Tổng số lượt xem trang

Thứ Tư, 9 tháng 10, 2013

Ngày 10/10/2013 - tiếp theo

TIN LÃNH THỔ

TIN XÃ HỘI


TIN KINH TẾ

TIN GIÁO DỤC

TIN ĐỜI SỐNG

TIN CÔNG NGHỆ

TIN VĂN HÓA GIẢI TRÍ


TIN THẾ GIỚI

Có bao nhiêu tên cho Biển Ðông?


Một trong những điểm gây tranh cãi khi thảo luận về tranh chấp lãnh hải ở Biển Đông là nên gọi vùng biển này bằng cái tên nào.
Vùng biển này thường được quốc tế biết tới với cái tên tiếng Anh là biển Nam Trung Hoa, nhưng Philippines gọi là Biển Tây Philippines, Việt Nam gọi là Biển Ðông, và Trung Quốc gọi là Nam Hải.
Tuy nhiên, trong phần phát biểu hôm thứ Tư trước các nhà lãnh đạo quốc gia ASEAN tại Brunei, Tổng thống Philippines Benigno Aquino chọn gọi vùng biển này là “biển nhiều tên.” Ông còn nêu cụ thể vị trí địa lý của vùng biển nằm ở “phía tây của Philippines, phía đông Việt Nam, phía bắc Malaysia, phía nam của Trung Quốc.”
Trong bối cảnh tranh chấp chủ quyền giữa một số nước ASEAN với Trung Quốc trong vùng biển này, cách gọi của ông Aquino dường như có ý xoa dịu nhằm tránh khơi lên căng thẳng giữa các bên. Nhưng trước cuộc họp của các nước ASEAN với Trung Quốc, ông Aquino là gửi đi một thông điệp rõ ràng: Philippines mong muốn thiết lập Bộ Quy tắc Ứng xử cho việc giải quyết các tuyên bố chủ quyền chồng chéo. Ông nói:
“Sự phát triển của khu vực chúng ta không thể được hiện thực hóa trong một môi trường quốc tế thiếu vắng sự tồn tại của pháp trị”, ông Aquino nói trong một bản ký lục được chính phủ Philippines công bố. “Biển này, được gọi bằng nhiều cái tên, tạo cơ hội cho các nước ASEAN và các bên khác cùng thực thi việc chấp hành luật pháp.”
Mặt khác, Philippines hiện đang tìm kiếm một phán quyết từ Tòa án Trọng tài Liên Hiệp Quốc về tính hợp pháp của những tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc sau những vụ đối đầu căng thẳng vào năm ngoái.
Tuy nhiên, một số tiến bộ dường như đã đạt được trong việc giải quyết tranh chấp. Ông Aquino đã hoan nghênh các cuộc tham vấn chính thức đầu tiên về việc thiết lập một bộ quy tắc ứng xử giữa ASEAN và Trung Quốc hồi tháng trước ở Tô Châu và nói rằng nước ông “mong muốn sớm kết thúc.”
Nguồn: VOA, Wall Street Journal, ABC News

Điều chuyển 1.023 vị trí công tác để ngừa tham nhũng



Đây là số cán bộ, công chức, viên chức tại 36 cơ quan, đơn vị tại TP.HCM được điều chuyển công tác, nhằm ngăn ngừa tham nhũng, trong 9 tháng đầu năm 2013, theo báo cáo mới nhất của UBND TP.HCM về phòng chống tham nhũng.
UBND TP cũng cho biết trong 9 tháng đầu năm 2013, TP có hai trường hợp cán bộ, công chức, viên chức trả lại quả tặng. Một trường hợp tại Sở Y tế TP với giá trị 600 ngàn đồng và một trường hợp tại huyện Bình Chánh với giá trị hơn 422 triệu đồng.
Cũng trong báo cáo này, đề xuất với các cơ quan trung ương về phòng chống tham nhũng, UBND TP cho rằng cần có biện pháp ngăn chặn và xử lý nghiêm khắc lực lượng làm nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra, điều tra, truy tố có sự  bao che hoặc kết luận quá nhẹ đối với cơ quan, đơn vị, cá nhân đã để xảy ra tham nhũng, lãng phí.
Kiến nghị với Quốc hội, UBND TP cũng nêu trong quá trình ban hành, sửa đổi luật về phòng chống tham nhũng Quốc hội cần mở rộng và xác định rõ chủ thể của nhóm tội phạm về tham nhũng.
Vì qua thực tế xét xử, có những bị cáo không phải là người có chức vụ quyền hạn nhưng giữ vai trò chủ mưu, vạch kế hoạch phạm tội. Do vậy, không nên bó hẹp phạm vi chủ thể của nhóm tội phạm này là người có chức vụ quyền hạn.
Đồng thời kiến nghị, trong giai đoạn hiện nay chưa nên bỏ mức án tử hình với nhóm phạm về tham nhũng.
THEO TUỔI TRẺ

“Cái kim” lòi ra


Từ trước đến nay, điều khiến dư luận bức xúc là giá điện không minh bạch. Nhiều quan chức Tập đoàn Điện lực VN (EVN) và Bộ Công thương luôn giải thích theo hướng giá điện đã minh bạch rồi. Nay qua kết luận của Thanh tra Chính phủ mới giật mình, cứ như “cái kim trong bọc lâu ngày lòi ra”.
Một tập đoàn hàng đầu có thể nhầm lẫn đến như thế? Cơ chế hiện nay cho thấy cần có cơ quan quản lý độc lập, kiểm soát tốt và khách quan hơn…
EVN mua ôtô vượt định mức, làm định mức lao động chưa chính xác, khiến số lao động theo định mức vượt tới trên 50% số lao động thực đang sử dụng… nếu đúng là sai phạm như Thanh tra Chính phủ nêu, sẽ giúp “đánh” giá thành điện lên, tạo điều kiện để EVN “kêu” lỗ, để tăng giá. Chưa hết, trong lúc người dân khó khăn, doanh nghiệp phá sản nhiều do chi phí đầu vào cao, việc EVN và Bộ Công thương đồng ý cho làm biệt thự, bể bơi, sân tennis… rồi đẩy vào mục “khu nhà quản lý, vận hành, sửa chữa”… là phản cảm. EVN tại sao không chủ động thông tin, để khi Thanh tra Chính phủ nêu, dễ khiến người ta thấy EVN chưa minh bạch, không trung thực.
Là tập đoàn lớn, nắm ngành độc quyền, kiểu gì dân cũng phải mua điện, EVN cần phải gương mẫu với vai trò đầu tàu kinh tế. Bộ Công thương với vai trò quản lý ngành, đáng ra cũng phải phát hiện những vấn đề của EVN từ lâu, trước khi các cơ quan khác nhập cuộc. Thế nhưng dù kiểm toán nhiều lần, Bộ Công thương có nhiều cơ quan chức năng để kiểm soát, nhưng đến nay dư luận vẫn phải… giật mình. Hàng loạt câu hỏi mang tính cảnh báo đang được đặt ra cần nghiên cứu, trả lời, đó là: cơ chế kiểm soát các tập đoàn hiện nay có hữu hiệu? Các bộ với các tập đoàn có đủ sự trong sáng, độc lập hay thực chất là trong mối quan hệ “một nhà”? Cơ chế trách nhiệm và xử lý sẽ ra sao khi “phát lộ” câu chuyện như của EVN?
Dù các câu hỏi trên được trả lời thế nào thì điều đầu tiên cần làm là khi thanh tra đã kết luận, cần rà soát loại trừ những khoản tiền EVN đưa vào giá thành, “ăn theo” không đúng, từ đó giảm giá thành điện, giảm gánh nặng cho người dân, nền kinh tế. Ngoài ra, không thể không xem xét trách nhiệm những cá nhân liên quan đến thời kỳ phát sinh sai phạm, tránh đùn đẩy trách nhiệm hay “chìm xuồng” cả. EVN đã có chủ tịch mới, không liên quan đến thời điểm thanh tra năm 2011. EVN cần nhanh chóng xử lý kết luận thanh tra và thông báo kết quả xử lý để người dân biết.
Trong lúc đất nước khó khăn như hiện nay, cũng cần xem lại cơ chế quản lý không để thanh tra phải kết luận những sai phạm tương tự, hay thanh tra kết luận nặng nề, nhưng doanh nghiệp giải thích lại cho là hợp lý. Nhiều cảnh báo của các chuyên gia về giá điện chưa minh bạch nay đã đúng. Vì vậy, cũng cần nghiêm túc xem xét và xúc tiến việc đưa Cục Điều tiết điện lực, Trung tâm Điều độ hệ thống điện quốc gia… tách khỏi Bộ Công thương, thành một cơ quan độc lập, chịu trách nhiệm sòng phẳng về sự giám sát của mình trước pháp luật. Chỉ khi cơ chế quản lý, giám sát hiệu quả, người dân và đất nước mới không bị bất ngờ bởi… chính các doanh nghiệp nhà nước.
THEO TUỔI TRẺ

Vĩnh biệt một thời đại

Ông là đại diện cuối cùng của một thế hệ mà chúng ta chỉ còn gặp lại trên những trang hồi kí, Thế hệ Vàng của cuộc Cách mạng Giải phóng Dân tộc, trong sáng, lãng mạn, tràn đầy lí tưởng. Qua mỗi thế hệ đến sau, vàng dần biến thành đồng thau và thế hệ hiện đang lãnh đạo đất nước này trông không khác gì đất sét. Người ta thương tiếc ông như rỏ nước mắt cho những phẩm chất đẹp đẽ cũng theo ông về bên kia, để lại bên này một thế giới chân không về giá trị.

Ông là một trong hai nhà lãnh đạo Việt Nam tắm trong một hào quang quốc tế. Người kia đã khuất từ chính xác 44 năm trước. Trong cái bóng của ông, các chính khách đương thời của chúng ta trông không khác các vĩ nhân tỉnh lẻ. Gắn với tên ông, chế độ cộng sản ở đất nước này dường như dễ gây thiện cảm hơn, thậm chí lung linh hơn trong mắt thế giới. Hào quang ấy hẳn cũng đã giúp ông tránh được số phận của nhiều đồng chí và cộng sự thân thiết từng bị nuốt chửng trong chiếc hộp đen của quyền lực đỏ đến nay còn khép kín. Những ngày này, khi hào quang ấy cũng theo ông ra đi, người ta bám vào nó như vầng sáng cuối cùng hắt lại từ dĩ vãng.
Theo ông ra đi là thiên tài quân sự mà huyền thoại đã từ lâu bịt kín mọi ngả nhận thức khác. Thiên tài cầm quân của ông đồng hóa thành thiên tài chống ngoại xâm của Đảng Cộng sản, điều sẽ trở thành biện minh số một cho độc quyền thống trị vĩnh cửu của tập đoàn chính trị mà ông suốt đời trung thành này. Thành tích của vị “Napoléon Đỏ” đã đứng cao hơn núi máu xương chiến trường. Những ngày này hoài niệm đạn bom lên tiếng để hiện thực lặng im, rằng đất nước của vị tướng vĩ đại đã thắng trong chiến tranh và thua trong hòa bình. Gần nửa cuộc đời sau của ông là bằng chứng lặng lẽ của hiện thực ấy.
Theo ông ra đi là những hi vọng tìm một điểm tựa tầm cỡ khai quốc công thần cho một hành trình cứu quốc mới, đưa Việt Nam ra khỏi vòng tròn ma quái của nghèo hèn, lạc hậu, băng hoại, phụ thuộc, chuyên chế và hỗn loạn. Dù chỉ lên tiếng một số lần, có thể là quá thưa thớt và yếu ớt so với mong đợi, và không bao giờ chạm lằn ranh cho phép của thể chế, ông đã là một biểu tượng, một chỗ dựa tinh thần, một uy quyền đạo đức trong một khung cảnh thiếu vắng mọi điểm tựa. Dù chưa từng có một ảnh hưởng quyết định nào với nền chính trị Việt Nam và quá khiêm nhẫn để đột phá và cách tân, ông đã là một địa chỉ của hi vọng cải cách.
Theo ông ra đi là thời đại đã thành cổ điển của những đại tự sự giải phóng dân tộc, chống thực dân, chống đế quốc, chống phong kiến, cách mạng vô sản và chủ nghĩa cộng sản như nấc thang tiến hóa cuối cùng của nhân loại. Một thời đại đầy xung đột, lầm than, bạo lực. Một thời đại đầy ấu trĩ, cuồng tín, u mê. Song cũng đầy những vẻ đẹp của niềm tin giản dị và hùng tráng bởi những nhân cách và tầm vóc phi thường. Thời đại ấy đã cáo chung ngay khi ông còn sống. Bây giờ ông có thể cùng thời đại của mình yên nghỉ. Một cuộc đời dài có thể vắt qua hai thế kỉ, song không một vĩ nhân nào trong lịch sử đóng được dấu ấn lên hai thời đại kề nhau.
Kính cẩn vĩnh biệt ông. Vĩnh biệt một thời đại. Cầu cho thời đại hôm nay không còn cần đến những vị tướng và những chiến trường.
© 2013 pro&contra

Nông dân Văn Giang ra tuyên bố quyết cảm tử giữ đất (xưa thì cảm tử với kẻ thù xâm lược, nay cảm tử....)

Vai trò của người lãnh đạo đối với vận mệnh quốc gia

000_Hkg8862502-305.jpg
Buổi giới thiệu sách “Ông Lý Quang Diệu: Cái nhìn của bậc thầy về Trung Quốc, Hoa Kỳ và Thế giới” (Lee Kuan Yew: The Grand Master’s Insights on China, The United State and the World), hôm 6/8/2013 tại Singapore.

Qua bài phỏng vấn của các tác giả Mỹ Graham Allison, Robert Blackwill và Ali Wyne trong cuốn sách tạm dịch “Ông Lý Quang Diệu: Cái nhìn của bậc thầy về Trung Quốc, Hoa Kỳ và Thế giới” ( Lee Kuan Yew: The Grand Master’s Insights on China, The United State and the World), cựu Thủ tướng Lý Quang Diệu của Singapore đề cập tới một số yếu tố chủ chốt mà bộ máy lãnh đạo quốc gia cần phải có, từ khả năng lãnh đạo, thiện chí đối với dân, với nước cho tới việc tôn trọng và thực thi hiến pháp của giới lãnh đạo.

Lãnh đạo giỏi, đất nước giàu mạnh

Theo cựu Thủ tướng Lý Quang Diệu, thì quốc gia Singapore nhỏ bé được phú cường là nhờ giới lãnh đạo nước này, từ Thủ tướng cho tới các Bộ trưởng, là những người có thực tài lẫn đức.

Và để “chiêu hiền đãi sĩ” cho những người thật sự tài giỏi, chính trực, thanh liêm, tận tụy với công việc, thật sự vì dân, vì nước thì Singapore sẵn sàng trả lương cho họ rất cao để họ tận lực đóng góp cho lợi ích chung của đất nước.

Nói đến đây, có lẽ câu hỏi cần được nêu lên là thế còn Việt Nam thì sao ? Giới lãnh đạo Việt Nam tài đức như thế nào? Gíao sư Nguyễn Thế Hùng thuộc Đại học Bách khoa Đà Nẵng nhận xét:

“Với cơ chế này thì chúng ta không thể có người lãnh đạo giỏi được. Nếu may ra, một nhiệm kỳ có được người giỏi thì những nhiệm kỳ khác không thể có được bởi vì cơ chế không cho phép tạo ra như thế.

Tại những nước tiên tiến, dân chủ thì người ta tranh cử một cách công bằng. Giữa những đảng phái người ta cử ra những người tài giỏi nhất đưa ra tranh cử, và tranh cử một cách lành mạnh.

Nhưng ở Việt Nam không có chuyện tranh cử lành mạnh – là điều quan trọng bậc nhất. Thứ hai là nếu anh đứng đầu chính phủ thì anh đâu có chọn được những người giỏi trong nội các.

Trong khi tại những nước tiên tiến, dù trong Tổng thống chế hay Đại nghị chế, thì Tổng thống hay Thủ tướng có tòan quyền thành lập chính phủ, đề xuất người tài.

Nhưng ở Việt Nam anh không thể làm được điều đó, khiến “chi tiết trong một chiếc xe nó không đồng bộ” nên không thể chạy tốt được, mà “xe lại không có thắng nữa!”.
000_Hkg5136248-305.jpg
Chủ Tịch nước Trương Tấn Sang, ảnh chụp trước đây.
Từ Hà Nội, GS Nguyễn Thanh Giang so sánh “dân trí” với “quan trí” Việt Nam. Ông nhận định rằng khó khăn của VN hiện nay, ngòai việc thiếu tự do bầu cử để dân chọn lãnh đạo có thực tài, thì vấn đề “quan trí” là một trở ngại đáng kể:

“Phải nói dân tộc Việt Nam vừa thông minh, vừa cần cù, vừa dũng cảm. Tôi đánh giá trong số các dân tộc trên thế giới thì dân tộc Việt Nam có tư chất hạng cao, không hề thua kém ai, ít nhất so với những nước Đông Nam Á, kể cả Singapore.

Nhưng chỉ vì chế độ chính trị ở Việt Nam không tốt. Nó không có tự do bầu cử để người dân có thể chọn lựa cho mình người lãnh đạo xứng đáng.

Thường là người ta cứ chê dân trí Việt Nam thấp. Tôi hòan tòan không đồng ý. Dân trí Việt Nam không hề thấp.

Nhưng lâu nay người ta lấy chuyên chính vô sản thay cho nhà nước pháp quyền, cho nên ý thức về dân chủ kém, chứ còn dân trí Việt Nam thực ra không thấp. Nhưng tôi đánh giá quan trí Việt Nam, ngược lại, rất thấp, thấp hơn rất nhiều so với dân trí Việt Nam.
Chỉ có dân chủ mới chọn được người tài

Nhắc đến vấn đề tài-đức của người lèo lái con thuyền quốc gia, GS Nguyễn Thế Hùng liên tưởng đến “ Người Cha” của đất nước và nhân dân Hoa Kỳ là Tổng thống George Washington – Tổng thống đầu tiên của Mỹ.

Theo GS Nguyễn Thế Hùng thì nước Mỹ rất may có ông George Washington dẫn đầu và làm Tổng thống 2 nhiệm kỳ; và “ông tốt vô cùng, lưu danh hậu thế hàng trăm, hàng ngàn năm sau và lâu hơn nữa”.

Người dân Hoa Kỳ mãi nhớ ơn ông, một lãnh tụ thực sự vì dân, vì nước, có tầm sáng suốt, vun sới “Cây Dân Chủ” trong 2 nhiệm kỳ Tổng thống ấy khiến nó luôn “sinh sôi nẩy nở, bám chặt rễ ” mãi về sau; và những lãnh tụ kế nhiệm ông, giả sử có ai đó thậm chí không tốt đi nữa, thì nền dân chủ Mỹ vẫn vận hành tốt đẹp, bởi vì, GS Nguyễn Thế Hùng giải thích, “Người Cha của đất nước Hoa Kỳ ấy” đã làm cho dân chúng ý thức trọn vẹn được giá trị tự do, dân chủ, tạo điều kiện hình thành tất cả những tổ chức xã hội tại Hoa Kỳ…

Trong khi tài đức của vị “Cha già dân Mỹ”, và cả của giới điều hành xứ sở nhỏ bé nhưng cường thịnh Singapore, hẳn là tấm gương sáng, thì chính quyền gọi là “của dân, do dân, vì dân” ở Việt Nam – và cả thiện chí cùng hành động cụ thể của họ đối với sự tồn vong của đất nước trước họa xâm lấn của phương Bắc, thì sao? GS Nguyễn Thanh Giang nhận thấy:

“Tinh thần dân tộc và ý chí quật cường của người dân Việt rất cao. Nhưng khổ một nỗi là dưới sự lãnh đạo của đảng CSVN, thì đất nước này tuồng như rất là khiếp nhược, rất là yếu hèn trước sức uy hiếp về lãnh thổ, lãnh hải của Trung Quốc.

Điều đó hết sức đau lòng. Và tôi thật sự hết sức căm phẫn đối với những người lãnh đạo đảng CSVN bây giờ là họ tỏ ra thần phục Trung Quốc.

Tôi đã nói rằng đối với Trung Quốc thì mình bao giờ cũng cần phải giữ tình hữu nghị thân thiết. Nhưng tôi cực lực phản đối tinh thần nô lệ của những người lãnh đạo đảng CSVN; họ sẵn sàng nhận sự đô hộ của Trung Quốc.

Mà trớ trêu thay, một trong những người thể hiện tinh thần nô lệ, tư tưởng thần phục Trung Quốc lại là ông Tổng bí thư đảng CS Nguyễn Phú Trọng.”

Trở lại cuộc phỏng vấn vừa nói, cựu Thủ tướng Lý Quang Diệu cũng lưu ý rằng nếu một dân tộc mất niềm tin ở thể chế dân chủ của đất nước mình khi họ không tìm thấy những người có đủ năng lực điều hành đất nước, thì dân tộc đó sẽ gặp nguy cơ suy tàn.

Nguy cơ này, theo GS Nguyễn Thanh Giang, “đang diễn ra” tại VN giữa lúc nhiều tầng lớp dân chúng, từ nông dân cho tới công nhân, rồi lão thành cách mạng, những đảng viên kỳ cựu của đảng CSVN cho đến giới trẻ…, họ “bây giờ họ tỏ ra bất mãn với sự lãnh đạo của những người đang cầm đầu đảng CSVN”. GS Nguyễn Thanh Giang phân tích:

“Thứ nhất, họ thấy rằng những người lãnh đạo đó không xứng đáng so với dân tộc này. Và họ cho rằng dân tộc này đi theo đảng CSVN để rơi xương, đổ máu bao nhiêu năm trường như vậy rồi, nhưng bây giờ đất nước không thật sự có độc lập, và người dân lại càng không có tự do, không có hạnh phúc.

Đây là điều trở thành nỗi bất mãn chung của xã hội. Mà điều này chẳng qua là do sự kém cỏi về tinh thần cùng ý chí và bản lĩnh của những người lãnh đạo đảng CSVN hiện nay.”

Vẫn theo GS Nguyễn Thanh Giang thì điều trớ trêu là trong khi đất nước người ta mỗi ngày tiến lên, thì Việt Nam lại thóai bộ -thóai bộ so với ông cha ta ngày xưa khi “mặt bằng dân trí và vị thế của Việt Nam ngày xưa, trong những thế kỷ 17, 18, 19 so với nhiều nước trên thế giới, còn cao hơn. Do đó, Việt Nam mới nhiều lần đánh thắng được quân xâm lược từ phương Bắc. Ông nói:

“Nhưng bây giờ, mặt bằng xã hội nói chung của VN tụt hậu – tụt hậu quá xa so với Đông Nam Á, và cả thế giới nói chung. Cho nên, dưới sự lãnh đạo của đảng CSVN thì đất nước này bị tụt hậu quá xa so với ngày xưa.”

Cũng qua cuộc phỏng vấn vừa nêu, “Bậc Thầy” Lý Quang Diệu không quên lưu ý rằng việc điều hành một đất nước hiệu quả không có cách nào khác hơn là phải “chiêu hiền đãi sĩ”, sử dụng những người tài giỏi nhất cho trọng trách lèo lái con thuyền quốc gia.
Thanh Quang, phóng viên RFA
2013-10-09

Thông báo Hội nghị BCH Trung ương Đảng lần thứ 8


Ngày 9/10, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã kết thúc sau 10 ngày làm việc.
TTXVN trân trọng giới thiệu toàn văn Thông báo Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI:
Bế mạc Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng
Thực hiện Chương trình làm việc toàn khóa, từ ngày 30/9 đến ngày 9/10/2013, tại Thủ đô Hà Nội, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã họp Hội nghị lần thứ tám để thảo luận, cho ý kiến về: tình hình kinh tế-xã hội năm 2013, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2014; tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng về kinh tế-xã hội; đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992; tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; và một số vấn đề quan trọng khác liên quan đến công tác xây dựng Đảng.
Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chủ trì, phát biểu khai mạc và bế mạc Hội nghị.
1- Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã thảo luận và ra Kết luận về tình hình kinh tế-xã hội năm 2013 và mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội năm 2014; tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng về phát triển kinh tế-xã hội, trọng tâm là thực hiện ba khâu đột phá chiến lược gắn với tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng và nhiệm vụ, giải pháp sắp tới.
Trong gần 3 năm qua, tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Kinh tế thế giới phục hồi chậm hơn dự báo. Trong nước, những hạn chế vốn có của nền kinh tế cùng nhiều khó khăn khác làm cho lạm phát tăng cao, ảnh hưởng nghiêm trọng đến ổn định kinh tế vĩ mô. Kinh tế tăng trưởng chậm lại, sản xuất, kinh doanh gặp nhiều khó khăn, sức cạnh tranh còn thấp trong khi hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Bên cạnh đó là thiên tai, dịch bệnh gây thiệt hại nặng nề. Nhu cầu bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường ngày càng cao, trong khi chúng ta phải dành nhiều nguồn lực để bảo đảm quốc phòng, an ninh và bảo vệ chủ quyền đất nước.
Trước diễn biến phức tạp mới của tình hình thế giới và trong nước, ngay sau Đại hội XI, Đảng và Nhà nước ta đã kịp thời điều chỉnh mục tiêu và nhiệm vụ trọng tâm theo hướng tập trung ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý, bảo đảm an sinh xã hội… Chính phủ đã điều hành quyết liệt, phù hợp với thực tế tình hình. Đây là những quyết sách kịp thời, đúng đắn, có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Nhờ sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và nỗ lực phấn đấu của cả hệ thống chính trị, của toàn dân, toàn quân, cộng đồng doanh nghiệp, tình hình kinh tế-xã hội đã chuyển biến tích cực, đúng hướng trên hầu hết các lĩnh vực, đạt được những kết quả quan trọng, khá toàn diện: Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định; lạm phát được kiểm soát; kinh tế dần được phục hồi, đạt mức tăng trưởng khá; tái cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng đạt kết quả bước đầu; các đột phá chiến lược được triển khai đồng bộ; văn hóa, xã hội tiếp tục có tiến bộ, an sinh xã hội được bảo đảm, đời sống nhân dân có bước cải thiện; quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu được tăng cường; phòng, chống tham nhũng và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí đạt được một số kết quả; quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia được bảo đảm; hoạt động đối ngoại đạt được nhiều kết quả tích cực.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả nêu trên cũng còn nhiều hạn chế, yếu kém. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiềm chế nhưng chưa thật vững chắc. Nợ xấu còn cao, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Sản xuất kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn, doanh nghiệp khó tiếp cận vốn, sức mua chậm phục hồi, số doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động còn lớn. Tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng còn chậm so với yêu cầu. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư còn thấp. Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước và các tổ chức tín dụng chưa đạt yêu cầu. Triển khai thực hiện 3 khâu đột phá chiến lược tuy đạt được một số kết quả bước đầu nhưng vẫn còn chậm. Lĩnh vực văn hóa, xã hội còn nhiều hạn chế yếu kém. Công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường còn nhiều bất cập. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt yêu cầu đề ra. An ninh chính trị vẫn còn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định. Bảo vệ chủ quyền quốc gia còn nhiều thách thức.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã phân tích nguyên nhân kết quả và hạn chế, thiếu sót, nhất là nguyên nhân chủ quan; nêu những bài học kinh nghiệm sau 3 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng về kinh tế-xã hội; nhấn mạnh mục tiêu tổng quát về phát triển kinh tế-xã hội 2 năm 2014-2015 là: Tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát; phục hồi tăng trưởng, nâng cao sức cạnh tranh gắn với tái cơ cấu nền kinh tế và thực hiện 3 đột phá chiến lược. Bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Đẩy mạnh cải cách hành chính và phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Bảo đảm quốc phòng và an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế.
Năm 2014 tập trung cao cho ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh. Để đạt được mục tiêu trên cần thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp cơ bản : Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát; tiếp tục tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm tăng trưởng hợp lý; đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế; thực hiện có hiệu quả 3 đột phá chiến lược; phát triển văn hóa xã hội và bảo đảm an sinh xã hội; tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu; thực hiện nghiêm các quy định pháp luật liên quan đến phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; tăng cường quốc phòng, an ninh; nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và chủ động hội nhập quốc tế; tăng cường công tác thông tin tuyên truyền tạo sự thống nhất trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội.
2- Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã thảo luận và quyết định ra Nghị quyết về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhận định: Trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, nguồn lực còn hạn hẹp, nhờ truyền thống hiếu học, sự quan tâm, chăm lo của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, nỗ lực của đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý, sự nghiệp giáo dục và đào tạo nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đó là: Thực hiện giáo dục toàn dân, nâng cao dân trí, phát triển nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; góp phần giáo dục ý thức công dân, phẩm chất chính trị, lý tưởng cách mạng cho các thế hệ con người Việt Nam; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa; các điều kiện đảm bảo chất lượng được tăng cường; chất lượng và hiệu quả giáo dục ở các cấp học, trình độ đào tạo có tiến bộ; hợp tác quốc tế được mở rộng; lực lượng lao động qua đào tạo tăng khá nhanh.
Tuy nhiên, so với yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế và phát triển bền vững, giáo dục và đào tạo nước ta còn nhiều yếu kém, bất cập. Giáo dục vẫn chưa thực sự là quốc sách hàng đầu, chưa được ưu tiên cao trong các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, chưa được coi là nhân tố quyết định của phát triển đất nước.
Nhiều hạn chế, yếu kém của giáo dục và đào tạo đã được nêu ra từ Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) song chậm được khắc phục, có mặt còn nặng nề hơn. Khoa học giáo dục còn lạc hậu. Chất lượng giáo dục chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội; chưa tạo ra lợi thế cạnh tranh mạnh mẽ về nhân lực của nước ta so với các nước trong khu vực và trên thế giới, chưa tích cực chủ động góp phần vào việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc. Quản lý giáo dục còn nhiều bất cập. Kinh phí đầu tư cho giáo dục còn hạn chế. Thiếu dự báo nhu cầu nhân lực cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và nhu cầu học tập của nhân dân để làm cơ sở cho công tác quy hoạch phát triển giáo dục.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã phân tích sâu sắc nguyên nhân, nhất là nguyên nhân chủ quan của hạn chế, yếu kém; bài học kinh nghiệm qua các lần cải cách giáo dục; bối cảnh, thuận lợi, khó khăn, thách thức; những yêu cầu đặt ra đối với giáo dục trong giai đoạn cách mạng mới; khẳng định sự cần thiết phải đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng xác định: Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ tư duy, quan điểm đến mục tiêu, hệ thống, chương trình giáo dục, các chính sách, cơ chế và các điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục; đổi mới ở tất cả các cấp học và trình độ đào tạo, ở cả Trung ương và địa phương, ở mối quan hệ giữa gia đình, nhà trường và xã hội; hướng đến phát triển năng lực người học, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu chú trọng trang bị kiến thức sang tập trung phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học.
Đổi mới để tạo ra chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng và hiệu quả giáo dục, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhu cầu học tập của nhân dân. Đổi mới phải bảo đảm tính hệ thống, có tầm nhìn dài hạn, các giải pháp đồng bộ, khả thi, có cơ sở khoa học. Đổi mới căn bản và toàn diện cần vừa củng cố phát huy các thành tựu và điển hình đổi mới, vừa kiên quyết chấn chỉnh những lệch lạc, những việc làm trái quy luật; khắc phục cơ bản các yếu kém kéo dài đang gây bức xúc; phát triển những nhân tố tích cực mới; đổi mới có trọng tâm, trọng điểm, có lộ trình phù hợp với thực tế đất nước, địa phương. Những hạn chế, thách thức của giáo dục phải được nhận thức sâu sắc, có giải pháp hữu hiệu và lộ trình để khắc phục, vượt qua, đưa sự nghiệp giáo dục lên tầm cao mới.
Trên cơ sở mục tiêu tổng quát và các mục tiêu cụ thể, Ban Chấp hành Trung ương Đảng xác định một số nhiệm vụ, giải pháp đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với quá trình đổi mới giáo dục; tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của chương trình giáo dục theo hướng phát triển phẩm chất và năng lực người học; đổi mới căn bản hình thức và phương pháp kiểm tra, thi và đánh giá chất lượng giáo dục, bảo đảm trung thực, khách quan, chính xác, theo yêu cầu phát triển năng lực, phẩm chất người học; hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập; đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, bảo đảm dân chủ, thống nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục; coi trọng quản lý chất lượng.
Quản lý tốt là tiền đề căn bản để dạy tốt và học tốt; phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo; đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, tăng cường cơ sở vật chất, huy động sự tham gia đóng góp của toàn xã hội, nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển giáo dục; nâng cao chất lượng hiệu quả nghiên cứu khoa học và công nghệ, đặc biệt là khoa học giáo dục và khoa học quản lý; chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo dục và đào tạo.
3- Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã thảo luận về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Hiến pháp là văn kiện chính trị-pháp lý cơ bản điều chỉnh những quan hệ xã hội quan trọng nhất, có tính nền tảng, thể hiện bản chất của Nhà nước và chế độ; là đạo luật gốc của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất trong hệ thống pháp luật, bảo đảm sự ổn định chính trị-xã hội và chủ quyền quốc gia; phản ảnh được ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của Đảng, Nhà nước và toàn hệ thống chính trị, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhận định, trong thời gian qua, chúng ta đã phát huy cao độ tinh thần dân chủ và ý thức trách nhiệm, động viên các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia ý kiến xây dựng Hiến pháp; việc đóng góp ý kiến xây dựng Hiến pháp thực sự là đợt sinh hoạt chính trị-pháp lý dân chủ sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân và cả hệ thống chính trị, góp phần nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân, cơ quan, tổ chức đối với việc xây dựng Dự thảo Hiến pháp 1992 cũng như thực thi Hiến pháp sau này.
Bám sát Cương lĩnh năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011), các văn kiện của Đảng và các nghị quyết, kết luận của Ban Chấp hành Trung ương, của Bộ Chính trị về mục đích, yêu cầu, những quan điểm cơ bản, định hướng lớn của việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã nghiêm túc tiếp nhận, nghiên cứu, tiếp thu ý kiến các đại biểu Quốc hội, các tầng lớp nhân dân để chỉnh lý, hoàn thiện Dự thảo Hiến pháp 1992.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã tập trung thảo luận, cho ý kiến đối với một số nội dung quan trọng của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992: về vai trò lãnh đạo của Đảng; về vị trí của Công đoàn Việt Nam; về thành phần kinh tế; về thu hồi đất; về quy định bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn; về chính quyền địa phương; về Hội đồng Hiến pháp; và một số nội dung quan trọng khác.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Kết luận về việc hoàn thiện Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 để Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 6 tới đây.
4- Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã xem xét, thảo luận, đánh giá kết quả 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhận định: Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đã được các cấp ủy, tổ chức đảng triển khai, học tập, thực hiện nghiêm túc; quá trình thực hiện Nghị quyết luôn đặt trong sự gắn kết với bối cảnh đa dạng, phức tạp, nhiều thuận lợi nhưng cũng nhiều khó khăn, thách thức của tình hình quốc tế và trong nước; được vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp, đáp ứng những yêu cầu cơ bản của thực tiễn.
Quá trình triển khai, thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX góp phần quan trọng vào những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới đất nước; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước; đổi mới, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị, xã hội, nghề nghiệp; xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; thực hiện dân chủ; bảo đảm an sinh xã hội; kết hợp kinh tế với quốc phòng; mở rộng, tăng cường đối ngoại; bảo vệ vững chắc chủ quyền, lãnh thổ, lợi ích quốc gia, dân tộc, đồng thời, giữ vững ổn định chính trị-xã hội, môi trường hòa bình để phát triển đất nước; kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại; tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế; nâng cao vị thế, hình ảnh đất nước trên thế giới.
Tuy nhiên, hiện nay, bối cảnh quốc tế và trong nước tiếp tục có những biến đổi sâu sắc, diễn biến mới phức tạp. Môi trường hòa bình, ổn định chưa thực sự vững chắc, còn tiềm ẩn nguy cơ bất ổn. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, chỉ đạo phát triển kinh tế-xã hội và đấu tranh phòng, chống tham nhũng còn nhiều hạn chế, khuyết điểm. Tư tưởng, tâm trạng xã hội có nhiều vấn đề mới phát sinh. Một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Mặt trái của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế tiếp tục tác động tiêu cực đến đời sống xã hội. Các thế lực thù địch tăng cường chống phá sự nghiệp đổi mới của đất nước với những âm mưu, thủ đoạn ngày càng tinh vi, thâm độc hơn, v.v… Những khó khăn, thách thức, hạn chế, thiếu sót trên đã và đang đặt ra những vấn đề, yêu cầu mới rất quan trọng và cấp thiết đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng phân tích sâu sắc bối cảnh, dự báo xu hướng phát triển của những vấn đề quốc tế, khu vực và trong nước; xác định nguyên nhân, nhất là nguyên nhân chủ quan của những hạn chế, thiếu sót; khẳng định: Trong bất kỳ tình huống nào, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đều quyết tâm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; giữ vững ổn định chính trị-xã hội, môi trường hòa bình để phát triển đất nước theo mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh." Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã tập trung thảo luận sâu sắc các nhiệm vụ, giải pháp để tiếp tục thực hiện tốt Chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng thống nhất ban hành Nghị quyết về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
5- Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã xem xét, quyết định một số vấn đề quan trọng về công tác xây dựng Đảng: Thảo luận, cho ý kiến bước đầu về Quy chế bầu cử trong Đảng; quyết định việc thành lập các tiểu ban chuẩn bị Đại hội lần thứ XII của Đảng; và một số vấn đề quan trọng khác.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng kêu gọi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân siết chặt đội ngũ, tăng cường đoàn kết, thống nhất, phát huy những kết quả đã đạt được, khắc phục những hạn chế, khuyết điểm; nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn, thách thức, thực hiện thắng lợi các nghị quyết, kết luận của Hội nghị Trung ương 8, Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng và Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, phấn đấu hoàn thành thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội năm 2013 và những năm tiếp theo, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại./.
(TTXVN)

Bùi Tín - Trận cuối trớ trêu của đại tướng


Từ tháng 12/1986, sau cái gọi là « Đại hội của ông Sáu », tướng Giáp không còn trong Ban chấp hành trung ương, cũng không được là Cố vấn như 3 ông Trường Chinh, Phạm văn Đồng và Lê Đức Thọ, đành bước xuống đài để nghỉ ngơi. Ông có thể hài lòng, được an ủi là dù sao đã hưởng công danh phú quý, tiếng vang để lại cho hậu thế, có chỗ đứng vinh dự trong lịch sử quân sự thế giới.
Thế nhưng ông vẫn không được yên. Cuộc đời của ông ở đoạn cuối thật không vui. Hậu vận không sáng. Ông bị một kẻ vốn là thuộc cấp của ông chiếu tướng và đe dọa gay gắt.
Đó là Lê Đức Anh, một cai đồn điền thời thuộc Pháp, người gốc Thừa Thiên, vào đảng Cộng sản một cách mờ ám, không ai giới thiệu; là cán bộ cấp tiểu đoàn khi tập kết ra miền Bắc sau Hiệp định Geneve 1954, năm 1964 khi trở vào Nam là Cục phó cục tác chiến Bộ tổng tham mưu, cấp thượng tá; năm 1969 là tư lệnh Quân khu IX cấp đại tá. Quân khu IX – miền Tây Nam bộ là vùng ít chiến trận nhất. Cuối năm 1974, trước khi bước vào trận chiến cuối cùng, ông Anh được đặc cách phong vượt cấp từ đại tá lên trung tướng, cùng với ông Đồng Sỹ Nguyên – chỉ huy đường chiến lược Hồ Chí Minh.
Ông Anh được ông Lê Đức Thọ ưu ái đặc biệt, đưa vào ban chấp hành trung ương năm 1976 – Đại Hội IV, Tư lệnh Quân tình nguyện ở Cambốt năm 1978, vào Bộ chính trị năm 1982 – Đại Hội V, bộ trưởng Quốc phòng từ năm1987 đến năm 1991, rồi Chủ tịch Nước từ 1992 đến năm 1997, sau đó là Cố vấn của ban chấp hành trung ương, khi 77 tuổi, rồi về nghỉ hưu cùng ông Đỗ Mười, khi quá tuổi 80.
Sau khi từ bộ trưởng Quốc phòng được đưa lên làm Chủ tịch Nước, tướng Anh cải tổ ngay cơ quan quân báo vốn là Cục II của quân đội thuộc bộ tổng tham mưu thành Tổng cục II, cơ quan an ninh – phản gián – tình báo của quốc gia trực thuộc Bộ trưởng quốc phòng, do Chủ tịch Nước trực tiếp nắm, với nhiệm vụ rộng lớn không hạn chế. Tướng Anh đưa Nguyễn Chí Vịnh lên cấp đại tá, rồi quyền Tổng cục trưởng Tổng cục II, thay chân tướng Vũ Chính – bố vợ của Vịnh, về nghỉ hưu. Tổng cục II dựng lên một loạt hồ sơ, theo dõi các nhân vật lãnh đạo bị coi là có ý thức chống đảng, cơ hội hữu khuynh, bị CIA lôi kéo, mua chuộc, từ Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Phan Văn Khải, đến Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Trương Tấn Sang …cho đến cả Mai Chí Thọ, Phan Diễn, Võ Thị Thắng …
Sau khi nắm trọn trong tay bộ máy quân đội, an ninh, đối ngoại, Nhà nước, từ năm 1995 – 96, tướng Anh càng lộng hành, ra mặt nói xấu, hạ uy tín, vu cáo tướng Giáp, dùng một tên từng bị khai trừ đảng do hạnh kiểm xấu là Đặng Đình Loan – cùng quê ở Thứa Thiên, làm công cụ đi tuyên truyền nhiều nơi, nhân danh phái viên tin cẩn của Chủ tịch Nước. Loan còn viết một tập tiểu thuyết lịch sử dài 4 tập, gần 2 ngàn trang, mang tít là « Đường Thời Đại », xuyên tạc lịch sử, vùi dập người này, tâng bốc kẻ khác rất tùy tiện. Trong một buổi nói chuyện hẹp, rất mật do thường vụ tỉnh ủy Thừa Thiên tổ chức năm 1996, Đặng Đình Loan kể lể 7 tội của tướng Giáp (theo kiểu Thất trảm sớ khi xưa của Chu Văn An), từ chuyện là con nuôi chánh mật thám Pháp, nhát gan, dành công trạng của người khác, đến tội cầm đầu nhóm Xét lại chống đảng, làm gián điệp cho Liên Xô, suy đồi đạo đức, có mưu đồ phản nghịch.
Cuộc vật lộn, sống mái giữa 2 đại tướng ngấm ngầm mà quyết liệt. Hai hành trình đi ngược nhau. Tại Đại hội V, năm 1982 khi tướng Giáp ra khỏi Bộ chính trị thì tướng Anh vào Ban chấp hành trung ương. Tại Đại hội VI năm 1986, khi tướng Giáp ra khỏi Ban chấp hành trung ương thì tướng Anh vào Bộ chính trị. Đến năm 1992, tướng Anh nhận chức Chủ tịch Nước, cao hơn ông Giáp đến vài bậc, vì chức cao nhất của tướng Giáp là Phó thủ tướng kiêm bộ trưởng Quốc phòng. Có lẽ do được đưa lên quá cao, rất nhanh như thế, lại nắm trọn trong tay khối quyền lực tập trung: Nhà nước, Quốc phòng, Đối ngoại, An ninh – như chưa từng ai có được – nên tướng Anh nuôi cuồng vọng hạ bệ triệt để tướng Giáp để tự làm nổi bật mình. Ông còn cao hơn người hùng Điện Biên.
Tướng Giáp được biết mọi chuyện trên đây, vì ông vốn rất quan tâm nghe ngóng dư luận xã hội, nhất là dư luận về bản thân mình, nhưng vẫn như trước, ông giữ mình, thủ thế, không tỏ một thái độ, không có một phản ứng chính thức nào.
Phải chờ đến đầu năm 2004, khi cặp Mười – Anh đã về nghỉ hoàn toàn, tướng Giáp mới nghĩ đến chuyện phản công. Sao lại là đầu năm 2004 ? Vì đã có quyết định 2004 là 50 năm, nửa thế kỷ chiến thắng Điện Biên Phủ. Sẽ tổ chức kỷ niệm lớn, xuất bản lại, bổ sung những tác phẩm, tài liệu lịch sử, hồi ký, kể chuyện, gặp gỡ, khen thưởng thêm các cựu chiến binh, dựng tượng đài…
Ngay từ đầu năm, ngày 3/1/2004, tướng Giáp viết một lá thư dài 7 trang lớn, gửi Ban chấp hành trung ương, tổng bí thư, bộ chính trị, ban bí thư, ban kiểm tra trung ương đảng với nội dung là góp ý kiến cho các văn kiện chuẩn bị cho Đại hội X sẽ họp vào năm 2006. Trong 7 ý kiến lớn, quan trọng nhất là ý kiến cuối cùng, thứ 7, góp ý về « công tác bảo vệ chính trị nội bộ đảng ».
Trong đoạn này, ông nêu rõ những vụ án lớn còn tồn đọng, nhấn mạnh: « điển hình nghiêm trọng là vụ Tổng cục II, đặc biệt ngiêm trọng là vụ Sáu Sứ, nghiêm trọng hơn nữa là vụ T4 mà bộ chính trị khóa VIII đã bàn giao cho bộ chính trị khóa IX, bộ chính trị khóa IX đã chỉ đạo Ban điều tra liên ngành tiến hành điều tra và bộ chính trị đã kết luận ».
Bức thư được truyền tay khá rộng, rồi lan ra nước ngoài. Dư luận lần đầu nghe đến những vụ án nghiêm trọng trong nội bộ đảng, được chính tướng Giáp đánh giá là « siêu nghiêm trọng », « yêu cầu xử lý kiên quyết, dứt điểm, nghiêm minh, theo đúng điều lệ của đảng, pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của quân đội, dù người đó là ai, ở bất cứ cương vị nào, không được phép bao che, né tránh, mà phải kiên quyết xử lý cả những kẻ bao che ».
Mới đầu nhiều người hy vọng. Hàng loạt tướng lĩnh lên tiếng, từ đại tướng Chu Huy Mân, đại tướng Nguyễn Quyết, thượng tướng Phùng Thế Tài, thượng tướng Hoàng Minh Thảo, thượng tướng Nam Khánh cùng với hàng chục trung tướng, thiếu tướng và không biết bao nhiêu sỹ quan cấp tá, vô vàn cựu chiến binh tỏ rõ thái độ bênh vực tướng Giáp, yêu cầu công khai kết luận và xử lý kẻ phạm tội.
Ba nhân vật kỳ cựu của đảng gốc miền Nam như Phạm Văn Xô hơn 90 tuổi, Đồng Văn Cống, Nguyễn Văn Thi cũng công khai lên tiếng ủng hộ tướng Giáp, chứng minh tội lỗi của ông Lê Đức Anh – Cai Anh ở đồn điền thực dân Pháp thời trước, cần truy tố và xử tội. Các sỹ quan từng ở trong Tổng cục II và ở Bộ tổng tham mưu, các đại tá Như Thiết, Hùng Cường, Vũ Minh Ngọc cũng công khai nói rõ những hành động mờ ám, phi pháp của ông Lê Đức Anh và của nhóm Nguyễn Chí Vịnh, lộng hành, tham nhũng, phá đảng, phá quân đội.
Nếu là một chế độ thượng tôn luật pháp, tư pháp nghiêm minh thì những kẻ như Lê Đức Anh và Nguyễn Chí Vịnh đã không thể thoát tội, – tội cực nặng nữa, vì đã vu cáo các nhân vật nhà nước cao nhất, vậy mà họ vẫn yên thân, còn lên cao, thách thức xã hội. Bao nhiêu tướng lĩnh, bao nhiêu đảng viên kỳ cựu, bao nhiêu trí thức ngay thật hy vọng một thời, để dần dà thất vọng sâu cay.
Về nhân cách của tướng Anh tôi nhớ thái độ khúm núm của ông khi bê đĩa trứng vịt lộn lại trước tướng Giáp mời, khi tướng Giáp vào Quân khu IX tháng 5/1975, miệng luôn nói « dạ, dạ, dạ … », « dạ thưa dạ thưa…, dạ, dạ… » theo gịong rất Huế, để đến nay vu cáo cấp trên không chút ngượng ngịu.
Lý giải chuyện cực kỳ phi lý, ngang ngược này là uy lực và mưu kế thâm sâu của cặp Mười – Anh được Bắc Kinh tận lực tiếp sức, có trong tay bộ máy an ninh cực kỳ sắc nhọn, với tổng bí thư họ Nông cực kỳ non yếu, không chút bản lãnh đã rắp tâm bóp chết vụ án lớn, tìm cách tiêu hủy bản báo cáo tuyệt mật của Ban kiểm tra chuyên ngành.
Do đó, đến Đại Hội X 2006 mọi sự lắng xuống. Bản kết luận của bộ chính trị sau khi nhận báo cáo điều tra của Ban kiểm tra liên ngành cũng được hủy bỏ, phá hủy, theo đề nghị của ông Mạnh. Nhóm lãnh đạo cao nhất Nông Đức Mạnh, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Sinh Hùng thu trọn quyền lực, trượt sâu thêm vào con đường Bắc thuộc, đảng tha hóa thêm nặng, đạo đức xã hội băng hoại không gì kìm nổi, tham nhũng bất trị tràn lan sâu rộng, những vụ án tưởng như phải được giải quyết minh bạch, bị chìm dần một cách bi thảm cho đất nước, cho đảng cầm quyền. Gian tà đen tối nấp sau sức mạnh ghê gớm của Thiên triều vẫn ngự trị đàng hoàng. Những vụ án siêu nghiêm trọng bị chìm dần chính là do « công đầu của cặp Mười – Anh » vẫn còn sử dụng rất đắc lực công cụ an ninh – tình báo – gián điệp Tổng cục II, được Cục Tình báo Hoa Nam chỉ vẽ. Các ông Sáu Xô, Hai Cống, Năm Thi qua đời. Tướng Giáp vào bệnh viện, thoi thóp, chờ ngày đi xa. Đại tá Nguyễn Chí Vịnh lên thiếu tướng, nhảy lên trung tướng, nay là thượng tướng thứ trưởng Quốc phòng đầy quyền lực.
Có thể nói trận chiến đấu cuối cùng của người hùng Điện Biên khai hỏa từ đầu năm 2004, dai dẳng kéo dài 7, 8 năm đã lâm vào thất bại. Đây là nỗi niềm uất hận cay đắng của tướng Giáp khi từ giã cõi đời này. Trừ phi rồi đây đất nước đổi đời, giã từ độc đoán độc đảng để chuyển sang dân chủ hiện đại, các vụ án tồn đọng được xem xét và kết luận rõ ràng minh bạch, dù rằng quá muộn.
© Đàn Chim Việt

- Những ý nghĩa của việc tướng Giáp qua đời

Tiêu đề các báo cho chúng ta biết rằng vào tuần này, Việt Nam đang thương tiếc cái chết của Tướng Võ Nguyên Giáp. Thực tế, có gì đó phức tạp và thú vị hơn đang diễn ra.

Tướng Giáp, tất nhiên, là một nhân vật quan trọng trong lịch sử quân sự và chính trị Việt Nam và thực sự là một nhân vật lịch sử quan trọng của thế giới. Thông tin về cái chết của ông, được lan truyền đầu tiên qua Facebook hơn là truyền thông nhà nước, và được quốc tế đón nhận với kí ức ca ngợi từ mọi nơi, sự tôn trọng miễn cưỡng từ những người khác và sự khinh thường không khoan nhượng từ những người vẫn tranh cãi về cuộc chiến ở Việt Nam.

Ở Việt Nam, cái chết của Tướng Giáp đã gợi mở một quá trình cực kì thú vị mà có lẽ về vài khía cạnh được hiểu như một dạng hòa giải. Hòa giải ở Việt Nam, cho đến ngày nay, là một khái niệm vô cùng nhạy cảm ám chỉ một quá trình chấp nhận quá khứ – đáng buồn là điều này chưa diễn ra. Và tôi không có ý định đề xuất rằng việc Đại tướng qua đời sẽ bắt đầu một quá trình hòa giải to lớn hơn những người Việt Nam có đầu óc cải cách mong muốn.

Điều đang diễn ra giống như một dạng hòa giải nguyên tử hơn, mà trong đó những cá nhân, gia đình, và cộng đồng sẽ chấp nhận một con người mà tên tuổi luôn được gắn liền với những hy sinh to lớn mà Việt Nam phải chịu đựng trên con đường đầy hãnh diện và đau thương cho đến hiện tại.

Đến tận những giờ phút cuối cùng, Tướng Giáp và tinh hoa của ông vô cùng phức tạp. Được những người ngưỡng mộ khen ngợi như một chiến lược gia tài giỏi, chiến thuật quân sự của Tướng Giáp lại bị chất vấn thẳng thừng và thậm chí mạt sát bởi những ai lo rằng ông ta coi sự mất mát nhân mạng quá nhẹ nhàng. Vì tôi không phải là sử gia, tôi sẽ không cố gắng đánh giá ông Giáp như những người khác đã làm.

Điều làm tôi chú ý, hiện tại, là cảnh tượng đang diễn ra trong tuần này ở Việt Nam. Một phần nhỏ của những gì thú vị đang diễn ra trong giới lãnh đạo cấp cao của Đảng Cộng sản Việt Nam, mà những người lãnh đạo sẽ đánh dấu một cách trọng thể sự ra đi của một nhân vật mà tầm vóc đã làm lu mờ họ, và là người trong nhiều năm trước khi qua đời đã quan ngại về sự phát triển bừa bãi và lợi ích vốn có của nền chính trị. Chẳng có ích gì cả khi đơn giản hóa các vấn đề, di sản của tướng Giáp thậm chí được tranh cãi ngay cả trong nội bộ Đảng.

Điều thú vị nhất có lẽ là những gì đang diễn ra trên đường phố Hà Nội và thực sự là trên “đường phố Việt Nam” khắp mọi nơi, từ quê hương của Tướng Giáp ở tỉnh Quảng Bình cho tới nhiều địa phương ở miền Nam và trải khắp cộng đồng người Việt hải ngoại. Ở đó, các cá nhân, gia đình và cộng đồng sẽ chấp nhận cái chết của Đại tướng theo cách của riêng họ.


Ở Hà Nội, nơi hàng ngàn người xếp hàng trên phố để tỏ lòng kính trọng lần cuối cùng, tâm trạng rất u sầu, căng thẳng và không được chuẩn bị trước. Phụ huynh đem theo con cái, vì ngày nay họ và con cái họ biết về Đại tướng chủ yếu qua sách giáo khoa. Những người nhiều tuổi hơn xuất hiện rất đông, đi cùng bạn bè và trong vài trường hợp đi cùng con cháu họ. Một ngôi sao nhạc pop lố bịch bị mắng vì đã chen ngang cũng cảm thấy có nhu cầu xuất hiện. Trong khi đó, một người nông dân trong độ tuổi 70 lái xe máy từ tỉnh Sơn La cách Hà Nội hàng trăm cây số, để xác nhận sự ngưỡng mộ với ngài đại tướng và cũng để quần chúng biết nhà nước đã hứa bồi thường cho ông hơn 20 năm về trước và đến giờ ông vẫn chưa nhận được một khoản nào.

Tâm trạng được ghi nhận là sự kính trọng và ngưỡng mộ. Nhưng mỗi người đang hiểu nhiều ý nghĩa của Tướng Giáp theo cách riêng của mình.

Cuối tuần này, cuộc đời và di sản của Đại tướng sẽ được vinh danh trong Lễ quốc tang, được cho là cao hơn một bậc so với lễ tang cấp nhà nước, và có lẽ được dùng để trốn tránh nền chính trị không thể lờ đi được vào lúc này. Tướng Giáp là một nhân vật nổi bật, người đang và sẽ tiếp tục có ý nghĩa khác nhau với nhiều người khác. Chắc chắn rằng sự ra đi của ông đánh dấu sự ra đi của một nhân vật chủ chốt. Một người mà sự ra đi sẽ buộc người Việt Nam phải suy ngẫm về quá khứ đổ vỡ của mình và hướng đến một tương lai chung.
Jonathan London
(Blog Xin lỗi ông) 

Tướng Giáp và sự thức tỉnh người đương thời

"Tình cảm, niềm tin kính đó như một lời nhắc nhở những người lãnh đạo phải có trách nhiệm lớn hơn với dân tộc, sống trong sáng hơn nữa để có được niềm tin của người dân" - Thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện chiến lược, Bộ Công an. 
LTS: Trong cuộc trò chuyện với Tuần Việt Nam, Thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện chiến lược, Bộ Công an đã chia sẻ lòng tôn kính với nhân cách trọn vẹn, suốt đời vì đất nước, dân tộc của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Tài sản lớn là tình cảm của dân
- Những ngày qua, sau khi Đại tướng Võ Nguyên Giáp qua đời, chứng kiến nỗi tiếc thương, tình cảm người dân cả nước dành cho Đại tướng, những dòng người xếp hàng dài không lúc nào ngớt để chờ viếng..., ông có suy ngẫm gì?
Thiếu tướng Lê Văn Cương:  Điều tôi suy ngẫm nhiều nhất là tại sao một vị tướng khi qua đời lại tạo ra một khối rung động, tình cảm lớn lao của cả dân tộc đến như vậy. Không chỉ các cựu chiến binh, giới trí thức... mà cả giới trẻ, những người thậm chí có thể còn không biết tướng Giáp quê ở đâu và có những chiến công tầm cỡ ra sao, vẫn vô cùng xúc động.
Theo tôi, người dân VN xúc động, thương tiếc vô hạn không chỉ vì những chiến công của tướng Giáp, mà vượt lên trên tất cả, là bắt nguồn từ nhân cách của ông. Đó là nhân cách lớn của một con người cả cuộc đời vì nước.
Con người ấy tỏa sáng bằng một nhân cách không màng đến danh lợi, rất mực trong sáng. Chính điều đó, hơn bất kỳ điều gì, khiến mọi người ngưỡng mộ, xúc động. Trước đây là tình cảm dành cho cụ Hồ và giờ là tình cảm cho tướng Giáp.
"Tài sản" lớn của ông chính là nằm trong tình cảm người dân.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp, thiếu tướng Lê Văn Cương, dân tộc, đất nước, niềm tin của người dân
"Con người ấy tỏa sáng bằng một nhân cách không màng đến danh lợi"
-GS lịch sử quân sự Mỹ, Cecil Currey trong cuốn Chiến thắng bằng mọi giá, có viết đại ý rằng: Đại tướng Võ Nguyên Giáp không phải là một người tốt... Người tốt không trở thành những vị tướng huyền thoại; họ dạy lớp học giáo huấn, làm giáo sư lịch sử, hay giáo sĩ trong quân đội. Họ không làm tràn đầy những sách với những chiến công của họ hay những chiến trường với những xác chết. Ông đánh giá như thế nào về nhận định này?

- Nói thế là chưa  hiểu VN. Nếu ông ấy là một người dân VN sống vào giai đoạn những năm 1945, 1947, 1950... chắc chắn ông ấy sẽ không có ý kiến như vậy.

Những việc làm của tướng Giáp khi đó là phản ánh nguyện vọng tối thượng của người dân VN, nguyện vọng đất nước được độc lập và tướng Giáp đã dám xả thân vì nguyện vọng ấy. Trước đó, chúng ta đã mở ra mọi con đường đối thoại, chẳng hạn hội nghị đàm phán Fontainebleau, nhưng cuối cùng đối phương không chịu thì buộc lòng chúng ta phải cầm súng.

Bác Hồ, tướng Giáp, người dân VN ngay từ đầu đã "mở" hết cửa và không một ai muốn đổ máu. Nhưng tất cả mọi cửa chúng ta mở ra họ đều đóng lại thì buộc lòng chỉ còn con đường duy nhất.

- Trong thời chiến, đối mặt với sinh tử, với những lựa chọn sống cao cả vì đất nước hay vị kỷ cá nhân, việc giữ nhân cách là rất khó khăn. Nhưng phải chăng, thời bình cũng tạo ra những thử thách khác cho việc giữ nhân cách, thưa ông?

Đúng vậy, giữ nhân cách thời bình khó hơn nhiều, khó gấp trăm lần.

Không ít người nhân cách được rèn luyện sinh tử trong chiến tranh, trở thành những con người lớn lao. Nhưng khi đất nước hòa bình, được nắm quyền lực, họ lại không giữ được nhân cách mà trở nên tha hóa.

Những người nhân cách chỉ thể hiện trong một hoàn cảnh cụ thể như chiến tranh, nhưng sau đó không được tôi luyện hay không giữ được sự bền vững, thì trong bối cảnh này  nhân cách có thể rất tuyệt vời nhưng bối cảnh khác lại thay đổi.

Còn với tướng Giáp, nhân cách của ông định hình rất sớm, được hun đúc trong chiến tranh, và trong hòa bình cũng kiên định không thể đốn ngã. Trước hết đó là do tư chất của cá nhân của ông, thứ 2 là tác động của quê hương, đất nước. Hai yếu tố này cộng hưởng với nhau mới làm nên nhân cách của Đại tướng.

Nhìn rộng ra, để có được nhân cách đó, phải hội tụ cả trí tuệ lẫn tầm văn hóa, và phải được bồi đắp theo thời gian.

Sự thức tỉnh lớn

- Cuộc đời con người luôn có những khúc quanh, đoạn trầm và đó chính là những giai đoạn mang tính thử thách sống còn với nhân cách mỗi người. Tướng Giáp hẳn cũng không tránh khỏi "quy luật" ấy. Từ những gì ông biết, Đại tướng đã đối diện ra sao trong những cung đoạn "gian truân" của mình?

Theo tôi được biết, cả cuộc đời Đại tướng, ông không bao giờ có bất kỳ thắc mắc, chưa bao giờ tỏ ý phản đối một quyết định của tổ chức, luôn chấp hành nghiêm túc Nghị quyết, quyết định của Đảng, của cấp trên. Ông không có bất kỳ biểu hiện gì, chứ đừng nói đến có phát ngôn nào thể hiện sự phản ứng.

Khi đang giữ cương vị lãnh đạo rất cao, được giao làm nhiệm vụ khác, ông vẫn thực hiện rất vui vẻ, không một chút phản ứng. Đó là người Việt Nam duy nhất mà tôi biết đã có cách ứng xử như vậy, và đó tất cả là vì đất nước này. Nếu mảy may vì lợi ích cá nhân, chắc hẳn ông đã phản ứng.

Nhớ có thời ông được giao làm công tác phụ trách khoa học, khi được giao một đề án về phát triển khoa học kỹ thuật VN, tướng Giáp gọi điện cho Trung tướng Lê Quang Đạo, cấp trên của ông khi đó, nói rằng: Báo cáo anh tôi chuẩn bị xong, anh cho phép tôi khi nào trình bày với anh báo cáo. Ông Đạo hoảng hốt: Chết, sao làm thế. Lúc nào anh rỗi tôi phải đến chỗ anh chứ. Tướng Giáp đáp lại: Không, đây là việc công. Anh bố trí thời gian và địa điểm tôi xin báo cáo.

Rồi khi ông thôi vị trí trong Bộ Chính trị, thôi giữ chức Phó thủ tướng, ông gọi điện cho lãnh đạo cấp trên, báo cáo rằng hiện ông không đảm nhận vị trí Phó thủ tướng, không tham gia Bộ Chính trị nữa, nên đề nghị bố trí lại, rút bớt lực lượng bảo vệ, lực lượng thư ký.

Đó là cách hành xử, mà như nhiều người đã nói, là hành xử theo chữ "Nhẫn". Và "Nhẫn" của tướng Giáp là trên một "phông" của cái tâm sáng, của ý nguyện tất cả vì dân tộc này. Và nhẫn như thế thì bao nhiêu cũng là không vừa, không đủ.

- Tướng Giáp, cho đến cả những ngày tháng cuối cùng trên giường bệnh, vẫn luôn là nơi gửi gắm niềm tin kính của người dân cả nước. Còn khi ông nằm xuống, chúng ta thấy cả dân tộc như đang xích lại gần nhau, yêu thương, gắn bó, tốt lành hơn trong nỗi đau mất mát. Liệu đây có phải là một sự thức với người đang sống?

Tướng Giáp mất trong bối cảnh lúc này, khi xã hội đang có nhiều khó khăn, bức xúc, rồi tình trạng tha hóa, thoái hóa trong bộ máy, nạn quan liêu, tham nhũng càng khiến người dân kính yêu, tiếc thương một người nhân cách sáng ngời như ông.

Hơn lúc nào hết, chúng ta đang học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, thì cũng cần học tập và làm theo tấm gương của tướng Giáp, người học trò xuất sắc của Bác, người cả cuộc đời vì đất nước, không màng danh lợi, cả thế kỷ sống trong sáng trọn vẹn.

Sự ra đi của ông tác động đến tất cả mọi người dân, và hẳn tất cả đều sẽ cùng phải suy nghĩ. Đó là tác động tích cực, dù chúng ta không thể đánh giá được cụ thể.

Sau nỗi mất mát lớn này, muốn hay không, bất kỳ ai có lương tri  cũng phải có sự "thức tỉnh" ở mức độ nhất định. Chắc chắn sự rung động của cả dân tộc sẽ tác động vào họ, sớm muộn, ít nhiều sẽ khiến họ sẽ phải điều chỉnh hành vi.

Tình cảm người dân đối với tướng Giáp, nhất là khi ông qua đời, tạo một sức đẩy đối với Đảng và Nhà nước phải quyết liệt hơn nữa khắc phục hiện tượng tha hóa trong bộ máy công quyền. Như Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (Nxb CTQG, H, tr.173-174) đã chỉ ra, đó là "Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp...".

Tình cảm, niềm tin kính đó như một lời nhắc nhở những người ở lại phải có trách nhiệm lớn hơn với dân tộc, sống trong sáng hơn nữa để có được niềm tin của người dân.

- Xin cảm ơn ông đã dành thời gian!

Mỹ Hòa (thực hiện)
Tưởng nhớ Đại tướng Võ Nguyên Giáp

Đại tướng đã trải qua không ít gian truân
Ông đã vươn tới đỉnh cao của sự nghiệp, nhưng cũng trải qua không ít gian truân. Vào những lúc đó, ông vẫn giữ trọn niềm tin để vượt qua.
Vì sao cụ Hồ tặng ông biệt danh Văn?
Ông là người được giới văn nghệ sĩ, khoa học gần gũi để gửi gắm tâm tư những khi khó khăn, khúc mắc.
"Kế hoạch" dang dở của Đại tướng với Cựu binh Mỹ  “Tôi tặng ông cuốn sách và ông cẩn thận lật qua từng trang. Ông có vẻ rất quan tâm đến những đoạn tôi vẽ chân dung người đồng chí và người lãnh đạo của ông, Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là lần cuối cùng tôi gặp Tướng Giáp”

Tinh anh Đại tướng mãi bảo vệ Tổ quốc
 Anh linh của Người vẫn sẽ sống, bảo vệ đất nước trước mọi kẻ xâm lược, trước mọi cái ác, sự tăm tối và lầm lạc.
Hai người phụ nữ phía sau vị Tướng huyền thoại
Khoảnh khắc quay lại nhìn  vợ con trên con đường Cổ Ngư năm ấy, Võ Nguyên Giáp đã không ngờ được rằng đó là những khoảnh khắc cuối cùng ông được nhìn thấy người vợ mà ông rất đỗi yêu thương.
'Điều còn mãi' của tướng Giáp
Ít người biết, chương trình hòa nhạc "VietNamNet - Điều còn mãi" có kỷ niệm sâu sắc với một người vĩ đại vừa ra đi: Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Tướng Đồng Sỹ Nguyên:“Từ lúc nghe tin, tôi không ngủ được”
 “Mất đi một con người như thế, không chỉ với tôi mà với toàn quân, toàn dân, với mỗi người chúng ta ngồi đây cũng đều đau lòng. Từ lúc nghe tin Đại tướng từ trần đến giờ tôi không ngủ được”.
Tướng Giáp, McNamara và "bảo hiểm quốc gia"
Có môi trường nhằm tạo ra những thiên tài “tướng Giáp” để đương đầu với “McNamara” trong thời đại với biên giới quốc gia trở nên mong manh hơn bao giờ hết, là chìa khóa để đưa đất nước đi lên.
Đã khuất bóng một huyền thoại
Không phải chỉ vì huyền thoại khuất bóng mà sự ra đi của ông còn là sự thiếu vắng của những giá trị tinh thần, văn hóa cao đẹp, đem lại niềm kiêu hãnh vốn có của người Việt.
Anh Văn, người duy nhất xứng phong nguyên soái
Anh Văn có uy tín và ảnh hưởng rất lớn trong nhân dân, được kính trọng và yêu quý. Đấy là người chỉ huy quân sự duy nhấ́t của nước ta xứng đáng được phong là nguyên soái.

(VNN)

Nhân Vũ - Vì sao chính giới Mỹ không biết xấu hổ?


“Chúng ta chiến thắng tất cả các trận đánh, nhưng thua cả cuộc chiến” là câu nói mà giới tướng lĩnh, một số chính trị gia và sử gia Mỹ ưa thích khi nói về cuộc chiến của họ ở Việt Nam.

Cách đây hơn 10 năm, một lần ở nước ngoài, tôi có dịp đọc một số cuốn sách về chiến tranh xâm lược Việt Nam của tướng lĩnh Mỹ và bắt gặp câu nói tự an ủi đại loại “Chúng ta chiến thắng tất cả các trận đánh, nhưng thua cả cuộc chiến” (We win every battle, but we lose the war) hay “Các ông (người Việt Nam) chưa bao giờ đánh bại chúng tôi trên chiến trường” (You never beat us on the battlefield).

Hôm nay, vào đọc trang mạng của tờ Wall Street Journal, tôi bắt gặp bài báo đăng hôm 6/10/2013 của ông John McCain, Thượng nghị sĩ Mỹ, cựu tù binh phi công ở Việt Nam thời chiến viết về Đại tướng Võ Nguyên Giáp vừa qua đời.

Bài viết lại có tiêu đề: “Ông ấy (Đại tướng Võ Nguyên Giáp) đánh bại chúng ta trong cuộc chiến, nhưng chưa bao giờ đánh bại chúng ta trong một trận đánh nào” (He beat us in war but never in battle). Bực mình quá, tôi buột miệng: “Người Mỹ thật không biết xấu hổ!” Ở đây, ý tôi không muốn nói đến người Mỹ nói chung, mà là những người từng gây tội ác ở Việt Nam, từng chịu trách nhiệm về cuộc chiến xâm lược này và số ít người Mỹ hiện nay vẫn bênh vực cho cuộc chiến tranh phi nghĩa này của nước Mỹ. Câu nói phi lý và ngụy biện.

Phải chăng vì chiến lược đếm xác người để xác định chiến thắng mà người Mỹ giết nhiều người Việt Nam thế, nhất là thường dân? Hay tư duy chiến lược quân sự Mỹ không chú trọng giành chiến thắng trong chiến tranh mà chỉ cần những trận đánh? Đúng là người Việt Nam đã mất hàng triệu người trong cuộc chiến này, điều đó là không tránh khỏi khi một quốc gia nghèo, quân đội trang bị thua kém nhiều lần đối đầu với đế quốc giàu mạnh nhất thế giới về kinh tế và quân sự là Mỹ. Việt Nam có tổn thất lớn như thế khi Mỹ có tiềm lực kinh tế và quân sự tương đương Việt Nam không? Đương nhiên là không? Cho nên thua ở Việt Nam, nước Mỹ phải biết đó là nhục, phải thừa nhận đó là thua, là thất bại toàn diện cả về tinh thần và vật chất, chứ không phải là cái gì khác.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra phương châm kháng chiến chống Mỹ: “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”. Việt Nam không cần tiêu diệt hết lính Mỹ xâm lược mà cần đánh bại ý chí xâm lược của giới cầm quyền Mỹ, để thống nhất đất nước, bảo vệ độc lập, tự do của mình dù phải hy sinh lớn lao, đất nước bị tàn phá. Đó là chiến lược để giành chiến thắng của Việt Nam!

Khi chọn ủng hộ Pháp trong nỗ lực tái nô dịch Việt Nam, khi trực tiếp dùng tiền bạc, bom đạn và quân lính âm mưu cản trở nguyện vọng độc lập, thống nhất của dân tộc Việt Nam, Mỹ đã sai lầm chiến lược và đó chính là những thất bại. Mỗi người lính Mỹ tử trận hay thương vong ở Việt Nam đều là những thất bại của chính họ và nước Mỹ. Đương nhiên, cả việc ông McCain bị bắn rơi và làm khách của “Hilton Hà Nội” cũng không thể coi là thắng lợi trong trận đánh của riêng ông được.

Với tất cả sự tôn trọng đối với ông McCain, một con người biết phục thiện, đã góp phần không nhỏ cho việc thiết lập bang giao Mỹ-Việt và ủng hộ quan hệ tốt đẹp giữa hai nước, nhưng tôi không đồng ý với ông về tít của bài viết. Liệu ông có dám nói thế với Võ Nguyên Giáp, một trong những nhà cầm quân đã chỉ huy quân đội Việt Nam đánh bại quân Mỹ xâm lược trong cuộc chiến này khi Đại tướng còn sống không?

Mặt khác, ông đặt tên bài báo như thế và viết ở sa-pô “Để đánh bại bất kỳ kẻ thù nào, cố Đại tướng Bắc Việt Võ Nguyên Giáp đã chấp nhận những thương vong lớn lao và đất nước gần như bị hủy diệt hoàn toàn”, cá nhân tôi cho là không phù hợp với một người đã khuất.

Tôi cho rằng, các tướng lĩnh Mỹ cũng nên ít rao giảng “We win every battle, but we lose the war” với các học viên sĩ quan và binh lính của mình khi nói về cuộc chiến tranh Việt Nam.

NHÂN VŨ (VIETNAMDEFENCE.COM)
(Red.vn)

BBC và một số nhà “dân chủ” man rợ đến cùng cực!

Trong lúc đồng bào cả nước đang vô cùng thương tiếc vị Đại tướng của nhân dân đã từ trần, một nhóm người tự xưng là “dân chủ” đã lấy cái chết của Cụ để trình diễn nhân cách thấp hèn của họ. Chà đạp lên tình cảm của hàng trăm triệu người, chà đạp danh dự Tướng Giáp bằng những lời độc địa, những câu chuyện bịa đặt trắng trợn. Hành vi của họ được nhà đài BBC tiếp tay nồng nhiệt. Ban biên tập xin gửi đến bạn đọc bài viết của một bạn trên Facebook nói về vấn đề này:

Chết, nói một cách đơn giản là ngừng trao đổi chất. Định nghĩa đó áp dụng chung cho sinh vật. Với loài người thì không, một con người nghĩa là bao gồm thực thể sinh học và giá trị tinh thần con người đó tạo ra, cho dù cơ thể có ngừng trao đổi chất, biến thành cát bụi thì giá trị của con người được tạo ra vẫn còn đó. Nhân loại văn minh đã hình thành một quy tắc ứng xử chung khi một người trong 7 tỷ người chấm dứt sự sống. Quy tắc ứng xử này dùng để phân biệt thú vật và người.

Lịch sử cận đại Việt Nam đã chứng kiến những hành vi hết sức man rợ đối với người chết. Thực dân Pháp chặt đầu người Việt Nam bêu trên cọc nhọn, treo lủng lẳng ngoài phố chợ. Thời Việt Nam Cộng Hòa những cảnh tượng kinh hoàng ấy vẫn diễn ra. Cảnh mấy tay ác ôn túm tóc thủ cấp nạn nhân đi trước, vợ con theo sau khóc lóc van xin không hiếm ở vùng căn cứ kháng chiến. Có những xác người được treo cho thối rữa mà người nhà nạn nhân không dám ra nhận xác vì sợ trả thù. Những câu chuyện man rợ đó những tưởng sẽ nhạt nhòa theo năm tháng, vì giờ đây là thế kỷ 21, loài người đã quá văn minh rồi . Nhưng không…..
 

Bộ mặt man rợ của BBC và các nhà "dân chủ"

Đại tướng Võ Nguyên Giáp, vị tướng tài ba thao lược, người hùng trong công cuộc giải phóng dân tộc Việt Nam ra đi. Nhân dân Việt Nam tiếc thương vô hạn, bạn bè thế giới gởi điện chia buồn. Trong giờ phút đau buồn này, sự vĩ đại, sức ảnh hưởng đến lịch sử thế giới của Đại Tướng, chúng ta bối rối khó mà nói hết.
Vấn đề là Có một nhóm “côn đồ văn hóa”, ”du côn chữ nghĩa” như JB Nguyễn Hữu Vinh, Trần Đông Đức, Huỳnh Ngọc Chênh … lấy cái chết của Cụ để trình diễn nhân cách thấp hèn, bỉ ổi của họ. Chà đạp lên tình cảm của hàng trăm triệu người vốn dĩ đã là tội không tha thứ, kinh tởm hơn bọn họ chà đạp danh dự cụ Giáp bằng những lời độc địa, những câu chuyện bịa đặt trắng trợn. Hành vi của họ được nhà đài BBC tiếp tay nồng nhiệt. Chúng ta chỉ có thể nói một từ về họ: Man rợ ! Man rợ không khác gì lính Tây chặt đầu, bêu thủ cấp người kháng chiến ngày trước.
Lãnh đạo Đảng và Nhà nước luôn bên cạnh Đại tướng lúc cuối đời

Hôm sinh nhật lần thứ 103, Nhật Ký Yêu nước Mỹ, fanpage phản động của đám cờ vàng lưu vong có đăng một câu chuyện kiểu chửi chó mắng mèo lấy từ Blog “người buôn gió”. Bọn chúng ám chỉ với nhau rằng “Cụ Giáp thực chất là một xác ướp sống, Đảng Cộng Sản giữ tươi xác cụ vì sự tồn vong của Đảng”. Bài viết gây phẫn nộ cho nhiều người.
Và hôm nay, khi Đại Tướng nằm xuống, BBC – chính xác là BBC Việt Ngữ đăng bài viết của Đặng Hùng với nội dung lên án Đảng Cộng Sản lợi dụng thân xác của cụ Giáp cho mưu đồ chính trị. Cụ Giáp một đời hiến thân cho đất nước, dân tộc, ai có thể lợi dụng được Cụ ? Chỉ có Những nhà “dân chủ”, những tay bồi bút và cái loa của BBC lợi dụng cái chết của cụ cho mưu đồ hèn hạ của họ. BBC là cái mõ làng luôn thích bới móc, xúc xiểm; khi không có gì để bới móc, xúc xiểm nữa thì xuyên tạc, bịa đặt, vu khống Việt Nam.
Bộ Quốc phòng và đội ngũ y bác sĩ luôn bên cạnh chăm sóc cho Đại tướng đến hơi thở cuối cùng

Nguyễn Hùng (BBC Tiếng Việt) hỗn láo: Chuyện Đảng ép các báo để Tướng Giáp sống thêm nhiều tiếng là hành động bắt giới truyền thông “quỳ xuống” trước truyền thông quốc tế. 05.10.13 từ Nguyễn Hùng (BBC Tiếng Việt)
BBC không phải toàn loại phóng viên, Biên Tập Viên đầu óc bã đậu mà không hiểu một điều Cụ Giáp là người được nhân dân ngưỡng mộ, khi cụ nằm xuống, theo quy định quốc tang là sau khi thành lập Ban lễ tang thì mới được thống nhất công báo lên báo chí. Tập quán tang lễ của người Việt Nam xưa nay thế, chuẩn bị xong xuôi rồi mới phát tang. Trước khi cơ quan phát ngôn chính thức báo tin thì các báo khác trong nước đã đang tải tin cụ qua đời. Đảng nào ép cụ “sống thêm”, ?BBC là ai mà thân nhân cụ Giáp và Nhà nước Việt Nam phải khẩn thiết báo tin khi cụ Giáp trút hơi thở cuối cùng ? Thật không tin được một nhà đài có số má trên thế giới lại bỉ ổi đê tiện đến thế.
Lãnh đạo và chiến sĩ ngành công an luôn thể hiện sự kính trọng đối với Đại tướng

Chống Đảng CSVN, phá hoại Nhà nước Việt Nam có nhiều cách nhưng không phải bằng cách lơi dụng cụ Giáp thế này khi mà người Việt Nam đang ngậm ngùi tiếc thương cụ. Trong tiếng Anh có câu thành ngữ nào mang nghĩa “ngậm máu phun người dơ miệng mình” hay chăng ? Đạo đức nghề nghiệp của BBC lâu nay đã là màu đen, nay lại thêm mùi tởm lợm đến buồn nôn.
Là một hãng truyền thông lớn nhưng BBC thích chơi trò ném đá giấu tay bằng cách đăng tải bài viết của người khác, hòng chối bỏ trách nhiệm. Dư luận không ngu đến mức không thấy được tâm địa bẩn thỉu rác rưởi của nhà đài.


BBC, RFA, RFI là những tổ chức phục vụ cho quyền lợi của Anh, Mỹ, Pháp, và một nhóm người Việt lưu vong đang làm việc tại đây nhằm làm suy yếu sự đoàn kết dân tộc của Việt Nam và gây bất ổn chính trị xã hội ở Việt Nam.

Huỳnh Ngọc Chênh viết trên BBC về Cụ Giáp “bị CS giết” như sau:Rất độc ác là để cụ sống thực vật lâu như thế. Độc ác hơn nữa là những năm cụ còn sống khỏe mạnh chúng xem cụ như chết rồi và cụ cứ thế sống lây lất. Trong hệ thống này chuyện gì cũng có thể xảy ra được.

Hồi xưa cụ chỉ cần đập tay xuống bàn…thì chuyện đã khác, cũng có thể là ngay sau đó cụ bị giết. Nhưng từ đó đến giờ thì cụ sống có ích lợi gì? Chỉ có hệ thống này mới có thể đem một người như cụ ra làm trò đùa”.

Nhân dân Việt Nam chưa bao giờ quên công ơn cụ Giáp, mỗi một ngày sinh nhật cụ là một ngày vui. “Chúng” nào xem như cụ chết rồi ? chỉ có hạng vong nô bán nước mong cụ mau chết thì có. Niềm mong mỏi và nỗ lực chăm sóc cụ sống lâu của nhân dân được con rắn độc này chế biến thành “Rất độc ác là để cụ sống thực vật”. Không còn từ ngữ nào diễn tả cái vô nhân tính của nhân vật này . Người ta nói “ác già ác báo” quả thật không sai, và đây chính là báo ứng của hắn, nguyên văn của một Facebook Blogger: “Mình dám cá 1 ăn 10, thậm chí cao hơn cũng nhận. Là khi về già, nếu bố bạn Huỳnh Ngọc Chênh bị bệnh khó qua khỏi. Nhẹ thì bạn ấy đánh thuốc độc, nặng thì lấy dây thừng siết cổ, lấy gối bịt vào mặt, thậm chí là cắp dao hay vác búa vào giường tiễn ông cụ lên đường cho sớm rồi. Vì, theo lời bạn Huỳnh Ngọc Chênh, thì việc cố gắng cứu chữa để ông cụ có thể sống tiếp là độc ác và có ích gì đâu. Đề nghị CATP Đà Nẵng sớm vào cuộc, điều tra về cái chết của ông cụ thân sinh ra Huỳnh Ngọc Chênh, nhằm trả lại sự công bằng cho ông cụ.

Lời kết: Trong những giờ phút buồn bã tiễn đưa Vị Tướng quân vĩ đại của chúng ta về nơi vĩnh hằng, lý ra chúng ta dành hết tình cảm để tưởng nhớ cụ. Vậy mà những kẻ man rợ, nhà đài man rợ kia đã phải làm chúng ta phẫn nộ, đừng để chúng ta phải nói một điều không nên nói vào lúc này: …

(Trích từ Facebooker: Bao Bất Đồng)
(nguyentandung.org)

Nông dân Văn Giang ra tuyên bố quyết cảm tử giữ đất

Nông dân bị thu hồi đất để làm dự án khu đô thị sinh thái Ecopark tại huyện Văn Giang tỉnh Hưng Yên ra tuyên bố quyết cảm tử với những người lấy đất của họ không theo đúng luật pháp.
Khiếu kiện trong tuyệt vọng
Tuyên bố của 1244 hộ nông dân thuộc ba xã Phụng Công, Cửu Cao, Xuân Quan, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên được ký ngày 7 tháng 10 vừa qua.
Theo đó các hộ nông đồng nêu rõ ‘xin tự nguyện đăng ký mỗi hộ dân ít nhất một người quyết cảm tử với bọn cướp đất để bảo vệ đất đến cùng”. Một người dân cùng ký tên vào tuyên bố đó nói lại nguyên nhân vì sao họ phải đi đến một lựa chọn như thế:
“Vào ngày 17 vừa qua họ phá hết tài sản của chúng tôi nên tình hình bà con rất căm thù rồi, lên đến mức cao độ là 9 năm nay chúng tôi đến các cơ quan pháp luật nhà nước để kêu cứu, đề nghị giải quyết nhưng đến lúc này không có gì hồi âm lại cho bà con Văn Giang. Hôm nay họ lại cho máy xúc vào phá tiếp chỗ hôm ngày 17 nữa cho nên sáng này bà con lên trên đó rất đông để ngăn chặn không cho làm.
Thứ hai nữa bà con cũng xác định rồi, nếu như cuộc chiến đấu này mà không giữ được thì thắng lợi của bà con không an toàn nên dân cương quyết quyết tử với chúng nó bằng đổ máu. Phải chấp nhận hy sinh chứ làm sao được nữa! Dân bị đẩy vào ngõ cụt rồi. Phía bên họ dựa vào chính quyền để đàn áp dân, ‘tức nước vỡ bờ’ thì phải quyết chiến. Đó là con đường cùng chẳng thể nào khác được, phải chấp nhận cuộc này thôi. Người ta uất lắm rồi, đã theo pháp luật để pháp luật giải quyết mà pháp luật không giải quyết, người ta bị đưa vào đường cùng. Bế tắc lắm rồi! Không có cái gì hướng về dân, mà nhà cầm quyền bảo vệ cho nhà đầu tư đàn áp dân mạnh hơn, nên dân phải căm thôi; phải có đấu tranh mà trong đấu tranh phải có đổ máu, thương vong, người dân Văn Giang xác định việc này rồi.”
Nhà đầu tư bất chấp luật pháp
Thông tin cho biết trong hai ngày 8 và 9 tháng 10 vừa qua, Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển Đô thị Việt Hưng tiếp tục cho máy ủi, máy xúc đến phá ủi tại khu vực đất mà người dân không đồng ý giao cho chủ đầu tư.
1229862_385456651557282_183864447_250.jpg
Công an, côn đồ bao vây dân để để xe ủi phá hoại tài sản hoa màu tại Văn Giang ngày 17-9-2013. Courtesy FB NghiemVietAnh.

Trước đó hồi ngày 17 tháng 9, nhiều hoa màu, lúa của người dân trồng cũng đã bị phá hoại bởi phía công ty Việt Hưng.
Theo người dân khu vực đất đang trong quá trình khiếu kiện và người dân mong muốn có sự đối thoại với các phía. Phần chủ đầu tư là Công ty Việt Hưng thì không muốn đối thoại, còn lần đối thoại với ông Đặng Hùng Võ, nguyên thứ trưởng Bộ Tài Nguyên- Môi Trường cũng như gặp gỡ với quan chức của bộ này cũng không mang lại kết quả gì:
“Từ trước đến nay chưa có cuộc nào ngồi với nhau, duy nhất có buổi đối thoại với ông Chu Phạm Ngọc Hiển bên Bộ Tài Nguyên - Môi trường cũng không giải quyết vấn đề gì cả, mọi sự vẫn như thế. Đặc biệt nhất cuộc đối thoại với ông Đặng Hùng Võ thừa nhận thẩm quyền trình của bên Bộ Tài Nguyên - Môi trường không đúng, và thẩm quyền ký cũng không đúng mà người ta vẫn làm. Chúng tôi tin tưởng điều đó sẽ có thuận lợi cho bà con, nhưng càng ngày càng không có hướng mở nào cho bà con nên lại gây bất bình cho dân và chính quyền nhiều.
Chính quyền trả lời
Người dân thuộc ba xã ở Văn Giang cho biết họ phải đi khiếu nại từ chín năm qua đến các cơ quan công quyền với nguyện vọng giải quyết theo đúng pháp luật. Người dân cho biết những nơi đã đến và câu trả lời nhận được bất chấp nguyện vọng mà họ cho là chính đáng:
“Cơ quan trung ương mà chúng tôi đến từ Mặt Trận Tổ Quốc, Thanh Tra Chính phủ, rồi Ban Nội Chính Trung ương, người ta chỉ cho biết chờ đợi. Câu chờ đợi rất phổ thông rồi. Người ta nói thế chúng tôi chả biết thế nào nữa, rất thất vọng. Nguyện vọng của bà con là trước mắt đúng sai thế nào phải tạm thời đình chỉ dự án để điều tra, giải quyết cho tốt. Theo quan điểm của bà con đó là phù hợp nhất, đó là mong mỏi nhất của dân. Nhưng ngày càng có sức ép nên người dân bức bách lắm, không chịu được.”
Người dân Văn Giang từng tìm đến luật sư để nhờ trợ giúp pháp lý, và theo họ luật sư Trần Vũ Hải cũng đi đến tận cùng của luật pháp Việt Nam trong vấn đề thu hồi đất đai của họ. Thế nhưng các cơ quan chức năng không theo đúng những gì mà luật phát qui định.
“Luật pháp mà bên văn phòng luật sư tư vấn là hoàn thiện rồi; nếu họ làm theo cái đó thì tốt rồi, nhưng họ đâu có làm như thế.”
Riêng luật sư Trần Vũ Hải thì vẫn tiếp tục kêu gọi bà con kiên trì và những ai vi phạm pháp luật sẽ chịu trách nhiệm. Ông nói:
“Chúng tôi cũng nói những người không tôn trọng pháp luật, không tôn trọng quyền lợi của những người khác mà sau này có bất kỳ hậu quả nào đó, kể cả những người lãnh đạo và những người liên quan đều phải chịu trách nhiệm. Trong những trường hợp đó khi mà những phương pháp mà chúng tôi gọi là phương pháp pháp lý và hòa bình mà không được tận dụng, thì tất cả những người có liên quan phải chịu trách nhiệm. Trách nhiệm như thế nào chúng tôi chưa thể khẳng định ra đây, nhưng mà là trách nhiệm mà chúng tôi cho rằng rất to lớn.”
Vụ thu hồi đất đai tại Văn Giang là một trong những vụ rất nóng tại Việt Nam hiện nay. Sau hai vụ gia đình nông dân Đoàn Văn Vươn phải cho nổ súng hoa cải và bình ga tự chế để ngăn chân đoàn cưỡng chế, đến vụ anh Đặng Ngọc Viết ở Thái Bình phải bắn vào các cán bộ giải phóng mặt bằng rồi tự sát, đến nay hơn 1200 gia đình nông dân Văn Giang tuyên bố quyết cảm tử với những thành phần mà họ cho là bọn cướp đất. Máu đã đổ vì đất và nhiều người lại hết sức quan ngại với hành xử của nhà đầu tư và chính quyền như hiện nay máu của người dân sẽ còn đổ nữa.
Gia Minh, biên tập viên RFA
2013-10-09 

Mô hình “chất lượng cao” bóp méo trường công: Sự thất bại của giáo dục đại trà

Nhà nước chưa đảm bảo các điều kiện tối thiểu cho chất lượng giáo dục đại trà, trong khi đó lại đầu tư nguồn lực xây dựng trường “chất lượng cao”, nên dư luận đặc biệt lo ngại hiệu quả đích thực của mô hình này.
Mô hình “chất lượng cao” bóp méo trường công: Sự thất bại của giáo dục đại trà
 Huyện Từ Liêm (Hà Nội) đầu tư xây Trường THCS Từ Liêm bề thế với mục đích làm trường chất lượng cao - Ảnh: Lê Đăng Ngọc
Chưa đạt mức tối thiểu 


Trường công lập “chất lượng cao” thực chất là trò thương mại hóa giáo dục, rất nguy hiểm. Nó làm mất ý nghĩa của trường công, sai lầm hoàn toàn về chính sách tài chính công: thay vì phục vụ toàn xã hội thì chỉ phục vụ một nhóm người giàu

Giáo sư NGUYỄN TIẾN DŨNG (ĐH Toulouse - Pháp)


Năm nào vào mùa tuyển sinh, câu chuyện thiếu trường, thiếu lớp cũng được nhắc đến. Và rồi những hiện tượng xếp hàng trắng đêm hoặc bốc thăm để vào trường mầm non hay học sinh (HS) ép mình vào những lớp sĩ số thậm chí gấp đôi so với quy định… trở nên phổ biến.

Theo báo cáo của Sở GD-ĐT Hà Nội, hiện thành phố này có hơn 1,3 triệu HS, chất lượng giáo dục giữa các vùng miền của thủ đô vẫn còn khoảng cách khá xa. Cơ sở vật chất nhiều trường thuộc các huyện ngoại thành rất thiếu thốn, không đủ phòng học theo đúng yêu cầu, nhiều phòng học tạm, hệ thống nhà vệ sinh trường học, chiếu sáng học đường chưa được đầu tư... Dự báo dân số của Hà Nội đến năm 2020 là 7,4 triệu người; 2030 là 9,5 triệu người. Với yêu cầu diện tích tối thiểu 8 m2 mỗi HS nội thành và ngoại thành là 15 m2 thì toàn thành phố cần gần 18 triệu m2 đất để xây thêm 1.014 trường mầm non, 310 trường tiểu học…

Nếu căn cứ vào các văn bản pháp lý hiện hành thì Hà Nội vi phạm rất nhiều quy định về việc đảm bảo môi trường học tập tối thiểu cho HS.

Hai năm gần đây, Hà Nội chỉ đạo không được để xảy ra hiện tượng xếp hàng trắng đêm để mong có một chỗ học ở trường mầm non công lập. Tuy nhiên, giải pháp thay thế là tổ chức… bốc thăm vì nguyên nhân căn bản là thiếu trường vẫn chưa được giải quyết. Hà Nội đã rất chật vật mới xóa được tình trạng phường trắng trường mầm non. Hiện nay Hà Nội đạt tỷ lệ huy động HS ra lớp mẫu giáo khá cao. Nhưng để có được kết quả này, rất nhiều trường mầm non  phải chấp nhận sĩ số 60 - 70 HS/lớp trong khi điều lệ quy định tối đa 35 HS/lớp.

Ở các trường tiểu học, sĩ số phổ biến ở các quận nội thành là 50 - 55 HS/lớp, một số trường “điểm” từ nhiều năm nay vẫn chưa giải quyết được tình trạng sĩ số lên tới 60 HS/lớp. Đó là chưa kể tình trạng HS phải bán trú ở nhà dân, nghỉ học luân phiên vì nhà trường thiếu phòng học…

Với cấp THCS, THPT hầu hết trường công lập đều có chung tình trạng là không có đủ phòng để tổ chức học 2 buổi/ ngày, trong khi đó hầu như bố mẹ nào cũng có nhu cầu cho con học bán trú. Để lấp chỗ trống vì chỉ được học một buổi/ngày, phụ huynh lại phải cho con đi học thêm khắp nơi, vừa mệt mỏi, vừa tốn kém…

Thực trạng này không chỉ diễn ra ở Hà Nội mà có ở hầu hết các tỉnh, thành lớn.

Khi hệ thống các trường công còn trong cảnh “giật gấu vá vai” mà Hà Nội và TP.HCM thực hiện mô hình lấy trường công làm “chất lượng cao”, thu học phí cao dành cho những HS có điều kiện kinh tế. 

Theo Sở GD-ĐT Hà Nội, nguyên tắc số một khi mở trường công “chất lượng cao” là chỉ mở ở những nơi mà nhu cầu học hành cơ bản của con em người dân đã được đáp ứng. Nhưng đáp ứng được nhu cầu cơ bản là thế nào lại là vấn đề cần phải nhìn nhận nghiêm túc. Vì thế, mô hình này là một nghịch lý nếu đối chiếu với nguyên tắc “nhu cầu học hành cơ bản đã được đáp ứng” mà Sở đề ra.
Sai lầm về chính sách tài chính công


Bộ GD-ĐT đang xây dựng hướng dẫn
Ông Nguyễn Vinh Hiển, Thứ trưởng Bộ GD-ĐT, cho biết: Theo báo cáo, Hà Nội chủ trương xây dựng trường công lập “chất lượng cao” nhưng vẫn cam kết bảo đảm có đủ chỗ học trong các trường công lập theo yêu cầu phổ cập giáo dục của từng cấp học, đồng thời vẫn bảo đảm miễn giảm học phí cho các đối tượng chính sách theo các quy định chung hiện hành. Việc thành lập các trường công lập “chất lượng cao” là để tăng cường huy động các nguồn lực cho phát triển giáo dục theo chủ trương xã hội hóa các hoạt động thuộc lĩnh vực văn hóa, xã hội, đáp ứng yêu cầu của một bộ phận dân cư có điều kiện và tự nguyện tham gia. Trong thực tế, khi chưa có mô hình này, một số gia đình đã gửi con đi học nước ngoài hoặc vào học tại các trường quốc tế ở trong nước với mức học phí rất cao. Bộ sẽ xây dựng hướng dẫn về mô hình chất lượng cao trong trường công.


Xu hướng xã hội hóa để có đủ nguồn lực nâng cao chất lượng giáo dục là tất yếu nhưng nhiều chuyên gia cho rằng, nếu trường công lập thu học phí cao cho dịch vụ “chất lượng cao” thì chỉ là thương mại hóa giáo dục.

Giải thích về việc tại sao Hà Nội đầu tư xây dựng mô hình này, đại diện Sở GD-ĐT cho rằng việc cho ra đời các trường công “chất lượng cao” không chỉ để “hứng” nguồn tiền đầu tư cho giáo dục hiện khá dồi dào trong nhân dân mà còn để xây dựng những mô hình hạt nhân có chất lượng cao, tạo sự lan tỏa trong hệ thống, có ảnh hưởng tích cực tới sự vươn lên đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về chất lượng giáo dục cho những trường công đại trà. Tuy nhiên, nói về điều này, nhà giáo Vũ Thế Khôi, nguyên Trưởng khoa Ngôn ngữ và văn hóa Nga, Trường ĐH Ngoại ngữ (nay là ĐH Hà Nội), bức xúc: “Họ nghĩ có trường “chất lượng cao” thì chất lượng giáo dục lên ư? Tôi không tin. Một vài trường “chất lượng cao” làm sao giải quyết được vấn đề dân trí, nâng mặt bằng giáo dục lên được. Còn về việc tạo sự lan tỏa từ mô hình trường này sang trường thường, tôi càng thấy hoang đường”.

Giáo sư Nguyễn Tiến Dũng, ĐH Toulouse (Pháp), thẳng thắn nói: “Trường công lập “chất lượng cao” thực chất là trò thương mại hóa giáo dục, rất nguy hiểm. Nó làm mất ý nghĩa của trường công, sai lầm hoàn toàn về chính sách tài chính công: thay vì phục vụ toàn xã hội thì chỉ phục vụ một nhóm người giàu”. Theo Giáo sư Tiến Dũng, ngân sách nhà nước đang hạn hẹp thì cần bàn tới chuyện chi vào những đâu cho hiệu quả nhất.  “Theo tôi thì các trường công đang quá tải, diện tích chật hẹp thiếu sân chơi và lớp quá đông. Xây thêm trường, tuyển thêm giáo viên là cách nâng cao chất lượng hữu hiệu”, Giáo sư Dũng  đề nghị.

Giáo sư Nguyễn Lộc, Phó viện trưởng Viện Khoa học giáo dục, cảnh báo: “Nếu nói rằng chỉ xây dựng trường công lập “chất lượng cao” ở những vùng kinh tế khá giả thì cũng phải hết sức cẩn trọng, bởi điều đó sẽ làm cho khoảng cách chất lượng giáo dục của các địa phương ngày càng rộng ra chứ không thể đạt được mục tiêu rút ngắn khoảng cách này như chúng ta vẫn mong muốn”. Theo Giáo sư Lộc, điều này còn có thể gây ra hiện tượng ùn tắc về nhu cầu học tập của những trường “chất lượng cao”, trong khi đó những trường khác thì lại vắng vẻ, thưa thớt người học dẫn đến lãng phí về nguồn lực.
Lê Đăng Ngọc - Tuệ Nguyễn
 

Thiện Ngộ - Huyền Chip và thói dối trá của người Việt trẻ !

Tuy nhiên, sách cũng là một sản phẩm, và độc giả cũng chính là người tiêu dùng. Việc người tiêu dùng phát hiện lỗi sản phẩm (bị quảng cáo sai sự thật) thì họ có quyền yêu cầu tác giả giải trình, thậm chí kiện để đòi bồi thường theo luật.

huyenchip01

Vụ lùm xùm của cô gái trẻ Huyền Chip với tác phẩm thuộc thể loại du ký "Xách ba lô lên và đi” chỉ mới thực sự bùng cháy thành ngọn lửa đỏ rực khi mà độc giả Trần Ngọc Thịnh gửi bản kiến nghị dài 21 trang liên quan đến những nội dung trong cuốn sách mà anh và nhiều độc giả cho là mập mờ, sai sự thật lên Cục Xuất Bản.

Cuối cùng thì Huyền Chip cũng đã có bản giải trình dài 31 trang gửi Cục Xuất Bản. Tuy nhiên, những giải trình của Huyền Chip vẫn chưa được anh Thịnh và nhiều độc giả hài lòng. Bởi theo anh thì nội dung của bản giải trình cũng không có gì khác lắm so với nội dung của buổi họp báo, hơn nữa còn trả lời không rõ ràng và đặc biệt là cô không hề có một lời xin lỗi đến độc giả - những người đã bỏ tiền mua sách của cô - và được bảo vệ hợp pháp bởi Luật Bảo Vệ Quyền Lợi Người Tiêu Dùng.

Thật ra, đối với đa số độc giả trẻ ở Việt Nam, họ cũng không khắt khe lắm với một cô gái mới 23 tuổi đầu như em. Nhưng chính sự mập mờ, dối trá và bảo vệ sự dối trá đến cùng của em mới làm độc giả dậy sóng. Trong thời điểm hiện nay, thanh niên Việt Nam gần như bị khủng hoảng thần tượng. Thần tượng của giới trẻ Việt Nam hiện nay đa phần là những người hoạt động trong ngành giải trí. Có thể giọng hát của họ không có gì đặc biệt, cũng chẳng có tài năng gì nổi trội nhưng công nghệ “lăng-xê” biết cách đưa họ thành “ngôi sao”. Các “ngôi sao” ấy ăn mặc hở hang, quái dị, thường xuyên phát ngôn những câu gây sốc kiểu như “Không có tiền thì cạp đất mà ăn”… Thế nhưng họ càng hở hang, càng quái dị, càng “đốp chát” với người lớn thì họ càng… nổi tiếng. Giới trẻ Việt Nam hiện tại đang khủng hoảng trong thẩm mỹ, thẩm âm và nhiều thứ khác nữa.

Giữa rừng “ngôi sao” không có tài năng gì đặc biệt ấy, may mắn thay, đột nhiên xuất hiện một cô gái với bút danh Huyền Chip. Tôi dùng hai từ “may mắn” bởi giữa rừng thần tượng là những ca sĩ, người mẫu kia… lại chen vào một người thuộc về lĩnh vực viết lách. Rất mừng, bởi vì giờ đây giới trẻ đã có thêm một thần tượng là một tác giả trẻ, một cô gái tương đối xinh, có cá tính, dám đi du lịch phượt 25 nước chỉ với 700 usd. Người đọc hào hứng đón nhận tập 1, nâng tầm cô gái thành một “ngôi sao” và kỳ vọng rất nhiều ở tập 2.

Như quảng bá của tác giả và đơn vị phát hành là công ty Quảng Văn thì nội dung cuốn sách hoàn toàn 100% sự thật, nhưng khi tập 2 được xuất bản thì độc giả đã phát hiện ra nhiều điểm mà theo họ là dối trá. Với một tác phẩm văn học thì hư cấu chính là một yếu tố cấu thành. Còn tác phẩm của Huyền Chip thuộc thể loại du ký và được ầm ĩ quảng bá 100% sự thật thì mới là vấn đề đáng bàn cãi. Độc giả thời nay không ít những người có kiến thức sâu về phượt, và chính họ là là những người lật những điều dối trá mà em đã viết trong sách.

Sai lầm của em, theo tôi là rất nhiều thanh niên Việt Nam mắc phải, đó chính là tính dối trá. Dối trá không quá bất thường trong xã hội này. Bởi tính cách dối trá có thể vô tình hình thành bởi tác động môi trường xã hội. Trong một xã hội mà sự dối trá tồn tại hàng ngày, hàng giờ, thậm chí tồn tại trong các ngành cần chữ “đức” như y tế, “trung thực” như giáo dục, thậm chí ngành xăng dầu với lợi nhuận khủng khiếp mà vẫn than lỗ để tăng giá thì Huyền Chip có dối trá cũng là một việc thường. Tôi không trách thanh niên Việt Nam, bởi trong xã hội như vậy thì các em rất dễ dàng bị tiêm nhiễm thói xấu ấy.

hưng, điều đáng quý ở con người là biết nhận sai và sửa sai. Ở đây, Huyền Chip lại bảo vệ sự dối trá đến cùng. Và chỉ khi ngọn lửa thực sự bùng cháy, thì em mới gửi bản giải trình đến Cục Xuất Bản. Tuy nhiên, em chỉ mới thừa nhận sự cường điệu hóa trong cuốn sách mà chưa hề có một lời xin lỗi công khai.

Cục trưởng Cục Xuất Bản Chu Văn Hòa chia sẻ quan điểm cá nhân rằng ông phê bình những nhóm người trong cộng đồng đã ứng xử hẹp hòi, trích từng đoạn trong cuốn sách để yêu cầu Huyền Chip giải trình, thậm chí hô hào chiến dịch tẩy chay, xúc phạm một cô gái 9X.

Tuy nhiên, sách cũng là một sản phẩm, và độc giả cũng chính là người tiêu dùng. Việc người tiêu dùng phát hiện lỗi sản phẩm (bị quảng cáo sai sự thật) thì họ có quyền yêu cầu tác giả giải trình, thậm chí kiện để đòi bồi thường theo luật.

Việc tác giả viết những điều sai sự thật và có những hành vi ngoài pháp luật như vượt biên trái phép thì được cấp phép xuất bản, còn độc giả trích dẫn những điều chưa hiểu, cần làm rõ thì ông cục trưởng cho là hẹp hòi. Vậy xin hỏi ông cục trưởng, người mua sách không được quyền thắc mắc một sản phẩm không đúng quảng cáo của nhà sản xuất ?

ất nhiên, những gì Huyền Chip viết ra thì Huyền Chip tự chịu trách nhiệm về nội dung chứ Cục Xuất Bản cũng không thể nào kiểm chứng bản thảo có đúng với sự thật không nhưng việc ông Hòa đánh giá độc giả hẹp hòi là không ổn.

Huyền Chip và nhiều thanh niên bây giờ đang mắc căn bệnh nối dối. Nhưng họ lại không dám nhận lỗi. Có nhận lỗi cũng chỉ nhận theo kiểu cho có, và sai phạm bị phát hiện tới đâu thì… nhận lỗi tới đó. Nếu Huyền Chip đã nhận sai thì cũng phải nên có buổi họp báo để công khai xin lỗi độc giả.

Tôi nghĩ, độc giả cũng không khắt khe gì nếu em ứng xử một cách hợp lý, văn minh. Dẫu sao thì độc giả cũng nên cho Huyền Chip một cơ hội sửa sai.

Thiện Ngộ

*Bài viết thể hiện quan điểm của tác giả. Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ. 
(VOA)