. Tại đây, ông vừa chỉ huy một toán nhỏ người Úc vừa là Cố Vấn Chống Nổi Dậy cho MACV dưới thời Tướng Harkins. Theo bà Blair, Tướng Harkins không tin vào chống nổi dậy và ông không muốn một cố vấn. Tướng Ted Serong đã đưa nhiều đề nghị về huấn luyện quân lực VNCH nhưng không được áp ứng.
Như vậy, Tướng Ted Serong chỉ là một chuyên gia về du kích chiến. Ông không phải là một nhà chiến lược. Ông chỉ là người được Mỹ dùng để gài bẩy Tổng Thống Thiệu.
MỘT QUYẾT ĐỊNH ĐIÊN RỒ
Năm 1974, tin Tổng Thống Thiệu sẽ bỏ Cao Nguyên và miền bắc Trung Phần, rút quân về phòng thủ ở Tuy Hoà đã được tiết lộ ra, nhưng không ai tin vì hai lý do:
(1) Không thể lập một phòng tuyến từ Tuy Hòa kéo dài tới Tây Ninh được vì địa hình không cho phép hình thành một phòng tuyến như vậy.
(2) Muốn rút quân ở Cao Nguyên và phía bắc miền Trung phải thương thuyết với Hà Nội và ký một hiệp ước như Hiệp Định Genève 1954, trong đó ấn định lại biên giới giữa hai bên, thời hạn di tản, rút quân… việc “tái phối trí” mới có thể thực hiện được.
Vì thế, không ai tin việc “tái phối trí” có thể xẩy ra khi ông Thiệu chưa thương thuyết để ký với Hà Nội một hiệp ước thu nhỏ lãnh thổ lại. Nhưng ông Thiệu đã làm điều điên rồ đó. Đầu năm 1975, Tướng Ted Serong thông báo cho Tổng Thống Thiệu thời hạn chót cho việc tái phối trí quân đội phải kết thúc nội trong tháng hai. Ông cũng đã nói với Đức Cha Nguyễn Văn Thuận, Giám Mục Nha Trang, rằng ngài nên “chuẩn bị cho năm 1955 một lần nữa”, tức lại đi di cư!
Ngày 10.3.1975 Ban Mê Thuột bị mất và Quân Lực VNCH khó có thể lấy lại được. Nhân vụ này, ngày 14.3.1975 Tổng Thống Thiệu cùng với các tướng Trần Thiện Khiêm, Đặng Văn Quang và Cao Văn Viên đến Cam Ranh họp với Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn 2.
Tổng Thống Thiệu hỏi Tướng Cao Văn Viên:
- Còn quân trừ bị để tăng cường cho Quân Đoàn 2 không?
Tướng Viên trả lời:
- Không còn.
Tổng Thống Thiệu quay qua hỏi Tướng Phú:
- Nếu không có quân tăng viện, anh còn giữ được bao lâu?
Tướng Phú trả lời:
- Tôi có thể giữ được một tháng với điều kiện không quân yểm trợ tối đa và tiếp tế bằng không vận đầy đủ nhu cầu về tiếp liệu, vũ khí, đạn dược…
Tổng Thống Thiệu nói rằng các điều kiện đó không thể thỏa mãn được. Vậy phải rút khỏi Kontum và Pleiku để bảo toàn lực lượng, đưa quân về giữ đồng bằng ven biển tiếp tế thuận lợi hơn. Tổng Thống Thiệu hỏi:
- Rút bằng đường 19 có được không?
Tướng Viên trả lời:
- Trong lịch sử chiến tranh Đông Dương chưa có lực lượng nào rút theo đường 19 mà không bị tiêu diệt.
Tổng Thống Thiệu lại hỏi:
- Thế thì đường 14 ra sao?
Tướng Viên nói:
- Đường 14 càng không được.
Sau khi thảo luận, mọi người thấy chỉ còn đường số 7 từ lâu không dùng đến, tuy dài (khoảng 228 km) và xấu nhưng tạo được yếu tố bất ngờ.
Tổng Thống Thiệu chỉ thị không thông báo cho các tiểu khu và chi khu biết, cứ để họ tiếp tục chống giữ, khi ta rút xong, ai biết thì biết. Tổng Thống nói địa phương quân (36 tiểu đoàn) toàn là người Thượng, trả chúng về với Cao nguyên. Như vậy các tỉnh trưởng, quận trưởng, địa phương quân, cảnh sát, phòng vệ dân sự và các nhân viên hành chánh đều bị bỏ lại.
Đại Tá Phạm Duy Tất, Tư Lệnh Biệt Động Quân Quân Đoàn 2 được thăng Chuẩn Tướng để chỉ huy cuộc rút quân. Tổng Thống cấm không ai được thông báo cho Mỹ biết.
ĐOÀN QUÂN TAN RÃ
Diễn biến về cuộc tháo chạy trên Liên tỉnh lộ 7 rất bi thảm. Ở đây chúng tôi chỉ ghi lại những nét chính.
- Lúc đó QLVNCH còn có tại Kontum và Pleiku 7 Liên Đoàn Biệt Động Quân, đó là các Liên Đoàn 22, 23, 24 và 25, được tăng cường thêm 3 Liên Đoàn biệt phái từ Sài Gòn lên là 4, 6 và 7. Ngoài ra, Cao Nguyên còn có 36 tiểu đoàn địa phương quân.
- Xe tăng và thiết giáp: 4 thiết đoàn với 371 xe. Pháo binh: 8 tiểu đoàn với 230 khẩu các cỡ từ 105 đến 175mm.
- Không quân: 1 phi đoàn chiến đấu (32 chiếc), 2 phi đoàn trực thăng (86 chiếc), 1 phi đoàn vận tải, trinh sát và huấn luyện (32 chiếc).
- Riêng Sư đoàn 23 gồm các Trung Đoàn 44, 45 và 53 và Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân đã bị tan rã trong trận Ban Mê Thuột.
- Sáng ngày 15.3.1975, hai Liên Đoàn 6 và 23 BĐQ từ Kontum được chuyển về Pleiku. Dân chúng chạy theo gây ra náo loạn.
- Lúc 1 giờ chiều ngày 15.3.1975 cuộc di tản chính thức bắt đầu. Thiết đoàn 19, Liên Đoàn 6 và Liên Đoàn 24 BĐQ mở đường, đến tối đã vượt qua khỏi Phú Bổn, đèo Tuna và tới quận Phú Túc để yểm trợ công binh làm cầu. Sáng 16.3.1975 đoàn quân mở đường tiếp tục đi xuống Củng Sơn.
- Cuộc hành trình mà đoàn quân phải di tản khá dài: Từ Pleiku tới Phú Bổn khoảng 93 km và từ Phú Bổn đến Tuy Hòa khoảng 130 km.
- Ngày 17.3.1975, Thiết Đoàn 21 và Liên Đoàn 7 BĐQ dẫn đầu đoàn quân và dân tiến về Phú Bổn. Theo sau là Liên Đoàn 22 và Liên Đoàn 23, kéo theo một đoàn quân xa khoảng 2000 chiếc và một đoàn xe dân sự đủ loại cũng gần 2000 chiếc. Liên Đoàn 4 và Liên Đoàn 25 đi tập hậu. Đoàn di tản đi rất chậm vì đường hẹp, bị hư hỏng và thường đạp lên nhau để tiến tới trước. Tối 17.3.1975 đoàn xe dừng lại ở tỉnh lỵ Phú Bổn vì không tiến được nữa. Cộng quân đã chận ở đèo Tuna cách Phú Bổn khoảng 4 km.
Vì cuộc rút quân quá bất ngờ nên phải đến chiều ngày 17.3.1975, Bộ Tư Lệnh Tây Nguyên của Cộng quân mới biết được và ra lệnh cho tiểu đoàn 9 thuộc trung đoàn 64, Sư đoàn 320, đang đóng chốt trên đường đi Thuận Mẫn, đem quân chận ở đèo Tuna và pháo kích vào đoàn quân và dân đang dừng lại ở Phú Bổn. Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất được trực thăng tới bốc đi từ trường tiểu học Phú Bổn, đã chỉ huy ở trên trời, ra lệnh cho Đại Tá Nguyễn Văn Đồng, Tư Lệnh Lữ Đoàn 2 Kỵ Binh, đang chỉ huy ở dưới đất, phải phá cho được cái chốt này. Có không quân bay tới yểm trợ.
Liên đoàn 25 BĐQ đang đi tập hậu đã cùng với Liên Đoàn 7 và thiết giáp tiến lên phá cái chốt ở đèo Tuna. Nhưng Đại Tá Nguyễn Văn Đồng cho chúng tôi biết Biệt Động Quân, thiết giáp và không quân đã không phá nổi cái chốt đó. Chiếc xe tăng nào bò lên, chúng bắn cháy chiếc đó. Thảm hoạ xảy ra khi máy bay oanh tạc lầm quân của phe ta. Địch lại pháo kích dữ dội vào tỉnh lỵ Phú Bổn, quân và dân chạy tán loạn, nên đoàn quân tan rã. Không còn chỉ huy được, ông và một số quân nhân phải lội bộ đi vòng dưới chân đèo Tuna để vượt qua, nhưng rồi cũng đã bị bắt khi đến gần Củng Sơn. Đại Tá Đặng Đình Siêu, Tư Lệnh Phó Lữ Đoàn 2 Kỵ Binh, theo tàn quân của Liên Đoàn 4 BĐQ chạy băng rừng và về được đến Phú Yên.
Liên Đoàn 24 BĐQ đóng gần Củng Sơn do Trung Tá Niên chỉ huy bị tấn công dữ dội, cũng đã bị tan rã. Chỉ có Thiết Đoàn 19 và Liên Đoàn 6 BĐQ về tới được Tuy Hòa.
Một cuộc kiểm tra cho biết có ít nhất 3/4 lực lượng của Quân đoàn II đã bị Cộng quân tiêu diệt, bắt sống, đào ngũ hay rã ngũ. Khoảng 40.000 dân chúng di tản theo đoàn quân, chỉ có khoảng 1/4 đến nơi. Số người chết do hỏa lực của cả hai bên, do đuối sức hay đói không ước tính được. Đa số phải trở lại Pleiku.
Kể từ khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị giết, Hoa Kỳ đã chi phối miền Nam cả về quân sự, kinh tế lẫn chính trị và đưa người của họ lên nắm chính quyền. Trong tình trạng như vậy, miền Nam khó quyết định được số phận của mình. Nhưng Tổng Thống Thiệu là người phải chịu trách nhiệm trước dân tộc và trước lịch sử về những thảm trạng do các quyết định sai lầm của ông gây ra.
Chiều 29.4.1975, Tướng Ted Seron đã rời khỏi Việt Nam trên một chiếc trực thăng ở trên nóc của Toà Đại Sứ Mỹ. Số phận của VNCH chấm dứt.
Ngày 18.4.2013
(Lữ Giang – Một góc trời )
BLOG BÙI VĂN BỒNG

Cựu binh: ‘Hoàng Sa đáng ra không mất’

Một cựu binh Hoàng Sa nói ông vẫn chưa quên những ký ức trận chiến năm 1974 và vẫn ấp ủ ý muốn được quay lại chiến trường cũ.
Trò chuyện với BBC qua điện thoại, ông Đỗ Văn Thọ, cựu hạ sỹ quan điện tử trên khu trục hạm HQ-4 Trần Khánh Dư thuộc hải quân VNCH, nói ông và các đồng đội “rất buồn” ngày HQ-4 phải rút lui, để lại Hoàng Sa phía sau.
“Khổ lắm, làm một người quân nhân thì đành phải làm theo lệnh,” ông nói.
“Tôi vẫn còn căm hận lắm đấy. Tôi giờ sức khoẻ còn dồi dào lắm, nếu phải ra đi để tái chiếm lại [Hoàng Sa] thì tôi cũng sẵn sàng ra đi thôi.”
‘Không chịu tăng viện’

Ông Thọ cho biết trong cuộc giao tranh ngày 19/1/1974, HQ-4 bị hư hỏng nặng, nhiều thuỷ thủ bị thương, và tàu của ông mất đi thiếu uý Sá và hạ sỹ Doanh.
Ông nói ông và các đồng đội đã rất “bất bình” vì không được tăng viện, đồng thời cho rằng nếu nhận được tiếp viện, Hoàng Sa có thể đã không mất.
“Hải quân VNCH thì bao nhiêu chiến hạm, rồi cả không quân nữa. Lúc đó cứ nói sẽ yểm trợ cho chúng tôi mà không thấy gì cả.”
Ông Thọ cũng cho biết đây là tâm lý của “tất cả những người tham dự cuộc chiến”, không chỉ riêng HQ-4.
“Tại sao phi cơ thì nhiều mà không đi, còn bao nhiêu chiến hạm nữa, như HQ-1 Trần Hưng Đạo.”
“HQ-10 đã bị hỏng máy, gặp nhiều trở ngại kỹ thuật, mà còn không chịu thay thế, rồi đánh nhau như thế không chịu tăng viện. Trong khi đó khu trục hạm HQ-1 Trần Hưng Đạo, là soái hạm, cứ nằm mãi ở Bộ Tư lệnh, làm kiểng sao?”
“Có một trận lớn như vậy, giặc đến như vậy, phải dốc sức mà đánh giặc chứ, sao chỉ để có 4 tàu vậy?”
“Tôi rất buồn và rất thương thiếu tá Nguỵ Văn Thà, bị để trong hoàn cảnh kẹt quá như vậy. Tôi nghĩ đó là lỗi của Bộ Tư lệnh hải quân VNCH.”

‘Đạp xích lô’
Vị cựu binh cho biết khi trở về đất liền, ông và các đồng đội được “đồng bào đón tiếp, giúp đỡ rất nhiều”.
“Cái cuộc nội chiến thì không nói làm gì, nhưng đánh nhau với người nước ngoài thì khác. Dân mình toàn người yêu nước chứ đâu phải không, họ cho rằng điều đó là xứng đáng,” ông nói.
Ông Thọ cho biết sau ngày 30/4/1975, ông đã nghĩ đến chuyện ra đi, nhưng có hai lý do khiến ông ở lại.
“Đúng ra tôi phải đi, nhưng vợ thì mới sanh con đầu lòng. Đó là lý do thứ nhất.”
“Thứ hai là HQ-4 lúc đó đang sửa chửa, chỉ còn vỏ, mà tôi không muốn đi trên một con tàu khác.”
“Từ ngày nhận chiến hạm, 25/12/1971, cho đến ngày cuối cùng, tôi cũng chỉ ở đơn vị này, không chuyển đi đâu cả.”
Ông Thọ hiện đang cư trú tại Bắc Lân, Bà Điểm, Hóc Môn, TP.HCM.
Ông cho biết những năm qua ông “chỉ làm nông nghiệp để kiếm sống, sau đó phải đi đạp xích lô để nuôi gia đình” và không nhận được sự hỗ trợ nào từ chính quyền.
“Sau này giải phóng làm đại lộ, diện tích nhà tôi ở bị mất hết một nửa, tôi phải bán hết đất đai nông nghiệp để sống qua ngày,” ông nói.
”Giặc Tàu”
Khi được hỏi ông nghĩ gì về thái độ của chính quyền ngày nay đối với vấn đề trên Biển Đông, ông Thọ nói:
“Tại sao giặc đến không đánh mà phải nhịn nhục đến nỗi mất hết 64 người năm 1988. Tôi nghe buồn lắm.”
“Giặc đến thì cứ đánh, đánh không lại cũng đánh, tại sao lại để họ tự nhiên bắn hết 64 người như vậy, tôi thấy chuyện đó là không được.”
“Hữu nghị hữu nghị cái gì chứ, nhiều khi họ phỏng vấn, tôi gọi là “giặc Tàu”, cũng không đồng ý cho tôi nói từ đó. Thành thử tôi cũng rất buồn.“
“Tính ông Hạm trưởng [Vũ Hữu] San (hạm trưởng HQ-4), cũng giống như tôi vậy, gặp là cứ đánh thôi, chuyện gì tới sẽ tới, đánh không lại cũng đánh.”
“Thuyết phục hay là nói qua nói lại hay đèn tín hiệu với nhau, phiền lắm.”
“Chúng tôi ngang ngược lắm, thấy là ‘làm’ thôi.”
THEO BBC

Hải chiến Hoàng Sa: Tường trình của một lính thủy trên khu trục Trần Khánh Dư


Đã 40 năm trôi qua, song đối với ông Lữ Công Bảy, trận hải chiến Hoàng Sa như vừa mới vừa xảy ra hôm qua. Ở trận chiến đó, ông và các đồng đội của mình đã phải chứng kiến một phần lãnh thổ của tổ tiên bị vuột mất vào tay ngoại bang.
Ký ức Hoàng Sa
Ông Lữ Công Bảy hẹn chúng tôi ra một “quán cóc” trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm (Q.1). Giờ đây, người thủy thủ của trận hải chiến Hoàng Sa không còn mang trên ngực phù hiệu, cấp bậc mà một chiếc thẻ của nhân viên bảo vệ.
Ở cái tuổi ngoài 60 nhưng ông Bảy vẫn giữ được vẻ nhanh nhẹn của một người từng trải qua sóng gió của đại dương.
Những tưởng cuộc sống thường nhật và những biến thiên của lịch sử từ sau năm 1975 sẽ khiến ông quên đi trận chiến ngày xưa. Vậy mà, khi nghe nhắc đến hai tiếng Hoàng Sa, câu chuyện giữa chúng tôi trở nên sôi nổi, mọi thứ như một đoạn phim cũ được chiếu lại.
Ông bảo, thời điểm cuộc chiến giữ đảo – mà bây giờ chúng ta hay gọi là trận hải chiến Hoàng Sa xảy ra, ông đang đeo quân hàm thượng sĩ, giữ nhiệm vụ trong thuật ngữ chuyên môn của Hải quân Việt Nam Cộng hòa gọi là “giám sát lộ trình hàng hải” hay gọi tắt là Giám lộ.
Ngoài nhiệm vụ chuyên môn ra, ông Lữ Công Bảy còn kiêm nhiệm chức vụ phụ tá hành quân trên chiến hạm Trần Khánh Dư – đó là lý do mà ông nắm được khá nhiều thông tin về trận hải chiến Hoàng Sa xảy ra vào năm 1974.
So với nhiều người lính tham gia trận hải chiến ấy, ông Bảy được xem là người có thâm niên gắn bó với Hoàng Sa nhiều nhất.
Nhập ngũ năm 1964, tính đến thời điểm xảy ra hải chiến ông đã có hơn 10 năm gắn bó với hải quân và hơn phân nửa thời gian đó, ông cùng những đồng đội của mình vẫn đi tuần khắp vùng biển Hoàng Sa để canh giữ chủ quyền hoặc tham gia nhiệm vụ chuyển quân ra đảo.
“Đối với tôi, Hoàng Sa như máu thịt, các hòn đảo ở quần đảo Hoàng Sa không nơi nào tôi không đặt chân lên…”, ông Bảy trầm ngâm nhớ lại “Tôi còn nhớ cá ở Hoàng Sa nhiều lắm, cứ mỗi lần tàu đến vùng biển này, chỉ cần buông một dây câu có 10 lưỡi thì trong vòng 10 phút phải có đến 6 lưỡi câu dính cá”.
Ngày 11.1.1974, quân Trung Quốc đột ngột đưa tàu đến vây những hòn đảo trong quần đảo Hoàng Sa. Bộ chỉ huy Quân đoàn I của Việt Nam Cộng hòa quyết định điều chiến hạm ra Hoàng Sa để bảo vệ chủ quyền.
Khi ấy, khu trục hạm Trần Khánh Dư – HQ-04 nơi ông Bảy phục vụ đang làm nhiệm vụ tuần tra ở khu vực Cù Lao Ré (đảo bé thuộc huyện Lý Sơn – PV) được lệnh quay trở về cảng Tiên Sa – Đà Nẵng.
Toàn bộ đơn vị được lệnh cấm trại 100%.
Đến 8 giờ sáng ngày 16.11.1974, tàu được tiếp tế lương thực, đạn dược và 2 chiếc xe GMC xịch đến đổ xuống một toán Biệt Hải (biệt kích hải quân – PV).
11 giờ ngày 16.1. 1974, đơn vị được lệnh trực chỉ Hoàng Sa.
Cuộc chiến tín hiệu
Sau một ngày đêm, cùng với các chiến hạm khác, chiến hạm HQ-04 có mặt tại quần đảo Hoàng Sa.
Ngoài các lực lượng chiếm đóng trái phép trên đảo, quân cướp nước còn cho bố trí ở đây hai chiếc tàu tuần tiễu.
Để gây hấn, chúng ngày đêm đánh tín hiệu bằng đèn nhằm chọc tức những người trên các chiến hạm của Hải quân Việt Nam Cộng hòa.
“Tôi là người nhận và trả tín hiệu nên nhớ rất rõ. Bọn chúng liên tục khiêu khích chúng tôi bằng cách phát đi thông điệp “chúng ta hãy làm những điều mà một quân nhân cần làm” hoặc ngụy xưng chủ quyền với quần đảo Hoàng Sa”, ông Bảy nhớ lại.
Tuy nhiên, tuân thủ luật Hàng hải và luật pháp quốc tế, các chiến hạm của Việt Nam Cộng hòa đáp lại bằng những lời khẳng định chủ quyền cương quyết, kêu gọi các tàu Trung Quốc hãy ra khỏi lãnh hải Việt Nam, tôn trọng luật pháp quốc tế.
Không khí căng như dây đàn suốt một ngày đêm, trò khiêu khích, thách chiến ấy vẫn duy trì cho đến khi súng nổ vào sáng ngày 19.1.1974.
“Như các anh đã biết, sau 30 phút chiến đấu sinh tử với kẻ thù, một phần mảnh đất cha ông đã bị quân cướp nước cưỡng đoạt từ đấy”, nói đến đây người thượng sĩ già năm ấy chợt ngừng lại.
Câu chuyện về trận chiến năm ấy chưa dừng lại khi ông Lữ Công Bảy kể cho chúng tôi nghe vì một sự bất nhất trong khi ra lệnh tác chiến, một chiến hạm thay vì nổ súng thẳng vào kẻ thù lại bắn lên đảo với ý đồ “dọn bãi” cho lực lượng đổ bộ.
Chỉ một tích tắc thiếu sự phối hợp đó đã không gây được nhiều tổn hại cho quân địch như ý muốn.
Theo ông Bảy, nếu trận chiến diễn ra chậm 1 ngày thì sẽ là một trận đánh lớn vì tất cả chiến hạm của hải quân Việt Nam Cộng hòa đã được lệnh trực chỉ Hoàng Sa để chiến đấu.
“Chết vì cái chiến đấu với Trung Quốc là cái chết vinh quang!”
Mặc dù thất bại, không giữ đất đảo song khi trở về Đà Nẵng, những người lính sống sót sau trận đánh được người dân chào đón như những người hùng.
Trước đó, thông tin về trận hải chiến khiến đất liền không yên. Không ai biết điều gì xảy ra với những người tham gia chiến trận. Người người như lửa đốt trong lòng khi nghe tin lãnh thổ Việt Nam bị quân Trung Quốc cưỡng chiếm.
Tàu vừa cập quân cảng Tiên Sa (Đà Nẵng), ông Bảy lập tức nhờ một người đàn em có nhiệm vụ đưa xác các tử sĩ về Sài Gòn đến báo tin cho gia đình ông biết rằng “con vẫn không có bề gì”. Tin báo đến với gia đình ông đúng trưa 30 tết năm ấy.
Về phần những thủy thủ tham gia trận hải chiến, khi vừa bước ra đường là được người dân vây quanh thăm hỏi về trận chiến.
“Lúc đó tôi mang phù hiệu của khu trục hạm Trần Khánh Dư, phù hiệu đẹp lắm, vừa bước ra đường là được người dân xúm lại hỏi thăm. Trả lời không kịp, tự hào lắm”, ông bảo vệ già này hồi tưởng.
Lúc đó lòng người ai ai cũng phẫn uất trước sự ngang ngược của quân Trung Quốc và thương tiếc cho những người đã vị quốc vong thân. Vì vậy, khi có lệnh chuẩn bị tái chiếm Hoàng Sa, trong lòng ai cũng phấn khởi vô cùng.
“Đêm mồng một Tết, sau khi đón giao thừa xong chúng tôi được lệnh chuẩn bị lên đường đi tái chiếm Hoàng Sa. Đứng trước người chỉ huy, nhiều người lính, trong đó có tôi đã thốt lên – nếu có chết vì giao chiến với quân Trung Quốc để giành lại Hoàng Sa thì đó sẽ là một cái chết đầy vinh quang…”, ông Bảy nhớ lại.
Có lẽ chính vì suy nghĩ như vậy mà đêm ấy – Tết Nguyên đán – không một người nào trên chiến hạm Trần Khánh Dư đào ngũ – một điều rất lạ trước mỗi trận đánh thời ấy.
Tuy nhiên, đi được khoảng một ngày, đột nhiên tàu nhận được lệnh hủy tái chiếm Hoàng Sa.
Chiến đi tái chiếm được chuyển thành một cuộc tuần tra, tìm kiếm những quân nhân bị nạn trong trận chiến trước đó.
Biết chuyện, nhiều quân nhân trên chiến hạm như muốn điên lên vì uất ức.
“Chuyện hủy bỏ kế hoạch tái chiếm Hoàng Sa đã được lịch sử giải mã. Thế nhưng, riêng cá nhân tôi và các đồng đội của mình vẫn cảm thấy tiếc vì không được chiến đấu để giành lại đất…”, ông Bảy kết thúc câu chuyện với chúng tôi về Hoàng Sa bằng một sự nuối tiếc vì không được dịp hiến công sức, máu mình cho Tổ Quốc.
Như tựa đề cuốn hồi ký của cựu đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, người chỉ huy trận hải chiến, xuất bản cách đây vài năm ở Mỹ, với những nỗ lực và máu mà các quân nhân Việt Nam Cộng hòa đã đổ xuống lòng biển ở quần đảo Hoàng Sa năm xưa, họ xứng đáng được gọi là “Can trường trong chiến bại”.
THEO MỘT THẾ GIỚI

2236. VẤN ĐỀ HOÀNG SA DƯỚI KHÍA CẠNH PHÁP LÝ

THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt)
Thứ Tư, ngày 15/01/2014
(Đài BBC 12/1)
Việt Nam không thể trông chờ vào biện pháp ‘ngoại giao’ vốn dựa trên ‘nhân nhượng’, cố giữ ‘hòa hiếu’ khi đòi chủ quyền ở Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Đông từ tay Trung Quốc, theo một chuyên gia công pháp quốc tế và luật biển từ Hà Nội. Theo Phó giáo sư, tiến sĩ Nguyên Bá Diến, Trưởng Bộ môn Công pháp Quốc tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, các động thái ngoại giao trong suốt nhiều năm qua tỏ ra ‘không hiệu quả’ khi vẫn không thể buộc Trung Quốc trao trả lại chủ quyền đối với hai quần đảo này cho Việt Nam.

Trao đổi với BBC vào ngày 12/1/2014, Phó giáo sư Diến, người tham gia nhiều chương trình, đề tài, dự án cấp quốc gia về pháp lý chủ quyền cho Việt Nam nhấn mạnh trong tình hình Trung Quốc quyết ‘phớt lờ’ và ‘coi thường’ các ‘nguyên tắc cơ bản’ của luật pháp quốc tế, kể cả Công ước Liên hợp quốc về luật biển 1982, Việt Nam phải ‘cương quyết’ hơn và sử dụng ‘con đường pháp lý’, ông nói: “Ngoại giao chỉ là một kênh thôi, còn đất đai lãnh thỗ là quyền thiêng liêng, vô giá. Đấu tranh bằng ngoại giao để bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ chỉ là một kênh, mà thường không hiệu quả, theo quan điểm của chúng tôi là không hiệu quả. Nếu mà cứ căn cứ vào kênh ngoại giao để đấu tranh bảo vệ chủ quyền, thì xem chừng không cẩn thận lợi bất cập hại, nó chỉ là một kênh. Chủ quyền quốc gia là vấn đề tối thượng, một thành tố vật chất để duy trì sự tồn tại quốc gia, mà ngoại giao tức là nhân nhượng, là thương lượng và đàm phán, cho nên người ta khó mà làm được chuyện đó (đòi chủ quyền)”.
Luật gia này tin rằng con đường duy nhất đấu tranh đòi chủ quyền hiệu quả của Việt Nam là dựa trên luật pháp quốc tế. Ông gợi ý: “Việt Nam có thể đưa vụ việc ra trước Liên hợp quốc, nặng hơn, chúng ta (Việt Nam) có thể đưa ra trước bất kỳ một cơ quan tài phán quốc tế nào, Tòa án Luật Biển, rồi Trọng Tài theo phụ lục 7 Công ước Liên hợp quốc về luật biển 1982, Trọng Tài Đặc Biệt theo mục 8 Công ước Liên hợp quốc về luật biển 1982, hoặc trước bất kỳ một cơ quan trọng tài nào”.
‘Con đường dt điểm’
Theo Phó giáo sư Nguyễn Bá Diến, vì hành vi của nhà cầm quyền Trung Quốc trên Biển Đông ngày càng ‘ngang ngược’, việc đàm phán ngoại giao sẽ ‘không dễ dàng’ và Việt Nam sẽ buộc phải dùng biện pháp khác mà ông hy vọng là hữu hiệu hơn. ông Diến khẳng định: “Hoàng Sa của Việt Nam bị Trung Quốc xâm chiếm trái phép 40 năm qua, Việt Nam đã bao nhiêu lần đề xuất đàm phán, thương lượng, nhưng phía Trung Quốc từ chối, ví dụ như vậy và sau này họ còn ngang ngược đánh chiếm thêm một số đảo, thí dụ sự việc năm 1988. Rõ ràng là việc thương lượng đàm phán trong vấn đề lãnh thổ, đặc biệt trong vấn đề Biển Đông, vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa không dễ dàng. Trung Quốc rõ ràng đã đánh chiếm, xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam 40 năm qua rồi, nhưng… ngày càng cố tình phớt lờ yêu sách đòi hỏi trả lại (chủ quyền) của Việt Nam bằng biện pháp hòa bình, bằng thương lượng. Thế cho nên chỉ có con đường pháp lý, chỉ có con đường chính trị quốc tế, pháp lý quốc tế mới có thể giải quyết một cách thỏa đáng, dứt điểm được vấn đề này. Mà tôi nghĩ không chỉ có vấn đề tranh chấp ở trên Biển Đông mà trên thực tiễn ở Đông Nam Á, người ta cùng đã đưa tranh chấp của Malaysia với Singapore, rồi Malaysia với Indonesia, người ta cũng đã đưa ra Tòa án Quốc tế và ngay cả (vụ) Đền Preah Vihear của Thái Lan và Campuchia người ta cũng đưa ra Tòa án Quốc tế đấy chứ”.
Phó giáo sư Diến cho hay hiện có hai luồng quan điểm trong nước về việc Việt Nam nên đưa vụ đòi chủ quyền ở Hoàng Sa, Trường Sa từ tay Trung Quốc ra sao. Ông Diến nói: “Có người nói bây giờ đã quá muộn rồi, Việt Nam không đưa vụ việc này ra cơ quan tài phán quốc tế, trước tổ chức quốc tế, ít nhất là Liên hợp quốc, như thế cũng là quá muộn rồi. Nhưng cũng có quan điểm cần tính toán, cân nhắc, và cũng cần xem xét thái độ của Trung Quốc, bởi vì Việt Nam vẫn muốn giữ hòa hiếu với Trung Quốc, chưa muốn làm căng với Trung Quốc”.
‘Còn chthi cơ?’
Chuyên gia pháp lý khẳng định Việt Nam hiện đã có ‘quá thừa’ những căn cứ pháp lý, lịch sử để đòi chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nhưng chính quyền vẫn còn chưa quyết định đưa ra tài phán quốc tế. Ông nói: “Xin khẳng định một điều là Việt Nam có quá thừa căn cứ pháp lý, cũng như có đầy đủ căn cứ lịch sử, nói cách khác là có đầy đủ căn cứ lịch sử, pháp lý để chứng minh chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cũng như các vùng biển được quy định của luật pháp quốc tế, cụ thể là Công ước Liên hợp quốc về luật biến 1982. Việt Nam có đầy đủ những căn cứ, những bằng chứng để chứng minh đòi lại, đặc biệt là quần đảo Hoàng Sa đã bị Trung Quốc chiếm đóng một cách trái pháp luật bằng vũ lực”.
Giải thích về việc vì sao Chính phủ Việt Nam nhiều năm qua vẫn chưa quyết định kiện Trung Quốc dùng vũ lực chiếm Hoàng Sa và nhiều đảo khác ở Trường Sa, trên Biển Đông, ra tài phán quốc tế, ông Diến nói: “Cái này còn tùy thuộc vào thái độ của Trung Quốc, tham vọng của Trung Quốc, yêu sách của Trung Quốc trên Biển Đông và thứ hai nữa là còn tùy thuộc vào ý chí chính trị của Việt Nam”.
Nhà luật học này cho rằng có thể Việt Nam đang đợi tới một thời điểm chính trị thuận lợi, như một thời cơ thuận lợi để tung ra hồ sơ lên tài phán quốc tế, nhưng ông cũng lưu ý: “Tuy nhiên tính toán như thế nào cũng là một vấn đề, bây giờ hay sau này, cái đó cũng phải có sự cân nhắc tính toán kỹ lưỡng”.
‘Trung Quốc lấn ti’
Nhân dịp này, chuyên gia cũng lên tiếng bình luận về việc Trung Quốc mới đây đưa ra quy định mới gọi là “Dự thảo sửa đổi Biện pháp thực hiện Luật Ngữ nghiệp” của Trung Quốc dưới danh nghĩa văn bản dưới luật của tỉnh Hải Nam có hiệu lực từ ngày 1/1/2014. Theo quy định này, người nước ngoài và tàu cá nước ngoài ‘tự ý đi vào vùng nước tỉnh Hải Nam quản lý để thực hiện sản xuất ngư nghiệp và các hoạt động điều tra tài nguyên nghề cá sẽ bị xua đuổi, có thể bị tịch thu tài sản, xử phạt hành chính… Phó giáo sư Nguyễn Bá Diễn nói với BBC: “Đương nhiên là theo quy định luật pháp quốc tế, đặc biệt Công ước Liên hợp quốc về luật biển 1982 thì quy định của Trung Quốc về cái yêu cầu hay đòi hỏi các quốc gia cũng như tàu thuyền của các nước khi vào vùng đánh cá, không chỉ vùng đánh cá mà vào vùng biển khoảng 2/3 diện tích Biển Đông phải có giây phép, như là một sự tuân thủ nhà cầm quyền TQ, thì như thế là vi phạm luật pháp quốc tế, vi phạm Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982 rồi”.
Vào ngày 10/1/2014, người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam, ông Lương Thanh Nghị, cũng đã có phản ứng trên truyền thông trong nước, ông Nghị được dẫn lời nói: “Việt Nam yêu cầu Trung Quốc hủy bỏ những việc làm sai trái nói trên, đóng góp thiết thực vào việc duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực”.
Trước đó, vào ngày 3/1/2014, nhìn lại công tác đối ngoại năm 2013 và nêu trọng tâm đối ngoại trong năm mới của Việt Nam, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam, ông Phạm Bình Minh, trên truyền thông trong nước, đã đề cập xử lý quan hệ với Trung Quốc trên Biển Đông. Ông nói với trang mạng của Đài Tiếng Nói Việt Nam: “Về vấn đề Biển Đông, trong năm 2013, chúng ta tiếp tục duy trì được môi trường ổn định ở Biển Đông. Trong năm 2013, một mặt chúng ta đấu tranh bảo vệ vùng đặc quyền kinh tế, đồng thời đấu tranh chống lại các biện pháp ngăn cản ngư dân của chúng ta trên các vùng biển của Việt Nam…”.
***
(Đài BBC 10/1)
Theo quan điểm của một luật gia và cựu quan chức Ban Biên giới Chính phủ Việt Nam, thời điểm để Việt Nam đưa Trung Quốc ra tòa quốc tế nhằm đòi chủ quyền ở Hoàng Sa, Trường Sa ở Biển Đông đã chín muồi.
Theo Phó giáo sư, tiến sĩ Hoàng Ngọc Giao, nguyên Vụ trưởng Ban Biên giới chính phủ, Hà Nội đã có đầy đủ căn cứ pháp lý và lịch sử về chủ quyền biển đảo đối với các vùng lãnh thổ nói trên ở Biển Đông và chi cần khẳng định bản lĩnh để đưa Bắc Kinh ra tài phán quốc tế.
Theo ông Giao, hành động pháp lý này vẫn cần được tiến hành sớm nhất ngay cả khi Trung Quốc được dự báo sẽ có động thái đáp lại là bác bỏ, lẩn tránh tranh tụng tại các phiên tòa quốc tế và gây các áp lực chính trị với Việt Nam.
Vẫn theo quan chức này, Trung Quốc đang có những hành vi mang tính chất ‘bành trướng và đế quốc mới’, muốn ‘lập lại trật tự khu vực’ khi mới đây tuyên bố bắt buộc các tàu bè vào khu vực rộng hơn 2/3 Biển Đông phải xin phép, sau khi đã tuyên bố vùng cấm bay ở biển Hoa Đông và chưa thu hồi bản đồ ‘đường lưỡi bò’ dù đã bị quốc tế, khu vực chỉ trích.
Về thời điểm của hành động pháp lý đòi chủ quyền của quần đảo Hoàng Sa mà năm nay đánh dấu tròn 40 năm sự kiện của cuộc cưỡng chiếm, một chuyên gia từng nghiên cứu về pháp lý chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông từ Đại học Quốc gia Hà Nội cho rằng, Việt Nam nên đưa hồ sơ đòi chủ quyền ra quốc tế ‘càng sớm càng tốt’. Giáo sư Nguyễn Đăng Dung nói Việt Nam đã ‘quá chậm’ khi chưa trình hồ sơ lên Tòa án Quốc tế và cho rằng điều này là bất lợi cho Việt Nam, trong khi có lợi cho ‘phía chiếm hữu’ vì theo ông càng “để lâu cứt trâu hóa bùn”.
‘Nay là thi điểm’
Trước hết, ngày 10/1, Phó giáo sư, tiến sĩ Hoàng Ngọc Giao nói với BBC, nay là thời điểm Việt Nam phải ‘mạnh mẽ’ hơn trong hành động pháp lý đòi chủ quyền, ông nói:
“Chính phủ Việt Nam hiện nay, với nguyện vọng của dân tộc, nhân dân Việt Nam hiện nay, mạnh mẽ hơn nữa, tôi nghĩ thời điểm này, đã đến lúc cần phải mạnh mẽ hơn và cần phải khẳng định bản lĩnh của dân tộc Việt Nam đứng trước một nguy cơ xâm phạm bờ cõi tổ tiên để lại. Đây là thời điểm cần thiết phải đứng ra rồi. Cần thiết phải có những động thái về mặt chính trị, pháp lý mạnh mẽ hơn nữa trong quan hệ quốc tế đối với Trung Quốc”.
Ổng Giao cho rằng về mặt các căn cứ để đòi chủ quyền, Việt Nam hoàn toàn có thể ‘yên tâm’. Ông nói thêm:
“Cụ thể hồ sơ về Hoàng Sa, Trường Sa, các nhà nghiên cứu lịch sử, cũng như các chuyên gia pháp luật đều có những nghiên cứu và đều có đánh giá chung rằng, Việt Nam có đầy đủ căn cứ pháp lý về chủ quyền lãnh thổ. Trong lịch sử, về mặt pháp lý, cũng như về mặt chiếm hữu thực sự hữu hiệu, dưới góc độ công pháp quốc tế, Việt Nam có đủ căn cứ và Việt Nam có thể hoàn toàn yên tâm”.
Theo nhà luật học, để đương đầu với khả năng Trung Quốc bác bỏ đàm phán, từ chối hợp tác trong tranh tụng và né tránh xuất hiện trước Tòa án Công lý Quốc tế, Việt Nam cần tham khảo kinh nghiệm của Philippines trong xử lý tranh chấp biển đảo với Trung Quốc. Ông Giao cho biết:
“Việt Nam cũng có thể có những động thái về mặt pháp lý tương tự như Philippines, để đưa ra Tòa án về Luật biển quốc tế theo cơ chế giải quyết tranh chấp theo Công ước Liên hợp quốc về luật biển Quốc tế 1982”.
Tòa án này, theo ông Giao, đã tiếp nhận hồ sơ thưa kiện của Philippines theo một cơ chế ‘hòa giải bắt buộc’ vốn chấp nhận một trong các bên có tranh chấp, khiếu nại về chủ quyền biển đảo được đệ trình đơn và hồ sơ khiếu nại của mình, mà không đòi hỏi phía bị thưa kiện cùng phải đồng thuận hay không, như theo một nguyên tắc và cơ chế xử lý của Tòa án Công lý quốc tế mà Trung Quốc vẫn dựa vào đó để né tránh ra tòa.
‘Cứt trâu hóa bùn’
Về khả năng và căn cứ pháp lý đòi lại chủ quyền của Việt Nam riêng với Hoàng Sa, sau 40 năm Trung Quốc tấn công chiếm quần đảo này từ tay Việt Nam Cộng hòa, Giáo sư Nguyễn Đăng Dung từ Đại học Quốc gia nói:
“Các chứng cứ pháp lý về chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa chắc chắn hơn những nơi khác, bởi vì cứ liệu theo tôi nghiên cứu Việt Nam có lịch sử lãnh thổ về chủ quyền với Hoàng Sa sớm hơn tất cả các nước khác, kể cả Trung Quốc, ngay cả có bằng chứng lịch sử nhiều hơn”.
Chuyên gia từng tham gia nghiên cứu các chủ đề về chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông từ 20 năm về trước cho rằng Việt Nam đã ‘hơi muộn’ nếu ngay bây giờ bắt đầu đệ trình các hồ sơ đòi chủ quyền lên các tòa án quốc tế. Ông Dung nói:
“Quan điểm của tôi là đưa càng sớm càng tốt, chiếm cứ lãnh thổ càng để lâu thì sẽ càng tốt cho người cưỡng chiếm, theo tôi nghĩ, cứ liệu của Việt Nam với Hoàng Sa là chắc chắn. Việt Nam có dám đưa hay không, đấy là vấn đề. Về thời điểm, tôi nghĩ càng đưa sớm càng tốt, Việt Nam càng để chậm thì sự cưỡng chiếm của người ta càng có hiệu lực hơn. Tôi nghĩ bây giờ đưa ra cũng đã là chậm rồi. Việt Nam có câu càng để lâu ‘cứt trâu hóa bùn’”.
Trong một trao đổi với BBC từ trước về công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958 liên quan một tuyên bố về hải phận của Trung Quốc, Giáo sư Monique Chemillier Gendreau từ Pháp cho rằng Việt Nam đã có đủ căn cứ pháp lý, lịch sử về chủ quyền với Hoàng Sa, Trường Sa.
Theo chuyên gia về công pháp quốc tế này, Việt Nam cần có những bước đi thích hợp, tận dụng sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế và có những hành động không chậm trễ vì “Trung Quốc trong nhiều năm đã có sự chuẩn bị ráo riết về dư luận quốc tế, trong khi không ngừng tranh thủ, vận động hành lang ở nhiều diễn đàn quốc tế và khu vực”. Ngày 10/1, Phó giáo sư, tiến sĩ Hoàng Ngọc Giao nói với BBC về các động thái, chiến thuật của Trung Quốc ở các vùng biển khu vực, trong đó có Biển Đông và đưa ra khuyến nghị với Việt Nam. Ông Giao nói:
“Hành vi của Trung Quốc trong những năm gần đây là họ đang dùng sức mạnh nước lớn và họ đang muốn thay đổi trật tự quan hệ quốc tế trong khu vực, do đó không chỉ đối với Việt Nam, mà còn đối với Nhật Bản và các nước khác trong khu vực. Họ cũng có những động thái xé rào, phá bỏ những luật lệ, các nguyên tắc quan hệ đã được thiết lập từ thế kỷ trước đến nay, thậm chí họ không tôn trọng Công ước Liên hợp quốc về luật biển 1982, mặc dù họ đã ký, cam kết, nhưng việc họ đưa ra ‘đường lưỡi bò’ không có một căn cứ nào phù hợp với luật quốc tế, trật tự quốc tế, trật tự pháp lý quốc tế hiện nay”.
‘Không phải đơn độc’
Theo nhà luật học, Trung Quốc đã có những ‘bước đi’ mà theo ông đã thể hiện ‘tham vọng đế quốc và bá quyền’, ‘muốn lập lại trật tự trong khu vực’ khi tuyên bố vùng nhận dạng phòng không ở biển Hoa Đông và gần đây quy định tàu đánh cá nước ngoài đi vào một khu vực hơn 2/3 Biển Đông cũng phải ‘xin phép thì mới được đánh cá”. Ông Giao cho biết:
Theo tôi Việt Nam không đơn độc trong việc xử lý các vấn đề này, Việt Nam có các nước ASEAN, Việt Nam có luật pháp quốc tế, Việt Nam có những mối quan hệ đang ngày càng phát triển với Nhật Bản, với Mỹ, Việt Nam cần tăng cường hơn nữa quan hệ quốc tế đa phương và phải có bản lĩnh, quan trọng là phải có bản lĩnh.
Dù mối quan hệ chính trị hiện nay giữa Hà Nội và Bắc Kinh như thế nào, nhưng đất đai của tổ tiên, bờ cõi của tổ tiên, cần phải được gìn giữ như ông cha ta đã làm”.
Ngày 3/1, trong cuộc trao đổi với Đài Tiếng nói Việt Nam, nhìn lại công tác đối ngoại trong năm 2013 và bình luận ‘trọng tâm công tác đối ngoại’ của Việt Nam trong năm mới, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh không nhắc tới vấn đề đòi chủ quyền với Hoàng Sa và các nơi khác trên Biển Đông, Ngoại trưởng Phạm Bình Minh được trích thuật nói: Hiện nay, trong ASEAN xu hướng chung là đều muốn xây dụng được Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) với Trung Quốc. Vai trò của Việt Nam trong COC rất quan trọng. Năm 2012, khi là điều phối viên của ASEAN- Trung Quốc, Việt Nam đã cùng các nước xây dựng được các thành tố cơ bản về COC. Trên cơ sở những thành tố đó thì ASEAN và Trung Quốc sẽ tiếp tục thảo luận về bộ quy tắc này”.
***
(Đài TNHK 12/1)
Cuộc chiến trên biển gây nhiều thương vong cho phía Việt Nam năm 1974 đã được đưa ra ‘mổ xẻ’ dưới nhiều lăng kính khác nhau của các nhà nghiên cứu gốc Việt tại Đại học Harvard vào ngày 11/1.
Tiến sỹ Ngô Như Bình, Giám đốc chương trình tiếng Việt tại trường đại học danh tiếng nằm ở bang Massachusetts, cho VOA Việt Ngữ biết, cuộc hội thảo được tổ chức để đánh dấu tròn 40 năm trận hải chiến đẫm máu. Ông Bình cũng nói rằng ý kiến của các chuyên gia Mỹ và Canada gốc Việt tham gia diễn đàn có thể đóng góp phần nào vào việc tìm ra giải pháp cho cuộc tranh chấp lãnh hải trên Biển Đông, ông Bình nói: “Chúng tôi muốn lắng nghe ý kiến của các chuyên gia từ những góc độ khác nhau, từ lịch sử, pháp luật, kinh tế hay thương mại. Nếu như kết quả cùa các công trình nghiên cứu của các diễn giả và kết quả của hội thảo này được nhiều người biết đến thì chúng tôi nghĩ rằng nó sẽ góp phần giải quyết vấn đề biển đảo ở Biển Đông một cách hòa bình”.
Ồng Ngô Vĩnh Long, Giáo sư khoa lịch sử của Đại học Maine, là một trong các diễn giả thuyết trình tại cuộc hội thảo với sự tham gia của nhiều thành phần, trong đó có khá nhiều sinh viên người Việt, về tác động của cuộc chiến trên biển năm 1974 đối với các diễn biến những năm sau đó, ông Long nhận định với VOA Việt Ngữ rằng nó là điểm khởi đầu cho một loạt rắc rối mà Trung Quốc gây ra sau này. Theo ông, việc Trung Quốc đánh chiếm toàn bộ Hoàng Sa là nhằm thâu tóm và kiểm soát Biến Đông, ông Long nói: “Trung Quốc lấy nốt Hoàng Sa rồi để từ đó mới nói rằng Trung Quốc có lãnh hải mấy trăm dặm, thành ra, gây tranh chấp khắp khu vực. Trung Quốc gây sự, chiếm chỗ này, chiếm chỗ kia, mà người ta phải tới để thương lượng với Trung Quốc. Khi mà tới nói chuyện với Trung Quốc thì Trung Quốc tuyên bố chỉ nói chuyện song phương thôi, chứ không nói đa phương. Trung Quốc dùng sức mạnh của nước lớn để ăn hiếp các nước nhỏ”.
Liên quan tới khía cạnh pháp lý trong vấn đề tranh chấp ở Biến Đông, nhiều ý kiến cho rằng Việt Nam nên đi theo cách làm của Philippịnes. Tiến sỹ Tạ Văn Tài, cựu giảng viên trường luật của Đại học Harvard, nhận định với VOA Việt Ngữ rằng Hà Nội nên theo gót Philippines đưa Trung Quốc ra tòa trọng tài quốc tế để phân xử. Ông Tài nói: “Hai tòa án chính là tòa trọng tài và tòa luật biển. Muốn giải thích điều khoản nào về luật biển, một bên có quyền đưa ra và bên kia không ngăn cản được. Bên kia có trình hồ sơ thì họ xem, không trình thì họ cứ tuyên bố một bản án mà dĩ nhiên nó không có tính cưỡng hành, nhưng mà ít ra nó cũng tạo được một cái thế về luật pháp, về chính nghĩa cho Việt Nam và Philippines. Đó là điều nên làm”.
Trung Quốc từng tuyên bố rằng nước này không có ý định tham gia vụ kiện mà Bắc Kinh cho là nỗ lực của Philippines nhằm hợp thức hóa việc chiếm đóng các đảo của Trung Quốc ở Biển Đông. Tiến sỹ Tài cho rằng Hà Nội hiện chú tâm theo dõi vụ kiện do Manila khởi xướng để xem có thể học được gì. Ông Tài nói: “Đối với Trung Quốc, một anh khổng lồ hung hăng, dùng ngoại giao súng ống thì chỉ có cách dùng luật pháp, là khí giới của kể yếu chống kẻ mạnh, giống như Nguyễn Trãi nói, đem đại nghĩa (tức luật pháp) để thắng hung tàn. Trước tòa án, dù là không có lôi được Trung Quốc ra, nhưng nếu mà có một bản án, kết án lập trường của Trung Quốc, điều đó rất có lợi cho dư luận quốc tế chống Trung Quốc và bảo vệ các nước nhỏ ở Đông Nam Á”.
Tiến sỹ Vũ Quang Việt, một chuyên gia từng làm việc cho LHQ và hiện nghiên cứu về cuộc tranh chấp Biển Đông, cũng có cùng quan điểm với ông Tài. Ông Việt cho rằng Việt Nam ‘là nước nhỏ thì phải dựa vào luật pháp quốc tể để giải quyết’, và việc ‘Philippines làm là đúng đắn và Việt Nam nên ủng họ’. Ông Việt nói: “Việt Nam có thể đưa Trung Quốc ra tòa bất cứ lúc nào, nhưng Việt Nam cần phải tìm hiểu để biết những vấn đề nào cần đưa ra tòa được. Việt Nam muốn kiện thì phải tìm ra cái gì liên quan tới Việt Nam, chứ không thể lấy các điểm đưa ra tòa của Philippines được”.
Ông Paul Reichler, luật sư đại diện của Chính phủ Manila trước tòa trọng tài quốc tế từng nói với VOA Việt Ngữ rằng quyền lợi của Việt Nam ‘hoàn toàn giống với hai điểm chính mà Philippines mang ra tòa’. Trong chuyến thăm Mỹ năm ngoái, khi được hỏi về việc Manila đưa Bắc Kinh ra tòa, Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang nói rằng đó là ‘thẩm quyền của Philippines’ và Việt Nam ‘tôn trọng Philippines’. Trong khi đó, tiến sỹ Ngô Như Bình cho rằng Chính quyền Hà Nội cần phải cho người dân thấy rõ ‘quan điểm cua mình, quan điểm của phía Việt Nam’ trong vấn đề Biển Đông.
***
(Đài TNHK 10/1)
Năm nay đánh dấu 40 năm ngày bùng nổ trận hải chiến giữa Việt Nam với Trung Quốc trên quần đảo Hoàng Sa tháng 1/1974. Vấn đề Hoàng Sa hiện nay có vai trò thế nào đối với an ninh của Việt Nam và cả khu vực giữa căng thẳng tranh chấp Biển Đông với các hành động gây hấn không ngừng của Trung Quốc?
Trong cuộc trao đổi với VOA Việt ngữ, nhà nghiên cứu và giảng dạy về châu Á học thuộc Đại học Maine Mỹ, Giáo sư Ngô Vĩnh Long, nhận định như sau:
“Hoàng Sa với an ninh và quyền lợi của Việt Nam thì ta đã thấy rõ, nhưng an ninh và quyền lợi của thế giới nhiều nước chưa thấy rõ. Khi Trung Quốc chiếm đóng toàn bộ Hoàng Sa ngày 19/1/1974, họ đã tính sẽ dùng đảo này để đẩy yêu cầu của họ chiếm thêm những vùng khác trong Biển Đông. Rõ ràng từ đó đến nay, Trung Quốc càng ngày càng khiêu khích. Họ dùng Hoàng Sa làm căn cứ địa, rồi lập thành phố Tam Sa để kiểm soát toàn bộ Biển Đông.”
VOA: Với sách lược đòi chủ quyền bằng ngoại giao, liệu Việt Nam và các nước Đông Nam Á có thể thành công? Nhìn lại 40 năm đã qua kể từ trận chiến Hoàng Sa, chưa thấy một kết quả cụ thể nào cho Việt Nam, thưa ông?
- Vâng, Hoàng Sa là vấn đề rất quan trọng về khía cạnh chủ quyền, an ninh cho khu vực, và về luật pháp, về mặt luật pháp, nếu mình để càng lâu, Trung Quốc càng có thời gian. Sau này nếu có đem ra tòa kiện được, người ta cũng cho rằng Trung Quốc đã chiếm đóng lâu rồi, người ta không muốn làm lộn xộn vấn đề. Cho nên, mình phải dùng vấn đề an ninh khu vực. Chẳng hạn lệnh cấm đánh bắt cá của Trung Quốc gần đây rõ ràng là sự đe dọa an ninh cho cả thế giới chứ không phải chỉ cho một nước Việt Nam. Nếu hai nước bị thiệt hại nhiều nhất là Việt Nam và Philippines đẩy mạnh vấn đề thành trách nhiệm chung của thế giới thì tôi nghĩ có thể giải quyết sớm vấn đề.
VOA: Còn kịch bản khả dĩ nào khác giúp giải quyết tranh chấp theo chiều hướng ôn hòa, tốt đẹp nhất ngoài vận động ngoại giao? Các biện pháp chế tài, ràng buộc, hoặc kiện tụng thì sao?
- Việt Nam là nước phải đứng ra kiện vì quần đảo Hoàng Sa là của Việt Nam bị Trung Quốc chiếm đóng và khi chiếm đóng, Trung Quốc còn giết người Việt Nam. Đây là vấn đề không những mang tính luật pháp mà còn mang tính nhân đạo. Cho nên, chúng ta có thể đem ra nói với thế giới. Nhưng theo tôi, khi Việt Nam nói với thế giới điều này, cần cho thế giới biết rằng Trung Quốc có đảo Hải Nam với vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý. Nếu họ dùng Hoàng Sa và cũng nói rằng họ có 200 hải lý vùng đặc quyền kinh tế ở đây, trong khi giữa Hải Nam và Hoàng Sa chưa tới 400 hải lý, thì Trung Quốc sẽ làm tắc nghẽn cả đường lưu thông từ dưới Biển Đông lên đến vùng Đài Loan. Thành ra, trong lúc Trung Quốc đang ‘quậy’ thế này, Việt Nam nên đẩy mạnh vấn đề, đặc biệt là Liên hợp quốc, buộc Liên hợp quốc phải xét xử vụ này vì chuyện này không phải chỉ là chủ quyền lãnh thổ mà là an ninh biển, ảnh hưởng Luật Biển của Liên hợp quốc.
VOA: Thế nhưng những áp lực mạnh tay hơn liệu chăng sẽ đưa tới những rủi ro như một trận hải chiến cách đây 40 năm? Giáo sư nhận định khả năng xảy ra xung đột vũ trang tại khu vực ra sao?
- Bây giờ Trung Quốc và Mỹ có quan hệ cộng sinh. 20 năm qua nhờ Mỹ, Trung Quốc mới có thể phát triển như ngày nay. Nếu có rắc rối trong khu vực hại đến quyền lợi của Mỹ thì Mỹ phải nói rõ với Trung Quốc là ‘Chúng tôi không thể chấp nhận’. Trách nhiệm của Mỹ và quyền lợi của Mỹ bây giờ rất rõ trong vấn đề này. Cho nên, tôi nghĩ Mỹ không thể dùng dằng. Trong khi đang tìm cách đối phó, Mỹ cần sự giúp đỡ của các nước Đông Nam Á có quyền lợi bị đe dọa. Cho nên các nước cần tìm cách gây áp lực với Mỹ hay giúp Mỹ có cớ để giữ an ninh trong khu vực. Việt Nam là nước có lãnh thổ, lãnh hải dài nhất ở Biển Đông. Cho nên, tiếng nói của Việt Nam có sức nặng. Nếu không, đúng như cô nói, sẽ xảy ra sự cố. Khi xảy ra sự cố giữa khu vực Hải Nam và Hoàng Sa, chắc chắn sẽ làm tắc nghẽn lưu thông toàn khu vực. Chúng ta biết 90% các trao đổi hàng hóa của thế giới là trên đường biển và 60% các trao đổi đó là qua Biển Đông. Cho nên thế giới không nên để cho sự cố xảy ra./.

2235. VỀ SỰ KIỆN TUẦN BÁO NAM PHƯƠNG CHU MẠT TẠI QUẢNG ĐÔNG

THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt)
Thứ Ba, ngày 14/01/2014
(Đài RFI 7/1)
Cách nay đúng một năm, các phóng viên tuần báo Nam Phương Chu Mạt tại Quảng Châu đã thu hút sự chú ý của công luận, đình công phản đối chế độ kiểm duyệt thô bạo nhắm vào họ. Ngày kỷ niệm một năm vụ việc đó, ngày 7/1/2013-7/1/2014, đã khiến lực lượng an ninh tại chỗ rất căng thẳng.

Để ngăn ngừa biểu tình có thể diễn ra, trong những ngày qua, công an đã bắt giữ nhiều nhân vật đấu tranh bị cho là có thể tham gia biểu tình kỉ niệm vụ này. Chiến địch trấn áp dự phòng đã được tung ra trước ngày kỉ niệm một năm vụ đình công hiếm thấy, mà một số chuyên gia cho rằng đã là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng kiểm soát chặt chẽ các phương tiện truyền thông Trung Quốc trong năm qua dưới thời Chủ tịch Tập Cận Bình.
Theo hãng tin Reuters, có ít nhất ba nhà hoạt động bảo vệ tự do báo chí mà hãng này liên lạc được đã xác nhận rằng họ không thể đi biểu tình sau khi đã bị công an cảnh cáo. Phó Chủ tịch Trung tâm Văn bút Độc lập Trung Quốc, trụ sở ở Quảng Châu, chuyên tranh đấu cho tự do ngôn luận ở Trung Quốc, cho biết: “Trong những ngày gần đây, những ai dự định đánh dấu một năm ngày vụ việc xảy ra hoặc là bị công an triệu mời, bị quản thúc tại gia, bị buộc phải đi nghỉ ở nơi khác… hoặc là bị bắt giữ”.
Theo nhân vật này, Chính phủ Trung Quốc không chấp nhận các kiểu kỉ niệm và các hoạt động đường phố như vậy vì đi ngược lại khuôn khổ xã hội ổn định, do đó “họ đã đàn áp phủ đầu chúng tôi”.
An ninh được xiết chặt bên ngoài cổng vào trụ sở Nhóm Truyền thông Phương Nam, công ty sở hữu tờ tuần báo Nam Phương Chu Mạt, với ít nhất 8 xe cảnh sát và xe jeep đậu bên ngoài, và vô số công an mặc sắc phục và thường phục liên tục tuần tra trong khu vực.
Vào ngày này năm 2013, các nhà báo tại tuần báo này đã đình công trong nhiều ngày, sau khi cơ quan kiểm duyệt hủy bỏ một bài xã luận nhân năm mới kêu gọi Trung Quốc tôn trọng các quyền hiến định. Cuộc đình công đã kết thúc sau khi các quan chức tuyên huấn tại địa phương hứa sẽ nhẹ nhàng hơn với chế độ kiểm duyệt.
Tờ Nam Phương Chu Mạt nổi tiếng là một tờ báo có lời lẽ thắng thắn, rất có uy tín với bạn đọc. Khi các kí giả đình công, nhiều người đã biểu tình bên ngoài tỏ lòng ủng hộ, khiến chính quyền rất bực tức. Hãng tin Reuters ghi nhận:
Ngày 4/1 vừa qua, cảnh sát đã xông vào nhà của một nhà hoạt động vì tự do báo chí, đưa anh ta vào tù cùng với ba người khác. Một luật sư bảo vệ nhân quyền tại Quảng Châu, cũng đã bị bắt giữ và bị đưa đi mất tích.
Trước chiến dịch bố ráp hôm 4/1, hai nhà hoạt động nhân quyền nổi tiếng khác tại Quảng Châu, đã bị buộc vào tội danh tập hợp đám đông để “phá rối trật tự công cộng” nhân những cuộc biểu tình năm 2013, để hỗ trợ phong trào đình công của kí giả tờ Nam Phương Chu Mạt.
Tuần báo Nam Phương Chu Mạt, trong bài xã luận ngày 2/1/2014, đã nhấn mạnh mong muốn được “nói lên sự thật” trong khi nhiều người chờ đợi một giọng điệu mạnh mẽ hơn. Đây là một tờ báo nổi tiếng cải cách ở Trung Quốc mà việc bị kiểm duyệt cách đây một năm đã gây ra một làn sóng phản đối mạnh mẽ trong dư luận.
Tờ Nam Phương Chu Mạt xuất bản tại Quảng Đông viết: “Là một tờ báo gắn bó với việc biểu đạt sự thật, các nỗ lực của chúng tôi đôi khi thành công rực rỡ, hoặc có khi tỏ ra vô ích. Nhưng chúng tôi không có chọn lựa nào khác ngoài việc tìm kiếm và nói lên sự thật một cách có hệ thống, chuyên nghiệp và đầy trách nhiệm”.
Đầu năm 2013, tờ Nam Phương Chu Mạt trong một bài báo nhân dịp năm mới đã kêu gọi Chính phủ Trung Quốc cải cách về chính trị, nhất là tôn trọng các quyền tự do căn bản. Bài xã luận này đã bị sửa đổi gần hết nội dung, theo lệnh của Ban Tuyên truyền tỉnh Quảng Đông.
Tại Trung Quốc, đảng Cộng sản kiểm soát tất cả các cơ quan báo chí và xuất bản. Cho dù kiểm duyệt là chuyện bình thường tại Trung Quốc, nhưng vụ này đã gây ra phản ứng dữ dội trên các mạng xã hội.
Làn sóng đả kích lan rộng, dẫn đến một cuộc biểu tình phản kháng, một sự kiện hiếm hoi. Những khuôn mặt nổi tiếng như blogger Hàn Hàn (Han Han), nữ diễn viên điện ảnh Diêu Thần (Yao Chen) có đến hơn 52 triệu người theo dõi trên Twitter, đã lên tiếng ủng hộ các nhà báo của Nam Phương Chu Mạt.
Phong trào phản đối chấm dứt nhờ các thương lượng trong hậu trường, đã hạn chế các vụ can thiệp trực tiếp của Ban Tuyên truyền vào các bài viết của tuần báo này, và bảo đảm rằng các phóng viên tham gia phản đối sẽ không bị trù dập. Khi sử dụng một giọng điệu ôn hòa cho bài xã luận nhân dịp năm mới Dương lịch 2014, tờ Nam Phương Chu Mạt đã gây ra những phản ứng khác nhau, có người ủng hộ nhưng cũng có những người thất vọng.
Một cư dân mạng nhận định: “So với những năm trước đây, thông điệp này thật đáng buồn”. Một số khác cho rằng bài xã luận “thiêu lửa” nên rốt cuộc “khá thất vọng”. Những người khác viết: “Hãy tiếp tục, chúng tôi ở bên các bạn” trong lúc xã hội Trung Quốc ngày càng đòi hỏi cao hơn về quyền tự do ngôn luận.
AFP ngày 2/1 dành một bài phóng sự cuối năm 2013 cho phong trào tranh đấu từ đường phố phát xuất từ miền Nam Trung Quốc với tên gọi “Nam Phương Nhai Thủ Vận Động” (Nan Fang Jie Tou Yun Dong). Đây là một mạng lưới tranh đấu được thành lập tại tỉnh Quảng Đông chỉ cách nay hai năm và đã đặt Chính phủ Trung Quốc vào thế cố thủ. Phương châm hành động của tổ chức xã hội dân sự này là “không sợ” chính quyền, công khai các yêu sách chính trị, để các phong trào phản kháng trên toàn quốc noi theo.
Tỉnh Quảng Đông nằm sát Hong Kong nên mức độ kiểm soát của Chính phủ Trung Quốc cũng tương đối nới lỏng hơn những nơi khác. Nhưng đặc biệt hơn cả, Quảng Đông có một truyền thống nổi dậy, được tiếp cận với văn hóa cởi mở của phương Tây và là quê hương của Bác sĩ Tôn Dật Tiên, cha đẻ của cuộc cách mạng dân chủ lật đổ nhà Thanh vào năm 1911, chấm dứt hơn 2000 năm phong kiến để thành lập chế độ Cộng hòa.
Đương nhiên là Chính phủ Trung Quốc không để yên cho một phong trào công dân lớn mạnh. Nhiều thành viên của tổ chức đã bị nhốt vào nhà giam, nhưng chỉ trong một thời gian ngắn. Một trong những thành viên được AFP tiếp xúc tên là Tạ Văn Phi, một công nhân 37 tuổi, quê quán ở miền Trung. Trên danh thiếp ghi hai hàng chữ: Thành viên Nam Phương Nhai Thủ Vận Động, Thấy việc sai trái mà im lặng là theo kẻ gian tà.
Tháng 9 năm nay, trong một cuộc xuống đường, Tạ Văn Phi đi đầu với biểu ngữ “chấm dứt độc tài”. Dù bạn bè khuyến cáo thế nào cũng bị bắt nhưng anh giải thích hai lý do: Một là chứng minh với những người bạn có cùng quan điểm là phải “chiến thắng tâm lý sợ chính quyền”, và thứ hai là để xác định rằng đảng Cộng sản đã mất tính chính đáng trong đôi mắt của người dân và luật pháp.
Theo lời kể của doanh nhân trẻ Vương Ái Trung, phong trào tranh đấu đường phố phương Nam được thành lập vào năm 2011, lúc đầu tổ chức tập họp thường xuyên mỗi tháng trong một công viên cho đến khi công an ngăn cấm. Từ đó, họ chuyển sang hình thức họp mặt từng nhóm nhỏ, hàng chục lần trong năm nay và yêu cầu giới cầm quyền phải báo cáo với nhân dân tài sản của bản thân và gia đình, phải trả tự do cho các nhà dân chủ và chấm dứt chế độ áp bức, độc đảng.
Theo Vương Ái Trung, các yêu sách có thể khác nhau nhưng có cùng một mục tiêu đi tới là “chấm dứt chế độ độc tài này”.
Rất nhiều di dân từ các tỉnh khác đến Quảng Đông lao động đã tham gia phong trào phản kháng này, nhất là từ khi xảy ra các cuộc biêu tình ủng hộ tuần báo Nam Phương Chu Mạt nổi tiếng có nhiều bài viết “tự do” bị kiểm duyệt hồi đầu năm 2013. Nếu ở một tỉnh khác, phong trào xã hội dân sự tương tự như vậy sẽ bị trả giá nặng hơn, như trường hợp ba nhà tranh đấu ở Quảng Tây bị lãnh án năm năm tù vì đòi lãnh đạo công bố tài sản.
Phong trào công dân, theo giới phân tích, là đại diện của đa số thầm lặng nhưng hết muốn im lặng bên cạnh những khuôn mặt biểu tượng như giáo sư tù nhân Lưu Hiểu Ba, Nobel Hòa bình 2011 hay nghệ sĩ Ngải Vị Vị, luật sư mù Trần Quang Thành. Họ có thể là một công nhân bị sa thải như Gia Bình, 24 tuổi. Do uất ức, anh giương biểu ngữ “đảng Cộng sản không đại diện nhân dân” với hậu quả là 20 ngày tù nhưng anh không sợ và sẽ tiếp tục tranh đấu.
Nhân vật lãnh đạo phong trào đường phố Nam phương là ai? Ông Dương Mậu Đông, bút hiệu Quách Phi Hùng, bị bắt lại hồi tháng 8 năm nay sau khi mãn hạn bản án 5 năm tù, hay một nhà đối lập nào đó mà Thời báo Hoàn cầu, cơ quan tuyên truyền đại diện của xu hướng cực đoan nhất tại Trung Quốc gọi là “những kẻ nguy hiểm cho chế độ, lấy việc chống đảng Cộng sản làm lẽ sống”.
Theo chuyên gia độc lập Eva Pils, đại học Hong Kong, thì đông đảo người dân miền Nam Trung Quốc muốn tiến xa hơn, tấn công thẳng vào chế độ độc đoán, đòi tự do, đòi dân chủ và nhân quyền./.