Tổng số lượt xem trang

Thứ Bảy, 22 tháng 2, 2014

Lạy Trời cho Trung cộng cấm vận - Có nơi nào như thế này không? Từ đỉnh cao của sự kiêu ngạo đến tận đáy của bạc nhược…Đâu cũng thấy “thế lực thù địch”

Lạy Trời cho Trung cộng cấm vận

Phạm Tây Sơn FB
Hôm 16/2/2014, Đồng bào ta tự Tổ chức Lế kỷ niệm 17/2/1979 mà “đồng chí” Đặng tiểu Bình xua 600 ngàn quân sang dạy cho Việt nam một bài học vì ăn cháo đái bát , mà “ai ăn” chớ Đồng bào Việt nam “chính thống” không có ăn đâu nhé , thế mà nó giết tàn sát dã man bất kỳ ai , dấu tích , bia bảng…còn đấy.
Nhưng có một tên có lẽ Trung cộng nuôi nó từ hồi còn trong bụng mẹ , nó lại ra chửi rủa số Đồng bào đang chuẩn bị làm lễ dưới chân tượng đài Lý Thái Tổ – Mọi chuyện khác nó nói trong cơn say (ACE ở tại chỗ bảo nó hôi rượu lắm) thì trên mạng có quá nhiều bài viết và dẫn chứng “ném đá” nó rồi – Ở đây tôi muốn nói nó sợ Trung cộng cấm vận Việt nam, tôi lạy Trời cho nó cấm vận, sẽ nêu lý do sau, còn tên này nó sợ thì nó về nhà dẫn vợ con dòng họ nhà nó sang Trung cộng ở đi cho nó vững và ăn những thứ thải nó ban cho khôn một tí, chớ dòng giống Tiên Rồng Đại Việt không chấp nhận cái thứ bán nước này.
Theo số liệu của Châu Âu ,trong năm 2012 Việt nam bị Trung cộng lấy tới hơn 16 tỉ EURO (nhập siêu), trong khi đó Thái lan, Indo chỉ nhập siêu của Trung cộng trên dưới 3 tỉ EURO, còn Singapore thì xuất sang TC 30,8 tỉ , nhập của TC. 27,3 tỉ.
Trong cùng kỳ đó VN xuất sang EU 11,9 tỉ EURO và nhập chỉ 5,6 tỉ EURO – nhập của Mỹ 3,2 tỉ EURO ,xuất sang Mỹ 12,1 tỉ EURO.
Vậy là số ngoại tệ VN thu được về từ 2 thị trường Mỹ và Châu Âu là 15,2 tỉ EURO, cho nên về phải móc hầu bao thêm nữa để đưa cho Trung cộng để đủ 16 tỉ EURO – Vậy là như thế nào, ta đi bán dùm cho TC. mà còn bị “lỗ”!!!- Làm đầy tớ không công mà còn bị mạt nhà!!! (nói về Dân VN đấy , chớ bọn có quyền thì nứt đố đổ vách)
Bỏ qua mấy số liệu kinh tế mà nói đến thực tế ngay trước mắt còn kinh hãi về lâu về dài với mục đích là gây bệnh hoạn ngặt nghèo làm tàn lụi dần Dân tộc VN- Hàng ngày (từ lâu) báo chí “chính thống” đưa tin những hàng hóa độc hại tuồn sang VN ta đủ mọi thứ từ nhỏ nhất đến lớn nhất là tiền giả , như cái đĩa chẳn hạn ( cái phích nước) nó sản xuất chi 2 lớp cho tốn thêm tăng giá thành để nhét thêm những cái gói gì vào bên trong ( hay 1 cục trong phích nước) mà bao nhiêu Tiến sĩ khoa học gia của ta giờ này vẫn không ngâm kíu ,công bố rộng rãi cho đám Dân đen nó biết là cái giống gì, để làm chi???
Chưa kể qua mua bán lường gạt chụp giưt khắp nơi từ Bắc chí Nam làm điêu đứng các cơ sở sản xuất và Nông dân ta.- Hễ có ai báo động la lên là nó chạy mất , đến nối nó qua nuôi cá tôm ở Vũng rô và Cam ranh hàng bao nhiêu năm mà hỏi huyện không biết hỏi xã không hay….Ai có đọc Báo ta hàng ngày thì đủ thông tin kinh hãi về tên “bạn vàng” và là “đồng chí” của VN hiện nay , kể không chỗ đâu cho hết những thủ đoạn lưu manh quyết diệt Đất nước và Đồng bào ta.
Cho nên cầu cho Trung cộng cấm vận như lời hăm dọa của tên già Việt gian hôm 16/2 với Bà con ta ở Hà nội.
Mong tên này báo cáo lại với sếp Trung cộng của nó , Đồng bào ta chắc chắn là mong nó cấm vận ,chớ sợ nó quá rồi, nhân dịp này cúm gà tràn lan bên TC, thì cấm vận càng nhanh càng tốt chớ nó tuồn sang làm sao đỡ nổi hai ba thứ địch như thế.
Gõ đến đây thì đọc tin trên Songmoi.vn , Quảng ninh còn tính cho Trung cộng thuê đất đến 120 năm, thôi dâng mẹ nó cho rồi chứ cho thuê chi mà bền lâu dữ vậy, trong khi Đồng bào ta thì cũng chỉ lắm là 50 năm!?
Chưa hết tai hại đâu, còn cái việc nó trúng thầu những công trình trọng yếu, lãnh làm kiểu trọn gói mà mấy vị có học gọi là EPC rồi giao lại cho VN vận hành và sử dụng , thì hậu quả nhiều nơi các Trí thức có long với đất nước đã vạch ra rồi, mà cái tai hại nhãn tiền là sáng làm chiều hư , lại sửa cho nó tốn tiền thêm chơi “cả 2 bên đều có lợi” nhưng Dân VN thì “răng lợi chả còn”!!!!!

Phạm đình Tấn.

THÂN GỬI MẤY ANH AN NINH THANH HÓA.

Phương Bích

Trên facebook của một bạn tên là Vô Danh Khách, có đăng một bài viết như thế này. Mời các bác cùng đọc. Phương Bích chỉ  sửa lỗi chính tả, cách bố cục cho dễ hiểu hơn thôi. Đảm bảo không thêm thắt ý tứ nào khác.
Nói thật là e cũng chẳng định viết cho mấy anh đâu. Nhưng anh em biết nhau cũng lâu rồi, cũng nên có đôi lời để hiểu nhau hơn chứ nhỉ?
Bỏ qua việc anh vác thẻ ngành đi dọa dẫm bạn em.
Bỏ qua việc anh vác thẻ ngành đi về quê e gây cho hàng xóm sự nghi kị.
Bỏ qua việc anh cài cắm người bên cạnh phòng em,
Bỏ qua việc anh bảo thầy giáo bên phòng cộng tác hssv (Học sinh, sinh viên) hỏi chổ ở của em, để các anh ập vào kiểm tra.
Bỏ qua việc anh bêu xấu e bị nghiện ma túy trước mặt bố mẹ bạn e.
Bỏ qua việc tết e bị đuổi ra khỏi nhà,bỏ qua việc các anh bám đuôi theo dõi em.
Nhưng nói thật việc các anh đến nhà bạn gái em đe dọa, nói xấu thì các anh chơi bẩn “ĐÉO” chịu được.

Khi tâm sự với 1 người bạn, người ta bảo em sao không lên tiếng trước những trò bẩn của mấy anh,chẳng lẽ em sợ à. Hi! Nói thật là em hơi buồn cười. Năm em 18 tuổi, em đã viết đơn tình nguyện ra Trường Sa. Trong mắt em lúc đó Trường Sa là nơi cực kì nguy hiểm và khủng khiếp. Vậy theo các anh thì cái mạng e còn không tiếc, thì liệu em có sợ mấy trò của các anh ko?
Em không lên tiếng vì em thấy nó quá vớ vẩn. Quan trọng hơn em luôn nghĩ các anh và em, chúng ta cũng là con người. Đã là con người thì phải có nhận thức đúng không? Sở dĩ em bảo chúng ta đều là con người, chứ không phải đều cùng dân tộc hay cùng một nước, là vì các anh là người của nước CHXHCN VIỆT NAM, chứ có phải là người VIỆT NAM đâu. Đảng cộng sản mới 84 năm thôi, nhưng đất nước này đã 4 ngàn năm văn hiến rồi. Tuy nhiên trong mắt anh, đất nước 4 ngàn năm lịch sử đâu quan trọng bằng cái đảng cộng sản đang hấp hối nhỉ?
Anh là những người bảo vệ chế độ, hơn ai hết bản thân các anh là những người hiểu rõ cái thối nát của chế độ này nhất, đúng không? Chắc các anh không còn bảo tôi ngây thơ nghe theo kẻ xấu xúi giục, kích động đấy chứ? Các anh biết chỉ huy của các anh tham nhũng, lãnh đạo của các anh chạy chức chạy quyền, nhân dân đói khổ, nhưng các anh đâu dám đấu tranh? Các anh ăn bám trên tàn dư cái xấu của xã hôi. Xã hội càng rối ren, thì các anh càng có cơ hội hạch sách những người dân hiền lành, cam chịu. Xin cho em gọi các anh là chuột nhé, bởi vì chỉ có chuột mới thích rác rưởi, và càng nhiều rác nó càng kiếm ăn được.
Khi các anh cầm những đồng lương trên tay, đã bao giờ các anh tự hỏi nó từ đâu ra chưa?
Từ nhân dân đấy các anh ạ. Những người tần tảo, lam lũ làm việc để đóng 432 khoản thuế nuôi các anh. Nhân dân đấy. Đéo có đảng phải nào bỏ tiền ra đâu anh ơi.
Đã bao giờ các anh thấy xúc động, khi thấy những mẹ già còng lưng cõng gánh hàng rong đi bán, bị công an các anh đuổi chạy chối chết chưa? Trên vai mẹ không chỉ có gánh hàng rong đâu anh ơi. Đó là cuộc sống của cả một gia đình đấy.
Đã bao giờ các anh rung cảm khi thấy những đứa trẻ đi chân đất, ăn mặc mỏng manh tới trường trong thời tiết rét mướt chưa?
Chiến tranh qua lâu rồi, nhưng đất nước ta còn nghèo quá anh nhỉ. Tham nhũng như thế, độc tài như thế, toàn siêu nhân lãnh đạo như thế, mị dân như thế, thử hỏi không nghèo sao được phải không anh?
Thế nhưng các anh, những người được trao quyền bảo vệ người dân thì các anh đã làm gi?
Các anh chỉ tiếp tay cho kẻ xấu đàn áp nhân dân. Các anh chịu sự sai khiến của kẻ bán nước, bán dân tộc, cũng phải thôi. Lương tâm các anh có răng đâu mà biết cắn dứt, hay day dứt nhỉ?
Bố bạn gái em chỉ là một nông dân hiền lành thôi. Thế mà các anh huy động trưởng công an xã, công an viên, trưởng thôn,bí thư, đòan thanh niên, đến để đe dọa. Bạn gái em mới 21 thôi. Một con bé như thế mà các anh huy động cả một “hệ thống chính trị” ở địa phương vào cuộc đe dọa, ép phải chia tay với em như thế có anh hùng không? Tiền thuế của dân mà các anh dùng bừa bãi như thế, có đáng để em phải “phản động” không? Một người nông dân hiền lành, mà cứ vài hôm các anh lại đến đe dọa, như thế người ta lấy đâu thời gian làm việc? Họ hiền đấy, chứ gặp em là em đuổi thẳng rồi anh ạ. Vì anh bảo anh theo sát facebook của em, nên em viết vài dòng suy nghĩ cho anh đọc thôi.
Nhân đây em cũng nói cho anh rõ quan điểm của em nhé. Cho dù anh có làm gì cản trở đi nữa, dù anh có bỏ tù em đi nữa, thì em vẫn sẽ CHIẾN ĐẤU!
CHIẾN ĐẤU ĐẾN HƠI THỞ CUỐI CÙNG.CHIẾN ĐẤU ĐẾN KHI NÀO CÁI ĐẢNG ĐỘC TÀI NÀY SỤP ĐỔ. CHIẾN ĐẤU ĐẾN KHI NÀO CÁI CHẾ ĐỘ THỐI NÁT NÀY LỤI BẠI.
HỨA ĐẤY.

Nguyễn Minh Hòa - Có nơi nào như thế này không?

Ảnh bên: Anh Hoàng Văn Ngài qua đời ngay tại trụ sở công an thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Dak Nông
Không biết ở nơi nào trên trái đất này người dân tự làm đau mình, và hơn nữa tự sát hại mình nhiều đến thế ở ngay nơi có chức năng bảo vệ dân như ở xứ này không?.

Họ bị bắt, dẫn giải đến trụ sở công an, bị tam giam vì có lý do. Chỉ đến nửa đêm, hay sáng hôm sau người thì hồn lìa khỏi xác, người thì thân tàn ma dại, người thì tâm thần, kẻ thì nửa người nửa ma.

Gia đình có học làm đơn, người ít học thắc mắc con cái người ta lành lặn, do bị công an tra tấn nên ra nông nỗi này. Cán bộ cấp trên hỏi cấp dưới có không?. Không, không bao giờ, công an là do dân, vì dân. Vậy là vu khống. 

Dân không chịu, vậy đưa người làm chứng ra. Không ai. Thế là xong.

Lý do họ tự thương do giãy dụa trên đường dẫn giải, họ tự té từ trên ghế xuống đất, họ tự đập đầu vào tường khi bị xích vào cửa sổ, họ ủ bệnh trong lục phủ, ngũ tạng từ trước khi nhập vào trại tạm giam.
Bên ngoài xã hội: mẹ con, cha con, cả gia đình cùng nhau uống thuốc rầy, tười xăng vào mình, nhảy xuống sông, nhảy lầu sang thế giới bên kia. Họ tự chọn, không ai ép, chẳng ai xúi.
Công quyền kết luận: dân tự hành hạ mình, tự kết liểu cuộc đời mình, chính quyền vô can.

Nhà khoa học kết luận: rất nhiều người dân Việt Nam đang bị điên, nhưng có thể hệ quả sẽ là tốt hơn nếu tất cả đều điên, như thế sẽ tạo ra một trang thái và trật tự mới.

Có nơi nào như thế này không, hở trời?. 
 
 
 
 
  Nguyễn Minh Hòa
  (Quê choa)

Gia đình Ông Huỳnh Ngọc Tuấn liên tiếp bị chính quyền sách nhiễu

Chân Như, phóng viên RFA
Writer-Huynh-Ngoc-Tuan-305.jpg
Tù nhân lương tâm Huỳnh Ngọc Tuấn sau lần bị công an đánh gãy xương ngực, ảnh chụp hôm 07/01/2014.  Citizen photo  ===>>>

Hành vi hèn hạ

Những ngày qua, gia đình của tù nhân lương tâm Huỳnh Ngọc Tuấn đã bị hàng loạt các hành vi sách nhiễu, đe dọa từ chính quyền địa phương, theo Anh Huỳnh Trọng Hiếu thì đây là “những hành vi hèn hạ, nhắm đến gia đình có chủ đích”. Từ việc ông Huỳnh Ngọc Tuấn bị công an đánh bị gãy xương ức khi ông đang trên đường đi vận động để thành lập hội cựu tù nhân lương tâm hôm 31 tháng 12 năm 2013. Cho đến việc tối hôm 11 tháng 2 năm 2014, lúc 19h 30 tối, công an mặc thường phục tấn công gia đình ông bằng gạch đá, nhiều viên đá lát đường với kích thước lên đến 14cm và nặng 1,9kg làm vỡ mái tôm xi măng. Chưa ngừng tại đó, sự việc mới nhất xảy ra vào chiều ngày 20 tháng 2 năm 2014, ông và con trai là huỳnh trọng hiếu lại bị 8 côn đồ hành hung ngay trên đường, sau khi ông và con trai tham dự lễ giỗ ở Bình Định về lại Quảng Nam.
Anh Huỳnh Trọng Hiếu, với khuôn mặt bầm tím, bong môi vì những vết đánh đã chia sẻ với chúng tôi về sự việc này:
“Vào lúc 3 giờ 30 chiều ngày 20 tháng 2, sau khi từ biệt đoàn xe Quảng Trị do Thầy Thích Từ Giáo dẫn đầu, 2 cha con chúng tôi đón xe về nhà, vừa bước ra khỏi xe đế đến xe taxi đón về, thì bị một toán thanh niên khoảng 10 người bao vây và đánh tới tấp, đánh vào mặt, ngực, mũi, khiến chúng tôi không kịp trở tay, vì lực lượng quá đông nên các phật tử cảm thấy khiếp sợ quá, lo lắng chưa kịp nói được lời nào, sự việc xảy ra khá nhanh chóng. Họ tổ chức buổi hành hung đó quá chặt chẽ, chúng tôi không trở tay kịp, và những người dân xung quanh đó cũng không thể phản ứng gì được nhiều, sau đó họ giải tán, để lại chúng tôi nằm trên đường. Thầy Thích Từ Giáo đã đỡ ba con chúng tôi lên và chở về đến tận nhà.”
Khi mà gia đình chúng tôi càng ngày càng tham gia nhiều như vậy, càng vận động mạnh hơn thì ngay lúc đó sẽ vấp phải những đàn áp mạnh mẽ hơn từ phía nhà cầm quyền.
-Anh Huỳnh Trọng Hiếu
Tưởng chừng sự việc đã kết thúc, nhưng vào lúc 9 giờ 30 phút tối cùng ngày, gia đình lại bị khủng bố, khi vô số cá, nước bẩn và đá bị ném vào gia đình của ông, khiến gia đình không ngủ được vì mùi hôi thối bốc lên nồng nặc, làm ảnh hưởng đến sức khỏe không chỉ cho mọi thành viên trong gia đình, mà quan trọng hơn cho cả 2 cháu bé còn rất nhỏ. Chia sẻ với chúng tôi vì sao hành động khủng bố này tiếp tục diễn ra không ngừng, anh Huỳnh Trọng Hiếu cho biết:
“Những hành động thường xuyên và liên tiếp xảy ra trong thời gian gần đây xuất phát từ quá trình làm việc của gia đình chúng tôi. Chúng tôi thường xuyên tham gia vào các tổ chức xã hội dân sự, các tổ chức này luôn luôn đấu tranh đòi dân chủ nhân quyền cho VN. Khi mà gia đình chúng tôi càng ngày càng tham gia nhiều như vậy, càng vận động mạnh hơn thì ngay lúc đó sẽ vấp phải những đàn áp mạnh mẽ hơn từ phía nhà cầm quyền và một loạt những hành động gần đây đã thể hiện sự hoang mang và lo lắng từ nhà cầm quyền.”
IMG_3455-250.jpg
Anh Huỳnh Trọng Hiếu, với khuôn mặt bầm tím, bong môi vì những vết đánh của công an, côn đồ. Citizen photo.
Qua những hành động khủng bố của chính quyền đối với gia đình, Anh Huỳnh Trọng Hiếu cho biết cũng phần nào gây ảnh hưởng đến đời sống tinh thần cho gia đình anh, nhưng không vì đó mà làm cho họ mất đi sự định hướng trong công cuộc đấu tranh vì tự do dân chủ và sẽ không vì bất kỳ lý do nào mà bỏ đi lý tưởng của mình.
Khi được hỏi với những sự lên tiếng lâu nay của gia đình về những hành động khủng bố của chính quyền, có giúp làm giảm đi phần nào những đòn thù của chính quyền hay không, Anh Huỳnh Trọng Hiếu cho biết:
Gia đình chúng tôi đã lên tiếng rất nhiều nhưng rất tiếc, các cơ quan truyền thông đã không thật sự chú ý và lắng nghe tiếng nói và sự kêu gọi của chúng tôi, đó là một điều đáng tiếc. Chúng tôi nghĩ rằng tất cả những người đang đấu tranh hiện nay, những người bị sách nhiễu, bị đàn áp từ chính quyền VN, thì những người đó họ có đầy đủ tư cách và đáng lẽ ra phải nhận được sự quan tâm từ truyền thông quốc tế, những cơ quan truyền thông với tôn chỉ cổ súy cho quyền tự do ngôn luận, thì phải đưa tất cả những thông tin về những vấn đề bị đàn áp tại VN, để phát tán thông tin này cho mọi người cùng biết. Chúng tôi nghĩ một phần của việc bị hành hung ngày hôm nay, một phần là do truyền thông đã thực sự chưa quan tâm một cách đúng mức đến gia đình chúng tôi, chính vì vậy mà chính quyền lại dở ra những trò bẩn thỉu như vậy”.
Được biết trong những ngày kế tiếp gia đình tù nhân lương tâm Huỳnh Ngọc Tuấn sẽ tiếp tục công việc đấu tranh của mình,

Từ đỉnh cao của sự kiêu ngạo đến tận đáy của bạc nhược…

Song Chi -RFA

000_Hkg9489123.jpg
Người dân Hà Nội tự tổ chức tưởng niệm 35 năm Trung Quốc xâm lược Việt Nam. Ảnh chụp hôm 16/2/2014.AFP Photo
Rất nhiều lần tôi từng nghe người này người kia, băn khoăn, ngạc nhiên, tức giận và cả khinh miệt, lặp đi lặp lại những câu hỏi na ná nhau: Tại sao nhà cầm quyền VN lại hèn đến thế, hay tại sao Hà Nội lại sợ Bắc Kinh đến vậy?
Có người còn đưa ra những bằng chứng cụ thể như trước đây, trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ, người ta có thể nói những người cộng sản là cuồng tín, tàn ác, sắt máu nhưng đâu ai nói họ hèn, hay thậm chí, ngay trong cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung năm 1979, nhà nước cộng sản VN lúc đó cũng đâu đến nỗi bạc nhược trước Trung Cộng như bây giờ.

Miễn là được yên thân

Thật ra hỏi cũng tức là đã tự trả lời. Tôi tin rằng chúng ta hiểu vì sao họ lại hèn đến mức bất chấp mọi lời chửi rủa, không thể nào không lọt đến tai họ, của người dân, bất chấp việc bị Bắc Kinh coi khinh như giẻ rách, bất chấp cả việc mất đất mất đảo mất biển, mất dần chủ quyền, miễn là được yên thân. Cho dù chỉ là sự bình yên tạm bợ được Bắc Kinh ban phát tùy theo từng thời điểm, từng giai đoạn nằm trong sự tính toán chiến lược thâm sâu.
Có gì đâu. Trước đây nếu những người cộng sản chưa biết sợ khi lao vào cuộc chiến với Pháp, với Mỹ, vì khi đó ít ra họ còn có lý tưởng, còn có niềm tin vào đảng, vào tương lai sẽ xây dựng một nước VN xã hội chủ nghĩa tươi đẹp hơn, công bằng hơn các chế độ tư bản thối nát. Mọi đói nghèo lạc hậu khốn khó của hiện tại dễ dàng được đổ thừa cho chiến tranh và sau khi chiến thắng “ta sẽ xây dựng trăm nghìn lần hơn”.
Khi đó họ còn có các nước XHCN anh em bên cạnh, đặc biệt có hai đồng minh lớn là Liên Xô và Trung Quốc không tiếc sức tiếc của chi viện tối đa từ tài chính, lương thực, hàng hóa ở hậu phương cho tới vũ khí các loại ngoài mặt trận, chưa kể cố vấn, và cả lính Nga, lính Tàu đều có mặt tại VN.
Sau chiến tranh, khi mọi chuyện thỉnh thoảng lại được phía Liên Xô, Trung Quốc tiết lộ, người ta mới biết có đến hàng ngàn binh lính và cố vấn Liên Xô, hàng trăm ngàn binh lính Trung Quốc thuộc các binh chủng khác nhau đã trực tiếp chiến đấu bên cạnh người lính cộng sản Bắc Việt. Như đầu đề một bài báo trên đài RFA viết về ngày 30 tháng Tư từ mấy năm trước: “Chống “ngoại xâm” bằng “ngoại nhân”. Trên thực tế, cả hai miền Nam Bắc anh em một nhà đã lao vào đánh giết nhau chỉ với xương thịt da là của VN, còn lại mọi thứ là của các đồng minh đôi bên!
Trước đây nếu những người cộng sản chưa biết sợ vì họ còn lừa bịp được nhân dân tin vào tính chính nghĩa của cuộc chiến, tính chính danh của họ khi giỏi bưng bít thông tin, tuyên truyền một chiều.
Nhưng bây giờ mọi chuyện đã hoàn toàn khác. Lý tưởng không còn, niềm tin vào học thuyết Mác Lênin, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, tin vào sự toàn thắng của phe xã hội chủ nghĩa và sự triệt tiêu của các nước tư bản…tất cả đã vỡ vụn đến mức phải u mê lú lẫn lắm giờ này mới còn nói đến những điều như vậy. Nhìn quanh quất cả thế giới bây giờ chỉ có mấy quốc gia là còn do đảng cộng sản lãnh đạo, nhưng mỗi nước mỗi con đường, mỗi toan tính riêng, chẳng ai giúp ai, thậm chí hai nước “anh em, đồng chí” Việt-Trung còn đánh nhau vỡ mật mấy lần và vẫn đang trong tình trạng lấp lửng không biết liệu có lại xảy ra chiến tranh nữa hay không.
nguyenxuandienblog-305.jpg
Chiến thuật nhảy đầm của nhà cầm quyền VN nhằm ngăn chặn nhân sĩ trí thức tưởng niệm ngày chiến tranh biên giới 17/2. Ảnh chụp hôm 16/2/2014 tại Hà Nội.
Thời đó, miền Bắc dốc hết sức người sức của cho cuộc chiến, cả xã hội sống cần kiệm đơn giản, người ở hậu phương hay ở mặt trận, người lính hay tướng tá ai cũng vô sản gần như nhau, ai cũng đói khổ nên chẳng ai tỵ nạnh so bì ai.
Bây giờ mọi chuyện đã hoàn toàn khác. Dân đa số vẫn khổ nhưng đảng viên quan chức người nào cũng giàu, càng chức lớn càng giàu, càng giàu càng sợ mất, mà muốn giữ của, giữ ghế thì bằng mọi giá phải giữ cho chế độ tồn tại, bất chấp lợi ích của đất nước, dân tộc. Bây giờ nếu chiến tranh nổ ra, cái đám giàu có con ông cháu cha ấy chắc chắn sẽ tìm mọi cách để trốn tránh nghĩa vụ quân sự, không phải đã từng có ý kiến đề xuất cho đóng tiền thay việc thực hiện nghĩa vụ quân sự đó sao. Cuối cùng cũng vẫn là dân đen tiếp tục phải hy sinh xương máu, nhưng lần này liệu họ có cam chịu hy sinh để cho kẻ khác tiếp tục ngồi hưởng hết đời cha đến đời con, cháu, chắt…?
Bây giờ mọi chuyện đã khác. Đảng cộng sản không còn được người dân tin nghe nữa, không những thế, đảng cộng sản từ lâu đã trở thành một thế lực phản động, là lực cản lớn nhất cho con đường phát triển trở thành một quốc gia tự do, dân chủ, văn minh, giàu mạnh của đất nước.

Đâu cũng thấy “thế lực thù địch”

Không còn bạn bè đồng minh cũng không còn dân bên cạnh, nhìn đâu cũng chỉ tưởng tượng ra những “thế lực thù địch”, đảng cộng sản VN trở nên hèn là phải.
Đó là chưa kể, đánh nhau với các nước dân chủ như Pháp như Mỹ thì chính phủ các nước ấy còn biết sợ dân, sợ báo chí truyền thông, sợ dư luận quốc tế, nếu báo chí, dư luận và người dân mà làm căng quá thì họ phải rút khỏi cuộc chiến. Còn với một chế độ độc tài độc đảng như Trung Cộng, báo chí truyền thông, luật pháp nằm trong túi nhà cầm quyền, muốn định hướng báo chí viết cái gì, muốn nhồi sọ người dân ra sao mà chẳng được.
Lính Mỹ mà chết, báo Mỹ, dân Mỹ làm ầm lên. Còn Trung Cộng nếu có chết hàng vạn, hàng chục vạn lính lẫn dân thường, từ chỉ huy đến Tổng Bí thư vẫn chả hể hấn gì. Người dân Trung Quốc thì bị nhà cầm quyền tuyên truyền sai lệch, kích động lòng tự hào dân tộc, phần lớn chắc chắn sẽ lại tin và ủng hộ nhà nước của họ. Cứ nhìn cách báo chí, người dân TQ phản ứng với Nhật, Philippines, cho tới VN lâu nay thì rõ.
Đánh nhau với Trung Cộng là đánh nhau với một nhà nước bất chấp luật pháp quốc tế, nói một đằng làm một nẻo, vừa cướp đất, đảo của nước khác vừa la làng. Là đánh nhau với các thế hệ lãnh đạo có đủ mưu mẹo thâm sâu để có thể mua chuộc dàn lãnh đạo nước khác, bao vây, cô lập, lũng đoạn về kinh tế, chính trị, trong khi vẫn tiếp tục chiến lược “gậm nhấm” dần dần biển, đảo của nước khác song song với cuộc xâm lăng từ từ bằng con đường văn hóa. Với một sự tấn công mọi mặt như thế, đảng cộng sản VN phải vất vả chống đỡ hơn nhiều so với một kẻ thù trực diện, công khai ngoài chiến trường. Và họ thừa biết điều đó.
Chưa kể mấy chục năm thắm thiết như “môi với răng”, nhà cầm quyền TQ quá hiểu nhà cầm quyền VN, hiểu những điểm yếu chết người, hiểu cái hèn muốn giữ vững chế độ bằng mọi giá của họ. Và Bắc Kinh đã tận dụng tối đa những điểm yếu ấy. Qua thời gian, khi sự lệ thuộc về mọi mặt của VN vào TQ càng lớn, cái hèn của tập đoàn Ba Đình đối với tập đoàn Trung Nam Hải cũng càng lớn.
Cái hèn, cái sợ ấy càng nhân lên khi chính họ tự hù dọa mình và hù dọa nhân dân. Rằng TQ mạnh thế, to thế, đông thế, ta đánh nhau với nó chỉ có thua thiệt, chi bằng cố gắng duy trì mối quan hệ tốt giữa hai bên. Họ cảnh báo người dân đừng dại mà sa vào âm mưu kích động thù hằn, gây chia rẽ tình hữu nghị tốt đẹp giữa hai đảng, hai nước của các “thế lực thù địch”. Họ khuyên nhủ người dân rằng chiến tranh là tai họa, đánh nhau thì dân khổ, lại thêm những người vợ mất chồng, những bà mẹ mất con…
Sao bây giờ họ tử tế thế. Sao trước đây họ không nghĩ được như thế trong suốt cuộc chiến tranh chống Mỹ, bỏ qua bao nhiêu cơ hội có thể tìm kiếm hòa bình, thống nhất bằng một con đường khác, không phải hy sinh xương máu? Ngay cả khi đã có thỏa hiệp ngưng bắn, đình chiến trong 3 ngày vào dịp Tết Mậu Thân 1968, họ vẫn cứ phát lệnh “tổng tấn công”, ngay cả khi Hiệp định hòa bình Paris đã được ký kết, Mỹ đã rút khỏi VN, họ vẫn cứ quyết đánh chiếm miền Nam cho bằng được?
Câu trả lời chỉ vì khi ấy chưa chiếm được hết đất nước thì phải đánh chiếm cho bằng được, “dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn”, phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng. Còn bây giờ khi đã có được quyền lực thì sợ mất, phải giữ bằng mọi giá, trở thành hèn hạ bạc nhược, bất cứ người dân nào có suy tư đến vận mệnh đất nước cũng đều phải nhận thấy vì nó quá lộ liễu.
Hèn đến độ mọi thứ thông tin có liên quan đến “anh bạn vàng” và mối quan hệ bất xứng giữa hai bên đều trở thành “nhạy cảm”, cấm kỵ, Trung Cộng có lấn lướt, ngang ngược, chơi xấu đến đâu cũng nhịn.
Hèn đến độ sẵn sàng công khai đàn áp những cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc của người dân Sài Gòn, Hà Nội, bắt bớ, đánh đập, kể cả kết án tù dài hạn một số khuôn mặt nổi bật trong các phong trào biểu tình và những người lên tiếng mạnh mẽ nhất, trong khi tiếp tục sách nhiễu người thân của họ và tìm mọi cách triệt tiêu đường sống lẫn nghề nghiệp của người khác. Sẵn sàng sử dụng mọi trò bẩn, ném đá giấu tay, khi thì cho côn đồ ném mắm tôm, chất bẩn vào những người yêu nước, chặn đường gây sự tấn công, đạp ngã xe gây tai nạn, dùng đội ngũ dư luận viên, bồi bút viết bài bôi nhọ, vu khống những người dám dũng cảm lên tiếng v.v…
Các nhà lãnh đạo ở các quốc gia độc tài nhất chắc cũng thua xa mưu trí của nhà cầm quyền VN trong những chiêu trò đối phó với chính người dân của họ. Mới đây là dùng công an giả dạng công nhân đem mấy phiến đá ra đục cho rõ to, bụi mù mịt tại khu vực tượng đài Lý Thái Tổ, Hồ Gươm, Hà Nội để phá đám người yêu nước định tưởng niệm 40 năm ngày mất Hoàng Sa 19 tháng Một; lần sau, cũng ngay trước chân tượng đài Lý Thái Tổ, họ lại cho đám đảng viên, hưu trí ra nhảy nhót quay cuồng, vặn âm thanh thật to để ngăn chặn lễ tưởng niệm 35 năm ngày chiến tranh biên giới Việt-Trung 17 tháng Hai và 60 vạn hương hồn dân quân đã ngã xuống trong cuộc chiến ấy…Hà Nội có thể “hãnh diện” vì cái trò thô bỉ này của họ đã được báo chí khắp thế giới loan tải để dư luận thế giới tha hồ mà khinh bỉ họ.
Mở một cái ngoặc ở đây, tình cờ đọc được bài viết “Ký ức đám cưới của con trai cố Tổng bí thư Lê Duẩn: 17.2.1979” trên báo Thanh Niên của nhân vật chính, kể về cái đám cưới diễn ra ngay đúng vào ngày Trung Quốc tấn công VN trên toàn bộ các tỉnh biên giới phía Bắc.
Nếu như ở bất cứ một quốc gia dân chủ nào khác, có một cái đám cưới của con trai ông Tổng thống hay Thủ tướng khi chiến tranh xảy ra như vậy thì ông Tổng thống hay Thủ tướng đó sẽ lập tức hoãn ngay đám cưới con trai lại và lên truyền hình loan báo chiến tranh đồng thời trấn an người dân. Hoặc thậm chí phải đích thân bay ra chiến trường có mặt bên cạnh các người lính, nếu không muốn người dân chửi cho mục mả, đòi phải từ chức ngay. Đôi khi người kể chuyện cứ hồn nhiên kể lại một sự kiện nào đó và nghĩ rằng như thế chứng tỏ sự điềm tĩnh, coi là bình thường của các lãnh đạo VN khi chiến tranh bất ngờ xảy ra, nhưng người đọc lại hiểu ra những sự thật khác!
Khi một đảng cầm quyền có những người lãnh đạo vẫn thản nhiên ăn mừng một đám cưới khi hàng ngàn người lính lẫn người dân đã ngã xuống ngay trong ngày đầu tiên giao chiến với quân thù, thì cũng chẳng lạ gì nhiều năm sau, các thế hệ đàn em của họ có thể ra lệnh cho một thiểu số dân chúng nhảy múa ngay trong cái ngày nổ ra chiến tranh ấy!
Song Chi, 20/02/2014
*Nội dung bài viết không phản ảnh quan điểm của RFA.

Thư gửi mẹ

Boxitvn

Phan Nhật Quang
[clip_image001%255B3%255D.jpg]
Mẹ biết không có lúc con lén mẹ quay mặt vô tường
Khóc nức nở và không tin đây là mẹ
Nỡ lòng nào mẹ nhảy múa mẹ ơi!
Để sáng mai khi con tới trường
Những cặp mắt nhìn con đầy miệt thị
Hàng xóm nhìn mình với ánh mắt khinh khi.
Mẹ của con, người vong ân bội nghĩa
Vui ca hát trên máu đào dân tộc
Để kiếm tiền cho một bữa ăn sang.
Con thà chịu môt bữa cơm đạm bạc
Nhưng vẹn toàn đạo nghĩa mẹ ơi.
Ngày xưa ấy ba mươi lăm năm trước
Hơn sáu vạn người chết bởi kẻ xâm lăng
Những trẻ thơ như con mẹ bây giờ
Chết tức tưởi, mà không hiểu sao mình bị giết
Nỡ lòng nào mẹ nhảy múa mẹ ơi!
Liệt nữ Việt Nam ta tự bao đời
Đem máu đào rửa hờn cho dân tộc
Từ Triệu Ẩu, đến Trưng Nữ Vương
Hay dịu dàng như bà hoàng hậu Ỷ Lan
Mẹ thử tìm trong sử xanh dân tộc
Có người mẹ nào như mẹ đâu mẹ ơi!
Lòng con cay đắng nước mắt tuôn rơi
Mong cho người phụ nữ kia không phải là mẹ!
P.N.Q.
Tác giả trực tiếp gửi cho BVN

Bùi Hằng _ Mở đầu cho một cuộc đấu tranh mới.

Nguoibuongio

Công an quận Vấp Lò, tỉnh Đồng Tháp đang ra quyết định khởi tố Bùi Thị Minh Hằng về ” cản trở giao thông ”. Không cần phải suy nghĩ nhiều, tất cả người quan sát đều biết đó là một cái bẫy dựng lên để cáo buộc Bùi Hằng. Sự việc xảy ra khi nghe tin gia đình Nguyễn Bắc Truyển bị khó khăn do chính quyền đến khủng bố gia đình anh. Bùi Hằng và một số bạn bè cấp tốc lên đường với mục đích đến nhà Truyển để chia sẻ. Với mục đích nôn nóng mau mau đến hiện trường, không lẽ gì trên đường đi tốp người này bỗng nhiên lăn ra đường để cản trở giao thông. Nhất là lăn ra giữa đường ở một chỗ tỉnh lẻ. Nếu đã chủ ý ngăn cản giao thông thì họ không phải đi xa đến thế để cản trở giao thông  con đường tỉnh lộ của một tỉnh lẻ . Họ có thiếu gì chỗ trên đường quốc lộ đông người qua lại để làm điều đó. Nhất là trên quãng đường đi dài như vậy.?

Công an huyện Lò Vấp khởi tố bắt giam Bùi Thị Minh Hằng. Vở kịch này đã được con trai của Bùi Thị Minh Hằng, một thanh niên ngoài 20 tuổi cũng đọc được chứ chả cần đến người lớn. Bùi Thị Minh Hằng cái tên từng gây chấn động ở những thành phố đầu não đất nước, tại sao một huyện của tỉnh lẻ dễ dàng bắt và khởi tố chị nhanh gọn như vậy.
Người ta làm có chủ ý, làm ở tỉnh lẻ để sự việc diễn ra tại đó, xử lý  tại đó. Nơi xa xôi sẽ khiến cho gia đình, bạn bè khó có thể đến đó theo đuổi kiện cáo, đấu tranh đòi hỏi. Và nếu có thì cuộc đàn áp sẽ diễn ra khốc liệt, tránh được tai mắt của các phóng viên quốc tế vốn chỉ quen thuộc với địa bàn lớn như Hà Nội hay Hồ Chí Minh. Tin tức sẽ bị cô lập, phong tỏa dễ dàng như nhưng cuộc đàn áp xảy ra ở những tỉnh lẻ Trung Quốc.
Hôm nay trên FB của mình, Trần Bùi Trung, cậu con trai của Bùi Thị Minh Hằng đã xác quyết cuộc đấu tranh công lý cho Bùi Thị Minh Hằng sẽ được Trung triển khai ở Hà Nội. Không đi vào những đơn từ theo đuổi với bộ máy pháp luật như công an, tòa án, viện kiểm sát mất thì giờ bởi những hứa hẹn khiến người ta phải đi đi về về chờ đợi. Trần Bùi Trung quyết định sẽ gia nhập hội dân oan ở Hà Nội để đấu tranh cho mẹ mình trước những văn phòng quốc hội, chủ tịch nước, thủ tướng chính phủ.
Đương nhiên khị sự có mặt của con trai Bùi Thị Minh Hằng ở trong những tốp dân oan ngày càng đôngở Hà Nội kia sẽ thu hút dư luận nhiều hơn. Ít nhất hàng ngày sẽ có hàng chục phóng viên tự do đến đưa tin, hình ảnh về các hoạt động đòi công lý cho mẹ của Trần Bùi Trung. Tất nhiên các tốp dân oan cũng có dịp bày tỏ oan khiên của mình với dư luận. Một cuộc chiến thông tin sẽ diễn ra gay gắt, cập nhật hàng ngày…
 
Âm mưu dùng tỉnh lẻ như Đồng Tháp để cô lập sự đấu tranh cho Bùi Thị Minh Hằng chắc hẳn sẽ thất bại.
Chỉ còn một âm mưu cô lập khác là tác động vào những nhóm đấu tranh để rỉ tai tuyên truyền như kiểu đã từng làm với nhiều người đấu tranh khác, những luận điệu như Bùi Hằng có ” vấn đề đảng phái” hay ” vấn đề tiền nong” hoặc thích chơi trội gì gì đó sẽ tác động vào sự đố kỵ của một số người có tiếng là ” đấu tranh ”. Mục đích phân hóa tư tưởng của những người muốn đấu tranh tự do cho Bùi Thị Minh Hằng. Hôm nay chúng ta chứng kiến nhà văn Huỳnh Ngọc Tuấn đã phải xót xa tuyên bố ngừng viết, ngừng đấu tranh. Chắc hẳn không phải vì ông sợ, ông đã trải mười năm tù ngục, vợ mất, con thơ bơ vơ. Không lẽ gì ngày hôm nay ông sợ hãi sự trấn áp của chính quyền. Điều mà ông sợ những người đấu tranh khác đã bàng quan trước cảnh gia đình ông bị đánh đập, khủng bố thì đúng hơn. Nếu chúng ta hiểu được tâm trạng của gia đình Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Phương Uyên, Tạ Phong Tần cũng đã từng bị những lời xì xầm từ những nhà ” đấu tranh” như họ có ” vấn đề đảng phái, tiền nong, động cơ này nọ ” . Chúng ta sẽ hiểu được tâm trạng gia đình Huỳnh Ngọc Tuấn, Huỳnh Thục Vy.
Và tất nhiên thì Bùi Thị Minh Hằng sẽ không bị rơi vào cái bẫy cô lập dư luận như vậy, âm mưu này cũng sẽ thất bại.
Sự lựa chọn của Trần Bùi Trung ở Hà Nội ít nhiều sẽ né tránh được sự cô lập tuyên truyền này. Bởi Hà Nội với Bùi Thị Minh Hằng có quá nhiều đồng đội, anh chị em, bạn bè. Sự cố bài viết của Nguyễn Quang A hay Lã Việt Dũng về Bùi Thị Minh Hằng chỉ là sự góp ý, chứ nó không phải là sự chia rẽ hay đố kỵ như những luận điệu khác. Nếu chúng ta nhìn Bùi Thị Minh Hằng âm thầm, bền bỉ đi phát tài liệu nhân quyền, không hề có sự nóng giận va chạm không cần thiết. Chúng ta mới hiểu Bùi Thị Minh Hằng không phải là người nôn nóng như chị thể hiện. Mà những hành động phản đối gay gắt ấy chỉ diễn ra khi sự việc không còn phương án nào khả dĩ hơn.
Sắp tới khi Trần Bùi Trung ra Hà Nội sẽ cần đến sự hỗ trợ về truyền thông, quan tâm của anh em trong nước. Đặc biệt là khu vực Hà Nội và những vùng lân cận. Cũng cần đến hỗ trợ cho cháu ăn nghỉ trong những ngày đấu tranh đòi công lý cho mẹ. Thiết nghĩ hai việc này đều không khó khăn đối với anh em trong nước và đồng bào hải ngoại. Mọi cản trở về đăng ký tạm trú từ phía nhà cầm quyền đối với Trần Bùi Trung tại Hà Nội sẽ là những sự kiện truyền thông mà chính phía chính quyền tạo nên.
Thật đáng tiếc cho nhà cầm quyền khi phải đối diện với một cuộc đấu tranh lẽ ra không nên có.

Sự ra đi của Tướng Phạm Quý Ngọ - có là căn cứ kết thúc một vụ án đã khởi tố?

Đó là câu hỏi mà nhiều người người dân đang theo dõi vụ án Dương Chí Dũng và Dương Tự Trọng chờ câu trả lời nhất là đối tượng trong lời khai của Dương Chí Dũng trước tòa là Thượng tướng Phạm Quý Ngọ vừa về cõi vĩnh hằng tất cả có chìm sâu trong yên lặng?
Thông tin Thượng tướng Phạm Quý Ngọ từ trần thực sự là một thông tin bất ngờ đối với dư luận. Thông tin này càng thu hút sự quan tâm của dư luận nhiều hơn khi gần đây xuất hiện những đề nghị đình chỉ chức vụ đối với vị tướng này để phục vụ công tác điều tra do có lời tố cáo Thượng tướng Phạm Quý Ngọ có liên quan trực tiếp đến vụ Dương Chí Dũng bỏ trốn.
Theo thẩm phán Trương Việt Toàn, người đã công bố Quyết định khởi tố vụ án “Làm lộ bí mật Nhà nước” cho biết, trong trường hợp người bị tố cáo qua đời thì sẽ đình chỉ vụ án.
Trong phiên tòa xét xử Dương Tự Trọng và đồng phạm Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài hồi tháng 1, ông Dương Chí Dũng được triệu tập đến tòa với tư cách là nhân chứng.
Tại tòa, ông Dũng đã tố cáo Thượng tướng Phạm Qúy Ngọ chính là người đã “mật báo” để ông ta bỏ trốn...
Trao đổi với báo giới về những vấn đề liên quan đến lời khai của Dương Chí Dũng tại phiên xét xử Dương Tự Trọng, ThS, Luật sư Phạm Thanh Bình – GĐ Công ty Luật Bảo Ngọc (Hà Nội) chia sẻ rằng ông rất bất ngờ trước sự ra đi của Thượng tướng Phạm Quý Ngọ.
“Theo nguyên tắc Luật Hình sự của Việt Nam là truy trách nhiệm cá nhân cho nên bất cứ bị can, bị cáo nào chết thì đều đình chỉ điều tra huống hồ trong trường hợp này, Thượng tướng Phạm Quý Ngọ vẫn đang tại vị nên càng không thể khởi tố được”, LS Bình nói.
Về lời khai của Dương Chí Dũng, Luật sư Phạm Thanh Bình cho rằng: Đó không phải là một tình tiết gỡ tội cho Dương Chí Dũng. Và nếu cơ quan điều tra có xác định được lời Dương Chí Dũng khai liên quan đến tướng Ngọ là đúng hay không cũng không phải là một tình tiết gỡ tội cho Dương Chí Dũng. Nếu chứng minh được ông Phạm Quý Ngọ đúng như lời Dương Chí Dũng nói thì đó được coi là một tình tiết giảm nhẹ cho Dương Chí Dũng trong việc tố cáo tội phạm. Bây giờ Thượng tướng Phạm Quý Ngọ đã từ trần nên việc tố cáo kia cũng chẳng còn ý nghĩa với Dương Chí Dũng.
Theo luật sư Phạm Thanh Bình, trong thời gian tới sẽ khó có thể có thay đổi với mức án của Dương Chí Dũng.
Còn về vụ án “Cố ý làm lộ bí mật Nhà nước” đã được khởi tố tại phiên xét xử Dương Tự Trọng, Luật sư Phạm Thanh Bình cho hay: “Việc cơ quan chức năng khởi tố là để điều tra. Khi có thông tin liên quan đến Thượng tướng Phạm Quý Ngọ thì cơ quan chức năng sẽ xem xét. Nếu thấy vụ án đúng như lời Dương Chí Dũng khai và không còn ai liên quan đến vụ án này thì sẽ đình chỉ điều tra vụ án. Nhưng nếu cơ quan điều tra xác định còn có người khác liên quan đến việc để lộ thông tin cho Dương Chí Dũng bỏ trốn thì vụ án vẫn được tiếp tục”.
Trong một cuộc trao đổi khác với chúng tôi, Luật sư Chu Mạnh Cường – Trưởng Văn phòng Luật sư Danh Chính (Hà Nội) cho hay: "Qua diễn biến sự việc chúng ta thấy cho đến nay, mặc dù chưa có các quyết định hành chính, hay tố tụng chính thức liên quan đến các đối tượng liên quan đến lời khai cũng như nội dung tố cáo của Dương Chí Dũng, nhưng mọi người đều có thể nhận thấy sự việc có liên quan trực tiếp đến Thượng tướng Phạm Quý Ngọ".
Vị luật sư này cũng cho biết: Theo quy định của pháp luật, sau khi vụ án được khởi tố, cơ quan điều tra có thẩm quyền sẽ tiến hành điều tra, xác minh các thông tin tố giác tội phạm. Trong trường hợp sau khi điều tra, xác minh mà đi đến kết luận các thông tin đó là đúng sự thật thì sẽ xem xét, quyết định khởi tố bị can đối với các đối tượng có liên quan. Trong trường hợp xác minh, kết luận là không đúng sự thật thì sẽ ra quyết định đình chỉ vụ án.
"Tuy nhiên, theo thông tin báo chí đã đăng, ngày 18/02/2014, Thượng tướng Phạm Quý Ngọ - người đang bị Dương Chí Dũng tố cáo là nhận tiền từ Dương Chí Dũng, tiết lộ thông tin để Dương Chí Dũng bỏ trốn – đã từ trần.
Liên quan đến vụ án “Cố ý làm lộ bí mật nhà nước” có liên quan đến Thượng tướng Phạm Quý Ngọ, cho đến nay, chưa có một thông tin chính thức nào về kết quả điều tra, xác minh các thông tin tố cáo. Tuy nhiên, về mặt thủ tục tố tụng, Bộ luật Tố tụng hình sự, điều 164 quy định về Đình chỉ điều tra.
Theo đó: "2/ Cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra trong những trường hợp sau đây: a/ Có một trong những căn cứ quy định tại khoản 2 điều 105 và điều 107 của Bộ luật này hoặc tại điều 19, điều 25 và khoản 2 điều 69 của Bộ luật Hình sự”.
Điều 107 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định về những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, theo đó, khoản 7 quy định: “Khi người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác”.
Điều 108 Bộ luật tố tụng hình sự quy định về Quyết định không khởi tố vụ án hình sự: “1/ Khi có một trong những căn cứ quy định tại điều 107 của Bộ luật này thì người có quyền khởi tố vụ án ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự; nếu đã khởi tố thì phải ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố và thông báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân đã tố giác hoặc báo tin về tội phạm biết rõ lý do; nếu xét thấycần xử lý bằng biện pháp khác thì chuyển hồ sơ cho cơ quan, tổ chức hữu quan để giải quyết”.
Căn cứ các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, trong trường hợp này, thì khi Thượng tướng Phạm Quý Ngọ từ trần, nếu vụ án không liên quan đến các đối tượng nào khác, Cơ quan điều tra có thể xem xét việc ra quyết định Đình chỉ điều tra (theo điều 164 Bộ luật Tố tụng hình sự) hoặc người có quyền khởi tố vụ án xem xét ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố (theo điều 108 Bộ luật tố tụng hình sự)", Luật sư Chu Mạnh Cường nói.
Theo luật sư Trần Đình Triển, trong vụ án cố ý làm lộ bí mật nhà nước, nếu xác định được Thượng tướng Phạm Quý Ngọ có liên quan thì dù Thượng tướng Ngọ đã qua đời, các cơ quan có thẩm quyền vẫn phải làm rõ trách nhiệm dân sự để những người hưởng thừa kế của ông Ngọ thực hiện nghĩa vụ.
Theo tiến sĩ - luật sư Trần Đình Triển, Trưởng Văn phòng luật sư Vì Dân, nếu xác định ông Ngọ có liên quan đến vụ án “làm lộ bí mật nhà nước”, về mặt nguyên tắc tố tụng thì khi bị can chết thì sẽ phải quyết định đình chỉ điều tra. Nếu trong trường hợp vụ án “làm lộ bí mật” đó mà chỉ có một mình tướng Ngọ là bị can thì sẽ phải đình chỉ cả vụ án, đình chỉ cả khởi tố bị can.
Nhưng nếu vụ án đó không chỉ có mình ông Ngọ mà còn có những người khác nữa thì sẽ chỉ đình chỉ bị can với ông Ngọ và vẫn tiến hành điều tra như bình thường.
Ngoài ra, cơ quan điều tra sẽ phải làm rõ trách nhiệm dân sự, những vấn đề mà ông Ngọ có liên quan để những người hưởng thừa kế của ông Ngọ phải có trách nhiệm trước Nhà nước và trước những người khác.
Trước đó, trong vụ án xét xử nguyên Đại tá công an Dương Tự Trọng về tội tổ chức cho anh trai mình trốn ra nước ngoài, Dương Chí Dũng đã khai tại tòa rằng ông Ngọ chính là người mật báo cho mình trước khi có quyết định khởi tố mình vì những sai phạm trong vụ án tại Vinalines. Ông Dũng còn tố cáo ông Ngọ đã nhận của mình tổng cộng 510 ngàn USD để giúp "chạy án". Từ những lời khai trên, ngày 8.1, TAND TP Hà Nội đã khởi tố vụ án cố ý làm lộ bí mật nhà nước. Trả lời báo chí ngày sau đó, tướng Ngọ phủ nhận lời khai này.
PVTH
(Blog Bùi Văn Bồng)

Một sự xúc phạm vong linh đồng chí Phạm Quý Ngọ

Sau lời khai của Dương Chí Dũng về việc đồng chí thượng tướng thứ trưởng công an Phạm Quý Ngọ nhận hối lộ và mật báo cho Dũng chạy trốn, người ta cứ lo ngại sẽ có một vụ án mạng. Và người được dư luận cho là có thể bị “đột tử” là kẻ đã tố cáo đồng chí Phạm Quý Ngọ. Sẽ có ai đó muốn bản án tử hình được thực hiện càng sớm càng tốt, mà không phải đợi xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, cũng không đợi đội thi hành án ra tay. Kiểu gì cũng được, miễn là bắt được hắn ta câm lặng vĩnh viễn.
Không ngờ, người vội vã ra đi lại chính là đồng chí Phạm Quý Ngọ!
GIAI OAN PQ NGO

Nói gì thì nói, những người hết lòng trông mong vào sự thành công của Ủy Ban chống tham nhũng và Ban Nội Chính TW luôn muốn tất cả những kẻ tham nhũng đều phải bị lôi ra ánh sáng. Và ai cũng muốn những kẻ đã bị tố cáo phải được đem ra xử, không phải để kết tội bằng mọi giá, mà để cho cả xã hội được thấy những tấm màn bưng bít bị xé toang, để thấy rõ kẻ bị tố cáo là tội phạm thật hay bị tố oan. Mong lắm!
Và phải nói rằng cả xã hội đã sốt ruột chờ đợi kết quả điều tra xác minh lời khai của Dương Chí Dũng. Sự xuất hiện của ông Nguyễn Bá Thanh ở các phiên tòa gần đây cũng đem lại hy vọng cho nhiều người.
Nhưng có vẻ như quá khó để ông Nguyễn Bá Thanh và thuộc hạ của ông tiếp cận được những bằng chứng xác đáng liên quan đến vụ việc? Hay là vì các cấp lãnh đạo quá bận lo cho dân ăn Tết? Khó biết được. Chỉ biết rằng sau khi TAND Hà Nội tuyên bố khởi tố vụ án “làm lộ bí mật công tác” thì mọi việc tự nhiên lắng đi. Gần hai tháng đã trôi qua. Liệu có ai sốt sắng điều tra xác minh?
Rồi bỗng nhiên, ngày 18 tháng 2 có tin đồng chí Ngọ qua đời. Vẫn biết đồng chí đã bị ung thư gan và đã phải ghép buồng gan lấy từ bụng người con nuôi, nhưng vì dân thường chẳng được theo dõi thường xuyên tình trạng sức khỏe của đồng chí nên bất ngờ quá.
Và ngay ngày hôm sau, 19 tháng 2, đã có quyết định đình chỉ vụ án “làm lộ bí mật”!
Quá trễ tràng trong việc triển khai khởi tố, và quá nhanh nhảu trong việc quyết định đình chỉ vụ án! Thế là sao? Có vẻ như người ta chỉ đợi đồng chí ấy chết để quyết định bãi bỏ vụ xét xử?
Thú thật, dù không muốn nghĩ vậy, nhưng ý nghĩ ấy vẫn tự động chui vào đầu tôi. Cho đến khi…
Tôi bỗng thấy trên mạng cái bài viết: “Tâm nguyện cuối đời của thượng tướng Phạm Quý Ngọ”. Và tôi thật xúc động ngậm ngùi khi đọc những câu:
“Trước khi qua đời, tướng Ngọ có hai điều mong muốn đó là được đưa về quê an táng và cơ quan chức năng minh oan cho mình. “Anh ấy chẳng nói gì được nhiều. Nhưng anh ấy có hai điều mong muốn: Được đưa về an táng ở quê và cơ quan chức năng minh oan cho anh ấy” – Thượng tá Ngữ nghẹn ngào nói trong nước mắt.”
Thì ra thế! Đồng chí thượng tướng của chúng ta chỉ muốn được minh oan!
Và bây giờ thì tôi lại trách những ai vì muốn tránh rầy rà mà đình chỉ vụ án. Chẳng lẽ họ muốn anh ấy ra đi trong màn sương ngờ vực của người đời? Họ không muốn minh oan cho đồng chí của mình sao? Hay còn những lý do gì khác nữa?
Nguyễn Trần Sâm
(Lề trái) 

Thủ Tục Duyệt Xét Mới Áp Dụng Cho Chiếu Khán Phi Di Dân Và Vị Hôn Phu-Thê .(Vào Hoa Kỳ)

http://new.vietbao.com/p122a217637/thu-tuc-duyet-xet-moi-ap-dung-cho-chieu-khan-phi-di-dan-va-vi-hon-phu-the-p1#pDetail

Lê Minh Hải
Mục di trú và bảo lãnh do Văn Phòng tham vấn di trú Robert Mullins International đảm trách hằng tuần, nhằm mục đích thông báo các tin tức thời sự liên quan đến vấn đề đoàn tụ gia đình, rất hữu ích cho quý vị nào quan tâm đến việc bảo lãnh thân nhân. Đề tài trên đây cũng được thảo luận trực tiếp trên trang nhà của văn phòng, http://www.rmiodp.com, tiết mục Radio, vào mỗi tối thứ Tư, từ 7:00-8:00 giờ.
Trong một thông báo quan trọng vừa phổ biến, Tổng Lãnh sự Hoa Kỳ tại Việt Nam cho biết một thủ tục duyệt xét mới sẽ áp dụng cho những đương đơn xin chiếu khán (visa) phi di dân (hay không định cư) và diện vị hôn phu – vị hôn thê (tức diện fiancée). Nội dung bản thông báo này cho biết như sau:
Vào ngày 22 tháng 2 năm 2014, Tổng Lãnh Sự Quán Hoa Kỳ tại Thành Phố Sài Gòn sẽ ra mắt một dịch vụ hoàn toàn mới nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các đương đơn xin thị thực không di dân, cũng như các đương đơn xin thị thực hiện Hôn Phu/Hôn Thê (K1) và diện Thường Trú Nhân xin tái nhập cảnh (SB1), trong việc đặt lịch phỏng vấn, hướng dẫn thông tin về quy trình xin thị thực, và chuyển phát thị thực đến tận nhà – tất cả các dịch vụ chỉ với một mức phí tiêu chuẩn.
Thông báo mới về dịch vụ cấp thị thực
Kể từ ngày 22 tháng 2 năm 2014, Tòa Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại thành phố Sài Gòn sẽ cung cấp dịch vụ mới về cấp thị thực cho các đương đơn. Trung Tâm Hỗ Trợ Khách Hàng và trang web mới sẽ được thiết lập nhằm trợ giúp các đương đơn trong việc đặt hẹn phỏng vấn và trả lời các câu hỏi liên quan đến qui trình xin thị thực.
Thủ tục mới được thực hiện như sau:
1. Truy cập vào trang web http://www.ustraveldocs.com để điền và in phiếu nộp tiền ngân hàng.
2. Mang phiếu này tới ngân hàng HSBC hoặc Bưu Điện Việt Nam ở bất kỳ địa chỉ nào để đóng phí thị thực.
3. Điền mẫu đơn xin thị thực DS-160.
4. Đặt hẹn phỏng vấn tại trang web http://www.ustraveldocs.com hoặc gọi điện thoại tới Trung Tâm Hỗ Trợ Khách Hàng. Dịch vụ này hoàn toàn miễn phí.
5. Sau khi đặt hẹn phỏng vấn, vui lòng điền địa chỉ nhận hộ chiếu và thị thực. Nếu đơn xin thị thực được chấp thuận, hộ chiếu và thị thực sẽ được chuyển miễn phí đến đị chỉ đã đăng ký.
Trung Tâm Hỗ Trợ Khách Hàng:
Bắt đầu từ ngày 22 tháng 2 năm 2014, nhân viên hỗ trợ khách hàng sẵn sàng phục vụ quý khách từ thứ hai đến thứ sáu, từ 8:00 sáng đến 8:00 giờ tối (giờ địa phương) qua các số điện thoại ở Việt Nam và ở Hoa Kỳ để giúp đỡ quý khách đặt lịch hẹn phỏng vấn xin thị thực và cung cấp thông tin về quy trình xin thị thực. Ở Việt Nam, nhân viên hỗ trợ khách hàng sử dụng cả tiếng Anh và tiếng Việt. Ờ Hoa Kỳ, nhân viên sẽ sử dụng tiếng Anh.
Thông tin quan trọng dành cho đương đơn xin thị thực không định cư:
- Nếu quý khách đã đặt hẹn phỏng vấn thị thực VÀ đã trả lệ phí xin thị thực tại ngân hàng Citibank hoặc Eximbank, quý khách vui lòng có mặt tại Tòa Đại Sứ hay Tòa Tổng Lãnh Sự vào ngày đặt hẹn. Quy trình mới sẽ không ảnh hưởng đến quá trình nộp đơn của quý khách.
- Nếu quý khách chưa đặt hẹn phỏng vấn thị thực nhưng đã đóng phí xin thị thực tại ngân hàng Citibank hoặc Eximbank, quý khách sẽ không thể sử dụng hệ thống đặt hẹn mới. Quý khách nên cố gắng đặt hẹn theo hệ thống đặt hẹn hiện tại trước ngày 22 tháng 02, 2014. Nếu quý khách không thể đặt hẹn trước ngày 22 tháng 02, vui lòng liên hệ với Trung Tâm Hỗ Trợ Khách Hàng để được hướng dẫn thêm.
- Những đương đơn thuộc diện miễn phí xin thị thực (theo diện ngoại giao và trao đổi văn hoá) sẽ không thể sử dụng hệ thống đặt hẹn mới và nên liên hệ với Trung Tâm Hỗ Trợ Khách Hàng để được hướng dẫn thêm.
- Tòa Đại Sứ và Tòa Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ sẽ tiếp tục chương trình cấp lại thị thực mà không cần phỏng vấn dành cho những đương đơn đủ điều kiện. Đơn xin thị thực phải được gửi qua đường bưu điện Việt Nam. Vui lòng tham khảo trang http://www/ustraveldocs.com để biết thêm chi tiết. Tại thành phố Sài Gòn, chương trình nộp đơn xin cấp lại thị thực miễn phỏng vẫn vẫn tiếp tục tại cửa sổ đến hết tháng 3. Kể từ ngày 1 tháng 4, việc xin cấp lại thị thực sẽ chỉ được nộp qua Bưu điện Việt Nam.
Thông tin quan trọng dành cho đương đơn xin thị thực định cư:
- Trung Tâm Thị Thực Quốc Gia (NVC) vẫn tiếp tục lên lịch hẹn phỏng vấn cho hầu hết các loại thị thực định cư, trừ thị thực diện hôn phu/hôn thê (K).
- Dịch vụ chuyển phát thị thực cho đương đơn xin thị thực định cư là hoàn toàn miễn phí. Xem thông tin về thị thực tại trang http://www.ustraveldocs.com hoặc gọi đến Trung Tâm Hỗ Trợ Khách Hàng.
Hỏi Đáp Di Trú
- Hỏi: Trung Tâm Hỗ Trợ Khách Hàng mới có sẽ trả lời những câu hỏi liên quan đến những hồ sơ xin định cư không?
- Đáp: Trung Tâm Hỗ Trợ Khách Hàng sẽ chỉ trả lời những câu hỏi liên quan đến thủ tục duyệt xét mới những đơn xin chiếu khán diện không định cư và diện hôn phu – hôn thê.
- Hỏi: Nếu đương đơn muốn thay đổi ngày phỏng vấn diện chiếu khán định cư, qúy vị này nên liên lạc với Trung Tâm Chiếu Khán Quốc Gia (NVC) hay Tòa Lãnh sự Hoa Kỳ?
- Đáp: Để yêu cầu xin hoãn lại ngày phỏng vấn từ Trung Tâm Chiếu Khán Quốc Gia, đương đơn nên gửi thư yêu cầu đến Tòa Lãnh sự Hoa Kỳ.
- Hỏi: Hai tháng trước đây, Trung Tâm Chiếu Khán Quốc Gia nói rằng họ đã hoàn tất thủ tục hồ sơ xin chiếu khán định cư của người thân tôi, nhưng chúng tôi vẫn chưa nhận được ngày phỏng vấn. Chúng tôi nên làm gì?
- Đáp: Những hồ sơ đã hoàn tất tại Trung Tâm Chiếu Khán Quốc Gia phải đợi cho đến khi số chiếu khán có sẵn sàng tại Tòa Lãnh sự và cho đến khi thời khóa biểu phỏng vấn của Tòa Lãnh sự có thể chấp nhận phỏng vấn đương đơn. Đó là lý do tại sao một số hồ sơ tại Trung Tâm Chiếu Khán Quốc Gia phải đợi từ một đến ba tháng mới có ngày phỏng vấn. Quý vị có thể liên lạc với Trung Tâm Chiếu Khán Quốc Gia qua địa chỉ email NVCinquiry@state.gov.
Quý độc giả muốn có thêm tin tức cập nhật, xin theo dõi qua báo chí hay đón nghe chương trình phát thanh và phát hình trực tiếp của chúng tôi vào mỗi tối thứ Tư từ 7-8PM, trên các làn sóng 1430AM, 1500AM, và 106.3FM và trên trang nhà của văn phòng: http://www.rmiodp.com, mục Radio. Hoặc liên lạc với một văn phòng Robert Mullins International gần nhất: Westminster: Văn Phòng mới trong khu Hanoi Plaza, trên đường Bolsa (714) 890-9933, San Jose (408) 294-3888 (779 Story Road, phía trước Wal Mart), Sacramento (916) 393-3388 hay Email: info@rmiodp.com.
 

Lượm lặt - Đại học quân sự Hoa Kỳ nhìn lại cuộc chiến Việt-Trung 1979

CHÍNH TRỊ-PHÁP LUẬT
- Triển khai chương trình “Tháng ba biên giới” (CAĐN). Sự thật việc Võ Nguyên Giáp, Trần Hưng Đạo được bầu chọn là danh tướng kiệt xuất thế giới  -(Petrotimes)    —  Nhớ mãi về Anh – Thượng tướng Phạm Quý Ngọ  -(CSND / Petrotimes)   —    Nhìn lại các vụ nghi can qua đời, đình chỉ vụ án  -(VNN)

Thủy điện Don Sahong đe dọa cá heo Mêkông và đời sống dân cư hạ lưu  -(RFI)   —  Có 67 ổ dịch cúm gia cầm tại 17 tỉnh thành ở VN  -(RFA)
Trao đổi thư tín với thính giả  -(RFA)
Những phong tục đang dần ‘xấu xí’ của người Việt  -(TVN)
Ông Trần Văn Truyền, cựu Ủy viên Trung ương Đảng, cựu Tổng Thanh tra Chính phủ có bao nhiêu biệt thự?  -(NCT)    —  Nguyên tổng Thanh tra CP nói về vụ biệt thự ‘khủng’  -(VEF)    —   Choáng với tư dinh  -(NCT)
Bộ trưởng Thăng: Không thể “chạy” chức tổng cục trưởng   -(VNN)   —Soạn luật như trên trời rơi xuống  -(VNN)
Vì sao QH quyết định dừng lấy phiếu tín nhiệm?  - (PLVN)   —  Dừng lấy phiếu tín nhiệm: có đúng luật không?  -(TBKTSG)   —   Dừng lấy phiếu tín nhiệm là một bước lùi  -(RFA)
Bệnh nhân nguy kịch, tuyến trên ‘đẩy’ cho tuyến dưới  -(VNN)  – Đó là trường hợp Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ đùn đẩy 2 bệnh nhân trong tình trạng cấp cứu nguy kịch xuống tuyến dưới là Bệnh viện Đa khoa TP.Cần Thơ.
Mất công, mất của   -(TN)  -Cách đây 3 năm, hơn 3 triệu người nghèo cả nước vui mừng khi hay tin sẽ được hỗ trợ tiền điện. Nhưng giờ đây, rất nhiều hộ đang từ chối nhận số tiền này. Lý do: họ phải bỏ chi phí gấp nhiều lần để lĩnh được số tiền hỗ trợ này.

Con số và phát biểu của bộ trưởng  -Nguyễn Văn Tuấn  -(Boxitvn)

Kế hoạch thằng Bờm “lấy lại lòng dân”  – Hạ Đình Nguyên  -(Boxitvn)

Tâm thư gửi Chủ tịch nước vì chuyện cái hộ khẩu  -(Danquyen) -  Phải xóa bỏ chế độ hộ khẩu vì nó chỉ là công cụ để công an kiểm soát người dân chứ chẳng phải để quản lý xã hội. Dân Quyền đăng lại bài của Lê Chân Nhân trên Dân Trí
Yêu cầu nhà cầm quyền trả tự do cho Bùi Thị Minh Hằng và khởi tố vụ án gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong khi thi hành công vụ. -(Nguyễn tường Thụy)   >>>   TIN VỀ VỤ CÔNG AN HUYỆN LẤP VÒ BẮT CÁC NHÀ HOẠT ĐỘNG NHÂN QUYỀN
Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam luôn sát cánh bên chị Bùi Thị Minh Hằng  – (VnWHR)

Tập Hợp vì Nền Dân Chủ gửi thư Chúc mừng Hội CTNLT thành lập  – (FVPOC  = Hội Cựu Tù Nhân Lương Tâm)
Các bạn nghĩ thế nào?  -(Nguyễn quang Thạch FB)  -Một cựu chiến binh vừa nói “dân trí của đất này thấp nên thích làm nô lệ. Thể chế nào rồi cũng thích làm nô lệ”.
HÃY TỰ XÓA BỎ TÂM LÝ NÔ LỆ  -(Anh Chí FB)
NHÓM 3 CÔNG TY “ỦY THÁC ĐẦU TƯ” CHO NGÂN HÀNG HÀNG HẢI ĐỒNG LOẠT “NÍU ÁO” VIETINBANK  -(Tân Châu)
Sao Ngọ lại về quê? »  –   -(ĐCV)  - Khi cắm được lá cờ nửa đỏ nửa xanh lên nóc Dinh Độc Lập thì các anh về quê lấy đít trâu làm thước ngắm. Nơi quê nhà, các anh tự hỏi: Bí…
Góc nhìn giới trẻ: Quang Nam – Làm gì thì làm ngay đi, nhiều khi để đó sẽ thành không bao giờ!  -(DL)
Hùng Tâm – Giải thích sự thịnh vượng   -(DL)
Vụ Phạm Quý Ngọ: Đại tá công an Nguyễn Như Phong muốn “cứu” hay “giết” Bộ trưởng Công an Trần Đại Quang?   – (Danlambao)
3 nhà hoạt động bị CA Đồng Tháp bắt giam đã tuyệt thực sang đến ngày thứ 10 – (DLB)
Quá thời hạn tạm giữ, CA Đồng Tháp vẫn giở thói chây lỳ không thả người – (DLB)
Quảng Nam: An ninh côn đồ lại tiếp tục tấn công gia đình Huỳnh Thục Vy – (DLB)
Bộ Công an và sự lạm quyền   -Menam – (DLB)

Biển Đông:Malaysia đang hành động thay lời nói để đáp trả Trung Quốc  -(GDVN)
Thủ tướng Dũng đội sổ, quốc hội bỏ việc ‘lấy phiếu tín nhiệm’  -(NV) -  Vừa mới làm được một lần, Quốc hội CSVN đã tính bỏ việc “lấy phiếu tín nhiệm” đối với những nhân vật đứng đầu đảng và nhà nước.
Nhân quyền Việt Nam ‘vừa đánh, vừa đàm’  -(NV)
TBT Kim Quốc Hoa: “Đủ cơ sở đưa tin về biệt thự của ông Truyền” -(Soha) – Tổng biên tập Kim Quốc Hoa cho rằng, báo Người Cao Tuổi có đủ cơ sở về những vấn đề đã nêu liên quan đến khối tài sản của ông Truyền…   >>>   Phó Chủ tịch tỉnh Bến Tre nói về biệt thự của ông Trần Văn Truyền
TS Nguyễn Văn Vịnh: Những “thỏa thuận ngầm” tạo tiến sĩ giấy  -(ĐV)   —   HN có học Bình Dương không dùng ngân sách xây trụ sở? -(ĐV)
Hà Nội hết thuốc chích ngừa thủy đậu  -(NV)  — Dài cổ chờ vắc-xin  -(NLĐ)   >>>   “Nổ” như rừng Toàn Cầu   –   Bộ Giao thông Vận tải quy định miễn soi chiếu an ninh hàng không? -(SGGP)
Nhân sự cấp cao Việt Nam hiếm người xuất chúng  -(VnEx)
Mc Donald’s giúp dân Sài Gòn ‘khẳng định đẳng cấp’  -(NV) (thiên đường mà lại cần bọn giãy chết giúp khẳng định đẳng cấp á???)
Nợ không trả nổi, nông dân mang đàn gà đi ‘cấn nợ’  -(NV)

Nhảy múa nhưng không cười   -(Ngô nhân Dụng -NV) – Hôm qua, mới được coi, nhờ một blogger ở trong nước cung cấp cái “link,” cũng truyền trên mạng Bô Xít Việt Nam. Coi một đoạn thôi cũng cảm thấy máu nóng lên.
Đi tìm bà Nhu, gặp ông Đại úy (I)  – Trần giao Thủy – (DCVOnline)   >>>  Đi tìm bà Nhu, gặp ông Đại úy (II)
Thời đại mới của Chủ nghĩa Dân tộc   -   Zachary Keck – DCVOnline lược dịch
Ôn lại lịch sử cuộc chiến biên giới 1979 – 1989 (kỳ 4)  – (DĐCTM)  -Trương Tiểu Minh  – Air War College  -Montgomery, Alabama, Mỹ  – Nguyên tác :  –   Zhang Xiaoming, “China’s 1979 War with Vietnam : A Reassessment  – The China Quarterly, bộ 184, tháng 12 năm 2005, trang 851-874

Ôn lại lịch sử cuộc chiến biên giới 1979 – 1989 (kỳ 3)- (DĐCTM)    —   Ôn lại lịch sử cuộc chiến biên giới 1979 – 1989 (Kỳ 2)- (DĐCTM)    —   Ôn lại lịch sử cuộc chiến biên giới 1979 – 1989 (Kỳ 1)  -(RFA/ Viettan)
Năm 2014. Triều đại Cộng sản, năm thứ 70  -(Chepsuviet)
“Những trang web giả mạo” và “trò chơi quyền lực” (2)  -(Chepsuviet)  >>>  
Thân gửi mấy anh an ninh Thanh Hóa (Vô Danh Khách)  -Thongluan.
THÂN GỬI MẤY ANH AN NINH THANH HÓA.  -(Phương Bích)  -Trên facebook của một bạn tên là Vô Danh Khách, có đăng một bài viết như thế này. Mời các bác cùng đọc. Phương Bích chỉ  sửa lỗi chính tả, cách bố cục cho dễ hiểu hơn thôi. Đảm bảo không thêm thắt ý tứ nào khác.https://www.facebook.com/linhthuy.danhbo.31
BIỂU TÌNH PHẢN BIỂU TÌNH – TẠI SAO KHÔNG?  -(Phương Bích)
CHƯNG HỬNG CA..- Thơ Lê đức Dục – (Phương Bích)
Phạm Quý Ngọ lừa cắt lá gan của con trai một đồng đội (Huỳnh Bá Hải) -Thongluan.
LÁ GAN – QUẢ BÁO !  -(Minh Diện -BVB) – Đây là Bài cũ đăng lại  8/1/2014 trên BVB , và đã đăng trước đó rất lâu trên Blog này.

KINH TẾ
Rau Đà Lạt lại đổ cho bò ăn  -(TT)    —   Gà chưa chết vì cúm, nông dân trắng tay vì bị ép giá  -(VNN)   —  Rau quả vừa bán vừa cho  -(NLĐ)
Ngân hàng Nhà nước: nợ xấu của VN chỉ khoảng 9%  -(RFA) – Mới nói hơn 5% , họ bảo là trên 15% thì “sửa lại” là 9%!??- Vậy bao nhiếu là “đủ” -Không lúc nào công bố số liệu cho “công khai minh bạch ngay thẳng”
Chuyên gia Bùi Kiến Thành: Giao MobiFone cho ai là cả vấn đề!  -(GDVN)  –GS Võ Tòng Xuân: Lý do gạo Việt Nam thua kém Campuchia  -(ĐV)
Bình Định: Điều tra ba đại lý bán phân bón giả  -(PLTP)
Đau đầu nhất là xử lý sở hữu chéo  -(SGTT)

VĂN HÓA-THỂ THAO
GIÁO DỤC-KHOA HỌC
Đổi mới thi cử: Giải pháp ‘đường dài’  -(TVN)    —-  Thủ tướng ‘chốt’ phương án thi tốt nghiệp, đại học  -(VNN)
Không thể so sánh bản năng của con người với loài vật  -(TN)   —  Vụ chi tiền tỷ “bôi trơn” ở Thanh Hoá: “Tôi thật sự rất sốc!”  -(GDVN)

XÃ HỘI-MÔI TRƯỜNG
Lau miệng bạn nhậu… bị đánh chết  -(Infonet)    —  Tội phạm “nhí” lại tiếp tục sa lưới  -(PT)
Ngồi tù oan 23 năm, được bồi thường hơn 6 triệu đô  -(VNN) – Mỹ.    —  Ném xác chồng xuống sông rồi gào khóc giả vờ  -(VNN)
Sao phóng viên phát hiện được, đăng kiểm lại không?  -(TT)    >>>   Giải pháp nào ngăn chặn công an xã lạm quyền?   >>>    CSGT không cho chuyển hàng qua xe khác
Nhiều người thót tim khi xe khách lao vào quán cà phê  -(TN)   >>>   Hàng trăm người dân bao vây đòi ‘xử’ hai thanh niên trộm chó
Hà Tĩnh: Thầy giáo cầm đầu nhóm côn đồ truy sát dân làng   -(LĐ)   —  Trưởng công an xã nổ súng bắn chim, đạn trúng 2 người dân   -(DV)
Đại gia chơi trội rải hơn 300 triệu xuống đường  -(Soha) -bên Trung cộng.   >>>   Nam sinh đâm chết bố vì bị bắt đi học
Tàu cánh ngầm quá nhiều lỗi: Các anh đăng kiểm có thấy “cay” không?  -(PLTP)
Tướng Cao Ngọc Oánh nói gì về vụ “đại tiệc trong trại cải tạo”?  -(PLTP)   >>>  Bắt bốn kẻ có súng và lựu đạn buôn heroin

QUỐC TẾ
 Phản ứng sau khi thỏa thuận chấm dứt khủng hoảng tại Ukraina được ký  -(VOA)
Trung Quốc xử trùm xã hội đen giàu nhất nước  -(TT)   —  Tài phiệt TQ bị buộc tội giết người và các tội khác theo kiểu mafia  -(VOA)

Nữ doanh nhân TQ bị loại khỏi CPPCC  -(RFA)   – Một nữ doanh nhân Trung Quốc từng được xếp hạng là một trong 50 người giàu nhất Hoa Lục vừa bị sa thải khỏi một tổ chức chính trị cấp cao sau khi truyền thông trong nước cho hay bà này có liên hệ với một cựu quan chức đang bị đối mặt với những cáo buộc hối lộ.  Bản tin AFP cho biết, bà Lưu Nghinh Hà, 42 tuổi, được xem là người giàu thứ 46 ở Trung Quốc với khối tài sản trị giá 660 triệu USD đã không còn là thành viên của Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc (CPPCC)
Chính phủ Thái hứa trả nợ, nông dân rút đe dọa chiếm sân bay  -(RFI)    —  Bà Yingluck sẽ rời ghế Thủ tướng Thái Lan?  -(RFA)
VENEZUELA : Tổng thống Maduro huy động lính nhảy dù để vãn hồi trật tự  -(RFI)
Liên Hiệp Quốc yêu cầu Úc xét lại chính sách với người tỵ nạn -(RFI)
Nam-Bắc Triều Tiên có thể kéo dài chương trình đoàn tụ gia đình bị ly tán -(RFI)   — Chế độ Bắc Triều Tiên có thể bị đưa ra tòa án quốc tế -(RFI)
Nhóm chủ chiến al-Shabab tấn công phủ tổng thống Somalia  -(VOA)
 Philippines mua 12 máy bay chiến đấu của Hàn Quốc  -(VOA)   –  Chiến binh giả làm phụ nữ tấn công trụ sở cảnh sát Afghanistan  -(VOA)
Cam Bốt xử phúc thẩm một nhà báo Pháp về tội “tổ chức mãi dâm” -(RFI)   — Indonesia thiết lập khu bảo tồn cá đuối hai mồm khổng lồ  -(RFA)
Nổ giữa khu mua sắm Bangkok, 6 người bị thương  -(VNN)
Các thành phố lớn Trung Quốc nằm trong tầm bắn tên lửa Ấn Độ   -(TNO)   —   Con trai Giang Trạch Dân làm Hiệu trưởng đại học Công nghệ Thượng Hải  -(GDVN)    —    Truyền thông Trung Quốc đã lộ nước cờ tàn vụ điều tra Chu Vĩnh Khang?  -(GDVN)
Nhật Bản cấp bách tăng cường khả năng tác chiến đổ bộ đoạt đảo  -(GDVN)
Nhật Bản bắt giữ tàu cá Trung Quốc cùng 9 thủy thủ  -(PLTP)   –  Nhật bắt 10 thủy thủ Trung Quốc   -(NLĐ)
Siết vòng vây quanh Chu Vĩnh Khang?  -(NLĐ)
Tổng thống Mỹ “ủng hộ mạnh mẽ” Tây Tạng   -(NLĐO)
Mỹ bác tin tổng thống Ukraine tháo chạy  -(NLĐ)



Thạch Khê- Hà Tĩnh: Dân khổ vì mỏ sắt (22/02/2014)
Mỏ sắt Thạch Khê (Thạch Hà, Hà Tĩnh) có trữ lượng lớn nhất khu vực Đông Nam Á. Dự án này được triển khai với kỳ vọng sẽ biến Hà Tĩnh từ một tỉnh thuần nông thành một trong những trung tâm công nghiệp nặng lớn nhất cả nước. Nhưng, sau hơn 4 năm đi vào hoạt động, dự án đã khiến người dân 6 xã bị ảnh hưởng, lâm vào cảnh "tiến thoái lưỡng nan”...


Đất sản xuất của người dân thôn Thượng Hải xã Thạch Hải bị bùn,
cát vùi lấp có độ dày từ 0,5 đến 2m

Dự án mỏ sắt Thạch Khê bắt đầu triển khai từ tháng 9-2009 và được quy hoạch trên diện tích gần 3.900 ha nằm trên địa bàn 6 xã của huyện Thạch Hà gồm Thạch Khê, Thạch Đỉnh, Thạch Hải, Thạch Bàn, Thạch Trị và Thạch Lạc với gần 5.000 hộ dân bị ảnh hưởng. Đến nay, những hệ lụy mà người dân vùng mỏ sắt phải gánh chịu là rất lớn. Hàng trăm hecta đất nông nghiệp bị bùn, cát vùi lấp; nước ngầm bị tụt khiến cây cối, hoa màu chết khô; ô nhiễm môi trường; công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, xây dựng khu tái định cư chậm…tất cả đã kéo lùi sự phát triển của các xã bị ảnh hưởng bởi dự án. 

Chỉ riêng xã Thạch Hải, đến nay đã có 30ha đất nông nghiệp bị tụt nước ngầm khiến cây cối, hoa màu chết khô, không thể khôi phục được; 20ha đất sản xuất bị bùn lấp phải bỏ hoang. Với 361 ha đất phải đền bù nhưng đến nay chỉ mới đền bù được 220ha; vẫn còn 59 ngôi mộ bị sạt lấp mất hài cốt và 1.500 ngôi mộ đã kiểm đếm nhưng chưa hỗ trợ đền bù…Đời sống nhân dân Thạch Hải gặp rất nhiều khó khăn, nguy cơ tái nghèo rất cao. Đang cố vớt vát miếng đất nhỏ bị bùn, cát phủ dày từng mảng để trỉa ít lạc, ông Võ Văn Luận, ở thôn Thượng Hải, xã Thạch Hải than thở: "Không có đất để làm nữa tôi đành mở miếng nho nhỏ này để trồng ít lạc nhưng cũng không hy vọng gì, ít bữa chắc lại bị lấp hoặc bị chết cháy hết thôi. Không có công ăn việc làm suốt ngày ngồi không cũng chán”. Còn ông Nguyễn Văn Hùng, xóm trưởng cho biết: "Thượng Hải chịu ảnh hưởng nặng nề nhất do bãi thải của mỏ sắt nằm trên địa phận của xóm. Xóm có tổng diện tích là 32ha nhưng đã bị lấp mất 14ha (kể cả quy hoạch bãi thải lẫn bị bùn, cát vùi lấp) với độ dày từ 0,5 đến 2m. Mấy năm nay người dân trong thôn hoang mang không biết làm nghề gì để kiếm sống, phụ nữ và người trung tuổi không có công ăn việc làm, chỉ biết đi mót củi để bán. Thôn chúng tôi có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất xã là 18%, hàng năm có 8 đến 9 hộ thoát nghèo trong khi đó lại có 11 đến 12 hộ tái nghèo. Toàn thôn có 140/168 hộ thiếu gạo. Nguồn nước thì bị ô nhiễm nặng, màu đục như màu bùn. Đặc biệt, người dân trong thôn mắc bệnh ung thư ngày càng nhiều”.

Bà Nguyễn Thị Vựng, thôn Thượng Hải (Thạch Hải) ngậm ngùi chia sẻ: "Nhà tôi có 9 người với 3 thế hệ sống trong một ngôi nhà nhỏ nên rất phức tạp. Chúng tôi đã nhiều lần yêu cầu cấp đất để tách hộ nhưng không được. Trước đây còn có thể cấy lúa, trồng lạc để sinh sống nhưng giờ thì đất bị vùi lấp hết rồi nên không biết làm gì mà ăn. Mùa gió Lào thì đất, cát bay ào ào vào nhà nên ở cũng không yên. Sống ở đây ô nhiễm, chật chội, chỉ mong họ cho đi đâu thì đi ngay chứ sống mãi thế này chúng tôi không thể chịu được”.

Ông Nguyễn Trung Chiến, Chủ tịch UBND xã Thạch Hải cho biết: "4 năm qua, người dân xã Thạch Hải phải lãnh rất nhiều hậu quả từ dự án mỏ sắt Thạch Khê. Không chỉ đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn mà an sinh xã hội cũng bị đe dọa. Đơn thư đề xuất, kiến nghị của người dân gửi đến xã ngày càng nhiều. Tâm lý người dân hết sức hoang mang, lo lắng”.

Cũng là xã chịu ảnh hưởng của dự án mỏ sắt Thạch Khê, xã Thạch Bàn phải chung số phận giống như Thạch Hải. Đặc biệt, chỉ trong vòng chưa đầy 6 tháng, bờ đê khe Trung Dân và Trung Miệu của xã Thạch Bàn đã bị vỡ hai lần khiến hàng trăm hộ dân bị ngập và phải chạy lụt trong đêm. Nguyên nhân là do Công ty cổ phần sắt Thạch Khê làm bãi thải xây đường đê bao ngăn dòng chảy về các kè hướng Thạch Hải, Thạc Đỉnh, Thạch Khê và đào đường ngay chỗ đường đi thoát nước dẫn đến vỡ kè, ảnh hưởng đến người dân. Được biết, gần đây hai khe này đang được đầu tư cải tạo. 

Ông Nguyễn Trường Sơn, Phó Chủ tịch UBND xã Thạch Bàn chia sẻ: "Đối với Thạch Bàn thì người dân vùng gần bãi thải như xóm 5, xóm 6, xóm 7 bị ảnh hưởng nặng nề nhất, vào mùa hè khi mỏ sắt đi vào khai thác thì bụi bặm rất nhiều, có nhà phải mắc màn để ăn cơm còn mùa đông thì bị lũ lụt. Bây giờ xã chỉ mong sớm có cơ chế để các hộ dân bị ảnh hưởng được tái định cư, sớm ổn định đời sống”.

HẠNH NGUYÊN

Ôn lại lịch sử cuộc chiến biên giới 1979 - 1989 (Kỳ 1)

Mặc Lâm – RFA

Cuộc chiến âm thầm Việt Nam - Trung Quốc
2011-06-09
Những cuộc chiến tranh gần đây giữa Việt Nam và Trung Quốc cho thấy sự theo đuổi liên tục ý đồ bành trướng nước lớn của phương Bắc chưa bao giờ ngưng nghỉ.
JPEG - 41.6 kb
Chiến tranh biên giới Việt - Trung năm 1979. Trung Quốc đem quân tấn công Việt Nam trên toàn tuyến biên giới giữa hai nước (hướng mũi tên đen). Source Wikipedia
Mặc Lâm tìm hiểu quá trình lấn đất chiếm biển của Trung Quốc qua bài viết sau đây nhằm làm sáng tỏ hơn một vấn đề đang gây phẫn nộ trong dư luận Việt Nam sau sự cố tàu Bình Minh 02.
1979 - Trung Quốc tấn công toàn bộ biên giới phía Bắc
Rạng sáng ngày 17 tháng 2 năm 1979, Trung Quốc đã đem một lực lượng hùng hậu tiến vào tấn công Việt Nam. Áp dụng chiến thuật biển người bất kể tổn thất, quân đội Trung Quốc tiến công trên toàn tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam. Có tổng cộng 9 quân-đoàn và hai sư-đoàn tiến chiếm các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Hoàng liên Sơn, Lai Châu. Quảng Ninh, và Hà Tuyên.
Đến ngày 28 tháng 2 năm 1979, chỉ trong vòng 11 ngày ngắn ngủi quân Trung Quốc chiếm được các thị xã Lào Cai, Cao Bằng, Hà Giang và một số thị trấn. Các cơ sở vật chất, kinh tế ở những nơi này bị phá hủy triệt để.
Mãi đến ngày ngày 5 tháng 3 năm 1979, do áp lực và sự phản đối của quốc tế, Bắc Kinh tuyên bố hoàn thành mục tiêu chiến tranh là dạy cho Việt Nam một bài học. Đến ngày 18 tháng 3 năm 1979 quân Trung Quốc đã hoàn toàn rút khỏi Việt Nam.
Theo tuyên bố của phía Trung Quốc: quân Trung Quốc có 6.900 người chết, 14.800 người bị thương và 240 người bị bắt. Quân Việt Nam có 60.000 người chết và bị thương, 1.600 người bị bắt.
JPEG - 23.2 kb
Quân Trung Quốc đánh Lạng Sơn năm 1979. Source DSWC china
Cuộc chiến tranh biên giới 1979 tuy ngắn ngủi nhưng tổn thất về người và tài sản của nhân dân và quân đội Việt Nam phải được gọi đích danh là nghiêm trọng nếu so với cuộc chiến chống lại miền Nam kết thúc trước đó 4 năm. Sai lầm chiến lược và chiến thuật nào đã đẩy Việt Nam từ một đồng minh thân thiết trở thành kẻ thù của Bắc phương trong một thời gian ngắn ngủi? phải chăng dã tâm của Bắc Kinh đã được Hà Nội nhìn thấy nhưng do chủ quan và tư tưởng hữu nghị đã làm cho lãnh đạo Hà Nội mất cảnh giác và xem thường khả năng tiến hành chiến tranh của Trung Quốc?
Thiếu-Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, Đại-sứ Việt Nam tại Trung quốc từ năm 1974 cho tới năm 1987 cho biết những nguyên nhân chính khiến Việt Nam chủ quan với người đồng chí này như sau:
1) Thứ nhất là tình báo của chúng ta quá kém hai nữa là chúng ta quá tin vào những người lãnh đạo Trung Quốc. Quá tin vào tình hữu nghị Việt Trung ! Chúng ta cũng sơ hở ở chỗ là trước cuộc chiến tranh 79 thì tôi biết Trung Quốc đã làm rất nhiều con đường từ nội tỉnh của họ ra biên giới Việt Nam, thế nhưng mình không ngờ rằng đến năm 79 họ tiến quân theo những con đường đó sang đánh Việt Nam. Đó là một kinh nghiệm.
2) Thứ hai nữa là mình mất cảnh giác. Tôi nhớ lại bắt đầu thì chúng ta cũng đã có báo động rồi nhưng đến trước hôm 17 thì Tổng Tham mưu trưởng của chúng ta lại hạ cấp báo động. Cho nên ngày 17 thì họ đánh chúng ta và chúng ta không có quân chủ lực ở trên đó, chỉ có dân quân và bộ đội địa phương thôi.
1984 - Lấn đất và tàn sát người Việt
Sau cuộc chiến 1979 Trung Quốc còn nhiều lần tiến hành cuộc chiến tranh lấn đất về sau. Từ ngày 2-4 đến 28-4-1984, Trung Quốc đã cho quân tập trung pháo binh bắn phá khu vực Vị Xuyên. Trong suốt 26 ngày đêm Trung Quốc đã bắn tổng cộng 30.000 viên đạn pháo cối các loại vào các điểm cao phòng thủ của Việt Nam và lấn sâu vào lãnh thổ VN khoảng 2km.
Cuộc tập kích bất ngờ cao điểm 1509 thuộc xã Thanh Thủy, huyện Yên Minh, tình Hà Giang có lẽ là dã man nhất của quân đội Trung Quốc. Bất kể công pháp quốc tế về tội ác chiến tranh, lính Trung Quốc giết 3.700 bộ-đội Việt-Nam, dùng súng phun lửa đốt xác, đốt luôn cả thương binh còn sống vùi xuống mồ tập thể, biến cao điểm này thành địa danh Lão Sơn của họ.
JPEG - 17.9 kb
Bộ đội Việt Nam bị bắt làm tù binh trong cuộc chiến biên giới 1979. Source DSWC China
Những khu vực bị Trung Quốc lấn sang biên giới cho tới nay vẫn không thể đòi lại được, mặc dù nhiều cuộc đàm phán biên giới kéo dài từ năm 1989 tới nay. Các cột mốc di động vào sâu trong lãnh thổ Việt Nam khiến toàn bộ Ải Nam Quan và phân nửa thác Bản Giốc biến mất vẫn đang là nỗi nhức nhối của người Việt.
Đó là trên đất liền, những vết tích vẫn còn lại dọc theo biên giới phía Bắc về cuộc chiến tranh xâm lược 1979.
1974 và 1988 - Trung Quốc đánh chiếm các hải đảo Việt Nam
Trên biển Trung Quốc đã đánh chiếm Hoàng Sa vào năm 1974 khi hòn đảo này đã từ rất lâu được chính quyền Việt Nam Cộng Hòa gìn giữ với đầy đủ chứng từ về chủ quyền lãnh thổ.
Trước đó vào năm 1956 lợi dụng thời gian Pháp rút khỏi Việt Nam và Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa chưa ổn định, Bắc Kinh đánh chiếm một phần Hoàng Sa. Năm 1974, lợi dụng thế muốn rút quân của Mỹ, và sự suy yếu của Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, Bắc Kinh mặc cả với Mỹ trên lưng Việt Nam để đánh chiếm toàn bộ Hoàng Sa.
Đảo Hoàng Sa là đảo có người ở. Trên đảo lúc ấy có đài khí tượng và một đại đội lính Việt Nam Cộng Hòa đồn trú.
JPEG - 21.2 kb
Khu trục hạm HQ4 Trần Khánh Dư tham dự trận hải chiến với Trung Quốc năm 1974.Source lichsuvn.info
Trận hải chiến xảy ra vào lúc 10 giờ sáng ngày 19 tháng Giêng. Theo lời của phó Đề Đốc hải-quân Hồ Văn Kỳ Thoại nguyên Tư-lệnh Hải-quân Vùng 1 Duyên-hải là một trong các chỉ huy tham dự trận đánh với Trung Quốc cho biết thì thiệt hại của Việt Nam là 58 sĩ-quan và thủy-thủ đã bỏ mình trên chiến hạm. Trung Quốc đã chính thức chiếm đảo Hoàng Sa từ ngày đó đến nay.
Nhà sử học Dương Trung Quốc cho biết nhận định của ông về sự kiện lịch sử này, ông nói:
- Có thể nói sự kiện Hoàng Sa đặt trong tổng thể cái bối cảnh lúc đó là một bi kịch của dân tộc mình. Vào thời điểm ấy Mỹ đã có ý định rút khỏi Việt Nam và họ đã thỏa hiệp với Trung Quốc để lấy cơ hội đó để lấy Hoàng Sa. Trong khi đó thì giữa người Việt Nam với nhau thì đang kết thúc một thời kỳ lịch sử và tôi cho rất là bi hùng, đã thực hiện việc thống nhất quốc gia lãnh thổ.
- Có thể nhìn nhận lại sự kiện đó như một bi kịch và nó để lại một bài học rất lớn rằng lợi ích quốc gia luôn luôn phải đặt lên hàng đầu. Những thế lực nước ngoài, đặc biệt là những nước lớn họ luôn luôn lợi dụng những cơ hội bao giớ cũng dành vị thế thuận lợi cho họ chứ không bao giờ cho một nước nhỏ nào khác. Còn riêng đối với những người lính Cộng hòa hay chính phủ Việt Nam Cộng Hòa thực hiện nghĩa vụ bảo vệ tổ quốc đó thì việc làm của họ là việc làm có công với đất nước và đáng đựơc tôn vinh.
Vẫn chưa ngừng ở đó, sáng ngày 14 tháng 3 năm 1988 tàu hải quân Việt Nam mang số hiệu HQ 604 đang thả neo tại đảo Gạc Ma phát hiện 4 tàu lớn của Trung Quốc tiến lại gần đảo và cử người vào cắm cờ trên đảo.
Với số đông áp đảo, lính Trung Quốc đã ngang nhiên vào đảo giật cờ Việt Nam xuống và tấn công bộ-đội hải-quân Việt Nam đang đóng trên đảo đồng thời tấn công tàu HQ 604. Sau một cuộc giao-tranh ngắn-ngủi tàu 604 của Việt Nam bị thủng nhiều lỗ và chìm dần xuống biển.
Trong trận chiến Gạc Ma ngày 14 tháng 3 năm 1988, Việt Nam có 3 tàu bị bắn cháy và chìm, 3 người tử-trận, 11 người bị thương, 70 người bị mất tích. Sau này Trung Quốc đã trao trả cho phía Việt Nam 9 người bị bắt, 61 người vẫn mất tích và được xem là đã tử trận.
Sau ngày 14 tháng 3 ấy Việt Nam đã làm gì đối với những anh hùng liệt sĩ đã bỏ mình cho tổ quốc?
Chính phủ Việt Nam sau khi nối lại sợi giây hòa hiếu với Trung Quốc cũng là lúc mọi chi tiết về các cuộc
JPEG - 25.1 kb
Hình ảnh cuối cùng của tàu HQ 604 trước khi bị Trung Quốc bắn chìm cùng toàn bộ thủy thủ đoàn tại đảo Gạc Ma ngày 14-03-1988 .RFA screen capture
chiến tranh do Trung Quốc phát động đều bị ngăn cấm không cho báo chí nhắc tới với giọng văn truy cứu trách nhiệm hay khơi dậy lòng yêu nước của dân chúng. Nhà báo Tống Văn Công nguyên Tổng biên tập báo Lao Động nói cảm nghĩ của mình về việc này như sau:
- Cái vụ Gạc Ma Trung Quốc thì khi nó bắn mình nó có quay phim, thế rồi nó chiếu phim lại cho hải quân chúng nó coi, trong khi đó thì mình không dám nhắc lại. Lẽ ra cái ngày đó mình phải tổ chức kỹ lưỡng mà thậm chí mời nó đến dự nữa và đọc diễn văn đàng hoàng sòng phẳng coi như đó là một cái tội ác không được tái diễn nếu muốn hai bên bảo vệ 16 chữ vàng và bốn tốt.
Thái độ cả tin vào thiện chí của người láng giềng này hay còn nguyên nhân nào khác của Hà Nội đã khiến Trung Quốc ngày một lấn sâu hơn vào lãnh hải Việt Nam, và mới đây nhất là vụ cắt dây cable tàu Bình Minh 2 làm cho người Việt Nam càng thêm phẫn nộ sau những cuộc chiến không cân sức nhằm lấn chiếm đất đai biển đảo của mình.
Nguồn: RFA
 

Ôn lại lịch sử cuộc chiến biên giới 1979 - 1989 (Kỳ 2)

Trận Thanh Thủy 1984

Sau đây là đoạn video ghi lại lời kể vị tư lệnh mặt trận Thanh Thủy, Hà Giang vào năm 1984:

Và sau đây là lời kể lại của các cựu chiến sĩ pháo binh sư đoàn 313 trong cùng trận này:

Theo lời của các nhân chứng nêu trên thì câu hỏi về kế hoạch tiến quân của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam đã bị lộ hoặc đã bị chuyển cho quân Trung Quốc từ trước vẫn còn là thắc mắc lớn, đặc biệt là vai trò của Tổng Cục 2 Quân Đội.

Xương máu của hàng ngàn chiến sĩ Việt Nam đã phải trả cho sự phản bội này.  

 

DienDanCTM

 

Ôn lại lịch sử cuộc chiến biên giới 1979 - 1989 (kỳ 3)

QUAN HỆ VIỆT - TRUNG QUA LỜI CÁC TƯỚNG TÁ ĐANG CẦM QUYỀN
Thứ Trưởng Quốc Phòng Trung Tướng Nguyễn Chí Vịnh

1. Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh chia sẻ rằng:
“Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy với tất cả các quốc gia trên thế giới. Nhưng nếu Việt Nam cần sự ủng hộ, đồng cảm, hợp tác và phát triển thì còn có ai hơn một nước Trung Quốc xã hội chủ nghĩa láng giềng, với hơn 1 tỷ 350 triệu dân, đang phát triển, có vị thế và uy tín ngày càng cao trên thế giới, một khi các đồng chí tôn trọng độc lập chủ quyền của Việt Nam và mong muốn Việt Nam cùng phát triển?”.
Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam cũng cho hay: “Các thế lực thù địch hiện có hai luận điệu chống phá. Thứ nhất, là Việt Nam dựa vào Mỹ để chống Trung Quốc. Thứ hai, là Việt Nam nhượng bộ để Trung Quốc lấy đất, lấy biển Việt Nam. Đây là các luận điệu bất lợi cho Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng như quan hệ Việt Nam – Trung Quốc.

2. “…Đại tướng Phùng Quang Thanh ghi rõ: Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục đẩy mạnh các hoạt
Bộ Trưởng Quốc Phòng Đại Tướng Phùng Quang Thanh
động diễn biến hòa bình; lợi dụng các hoạt động dân chủ, nhân quyền, tôn giáo nhằm xóa bỏ chế độ XHCN, chia rẽ quan hệ hữu nghị Việt – Trung, đang đặt ra những khó khăn, phức tạp mới cho Đảng, Chính phủ, nhân dân và quân đội hai nước.
“Quân đội hai nước chúng ta cần tăng cường tình đoàn kết, hợp tác chặt chẽ và bảo vệ thành quả cách mạng của mỗi nước. QĐND Việt Nam đặc biệt coi trọng việc phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác toàn diện và bền vững với Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, đây là chủ trương nhất quán, là ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại, quốc phòng của Việt Nam”, Đại tướng Phùng Quang Thanh khẳng định…”

3. Đại tướng Phùng Quang Thanh bày tỏ lòng biết ơn Đảng, Nhà nước và nhân dân Trung Quốc đã ủng hộ, giúp đỡ Việt Nam trong các cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược.
Bộ trưởng khẳng định Việt Nam luôn coi trọng quan hệ hữu nghị, đoàn kết truyền thống, đối tác hợp tác chiến lược toàn diện với Trung Quốc theo phương châm 16 chữ và tinh thần 4 tốt.
Bộ trưởng khẳng định chính sách quốc phòng hòa bình, tự vệ của Việt Nam là Việt Nam không tham gia các tổ chức liên minh quân sự, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ của mình để chống lại nước khác.

4. “Thủ tướng khẳng định Đảng, Nhà nước, nhân dân Việt Nam hết sức coi trọng và mong muốn cùng với Đảng, Nhà nước và nhân dân Trung Quốc tiếp tục đưa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện giữa hai nước ngày càng đi vào chiều sâu, theo đúng phương châm 16 chữ và tinh thần 4 tốt. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho rằng điều này phù hợp với lợi ích thiết thực cho nhân dân hai nước, góp phần vào hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực.”

5. ĐẠI TÁ-PGS-TS-NGND Trần Đăng Thanh: “KHÔNG ĐƯỢC QUÊN ƠN TRUNG QUỐC”
Sau đây là đoạn audio ghi âm lại cuộc nói chuyện của Đại tá-PGS-TS-NGND Trần Đăng Thanh, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng giảng về Biển Đông cho các lãnh đạo Đảng ủy khối, lãnh đạo Đảng, Tuyên giáo, Công tác chính trị, Quản lý sinh viên, Đoàn, Hội thanh niên các trường Đại học-Cao đẳng Hà Nội.
Đại Tá Trần Đăng Thanh
[Trích] Đối với Trung Quốc hai điều không được quên: họ đã từng xâm lược chúng ta nhưng ta cũng không được quên họ đã từng nhường cơm xẻ áo cho chúng ta. Ta không thể là người vong ơn bội nghĩa.
Trung Quốc là anh bạn núi liền núi, sông liền sông, chung một Biển Đông, chung tình hữu nghị. Hoặc là nói như ông Hồ Cẩm Đào: sơn thủy thì tương liên, lý tưởng thì tương thông, văn hóa thì tương đồng, vận mệnh thì tương quan…
Còn Mỹ, các đồng chí nhớ người Mỹ chưa hề, chưa từng và không bao giờ tốt thật sự với chúng ta cả … Nếu có tốt chỗ này, có ca ngợi chúng ta chỗ kia, có ủng hộ chúng ta về Biển Đông chẳng qua vì lợi ích của họ. Họ đang thực hiện “thả con săn sắt, bắt con cá rô”. Họ chưa bao giờ tốt thật sự với chúng ta, tội ác của họ trời không dung, đất không tha.
Trước mắt là chúng ta phải tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng chúng ta, sự điều hành của Chính phủ.
Nếu trường đại học nào còn để sinh viên tham gia biểu tình bất hợp pháp trước hết khuyết điểm thuộc về các đồng chí Hiệu trưởng và Ban Giám hiệu trường đó, trước hết thuộc về Bí thư Đảng ủy – phòng quản lý sinh viên của trường Đại học đó.

Theo nhật ký yêu nước.
 

Ôn lại lịch sử cuộc chiến biên giới 1979 - 1989 (kỳ 4)

Đại học quân sự Hoa Kỳ nhìn lại cuộc chiến Việt-Trung  1979

Trương Tiểu Minh
Air War College
Montgomery, Alabama, Mỹ
Nguyên tác :
 Zhang Xiaoming, “China’s 1979 War with Vietnam : A Reassessment
The China Quarterly, bộ 184, tháng 12 năm 2005, trang 851-874 

Lời người dịch : Thấm thoát đã hơn 30 năm từ ngày cuộc chiến Việt-Trung nổ ra năm 1979, và mặc dù cả hai nước đều cho là mình đã thắng, số lượng tài liệu được Trung Quốc và Việt Nam công bố về cuộc chiến tranh này vẫn còn rất ít. Bài viết dưới đây của một học-giả gốc người Trung Quốc (hiện giảng dạy tại trường Cao-Đẳng Không-Chiến (Air War College) thuộc Bộ Không-Quân Mỹ) được đăng vào năm 2005 trên tờ China Quarterly, một tạp-chí quốc-tế có uy tín xuất bản tại Anh, là một công trình học thuật đáng chú ý về cuộc chiến tranh này. Để giữ sự trung thực so với nguyên bản, người dịch đã cố gắng truyền đạt cách diễn tả của tác giả. Khi đọc bài này, nhiều độc giả Việt Nam có thể sẽ cho rằng một số nhận xét của tác giả là rất chủ quan và nhiều vấn đề là khá nhạy cảm. Tuy nhiên bài viết này, ở mức độ nào đó,
cung cấp nhiều thông tin đã được kiểm chứng và có giá trị sử liệu. Hy vọng bài viết này cũng tạo nên một sự thôi thúc để Trung Quốc, và đặc biệt là chính quyền Việt Nam, cung cấp thêm nhiều thông tin và bằng chứng để các nhà sử học cũng như thế hệ tương lai có một cái nhìn đầy đủ và chính xác hơn về cuộc chiến tuy ngắn ngủi nhưng đẫm máu này.
Mục đích của bài báo này là nhằm trình bày về cuộc chiến tranh giữa Trung Quốc và Việt Nam vào năm 1979. Bài báo nhắc lại những mối quan hệ lịch sử giữa Trung Quốc với Việt Nam và ảnh hưởng của những mối quan hệ này lên những toan tính chiến tranh của Bắc Kinh, cũng như vai trò của Đặng Tiểu Bình, chiến lược quân sự và sự chuẩn bị của Trung Quốc cho cuộc tấn công. Bài báo cũng chỉ ra cách thức tiến hành chiến tranh của Bắc Kinh mang màu sắc đặc thù Trung Quốc như thế nào: tính toán khi nào và sử dụng ra sao sức mạnh quân sự, mục tiêu quan trọng trong chiến tranh, và cơ sở trong việc nhận định về thắng lợi. Bài báo cũng điểm lại những hậu quả của cuộc xung đột ở cả hai lĩnh vực chính trị và quân sự, những bài học đã được rút tỉa dưới con mắt của chính người Trung Quốc. 
Đầu năm 1979 Trung Quốc đã xâm lược Việt Nam, theo cách nói của lãnh đạo Trung Quốc là để “dạy cho Việt Nam một bài học” nhớ đời. Mặc dầu Bắc Kinh tự cho là đã thắng lợi nhưng nói chung trong giới học giả vẫn tồn tại nhiều tranh cãi cho rằng cuộc chiến tranh đã không diễn ra như Trung Quốc mong đợi vì trong cuộc xung đột này Quân Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc (QGPND) đã tác chiến hết sức tồi tệ. Chính Trung Quốc chứ không phải Việt Nam đã rút ra một bài học từ cuộc chiến này. Các tài liệu của Trung Quốc về cuộc chiến tranh này vẫn được niêm phong rất cẩn mật do đó các thông tin về cuộc chiến không chỉ chắp vá chủ quan mà còn đáng ngờ về tính xác thực. Mặc dù đã có một ít tài liệu bằng tiếng Anh, nhưng phần nhiều chỉ là đồn đoán và không chính xác, lưu truyền không chính thức ở Hồng Kông và Đài Loan. Gần đây do việc kiểm soát thông tin của Bắc Kinh có phần lỏng lẻo hơn nên nhiều tài liệu lưu hành nội bộ về khả năng và kinh nghiệm của QGPND trong chiến tranh 1979 đã thấy xuất hiện rải rác trong các thư viện tại Mỹ và có thể truy cập trên Internet. Thêm vào đó, hồi ký của một số sĩ quan cao cấp Trung Quốc cũng đã cho thấy nhiều thông tin giá trị.
Dựa trên các tư liệu nghiên cứu của một số học giả hàng đầu, bài viết này cố gắng trình bày cái nhìn của người Trung Quốc đối với cuộc chiến Việt-Trung năm 1979. Đầu tiên là thảo luận về các mối quan hệ lịch sử giữa Trung Quốc và Việt Nam và ảnh hưởng của các mối quan hệ này trên quyết định tấn công Việt Nam của Bắc Kinh, cũng như vai trò của Đặng Tiểu Bình. Kế đến là xét lại vai trò của QGPND bao gồm chiến thuật, chiến lược của Trung Quốc cho cuộc xâm lăng và những quan điểm riêng của QGPND về vận hành bộ máy quân sự. Cuối cùng là điểm lại những tác động của cuộc xung đột, trên cả hai lĩnh vực chính trị cũng như quân sự, và những bài học rút ra bởi chính người Trung Quốc. Bài báo cũng đưa ra những dẫn chứng về cách thức tiến hành chiến tranh của Bắc Kinh, chỉ ra tính đặc thù kiểu Trung Quốc trong tác chiến: không ngần ngại sử dụng sức mạnh quân sự sau khi tính toán một cách cẩn thận khi nào và sử dụng ra sao; mục tiêu quan trọng của QGPND là giành và giữ thế chủ động trong tác chiến, và nền tảng cơ bản mà người Trung Quốc đã dựa vào đó để đánh giá thành công về mặt quân sự, đó là lợi thế địa chính trị hơn là hiệu suất tác chiến. Mặc dù đã bị người Việt Nam làm khốn đốn nhưng QGPND đã hoàn thành được mục tiêu chiến lược của Bắc Kinh, buộc Việt Nam phải chia lửa cho phòng tuyến ở biên giới phía bắc, và buộc quốc gia này phải giảm phiêu lưu quân sự ở khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, QGPND vẫn chưa rút ra được bài học từ cuộc chiến tranh này, đó là truyền thống và triết lý quân sự của Trung Quốc đã quá lỗi thời, điều này có thể cản trở công cuộc hiện đại hóa thay đổi bộ mặt của Trung Quốc trên trường quốc tế.
Yếu tố văn hóa lịch sử
Bắc Kinh và Hà Nội đã từng là đồng minh thân thiết kể từ cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất vào những năm đầu thập niên 1950. Thế thì tại sao sau đó nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa lại đi đến quyết định tiến hành chiến tranh với nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam vào cuối năm 1978 ? Theo lý lẽ của Bắc Kinh thì dường như nguyên nhân là do “giấc mộng xưng bá” của Hà Nội ở khu vực Đông Nam Á; gây hấn ở biên giới với Trung Quốc và xâm phạm vào lãnh thổ của Trung Quốc; ngược đãi người Hoa ở Việt Nam; đi theo Liên Xô trong lúc nước này đang muốn mở rộng ảnh hưởng ở Đông Nam Á. Các nhà quan sát vào thời điểm đó và nhiều nghiên cứu sau này cho rằng mục tiêu hàng đầu của Bắc Kinh là làm giảm bớt áp lực quân sự lên Campuchia, buộc quân đội Việt Nam phải chia lửa ở mặt trận thứ hai. Robert Ross (học giả người Mỹ, hiện là giáo-sư ở Boston College - ND) thì cho rằng việc Trung Quốc sử dụng quân đội chống lại Việt Nam không phải là phản ứng trước sự bành trướng của Hà Nội ở Đông Dương, mà là phản-ứng trước sự về hùa của Việt-Nam với Liên-Xô nhằm bao-vây Trung-Quốc từ Đông Nam Á. Những nghiên cứu khác lại cho rằng Trung Quốc hành động như thế để làm mất thể diện của Liên Xô, nước đang đóng vai trò như một đồng minh tin cậy của Hà Nội trong trường hợp xảy ra khủng hoảng.
Trong một nghiên cứu về mối quan hệ của Bắc Kinh với Hà Nội trước chiến thắng 1975, Trại Cường (Zhai Qiang) tác-giả cuốn China and the Vietnam Wars, 1950-1975 -- ND) đã cho rằng “chính sách thực dụng không chỉ là lời nói suông” được phát đi từ các nhà lãnh đạo Trung Quốc, khi đề cập đến các mối quan hệ quốc tế. Mặc dầu họ tuyên bố chính họ là những môn đồ của chủ nghĩa quốc tế Mác-Lênin, song họ lại kế thừa hoàn toàn cái di sản lịch sử của Trung Hoa : quan niệm Đại Hán theo đó Trung Quốc là cái nôi của thế giới. Các quốc gia nhỏ bé khác bên ngoài Trung Quốc, trong đó có Việt Nam, là man-di và phải là những chư-hầu trong vùng ảnh hưởng của Trung Quốc. Mặt khác, “niềm kiêu-hãnh lịch-sử và độ nhạy-cảm văn-hóa” là nhân tố chính có ảnh hưởng đến thái độ của người Việt Nam đối với Trung Quốc. Suốt chiều dài lịch sử của mình, người Việt Nam đã thích thú khi vay mượn và bắt chước nền văn minh cũng như thể chế Trung Quốc để làm nên bản sắc riêng, nhưng họ lại rất sắt đá trong việc bảo tồn di sản văn hóa và nền độc lập của họ. Họ yêu cầu Trung Quốc giúp đỡ, khi gặp khó khăn nội bộ, nhưng khi họ giành được tự do và thống nhất đất nước, thì họ lại quay ra thù địch với Trung Quốc. Những hình ảnh được khắc ghi trong lòng các lãnh tụ và nhân dân hai nước về tình hữu nghị giữa hai quốc gia dường như đã đóng một vai trò đáng kể trong quyết định của Bắc Kinh khi tiến hành cuộc tấn công trừng phạt chống lại Việt Nam.
Từ đầu những năm 1950, Trung Quốc đã là người hậu thuẫn mạnh mẽ của Hà Nội trên cả hai lĩnh vực quân sự lẫn chính trị. Trung Quốc đã giúp đỡ Việt Nam trong cuộc đấu tranh cách mạng chống lại Pháp và đánh đuổi xâm lược Mỹ. Những nghiên cứu ngày nay đã chỉ ra rằng chính sách của Trung Quốc dành cho Hà Nội trong hai cuộc chiến tranh Đông Dương đầu tiên là xuất phát từ việc cân nhắc nhiều mặt từ truyền thống lịch sử đến ý thức hệ cách mạng và an ninh quốc gia. Tuy nhiên, thái độ bề trên của Bắc Kinh vẫn thống trị tư tưởng của họ trong quan hệ với Việt Nam. Mặc dầu các lãnh tụ Trung Quốc lặp đi lặp lại tuyên bố rằng Việt Nam sẽ được đối xử “bình-đẳng”, nhưng Trần Kiên (Chen Jian) lại thấy rằng chính những phát biểu hùng biện đó đã phản ảnh niềm tin mạnh mẽ rằng “họ đã nắm được vị-thế để có thể chi-phối mọi quan-hệ với các nước láng-giềng”. Bắc Kinh luôn nói rằng họ không bao giờ gây sức ép về chính trị và kinh tế thông qua viện trợ vật chất và quân sự khổng lồ cho Hà Nội, nhưng họ lại muốn Hà Nội phải thừa nhận vai trò lãnh đạo của Trung Quốc đối với phong trào giải phóng dân tộc trong khu vực và trên thế giới. Thái độ này của Trung Quốc đã khiến Việt Nam, một quốc gia rất nhạy cảm với quá khứ đầy rẫy những rắc rối với Trung Hoa, trở nên tức giận. Mặc dầu có lúc Bắc Kinh và Hà Nội gọi nhau là “những người đồng-chí anh em”, nhưng sự thật thì mối ác cảm của người Việt Nam đối với Trung Quốc đã được Bắc Kinh nhận thức một cách rõ ràng
Một tài liệu của Trung Quốc đề cập đến chiến-tranh 1979 đã ghi lại những hoạt động được coi là thù nghịch của Việt Nam từ sau năm 1975 đã làm tổn thương mạnh đến quan niệm bề trên của người Trung Quốc. Bộ Chính-Trị Việt-Nam đã thông qua một chính sách coi đế-quốc Mỹ là kẻ thù lâu dài, nhưng lại coi Trung-Quốc là “kẻ thù nguy-hiểm, trực-tiếp nhất”, và là “kẻ thù tiềm-năng mới” mà Việt Nam phải chuẩn bị để chiến đấu. Trong một phản ứng với Trung Quốc, Chủ-nhiệm tổng-cục chính-trị của Quân-Đội Nhân-Dân Việt-Nam đã nhấn mạnh rằng các lực lượng vũ trang Việt Nam sẽ phải tiến hành một cuộc tổng tiến công quân Trung Quốc, chủ động tấn công và phản công đánh đuổi kẻ thù bên trong và thậm chí cả bên ngoài lãnh thổ Việt Nam, và biến cả miền biên giới thành mặt trận chống Tàu. Thái độ coi thường của Việt Nam đối với QGPND và sự cả tin vào sức mạnh quân sự của mình đã là chất xúc tác thúc đẩy quân đội Trung Quốc tiến hành chiến tranh. Lực lượng chiến đấu đã được tôi luyện của QĐND Việt Nam đã tham gia tác chiến hầu như liên tục trong nhiều thập kỷ và đã chiến thắng được hai cường quốc lớn phương Tây. Trong khi đó các chuyên gia Việt Nam cho rằng khả năng và tinh thần chiến đấu của QGPND là thấp kém và hạn chế. QĐND Việt Nam rất tự hào với vũ khí của Nga và các trang thiết bị quân sự thu hồi của Mỹ. Theo các hãng truyền thông của Việt Nam các vũ khí đó hơn hẳn với bất kỳ trang bị nào của QGPND.
Trong hơn hai mươi năm Trung Quốc đã viện trợ cho Hà Nội trên 20 tỷ đô-la Mỹ, nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác. Khi Việt Nam bắt đầu ép buộc người Hoa ở miền bắc hồi cư và gia tăng bạo lực trên biên giới với Trung Quốc, nhiều người Trung Quốc đã cho rằng Hà Nội "vong ơn bội nghĩa" trước những giúp đỡ và hy sinh của Trung Quốc. Những người Trung Quốc đã từng giúp đỡ những người cộng sản Việt Nam trong chiến tranh chống Pháp và Mỹ đã cảm thấy như bị phản bội và đã hăm hở để “dạy cho Việt Nam bài học”. Trong số đó có Đặng Tiểu Bình, phó thủ tướng và là tổng tham mưu trưởng QGPND. Họ Đặng đã tỏ ra bực mình với thái độ khiếm nhã của Việt Nam đối với những giúp đỡ của Trung Quốc đã được sử sách ghi chép từ giữa những năm 1960. Sự thù nghịch giữa hai nước đã tăng mạnh vào cuối những năm 1970, và ngày càng trở nên nhạy cảm, thậm chí đã có lúc Việt Nam được Trung Quốc gọi là đồ khốn nạn (wangbadan) trước một nhà lãnh đạo nước ngoài. Các nhà lý luận quân sự nói chung đều nhất trí rằng tình trạng “thù-nghịch ở cả hai phía, giận-dữ và căm-thù đã hình-thành và ngày càng sôi-sục”. Sự láo xược của Việt Nam thể hiện qua những va chạm dọc biên giới mỗi ngày một tăng và sự ra đi ồ ạt của Hoa-kiều đã tác động mạnh lên quyết định dùng vũ lực của các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự.
Động-thái của Trung-Quốc trước cuộc tấn-công
Vẫn chưa có những tài liệu chắc chắn nào cho thấy lúc nào và như thế nào Bắc Kinh đã ra quyết định tiến hành chiến tranh chống Việt Nam. Nayan Chanda, phóng viên Đông Nam Á kỳ cựu của Tạp-Chí Kinh-Tế Viễn-Đông đã chỉ đưa ra được vài chi tiết cho rằng cấp lãnh-đạo Trung-Quốc đã ra quyết định “dạy cho Việt Nam bài học” vì thái độ “vô-ơn và ngạo-mạn” trong một cuộc họp Bộ Chính-Trị hàng tuần vào đầu tháng Bảy năm 1978. Tuy nhiên ông ta lại cho rằng trong cuộc họp đó cấp lãnh đạo Trung Quốc, khi thông qua quyết định tấn công Việt Nam, có vẻ như họ đã được thuyết phục rằng việc này chỉ để nhằm “làm suy-yếu vị-thế của Xô-viết trong thế-giới thứ ba”. Các nguồn tin mới đây từ Trung Quốc thì lại giả thiết rằng sự tính toán đến các phản ứng quân sự đối với cuộc khủng hoảng giữa Việt Nam và Trung Quốc là một quá trình hết sức chậm chạp, vì khá lâu sau đó cũng không có một quyết định nào được thông qua. Hơn nữa, cuộc chiến khởi đầu được coi như là một xung đột cục bộ giữa hai nước, chứ không phải là một phần của chiến-lược chống bá quyền toàn cầu của Trung Quốc. Trong những năm đầu của thời kỳ hậu Mao, Bắc Kinh áp dụng chính sách lãnh đạo thừa kế. Chính sách lãnh đạo thừa kế này liên quan đến việc gia hạn năm công tác với chức năng tư vấn không chính thức cho các lãnh tụ cao cấp và các cấp thấp hơn như các viên chức chính phủ và sĩ quan quân đội để họ đảm nhận các vấn đề trước khi có quyết định cuối cùng.
Châu Đức Lễ (Zhou Deli), tham mưu trưởng quân-khu Quảng Châu, kể lại rằng vào tháng Chín năm 1978 đã có một cuộc họp được tổ chức trong bộ tổng tham mưu QGPND bàn về vấn đề “làm sao đối-phó với nạn xâm-chiếm lãnh-thổ của quân-đội Việt-Nam”. Mối quan tâm ban đầu là vấn đề xung đột biên giới. Vấn đề này lúc đó đã được coi như nguyên nhân chính dẫn đến căng thẳng ngày càng gia tăng giữa hai nước từ năm 1976. 
Một đề xuất sơ bộ đề nghị tiến hành một chiến dịch quy mô nhỏ nhằm vào một trung-đoàn bộ-đội địa-phương thuộc huyện Trùng Khánh của Việt Nam nằm sát đường biên giới với tỉnh Quảng Tây. Tuy nhiên, sau khi một báo cáo của tình báo cho biết cuộc xâm lăng Campuchia của Việt Nam sắp xảy ra, thì đa số người tham gia đều đồng ý rằng bất kỳ một hành động quân sự nào được tiến hành cũng đều phải gây được ảnh hưởng đáng kể với Hà Nội và tình hình ở Đông Nam Á. Mọi người đều khuyến cáo phải tiến công vào các đơn vị quân đội chính-quy của Việt Nam trên một địa hình rộng lớn. Mặc dầu cuộc họp kết thúc mà không đưa ra bất cứ quyết định cụ thể nào nhưng nó đã cho thấy hình hài của một kế hoạch chiến tranh có thể xảy ra của Trung Quốc nhằm vào Hà Nội và có thể nó là những bằng chứng đầu tiên có liên quan đến những hoạt động quân sự của Trung Quốc trên biên giới phía bắc của Việt Nam nhằm tạo áp lực lên thái độ được coi là hiếu chiến của Việt Nam tại khu vực Đông Nam Á.
Tuy nhiên, một chiến dịch quân sự quy mô lớn có thể làm xấu đi hình ảnh của Trung Quốc trên trường quốc tế trong khu vực lẫn thế giới. Họ Đặng đã lập kế hoạch thăm chính thức Thái Lan, Mã Lai và Sinh-ga-po vào đầu tháng 11 năm 1978 nhằm dò xét và tìm sự hậu thuẫn của các nước này đối với chính sách của Trung Quốc lên Việt Nam. Trong chuyến thăm viếng, Đặng đã thuyết phục các nước chủ nhà rằng Trung Quốc sẽ sử dụng vũ lực chống lại sự xâm lược của Việt Nam nếu nước này tấn công Campuchia. Trong nước, các phương tiện truyền thông đều đăng xã luận và bình luận về việc trừng phạt sự xâm lăng của Việt Nam vào lãnh thổ Trung Quốc và cảnh báo về một sự trả đũa có thể xảy ra.
Ngày 23 tháng 11 năm 1978, Bộ Tổng Tham Mưu Trung Quốc đã triệu tập một cuộc họp khác. Tại đây một kịch bản mới về chiến tranh đã được bàn bạc kỹ lưỡng. Sau khi cân nhắc các khuyến cáo trước đó, Bộ Tổng Tham Mưu đã quyết định mở rộng quy mô và thời gian của chiến dịch. Các kế hoạch đã nhằm vào các vị trí quân sự chính của Việt Nam và các thành phố bên kia biên giới của Vân Nam và Quảng Tây như các mục tiêu cần tấn công, ngăn chặn nhằm làm nhụt ý chí xâm lược của Việt Nam. Có một số ý kiến cho rằng các chiến dịch như thế không đủ rộng lớn vì mới chỉ đến các vùng hẻo lánh và không đủ sức răn đe tức thời Hà Nội. Tuy nhiên cuối cùng không có sự phản đối, vì họ cho rằng ban lãnh đạo Trung ương đã cân nhắc kỹ lưỡng vấn đề. Cuộc họp chỉ định hai quân khu Quảng Châu và Côn Minh sẽ thực hiện chiến dịch này. Ngoài ra cuộc họp cũng khuyến cáo về việc chuyển giao một lực-lượng dự-bị chiến-lược QGPND bao gồm 4 quân-đoàn và 1 sư-đoàn lấy từ quân-khu Vũ Hán và Thành Đô để củng-cố cho mặt-trận Quảng Tây và Vân Nam.
 Ngày 7 tháng 12 năm 1978, Quân-ủy Trung-ương Trung-Quốc đã triệu tập một cuộc họp, kéo dài khoảng 4 đến 5 giờ và quyết định phát động một cuộc chiến tranh hạn chế trên tuyến biên giới phía nam Trung Quốc để “giáng trả” Việt Nam. Ngày kế tiếp là việc chỉ thị cho hai quân khu Quảng Châu và Côn Minh tiến hành chiến dịch quân sự này với các đơn vị đã sẵn sàng chiến đấu từ ngày 10 tháng Giêng năm 1979. Chỉ thị này nêu rõ cuộc chiến tranh được hạn chế nghiêm ngặt trong vòng bán kính 50 km từ đường biên giới và kéo dài trong 2 tuần. Binh-pháp truyền-thống của QGPND đã được nhấn mạnh đó là việc dùng hai đội quân nhằm “Tập-trung biển người để bao-vây quân địch từ hai bên sườn nhằm tiêu-diệt từng bộ-phận quân địch bằng những trận đánh hủy-diệt theo phương-thức đánh nhanh rút gọn”. Tuy thời điểm cho mệnh lệnh này được hiểu là Trung Quốc phản ứng lại với sự xâm lăng Campuchia sắp xảy ra của Việt Nam, nhưng bằng cách dựng lên một chiến dịch quân sự lớn thậm chí trước khi quân đội Việt Nam vượt sông Mê-kông cũng đã thể hiện sự giận dữ từ nhiều năm do thái độ vô-ơn của Việt Nam gây nên.
Đặng Tiểu Bình ra quyết định
Mặc dầu cỗ máy chiến tranh của Trung Quốc đã được khởi động từ đầu tháng 12 năm 1978, nhưng ngày tấn công chính xác vẫn chưa được ấn định. Những nghiên cứu ban đầu đã suy diễn rằng quyết định tấn công của Bắc Kinh đã xuất hiện từ Hội Nghị Công Tác Trung Ương vào khoảng 10 tháng 11 đến 15 tháng 12 năm 1978. Thực tế, cuộc họp này đã kêu gọi xem xét một nghị trình cải-cách kinh-tế trong vòng 10 năm, chấm dứt việc đề cập đến những di sản của Cách Mạng Văn Hóa. Đến nay vẫn chưa được biết là đã có cuộc thảo luận quan trọng về tình hình Đông Dương hay không. Tuy thế, cuộc họp đã củng cố vị trí của họ Đặng trong ban lãnh đạo, cho phép ông ta, dù chỉ là một trong năm phó chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) nhưng kiêm chức Tổng tham mưu trưởng quân đội, trở thành người ra quyết định về vấn đề Việt Nam.
Trong cuộc họp Quân-ủy Trung-ương vào trước đầu năm Dương lịch, họ Đặng đã chính thức đề xuất một cuộc chiến tranh trừng phạt Việt Nam. Tất cả những người tham gia cuộc họp bao gồm cả chủ-tịch ĐCSTQ Hoa Quốc Phong, theo như báo chí đã đưa tin, cũng ủng hộ đề xuất này. Cũng tại cuộc họp này Đặng đã chỉ định Hứa Thế Hữu (Xu Shiyou) làm chỉ huy chiến dịch ở đông Quảng Tây và Dương Đắc Chí (Yang Dezhi), tư lệnh quân khu Vũ Hán, chỉ huy ở miền tây Vân Nam, không dùng Vương Tất Thành (Wang Bicheng), tư lệnh quân khu Côn Minh. Để đáp ứng với việc thay đổi các cấp chỉ huy chiến trường, Đặng đã cử hai phó tổng tham mưu trưởng của ông ta đến Côn Minh để giám sát việc chuyển giao quyền lực và chuẩn bị chiến tranh. Không có một bộ tư lệnh trung tâm, hai quân khu sẽ tiến hành chiến đấu một cách độc lập không có phối hợp hoặc hiệp đồng. Cuộc họp cũng nhắc lại rằng cuộc tấn công phải được tiến hành chớp-nhoáng và tất cả các đơn vị phải rút về sau khi đạt được mục tiêu của chiến dịch.
Các tài liệu hiện nay đều đưa ra giả thiết là có một vài lãnh tụ Trung Quốc đã phản đối việc tấn công Việt Nam, nhưng các tài liệu đó đã không thống nhất được là những lãnh tụ nào đã phản đối và phản đối theo hình thức nào. Khi Đặng đã là kiến trúc sư trưởng của kịch bản, thì khó có ai dám thách thức được quyết định của ông ta, một con người đầy uy tín cũng như thâm niên trong đảng. Kiểm soát được Bộ Tổng Tham Mưu, Đặng đã có được các phương tiện thuận lợi nhất để thúc cỗ máy chiến tranh của Trung Quốc vận hành trước khi ban lãnh đạo Trung ương đưa ra một quyết định chính thức. Hành động giống như Mao, Đặng đã tham khảo ý kiến của các đồng sự tin cậy trong chỗ riêng tư, trước khi ra quyết định và sau đó chỉ thực hiện quyết định, khi đã có sự tán thành của Bộ Chính-Trị. Một trong những đồng sự gần gũi nhất của Đặng là Trần Vân (Chen Yun), một phó chủ tịch khác của ĐCSTQ và cán bộ trung kiên của đảng, đã có những đóng góp quan trọng cho quyết định tấn công Việt Nam.
Có một số quan tâm hàng đầu trong Bộ Chính-Trị : liệu Liên Xô có phản-ứng bằng cách tấn-công từ phía bắc khiến quân đội Trung Quốc phải chiến đấu trên hai mặt trận; liệu Liên Xô có nhân cơ hội để trục lợi từ tình hình chăng ? Thế giới sẽ phản ứng lại thế nào ? Và liệu chiến tranh với Việt Nam có làm trở ngại đến nghị trình mới của Trung Quốc là hiện đại hóa nền kinh tế ? Mối lo lớn nhất là phản ứng của Liên Xô. Theo các phân tích tình-báo của Bộ Tổng Tham Mưu, Matx-cơ-va có thể sẽ tung ra 3 chiến dịch quân sự nhằm đáp trả cuộc xâm lăng của Trung Quốc và Việt Nam : một cuộc đột-kích quân-sự lớn bao gồm cả tấn-công trực-diện vào thủ-đô Bắc Kinh; xúi giục các phần tử dân-tộc thiểu-số có vũ trang đang lưu vong ở Liên Xô quay về tấn công vào các tiền đồn Trung Quốc ở Tân Cương (Xinjiang) và Nội Mông (Inner Mongolia); hoặc sử dụng các cuộc giao tranh nhỏ gây ra sự căng thẳng biên giới giữa hai nước. Tuy nhiên, khi mà Liên Xô chưa có lực lượng đầy đủ để tiến hành bất cứ các hoạt động quân sự lớn nào chống lại Trung Quốc một cách ngay lập tức thì các lãnh tụ đảng, đặc biệt là Đặng, đã tin rằng một cuộc chiến tranh vào Việt Nam chớp nhoáng, có giới hạn, và mang tính tự vệ sẽ không kích thích đủ sự can thiệp của Matx-cơ-va hay một làn sóng phản đối quốc tế nào. Hai cuộc xung đột biên giới trước đó với Ấn Độ (1962) và Liên Xô (1969) đã minh chứng cho lập luận này. Ý định về một cuộc chiến tranh nhanh gọn cũng đã thuyết phục được một số phản đối trong nội bộ và biện hộ cho sự lựa chọn chính sách của Bắc Kinh. Tuy nhiên các lãnh tụ Trung Quốc cũng không dám lơ là cảnh giác bằng cách đồng thời ra lệnh cho các đơn vị quân đội ở các quân khu miền bắc và tây bắc luôn ở vào tư-thế sẵn-sàng chiến-đấu trong trường-hợp Liên-Xô tấn-công.
Cuộc họp vào ngày lễ Giáng Sinh đã quyết định hoãn lại thời điểm tấn công Việt Nam. Các nhà phân tích phương Tây đã cho rằng lý do Bắc Kinh vẫn còn đắn đo là vì lo sợ phản ứng quốc tế. Chuyến công-du nằm trong kế hoạch của Đặng đến Mỹ và Nhật đã được thu xếp để “thăm-dò phản-ứng dư-luận”. Tuy nhiên những đồng sự thân cận của Đặng đã cho rằng ngay cả những sự chống đối của quốc tế, nếu có, cũng không ngăn cản được ông ta, vì Đặng chưa bao giờ nhân nhượng bất cứ điều gì một khi ông ta đã quyết. Các lãnh tụ Trung Quốc cũng rất lo lắng vì không biết lực lượng của họ có đủ thời gian để chuẩn bị đầy đủ cho cuộc chiến tranh hay không. Binh lính Trung Quốc chưa tham gia vào bất cứ cuộc chiến tranh lâu dài nào, trong khi nhiều người trong quân đội không thể hiểu được vì sao cuộc chiến sắp xảy ra lại nhằm vào một đồng minh truyền thống và là một quốc gia láng giềng nhỏ bé. Không lâu sau cuộc họp lễ Giáng Sinh, Đặng đã cử Dương Dũng (Yang Yong), tổng tham mưu phó, và Trương Chấn (Zhang Zhen), chủ nhiệm tổng cục hậu cần lần lượt đến Vân Nam và Quảng Tây để thị-sát điều-kiện chiến-đấu của bộ-đội. Lo sợ binh lính chưa sẵn sàng chiến đấu, Trương đã lập tức đề nghị hoãn cuộc chiến lại một tháng. Sau này ông ta có kể lại rằng Quân-ủy Trung-ương đã đồng ý để lùi thời gian tấn công lại đến giữa tháng Hai. Dương đã làm một báo cáo trong đó có những đề xuất về kế hoạch cho chiến tranh, để trình bày ngày 22 tháng Giêng tại tư gia của họ Đặng trước sự hiện diện của các lãnh tụ chủ chốt của Quân-ủy Trung-ương. Có thể trong cuộc họp này các lãnh tụ Trung Quốc đã tái khẳng định quyết định tấn công của họ và định ra một khung thời gian cho “ngày N”. Ngày tiếp theo, Bộ Tổng Tham Mưu lại tổ chức một cuộc họp khác, tại đây kế hoạch chiến tranh được thông qua lần cuối và quân đội được lệnh sẵn sàng khởi sự vào ngày 12 tháng Hai. Để đề phòng tình hình có thể vượt ngoài tầm kiểm soát, ban lãnh đạo Trung ương đã yêu cầu Hứa Thế Hữu (Xu Shiyou) phải dừng ngay các chiến dịch quân sự và rút lui ngay khi quân đội của ông ta chiếm được Lạng Sơn và Cao Bằng là hai thành phố chính của Việt Nam nằm gần biên giới.
Ngày 11 tháng Hai 1979, hai ngày sau khi Đặng trở về Bắc Kinh từ chuyến đi Mỹ và Nhật, cuộc họp Bộ Chính-Trị mở rộng đã được triệu tập. Đặng trình bày rõ ràng lý do căn bản để đánh Việt Nam, và sau đó mệnh-lệnh phát-động cuộc tấn-công Việt-Nam vào ngày 17 tháng Hai năm 1979 đã được gửi tới các tư-lệnh quân-khu Quảng Tây và Vân Nam. Đây là ngày họp mà các thành phần không phải chủ chốt được tham dự lâu trong đó một số lý lẽ được đưa đẩy rằng thời điểm tấn công có thể liên quan mật thiết đến yếu tố thời tiết : vào mùa mưa, thường từ tháng Tư trở đi, nó có thể bất lợi cho việc tiến hành các chiến dịch quân sự, hoặc nếu tấn công sớm quá thì quân đội Liên Xô có thể dễ dàng vượt qua những con sông dọc biên giới Trung-Xô khi đó đang còn đóng băng. Đặng và các lãnh tụ khác đã tính toán một cách cẩn thận tất cả các khả năng có thể có một khi quân đội của họ đã vượt qua biên giới Việt Nam. Họ đã giới hạn phạm vi, thời gian, và không gian cho một cuộc chiến tranh đã được gắn cái tên là “cuộc phản-công tự-vệ” để cố gắng giảm thiểu những phản ứng tiêu cực từ trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, khi chiến tranh đã nổ ra, Đặng vẫn theo dõi chặt chẽ mọi diễn biến xảy ra, vẫn ban hành những chỉ thị và mệnh lệnh đặc biệt (điều này khác hẳn với phong cách lãnh tụ của Mao).
Gerald Segal (tác giả cuốn Trung Hoa tự vệ-ND) cho rằng động cơ đầu tiên của Trung Quốc, khi tấn công Việt Nam, là nhằm ngăn chặn tham vọng và ý đồ xâm lăng Đông Nam Á cùng với mối đe dọa của Việt Nam đang nhằm vào an ninh của Trung Quốc, lật-tẩy sự nhu-nhược của Liên-Xô. Nhưng tính toán chính trị sai lầm đã cho thấy rằng các lãnh tụ Trung Quốc đã đặt chính họ vào thế khó khăn, khi xây dựng một chiến lược trừng phạt Việt Nam mà không bao giờ có cơ hội thành công. Ý đồ đã được tuyên bố của Trung Quốc là “dạy cho Việt Nam bài học” đã biến mục tiêu hàng đầu của cuộc chiến tranh thành một “hành-động trả-thù”. Từ đầu, Bắc Kinh đã giới hạn mục đích và chỉ đạo để cuộc chiến không vượt quá giới hạn của một cuộc xung đột biên giới tay đôi. Bộ chỉ huy quân sự ở Quảng Châu và Côn Minh được yêu cầu phải xây dựng các chiến-lược tác chiến sao cho không chỉ hoàn thành mục tiêu là trừng phạt, mà còn phải giới hạn chiến sự về thời gian lẫn không gian.
Câu hỏi thực tế cho những người lập kế hoạch quân sự Trung Quốc địa phương là đến chừng mực nào thì mục tiêu dạy cho Việt Nam bài học mới đạt được và đo lường được. Phương thức tác chiến thông thường của QGPND luôn luôn tạo nên một áp lực đặc biệt trong vấn đề tiêu-diệt sinh-lực địch (yousheng liliang). Một trong những truyền-thống tác chiến của QGPND là chiến-thuật biển người để đảm bảo thắng lợi. Khoảng giữa tháng Giêng 1979 hơn một phần tư quân đội thường trực của QGPND đã được đưa đến biên giới Trung-Việt, tổng cộng khoảng hơn 320.000. Theo kinh nghiệm chiến đấu của mình và dựa trên các bài bản chiến-thuật của QGPND trong quá khứ, Hứa Thế Hữu (Xu Shiyou) đã trả lời những yêu cầu chiến tranh của ban lãnh đạo Trung ương bằng một chiến-thuật gọi là niudao shaji (ngưu đao sát kê - dùng dao mổ trâu để cắt tiết con gà). Nguyên tắc chủ đạo khi giao chiến gồm ba điểm : tập trung tấn công vào vị trí quan trọng, nhưng không phải điểm mạnh của quân địch; sử dụng lực lượng và hỏa-lực áp đảo (tiền pháo hậu xung) để đập tan hàng phòng ngự của địch tại những những điểm mấu chốt; các đơn vị xung-kích phải hết sức nhanh chóng thọc sâu và tấn-công tất cả các con đường dẫn đến sào huyệt kẻ thù. Theo cách này Hứa tin rằng quân đội của ông ta có thể cắt nhỏ hệ thống phòng thủ của Việt Nam thành từng mảnh, đập tan mọi sự kháng cự, và sau đó tiêu diệt hết quân địch.
Theo tinh thần và chiến thuật đó, các quân khu Quảng Châu và Côn Minh đã xây dựng những kế hoạch tác chiến riêng của họ trong đó nhấn mạnh đến việc tiêu diệt các sư-đoàn quân chính-quy của Việt-Nam dọc biên giới Trung-Việt. Chiến tranh có thể chia thành hai giai đoạn. Trong giai đoạn đầu, hai mũi nhọn tấn công và Cao Bằng và Lào Cai nhằm bao vây và tiêu diệt các sư-đoàn của quân đội Việt Nam tại đó, đồng thời phát động các cuộc tấn công ở Đồng Đăng để ly gián Hà Nội về mục tiêu chiến tranh của Trung Quốc. Sau đó lực lượng QGPND ở Quảng Tây sẽ tập trung tấn công vào Lạng Sơn, trong khi các cánh quân bạn ở Vân Nam sẽ giao chiến với sư-đoàn quân Việt Nam ở Sa Pa. Tổng-cộng 8 quân-đoàn QGPND sẽ đồng thời tham-gia tác-chiến, một quân-đoàn được giữ lại làm lực-lượng trừ-bị.
Bắc Kinh cũng tính đến khả năng tham chiến của không quân. Không quân của QGPND sẽ cam kết dùng 18 trung-đoàn và 6 phi-đội tăng phái để chuẩn bị hỗ trợ cho các chiến dịch mặt đất. Để tránh leo thang xung đột, Quân-ủy Trung-ương ra lệnh không lực chỉ trợ chiến bên trong lãnh thổ Trung Quốc, trong khi đó lại ra lệnh các đơn vị không quân sẵn sàng yểm hộ cho các chiến dịch dưới đất “nếu cần”, mặc dầu không đưa ra định nghĩa chính thức tình hình thế nào và bao giờ được coi là “cần”. Mệnh lệnh đã quy định rằng bất cứ chiến dịch nào bên ngoài không phận Trung Quốc đều phải được phép của Quân-ủy Trung-ương. Dựa trên những nguyên tắc này, một chiến-lược yêu cầu các đơn vị không quân sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ vùng trời và yểm trợ cho mặt đất. Khi chiến dịch dưới đất bắt đầu, cùng lúc không quân được lệnh xuất kích với tần suất cao trên không phận biên giới nhằm ngăn chặn không quân Việt Nam tham chiến. Nhân viên kiểm soát và điều hành hàng không cũng như các nhóm chỉ huy tác chiến đã được cử đến sở chỉ huy tiền phương của hai quân khu ở Quảng Châu và Côn Minh, các chỉ huy của các đơn vị không quân và một vài đơn vị phục vụ mặt đất cũng sẽ tham gia vào nhiệm vụ tấn công chính
Từ cuối tháng 12 năm 1978 đến hết tháng Giêng năm 1979 binh lính Trung Quốc bị cuốn hút vào các hoạt động huấn luyện chiến đấu và diễn-tập. Vì trước đó hầu hết quân đội Trung Quốc chỉ tham gia vào sản xuất nông nghiệp trong một thời gian dài, những nỗ lực điên rồ vào giờ phút cận kề như vậy, dù là có ích, chắc chắn cũng không thể đủ được. Huấn luyện quân sự được tập trung nhiều vào những kỹ năng cơ bản của người lính như bắn, ném lựu đạn. Chỉ một vài đơn vị có khả năng tiến hành các cuộc huấn luyện có ý nghĩa về chiến-thuật hoặc diễn-tập cấp trung-đoàn hoặc sư-đoàn. Nhiều sĩ quan báo cáo rằng họ không thể đảm bảo các binh sĩ của họ có khả năng tác chiến. Việc các đơn vị bộ-đội của QGPND chỉ được huấn luyện một cách sơ sài và không đầy đủ cho một cuộc chiến tranh hiện đại nhằm vào quân đội Việt Nam, những người đã có 25 năm kinh nghiệm chiến đấu trước khi có cuộc chiến tranh này dường như không được giới lãnh đạo Trung Quốc quan tâm.
Mặc dầu nhu cầu huấn luyện là cấp bách, nhưng QGPND vẫn tiếp tục với truyền-thống quân sự của mình là sử dụng học-thuyết chính-trị để nâng cao tinh thần và để cải thiện hiệu năng chiến đấu. Cỗ máy tuyên-truyền đã được thiết lập để thuyết phục binh lính rằng quyết định của ban lãnh đạo Trung ương là cần thiết và đúng đắn. Việt Nam đã thay đổi một cách xấu xa trở thành “Cuba ở phương đông”, tên “côn-đồ ở châu Á” và “chó săn của Liên-Xô”, đang cố theo đuổi tham vọng bành-trướng. Chủ thuyết chính trị của Mác, mặc dầu được cả hai nước suy tụng cũng không ngăn cản được việc Trung Quốc phát động một cuộc “chiến-tranh tự-vệ” chống lại quốc gia làng giềng nhỏ bé, một khi quyền lợi dân tộc tối cao bị đe dọa. Các bài giảng, các cuộc họp quy tội Việt Nam với các bằng chứng, hiện vật, cũng như tranh ảnh được trưng bày nhằm gia tăng chủ-nghĩa yêu nước và lòng căm thù kẻ địch. Ít nhất người ta cũng đã đưa ra một cách giải thích nghe có vẻ có lý cho những người lính bình thường, ít học về lý do tại sao lại cần phát động cuộc tấn công quân sự vào Việt Nam, một đất nước từ lâu đã là anh em, đồng chí.
 
Chiến-dịch quân-sự


Cuộc tấn công được gọi là tự vệ của QGPND được tiến hành trong 3 giai đoạn. 1) Giai đoạn đầu từ 17 đến 25 tháng Hai. Trong thời gian đó quân đội Trung Quốc theo dự tính sẽ đập tan tuyến phòng ngự đầu tiên của Việt Nam và đánh chiếm các thị-xã Cao Bằng và Lào Cai, các thị-trấn biên giới quan trọng là Cam Đường và Đồng Đăng, cửa ngõ ra vào Lạng Sơn. 2) Giai đoạn hai từ 26 tháng Hai đến 5 tháng Ba là chiến dịch đánh Lạng Sơn và các vùng phụ cận phía tây, vùng Tây Bắc Sa Pa, và Phong Thổ. 3) Giai đoạn cuối là nỗ lực bổ sung để dẹp yên các lực lượng địch còn sót lại trong quá trình phá hủy hệ thống quân sự tại khu vực biên giới với Trung Quốc trước khi hoàn thành việc rút quân vào ngày 16 tháng Ba. Các chiến dịch quân sự đã được thực hiện bên trong lãnh thổ Việt Nam dọc theo biên giới kéo dài đến 900 km từ đông sang tây. Trong 30 ngày, quân Trung Quốc đã tiến hành những trận đánh đẫm máu nhất kể từ chiến tranh Triều Tiên.
Cuộc tấn công của Trung Quốc đã khiến Hà Nội bất ngờ. Tình-báo Việt Nam dường như thất bại trong việc giúp ban lãnh đạo Hà Nội chuẩn bị trước cho cuộc xâm lược của Trung Quốc. Mặc dầu màn giễu võ dương oai (saber-rattling) của Bắc Kinh đã có từ trước đó vài tháng, nhưng lãnh đạo Việt Nam cũng không thể tin nổi “một nước Xã-hội Chủ-nghĩa anh em” lại có thể đi xâm lược mình. Khi một số lượng lớn quân Trung Quốc đã vượt qua biên giới, thủ-tướng Phạm Văn Đồng và tổng tham mưu trưởng QĐND Việt Nam Văn Tiến Dũng còn đang ở Phnom Pênh. Mức độ dàn trải của chiến dịch của QGPND cũng đã đánh lừa được Bộ Tư Lệnh tối cao của quân đội Việt Nam trong việc nhận dạng các mũi nhọn và mục tiêu thực của cuộc tấn công. Trong lúc yêu cầu cấp bách Matx-cơ-va thực thi nghĩa vụ theo hiệp-ước hữu-nghị và hợp-tác mới ký giữa hai nước, phản ứng tức thời của Hà Nội là “để đáp trả ngay lập tức, sử dụng bất cứ sự kháng cự nào nhằm làm giảm ưu thế của quân Trung Quốc” Các trận đánh quan trọng đã xảy ra xung quanh các thị-trấn biên giới như Sóc Giàng, Đồng Hệ, Đồng Đăng, Cao Bằng, Lào Cai và Cam Đường, qua việc tranh giành từng ngọn đồi từng căn hầm. Cả hai bên đều thể hiện ý chí quyết liệt tiến công và phản công mặc cho thương vong nặng nề. Vào ngày 20 tháng Hai, cố-vấn Liên-Xô đã kết luận rằng lực lượng phòng thủ dân-quân tự vệ của Việt Nam sẽ không thể ngăn chặn được bước tiến của quân Trung Quốc. Đã có một khuyến cáo thiết lập cầu hàng-không để chuyên chở ngay lập tức 30 000 quân từ Campuchia về để tăng cường cho tuyến phòng thủ Lạng Sơn và Hà Nội. Theo tài liệu của Xô Viết các cố-vấn của họ đã có những nỗ lực phi thường để tìm và thuyết phục các lãnh tụ Việt Nam có những biện pháp đối phó cấp bách với tình hình. Không hiểu mục tiêu chiến tranh của Bắc Kinh, Hà Nội đã có những phản ứng hết sức chậm chạp đối với những diễn biến nhanh chóng trên chiến trường.
Mặc dầu QGPND đã chọc thủng phòng tuyến ngay từ đầu nhưng địa hình, đặc biệt là thiếu đường sá, cộng với sự kháng cự quyết liệt của quân chính-quy, các đơn-vị biên-phòng, bộ-đội địa-phương Việt Nam, nên quân Trung Quốc đã bị rơi vào thế bị động. Chính tình trạng này đã bộc lộ những điểm yếu và thiếu khả năng của quân Trung Quốc trong chỉ huy tác chiến, liên lạc và hậu cần bắt nguồn từ truyền-thống binh-pháp của QGPND. Trong một vài trường hợp, các chỉ huy mặt trận Trung Quốc đã thúc giục sự yểm trợ của không quân, khi các giao tranh dưới mặt đất gặp sự kháng cự quyết liệt của quân đội Việt Nam. Tổng tham mưu trưởng quân đội Trung Quốc đã không cho phép, thay vào đó là mệnh lệnh cho hải dựa vào sự hỗ trợ hỏa lực của pháo-binh. QGPND cùng với những tướng lĩnh của nó được sinh trong một thể chế truyền-thống, chỉ quen với tiền pháo hậu xung và biển người. Khẩu-hiệu “Tinh-thần của lưỡi lê” (The spirit of the bayonet) lại tiếp tục được đề cao. Kết quả cho thấy cuộc chiến-tranh Việt-Trung năm 1979 là một cuộc chiến tranh đẫm máu và tàn bạo.
Thành công của cuộc chiến tranh trừng phạt của QGPND phụ thuộc vào các chiến-thuật xâm nhập, tấn công sườn và bao vây Cao Bằng. Tuy nhiên, hai sư-đoàn đột kích thọc sâu đã không hoàn thành được dự định trong vòng 24 giờ. Địa hình núi non, với những cánh rừng rậm rạp lại không có đường và bị bộ-đội địa-phương và dân-quân du-kích Việt Nam phục-kích đã khiến cho quân Trung Quốc gặp khó khăn không ngờ. Vì sự chậm trễ này mà Hứa Thế Hữu (Xu Shiyou) đã quyết định quay lại lập tức tấn công Cao Bằng, mặc dầu một quân-đoàn của phó tư lệnh Ngô Trung (Wu Zhong) đã áp sát thành phố từ phía đông và phía nam. Tuy nhiên, do một cuộc điều tra về lý lịch chính trị trong thời kỳ Cách Mạng Văn Hóa đang tiến hành, Vũ đã bị cách chức chỉ huy vào khoảng thời gian giữa chiến dịch. Qua đường dây nói, ngày 20 tháng 2, 1979, Hứa đã khẳng định lại việc bổ nhiệm trước đó rằng chiến dịch vẫn sẽ tiếp tục dưới sự chỉ huy của một cấp phó khác của ông thay vì dưới quyền chỉ huy của họ Ngô, thậm chí sau đó và quân-đoàn ông ta vẫn chiến đấu theo đường của họ để tới Cao Bằng từ phía bắc. Ba ngày sau khi đến nơi, Hứa và các sĩ quan tham mưu của ông ta vẫn không nhận ra rằng chỉ có một số rất ít bộ-đội Việt-Nam đã chiến đấu để bảo vệ để cơ quan đầu não và chính quyền tỉnh rút lui. Sau đó ông đã ra lệnh tấn công vào thành phố. Chỉ sau vài giờ chiến đấu, quân Trung Quốc đã chiếm được thành phố.
Việc chậm trễ tiếp quản Cao Bằng đã làm đảo lộn kế hoạch ban đầu của QGPND. Kế hoạch này được thiết kế nhằm tìm kiếm những trận giao chiến nhanh chóng và quyết định. Quân đội Việt Nam phân tán thành những toán nhỏ và các đơn vị cỡ trung-đội, ẩn trên núi non, rừng rậm và hang động, và tiếp tục phát động các cuộc phản công. Sự kháng cự không hề nao núng của bộ-đội và dân-quân Việt Nam buộc Trung Quốc phải thay đổi chiến-thuật hoạt động của họ bằng cách chia quân thành những đơn vị cỡ tiểu-đoàn để tham gia vào các hoạt động tìm kiếm và tiêu diệt tại Cao Bằng, Trà Lĩnh, Trùng Khánh và các khu vực Quảng Hòa. Các chiến-thuật mới bao gồm khóa đường, lùng sục các ngọn đồi, tìm kiếm những hang động, săm soi mặt đất và cho nổ các hầm hào. Giao chiến dữ dội liên tục khiến hàng trăm chiến-sĩ Việt-Nam và dân thường bị giết. Cho đến ngày 06 Tháng Ba, theo các tài liệu tiếng Việt thu được đã cho thấy, thì dường như sư-đoàn QĐND Việt Nam có nhiệm vụ bảo vệ Cao Bằng vẫn chưa bị tiêu diệt. Không tính đến việc chưa hoàn toàn kiểm soát được Cao Bằng, những tổn thất nặng nề của QGPND trong giai đoạn đầu đã cho thấy rằng chiến dịch gặt hái rất ít thành công.
Bắc Kinh ngày càng trở nên lo lắng về tiến triển của cuộc chiến, nên hối thúc tư lệnh chiến trường ở Quảng Tây khởi sự càng nhanh càng tốt trận đánh quyết định vào Lạng Sơn, một cửa ngõ làm lá chắn cho Hà Nội từ phía bắc. Dường như không hài lòng với những gì đã xảy ra tại Cao Bằng, họ Hứa đã tổ chức lại kế hoạch tác chiến và kêu gọi binh lính tăng thêm sức chiến đấu trong trận đánh Lạng Sơn. Sáu sư-đoàn quân Trung Quốc tham gia vào trận đánh quyết định này, bắt đầu vào ngày 27 tháng hai, được mở màn bằng một trận pháo-kích dữ dội. Sau các trận chiến ác liệt, quân Trung Quốc lần đầu tiên kiểm soát chắc chắn được các điểm cao xung quanh và sau đó đánh chiếm phần phía bắc của thành phố vào ngày 02 Tháng Ba, ngày mà theo lịch trình sẽ ngưng các hoạt động quân sự. Do bộ máy tuyên-truyền của Hà Nội không thừa nhận thất bại của họ ở Lạng Sơn, Hứa đã quyết định tiếp tục đánh, thúc quân của ông ta vượt sông Kỳ Cùng, là ranh giới phân chia thành phố Lạng Sơn thành các huyện phía Bắc và phía Nam, để đánh chiếm toàn bộ thành-phố, và sau đó phát triển xa về phía nam để đe dọa Hà Nội. Mặc dù quyết định của Hứa đã được Bắc Kinh thông qua, nhưng nó đã bị hủy bỏ vào ngày 05 tháng 3, ngay sau khi quân đội Trung Quốc chiếm phần phía nam của Lạng Sơn, với lý do được tuyên bố là họ đã đạt được các mục tiêu chiến tranh ban đầu.
Đánh giá cuộc chiến-tranh của Trung-Quốc với Việt-Nam
Cuộc chiến Việt-Trung năm 1979 là một hoạt động quân sự lớn nhất mà QGPND đã đề xướng kể từ sau chiến tranh Triều Tiên. Dựa trên chiến lược của Mao là “trong mỗi trận đánh, tập trung một lực lượng tuyệt đối vượt trội so với kẻ thù”, Bắc Kinh đã triển khai chín quân-đoàn chính-quy cùng với các đơn-vị đặc-biệt và địa-phương, tạo nên một đội quân hơn 300.000, tiến hành cuộc chiến tranh trừng phạt Việt Nam trong một tháng. Các đơn vị không-quân chiến-đấu đã xuất kích 8.500 phi-vụ tuần tra vùng trời, trong khi đó các đơn vị vận-tải và trực-thăng đã xuất kích 228 lần làm nhiệm vụ không-vận; Hải-quân cử một lực lượng đặc nhiệm (bao gồm hai tàu khu-trục tên lửa và ba hải-đội tàu trang bị tên lửa và ngư-lôi tấn công nhanh) ra đảo Hoàng Sa (Xisha) nhằm đối phó với sự can thiệp của hải-quân Liên-Xô nếu có. Ngoài ra, Các tỉnh Quảng Tây và Vân Nam còn huy động hàng chục ngàn dân-quân và dân-công để hỗ trợ các chiến dịch quân sự. Trong thời gian chiến tranh, quân Trung Quốc đã chiếm ba thị-xã của Việt Nam và hơn một chục thành-phố nhỏ và thị-trấn dọc biên giới, họ tuyên bố đã giết và làm bị thương 57.000 bộ-đội Việt Nam, đánh thiệt-hại nặng bốn sư-đoàn quân chính-quy và mười trung-đoàn trực thuộc khác, cùng với việc chiếm một lượng lớn vũ khí. Bắc Kinh khẳng định rằng cuộc chiến chống Việt Nam 1979 đã kết thúc với thắng lợi thuộc về Trung Quốc.
Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu ngày nay đều thừa nhận rằng quân Việt Nam “đã trên tay” quân Trung Quốc trên chiến trường vì khả năng tác chiến yếu kém của QGPND và thương vong quá nặng như đã được báo cáo chính thức. Hà Nội cho rằng chỉ có dân-quân và các lực-lượng địa-phương đã tham gia vào cuộc xung đột, và không áp dụng một chiến-thuật phòng thủ nào, nhưng đã tấn công liên tục chống lại quân xâm lược Trung Quốc. Họ chỉ chịu mất Lạng Sơn và một số thành-phố khác sau khi đã gây thương vong và thiệt hại nặng nề cho quân Trung Quốc. Đài Hà Nội vào thời gian đó đã thông báo rằng Việt Nam đã tiêu-diệt và làm bị thương 42.000 quân Trung Quốc. Chỉ có một vài tài liệu chính thức của Việt Nam có giá trị cho các nhà nghiên cứu khi tìm hiểu về hiệu suất chiến đấu và thất bại của họ trong cuộc xung đột, trong khi đó các thông tin được đăng tải bởi các cá nhân trên mạng, khi nói về con số tham gia thực tế và thương vong nặng nề của quân chính-quy Việt Nam thì trái ngược hoàn toàn. Mặc dù đánh giá lại cuộc chiến Việt Trung năm 1979 mà chỉ dựa trên nguồn thông tin từ Trung Quốc là phiến diện, nhưng dầu sao điều này cũng có thể soi sáng một số vấn đề.
Một phương pháp đánh giá cái được cái mất của Trung Quốc là tập trung vào thương vong. Lúc đầu Bắc Kinh thừa nhận là có 20.000 binh-sĩ Trung-Quốc bị chết hoặc bị thương trong cuộc xung đột biên giới với Việt Nam. Một xu hướng mang tính học thuật hiện nay nghiêng về con số ước tính khoảng 25.000 QGPND thiệt mạng, trong khi làm nhiệm vụ và 37.000 người khác bị thương. Gần đây có nguồn từ Trung Quốc đã phân loại thiệt-hại của QGPND là 6.900 người chết và 15.000 người bị thương, tổng-cộng thương vong là 21.900 thương vong trong một cuộc chiến với hơn 300.000 lính tham chiến. Trong bất cứ trường hợp nào thì thương vong của Trung Quốc trong cuộc chiến tranh ngắn như vậy là quá cao, điều đó cho thấy một trong những đặc tính cố hữu trong chiến-thuật và chiến dịch của QGPND là: sẵn sàng thí quân cho chiến thắng. Lãnh đạo Trung Quốc xem xét thương vong là một tiêu chí tương đối không quan trọng, khi đánh giá thành công trong quân sự miễn sao họ tin rằng tình hình chiến-lược tổng thể nằm trong tầm kiểm soát của họ.
Theo quan điểm của Trung Quốc, cuộc chiến 1979 với Việt Nam là một biện pháp quân sự có tính toán nhằm trả đũa chính sách thù nghịch với Trung Quốc và sự bành trướng của Việt Nam tại Đông Nam Á cũng như tham-vọng toàn-cầu của Liên Xô. Mặc dù chiến dịch này bộc lộ nhiều điểm yếu của QGPND trong học thuyết quân sự hiện đại và chiến-thuật, từ khởi đầu đến kết thúc, nhưng Trung Quốc đã nhanh chóng nắm giữ thế chủ động và nhịp độ của cuộc xung đột. Bắc Kinh đã gây bất ngờ cho Hà Nội không chỉ vì quy mô của chiến dịch, mà còn ở việc rút lui nhanh chóng và không bị sa-lầy ở Việt Nam. Trung Quốc cũng đã thành công trong việc tiên-liệu đúng phản-ứng của Liên-Xô qua việc bất lực và thiếu thiện chí đối với Việt Nam. Sự trông-cậy vào Liên-Xô trong hiệp-ước hữu-nghị về an-ninh rõ ràng là một bài học chua-xót cho Việt Nam. Điều quan trọng hơn cả cuộc chiến Việt-Trung 1979 là khởi đầu cho một chính sách của Bắc Kinh làm “chảy máu” Việt Nam trong nỗ lực ngăn chặn sự bành trướng của Hà Nội ra Đông Nam Á. Việc Việt Nam rút quân khỏi Campuchia sau cuộc tấn công của Trung Quốc là điều lãnh đạo của Trung Quốc mong mỏi, nhưng họ không tiên liệu được rằng cuộc triệt thoái đã không diễn ra ngay lập tức mặc cho Trung Quốc tấn công Việt Nam ở phía bắc. Sau này Trung Quốc vẫn thi hành một lựa chọn chiến-lược là duy trì áp lực quân sự lên Việt Nam kể cả sự đe dọa liên tục bằng lời nói về một cuộc tấn công thứ hai, và đôi khi tăng cường pháo-binh bắn phá và những trận đánh lớn ở biên giới trong hầu hết thập kỷ 1980. Một nghiên cứu đầu thập niên 1990 đã kết luận : “Cuộc chiến tranh đã đạt được thành công nhất định, khi nó được xem như một chiến-thuật trong chiến-lược chiến tranh tiêu-hao kéo dài của Trung Quốc”.
Tương tự như thế, cuộc chiến-tranh Việt-Trung năm 1979 đã không để lại hậu quả đáng kể cho Trung Quốc trên trường quốc tế mặc dù việc sử dụng vũ lực quân sự chống lại Việt Nam cũng đã dấy lên những nghi ngờ của Indonesia và Malaysia, những nước luôn cảnh giác với ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực. Sự chiếm đóng của Việt Nam ở Campuchia đã đe dọa Thái Lan, khiến làn sóng chống đối Việt Nam của các nước ASEAN tiếp tục gia tăng. Về mối quan hệ Trung-Mỹ, cuộc xâm lược trừng phạt Việt Nam của Trung Quốc thể hiện thành công phần nào khi khi Washington vừa công khai lên án cả cuộc xâm lược của Việt Nam vào Campuchia và cả cuộc xâm lược của Trung Quốc vào Việt Nam lại vừa chia sẻ mối quan tâm của Trung Quốc trong việc ngăn chặn ảnh hưởng của Liên Xô tại Đông Nam Á. Ý chí sẵn sàng sử dụng vũ lực của Bắc Kinh, bất chấp gánh chịu thương vong, đã biến Trung Quốc thành “một bức tường ngăn-chặn có giá-trị” chủ-nghĩa bành-trướng Xô-Việt; Washington vào thời điểm đó đã tiếp tục tìm kiếm một mối quan hệ chặt chẽ với Trung Quốc để cân bằng cán cân với Liên Xô.
Giới lãnh đạo Việt Nam dường như không bao giờ hiểu hết các động thái chiến-lược và mục tiêu chiến tranh của Trung Quốc, nhưng lại khăng khăng quan điểm cho rằng cuộc xâm lược năm 1979 đã trở thành màn mở đầu của một kế hoạch xâm lược dài hạn của Bắc Kinh vào chủ quyền và nền độc lập của Việt Nam. Sau khi Trung Quốc tuyên bố rút quân ngày 5 tháng 3, Hà Nội kêu gọi tổng động viên toàn quốc cho chiến tranh, thúc đẩy việc xây dựng các vị trí phòng thủ trong và xung quanh Hà Nội. Mặc dù đến cuối tháng 5, quân đội Trung Quốc đã trở lại trạng thái bình thường, Việt Nam vẫn tiếp tục đề phòng, duy trì số lượng lớn của quân đội dọc theo biên giới phía Bắc đối diện với Trung Quốc vào thời điểm mà nền kinh-tế của Việt Nam đang “ở trong một tình-trạng tồi-tệ hơn lúc nào hết kể từ sau năm 1975”. Kết quả là, Hà Nội phải dồn hết nỗ lực cho hai cuộc chiến-tranh cùng một lúc, một ở Campuchia và một ở biên giới phía Bắc, dẫn đến một chi-phí rất lớn của xã hội và kinh-tế quốc gia, thu hút mọi nỗ lực của Hà Nội cần có cho việc hiện đại hóa nền kinh-tế, và, quan trọng hơn, làm giảm tham vọng về địa chính trị của họ. Tuy nhiên, giới lãnh đạo Việt Nam không hề nhận ra tính chất nghiêm trọng của tình hình, tiếp tục phụ-thuộc vào Liên-bang Xô-viết cho đến khi nó sụp-đổ vào năm 1991. Nếu có bất kỳ bài học mà người Việt Nam cần rút ra từ cuộc chiến 1979 với Trung Quốc, thì đó là Việt Nam, như một vị tướng Việt Nam sau này đã nhận xét, “phải học cách sống chung với anh hàng xóm to lớn”.
Nhắc đến vấn đề tại sao Trung Quốc phải nóng lòng khi sử dụng một lực lượng đã được chuẩn bị sẵn để chống lại Việt Nam vào năm 1979, các phân tích ở đây cũng phù hợp với khẳng định của các nghiên cứu khác là mối lo ngại về tính toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền đã đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với Bắc Kinh, đủ để thúc đẩy QGPND không chỉ trong trách nhiệm bảo vệ, mà còn phải tấn công nếu cần. Tranh chấp lãnh thổ và căng thẳng biên giới có vẻ như là yếu tố kích thích để thúc đẩy Bắc Kinh xem xét đến việc sử dụng vũ lực chống lại láng giềng phía nam của họ. Hơn thế nữa, cùng với sự cuồng phát của chủ-nghĩa dân-tộc đầy cảm tính đã hướng tới việc củng cố thêm tinh-thần Đại-Hán, theo đó cần phải có một sự trừng phạt nào đó với một đồng minh cũ đã dám phản-bội và quay lưng lại với Trung Quốc. Tâm lý này cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc mang lại một sự đồng thuận rộng rãi giữa các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự của Trung Quốc để hỗ trợ Đặng, kẻ đóng vai trò trung tâm trong việc đưa ra các quyết định triển khai quân sự chống lại Việt Nam. Về các vấn đề chủ quyền lãnh thổ, điều luôn luôn làm nảy sinh những phản ứng thái quá của người Trung Quốc, quan điểm quân sự dường như đã trở thành yếu tố kiên quyết trong các quyết định để khởi đầu cho mọi thù địch hiện nay. Hội nghị cán bộ tháng Chín năm 1978, từ việc cung cấp các khuyến cáo cho ban lãnh đạo trung ương để đối phó với tình hình quan hệ xấu đi giữa Trung Quốc và Việt Nam, đã là điểm khởi đầu cho một hoạt động quân sự lớn. Các phân tích quân sự về phản ứng có của Liên Xô cũng giúp làm sáng tỏ những lo ngại về rủi ro nếu có. Tuy nhiên, quân đội đã phải hy sinh chính họ cho tham vọng của ban lãnh đạo trung ương. Một khi quyết định đã được đưa ra để thực hiện cuộc xâm lăng trừng phạt Việt Nam, các tướng lĩnh đã hăm hở thực hiện nhiệm vụ của mình với sự thích thú triển khai tối đa lực lượng.
Những bài học được rút tỉa
Bất kể thành công về chiến lược của Trung Quốc như thế nào, một số vấn đề quan trọng vẫn cần được bàn lại. Ví dụ QGPND đã nhận thức thế nào về hiệu năng chiến đấu của họ ở Việt Nam, bài học nào đã rút ra từ chiến dịch, kinh nghiệm này đã ảnh hưởng đến suy nghĩ của QGPND về tương lai của họ đến mức nào. Là một phần trong truyền-thống của QGPND, tất cả các binh sĩ tham gia vào cuộc xung đột đã được lệnh phải viết tóm lược kinh nghiệm chiến đấu của họ. Nhìn lại cuộc chiến, bộ chỉ huy QGPND cũng thấy những mâu thuẫn nội tại. Trong khi tuyên bố rằng Trung Quốc đã giành chiến thắng, họ cũng phải thừa nhận cái giá quá cao mà QGPND đã phải trả. Trong quan điểm của bộ chỉ huy QGPND, ở một chừng mực nào đó cần có đánh giá phần nào khách quan về những yếu kém của QGPND. Tuy nhiên, họ lại e ngại khuynh hướng đánh giá quá cao khả năng và hiệu năng chiến đấu của quân đội Việt Nam. Cùng chiều hướng đó, nên niềm tự hào dân tộc và định kiến văn hóa của họ chắc chắn sẽ ngăn cản họ đưa ra những kết luận thẳng thắn về kinh nghiệm của QGPND trong chiến tranh. Những kinh nghiệm đó có thể được tổng hợp thành sáu chủ đề sau :
1) Một trong những châm ngôn truyền-thống của QGPND là “biết địch biết ta trăm trận trăm thắng”. Cuộc chiến Việt-Trung năm 1979 cho thấy QGPND quan-tâm rất ít đến binh-pháp và chiến-thuật của QĐND Việt-Nam trước khi họ tấn công Việt Nam. Kết quả là, quân đội Trung Quốc đánh giá thấp khả năng chiến đấu của các đối thủ của mình. Có thể từ chỗ lo sợ, vì đã tung hô quá nhiều danh tiếng của quân đội Việt Nam, nên tài liệu quân đội QGPND đã kết luận rằng lực lượng chính-quy của kẻ địch thiếu kiên trì trong tiến công và phòng ngự và có rất ít các chiến dịch hiệp đồng, nhưng lại thừa nhận rằng chiến-thuật kiểu du-kích, công-binh và dân-quân tự-vệ của Việt Nam đã thành công đáng kinh ngạc trong việc kìm chân quân Trung Quốc giảm thế cân bằng, khi họ lo tìm kiếm những trận đánh quyết định với quân chính-quy của QĐND Việt Nam trong một cuộc chiến hạn chế. Một sĩ quan Mỹ khi tổng kết kinh nghiệm của người Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam, đã ghi nhận rằng không thể “để xâm nhập, vòng sườn, hoặc bao vây” vị trí cố thủ của quân đội Việt Nam “mà không bị thương vong rất nặng”. Chiến-thuật của QGPND, thúc thật nhiều bộ binh tấn công xáp-lá-cà vào vị trí đối phương bất chấp tử vong cao, đã giải thích tại sao Trung Quốc dám khẳng định rằng quân đội Việt Nam không có khả năng trong phòng thủ bảo vệ vị trí của họ.
2) Những khó khăn bất ngờ trong tác chiến đã khiến người Trung Quốc rút ra bài học thứ hai từ cuộc xung đột liên quan đến tình-báo và lập kế-hoạch. Thiếu thốn thông tin từ lâu về một đồng minh truyền-thống đã là một thách thức lớn cho việc lập kế hoạch chiến tranh và kế hoạch tác chiến của Trung Quốc. Các đánh giá về địa lý và địa hình của miền Bắc Việt Nam của QGPND thường dựa trên các bản đồ và thông tin địa lý đã lỗi thời, trong khi khả năng trinh sát chiến trường lại bị hạn chế. Một trong những sai lầm lớn của quân đội Trung Quốc là đánh giá sai số lượng lực lượng dân-quân rất lớn trong dự đoán về sức mạnh quân sự Việt Nam. Kinh nghiệm của QGPND cho thấy, dân-quân Việt thể hiện sức đề kháng không hề nao núng và thực hiện các cuộc tấn công bất ngờ hơn vào các quân xâm lược hơn cả bộ-đội chính-quy QĐND Việt Nam. Lúc đầu các nhà kế hoạch quân sự của QGPND tin rằng họ đã tập hợp được một lực lượng vũ trang vượt trội với tỷ lệ 8:1 để tấn công quân Việt Nam. Nhưng chỉ tính riêng tại khu vực Cao Bằng đã có 40.000 cho đến 50.000 dân-quân khiến tỷ lệ lực lượng Trung Quốc chỉ còn hơn Việt Nam là 2:1. Trong suốt chiến dịch, QGPND không bao giờ cho thấy khả năng đè bẹp đối phương bằng mức vượt trội về quân số. Cuộc chiến tranh này còn cho thấy sự khó khăn như thế nào, khi thực hiện các chiến dịch quân sự ở nước ngoài nếu dân chúng địa phương được huy động vào việc kháng cự.
3) Bài học thứ ba là về khả năng chiến đấu của QGPND vì đây là lần đầu tiên Trung Quốc áp dụng tác chiến phối hợp với nhiều binh chủng gồm xe tăng, đại bác, bộ binh cùng với một lực lượng không quân và hải quân yểm trợ. Lạc hậu trong binh pháp và chiến thuật khiến quân đội Trung Quốc không thể phối hợp một cách bài bản trong tác chiến. Trong khi đó ở Bắc Kinh, sự ràng buộc chính trị và tư duy quân sự lạc hậu đã bác bỏ phương án yểm trợ tác chiến của không-quân. Các lực lượng mặt đất cũng cho thấy sự thiếu đồng bộ giữa bộ binh, xe tăng và các đơn vị pháo binh để có thể triển khai việc phối hợp tác chiến sao cho hiệu quả. Một ví dụ rõ ràng là bộ-binh đã không bao giờ được huấn luyện kiến thức đầy đủ về phương án tấn công phối hợp với các đơn-vị xe tăng. Lính bộ binh, những người bị buộc bằng dây thừng vào tháp pháo xe tăng để khỏi ngã khi hành quân đã bị mắc kẹt khi bị quân địch bắn hạ. Mặt khác, các đơn vị xe tăng thường phải chiến đấu không có bộ-binh tháp tùng và thiếu liên lạc trực tiếp giữa hai bên, nên đã phải chịu nhiều thiệt hại và tổn thất khôn lường. Kinh nghiệm của cuộc chiến tranh 1979 đã dạy cho QGPND bài học giá trị về kỹ năng phối hợp tác chiến đa binh chủng.
4) Bài học thứ tư là về hiệu năng chỉ huy và điều khiển mà phần lớn bắt nguồn từ truyền-thống và văn hóa của QGPND. Mối quan hệ cá nhân giữa sĩ quan chỉ huy và chiến sĩ, vốn đã được vun trồng trong quá khứ, vẫn tạo nhiều rắc rối trong hàng ngũ QGPND. Khi mà mối quan hệ giữa các cá nhân trở nên quan trọng hơn cả điều lệnh thì chẳng ngạc nhiên khi biết rằng các chỉ huy của Quân Khu Quảng Châu sau này thừa nhận rằng họ cảm thấy khó chịu, khi chỉ huy quân sĩ được chuyển từ Quân-khu Vũ Hán và Thành Đô đến trong thời gian phục vụ chiến dịch. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc cũng nghe nhiều cấp dưới phàn nàn về phong cách chỉ huy của họ Hứa (Hứa Thế Hữu - ND), vì trước đó ông ta chưa từng chỉ huy họ. QGPND còn gặp khó khăn do nhiều sĩ quan chưa có kinh nghiệm trận mạc. Mặc dù nhiều sĩ quan có cấp bậc cao hơn và có thâm niên chiến đấu đã được cử đến để chỉ huy các đơn vị cấp thấp hơn để giúp đỡ chấp hành mệnh lệnh, nhưng khả năng tác chiến của QGPND vẫn thất bại, vì các sĩ quan cấp thấp vẫn còn thiếu khả năng quyết đoán độc lập và phối hợp tác chiến trong những thời điểm quyết định. Tuy nhiên, cuộc chiến 1979 với Việt Nam đã khai sinh ra một thế hệ mới các cán bộ quân đội Trung Quốc có kinh nghiệm chiến trường, và nhiều người trong số họ hiện nay đang phục vụ tại các vị trí cao cấp của QGPND
5) QGPND thiếu một hệ thống và cơ cấu cung cấp hậu-cần hiện đại, để hỗ trợ cho những chiến dịch quân sự đòi hỏi di chuyển nhanh và ở vùng xa xôi. Các số liệu thống kê cho thấy trung bình mỗi ngày tiêu thụ đạn dược và nhiên liệu là 700 tấn cho mỗi loại. Hoạt động hậu-cần là một lĩnh-vực lớn để QGPND rút ra bài học. Vì không có đầy đủ dự trữ và phương tiện giao thông vận tải, khiến cả Quân khu Quảng Châu và Côn Minh đã phải đặt dưới cùng một hệ thống cung cấp, mà hệ thống đó chẳng bao giờ hoạt động thông suốt và hiệu quả. Một số lượng đáng kể các nguồn cung cấp bị mất hoặc là do quản lý kém hay bị Việt Nam phá hoại. Khi lực lượng của họ tiến sâu hơn vào lãnh thổ Việt Nam, để bảo vệ mình, các sĩ quan hậu-cần đã phải rất khó khăn để giữ liên lạc không bị trệch hướng với đại quân. QGPND đã kết luận rằng cần thiết phải tạo ra bộ chỉ huy về giao-thông vận-tải để đối phó với các vấn đề mà bộ đội của họ đã phải đối mặt trong chiến dịch. Kinh nghiệm này có vẻ vẫn còn giá trị cho Trung Quốc đến tận hôm nay khi cựu phó chỉ huy của Đại-học Quốc-phòng QGPND Trung Quốc phát biểu tại một hội nghị chuyên đề về “kiểm-soát truyền-thông” vào năm 2002.
6) Bài học cuối cùng là làm thế nào để có thể diễn giải một học-thuyết cũ về chiến-tranh nhân-dân vào các cuộc xung đột diễn ra bên ngoài biên giới Trung Quốc. Một trong những nguyên tắc của học-thuyết chiến-tranh nhân-dân của Trung Quốc là việc huy động dân thường để hỗ trợ cho chiến tranh. Những kinh nghiệm chiến tranh 1979 đã chỉ ra rằng hầu như không thể đưa một lực lượng khổng lồ QGPND hoạt động ở nước ngoài mà không có sự ủng hộ chiến tranh của nhân dân trong nước. Bộ máy tuyên-truyền của Bắc Kinh đã đánh thức lòng yêu nước của công chúng và lòng tự hào về người lính Trung Quốc. Biểu hiện mạnh mẽ của lòng yêu nước đã giúp QGPND nhận được hỗ trợ trực tiếp cho các hoạt động từ người dân sống tại hai tỉnh biên giới. Tại riêng tỉnh Quảng Tây, hơn 215.000 cư-dân địa phương đã được huy động để làm người vận chuyển, nhân viên bảo vệ và khuân vác để hỗ trợ tiền tuyến; và hơn 26.000 dân-quân từ khu vực biên giới đã thực sự tham gia vào các hoạt động chiến đấu trực tiếp. QGPND vào thời điểm đó chỉ có một hệ thống cung cấp vá víu đòi hỏi các đơn vị phải tự túc hệ thống cung cấp trên chiến trường theo kiểu “hậu-cần bán lẻ”. Chính quyền địa phương đã làm mọi việc dễ dàng cho binh lính bằng cách đơn giản hoá thủ tục, giúp họ nhận được đầy đủ vật chất và thực phẩm tươi trong thời gian ngắn nhất có thể. Kinh nghiệm này đã thuyết phục bộ chỉ huy QGPND rằng huy động chính quyền địa phương và dân chúng để hỗ trợ cho một cuộc chiến tranh vẫn là chìa khóa cho chiến thắng.
Những bài học mà Trung Quốc đã rút tỉa được từ cuộc chiến 1979 với Việt Nam có thể không được liền lạc, thiếu toàn diện và khó mà khách quan vì QGPND không đánh giá sự thành công về chiến dịch quân sự của họ trên cơ sở kết quả tác chiến mà là trên cơ sở các tác động của cuộc xung đột đến tình hình chung. Chịu ảnh hưởng sâu sắc lời dạy của Mao là chiến tranh về cơ bản là một vụ kinh doanh chính trị, miễn là Trung Quốc cho là họ đã thành công trong việc đạt được mục tiêu quân sự và chiến-lược đề ra, còn các vấn đề gây ra từ thất bại của chiến-thuật chỉ là thứ yếu. Đây cũng là lý do tại sao các bài học đó đã có những khác biệt đáng kể so với các nghiên cứu của phương Tây nơi mà nhiều thông tin tương đối khả tín, mặc dầu đôi khi vẫn thấy xuất hiện đây đó một chút thái quá do lạm dụng các nguồn tin hạn chế để kết luận về một vấn đề cực kỳ phức tạp. Các nghiên cứu của QGPND nhìn nhận rằng cuộc Cách Mạng Văn Hóa (1966-1976) đã tạo bất lợi và hủy hoại những truyền-thống tốt đẹp của QGPND, và kết quả là, các lực lượng của Trung Quốc thực hành tác chiến tồi tệ trong chiến tranh. Những bài học rút ra của QGPND đã tập trung nhiều vào cấp độ chiến-thuật của chiến tranh với sự nhấn mạnh vào chỉ huy và kiểm soát, phối hợp tác chiến giữa các đơn vị, cơ cấu lực lượng và vũ khí hơn là chiến lược và triết lý mang tính học thuyết. Trong quá trình đánh giá kinh nghiệm chiến tranh 1979, QGPND có vẻ như không tìm cách che đậy hoặc bỏ qua thiếu sót về các hạn chế của họ vào thời điểm đó; tuy nhiên họ đã mắc sai lầm khi không đề cập đến những khiếm khuyết trong tư duy quân sự và binh-pháp truyền-thống.
Các nghiên cứu của phương Tây đã so sánh những bài học mà QGPND đã rút ra từ cuộc chiến Việt-Trung 1979 với việc đánh giá lại vào năm 1985 của ban lãnh đạo Trung Quốc về bản chất của chiến tranh hiện đại và các mối đe dọa đang rình rập Trung Quốc cộng với những nỗ lực tiếp theo để cải tiến và chuyên nghiệp hóa QGPND trong suốt những năm 1980. Bài học Việt Nam đối với QGPND và những cuộc giao tranh vẫn liên tục xảy ra trên biên giới Trung-Việt trong những năm 1980 đã giúp cho cho ban lãnh đạo Trung Quốc phải thực hiện những cuộc chuyển đổi chiến-lược từ việc nhấn mạnh đến sự chuẩn bị cho chiến tranh tổng hợp đến việc chuẩn bị cho chiến tranh cục bộ và chiến tranh hạn chế theo xu hướng của thời gian. Trong quá trình chuyển đổi QGPND thành một lực lượng hiện đại vào những năm 1980, có rất ít những nỗ lực được thực hiện nhằm sửa chữa thiếu sót về tư duy quân sự, đó là thái độ luôn luôn coi nhẹ vai trò của của không-quân. Kết quả là, nếu có điều gì còn chưa trung thực trong việc rút kinh nghiệm của QGPND thì đó chính là bài học về ưu thế trên không hoặc yểm trợ không-quân. Tài liệu của QGPND vẫn cho rằng việc hạn chế khả năng của lực lượng không-quân Trung Quốc là lý do chính khiến không-quân Việt Nam không tham gia vào xung đột. Nguyên-soái Diệp Kiếm Anh (Ye Jianying) thậm chí còn nhận xét một cách lố bịch rằng hoạt động giả vờ của không-quân Trung Quốc trong cuộc chiến chống lại Việt Nam là một “đòn nghi-binh khéo-léo trong tác-chiến không-quân”. Nhận xét đó rõ ràng cho thấy vẫn còn sai lầm trong giới lãnh đạo Trung Quốc, khi họ tiếp tục đánh giá chưa cao vai trò quan trọng của không-quân trong chiến tranh hiện đại.
Tuy nhiên, tổng kết các kinh nghiệm của QGPND trong cuộc chiến 1979 với Việt Nam đã cung cấp một cái nhìn hữu ích về việc giới lãnh đạo Trung Quốc trong việc tiếp cận vấn đề chiến tranh và chiến-lược như thế nào. Cái nhìn này cũng phù hợp với những phát hiện nằm trong các công trình nghiên cứu gần đây. 1) Trước tiên, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã thảo luận và tính toán thời điểm và như thế nào, khi sử dụng sức mạnh quân sự, nhưng đã không ngần ngại quyết định khởi chiến, khi họ cho rằng lợi-ích quốc-gia của Trung Quốc đang bị hăm doạ hoặc lâm nguy. 2) Thứ hai, QGPND thể hiện quyết tâm giành và giữ thế chủ động tác chiến bằng việc triển khai quân số vượt trội (chiến-thuật biển người). 3) Thứ ba, ý thức về chiến thắng quân sự của Trung Quốc đặt nhiều hơn vào việc đánh giá kết quả địa chính trị, khi đem so với phê phán về hiệu năng tác chiến trên chiến trường. Kể từ sau cuộc chiến 1979 với Việt Nam, QGPND đã tiến hành sửa đổi sâu rộng trong học thuyết quốc phòng, chỉ huy và điều khiển, chiến-thuật tác chiến, và cơ cấu lực lượng, trong khi các hoạt động quân sự thế giới cũng đã chuyển đổi đáng kể từ khi cuộc chiến năm 1979. Ngày nay, không ai nghĩ rằng các lực lượng vũ trang của Trung Quốc sẽ lặp lại những gì họ đã làm trong chiến-tranh biên-giới với Việt Nam. Từ góc độ lịch sử, những nét đặc thù của người Trung Quốc đã bộc lộ trong cuộc chiến 1979 với Việt Nam có thể vẫn còn có giá trị trong các giáo trình của học viện quân sự của Trung Quốc cũng như đối với những người hằng quan tâm đến phương pháp sử dụng sức mạnh quân sự của người Trung Quốc, không chỉ trong quá khứ mà cả với hiện tại và trong tương lai.
Bản dịch của một cộng tác viên, riêng cho tạp chí Thời Đại Mới.