Tổng số lượt xem trang

Chủ Nhật, 19 tháng 5, 2013

Đi theo Tàu là mất nước, mất đảng

(Bài này trên Quechoa cũng mất luôn rồi )

Quechoa

tho-ngo-minh_240x180Mấy hôm nay tôi vô cùng bức xúc với việc, ngày 13-5, 32 tàu cá Trung Quốc đã kéo đến vùng biển phía tây nam quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Đoàn tàu “đánh cá” của bọn Đại Hán này hoàn toàn nằm trong thềm lục địa của Việt Nam. Ấy thế mà Việt Nam không một lời lên tiếng*. Nghĩa là Trung ương đã để mặc lãnh hải cho bọn Trung Quốc muốn làm gì thì làm. Uất quá, buộc phải lên tiếng.
Trong lịch sử Việt Nam, nước ta bị giặc Tàu đô hộ ngàn năm, nhưng từ Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn , không có triều đại nào đi theo Tàu, bán đất nước cho Tàu. Nhiều triều đại còn xưng “ĐẾ” ngang với Thiên Triều. Nam quốc sơn hà Nam đế cư/Tuyệt nhiên định phận tại Thiên Thư-“Đế”, con trời do Sách Trời định , ngang hàng với Đế Tàu, chứ không phải vua do Tàu phong…. Hay như Nguyễn Huệ tự xưng là Hoàng đế Quang Trung.
  Bọn Lê Chiêu Thống, Trần Ích Tắc  ôm chân giặc Tàu để mong chúng giúp giành ngôi để làm tôi mọi cho Tàu, bị lịch sử lên án ngàn đời. Lịch sử Việt Nam thời cận đại có ba triều đại Lê Trịnh, Tây Sơn và Nguyễn, đối nghịch lăm le tiêu diệt lẫn nhau, gây cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn hàng thế kỷ, tuy nhiên có điều là cả ba cùng một ý nguyện tìm cách đòi lại phần đất bị mất bởi Trung Quốc, đòi lại 10 châu thuộc phủ An Tây, Hưng Hóa, là địa phận tỉnh Điện Biên, Lai Châu hiện nay . Ðại Nam Nhất Thống Chí xác nhận rằng 6 châu bị mất vào nhà Thanh gồm : Tung Lăng, Hoàng Nham, Hợp Phì, Lễ Tuyền, Tuy Phụ, Khiêm. Riêng 4 châu còn lại thì đời đầu Nguyễn thuộc phủ An Tây, đến thời Thiệu Trị trích lấy đất lập Châu Lai, tiền thân của tỉnh Lai Châu, năm Tự Ðức thứ 4 [1851] trích lấy châu Quỳnh Nhai và châu Luân cho lập phủ Ðiện Biên, tiền thân của tỉnh Ðiện Biên ngày nay. Đó mới là người Việt Nam

Đau đớn thay, từ giữa thế kỷ XX đến nay, nước ta dưới thời CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN, với khẩu hiệu “Bốn phương vô sản đều là anh em”, ngây thơ “đi theo” Trung Quốc đã bị mất đất, mất người nhiều lần. Chúng lấm chiếm biên giới lấy mất Mục Nam Quan, lấy mất 2/3 Thác Bản Dốc. Theo nhà báo Huy Đức trong tác phẩm ”Bên thắng cuộc”, thì Trung Quốc đã dừng mọi thủ đoạn để lấn chiếm 50.000 m2 Việt Nam dọc biên giới. Năm 1974, giặc Tàu chiếm Quần đảo Hoàng Sa, 1988, chúng đánh chiếm đảo Gạc Ma thuộc Trường Sa của Việt Nam. Các chiến sĩ Hải Quân Việt Nam là đội quân thiện chiến vừa mới thắng Mỹ, nhưng “lệnh trên” để “giữ tình hữu nghị”, không được bắn trả, chỉ ôm lá cờ chịu chết , chịu mất đảo . Đau đớn thay. Việt Nam chiến tranh 20 năm, trên 5 triệu người cả hai miền Nam-Bắc bi chết, để thực hiện âm mưu “đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng” của Mao Trạch Đông. Hiện nay, sâu trong lãnh thổ Việt Nam, hàng ngàn lính Tàu gian manh đã đứng chân trên đất Tây Nguyên với kế hoạch khai thác boxite ký kết giữa Tổng Bí thư 2 đảng. Boxite là thứ rẻ độn, mua đâu cũng có hàng tỷ tấn, tại sao chúng đòi cho bằng được Tây Nguyên? Vì ai chiếm được Tây Nguyên thì kẻ đó chiếm được Đông Dương. Quân tàu cũng đang chiếm cứ 300.000 ha rừng đầu nguồn phía Bắc, do bọn quan tỉnh tham lam bán đất cho chúng. Nếu chiến tranh xẩy ra thì đất ấy là hậu cứ của Tàu.

Ở trên là nói về đất. Bây giờ xin nới về người. Ngoài việc hàng triệu người hy sinh trong “chiến tranh lạnh” để bảo vệ Trung Quốc và “phe XHCN”, 74 chiến sĩ Hải Quân Việt Nam Cộng hòa hy sinh ở Hoàng Sa, 64 chiến sĩ Hải Quân Việt Nam hy sinh ở Gạc Ma, còn một kiểu “mất người” tàn bạo khác do đi theo Tàu. Đó là thảm họa Cải cách ruộng đất theo mô hình thổ địa cải cách của Mao Trạch Đông , cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc được tổ chức với tinh thần đấu tranh giai cấp triệt để với sự chỉ huy trực tiếp của cố vấn Trung Quốc với phương châm: “Trí, phú, địa, hào đào tận gốc trốc tận rễ”. Kết quả từ 1953- 1956 đã phá nát hệ thống thiết chế văn hóa nông thôn Việt Nam, làm cho nông thôn tan nát. Theo thông kế chưa đầy đủ, cả nước , Đội CCRĐ đã bắt tù đày đọa 5% nông dân, nghĩa là gần 500.000 người bị bắt tù, bị đấu tố, nhục mạ. Đội CCRĐ đã giết 15 vạn địa chủ, thực ra là những người có tài kinh doanh, biết sử dụng ruộng đất hiệu quả, nên đời sống cao hơn người khác và cả những chí sĩ yêu nước bị ghép vào tội “Quốc dân đảng”, bị quy địa chủ bị bắt tù rồi chết oan trong tù như Hoàng Giáp Nguyễn Khắc Niêm ở Hà Tĩnh.
Sau CCRĐ là Cải tạo Công thương nghiệp tư doanh ở miền Bắc năm 1956 và ở miền Nam sau năm 1975, cũng là cách làm theo Mao Trạch Đông và Stalin, đã phá nát nền công nghiệp non trẻ của Việt nam, đẩy các chủ doanh nghiệp tài giỏi đến cùng quẫn phải đi bán hàng rong hoặc vượt biên, làm mồi cho cá trên đại đương.
Về văn hóa, chính trị, 2 lần làm theo lệnh Trung Quốc, làm cho hàng ngàn vạn trí thức lớn Việt Nam bị bắt bớ, tù đày, bị quản thúc. Đó là vụ Nhân Văn-Giai phẩm và vụ Chống xét lại. Vụ Nhân Văn Giai phẩm bắt đầu diễn ra đấu tố năm 1958. Hàng trăm văn nghệ sĩ , trí thức lớn như Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Trần Dần, Văn Cao, Lê Đạt, Nguyễn Hữu Đang… và những người liên quan vị bắt tù, bị treo bút hoặc mất việc. Có người như ông Nguyễn Hữu Đang- nhà văn hóa lớn, Trưởng ban tổ chức Lễ tuyên ngôn Độc lập Quảng Trường Ba Đình 2-9 1945, bị tù ở nhà tù heo hút ở sát biên giới Trung Quốc, dài đến mức ông không biết có một cuộc chiến tranh phá hoại ở miền Bắc do không quân Mỹ tiến hành. Nhà văn Lê Hoài Nguyên tên thật là Thái Kế Toại, nguyên Đại tá công an, công tác tại A25 (chuyên theo dõi văn nghệ sĩ và văn hóa) sau này đã có chuyên luận dài về Nhân Văn Giai Phẩm, đã nhận định: VỤ NHÂN VĂN–GIAI PHẨM TỪ GÓC NHÌN MỘT TRÀO LƯU TƯ TƯỞNG DÂN CHỦ, MỘT CUỘC CÁCH MẠNG VĂN HỌC KHÔNG THÀNH. Ông Thái Kế Toại cho rằng, NVGP không phải là một vụ án gián điệp phản động. Các văn nghệ sỹ trí thức NVGP không có mục đích lật đổ chế độ. Họ chỉ mong muốn ĐCSVN, chính phủ sửa chữa những sai lầm và xây dựng ngay một nền dân chủ pháp trị, một đời sống tinh thần có tự do tư tưởng, một đời sống văn học nghệ thuật tự do sáng tạo”. Vụ án đã tiệt tiêu một thế hệ văn nghệ vàng của Việt Nam.
 Vụ án Xét lại hiện đại cũng xuất phát từ việc đi theo và làm theo Trung Quốc. Vụ này có hai giai đoạn : giai đoạn đầu , bắt đầu từ đầu những năm 1960, đối tượng đấu tố là các văn nghệ sĩ có các tác phẩm yêu đương, buồn rất người, theo cách của các tác phẩm Khi đàn sếu bay qua, Người thứ 41.v.v.. ở Liên Xô sau chiến tranh thế giới thứ 2, như : Mở hầm của Nguyễn Dậu, Mùa hoa dẻ của Văn Linh.v.v..Các văn nghệ sĩ và các giáo viên dạy văn cấp 3 bị quy là xét lại phải kiểm điểm. Có người mất việc trong cơ quan nhà nước. Vụ án xét lại lớn thứ hai được gọi là Vụ án Tổ chức chống Ðảng, chống Nhà nước, đi theo chủ nghĩa xét lại hiện đại và làm tình báo cho nước ngoài” do Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Đức Thọ và Bộ trưởng Công an Trần Quốc Hoàn trực tiếp chỉ đạo, là vụ bắt giam lâu năm không xét xử nhiều nhân vật quan trọng trong nội bộ Đảng và bộ máy chính quyền tại miền bắc Việt Nam từ năm 1967, với cáo buộc là đi theo Chủ nghĩa Xét lại. Vụ án bắt đầu từ việc, tại đại hội lần thứ 20 Đảng Cộng sản Liên Xô, Khrushchyov TBT Đảng CS Liên Xô đã đọc báo cáo về Tệ sùng bái cá nhân của I.V. Stalin. Ông chủ trương chung sống hòa bình với thế giới Tư bản (“Các nước không cùng lập trường chính trị có thể sống chung”). Đường lối của Khrushchyov bị Mao Trạch Đông, chống lại và gọi là “Chủ nghĩa Xét lại”. Việt Nam đi theo Mao nên cũng triển khai bắt giam và giết hại “bọn xét lại trong nước”. Ước lượng trong Vụ án Xét lại Chống Đảng, khoảng 300 người bị bắt trong đó có 30 nhân vật cao cấp. Đây là thế hệ trí thức, cán bộ cấp cao có trình độ nhất Việt Nam thời bấy giờ. Có nhà phân tích cho rằng, vụ án xét lại này cũng là do Lê Đức Thọ muốn dùng “hiểm họa xét lại” để hạ bệ tướng Võ Nguyên Giáp. Dù phân tích theo hướng nào thì những vụ án như thế cũng là do Trung Quốc chỉ đạo nhằm tiêu diệt giới trí thức hàng đầu Việt Nam.
Trung Quốc là quốc gia do bọn bành trướng Đại Hán thống trị. Chúng không bao giờ là “anh em hòa hảo” với ai mà coi các nước lân bang là miếng mồi để chiếm đất. Chúng đã chiếm Tây Tạng, gây hấn với Mông Cổ, Liên Xô , Ấn Độ, Việt Nam …Theo tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, một trong số ít người Việt nam hiểu Trung Quốc nhất, thì chúng không bao giờ có truyền thống văn hóa với Việt Nam, không chung ý thức hệ với Việt Nam (Lãnh đạo Trung Quốc đã từ lâu rời bỏ ý thức hệ Mác-Lê Nin, để trở thành một tập đoàn Hán tộc tham lam, muốn đầu độc cả thế giới bằng hàng hóa độc hại và chiến tranh, lấn đất, lấn biển). Cho nên đi theo Tàu là chết !
o0o
Chỉ có 2 lần lãnh đạo Việt Nam không nghe theo Trung Quốc và đã giành thắng lợi vang dội : Đó là Chiến dịch Điện biên Phủ ( 1954) và Chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968 và Chiến dịch Hổ chí Minh năm 1975. Trong Chiến dịch Điên Biên Phủ, Đại tướng Võ Nguyễn Giáp đã không nghe theo sự chỉ đạo của cố vấn Trung Quốc, dù kế hoạch của cố vấn đã được Bộ chỉ huy chiến trường phê duyệt, đã thay đổi cách đánh từ “Đánh nhanh tiến nhanh” của Trung Quốc thành “Đánh chắc, tiến chắc” của Việt Nam . Nên kéo pháo vào rồi lại kéo pháo ra. Kết quả là Võ Nguyên Giáp đã đúng. Việt Nam đã thắng Pháp và thắng cả mưu mô của Trung Quốc. Còn thời đánh Mỹ, TBT Lê Duẩn đã không nghe theo Mao Trạch Đông “Đánh Mỹ đến người Việt nam cuối cùng”, nên đã tổ chức các cuộc tấn công năm 1968, 1972, 1975 và đã giành thắng lợi. Việt Nam đã thắng Mỹ và thắng cả mưu mô thâm hiểm của Trung Quốc.
Nhân dân Việt Nam, đặc biệt là giới trí thức hiểu rất rõ bản chất thâm hậu của bọn Tàu. Nhưng đáng buồn thay , một số lãnh đạo Đảng CS Việt Nam lại mơ hồ ( hay giả vờ mơ hồ ?) về người bạn “16 chữ vàng”, “4 tốt “ lừa mị, để hướng đất nước theo chúng. Một số học giả chính trị của Quân Đội nhân dân Việt Nam mà tiêu biểu là Đại tá, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo Ưu tú Trần Đăng Thanh thuộc Học viện Chính trị của Bộ Quốc phòng, người đã đăng đàn bảo vệ quan điểm “đi theo Trung Quốc” để “bảo vệ cái sổ hưu”. Họ cho rằng: “Trung Quốc có đánh ta, nhưng là ân nhân của nước ta”. Thậm chí họ còn vạch chiến lược huấn luyện tác chiến của Quân đội Việt Nam với đối tượng tác chiến là Quân Mỹ chứ không phải quân Trung Quốc. Tôi cho rằng, đó là nhận định sai lầm, có nguy cơ dẫn đến mất nước và mất cả đảng ( đối với những người cộng sản chân chính). Vì ta đánh Mỹ là bảo vệ Trung Quốc và phe XHCN, không có nợ nần gì chúng. Nếu có chút nợ nần thì cuộc chiến xâm lược Việt Nam mà Trung Quốc phát động tháng 2- 1979 và cuộc chiến Gạc Ma 1988, hàng chục vạn người Việt Nam dọc biên giới đã bị giết hại, không những xóa sạch nợ nần, mà chúng còn gây nợ máu đối với nhân dân Việt Nam rất lớn. Thế thì làm sao gọi là “ân nhân” hỡi ông Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo Ưu tú ” bảo vệ cái sổ hưu”?
Cả ngàn năm Bắc thuộc, đất nước ta nghèo, không biết gì thế giới bên ngoài, mà các triều đại tuyệt đối không theo Trung Quốc, không bị Trung Quốc đồng hóa. Ngày nay Việt Nam có thế lực và tiềm năng rất lớn để giữ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ trước bọn bành trướng Đại Hán, vì chúng ta có Nhân Dân cực kỳ yêu nước, Quân đội nhân dân thiện chiến, có điểm tựa là khối ASAEN với 10 nước liền kề, lại còn có các nước bè bạn khắp năm châu như Nga, Ấn Độ, Anh, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ…Nếu chúng ta biết khai thác những lợi thế đó thì bọn Đại Hán không làm gì được ta.
Trung Quốc là nước láng giềng. Chúng ta phải tôn trọng và ứng xử hữu hảo theo luật lệ thế giới. Nước Việt Nam là nước độc lập có chủ quyền, nếu Trung Quốc gây hấn ở Biển Đông hay biên giới, nhân dân Việt Nam biểu tình phản đối sao lại “bắt tù “ nhân dân ? Phải ngay lập tức triệu đại sứ Trung Quốc tới, trao công hàm, nói với họ rằng, nếu các ông sống hữu hảo, đừng xâm phạm lãnh hải Việt Nam thì nhân dân Việt Nam sẽ không biểu tình chống Trung Quốc. Sao không nói với họ như thế, lại đi đàn áp nhân dân mình ? Nước có chủ quyền gì mà lạ thế !
Có người bảo:” Đi với Trung Quốc thì mất nước, nhưng còn đảng” . “Đi với Mỹ thì mất đảng, nhưng còn nước”. Nên các vị lãnh đạo ĐCS Việt Nam đã chọn con đường đi theo Trung Quốc, vậy còn đất nước và nhân dân thì sao ? Đây là một thực tế rõ ràng, 86 triệu dân Việt Nam ai cũng biết, chứ không phải là luận điệu của “bọn thù địch”. Người viết bài này là một người từng đi đánh Mỹ, vào Đảng nhân dân Cách mạng miền Nam, là nhà văn sống bằng lương tâm và lao động của mình, không bao giờ bị bọn thù địch nào mua chuộc nổi .
Vì thế tôi cầu mong các vị hãy tỉnh trí lại , và khắc sâu vào tâm can : Đi với Trung Quốc, nghe theo Trung Quốc sẽ mất nước và mất cả đảng !
……………………….
* Sự lên tiếng như ông Lương Thanh Nghị vẫn lên tiếng đã nhàm, rập khuôn và giả tạo, dân không còn coi đó là “sự lên tiếng” nữa. (QC)

Bài viết đáng chú ý

Phạm Hồng Sơn - Trinh bạch lương tâm

http://lh3.ggpht.com/-866g9vqAcIU/UIYEi9HtYgI/AAAAAAAAX18/ee7amsqYLBE/clip_image001%25255B4%25255D.jpg?imgmax=800

Tòa án sơ thẩm tại Long An ngày 16/05/2013 đã tuyên án đối với hai thanh niên, Nguyễn Phương Uyên, 21 tuổi, 6 năm tù kèm thêm 3 năm quản chế và Đinh Nguyên Kha, 25 tuổi, 8 năm tù, 3 năm quản chế. Theo những gì  cáo trạng liệt kê thì họ có tội và lĩnh án như thế vì họ đã dám bày tỏ một cách ôn hòa tình yêu tổ quốc và sự bất bình đối với chính thể hiện tại. Điều rất đáng nói nữa là án tù (kể cả quản chế – một hình thức tù hợp pháp) trung bình hơn 10 năm cho mỗi thanh niên yêu nước đã được tuyên đúng vào ngày nhiều vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam phải chịu lệnh cấm đánh bắt cá của nhà nước Trung Quốc. Nghe nói về bản án, nhiều người đã thốt lên: “Ác quá!”, “Quá ác!”, “Quá nặng!”
Nhưng nhìn ở phương diện đấu tranh Thiện – Ác thì kết quả đó thể hiện đúng qui luật. Khi cái Ác đã đạt đến độ ngày càng bất chấp dư luận, không cần che đậy thì đương nhiên nó sẽ phải càng bạo liệt hơn với những cái Thiện dám cương cường chống lại nó. Mà cái cương cường của Phương Uyên và Nguyên Kha có một nét khác hẳn, ngoài tuổi rất trẻ, so với những cương cường trước, đó là họ đã dám công khai đưa ra một thông điệp, dù rất giản dị: Nếu muốn cứu nước, chống ngoại xâm thì cần chống Đảng (Cộng sản Việt Nam)[1]. Họ lý luận vì luật pháp không có điều nào cấm chống Đảng và họ nhận thấy điều cần thiết đó qua thái độ của Đảng trước hành vi xâm lăng từ Trung Quốc.
Có thể nói một trong những nan giải trong cuộc đấu tranh với độc tài ở Việt Nam hiện nay đó là việc cả cái Ác và (phần lớn) cái Thiện đều dùng chiến thuật lừa nhau. Hai bên đều tránh nói sự thật mà cả hai cùng biết dù cả hai cùng biết là đang lừa.
Ví dụ, Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) biết rõ chả còn mấy ai tin rằng Đảng thực muốn hay có khả năng chống tham nhũng, tự chỉnh đốn theo xu thế tiến bộ hay muốn bảo vệ lãnh thổ trước Trung Quốc nhưng ĐCSVN vẫn không ngừng tuyên truyền, kêu gọi về những vấn đề đó. Ngược lại, đa phần những người tỏ sự bất bình, muốn tiến bộ cũng biết rằng ĐCSVN chẳng tin họ có thiện cảm thực với Đảng nhưng đa phần vẫn bày tỏ, tin tưởng vào sự tiến bộ của Đảng, thậm chí còn tỏ rõ sự trung thành và bảo vệ Đảng. Rất nhiều người biết Hồ Chí Minh là người đã sinh ra chế độ độc tài hiện nay và biết ĐCSVN vẫn đang áp dụng những cách cai trị từ thời Hồ Chí Minh nhưng họ vẫn thể hiện coi như Hồ Chí Minh là tấm gương, mẫu mực. Hoặc đa phần rất chán ngán, nhà nước chính thể hiện nay nhưng vẫn thường phân bua, né tránh: “Không, tôi không chống nhà nước”. Trong khi đó, pháp luật không nói gì tới cấm chống Đảng và đạo đức hiển nhiên ngàn đời luôn dạy con người rằng cần phải chống lại mọi thứ xấu xa, ác độc, kể cả nhà nước.
Thế mà Nguyễn Phương Uyên đã khẳng khái trước tòa thế này: “Tôi dùng máu viết khẩu hiệu ‘Tàu khựa cút khỏi Biển Đông’ và ‘Đảng Cộng sản chết đi’, khẩu hiệu bị cho là ‘phỉ báng Đảng Cộng sản Việt Nam’, là vì tôi thể hiện lòng yêu nước khi tôi căm phẫn Trung Quốc xâm chiếm Việt Nam đến tột cùng sự phẫn uất.”
Còn Đinh Nguyên Kha thì nói thẳng với tòa: “Tôi trước sau vẫn là một người yêu nước, yêu dân tộc tôi. Tôi không hề chống dân tộc tôi, tôi chỉ chống Đảng Cộng sản. Mà chống Đảng thì không phải là tội.”
Nếu coi chính thể và nhân quần là hai bóng hình của nhau thì có thể thấy đặc tính thiếu trung thực của cả chính thể và nhân quần Việt Nam hiện nay là điều tất yếu. Nhưng cũng thấy sự tất yếu thay đổi của chính thể nếu nhân quần thay đổi.
Những lời mộc mạc mà khẳng khái của hai thanh niên tỉnh lẻ, còn rất trẻ và chưa nhiều học vấn như Phương Uyên và Nguyên Kha là một thể hiện lương tâm xã hội vẫn còn sự nguyên sơ, trong trắng hay đang có bước chuyển lại về dạng trong trắng, nguyên sơ. Không nguyên sơ không thể nói ra những thứ mà đa phần xã hội đều biết, nhưng im lặng. Không trong trắng không đời nào lại thốt ra những điều mà cầm chắc chỉ chuốc thêm hằn thù của cái Ác. Đó chính là sự trinh bạch lương tâm – điều tối thiểu cho mọi xã hội muốn phục Thiện, diệt Ác.
Phạm Hồng Sơn
© 2013 Phạm Hồng Sơn & pro&contra
_________________
[1] Quan điểm đấu tranh (chống, tấn công,…) của tôi – Phạm Hồng Sơn – người viết bài này trước sau như một là dựa trên triết lý đấu tranh bất bạo động (non-violent struggle).

Trần Trung Đạo - Đừng khóc cho Phương Uyên mà hãy sống cùng mơ ước của em

Cô bé đứng trên bục cao, đôi kính cận có cọng dày, tóc vén cao, áo trắng học trò, thân hình mảnh mai trông giống như một cô bé học sinh 15 tuổi đang đứng bảng đen trong lớp học chứ không phải đứng trước tòa án Cộng Sản. Em không sợ hãi, không van xin, trầm tĩnh và tinh khôi như một thiên thần: “Tôi là sinh viên yêu nước, nếu phiên tòa hôm nay kết tội tôi, thì những người trẻ khác sẽ sợ hãi và không còn dám bảo vệ chủ quyền của đất nước. Nếu một sinh viên, tuổi trẻ như tôi mà bị kết án tù vì yêu nước thì thật sự tôi không cam tâm”.
Cạnh em, Đinh Nguyên Kha, áo sơ mi trắng, tóc cắt cao của một thanh niên Việt Nam kiểu mẫu. Nguyên Kha cũng dõng dạc: “Tôi trước sau vẫn là một người yêu nước, yêu dân tộc tôi. Tôi không hề chống dân tộc tôi, tôi chỉ chống đảng cộng sản. Mà chống đảng thì không phải là tội”.
Hàng triệu người Việt Nam trong hai ngày qua sống trong tâm trạng vừa vừa phẫn nộ, vừa xót xa nhưng cũng vừa hãnh diện. Phẫn nộ khi đọc bản án của đảng CS dành cho hai em, xót xa khi nhìn vóc dáng mảnh mai, yếu đuối của Phương Uyên, nhưng hãnh diện đến rơi nước mắt vì những câu nói lịch sử của hai em.
Trước ngày ra tòa Cộng Sản, không ít người nghĩ rằng giới lãnh đạo CSVN chắc cũng “giương cao đánh khẽ thôi” vì hai em còn trẻ, nhất là Nguyễn Phương Uyên không những là một cô bé khi bị bắt mới 20 tuổi mà còn là một cán bộ đoàn trường của đoàn Thanh Niên Cộng Sản Đại học Công nghiệp Thực phẩm. Đất nước khó khăn, lòng người ly tán. Chưa bao giờ Việt Nam đứng trước hàng trăm ngàn thử thách như ngày nay. Ngoài biển, như Việt Khang thét lên trong dòng nhạc của em “Giặc Tàu ngang tàng trên quê hương ta, Hoàng Trường Sa, đã bao người dân vô tội, chết ngậm ngùi vì tay súng giặc Tàu” và bên trong là một căn nhà đang đổ nát, một quốc gia bị phân liệt đến mức tận cùng, một nền kinh tế đang trên đà phá sản, giới lãnh đạo đảng CS dù độc ác, bất nhân, ti tiện, ngu xuẩn bao nhiêu cũng phải biết ngừng tay đao phủ để cứu vớt non sông và cứu vớt chính bản thân đảng. Nhiều người nghĩ thế.
phuong uyen va nguyen kha

Trước ngày ra tòa Cộng Sản, không ít người có thể đã nghĩ hai em sẽ xin tha, sẽ tự thú, sẽ đầu hàng. Các em còn nhỏ và đời sống còn dài. Cuộc tranh đấu giữa các em và chế độ độc tài như trò chơi cút bắt. Bắt được xin tha, tha xong lại tranh đấu tiếp theo kiểu “vừa đánh vừa đàm” của người lớn. Nhiều anh chị của các em trước đây đã chơi trò chơi đó vì họ nghĩ muốn làm gì trước hết cũng cần phải sống, cần phải có mặt, cần phải có điều kiện để viết, để nói, và muốn thế hãy tạm thời thú nhận, có chết chóc ai đâu, chẳng người nào, cơ quan nào, tổ chức nào, dù quốc tế hay Việt Nam, tin một lời tự thú trong chế độ CS độc tài. Nhiều người nghĩ thế.
Cả hai nhóm người tiên đoán như trên đều lầm.
Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha không khuất phục. Chuyện “thú tội”, “xin khoan hồng” chỉ mới vài năm trước đây nhưng như đã thuộc vào quá khứ xa xôi, một thời kỳ còn chập chững đấu tranh, một phương pháp nay đã lỗi thời. Tranh đấu cho quyền lợi của dân tộc là một tự nguyện phát xuất từ trái tim và lòng yêu nước. Không ai bắt các em phải làm những việc các em không chọn lựa. Nhịp đập chân thành của con tim và tiếng gọi thiêng liêng của lòng yêu nước không cho phép một người gập đầu “xin khoan hồng”, “thú tội” dù chỉ là một hình thức trá hàng. Bảo vệ tổ quốc là một niềm vui, niềm hãnh diện. Nếu đã chọn hy sinh phải hy sinh cho trọn vẹn với lý tưởng của đời mình.
Tình yêu nước trong lòng Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha vô cùng trong sáng. Không giống Nguyễn Thị Minh Khai trước giờ bị xử tử hô lớn “Đảng Cộng sản Việt Nam muôn năm!” để thể hiện tinh thần bất khuất, kiên trung của bà ta đối với đảng, hay Lê Hồng Phong, trong lời trăn trối cuối cùng ngoài Côn Đảo chỉ nguyện trung thành với đảng, Phương Uyên và Nguyên Kha chỉ nghĩ đến những bà mẹ Việt Nam đang buôn tảo bán tần, nghĩ đến các em thơ đang lây lất trên đường phố, nghĩ đến máu các chú bác đã đổ xuống ở Hoàng Sa, nghĩ đến nắm xương của các chú bác đã thành cọc cắm lên hải đảo Trường Sa.
Ngày 16 tháng Năm 2013 là ngày lịch sử.
Như đã có một lần trong lịch sử, ngày 26 tháng Hai năm 1285, Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng hô lớn “Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc”. Chàng thanh niên Việt Nam Trần Bình Trọng chỉ mới 26 tuổi.
Như đã có một lần trong lịch sử, ngày 17 tháng Sáu năm 1930, 13 đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng đã dành hơi thở cuối cùng của đời mình trên mặt đất này để gọi tên hai tiếng Việt Nam trước khi bước lên máy chém, tuyệt nhiên không ai trong số họ kể cả Đảng trưởng Nguyễn Thái Học hô Việt Nam Quốc Dân Đảng muôn năm. Đảng chính trị với họ chỉ là chiếc ghe để chèo dân tộc sang bến bờ độc lập chứ không phải mục tiêu, cứu cánh của cuộc đời họ hay của phe nhóm và tổ chức họ giống như đảng CSVN. Nguyễn Thái Học khi sống là Đảng trưởng Việt Nam Quốc Dân Đảng nhưng khi chết đã chết như bao nhiêu thanh niên yêu nước khác, thư thái ngâm những vần thơ tuyệt mệnh “Chết vì tổ quốc, chết vinh quang, lòng ta sung sướng, trí ta nhẹ nhàng”. Chàng thanh niên Việt Nam Nguyễn Thái Học chỉ mới 29 tuổi.
Lịch sử mang tính thời đại và tính liên tục. Mỗi thế hệ có một trách nhiệm riêng, dù hoàn thành hay không, khi bước qua thời đại khác, vẫn phải chuyển giao trách nhiệm sang các thế hệ lớn lên sau. Sức đẩy để con thuyền dân tộc vượt qua khúc sông hiểm trở hôm nay không đến từ Mỹ, Anh, Pháp hay đâu khác, mà bắt đầu từ bàn tay và khối óc của tuổi trẻ. Lịch sử Việt Nam đã và đang được viết bằng máu của tuổi trẻ Việt Nam.
Giới lãnh đạo Đảng cũng không “giơ cao đánh khẻ” như có người hy vọng nhưng bằng một bản án nặng nề, bẩn thỉu và hèn hạ nhất đối với hai em Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha.
Mấy ngày nay trên nhiều diễn đàn khá đông người lại tiếp tục tranh cãi chuyện chủ nghĩa Cộng Sản còn sống hay đã chết. Thật ra, chủ nghĩa Cộng Sản sống hay chết tùy thuộc vào góc nhìn và cách phân tích bản chất của chế độ độc tài toàn trị Cộng Sản. Chủ nghĩa Cộng Sản, như một lý tưởng mà không ít người đeo đuổi trong thời trai trẻ, có thể đã chết tại Nga ngay sau khi Cách Mạng Tháng Mười bùng nổ 1917, đã chết tại Trung Quốc khi Mao Trạch Đông lên nắm chính quyền 1949, và chết tại Việt Nam khi Hồ Chí Minh cất tiếng trên quảng trường Ba Đình đầu tháng 9 năm 1945, nhưng từ đó đã bắt đầu một loại chế độ Cộng Sản thức tế với các đặc tính bất nhân, tàn bạo nhất trong các chế độc độc tài của lịch sử loài người. Chế độ đó vẫn còn tồn tại ở Việt Nam biểu hiện qua bản án khắc nghiệt dành cho Phương Uyên và Nguyên Kha.
Bộ máy chính trị toàn trị, kinh tế lạc hậu, xã hội sa đọa, đạo đức suy đồi, hiện tượng sùng bái cá nhân, thói quen suy tôn lãnh tụ, lừa dối nhân dân, bưng bít có chủ trương, đỗ thừa có hệ thống của ý thức hệ Cộng Sản vẫn còn nguyên tại Việt Nam như từ ngày mới nhập cảng từ Liên Xô, Trung Quốc.
Phương pháp đầu độc, tẩy não của đảng CSVN dành cho các em bé Việt Nam hoàn toàn giống phương pháp đầu độc thiếu nhi đang thực hiện tại Triều Tiên. Hình ảnh “Bác Kim” trong lòng thiếu nhi Triều Tiên như Bradley K. Martin mô tả trong tác phẩm “Dưới sự bảo bọc đầy tình thương của cha già dân tộc” (Under the Loving Care of the Fatherly Leader) không khác gì hình ảnh một “Bác Hồ” “tình thương bao la”, “cha già dân tộc”, “nhà thơ lỗi lạc”, “nhà quân sự thiên tài”, “nhà giáo dục vĩ đại” được Đảng nhồi nhét vào tâm hồn trong trắng của bao nhiêu thế hệ Việt Nam.
Những ai còn nghĩ đến “hòa giải hòa hợp” với CS, còn tin vào lòng dạ chí thành của Thứ trưởng Ngoại Giao CS Nguyễn Thanh Sơn khi thắp hương trước phần mộ của các chiến sĩ VNCH ở nghĩa trang quân đội Biên Hòa hãy đọc lại bản án của đảng CS dành cho hai em Đinh Nguyên Kha và Nguyễn Phương Uyên một lần nữa và tự hỏi có một phương pháp, một con đường nào, một hy vọng nào để dân tộc Việt Nam có thể sống chung với đảng CSVN. Một người có nhận thức chính trị căn bản nào cũng biết là không.
Những ai còn hoài nghi vào sức mạnh dân tộc Việt Nam hãy đọc lại lời tuyên bố của hai em “Tôi trước sau vẫn là một người yêu nước, yêu dân tộc tôi.” Là một đoàn viên đoàn thanh niên Cộng Sản chắc chắn Phương Uyên đã được nhồi sọ rằng khi lớn lên phải biết trung thành với đảng, phải biết đi theo con đường đảng đã vạch ra. Tư tưởng Cộng Sản ngoại lai nô dịch dù độc hại bao nhiêu cũng không giết được hạt mầm dân tộc đang âm thầm lớn lên trong tâm hồn hai em, đã chiến đấu trong nhận thức của hai em, đã chiến thắng qua hành động của hai em và biểu hiện hùng hồn qua câu nói lịch sử của hai em. Đảng CS muốn Phương Uyên trở thành sâu bọ đo hai hàng chân trên cành cây mục nát của đảng nhưng em đã vươn lên thành cánh bướm vàng.
Trong nỗi đau khi nghe tin hai em bị kết án nặng nề đã dâng trong lòng hàng triệu người Việt Nam một niềm hãnh diện. Lòng yêu nước đã thắng. Chưa bao giờ ranh giới giữa yêu nước và bán nước rõ ràng hơn hôm nay. Cuộc chiến nào cũng khó khăn nhưng cuộc chiến tư tưởng bao giờ cũng khó khăn nhất. Những câu nói của hai em sẽ vang vọng trong dòng lịch sử ngàn đời không phai. Lịch sử dân tộc, qua bao thời đại, đã được giữ gìn bằng sức mạnh tuổi trẻ. Thời đại hôm nay là thời đại của Đổ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đoàn Huy Chương, Đinh Nguyên Kha, Nguyễn Phương Uyên, của hàng trăm thanh niên nam nữ đang ở trong tù CS, của hàng ngàn hàng triệu thanh niên Việt Nam đang sắp sửa tiếp nối hành trình. Lịch sử Việt Nam vừa đau thương nhưng vừa là một bản hùng ca viết bằng nước mắt và nụ cười của bao nhiêu thế hệ.
Ai dạy Đinh Nguyên Kha và Nguyễn Phương Uyên để nói những câu hào hùng như thế. Không ai dạy. Như một lần tôi đã viết, tuổi trẻ Việt Nam không cần một ngọn hải đăng để rọi sáng đêm tối trời dân tộc nhưng ngay từ trong lòng họ đã bùng cháy lên ngọn đèn tự chủ được thắp sáng bằng tâm thức Việt Nam. Tuổi trẻ Việt Nam ngày nay không cần chờ đợi một minh quân ra đời hay một lãnh tụ xuất hiện để dẫn dắt họ trên đường cứu nước bởi vì chính họ sẽ là những minh quân của thời đại và con đường dẫn đến điểm hẹn lịch sử được soi sáng bằng trí tuệ Việt Nam. Tuổi trẻ Việt Nam ngày nay không cần vay mượn một chủ nghĩa, một ý thức hệ, một lý thuyết ngoại lai nào làm kim chỉ nam để giải phóng dân tộc bởi vì chính họ đã được trang bị bằng các đặc tính dân tộc, nhân bản và khai phóng kết tinh và kế thừa từ hơn bốn ngàn năm lịch sử. Các em cũng nhắc cho giới lãnh đạo Đảng biết rằng một ngàn năm sống trong bóng tối Bắc thuộc không làm dân tộc Việt Nam mù mắt thì ba mươi tám năm trong triết học Mác-Lê làm sao có thể thui chột đi tình yêu nước thiết tha trong lòng người dân và nhất là trong lòng tuổi trẻ Việt Nam.
Ngoài bản chất tàn ác, bất nhân, ti tiện, còn lý do nào khác khiến Đảng đã ra tay nặng nề với hai em Đinh Nguyên Kha và Nguyễn Phương Uyên.
Còn một lý do nữa, bởi vì Đảng sợ.
Đúng như Brad Adams, Giám đốc Ban Á Châu của Human Rights Watch (HRW) phát biểu: “Đưa người dân ra tòa xử chỉ vì phát tán tờ rơi chỉ trích chính phủ là một việc làm lố bịch và biểu hiện sự bất an của chính quyền Việt Nam”.
Đảng cảm thấy “bất an” là phải. Trong suốt 38 năm cai trị đất nước bằng nhà tù sân bắn chưa bao giờ đảng CS bị cô lập trên thế giới và mất chỗ đứng hoàn toàn trong lòng dân tộc Việt Nam như ngày nay. Không giống như trong thời chiến núp bóng dưới chiêu bài “chống ngoại xâm” và lợi dụng lòng yêu nước của nhiều người Việt Nam, ngày nay, chung quanh đảng chỉ có kẻ thù. Những tâm thư, thỉnh nguyện, góp ý kiến về hiến pháp, đổi tên đảng, thay tên nước vừa qua cho thấy, nhiều thành phần, lực lượng trước đây là phên dậu của đảng, là hậu thuẫn của đảng đang quay sang chống đảng. Một người dù mê muội bao lâu cũng có một lần thức tỉnh. Một tiếng nói đúng gióng lên dù trễ còn hơn im lặng suốt đời.
Hành động điên cuồng vượt qua mọi thước đo đạo đức qua hai bản án dành cho hai em Nguyên Kha và Phương Uyên cho thấy không phải sức bén của con dao độc tài mà là hành động tuyệt vọng của đảng CSVN. Quyết định của Nicolae Ceausescu khi ra lệnh công an bắn vào cuộc biểu tình của nhân dân Rumania sáng ngày 17 tháng 12 năm 1989 chỉ để dẫn đến bản án tử hình dành cho vợ chồng ông ta một tuần sau đó. Thật vậy, lịch sử đã nhiều lần chứng minh, khi một chế độ chỉ còn trông cậy vào các phương tiện bạo lực trấn áp để tồn tại, chỉ còn biết sử dụng bộ máy công an kềm kẹp để duy trì quyền cai trị, ngày tàn của chế độ đó chỉ là vấn đề thời gian.
Những ai còn đang đứng bên lề cuộc tranh đấu vì chủ quyền đất nước, vi tự do dân chủ nhân bản hãy bước lên chuyến tàu lịch sử hôm nay để cùng với hai em đi về phía bình minh của dân tộc Việt Nam. Đời người rồi sẽ qua nhưng dân tộc Việt Nam phải còn và mãi mãi sẽ còn. Con tàu đi cứu nước còn nhiều toa rộng, đủ chỗ cho mọi người, mọi thành phần, mọi tôn giáo, mọi quá khứ. Hành động cứu nước cũng rất nhiều để chọn, không nhất thiết phải vào tù ra khám, không nhất thiết phải tìm cho ra được những cây búa lớn để đập vở bức tường chuyên chính, nhưng một bàn tay nhỏ, một bước chân xuống đường chống thực dân đỏ Trung Quốc, một thái độ không hợp tác với nhà cầm quyền CS, một lá thư thăm hỏi các em các cháu trong tù trong những ngày sinh nhật, lễ lớn, một tấm vé tham dự bữa cơm gây quỹ giúp các em đang bị tù hay đang bị khó khăn v.v… cũng mang đầy ý nghĩa.
Bức tường chuyên chính CSVN đã không sụp đổ vì những cơn bão thời đại Liên Xô, Đông Âu, Bắc Phi xa xôi nhưng chắc chắn sẽ sụp đổ vì những giọt nước kiên nhẫn Việt Nam đang nhỏ xuống từ tuổi trẻ Việt Nam, từ đồng bào Việt Nam trong cũng như ngoài nước. Chúng ta có thể khác nhau ở điểm khởi hành nhưng có cùng một điểm hẹn tự do để đạt đến. Chúng ta có thể mang trên vai những hành lý khác nhau nhưng đều chất chứa bên trong một khát vọng dân chủ để theo đuổi. Đừng khóc cho Phương Uyên mà hãy sống cùng mơ ước của em.
© Trần Trung Đạo
Nguồn: trantrungdao.com   

Tình hình Ban Nội chính các tỉnh/thành

Ngay khi việc bầu bán Bộ Chính trị tại Hội nghị Trung ương 7 còn chưa ngã ngũ thì đầu tháng 5 Ban Bí thư đã sức công văn xuống Thường vụ Đảng bộ các tỉnh/thành đốc thúc việc thành lập Ban Nội chính địa phương. Vậy là cả nước đã chứng kiến sự ra đời của 63 Ban Nội chính một cách rất chóng vánh. Theo lệnh của Ban Bí thư, Thường vụ Đảng bộ các tỉnh/thành phải cơ cấu Trưởng ban Nội chính là Ủy viên Thường vụ tỉnh/thành ủy hoặc diện cơ cấu sẽ vào thường vụ. Cũng giống như các ban khác của Đảng trong tỉnh/thành ủy, Ban Nội chính là cơ quan tham mưu của tỉnh/thành uỷ, trực tiếp và thường xuyên là Ban Thường vụ, Thường trực tỉnh/thành uỷ. Như vậy, ông Trưởng Ban này (cấp tỉnh/thành) phải phục tùng và chịu sự chỉ đạo của ông Bí thư/Phó Bí thư tỉnh/thành ủy, mà hầu hết Bí thư tỉnh ủy là Ủy viên Trung ương (nhiều người đã không bỏ phiếu cho ông Bá Thanh).

Nên nhớ, Chủ tịch UBND các tỉnh/thành luôn là Phó Bí thư tỉnh/thành ủy. Một ông Phó Chủ tịch được cơ cấu vào thường vụ tỉnh/thành ủy. Cũng không nên quên rang chính đa số Bí thư các tỉnh có chân trong Trung ương, trong cuộc bầu bổ sung vào Bộ Chính trị vừa qua, đã bỏ phiếu không bầu ông Nguyễn Bá Thanh. Vị thế của ông Nguyễn Bá Thanh vốn đã rất yếu ở Trung ương, nay với cơ cấu Ban Nội chính địa phương kiểu này, người ta không hiểu Ban của ông Thanh sẽ chỉ đạo 63 Ban cấp tỉnh/thành ra sao.

Nhiều người lo ngại rằng cái lò của Tổng bí thư mới nhóm lửa lên mà chính ông Trọng đã mất hoàn toàn sự kiểm soát – “nhóm lò” là nguyên chữ của Tổng bí thư dùng. Đấy là chưa nói tới chuyện công văn của Ban Bí thư chưa sức xuống các tỉnh mà cuộc mua bán ghế Trưởng ban Nội chính tỉnh/thành đã tấp nập. Đặc biệt, Ban Bí thư mở ra một cửa làm ăn rất “thoáng” cho anh em địa phương là cho phép Trưởng ban là nhân sự sẽ cơ cấu vào Thường vụ tỉnh/thành ủy. Thế là anh Giám đốc Sở nọ, đẽo được tí tí vốn, muốn đầu tư ngay vào cái ghế này làm chân Thường vụ cho chắc ăn. Anh Chủ tịch huyện kia, được doanh nghiệp hùn hạp cũng thập thò cửa nhà Bí thư mong anh “chiếu cố”. Nhảy vào ghế này thì chắc suất Thường vụ cơ mà, sau lên Phó Bí thư (Chủ tịch tỉnh), thậm chí kế cận Bí thư (vào Trung ương) dễ như bỡn ấy chứ. Thủ trưởng, thủ phó các sở ban ngành, người đứng đầu UBND, đảng ủy các đơn vị trực thuộc cấp tỉnh/thành cứ sôi sùng sục, đứng ngồi không yên như đang lên cơn sốt ác tính. Được biết, tại một tỉnh miền núi khó khăn, ghế Trưởng Ban Nội chính tỉnh vừa được định đoạt với giá 300.000 Mỹ kim. Người ta đồ rằng, giá của ghế này tại các thành phố lớn phải gấp hàng vài chục lần.
19/05/2013

Một vài góp ý cho cuộc đấu tranh chống cộng sản hiện nay

doan ket
Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh. Đó là quy luật vận hành của đất trời vạn vật. Quy luật ấy đã thể hiện sinh động nơi nào có cộng sản, vì cộng sản luôn đồng nghĩa với bất công chèn ép cùng với dối trá bạo lực và trăm ngàn biến ảo độc dữ quỷ ma. Thế giới đã bàng hoàng khi phát hiện ông tổ của cộng sản là Karl Marx chính là một kẻ thờ quỷ vương Satan, vì thế cộng sản ở các nơi sau này đều thể hiện đầy đủ các đặc tính của ma vương, quỷ dữ.
Do đó, cuộc đấu tranh chống cộng sản hiện nay không đơn thuần là những va chạm giữa TỰ DO và ĐỘC TÀI của một chế độ hoặc chính thể nào đó, song là cuộc đối đầu giữa THIỆN và ÁC của lương tâm nhân loại. Từ những năm 30 của thế kỷ trước, từng bước, từng bước Việt Nam đã chìm dần vào bóng đêm cộng sản, và cũng từ đó, bầu khí đấu tranh của toàn dân đã khởi đầu, lúc thì công khai, khi âm thầm và chưa bao giờ chấm dứt, có khác chăng chỉ là mức độ và tầm ảnh hưởng. Gần đây, chúng ta đã kỷ niệm 38 năm ngày Quốc Hận 30/4. Suốt 38 năm qua, ở hải ngoại cũng như ở trong nước, luôn luôn có những người đấu tranh chống lại độc tài cộng sản.
Những năm đầu sau 1975, cuộc đấu tranh của Người Việt hải ngoại rất mạnh mẽ, sôi nổi, nhưng càng về sau, cuộc đấu tranh này dường như ngày càng giảm hùng khí ban đầu. Sự suy giảm này có nhiều lý do, nhưng một trong các nguyên nhân rất dễ nhận ra, đó là tình trạng chia rẽ giữa những người đấu tranh ngày càng gia tăng.
Nhưng tại quốc nội, cuộc đấu tranh có chiều hướng ngược lại. Sau ngày Miền Nam mất vào tay cộng sản, và sau khi những tổ chức Phục Quốc bị tan rã, cuộc đấu tranh của người dân ban đầu rất yếu, nhưng càng về sau càng mạnh lên, nhất là từ khi xuất hiện Khối 8406 vào năm 2006 cùng với nhiều tập hợp khác.
Hiện nay, cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ trong nước ngày càng đông người và càng được nhiều giới tham gia, nhất là giới trẻ, giới dân oan bị chế độ cướp nhà cướp đất, đặc biệt có cả những người gốc cộng sản và những người từng cộng tác tích cực với chế độ nhưng nay đã phản tỉnh. Cuộc đấu tranh trực diện đó đang làm cho cộng sản hết sức bối rối và lo lắng lúng túng. Chưa bao giờ sự phân hóa và bất hòa chia rẽ trong nội bộ cộng sản lại hiện rõ không thể che dấu như lúc này, đặc biệt qua Hội Nghị Trung Ương 7 của đảng CSVN đang tiến hành tại Ba Đình mấy hôm nay, các nhóm lợi ích đang khống chế và thao túng làm cho cơ thể cộng sản vốn đã rệu rã lại càng thêm khốn cùng rệu rã.
Nó báo hiệu ngày tàn của chế độ đã đến.
Hơn lúc nào hết, đây là thời điểm mà sự phối hợp nhịp nhàng giữa trong nước và hải ngoại hết sức cần thiết để dứt điểm chế độ độc tài hiện nay, sớm nhất có thể. Để có sự phối hợp nhịp nhàng ấy, thiết tưởng chúng ta cần thống nhất với nhau một số điểm cần thiết.
Phải củng cố thực lực của ta và làm suy yếu sức lực của địch:
Tập thể muốn có sức mạnh, không gì hữu hiệu bằng tạo đoàn kết. Muốn làm suy yếu một tập thể không gì bằng làm tập thể ấy chia rẽ. Hai điều ấy quá hiển nhiên ai cũng biết. Tại hải ngoại, vô số người có quyết tâm lật đổ chế độ cộng sản. Nhưng phương thế đầu tiên và quan trọng nhất đó là đoàn kết thì bị xem nhẹ, chẳng mấy ai quan tâm thực hiện. Ngược lại, người ta đánh phá lẫn nhau khiến lực lượng đấu tranh chống cộng ngày càng suy yếu.
Nếu chúng ta chưa tạo đoàn kết trong cộng đồng Người Việt mình và chưa gây được chia rẽ trong hàng ngũ cộng sản được, thì ít ra chúng ta đừng tạo chia rẽ trong cộng đồng của mình và đừng tạo đoàn kết trong hàng ngũ địch.
Ai cũng biết bẻ nguyên cả một bó đũa thì phải dùng một sức mạnh rất lớn mà một người bình thường khó làm nổi. Nhưng lần lượt bẻ từng chiếc một thì người yếu nhất cũng có thể bẻ hết cả bó. Chúng ta cần tận dụng kinh nghiệm này.
Vậy đừng dại gì mà đòi bẻ nguyên cả bó đũa, trái lại, phải biết tách rời nó ra thành từng chiếc. Cũng vậy, một việc lớn lao khó thực hiện, nếu biết phân ra thành nhiều việc nhỏ để giải quyết lần lượt từng việc một thì sẽ dễ dàng hơn rất nhiều.
Áp dụng vào cuộc đấu tranh hiện nay:
Chế độ cộng sản cũng như đảng cộng sản hiện nay gồm nhiều thành phần khác nhau, đại khái có những thành phần chính:
– Có những thành phần thật sự yêu nước, vì sai lầm và vì bị tuyên truyền lường gạt mà họ cộng tác với chế độ; nay họ nhận chân được bộ mặt thật “hèn với giặc ác với dân” của chế độ, họ đã lên tiếng phản đối chế độ, và sẵn sàng đứng về phe đấu tranh dân chủ;
– Có những thành phần đang hưởng ân huệ của chế độ, nhưng họ nhận ra chế độ này là một chế độ “buôn dân bán nước”; tuy họ đang cộng tác với chế độ để tiếp tục hưởng những đặc ân mà họ chưa muốn từ bỏ, nhưng khi phe dân chủ nổi dậy và có khả năng thắng thế, họ sẵn sàng chống lại chế độ và đứng về phe dân chủ;
– Có những thành phần sẵn sàng trung thành với chế độ, bất chấp họ biết rõ chế độ này hoàn toàn bất lợi cho dân tộc, nhưng họ đã gây quá nhiều tội ác, nên họ biết nếu chế độ bị lật đổ, người dân sẽ khó lòng tha thứ cho họ; vì thế họ phải bảo vệ chế độ cũng là bảo vệ mạng sống của họ và gia đình họ, cùng với những gì họ cướp được của người dân… Thành phần này tương đối ít, nhưng lại là thành phần đang nắm rất nhiều quyền lực và tiền bạc trong tay.
Muốn lật đổ hay tiêu diệt chế độ mà chúng ta cứ đòi ôm tất cả để lật đổ tất cả, phải chăng chúng ta đang làm cho tất cả những thành phần khác nhau của chế độ, của đảng cộng sản đoàn kết lại thành một khối chống lại chúng ta để bảo vệ quyền lợi của họ? Chúng ta thử nhìn lại mình xem lực lượng của chúng ta đủ sức lật đổ cả cái khối ấy không? Tại sao chúng ta không biết chia họ ra thành nhiều thành phần, và cùng hợp sức với những thành phần muốn thay đổi chế độ để lật đổ nhóm thiểu số đang cầm quyền? Nhóm thiểu số cầm quyền này một khi bị lật đổ thì cả chế độ cộng sản cũng sẽ sụp đổ theo.
Trong hai cách ấy, cách nào dễ hơn thực hiện hơn? Cách nào khôn ngoan và hữu hiệu hơn?
Những thành phần gốc cộng sản, những người trong quá khứ đã từng tích cực xây dựng chế độ, nay họ đang có những hành vi cụ thể chống lại chế độ, tố cáo tội ác của chế độ, tại sao chúng ta lại tỏ ra nghi ngờ họ, cho rằng họ chống giả bộ, quy kết họ là chống cộng “cuội” hay dân chủ “cuội” một cách chẳng có cơ sở gì cả? Chống lại những người này tức là đẩy họ trở lại phía địch thủ của mình, làm cho phía địch mạnh lên thay vì yếu đi? Chế độ VNCH ngày xưa đã sử dụng “chính sách chiêu hồi” để kéo địch về phía ta, khiến cho lực lượng ta đông và mạnh lên, còn lực lượng của địch ít và yếu đi. Tại sao mình lại không áp dụng “chính sách chiêu hồi” ấy trong cuộc đấu tranh hiện nay?
Việc lật đổ một chế độ độc tài là một việc vô cùng khó khăn và lâu dài. Điều này lịch sử của các chế độ độc tài trong thế kỷ 20 đã chứng minh quá rõ ràng. Tại sao chúng ta cứ ôm lấy “nguyên con” và đòi thực hiện “nguyên con” việc vô cùng lớn lao và khó khăn ấy mà không biết chia nhỏ ra thành nhiều giai đoạn để thực hiện từng phần nhỏ? Để phá đổ một căn nhà 5 tầng, người ta phải chia ra làm 5 giai đoạn: khởi đầu là phá tầng 5, trong lúc phá tầng 5 thì chưa cần đả động gì đến các tầng 1,2,3,4, trái lại phải bảo vệ các tầng này để còn có lối lên mà phá tầng 5. Đến khi phá tầng 4 thì cũng tương tự như vậy, không đả động gì đến tầng 1,2,3 mà tập trung mọi năng lực vào việc phá tầng 4. Nếu chủ trương phá cả 5 tầng một lúc thì làm sao mà phá nổi?
Hiện nay, có nhiều người thật sự muốn lật đổ chế độ cộng sản, nhưng họ chủ trương chia việc đó thành nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn có một mục tiêu riêng. Khi tiến hành giai đoạn nào thì họ chỉ tập trung vào mục tiêu của giai đoạn ấy, chưa đả động gì đến những mục tiêu sau, nhất là tuyệt đối không nói đến mục tiêu cuối cùng. Nếu ngay giai đoạn đầu mà đã tuyên bố rằng mình chủ trương lật đổ chế độ cộng sản, thì cộng sản ngu gì mà không chặn đứng mình từ giai đoạn đầu tiên ấy? (1) Giai đoạn đầu đã bị chặn đứng thì làm sao thực hiện được những giai đoạn sau?
Nhưng khổ nỗi những người chủ trương chia nhỏ việc lớn lao này và cố ý dấu đi mục đích chống cộng của mình thì bị những người chống cộng khác không hiểu nên phản đối, kết án, mạt sát, bêu riếu, cho họ là dân chủ “cuội”, thậm chí còn cho họ là thân cộng nữa. Thế là ngay cả những người cùng chiến tuyến với họ cũng gây khó khăn cho họ.
Để làm cho lực lượng của mình mạnh lên, chúng ta cần làm cho phe mình ngày càng đông lên, cần thêm bạn bớt thù. Nếu chúng ta cứ loại trừ ra khỏi lực lượng mình những người có những suy nghĩ hay cách đấu tranh khác biệt với mình, thì làm sao mình còn đủ người và đủ mạnh để chiến thắng?
Trong cuộc chiến chống lại một chế độ gian trá, đầy mưu mô thâm hiểm, nếu mình chỉ biết chửi, chỉ tố cáo tội ác tày trời của chúng, thì chỉ làm chúng mất mặt thôi. Chiếc xe đang chạy mà mình chỉ đập bể kiếng, làm méo mó thùng xe, làm trầy sơn… thì xe vẫn chạy được ngon lành. Muốn thắng được chế độ ấy thì phải dùng mưu kế. Đã là mưu kế thì phải biến hóa khôn lường. Có khi phải “dương đông” để “kích tây”. “Kích tây” mới là mục đích, nhưng để “kích tây” mà mình cũng “dương tây” thì địch sẽ đề phòng, làm sao mình thành công? Nhưng nếu mình “dương đông” thì có biết bao người cùng chiến tuyến phê bình, chỉ trích, chửi bới là dại dột, ngu xuẩn, làm lợi cho giặc, v.v… vì họ tưởng mình “kích đông” thật, mà nếu “kích đông” thật sự thì đúng là ngu.
Nếu tâm lý quần chúng cứ sẵn sàng chửi rủa như thế thì chẳng ai áp dụng một mưu kế nào được. Thế có phải là mình tự hại mình không?
Chống cộng sản hiện nay không đơn giản là cuộc chiến giữa ĐỘC TÀI và DÂN CHỦ, nhưng là cuộc chiến giữa CHÍNH và TÀ, giữa THIỆN LƯƠNG và TÀ ÁC mà bài học đoàn kết là bài học đầu tiên ai cũng cần phải học.
Đoàn kết là bài dễ học nhưng khó thuộc nhất. Không thể nói đoàn kết khi mở miệng ra hoặc đặt bút xuống là nói hoặc viết toàn những lời đánh phá và công kích kết án người khác. Khoan kêu gọi ai khác, hãy kêu gọi chính mình trước hết về đoàn kết. Với tâm cảnh ấy, ngày giải thể của cộng sản tà ác chắc chắn đang đến gần, rất gần.
© Người Việt thầm lặng
_______________________________
Phụ chú:
(1) Viết tới đây, tôi nhớ một người tù lao động kể cho tôi chuyện anh ta quyết tâm trốn trại. Để thực hiện việc này, anh ta luôn luôn tỏ cho mọi người thấy anh ta rất an tâm “học tập”, bằng cách lao động thật chăm chỉ, sẵn sàng chiếm cảm tình các cán bộ quản giáo, sẵn sàng làm những gì họ nhờ, như dạy họ học, sửa dụng cụ cho họ, thỉnh thoảng tặng họ một món quà, v.v… Nhờ vậy anh ta được quản giáo tín nhiệm, cho anh ta được thoải mái đi lại trong trại, và ít quan tâm “quản lý” anh ta. Điều này làm nhiều người đồng tù với anh ta ngứa mắt, khó chịu. Để thử mức độ an tâm “cải tạo” của anh ta, quản giáo đã vài lần thử tạo điều kiện cho anh ta trốn trại thế mà anh ta không trốn, nên họ lại càng tin tưởng và để anh ta được tự do đi lại trong trại. Nhờ vậy anh ta giúp được nhiều người đồng tù với anh. Cứ thế cho tới một ngày thuận tiện, anh ta cùng cả 5, 6 người bạn cùng trốn trại một lượt và thành công. Nếu ngay từ đầu anh ta tuyên bố với mọi người mình sẽ trốn trại thì liệu quản giáo có dám để anh ta được tự do đi lại trong trại để nhờ đó anh ta khám phá ra đường lối nào và giờ giấc nào là thuận tiện và hữu hiệu nhất để trốn trại không?

Những bài học về viện trợ của phương Tây sau Việt Nam và Campuchia

Đã trải qua cả một thế hệ rưỡi từ khi Việt Nam mở cửa cho phương Tây, và cũng khoảng một thế hệ kể từ khi Campuchia làm những điều tương tự.
CampuchiaCả hai đất nước này đã thay đổi mạnh mẽ, với mức tăng trưởng kinh tế nhanh như vũ bảo và sự xuất hiện các giai cấp trung lưu đẳng cấp quốc tế. Tuy nhiên, họ vẫn còn ngập chìm trong tham nhũng, và không được đáng tin cậy như những đối tác tới từ phương Tây của họ cũng như những vấn đề chính trị nghiêm trọng vẫn còn tồn đọng cho dù họ đã nhận được nhiều chương trình hỗ trợ từ các nước phương Tây – tại sao lại như thế?
Điểm yếu cơ bản về cách thức viện trợ của phương Tây nằm ở cách họ thực hiện. Họ tin rằng họ có thể suy diễn dễ dàng từ các bước cam kết nguồn tài nguyên tới những kết quả có thể dự đoán đượcNhưng các số liệu đã chứng minh rằng cách thức tiếp cận này sai lầm một cách trầm trọng (xem Fforde, Coping With Facts-A Skeptic’s Guide to the Problem of Development, Kumarian Press, 2009). Một vấn đề nảy sinh dẫn đến phân chia khuynh hướng bè phái – nghĩa là các nhà tài trợ khác nhau có những niềm tin khác nhau, và do đó không có một nhân vật trung ương đưa ra quyết định cuối cùng cũng như nói lên bản chất của sự thật là gì. Bài học căn bản từ Campuchia là những người nhận viện trợ một cách khôn ngoan sẽ nhanh chóng nhận ra cách để “chia và trị”. Và một điều chắc chắn nữa là: những người nhận thì học bài học này nhanh hơn nhiều so với những người tài trợ.
Các nghiên cứu về tính hiệu quả trong các phương pháp viện trợ thường củng cố quan điểm của bất cứ ai trả tiền cho họ nhiều là đưa ra những nhận định một cách chính xác những gì đang xảy ra.
Campuchia

Một vấn đề cơ bản nằm ở “khả năng”, và điều này lại dính lứu tới sự hợp tác. Vì các nhà viện trợ bắt đầu cung cấp các nguồn tài nguyên (hỗ trợ kỹ thuật, tiền và nhiều thứ khác nữa), những thứ họ hi vọng sẽ nhanh chóng cải thiện kinh tế và xã hội, thì lúc đó dường như có một mối liên hệ giữa nguồn tài nguyên được cung cấp cùng với sự phát triển đạt được. Nhưng mối liên hệ này không mạnh. Các nhà viện trợ chi tiêu vội vã trong các giai đoạn đầu và liên tục tìm kiếm người để giải ngân vốn, bất cứ ai có khả năng đáp ứng được các yêu cầu như việc viết báo cáo, đề nghị và đánh giá thì đều có thể đạt tiêu chuẩn. Việc này bao gồm săn đuổi những tổ chức và cá nhân với những kỹ năng ngôn ngữ, kỹ thuật cũng với một vài “kỹ năng khác” có đủ khả năng tuân thủ các yêu cầu. Và rồi nguồn vốn có thể được giải ngân và nhà tài trợ có thể tạo ra các hoạt động họ cần để báo cáo về những thành công cho chính phủ của họ. Bởi vì số lượng người đáp ứng được yêu cầu của bên viện trợ (hay nói theo cách khác “có khả năng” để giải ngân) thoạt đầu khá ít nên quá trình này gây ra nhiều tranh cãi, giá yêu cầu tài trợ được nâng lên, các nhà giải vốn thường thất bại trong việc chọn đối tác – những người này thường phù hợp làm việc trong thời gian dài (nhưng họ lại cần tìm người để giải ngân trong thời gian ngắn). Phía nhận viện trợ nhận ra điều này một cách nhanh chóng, và sau một vài năm từ khi cuộc chơi được bắt đầu, những người được lựa chọn để giải ngân lúc đầu sẽ nắm quyền kiểm soát nguồn vốn đó trong một thời gian dài. Ngoài nạn tham nhũng này và quan hệ chính trị thân hữu, các nhà viên trợ phải đối mặt với những vấn đề mới đến từ các tầng lớp ưu tú mới trong giới chính trị. Các nhà viện trợ không sẵn sàng để tính toán các chương trình về thời hạn lâu dài. Những các giới tinh hoa tại đây thì có.
Sự nổi lên của các tầng lớp trung lưu địa phương hội nhập vào thế giới cũng đồng thời ngăn chặn các nhà viện trợ không thể hợp tác với những người dân địa phương bình thường. Tại cả Việt Nam và Campuchia, phần đồng người dân vẫn con nghèo (mặc dù tốt hơn nhiều so với những gì họ đã phải trải qua trước đây), không có quyền chính trị và bị thống trị bởi chế độ tham nhũng với khuynh hướng đàn áp công dân. Giáo dục phổ cập thì còn ở chất lượng thấp. Những nhà viện trợ thường tiếp cận được với người dân thường qua điều tra thăm dò (thường là về “nghèo đói”), và sử dụng các phương pháp dễ dàng bị đánh lạc hướng theo hướng có lợi cho các nhà viện trợ và tầng lớp chính trị địa phương. Việc tiếp cận những mong mỏi của người dân bình thường vẫn còn khá giới hạn. Những nhà đi du lịch bụi, các nhà nhân chủng học và những người khác thường làm các nhân viên viện trợ bang hoàng với những gì họ báo cáo.
Các tổ chức phi chính phủ địa phương phụ thuộc quá lớn vào các hỗ trợ từ bên ngoài; điều này có thể mang đến cả hai mặt xấu hoặc tốt. Sự khác biệt giữa Việt Nam và Campuchia ở điểm này cực kỳ lớn. Tại Việt Nam, các quyết định được đưa ra vào năm những năm 1990 cho phép nguồn tài nguyên viện trợ đi thẳng tới sự quản lý bởi những bàn tay “an toàn” – các tổ chức được điều hành bởi tầng lớp thống trị địa phương. Trong khi những tổ chức này có vẻ như đứng về phía các nhóm thiệt thòi, thì thực tế họ không hề dám đi những bước đi mạo hiểm nhưng cần thiết để thực sự hoạt động trong xã hội dân sự. Và do đó, những tổ chức có thể thực sự hỗ trợ công nhân, nông dân và các nhóm dân tộc thiểu số đã không được hình thành. Ở Campuchia, các nhà viện trợ đặt những nguồn tài nguyên chính vào tay các tổ chức phi chính phủ địa phương, và những tổ chức này thực sự hoạt động năng nổ vào các vấn đề chính trị nóng như tranh chấp đất đai. Do đó, các quyết định được đưa ra sớm cần được xem xét lại, và cũng có thể là chúng không cần. Các nhà viện trợ không được tổ chức để suy nghĩ thấu đáo về mặt chính trị. Những các tầng lớp tinh hoa địa phương thì có.
Các nhà viện trợ có quyền có những mục đích chính trị, nhưng họ lại được tổ chức dựa trên nền tảng sai lầm trong khâu dự đoán, và cùng với những thiếu sót trong khâu quản lý hiệu quả và lâu dài. Chính điều này giải thích tại sao họ thất bại.
Adam Fforde, Victoria University –
Lê Duy chuyển ngữ, CTV Phía Trước
(TCPT)

Jim Armitage - Đoàn Nguyên Đức, người hâm mộ Arsenal và những cáo buộc cướp đất

Hiếm khi các fan hâm mộ bóng đá mách tin cho tôi để viết bài bình luận trên trang này, nhưng trong trường hợp của nhà tỉ phú Việt Nam Đoàn Nguyên Đức, một bài blog về Arsenal lại là nguồn cung cấp thông tin. Bài viết đề cập đến quan hệ đối tác giữa Gunners (Arsenal) và công ty HAGL của nhà tài phiệt này và bày tỏ mối quan tâm sâu sắc về liệu câu lạc bộ bóng đá này có nên dính líu đến nó hay không.
Vì sao? Vì những tố cáo đối với công ty này về hoạt động khai thác rừng, cưỡng bức nông dân khỏi mảnh đất của họ để trồng cao su trên những khu vực rộng lớn ở Lào và Cambodia.
Đoàn Nguyên Đức, còn được biết đến cái tên sinh động hơn là Bầu Đức, đúng thật sự là một đại gia. Với xuất xứ khiêm nhường là một thợ mộc, ông tự xoay xở để trở thành một người có thể nói là giàu nhất trong khu vực.

Với những phô trương đầy đủ chẳng khác nào một tỉ phú phương tây, ông đã mua một đội bóng đá, là người Việt đầu tiên mua máy bay phản lực riêng, và tận hưởng cuộc sống trong những khách sạn năm sao sang trọng.
Nhiều câu hỏi được đặt ra về việc ông làm cách nào để trở thành giàu có tột bực một cách nhanh chóng. Được biết là ông có liên quan đến lĩnh vực khai thác gỗ từ những năm 1990 trong giai đoạn mà nạn phá rừng đang hoành hành tại Việt Nam. Mặc dù ông bác bỏ việc hoạt động phi pháp nhưng ông lại từng phác hoạ một bức tranh đầy sống động về chiến lược kinh doanh của mình trong một bài phỏng vấn của tạp chí Forbes vài năm trước đây, trong đó ông tuyên bố rằng: ”Tôi nghĩ tài nguyên thiên nhiên thì giới hạn, và tôi cần phải khai thác chúng trước khi cạn kiệt.”.
Hoàn toàn chân thực, không quanh co.
Nhưng một báo cáo mới đây đã chiếu một luồng sáng cực kỳ khắc nghiệt vào những hoạt động của ông Bầu tại những quốc gia Đông nam Á láng giềng là Lào và Cambodia. Theo tổ chức Global Witness, ở đấy HAGL là một trong những nhân vật chính tham gia vào quá trình cưỡng chế đất đai trong đó đã có đến hàng nghìn héc ta đất bị ngốn trọn để biến thành các nông trại trồng cây cao su.
Phần đông là đất đai sử dụng của người dân địa phương, thường dùng để canh tác tự sống. Có rất nhiều đất rừng vốn là nguồn lương thực và thuốc men của người dân. Bản báo cáo chứa đầy những câu chuyện về những người dân địa phương bị cưỡng chế khỏi mảnh đất của mình và không còn khả năng kiếm sống.
Một người dân làng kể: ”Công ty này đến và xâm chiếm chúng tôi. Cũng tương tự như ngày xưa, khi kẻ thù xâm chiếm làng mạc của chúng tôi.”
Theo Global Witness: ”Thường thì người dân mới biết đến đồn điền chỉ khi những xe ủi đất của công ty đến san bằng ruộng rẫy của họ.”
HAGL và Tập đoàn Cao su Việt Nam của nhà nước đã mua hơn 200 nghìn héc ta đất từ chính phủ Lào và Cambodia. Những hợp đồng này thì cực kỳ mơ hồ và khó để theo dõi vì việc sử dụng nhiều công ty con và những phương tiện nằm ở nước ngoài. Trong khi HAGL thừa nhận là đã mua hơn 46 nghìn héc ta đất, họ nói rằng không có bất kỳ tranh chấp nào với dân địa phương và bảo rằng họ luôn hoạt động trong khuôn khổ pháp luật.
Theo bản báo cáo, hai công ty trên ”hoạt động hoàn toàn ngoài tầm kiểm soát, tàn phá đời sống người dân địa phương và môi trường.”
Việc xây dựng đồn điền ở mức độ như thế này thì không thể thực hiện được chỉ với vốn đầu tư của Việt Nam. Còn cần có cả đầu tư từ phương Tây. Vì thế Ngân hàng Deutsche đã nhúng tay vào và mua cổ phần trực tiếp từ cả hai công ty trên.
Vấn đề có lẽ nghiêm trọng hơn khi Ngân hàng Thế giới cũng hỗ trợ những hoạt động của họ với lập luận rằng các đồn điền giúp đưa nguồn đầu tư vào các quốc gia này.
Và hãy thử đoán xem bạn phải tìm ai nếu muốn đầu tư vào kinh doanh của ông Bầu? Ngạc nhiên chưa, đấy là nơi của những công ty khai thác mỏ đầy hấp dẫn như ENRC, Glencore Xstrata và Vedanta - Thị trường Chứng khoán London.
Thông tin chào hàng đầu tư vào cổ phiếu của HAGL ở London đã đưa ra những cảnh báo mạnh mẽ về những rủi cố hữu cho các nhà đầu tư.
Một số “công trình hiện tại của HAGL đang được phát triển mà không có sự phê chuẩn, giấy phép hoặc môn bài cần thiết của chính quyền,”, ngoài ra ”việc phát triển và hoạt động của một số công trình không hoàn toàn tuân theo những luật lệ thích hợp.”
Và có lẽ nổi bật hơn hết là: ”Việc xây dựng và hoạt động trong các lĩnh vực nhà đất, đồn điền cao su, khai thác quặng sắt, sản xuất thuỷ điện, sản xuất bàn ghế và đá hoa cương trên một số quốc gia đã gặp phải chống đối từ các cộng đồng địa phương nơi các doanh nghiệp đang đặt cơ sở.” Nhưng Arsenal thì liên quan gì đến những việc này? Bên cạnh là nhà phân phối chính các sản phẩm mang thương hiệu câu lạc bộ tại Việt Nam, Đức còn là một cổ động viên sáng giá của Arsenal và thường xuyên được chụp ảnh cùng với thần tượng của mình là Arsene Wenge. HAGL đã đăng quảng cáo tại các trận bóng của Arsenal và thậm chí Đức còn thuyết phục đội bóng này đến giao đấu hữu nghị tại Việt Nam vào mùa hè.
Cho đến nay, các ông chủ tại sân Emirates vẫn hoan hỉ nhận tiền của Đức cũng như mối quen biết với những khu vực kinh tế đang phát triển nhanh chóng tại Đông nam Á. Arsenal nói rằng họ không biết được những tố giác về HAGL, nhưng sẽ tìm cách trả lời về bản báo cáo của Global Witness. Tuy nhiên những cổ động viên thuần thành Arsenal rõ ràng là không ấn tượng mấy.
Diên Vỹ chuyển ngữ
17.05..2013
(Dân luận)

Hantimes - Nỗi buồn ngày sinh Ông Cụ

Ông Cụ có sinh ngài 19/5 hai không thì không mấy người dám chắc, thật anh thề luôn, anh cam đoan anh bảo đảm. Có người bảo ông lấy ngài thành lập Việt Minh làm ngày sinh của mềnh, hàm ý Việt Minh mở trang sáng láng cho Lừa tộc (thời đới mặc dù bọn Thực dân, phong kiến thối tha cai trị nhưng dân xứ nài đéo Lừa mấy, chả hiểu sau nài thế nào mà lại thành Lừa cả tộc - thế mới tài!!).

Bí ẩn của Việt Nam
Cũng có người bảo hồi niên 46, một viên thống soái người Pháp đến bàn về việc Pháp kéo ra Bắc Kỳ giải giáp quân Tưởng. Bảo treo cờ hoa đón tướng Pháp thì đéo được, mà không treo thì cũng not đúng nghi lễ, ông Cụ bèn biến báo bẩu quốc dân treo cờ chào mừng sinh nhật mềnh để nhất cử lưỡng tiện.
Ngài sinh ông Cụ đích xác ngài nào thì he he có khi chỉ ông Cụ với mật thám Pháp quốc khi xưa là biết. Cũng có một điều kỳ lạ là vĩ nhân như ông Cụ nhưng hông ngờ được gằng ngày sinh và ngài thăng thiên đều gất tù mối, gối gắm và từng là he he bí mật quốc gia.
Chả hiểu ra thế nghéo nào cả.
Anh thường nói đùa với bọn đệ gằng: ông Cụ mới đích thị là người khai sinh một cách công chính chế độ xuất khẩu lao động ở Lừa quốc thiên đàng. Từ ngài ông rời Sài Gồng đi xứ Gato con dân xứ Lừa nhiều đứa nhớn nhác tìm chỗ tháo thân khỏi cố quốc để mưu cầu hạnh phúc giêng, hoặc đơn giản là đong xiền trốn nghèo.
Thôi thì ngài sinh của ông (theo như chính thống giáo mặc định) Sông Hàn khấn khứa: Ông nơi chín suối bằng an, yên lành.
Khấn rồi lại nghĩ, rõ là thừa, ổng yên lành thế ngéo nầu được, khi mà chốc chốc dương gian lại kêu gào, cúng tế xin xỏ ông các kiểu. Hầy thiệt đến rầy rà quá đi!! Chắc ông chán nghe dương gian xứ Lừa kêu cầu, nên bỏ phứt mẹ đến "Thiên đường" gồi.
Anh hông có nói chơi nhá!
Từ hồi Bê nghiệm ga gằng những công bộc của dân rất suy thoái đạo đức, tham ô, hủ hóa các kiểu, dân gất buồn, gất mất lòng tin, gồi dân bảo: kệ mẹ chúng mài; thế là Bê xướng ngai cái "Học tập làm theo", định dùng gương ông Cụ phù hộ độ trì cách mệnh thành công.
Ròng rã bốn năm niên trời đem bóng vía ông Cụ ga để luận bàn, học tập. Thế chả phải là kêu cầu xin xỏ cầu cúng thì là cái gì nữa?
Ông Cụ nghe mãi đâm phát nhảm, gầy gà sốt tiết, ông Cụ thăng luôn, ngai và khẩn cấp. Chả cầu cúng xin xỏ được cái đếu gì nữa, hết, trơn, ráo, rọi; suy thoái cứ suy thoái, mất đạo đức cứ cứ mất, tham ô, hủ hóa các kiểu, trần đời hông thiếu cái gì nữa.
Xứ Lừa xuất hiện những mầm mống của thời đại loạn.
Người thất vọng nhất về sự độ trì của ông Cụ có nhẽ là những người chỉnh đốn, đặc biệt là Trọng giáo sư. Rõ khổ "Học tập làm theo" thế ngéo nầu mà để đến độ lợi ích nhóm đe dọa tồn vong chế độ, cần phải chỉnh đốn luôn, ngai và khẩn cấp.
Chỉnh đốn dù rằng phát huy tinh thần trị bệnh cứu người, đống chí thân tình giúp đỡ nhau cùng tiến bộ (y như lời ông Cụ dặn lại) thế mà nó cứ bật lại tanh tách. Thiên hạ đồn rằng "bên ấy" vác giao rượt "bên mình" chạy tóe khói, khiến "Trung ương không hài lòng" (Lời Trọng Giáo sư)
Thiệt là mất đoàn kết quá đi!!
Xin chia sẻ cùng Cụ nỗi đớn đau nài, chốn Mác Lê xa xăm huyền hồ hư ảo, Cụ cứ kệ mẹ nhân gian, cần thì cho nó chết cụ ạ! Vầng, mầm xanh sẽ mọc trên tro tàn mà thịnh suy vốn lẽ thường tình.
À hượm đã, có chán thì mời Cụ về mần trà xanh xứ Nghệ với lão Hàn, âu nhà lão với nhà Cụ cũng từng thâm giao.
Hí hí!!!
Hantimes
(Blog Hantimes)

Tư pháp độc lập để kiểm soát quyền lực

Một cây bút quan sát thời sự chính trị trong nước đặt vấn đề Việt Nam cần tăng cường tính độc lập của tư pháp và Quốc hội, tôn trọng nguyên tắc tam quyền phân lập để vừa cải tổ thể chế vừa kiểm soát tốt hơn quyền lực, trách nhiệm của những người trong bộ máy lãnh đạo, cầm quyền, không riêng Thủ tướng Chính phủ.

Lãnh đạo Việt Nam
Một số lãnh đạo VN có vẻ chưa phân định rõ giữa trách nhiệm cá nhân và tập thể
Trao đổi với BBC hôm 18/5/2013, nhà báo Hồng Ngọc, cựu Trưởng Ban Kinh tế thuộc Báo điện tử VietnamNet nêu quan điểm cần làm gì để các giải pháp được đề xuất tăng cường trách nhiệm, kiểm soát quyền lực của cá nhân Thủ tướng, Nội các, đạt hiệu quả thực sự, mà không phải là những câu chữ, luật định suông?
Nhà báo Hồng Ngọc: Theo tôi, trong các nguyên tắc của chính trị học hiện đại, quyền lực chỉ có thể được kiểm soát bởi quyền lực, trên nguyên tắc độc lập và cân xứng. Với hầu hết các xã hội, ba nhánh quyền lực cơ bản là lập pháp, hành pháp, và tư pháp. Nó độc lập với nhau và kiểm soát lẫn nhau, dựa trên việc thể chế hóa quy trình hoạt động của từng cơ quan quyền lực. Chính phủ, đứng đầu bởi Thủ tướng hoặc đôi khi là Tổng thống, về cơ bản, bị kiểm soát bởi hệ thống tư pháp độc lập trong việc hành pháp đúng khuôn khổ pháp luật. Nếu tham nhũng hay lạm quyền thì sẽ bị tư pháp luận tội. Chính phủ cũng bị kiểm soát bởi cơ quan lập pháp độc lập (Quốc hội hay Nghị viện) trong việc xây dựng chính sách, kế hoạch và chi tiêu ngân sách… Vấn đề đối với Việt Nam hiện tại là cơ quan tư pháp chưa độc lập. Quốc hội về nguyên tắc là cơ quan quyền lực cao nhất, nhưng tình trạng hầu hết đại biểu quốc hội hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm với các chức danh trong chính phủ hoặc chính quyền địa phương, và về nguyên tắc thì không thể trông đợi sự “độc lập” trong các quyết định của các đại biểu quốc hội như vậy.
Thủ tướng và các thành viên chính phủ ở Việt Nam trên lý thuyết là được Quốc hội bầu ra. Về nguyên tắc thì được ai bầu thì phải chịu trách nhiệm trước người đó. Tức là Thủ tướng và chính phủ phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Chịu trách nhiệm trước tiên là ở việc giải trình, sau đó là bị kỷ luật – mà cao nhất là bãi chức – khi không hoàn thành nhiệm vụ. Thực tế ở Việt Nam, chưa có Thủ tướng nào bị bãi chức trước khi hết nhiệm kỳ. Vì như tôi đã nói ở trên, khó mà trông đợi điều đó khi Quốc hội chưa thật sự độc lập với Chính phủ.

"Điều trớ trêu ở Việt Nam là trên lý thuyết thì Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, nhưng trên thực tế thì đa số đại biểu quốc hội lại là nhân viên cấp dưới của Thủ tướng! - Nhà báo Hồng Ngọc
Chính phủ chịu trách nhiệm trước nhân dân là một cách nói mị dân. Các công dân bình thường thiếu sự tiếp cận thông tin, đối thoại, và thậm chí thiếu cả sự quan tâm và hiểu biết đối với những vấn đề gây tranh cãi, nên “nhân dân” một cách chung chung là sự đối trọng không cân xứng với chính phủ (những “tinh hoa” của nhân dân theo cách này về lý thuyết chính là các đại biểu quốc hội rồi). Kênh duy nhất để những người dân thông thường có được tiếng nói và có cơ hội kiểm soát quyền lực chính phủ là truyền thông. Nhưng nếu truyền thông trực thuộc chính phủ thì kênh đó cũng bị vô hiệu. Một số xã hội thậm chí coi truyền thông đại chúng như một nhánh quyền lực độc lập, bên cạnh ba nhánh quyền lực mà tôi đã nói.
BBC: Việc kiểm soát quyền lực và trách nhiệm cá nhân này liệu chỉ nên tập trung vào một Thủ tướng, nội các, hay còn cần áp dụng cho ai khác nữa?
Mọi quyền lực được ủy nhiệm, theo tôi, đều phải được kiểm soát, để bảo đảm quyền lực đó được thực thi đúng với mong muốn của những người chủ đã ủy nhiệm quyền lực đó. Nếu coi nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, thì mọi nhà nước đều phải chịu trách nhiệm trước nhân dân. Nhưng như tôi đã nói, “nhân dân” nói chung là một sự đối trọng bất cân xứng với chính phủ - đặc biệt khi thiếu truyền thông độc lập – nên lại phải quay về với Quốc hội. Điều trớ trêu ở Việt Nam, là trên lý thuyết thì Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, nhưng trên thực tế thì đa số đại biểu quốc hội lại là nhân viên cấp dưới của Thủ tướng! Sự giám sát, kiểm soát về nguyên tắc chỉ có thể được thực hiện hữu hiệu từ cấp trên đối với cấp dưới, hay ít nhất là từ một cơ quan độc lập, chứ không thể được thực thi hữu hiệu từ cấp dưới đối với cấp trên.
   
"Khi Thủ tướng, về nguyên tắc, không có toàn quyền lãnh đạo Chính phủ, thì cũng không phải chịu trách nhiệm tuyệt đối trước Quốc hội. Đó là sự bế tắc và rối rắm của cơ chế “lãnh đạo tập thể”, “trách nhiệm tập thể - Nhà báo Hồng Ngọc
Thách đố của mọi thể chế là vừa bảo đảm sự kiểm soát đối với quyền lực, lại vừa bảo đảm quyền lực được thực thi và thông suốt. Để thông suốt thì trách nhiệm phải được quy cho cá nhân, và thường là cá nhân người đứng đầu. Những cá nhân khác sẽ chịu trách nhiệm trước cá nhân người đứng đầu. Sẽ là bế tắc nếu Thủ tướng phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội, nhưng các thành viên khác của Chính phủ cũng phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Vì khi đó họ sẽ có quyền, trên nguyên tắc, không nghe lời Thủ tướng. Và khi Thủ tướng, về nguyên tắc, không có toàn quyền lãnh đạo Chính phủ, thì cũng không phải chịu trách nhiệm tuyệt đối trước Quốc hội. Đó là sự bế tắc và rối rắm của cơ chế “lãnh đạo tập thể”, “trách nhiệm tập thể”.
BBC: Làm gì để xử lý, phòng chống hiệu quả các hành vi chối tội, trốn tội, thoái thác trách nhiệm trong mối quan hệ giữa trách nhiệm cá nhân của người lãnh đạo Đảng, chính quyền, trong đó có Thủ tướng Chính phủ, với cơ chế nhiệm kỳ và thể thức lãnh đạo vẫn được cho là mang hình thức tập thể?
Theo tôi, để tránh chối tội, trốn tội thì lại phải quay về với các phương thức kiểm soát quyền lực cơ bản. Đó là tư pháp độc lập. Quốc hội cũng phải độc lập, với nguyên tắc mọi đại biểu quốc hội – hoặc ít nhất là đa số ¾ - phải là đại biểu chuyên trách, không phải là cấp dưới của Chính phủ.
Nếu Quốc hội có thẩm quyền bầu ra Thủ tướng, và xét duyệt các thành viên Chính phủ, thì Quốc hội cũng phải có quyền bãi miễn Thủ tướng Chính phủ trước thời hạn. Các thành viên chính phủ sẽ chịu trách nhiệm trướ Thủ tướng, còn Thủ tướng chịu trách nhiệm tuyệt đối trước Quốc hội.
Tuy nhiên, ngay cả khi đại biểu quốc hội là chuyên trách (không kiêm nhiệm chức vụ bên chính phủ hoặc chính quyền địa phương) thì cũng không phải là sự bảo đảm cho việc ra quyết định độc lập. Vì Thủ tướng thường có vị trí rất cao trong Đảng, và chừng nào hệ thống chính trị chỉ gồm một đảng, thì các đại biểu quốc hội thuộc Đảng đó vẫn là “cấp dưới” của Thủ tướng về mặt Đảng. Còn các đại biểu quốc hội ngoài Đảng thì yếu thế vì thiếu tính tổ chức và đường lối thống nhất để đối trọng với Chính phủ, được mặc định do một đảng kiểm soát. Đó là thách đố lớn nhất trong việc kiểm soát quyền lực trong hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay.
* Nhà báo tự do Hồng Ngọc, có bằng sau đại học về triết học và khoa học chính trị, từng làm việc tại các báo VietnamNet và Thể thao-Văn hóa, ông hiện đang sống và làm việc ở Sài Gòn.
(BBC)

Nợ công Việt Nam: Minh bạch nào cho TPP?

Đối với giới quản lý cao cấp của Việt Nam, một trong những giải pháp chữa cháy đầu tiên phải là minh bạch hóa tất cả những gì cần minh bạch về nợ xấu và nợ công, nếu chính thể này muốn được chấp nhận có mặt trong TPP (Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương).
Vẫn “an toàn”?
Cùng thời gian diễn ra Hội nghị trung ương 7 của Đảng cộng sản Việt Nam vào tháng 5/2013, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có một cuộc tiếp xúc với cử tri thành phố Hải Phòng và tái lập thông điệp “trong bối cảnh khó khăn chúng ta vẫn đảm bảo nợ công trong giới hạn an toàn”.
Một số tờ báo trong nước cũng trích dẫn một đánh giá gần nhất của Ngân hàng thế giới về “tỷ lệ nợ công 55% của Việt Nam vẫn ở mức bền vững”.
Tuy nhiên, giám đốc cơ quan Ngân hàng thế giới tại Việt Nam là bà Victoria Kwakwa lại không quên lưu ý về các khoản nợ của doanh nghiệp nhà nước và nợ do chính phủ bảo lãnh.
“Có những khoản nợ do Chính phủ bảo lãnh, nếu thành hiện thực sẽ là nghĩa vụ nợ của khu vực công và làm tăng nghĩa vụ nợ của Chính phủ. Đây chính là nguồn rủi ro tiềm ẩn trong nợ công của Việt Nam” - Victoria Kwakwa cảnh báo trong một cuộc họp báo diễn ra 3 ngày trước thông điệp “nợ công vẫn an toàn” của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Từ chiều kích phản biện của Quốc hội, quản đốc quốc gia dự án chính sách kinh tế vĩ mô thuộc Ủy ban kinh tế là ông Nguyễn Trí Dũng cũng nêu ra cái đảo mắt độc lập hơn rất nhiều so với “quyết tâm” của Chính phủ: “Nếu xét đến các khoản nợ nước ngoài của doanh nghiệp nhà nước không được Chính phủ bảo lãnh chiếm 10,6% GDP, nợ ngân hàng của khu vực doanh nghiệp nhà nước gần 16,5% GDP, cộng với các khoản nợ bằng trái phiếu trong nước không được Chính phủ bảo lãnh khác của doanh nghiệp nhà nước thì tổng số nợ công Việt Nam có thể lên tới xấp xỉ 95% GDP, vượt xa ngưỡng an toàn 60% GDP”.
Vào năm 2011, GDP Việt Nam là 122 tỷ USD. Như vậy, số nợ công theo quan điểm của Quốc hội đã lên đến 116 tỷ USD, vượt rất xa con số 67 tỷ USD do Chính phủ công bố vào cuối năm 2012.

001_GR331735-305.jpg
Sơ đồ các nước thành viên của Hiệp ước đối tác xuyên Thái Bình Dương
AFP
95% hay 106%?

Nhưng nhận định về tỷ lệ nợ công 95% có lẽ vẫn chưa thoát lộ tất cả những gì phải nín lặng.
Khoảng thời gian đầu năm 2013 đã chứng kiến hiện tượng “giải mật” chưa từng có sau quá nhiều năm như câm lặng.
Chỉ trước Hội nghị trung ương 7 một tháng, những con số về nợ công quốc gia đã lần đầu tiên được “tiết lộ” tại một cuộc thảo khoa học có tên “Khủng hoảng nợ công ở Liên minh châu Âu và những vấn đề gợi mở đối với Việt Nam” - được tổ chức bởi Viện hàn lâm khoa học Việt Nam, một tổ chức cũng vừa mới khai sinh.
Cũng là lần đầu tiên, giới chuyên gia khoa học ở Việt Nam tỏ ra phóng khoáng đến thế trong việc “gợi mở” những con số mà trước đây thuộc loại “cấm kỵ”. Nếu TS Nguyễn Trọng Hậu - một giảng viên của Đại học Almamer ở Ba Lan - cho biết nếu tính theo tiêu chuẩn quốc tế, nợ công Việt Nam Nam phải lên đến 128 tỷ USD, tương đương với 106% GDP năm 2011, thì TS Lưu Bích Hồ, nguyên viện trưởng Viện nghiên cứu chiến lược của Bộ kế hoạch và đầu tư, cũng đồng thuận với ý kiến đó.
Trong một bối cảnh hoàn toàn khác biệt, vào cuối năm 2012, báo cáo của Chính phủ gửi cho các đại biểu quốc hội lại cho biết nợ công của Việt Nam “chỉ” khoảng 67 tỷ USD, chiếm có 55,4% GDP.
Những cơ quan tham mưu tận lực cho Chính phủ để hình thành nên con số nợ công trên là Bộ tài chính và Bộ kế hoạch và đầu tư.
Chiếu theo con số báo cáo trên, rõ ràng đã tồn tại một khoảng cách rất lớn giữa điều được coi là “thống kê” của các cơ quan hữu trách với hiện trạng mà giới chuyên gia xem là con số thực. Khoảng cách này có thể lên đến ít nhất 60 tỷ USD.
Cần nhắc lại, sau khi báo cáo của Chính phủ Việt Nam được công bố vào cuối năm 2012, một chuyên gia thống kê hàng đầu, người từng là vụ trưởng Vụ tài khoản quốc gia thuộc Cục thống kê Liên hiệp quốc - TS Vũ Quang Việt - đã thẳng thừng phản bác khi cho rằng nếu tính đúng chuẩn của Liên hiệp quốc, số thực nợ công quốc gia của Việt Nam phải lên đến 129 tỷ USD.
Theo tiêu chuẩn quốc tế, nợ công được hiểu là nợ của chính phủ cộng thêm nợ do chính phủ bảo lãnh, nợ của chính quyền địa phương và nợ của doanh nghiệp nhà nước.
Theo TS Vũ Quang Việt, chính  phủ Việt Nam đã không coi nợ của doanh nghiệp nhà nước là một phần của nợ công và do đó đã không tính khoản 62 tỷ USD của khối này vào nợ quốc gia.
Cũng theo quan điểm của ông Việt, vì nhà nước làm chủ sở hữu của doanh nghiệp nhà nước nên nhà nước không thể phủi tay để chủ nợ đòi bán tài sản thu nợ theo đúng luật phá sản. Một trong những trường hợp điển hình mà ông dẫn chứng là nợ của Vinashin đã được chính quyền dồn cho các doanh nghiệp nhà nước khác phải trả.
Sẽ không khách quan nếu không nhắc lại món nợ 80.000 tỷ đồng của Tập đoàn tàu thủy Vinashin gây ra, mà cho tới giờ vẫn bị giới phân tích kinh tế và cả giới quan sát chính trị xem là một khuất tất về nợ xấu và chắc chắn có liên quan đến con số ít nhất 800 đô la nợ công trên đầu người ở Việt Nam.
Đồng thời, có tới 30 tập đoàn và tổng công ty có số nợ lớn gấp 3 lần vốn chủ sở hữu; trong số này có 8 doanh nghiệp nợ gấp 10 lần vốn và 10 doanh nghiệp nợ từ 5-10 lần - ông Việt dẫn chứng từ Bộ trưởng tài chính Vương Đình Huệ.
“Như vậy có lẽ 30 tập đoàn này đã mất khả năng trả nợ” - TS Vũ Quang Việt kết luận.
Không còn gì để giấu diếm, Vinashin đã không còn khả năng trả nợ.
Theo dư luận nhiều tháng qua, những khuất tất về công nợ của một số doanh nghiệp nhà nước như Vinashin đã có dấu hiệu chuyển thành khuất lấp.
Khuất lấp?
Làm sao giải mã được những khuất tất cùng khuất lấp trong bài toán nợ công Việt Nam?
TS Nguyễn Trọng Hậu của Ba Lan nhắc lại: trong khi thế giới có 5 tiêu chí về nợ công chung, thì Việt Nam chỉ có 3 tiêu chí. Hai tiêu chí không được Việt Nam tính vào nợ công là nợ của doanh nghiệp nhà nước và khoản nhà nước vay của quỹ hưu trí.
Cũng như TS Vũ Quang Việt, ông Hậu dẫn lại trường hợp nợ của Vinashin không được tính vào nợ công, trong khi ở các nước khác, doanh nghiệp nào có vốn nhà nước dù chỉ một vài phần trăm, khi vay nước ngoài cũng phải tính vào.
Không thật gần nhưng cũng chẳng mấy xa xôi, nợ công và nợ xấu lại có mối quan hệ dính chùm nhân quả.
Một diễn đàn kinh tế mùa xuân ở Nha Trang vào tháng 4/2013 đã lần đầu tiên phát ra con số nợ xấu của nền kinh tế Việt Nam với ước tính vượt quá 500.000 tỷ đồng. Trong khi đó, các báo cáo của những cơ quan đặc trách về tình hình này, đặc biệt là Ngân hàng nhà nước, đã chỉ thừa nhận nợ xấu vào khoảng 170.000 tỷ đồng.
Khoảng chênh lệch đã lên đến 3 lần.
Hiển nhiên sự chênh biệt giữa con số thực tế và số báo cáo như trên có thể coi là “khủng khiếp”. Tình hình đó cũng cho thấy một trong những vấn đề trầm trọng nhất đối với nền kinh tế và cả với chính sách công ở Việt Nam là thực trạng thống kê. Không những thiếu chính xác, trong nhiều trường hợp hoạt động thống kê còn trở nên thiếu minh bạch một cách khó tả và rất đáng ngờ.
Một trong những minh họa điển hình là tỷ lệ thất nghiệp được Bộ lao động, thương binh và xã hội công bố chỉ chưa đầy 2% trong năm 2012, trong khi theo một quan chức thì “thêm vào một con số 0 vẫn hợp lý”.
Phải chăng cái mà xã hội đang bức xúc về “căn bệnh thành tích đã trở nên mãn tính” cùng những lời hứa không hồi âm đã làm cho nhiều số liệu thống kê bị sai lệch?
Quá muộn?
Một hứa hẹn mà Chính phủ Việt Nam gửi đến các đại biểu quốc hội vào cuối năm 2012 là nợ công quốc gia sẽ không vượt quá 65% vào năm 2015. Dĩ nhiên, 65% là giới hạn nguy hiểm mà bất cứ một nền kinh tế nào cũng phải dè chừng. Nhưng lời hứa hẹn đó chỉ hợp lý nếu quả thực con số nợ công hiện nay không phải 128 tỷ USD mà là 67 tỷ USD.
Có nghĩa là từ đây đến năm 2015, nợ vay nước ngoài sẽ tiếp tục tăng lên mà vẫn chưa bị coi là “nguy hiểm”.
Đó cũng là lý do vì sao vào tháng 5/2013, sau nhiều tranh cãi có liên quan đến chủ đề lãng phí và nợ công, các cơ quan hữu trách Việt Nam vẫn chấp nhận một món vay từ phía Nhật, dù đã phải chính thức bỏ kế hoạch áp dụng mô hình tàu cao tốc Shinkansen, thay vào đó bằng hệ thống tàu chậm hơn nối Hà Nội và TP.HCM, giúp giảm bớt 20% của khối chi phí 50 tỷ USD vay từ nguồn ODA.
Chỉ có điều, mọi chuyện sẽ trở nên vô cùng bất hợp lý khi phương thức tính toán theo tiêu chuẩn Liên hiệp quốc lại tỏ ra phù hợp hơn hẳn kiểu cách “tái cơ cấu nợ vay” luôn bị nghi ngờ của giới chức điều hành kinh tế Việt Nam.
Nếu trường hợp trên xảy ra, ngay giờ đây vấn đề nợ công Việt Nam đã vượt xa giới hạn nguy hiểm và có thể tiến tới một điểm bùng vỡ trong một tương lai không quá xa.
PGS.TS Nguyễn An Hà - Viện Nghiên cứu châu Âu - là người mở ra một giả định đáng chú ý: với tình hình nợ công và quản lý nợ công của Việt Nam, có thể thấy rằng nền kinh tế Việt Nam hiện đang có một số đặc điểm giống với các nước PIIGS (các nước châu Âu có tỉ lệ nợ cao, bao gồm Hy Lạp, Ireland, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ý) khi lâm vào khủng hoảng nợ công. Đó là tăng trưởng GDP giảm kể từ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2007 đến nay, lạm phát luôn có xu hướng tăng mạnh, luôn cao trên 8% kể từ năm 2006-2011... Do vậy, cần có những giải pháp xử lý trước khi quá muộn.
“Quá muộn” cũng có nghĩa là nền kinh tế Việt Nam, vốn đang quá mong manh và rệu rã chân đứng, sẽ có thể suy sụp hoàn toàn với chỉ một cú nhấn bùng nổ nợ công.
Hiển nhiên đối với giới quản lý cao cấp của Việt Nam, một trong những giải pháp chữa cháy đầu tiên phải là minh bạch hóa tất cả những gì cần minh bạch về nợ xấu và nợ công, nếu chính thể này muốn được chấp nhận có mặt trong TPP (Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương).
Minh bạch nào cho TPP?
Từ sau tết con Rắn 2013, một số tờ báo Việt Nam bắt đầu một “chiến dịch” khuếch trương ước nguyện của Việt Nam về khả năng được tham dự “mâm cỗ” TPP - một trào lưu gần tương đồng với cuộc vận động gia nhập vào Tổ chức thương mại thế giới (WTO) cách đây 6 năm và Hiệp định thương mại Việt - Mỹ cách đây đúng một con giáp.
TPP cũng đang được xem là lối thoát khả dĩ gần như duy nhất cho nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh suy thoái khó có đường thoát.
Minh bạch theo tiêu chuẩn quốc tế lại là một trong những điều kiện then chốt của TPP. Hiểu theo ngữ nghĩa quốc tế và nếu không bị chi phối bởi tính “nghị quyết”, muốn minh bạch thì  hoạt động điều hành kinh tế phải được công khai hóa về toàn bộ các văn bản hành chính, báo cáo và số liệu mang tính “nội bộ”. Trong đó, những chủ đề mang tính “nhạy cảm” như tham nhũng và nợ công đương nhiên có tính gắn kết và cần được đưa ra ánh sáng.
Không thiếu dẫn chứng cho những gì đáng bị coi là khuất lấp, khi một nhóm nhà nghiên cứu thực hiện đề tài “Nợ công Việt Nam: quá khứ, hiện tại và tương lai” cho Ủy ban Kinh tế của Quốc hội vào tháng 7/2012 đã phàn nàn rằng việc tiếp cận các nguồn thông tin chính thống và cập nhật về nợ công, nợ nước ngoài và nợ của doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam là hết sức khó khăn.
Theo một bài viết trong nước, ngay cả cơ quan Kiểm toán Nhà nước cũng không dễ gì có được thông tin về nợ công. Trong báo cáo ngày 18/7/2012, cơ quan này đã phê phán Bộ Tài chính trong việc quản lý nợ công và cách công khai thông tin liên quan. Báo cáo này đánh giá Bộ Tài chính “chưa công khai thông tin đầy đủ” về tình hình thực hiện các chương trình, dự án sử dụng vốn vay của Chính phủ và vốn vay được Chính phủ bảo lãnh; cũng như về tổng số dư nợ công, cơ cấu nợ trong nước, nợ được Chính phủ bảo lãnh, nợ của chính quyền địa phương, số liệu vốn vay thực nhận và trả nợ hàng năm. Những thông tin này đáng ra phải được báo cáo công khai, minh bạch theo Luật Quản lý nợ công.
Như nhiều người đã rõ, không thể minh bạch được những vấn nạn trong nội tại kinh tế và điều hành quản lý của mình, Việt Nam đành thúc thủ ở thứ hạng 123/176 trong bảng tổng sắp của Tổ chức minh bạch quốc tế (TI) về chỉ số nhận thức tham nhũng năm 2012, tụt 11 bậc so với năm 2011.
Dù chưa bao giờ nhà chức trách Việt Nam thừa nhận tính “hợp hiến” của TI, nhưng dư luận sở tại lại đã trở nên quá tràn ứ.
Là một yếu tố tiên quyết để Việt Nam hội nhập thương mại quốc tế và cả những chủ đề lớn khác như quốc phòng, an ninh và ngoại giao, tính minh bạch sẽ khó có thể được chứng thực dù ở mức tối thiểu, nếu những con số thống kê vẫn tiếp tục thể hiện gương mặt khuất lấp. Khi đó, e rằng cơ hội cho Việt Nam đón nhận sự tiếp ứng từ bên ngoài sẽ chỉ còn rất hạn hẹp.
Thậm chí là ngược lại, có thể đến một lúc nào đó cộng đồng quốc tế sẽ quay lưng với giới điều hành kinh tế Việt Nam.
Phạm Chí Dũng gửi RFA từ Việt Nam
 

8 sự thật về Hồ Chí Minh

1
Hôm nay nhân vụ Phương Uyên, nhà cháu nghĩ lại thấy Hồ Chí Minh thật tội nghiệp! Kẻ thì dùng mỹ từ tôn ông lên làm thánh, kẻ thì xúc phạm nặng nề và vẽ ông thành quỷ. Việc làm của bọn họ tuy có vẻ trái ngược nhau, nhưng đều đưa đến một hậu quả to tổ bố, đó là bóp méo Hồ Chí Minh. Sau đây là một vài chi tiết trong cuộc đời Hồ Chí Minh được sắp xếp theo trình tự thời gian mà nhà cháu sưu tầm được, cũng như tìm cách diễn đạt theo ngôn ngữ bình thường (không lăng xê cũng không lăng mạ), hầu các cụ:
1. Hồ Chí Minh thuộc thế hệ 9x. Ông sinh năm 1890.
2. Hồ Chí Minh từng bị đuổi học vì đi biểu tình. Khi phong trào chống sưu thuế ở Trung Kỳ nổ ra vào năm 1908, Hồ Chí Minh (khi đó có tên là Nguyễn Tất Thành) đang học trường Quốc học Huế, cùng bạn bè tham gia biểu tình và bị chính quyền đàn áp, về sau bị đuổi học. Cha ông bị triều đình khiển trách nặng nề vì hành vi của con trai, anh trai ông cũng bị giám sát chặt chẽ.
3. Hồ Chí Minh là người Việt Nam đi xuất khẩu lao động nổi tiếng nhất thế giới. Mới 21 tuổi, ông đã theo tàu Pháp bôn ba khắp năm châu làm phụ bếp, sau đó là xúc tuyết, quét than và làm nhiều công việc cực nhọc khác để kiếm sống.
4. Hồ Chí Minh đã nhận tiền của nước ngoài để chống chính quyền trong các thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Nhiều tài liệu giải mật cho thấy ông đã nhận lương, phụ cấp và nhiều khoản tài trợ khác từ Đảng Cộng sản Pháp và Quốc tế Cộng sản để hoạt động từ những năm 1920. Nhờ vậy, ông có thể di chuyển, sinh sống và mở các lớp huấn luyện ở Trung Quốc và Thái Lan.
5. Hồ Chí Minh đã khôn khéo lợi dụng các quyền tự do dân chủ của phương Tây để chống chính quyền trong các thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Ông tham gia ký “Yêu sách của nhân dân An Nam” gửi Hội nghị Versailles năm 1919, mở báo “Người cùng khổ” (Le Paria) năm 1922 nhằm tố cáo các tội ác của chính quyền thuộc địa,  cũng như viết “Bản án chế độ thực dân Pháp” xuất bản năm 1925 tại Paris.
6. Hồ Chí Minh đã tham gia sáng lập một số đảng phái, tổ chức chính trị ở hải ngoại. Năm 1920, ông là đồng sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp, đến năm 1925 lập ra “Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội” ở Quảng Châu – Trung Quốc nhằm huấn luyện chính trị và cách thức đấu tranh giành chính quyền (không nhất thiết là “bất bạo động”) cho các nhà hoạt động trong nước. Đặc biệt, khi còn ở hải ngoại (Hong Kong), ông đã là người sáng lập ra một đảng phái chính trị có tên là Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3-2-1930, nhằm mục đích lật đổ chính quyền ở trong nước.
7. Hồ Chí Minh đã viết nhiều tài liệu chống chính quyền mà nổi tiếng nhất là tác phẩm “Đường kách mệnh”, xuất bản năm 1927 ở Quảng Châu – Trung Quốc.
8. Hồ Chí Minh đã tham gia nhiều khóa học về bạo động lật đổ chính quyền ở nước ngoài, đặc biệt là ở Đại học Phương Đông (Liên Xô) trong những năm 1930.
9. Sặc cà lày tục tiệp sau ^^…
Trịnh Hữu Long
(Blog Trịnh Hữu Long

Bài bào chữa của luật sư Hà Huy Sơn cho Nguyễn Phương Uyên


Về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” điểm c khoản 1 điều 88 BLHS”
Kính thưa: Hội đồng xét xử
Tôi, Luật sư Hà Huy Sơn Công ty Luật TNHH Hà Sơn thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội là người bào chữa cho Nguyễn Phương Uyên trình bày quan điểm bào chữa như sau:
I. Tóm tắt vụ án:
Nguyễn Phương Uyên, sinh 12/10/1992; sinh viên năm thứ 2 Trường Đại học Công nghiệp thực phẩm Tp.Hồ Chí Minh.
HKTT: Thôn Lâm Giang, xã Hàm Trí, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận.
Chỗ ở: Số 9 Dương Đức Hiền, phường Tây Thạnh, quận Tân Phú, Tp.HCM.
Trình độ học vấn: 12/12.
Bị truy tố theo điểm c khoản 1 điều 88 Bộ luật hình sự 1999, 2009:
“Điều 88. Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1. Người nào có một trong những hành vi sau đây nhằm chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm:
A) Tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân;
B) Tuyên truyền những luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin bịa đặt gây hoang mang trong nhân dân;
C) Làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, văn hoá phẩm có nội dung chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”
Quyết định khởi tố vụ án số 01 ngày 19/10/2012.
Quyết định khởi tố bị can số 03 ngày 19/10/2012 đối với Nguyễn Phương Uyên.
Bị bắt từ ngày 19/10/2012.
Tiền án, tiền sự: không.
Kết luận điều tra số 01/ANĐT ngày 26/02/2013 của Cơ quan an ninh điều tra Công an tỉnh Long An “Vụ án: Tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam, khởi tố ngày 19/10/2012 do Đinh Nguyên Kha và đồng bọn thực hiện”.
Cáo trạng số 31/QĐ-KSĐT ngày 06/03/2013 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An.
II. Các hành vi bị truy tố:
Lần thứ nhất vào khoảng giữa tháng 08/2012:
1. Về lá cờ vàng ba sọc đỏ: Uyên sử dụng giấy trắng A4, dùng bút sáp màu và màu đỏ tô thành lá cờ; phía dưới lá cờ có ghi chú thích bằng bút sáp màu đen dòng chữ: “1890 – 1920: Đại Nam quốc kỳ từ thời vua Thành Thái tới vua Khải Định; 1948 – 1975: Cơ quốc gia Việt Nam”. (trang 03 – Cáo trạng)
1.1. “Bách khoa toàn thư mở Wikipedia:
Quốc kỳ Việt Nam Cộng hòa, còn gọi là cờ vàng ba sọc đỏ được vua Bảo Đại sử dụng năm 1948. Đây là Quốc kỳ của Quốc gia Việt Nam (do Pháp kiểm soát ở cả miền bắc và miền nam Việt Nam) từ năm 1949 đến 1955.
Năm 1890, lá cờ vàng ba sọc đỏ được tạo ra và sử dụng lần đầu tiên như là lá cờ quốc gia (Đại Nam Quốc kỳ 1890-1920)”.
Theo lịch sử thì đây là lá cờ của tổ tiên mà sau này Nhà nước Việt Nam Cộng hòa dùng lại và cũng như tên “Việt Nam” là do tổ tiên để lại chứ không phải là biểu tượng của thế lực phản động nào. Phương Uyên không làm ra, không xuyên tạc, không phỉ báng chính quyền nhân dân vì đây là sự thật lịch sử có trước cả Nhà nước CHXHCN Việt Nam (sinh ra năm 1976).
1.2. Hiện nay chưa có một văn bản pháp luật nào cấm vẽ, dán cờ vàng ba sọc đỏ tại nơi công cộng.
1.3. Điều 69 Hiến pháp năm 1992, quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận,”.
Khoản 2 điều 19 Công ước Quốc tế về những quyền dân sự và chính trị năm 1996 (Việt Nam tham gia năm 1982), quy định: “Mọi người đều có quyền tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận, và phổ biến mọi tin tức và ý kiến bằng truyền khẩu, bút tự hay ấn phẩm, dưới hình thức nghệ thuật, hay bằng mọi phương tiện truyền thông khác, không kể biên giới quốc gia.”
Điều 19 Tuyên ngôn nhân quyền Liên hợp quốc năm 1948, quy định: “Ai cũng có quyền tự do quan niệm và tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền không bị ai can thiệp vì những quan niệm của mình, và quyền tìm kiếm, tiếp nhận cùng phổ biến tin tức và ý kiến bằng mọi phương tiện truyền thông không kể biên giới quốc gia.”
Hành vi này không vi phạm pháp luật, không có nội dung chống Nhà nước CXHCN Việt Nam nên không vi phạm điểm c khoản 1 điều 88 BLHS.
2. Về khẩu hiệu: Uyên sử dụng hai mảnh vải trắng, lấy máu pha loãng với nước, rồi dùng ngón tay chấm viết, một mảnh có nội dung phỉ báng Đảng Cộng sản Việt Nam, mảnh vải còn lại có nội dung không hay về Trung Quốc. Cả hai mảnh vải phía dưới đề ghi: “TH: TTYN”; (trang 03 – Cáo trạng)
2.1. Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước CHXHCN Việt Nam không phải là một, nên không thể cho rằng phỉ báng Đảng là phỉ báng Nhà nước; đây không thuộc nội hàm của điều 88 BLHS. Hơn nữa, trong BLHS không có “Tội tuyên truyền chống Đảng Cộng sản Việt Nam”.
2.2. Nội dung mảnh vải ghi: “Tàu khựa cút khỏi Biển Đông” là quyền của công dân ghi ở điều 77 Hiến pháp năm 1992 “Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân”. Về yếu tố lịch sử và luật pháp quốc tế Trung Quốc không có chủ quyền ở Biển Đông. Trung Quốc là kẻ đã xâm chiếm Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam việc phản đối kẻ xâm lược là một hành động yêu nước không thể bị kết tội.
2.3. Chữ viết tắt “TH: TTYN” không có nội dung, không ý nghĩa gì.
3. Về bức tranh: Uyên vẽ bức tranh miêu tả một người công an to lớn, tay cầm dùi cui chỉ về phía người dân đang xếp hàng. Bên trên bức tranh ghi dòng chữ “tự do dân chủ”, phía dưới bức tranh ghi: “TH: TTYN”.
3.1. Tệ nạn bất công, tham nhũng, thiếu dân chủ trong xã hội xảy ra ở nhiều nơi, nhiều lúc Đảng và Nhà nước đã nhiều lần thừa nhận công khai. Những năm gần đây các các trường hợp công an đánh người, bắn chết người xảy ra nhiều …gây ra bức xúc cho xã hội nên việc Phương Uyên có vẽ bức tranh đó cũng không phải là xuyên tạc, phỉ báng mà là phản ánh một phần sự thật của xã hội, tất nhiên bên cạnh đó cũng có rất nhiều hình ảnh đẹp về cán bộ, chiến sĩ công an.
3.2. Như trên tôi đã nêu đây là quyền tự do bày tỏ quan điểm của công dân.
Lần thứ hai: vào các ngày 03/10/2012, 08/10/2012, Phương Uyên chỉ đổi tiền lẻ do Kha nhờ chứ không biết đến nội dung ghi trên tờ rơi.
Khoản 2 điều 63 “Những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự” BL TTHS, quy định:
“Khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án phải chứng minh:
Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội;”
1. Biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu ngày 10/10/2012 (Bút lục 55). Thu được khoảng 650 tờ rơi KT (07 x 14) có nội dung kêu gọi “Tuổi trẻ Việt Nam đứng lên chống lại Trung Quốc”. Không thể coi đây là hành vi “Tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam”.
2. Biên bản hỏi cung Phương Uyên ngày 23/11/2012 (Bút lục 730). Nội dung cho rằng Phương Uyên phỉ báng lãnh tụ Hồ Chí Minh là “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” là không đúng, bởi lẽ: Hồ Chí Minh không đồng nghĩa với Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; hơn nữa Hồ Chí Minh mất năm 1969, đến năm 1976 Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam mới ra đời.
3. Mặc dù Kết luận điều tra không hề nói đến nhưng Cáo trạng của Viện kiểm sát lại cho rằng sau khi các hành vi trên của Phương Uyên: Nguyễn Thiện Thành có kế hoạch chống nhà nước quy mô hơn bằng cách rải truyền đơn, có tên gọi là “Chiến dịch tờ tiền lẻ” làm nghiêm trọng hơn tính chất của sự việc mà không đưa ra chứng cứ để chứng minh: Kế hoạch, chiến dịch đó như thế nào? làm bất lợi cho các bị cáo là vi phạm (điều 64 – chứng cứ của BL TTHS) và làm sai lệch sự thật khách quan của vụ án, vi phạm (điều 10 BL TTHS).
4. Việc làm của Kha và Uyên rải tờ rơi ngày 10/10/2012 tại cầu vượt An Sương, xã Bà Điểm, huyện Hóc Môn, Tp.HCM là lần đầu tiên do Nguyễn Thiện Thành giới thiệu thì hai người mới biết nhau, hành vi kết hợp giản đơn không có sự phân công chặt chẽ nên không phải là hành vi có tổ chức.
III. Các vi phạm tố tụng hình sự:
1. Các cơ quan tiến hành tố tụng không xác định được trang thông tin điện tử “Tuổi trẻ yêu nước nước” được lập ra ở lãnh thổ nước nào? đã đăng tải các hình ảnh như cáo trạng đưa ra vào thời gian cụ thể nào? là vi phạm khoản 1 điều 63 – BL TTHS, quy định phải chứng minh:
“Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội;”
Ai là người quản trị trang thông tin điện tử “Tuổi trẻ yêu nước nước”? là vi phạm khoản 2 điều 63 – BL TTHS, quy định phải chứng minh:
“Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội;”
Không xác định được trang thông tin điện tử “Tuổi trẻ yêu nước nước” có số lượt người trong nước truy cập là bao nhiêu để đánh giá mức ảnh hưởng của nó? là vi phạm khoản 4 điều 63 – BL TTHS, quy định phải chứng minh:
“Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.”
Việc đăng tải các file ảnh trên trang thông tin điện tử “Tuổi trẻ yêu nước nước” là do người quản trị trang này phải chịu trách nhiệm về việc “phổ biến, tuyên truyền” chứ không phải là trách nhiệm của Nguyễn Phương Uyên.
2. Không có chứng cứ để xác định trang thông tin điện tử “Tuổi trẻ yêu nước nước” là có thật – là vi phạm khoản 1 điều 64 “Chứng cứ” – BL TTHS, quy định:
“Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án.
3. Các cơ quan điều tra không xác định định được chứng cứ là Phương Uyên đã gửi các file ảnh từ máy tính nào (số hiệu máy tính), thời gian (ngày, tháng) nào? mà chỉ vừa duy nhất là lời khai của Phương Uyên.
4. Các biên bản hỏi cung ngày 23/11/2012 (BL 729), 09/01/2013 (BL 738) đều do các điều tra viên in từ máy vi tính để Phương Uyên ký là vi phạm khoản 1 điều 95 “Biên bản” – BL TTHS, quy định:
“Khi tiến hành các hoạt động tố tụng, bắt buộc phải lập biên bản theo mẫu quy định thống nhất.”
5. Bút lục 38 “Đề nghị xét phê chuẩn quyết định khởi tố bị can” ngày 19/10/2012 của Cơ quan an ninh điều tra Công an tỉnh Long An đối với Phương Uyên gửi Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An không có số, nội dung không ghi số quyết định khởi tố vụ án, số quyết định khởi tố bị can. Đây là dấu hiệu vi phạm tố tụng hình sự để hợp thức hóa hồ sơ vụ án.
IV. Các cơ sở suy đoán vô tội:
6. Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án và gặp Phương Uyên tôi nhận thấy Phương Uyên là nạn nhân của Nguyễn Thiện Thành, người mà Phương Uyên chưa gặp mặt bao giờ. Cơ quan an ninh điều tra không bắt được Nguyễn Thiện Thành; không xác định được tổ chức “Tuổi trẻ yêu nước” của Nguyễn Thiện Thành là như thế nào hay đây chỉ là cái bẫy để Nguyễn Thiện Thành gài những thanh niên sinh viên có nhiệt huyết với đất nước như Nguyễn Phương Uyên và những thanh niên sinh viên khác. Theo quan điểm của tôi vụ án Đinh Nguyên Kha và Nguyễn Phương Uyên sẽ làm cho thanh niên sinh viên Việt Nam không dám quan tâm đến chủ quyền biển đảo Quốc gia và đấu tranh chống tệ nạn tham nhũng trong xã hội; gây bất lợi cho việc bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ của Việt Nam.
7. Bức xúc trước tệ nạn tiêu cực, tham nhũng ngày càng diễn ra phổ biến trong xã hội, nguyên nhân là do tội của không ít các cán bộ công quyền trong bộ máy nhà nước gây ra. Điều đó đã tác động đến tinh thần của Phương Uyên một sinh viên trẻ tuổi trung thực nên Phương Uyên nhìn và có phản ứng tiêu cực với bộ máy nhà nước là một tâm lý chính đáng, dễ hiểu. Các hành động xâm phạm chủ quyền và tàn sát ngư dân Việt Nam ngày càng gia tăng của nhà cầm quyền Trung Quốc trong những năm gần đây; được giáo dục trong nhà trường về trách nhiệm và tình yêu Tổ quốc là một người Việt Nam tất yếu Phương Uyên có phản ứng phản đối Trung Quốc. (điểm đ khoản 1 điều 46 – BLHS).
8. Phương Uyên đã trung thực hợp tác với Cơ quan điều tra như trang 11 của Kết luận điều tra số 01/ANĐT ngày 26/02/2013 của Cơ quan an ninh điều tra Công an tỉnh Long An. Tự nguyện giao nộp các đồ vật tại Biên bản tạm giữ đồ vật và kiểm tra tài liệu ngày 14/10/2012 (BL 752 – 755) của Cơ quan điều tra. (điểm p khoản 1 điều 46 – BLHS).
9. Phương Uyên ngày 19, 20/08/2012 có dán cờ vàng, 01 khẩu hiệu “Tàu khựa cút khỏi biển Đông”, 01 tranh biếm họa ở gần nhà thuộc địa bàn xã Hàm Trí, Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận thì đây là một vùng nông thôn nghèo, ít người biết đến, dân trí còn thấp không có ảnh hưởng đáng kể.
10. Phương Uyên bị truy tố theo điểm c khoản điều 88 BLHS: “Làm ra, tàng trữ, lưu hành…” nhưng Phương Uyên không “tàng trữ” bất cứ một tài liệu nào. Theo Biên bản tạm giữ đồ vật và kiểm tra tài liệu ngày 14/10/2012 (BL 752 – 755) các file ảnh Cơ quan điều tra có được là do phục hồi thẻ nhớ sau đó in ra giấy bắt Phương Uyên ký xác nhận.
11. Phương Uyên không có tiền án, tiền sự, chưa bị xử phạt hành chính.
12. Phương Uyên là một sinh viên tích cực tham gia các hoạt động xã hội của Trường Đại học Công nghiệp thực phẩm Tp.Hồ Chí Minh.
13. Được bạn bè sinh viên quý mến; là một người con ngoan của gia đình.
V. Về phần dân sự:
Biên bản tạm giữ đồ vật và kiểm tra tài liệu ngày 14/10/2012 (BL 752 – 755), Phương Uyên là người tự nguyện giao nộp đồ vật. Đề nghị Tòa trả lại cho Phương Uyên:
1. Thẻ nhớ máy ảnh hiệu Transcend HC 4GB vì không có thông tin, tài liệu liên quan vụ rải truyền đơn;
2. Thẻ nhớ điện thoại loại micro 256MB vì kết quả, máy vi tính không nhận diện được thẻ nhớ này;
3. Điện thoại di động, hiệu Nokia 6131 vì kết quả, máy vi tính không nhận diện được thẻ nhớ của điện thoại (mục 2).
VI. Kết luận:
Kính thưa Hội đồng xét xử,
Theo như Cáo trạng của Viện kiểm sát thì hành vi của Nguyễn Phương Uyên không gây ra hậu quả nào cho xã hội; không có động cơ, mục đích chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các hành vi của Nguyễn Phương Uyên chỉ là phản ánh bức xúc cá nhân trước hiện trạng của đất nước và muốn cảnh tỉnh thanh niên sinh viên về ý thức và trách nhiệm bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc. Các hành vi của Nguyễn Phương Uyên không cấu thành trách nhiệm hình sự vì vậy tôi đề nghị Hội đồng xét xử hãy công minh xem xét tuyên Nguyễn Phương Uyên vô tội.
Trân trọng cám ơn sự lắng nghe của các quý vị./.
Long An, ngày 16/05/2013
Người bào chữa
Luật sư Hà Huy Sơn
(BVN)

Gia Hy - Lớn & Nhỏ

images

Đọc những dòng về lời bày tỏ của 2 em Uyên và Kha trước phiên tòa tôi đã không thể nào cầm được những dòng nước mắt, những giọt nước mắt của hạnh phúc, của tự hào và của xót xa.
Tôi hạnh phúc vì tôi có cùng dòng máu Việt đang chảy trong người như 2 em, tôi tự hào vì các em luôn ngẩng cao đầu trong suốt phiên tòa với những lời nói đầy ấp tình yêu thương dành cho quê hương VN mà không hề run sợ trước bạo quyền của phiên tòa CS và cuối cùng là sự xót xa cho những người yêu nước phải chịu cảnh tù đày ở lứa tuổi đôi mươi.
 Tôi thiết nghĩ không cần 1 bút mực nào để diễn tả thêm về cái Đẹp đang tỏa sáng nơi 2 em nữa, cũng không cần 1 bản kiến nghị nào thêm nữa của những người gọi là Nhân sĩ Tri Thức, không cần thêm bất cứ 1 lời bình giải nào vì bản thân các em đã làm được tất cả mọi điều cho mình.
 Cái mà tôi muốn nói lên đó là sự bất công của những người LỚN, những người đang cầm quyền và những người không cầm quyền.
Trong đời sống bình thường, khi 1 đứa trẻ lầm lỗi bất cứ 1 điều gì thì trước tiên người lớn thường gọi chúng đến để la mắng và trừng phạt. Nhưng trước khi la mắng hay trừng phạt thì người lớn thường hỏi nguyên nhân là 2 chữ : Tại Sao? Khi đứa trẻ trình bày nguyên nhân thì sau đó người lớn sẽ phân tích và mới luận tội dể trừng phạt chúng.
Trừng phạt là điều tất nhiên trong bất kỳ xã hội nào để dành cho kẻ có tội nhưng biết lắng nghe và nhận lỗi thì đôi khi phải có cả cùng 2 phía!
 Nhưng ngay tại phiên tòa này, những người đang cầm cân nẩy mực để phán xét kẻ có tội, trước tiên phải xét về tư cách và đạo đức kể cả về nhận thức họ có đủ LỚN chưa? Đủ các điều kiện để nghe người NHỎ, người có tội trình bày chưa?( ai là người có tội thì không cần phải dài dòng nữa!)
 Khi những người Lớn, người có quyền phán tội người Nhỏ và người gọi là có tội đã chứng mình được rằng họ vô tội trước những phán xét của người LỚN, họ vô tội không do họ tự chống chế hay đổ thừa đổ lỗi cho ai, họ vô tội từ hành động đến lời nói mà bản thân đã được chứng minh 1 cách công khai, công khai từ suy nghĩ và hành động nhưng những người NHỎ này vẫn bị bắt ép phải nhận tội mà họ không hề chấp nhận.
 Họ, những người NHỎ này phải gánh chịu những bất công quá đáng của những người phán quyết chỉ vì 1 lý do đơn giản là những người phán quyết này không đủ LỚN, không đủ tư cách và đạo đức để làm 1 người LỚN, để phán xét và buộc tội người NHỎ.
Người NHỎ này đã bị bắt ép làm người có tội trong sự vô cảm của những người LỚN, vì người NHỎ này họ đã có những suy nghĩ, những tình cảm vượt lên và lớn hơn những người LỚN quá nhiều, nhiều đến mức mà người LỚN đã cố tình không hiểu được họ, đã cố tình che lấp đi những trăn trở những yêu thương họ đã dành cho quê hương mà người LỚN không hề có được hoặc có đi chăng nữa cũng không hề dám hành động như họ.Và cuối cùng người LỚN này đã bắt họ, đã phạt họ, giam giữ họ vì những việc làm to lớn mà tất cả những người LỚN trong xã hội hiện nay không làm được trong đó có cả tôi, một người lớn bằng cả tuổi cha mẹ em cũng chỉ biết nghe, biết cảm nhận và biết đau xót chứ không hề làm được 1 điều gì cho 2 em ngay trong lúc này.
 Phiên tòa này đang làm gì? nói lên điều gì để răn đe dạy dỗ người có tội? Hay chỉ là 1 phiên tòa nói lên 1 điều duy nhất là Lớn hiếp Nhỏ, mạnh hiếp yếu???
 Tôi cũng vô cùng thắc mắc về những người Lớn, những nhân sỹ tri thức, những người đã từng khoác áo sinh viên, đã từng xuống đường đấu tranh cho tự do cho hòa bình ở thời kỳ của chế độ VNCH, các vị đang nghĩ gì về 2 em sinh viên này? lương tâm quý vị có day dứt không, có trăn trở gì không khi nghe các em bị kết án 1 cách hiển nhiên về tội yêu nước? Tuổi trẻ của quý vị ngày xưa đẹp quá, đẹp đến nổi mà ngày xưa khi không có internet, không có những phương tiện thông tin hiện đại như ngày nay mà chỉ được nhìn thấy , được nhắc nhở đến những hình ảnh của quý vị qua báo đài hay tivi đã làm tôi hâm mộ điên cuồng và cứ ước ao sao mình có được 1 tuổi trẻ đẹp như quý vị!
Ngày hôm nay, các em Uyên và Kha những người cũng khoác áo sinh viên, cũng bằng tuổi của quý vị cách đây vài mươi năm, cũng xuống đường đấu tranh cho tự do của dân tộc nhưng các em không được xã hội tôn vinh như quý vị, không được một ai dám bày tỏ sự hâm mộ một cách công khai như quý vị mà cái giá là các em phải vào tù dưới sự phán xét của các quan tòa XHCN. Cái XH mà quý vị đã từng đấu tranh để giành chúng cho dân tộc VN hôm nay!
 Quá đau xót trước những điều mà người LỚN đang hành xử với những người NHỎ, tôi không biết nói gì hơn với các em ngoài 2 chữ CÁM ƠN và cũng xin cúi đầu trước những người NHỎ này vì sự hèn nhát và mặc cảm nhục nhã của 1 người LỚN.
Tôi xin cám ơn các đấng sinh thành ra 2 em, những người đã nuôi dưỡng các em, những người NHỎ nhưng có 1 tấm lòng quá to lớn dành cho đất nước VIỆT NAM, nơi tôi được sinh ra như các em, được làm 1 người LỚN nhưng không có được những suy nghĩ và hành động của những người NHỎ như các em.
 Cuối cùng tôi cám ơn trời phật đã cho tôi được làm người Việt Nam, được cùng dòng máu tiên rồng bốn ngàn năm chống giặc ngoại xâm của bao lớp thế hệ cha anh và của những người NHỎ hôm nay!
Gia  Hy
(Quê Choa)

Hồ Ngọc Nhuận - Cảm ơn Phương Uyên, Nguyên Kha

ông Hồ Ngọc Nhuận
Ông Hồ Ngọc Nhuận
Tòa án của chế độ ngày 16/5/2013 đã đưa 2 sinh viên Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha ra xử.Trong phiên tòa một ngày, tại Long An . Sau khi giam giữ 2 bị cáo hơn nửa năm. Thuật ngữ dùng cho các cuộc xử , cả bình thường cả bất bình thường, gọi đó là kiểu “làm gọn”, có khi chỉ cần “một cái rụp”… là xong. Kiểu “xử gọn” như vậy có đáng gọi là một việc làm đàng hoàng không ? Và ai làm một việc không đàng hoàng có phải là nhục không ?
Mà về tội gì ? Theo tờ “tuổi trẻ”, tức phải là tờ báo của tuổi của hai bị cáo, thì là “về tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Tin viết là “theo hồ sơ”, nhưng tờ báo không cho biết “theo hồ sơ” là do được “tiếp cận hồ sơ”, theo đúng tác phong , chức năng nghề báo. Hay được nghe đọc lúc xử. Hay là không đọc, cũng không nghe,mà chỉ quen tay viết vậy … Vì toàn bộ bản tin về vụ án chỉ vỏn vẹn được gói gọn không quá 250 chữ, nằm lọt giữa trang 2. Cho một bản án tổng cộng 14 năm tù, cộng 2, và 6 năm quản chế. Tin về một bản án nặng nề , với một tội danh không nhẹ là “chống phá Nhà nước”, lại được đem nhét giữa trang 2 . Thua cả môt tin xe đụng… Báo chí cho tuổi trẻ muốn cho tuổi trẻ thấy gì ? Và nhất là tờ báo tự cảm thấy gì ? Mà về một bản án được mọi người Việt Nam trong ngoài nước quan tâm, lại đi loan tin theo kiểu phải vạch mãi để tìm mới lòi ra để đọc ?
Về phiên tòa, thân phụ Phương Uyên cho biết ông và các thân nhân khác không được cho vào dự khán, chỉ có bà mẹ Phương Uyên được vào. Lại bị bao vây che chắn bởi một đám thân nhân lạ hoắc, không ai khác hơn là công an mật thám trá hình.Có người đến ngóng tin bên ngoài tòa án đã bị công an thường phục hốt về đồn. Xử án, ở đâu cũng vậy, thông thường là để làm gương, chớ không phải để trả thù. Để làm gương nên có khi còn chọn một pháp đình thật rộng, khi pháp đình quen thuộc không đủ chỗ cho mọi người.Còn ở đây là để làm gì ? Mà lại lén lén, lút lút…như đem giấu ?
Về cái cách chế độ nầy đã bắt Phương Uyên cũng vậy, cũng thật đáng xấu hổ. Bắt như bắt cóc. Bắt đi mất tích rồi chối quanh hơn cả chục ngày mới chịu thừa nhận. Để đưa ra một lô chứng cứ tội phạm và lời thú tội có là công an cũng không thể tin là đứng đắn.Không thể nghĩ một chế độ tự nhận là Nhà nước pháp quyền mà lại đi hành xử pháp quyền như… vậy .
Còn lãnh đạo Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ chí Minh nữa ? Trước một loạt đối xử không đàng hoàng đối với một thành viên Ban chấp hành Đoàn thuộc cấp mà vẫn ngậm miệng nín khe là làm sao ? Để làm gì và đang làm gì ? Hay là đang sợ đoàn viên, đang sợ thanh niên cả nước theo gương Phương Uyên và Nguyên Kha, không thể tiếp tục nhẫn nhục và chịu nhục trước họa mất nước ?
Nhắc lại chuyện nầy, từ khâu bắt người cho tới khi xử, cho tới nay, trong ngoài nước, ai cũng thấy không thể chịu nổi những việc làm đáng xấu hổ của không ít người của chế độ.
Tôi cũng không thể chịu nổi, nhất là trước những hành động quá ác đối với tuổi trẻ, nên đã cùng với hơn 150 người khác đứng tên trong kiến nghị gởi Chủ tịch Nước đề ngày 30/10/2012 yêu cầu can thiệp trả tự do cho Phương Uyên .
Cho tới nay, ông Chủ tịch Nước vẫn cứ nín khe.
Nhưng tôi và các bạn tôi đã được tưởng thưởng .
Hãy nghe chàng trai 24 tuổi Đinh Nguyên Khang nói : “ Tôi không hề chống dân tộc tôi, tôi chỉ chống đảng cộng sản. Mà chống đảng thì không phải là tội“
Hãy nghe Nguyễn Phương Uyên 21 tuổi nói : “Việc tôi làm thì tôi chịu . Xin nhà cầm quyền đừng làm khó dễ mẹ hay gia đình của chúng tôi. Chúng tôi làm để thức tỉnh mọi người trước hiểm họa Trung Quốc xâm lược đất nước và cuối cùng là chúng tôi làm xuất phát từ cái tấm lòng yêu nước nhằm chống cái xấu để làm cho xã hội ngày càng tốt đẹp tươi sáng hơn“.
Cám ơn Phương Uyên . Cám ơn Nguyên Khang. Cám ơn những cô gái, những chàng trai yêu nước Việt Nam ./.
Hồ Ngọc Nhuận
(Quê choa)

Ông Trọng sẽ có chỗ đứng vững chắc trong vườn hoa.... cải tạo

Ông Thanh tuyên bố mạnh, cũng là cái hay của người can đảm, không sợ sệt, nhưng ông vướn phải cái lú của ông Trọng, khiến mọi nhiệt huyết của ông biến thành mây khói. Ông Trọng không có bản lãnh điều hành đảng mà ông tuyên bố xem như ông có khả năng điều khiển bộ máy đảng. Người nào theo ông sẽ bị đồng chí X hốt hết vào trong tù trong tương lai. Ông Trọng bây giờ như kẻ lử hành cô độc trong sa mạc, hét trong cô đơn buồn bả, rốt cuộc tiếng hét thất thanh ấy chỉ vang vọng một cách vô vọng trong sa mạc đìu hiu.
Ông Trọng tuyên bố thiếu lý luận cách mạng, chính điều ấy làm ông mất uy tín với nhân dân. Trong thể chế thiếu dân chủ và ông tuyên bố phản dân chủ, ông lại chơi trò bỏ phiếu dân chủ, chắc chắn ông thất bại, thất bại cay đắng. Tôi không thích đồng chí X, nhưng qua đại hội này, đồng chí X đã đánh bại hoàn toàn đường lối chống tham nhũng của ông Trọng vì cách điều hành chính phủ của nhân vật này dùng tiền làm cứu cánh, mà phần lớn uỷ viên trung ương thích tiền hơn thích đảng, cho nên đồng chí X vượt qua mọi chướng ngại và gài người của mình vào bộ chính trị, ngõ hầu sau này kế vị ngai vàng thủ tướng, hoặc có thể soán đạt ngôi vị tổng thống trong cương vị đứng đầu một nước phản dân chủ.
Ông Trọng có ý định sắp tới là dùng quốc hội để bải nhiệm đồng chí X, nhưng điều ấy khó xảy ra vì quốc hội toàn la ghị gật, chuyện bải nhiệm bà Yến là một bằng chứng trong tiến trình loại người mà đồng chí X đã giật dây sau hậu trường.Tại sao ông Trọng không dùng dân để đảo chánh đồng chí X, hô hào dân chúng xuống đường chống tham nhũng. Sở dĩ ông Trọng không làm điều ấy, vì ông sợ thất bại, ông không thể hô hào xuống đường vì ông không trung, hiếu với dân, làm sao dân can đảm xuống đường đả dảo đồng chí X là kẻ cơ hội. Ông Trọng không biết làm cách mạng, ông rất yếu kém về chính trị, làm sao lật ngược thế cờ, để tạo một cảnh quang sáng sủa hơn cho dân tộc.
Nếu để phe bảo thủ của ông Trọng thắng thì VN khó cơ hội vùng dậy vì phe này rất bảo thủ và sẽ lành mạnh hóa chế độ theo kiểu ông Thanh, sẽ đưa đất nước đi vào hoàn cảnh khó xử, như muốn tiến hành một cuộc cách mạng để dân chủ đất nước. Nếu nhóm lợi ích thắng như hiện nay thì chúng ta có cơ hội lên tiếng, vì bản chất của nhóm cơ hội là cướp đất dân nghèo, gây ra tình trạng phản ứng rất cao của người dân, lại thêm nạn tham nhũng tràn làn, sẽ tạo ra tiếng nói táo bạo trong hàng ngũ đảng VC.
 Theo tôi, tập cho cán bộ sống đời giàu sang, ăn quen, nhịn không quen là con đường tất thắng cho những ai muốn làm cách mạng. Khi bọn chúng ăn không đồng đều, tất nhiên sẽ có diễn biến hoà bình trong nội bộ. Nếu ai đó có khả năng tập cho cán bộ tham nhũng từ dưới lên trên, từ trên xuống dưới, tất yếu VC sẽ sụp đổ. Những tập đoàn nhà nước mà chúng tranh nhau tham nhũng như hiện nay, tất nhiên chế độ phải sụp đổ. Kinh tế suy sụp sẽ dẫn theo thể chế tồi tệ và khi chúng hết tiền để xoay xở thì chế độ tự nhiên sụp.
Đại hội 7, sự thất bại của ông Trọng là một điều đáng mừng. Thật ra ông Trọng quá yếu kém chính trị so với đồng chí X. Đồng chí X không nói mà làm, đem tiềm mua chuộc uỷ viên trung ương để cho ông Nhân và bà Ngân đắc cử. Khi nhận tiền ai cũng hoa mắt và khi bỏ phiếu, ông Trọng nằm trong thê yếu. Hai cột trụ mà ông trông mong, Thanh, Huệ bị đồng chí X dùng tay đàn em bứng gốc.
Những bước kế tiếp, đồng chí X sẽ thanh toán tay chân ông Trọng, mãnh đời ông Trọng sẽ nằm gai nếm mật như tướng Trần Độ, trung tá Trần Anh Kim. Ông Trọng sẽ có chỗ đứng vững trong vườn hoa cải tạo là cái chắc!
Phóng Viên Thường Trú
(DĐCN)

Bóng ma một cuộc khủng hoảng « made in China »

(Le Point 16/05/2013) - Nợ chính phủ, nợ của các tỉnh và nợ của các công ty quốc doanh Trung Quốc lên đến gần 200% tổng sản phẩm nội địa.
Có một luật kỳ lạ: khi một tòa nhà chọc trời đánh bại kỷ lục thế giới về độ cao, thì lại xảy ra một sự cố tài chính tại đất nước nơi mà tòa nhà đó mọc lên. Năm 1929, tòa nhà Empire State Building đoạt được danh hiệu này ở New York trước khi xảy ra Ngày Thứ Năm Đen tại thị trường chứng khoán Wall Street. Vào mùa hè năm 1997, ngôi vị này vào tay tòa tháp đôi Petronas ở Kuala Lumpur, thủ đô Malaysia, ngay trước khi diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính châu Á. Hay là mới đây vào năm 2009, Burj Khalif trở thành tòa nhà chọc trời cao nhất thế giới, ngay sau đó là vụ hệ thống ngân hàng của Dubai sụp đổ. Cơn hứng thú tài chính thường được diễn đạt bởi ước muốn chạm tay đến trời, nhưng thường thì lại chấm dứt một cách tệ hại.
Chính về phía Trung Quốc mà chiếc la bàn khủng hoảng hiện đang hướng đến. Không chỉ vì tại đó người ta xây dựng tòa nhà chọc trời cao nhất thế giới tại thành phố Trường Sa thuộc tỉnh Hồ Nam - cao 838 mét với 104 thang máy - nhưng nhất là vì đất nước này đang đụng chạm một cách nguy hiểm đến các giới hạn trong mô hình phát triển của mình.
Một công trình địa ốc đang được xây dựng ở Liêu Ninh. Ảnh chụp ngày 17/03/2013.
Đã ba mươi năm qua Trung Quốc phát triển nền kinh tế bằng cách huy động bộ máy xuất khẩu quy mô nhất mọi thời đại. Cần phải tạo ra từ 15 đến 20 triệu việc làm mỗi năm để hấp thu đội quân lao động nhập cư bị thu hút bởi ánh đèn của các thành phố duyên hải, từ các làng quê đổ về.
Song song đó, Bắc Kinh ấn định hối suất ở mức thấp, giúp tạo ra được thặng dư thương mại to lớn, là nguồn cung cho lượng dự trữ ngoại hối lớn nhất thế giới: 3.450 tỉ đô la vào cuối tháng Tư 2013. Theo ngôn ngữ của các nhà kinh tế, thì chiến lược này được gọi là “mercantiliste” (tạm dịch: tăng trưởng bằng mọi giá với sự can thiệp của Nhà nước). Cho dù những thành công của Trung Quốc trước hết là nhờ công lao nỗ lực của họ, nhưng Bắc Kinh đã thu hút lượng cầu của thế giới bằng cách hạ thấp hối suất một cách giả tạo. Họ xuất khẩu các sản phẩm của họ sang chúng ta và nhập khẩu các công ăn việc làm của chúng ta.
Tuy vậy kể từ cuộc khủng hoảng 2008, các thị trường phương Tây không còn đủ năng động để ngốn được lượng sản phẩm của công xưởng thế giới và giúp đội ngũ nông dân khổng lồ của nước này chuyển thành công nhân.Trung Quốc đành phải cho xây dựng những nhà máy có công suất vượt quá nhu cầu, những phi trường mênh mông không có chiếc máy bay nào lên xuống, những thành phố ma. Nếu không, hoạt động kinh tế sẽ bị chậm lại tại Trung Quốc, với các nguy cơ về xã hội và chính trị cao độ, trong khi điều mà chính quyền toàn trị này sợ nhất là những cuộc xuống đường và nổi dậy của người dân. Tất cả những công trình trên được tài trợ bằng vốn tín dụng. Những nguồn vốn đến từ các ngân hàng truyền thống và hệ thống tín dụng song hành – nguồn tiền huy động từ vốn dư thừa của các doanh nghiệp và các hộ gia đình giàu có, với lãi suất có thể lên đến 60% một năm.
Tổng cộng số nợ công của Nhà nước, các tỉnh và các công ty quốc doanh Trung Quốc có thể lên đến 200% tổng sản phẩm nội địa, theo như ước tính của Northwestern University. Trong thời kỳ hoạt động mạnh, tăng trưởng có thể hóa giải được số nợ cao quá mức. Nhưng ngay khi hoạt động kinh tế bị chậm lại thì các món nợ lại đè nặng lên bảng kết toán. Vào đầu năm 2013, chính quyền trung ương đã phải tổ chức giãn nợ hàng trăm tỉ đô la cho các địa phương không còn khả năng trả nợ và thậm chí tiền lãi cũng không trả nổi.
Trung Quốc đã bị mắc vào chiếc bẫy do chính mình giăng ra. Với mô hình phát triển bất chấp mọi hậu quả, Bắc Kinh đã bóp nghẹt tiêu dùng nội địa – hiện nay chỉ đạt 34% PIB, trong khi đầu tư chiếm hơn 50% PIB – một sự lệch lạc. Chính lãnh vực công nghiệp quốc doanh, phát triển quá mức nhờ đồng nhân dân tệ giá thấp, đã thu thập lợi nhuận từ xuất khẩu để mở rộng các nhà máy và phân phối bổng lộc cho bọn cá mập.
Giải pháp sẽ là thả nổi đồng nhân dân tệ để thực hiện một sự chuyển giao nguồn lợi về phía người tiêu dùng. Nhưng điều này sẽ làm mất tính cạnh tranh và kìm hãm tăng trưởng từ 3 đến 4% một năm. Chưa kể vấn đề dân số đang đi ngược lại với tăng trưởng: lần đầu tiên vào năm 2012, dân số hoạt động của Trung Quốc đã giảm đi 3,5 triệu người. Với mức độ như thế thì không thể kéo dài, vì sẽ dẫn đến một cuộc khủng hoảng tài chính mà so với nó, cuộc khủng hoảng tín dụng địa ốc thứ cấp subprimes ở Mỹ chỉ là trò cười.
Trong cả hai trường hợp, khuôn mặt Trung Quốc sắp tới sẽ khác biệt đáng kể với những gì chúng ta đã biết trong một phần tư thế kỷ qua. Siêu tăng trưởng đã chấm dứt. Vấn đề dân số và tài chính phối hợp với nhau để đưa Trung Quốc quay trở lại thế giới của những giới hạn. Không có tăng trưởng, những khế ước xã hội mà các nhà lãnh đạo thời hậu cộng sản áp đặt không còn có cơ duy trì. Nhân dân Trung Quốc sẽ có thể trở nên manh động. Nào ai biết được!
Thụy My
(Blog Thụy My)
 

Bùi Quang Minh - Nói một lần cho ngày 19-5!

947203_10200404591256386_1701787076_n

Thời nào, chế độ nào cũng thế các nhà chính trị thời xưa là những nhà cầm quyền nhờ làm cách mạng, tận dụng những tình thế hiểm nghèo, đề cao lợi ích của dân tộc của người dân, chỉ ra kẻ thù chính của nhân dân. Các nhà chính trị thời sau thì cầm quyền bằng quyền thừa kế, bằng thành tựu của các nhà chính trị thời xa xưa, đặc biệt là giá trị chính trị của các lãnh tụ. Càng ít thành tựu lại càng tận dụng nhiều hơn lịch sử và hình ảnh cá nhân của các lãnh tụ, và càng làm hình ảnh lãnh tụ khác xa sự thật…
 Quay lại chuyện Việt Nam ta. Hồ Chí Minh cũng là một lãnh tụ cách mạng nên nếu nhớ đến ông thì cần tìm ra một bài học nào đó cho hiện tại tương lai. Xem xét vào sự kiện lịch sử được biết tới thời kỳ đầu Cách mạng, tôi rút ra bài học như sau:
 “NẾU CÒN ĐẶT LỢI ÍCH QUỐC GIA LÊN HÀNG ĐẦU, ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN VÌ ĐỘC LẬP – TỰ DO – DÂN CHỦ CHO TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM THÌ CÒN CÓ GIÁ TRỊ, CÒN KHÔNG THÌ HẾT GIÁ TRỊ, PHẢI BỊ THAY THẾ!”
 Nhắc lại vài sự kiện lịch sử để thấy Hồ Chí Minh đã làm mọi cách để có được lòng tin của nhân dân, và ngày nay quyết liệt và triệt để thì may ra mới có lại được lòng tin ấy:
 Ngay sau Cách mạng tháng Tám, tháng 11-1945, Hồ Chí Minh quyết định cho Đảng Cộng sản Đông Dương tự giải tán, đóng cửa báo Cờ Giải phóng.
 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương họp ngày 11- 11-1945, và ra nghị quyết tự động giải tán Đảng Cộng sản Đông Dương. Thông cáo Đảng Cộng sản Đông Dương về việc giải tán nêu rõ:
“1- Cǎn cứ vào điều kiện lịch sử, tình hình thế giới và hoàn cảnh trong nước, nhận rằng lúc này chính là cơ hội nghìn nǎm có một cho nước Việt Nam giành quyền hoàn toàn độc lập;
2- Xét rằng: muốn hoàn thành nhiệm vụ dân tộc giải phóng vĩ đại ấy, sự đoàn kết nhất trí của toàn dân không phân biệt giai cấp, đảng phái là một điều kiện cốt yếu;
3- Để tỏ rằng: những đảng viên cộng sản là những chiến sĩ tiền phong của dân tộc, bao giờ cũng hy sinh tận tụy vì sự nghiệp giải phóng của toàn dân, sẵn sàng đặt quyền lợi quốc gia lên trên quyền lợi của giai cấp, hy sinh quyền lợi riêng của đảng phái cho quyền lợi chung của dân tộc;
4- Để phá tan tất cả những điều hiểu lầm ở ngoài nước và ở trong nước có thể trở ngại cho tiền đồ giải phóng của nước nhà.”
 Đảng Cộng sản Đông Dương không còn hiện diện mà chỉ có một bộ phận những người muốn nghiên cứu tư tưởng Mác hoạt động dưới danh nghĩa “Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương”. Hồ Chí Minh kêu gọi các đảng viên nếu tự xét thấy mình không phù hợp thì nên tự rút lui khỏi hàng ngũ lãnh đạo chính quyền.
 Tháng 1/1946, sau khi Tổng tuyển cử được tổ chức, Hồ Chí Minh được Quốc hội cử thành lập chính phủ là đảm nhiệm công tác thủ tướng chính phủ cũng như Chủ tịch nước, trong hoàn cảnh chưa được quốc gia nào công nhận và ủng hộ vật chất. Trả lời các nhà báo nước ngoài ngày 21/1/1946, Hồ Chí Minh nói: “Trong một nước dân chủ thì mọi người đều có tự do tư tưởng, tự do tổ chức. Nhưng vì hoàn cảnh và trách nhiệm, tôi phải đứng ra ngoài mọi đảng phái. Nay tôi chỉ có một tin tưởng vào dân tộc độc lập. Nếu cần có đảng phái thì sẽ là ĐẢNG DÂN TỘC VIỆT NAM. Đảng đó sẽ chỉ có một mục đích làm cho dân tộc ta hoàn toàn độc lập. Đảng viên của đảng đó sẽ là tất cả quốc dân Việt Nam, trừ những kẻ phản quốc và những kẻ tham ô ra ngoài”.
 Điều này được Hồ Chí Minh khẳng định lại trong lời tuyên bố tại phiên họp ngày 31-10-1946 của kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I, sau khi được Quốc hội nhất trí giao trách nhiệm thành lập Chính phủ mới: “Tôi xin tuyên bố trước Quốc hội, trước quốc dân, trước thế giới: TÔI CHỈ CÓ MỘT ĐẢNG, ĐẢNG VIỆT NAM”. Nhờ vậy, nhiều nhân sĩ, trí thức thuộc các Đảng phái khác nhau hoặc không đảng phái đã tham gia Chính phủ và Quốc hội đầu tiên.
 Hồ Chí Minh ký với đại diện chính phủ Pháp Jean Sainteny ở Hà Nội bản Hiệp định sơ bộ 6-3-1946. Trong chuyến đi Pháp Hồ Chí Minh đã với chính phủ Pháp tại Paris bản Tạm ước 14-9-1946. Đây là văn kiện để tranh thủ thời gian và đảm bảo được Pháp công nhận “Việt Nam là một nước tự do, là một phần trong Liên bang Đông Dương thuộc liên hiệp Pháp”.
 Hồ Chí Minh bị nhiều người dân và các Đảng phái đối lập nghi rằng các văn bản đã ký là bán nước. Để tranh thủ niềm tin của nhân dân, trước khi đi, tháng 5/1946, Hồ Chí Minh đã gửi một bức thư cho đồng bào Nam Bộ nêu rõ: “Tôi xin đồng bào cứ bình tĩnh. Tôi xin hứa với đồng bào rằng, Hồ Chí Minh không phải là người bán nước”.
Tháng 2/1951 tại Tuyên Quang, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 2, Hồ Chí Minh ông quyết định đưa Đảng ra hoạt động trở lại với tên gọi mới là Đảng Lao động Việt Nam. Ông tuyên bố:
“Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là đảng của dân tộc Việt Nam.”
 Trong kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa II tháng 7- 1960, Hồ Chí Minh phát biểu: “Tất cả đại biểu Quốc hội hứa với đồng bào là được cử vào Quốc hội để làm đại biểu Quốc hội, không phải là để làm quan, không phải là để ngồi trên ăn trốc, mà làm người đày tớ tuyệt đối trung thành của đồng bào.”…
 Thế rồi sao, bây giờ làm đúng thế chăng???
Bùi Quang Minh
(Quê choa)

Nguyễn Khắc Mai - Thư ngỏ gởi Bốn vị trong Quốc Hội

Cụ Nguyễn Khắc Mai
Cụ Nguyễn Khắc Mai
  • Kính gởi Anh Sinh Hùng; Chị Tòng thị Phóng;  Chị Kim Ngân; Anh Uông chu Lưu
Kính thưa các Anh, Chị

Hôm nay đúng ngày sinh của Chủ tịch HCM, cũng là thời khắc trước kỳ họp trọng đại của QH, tôi xin gởi tới quý Anh, Chị lá thư này với hy vọng có chút bổ ích cho kỳ họp này. Sở dĩ tôi không trưng chức danh của quý anh, chị vì chỉ muốn giữ trong lòng mình cái ấn tượng về một lúc nào đó đã từng có dịp gặp gỡ và làm việc với quý anh chị. Như vậy tôi chỉ muốn giữ lại cái tin cậy cá nhân của mình với các anh chị. Nay trước thềm một kỳ họp quan trọng của QH tôi xin thưa với quý anh, chị hai việc.
1.Các Anh chị nên quan tâm đến cái tòa án ở Long an đã xử tội hai sinh viên ưu tú, dũng cảm, tuổi trẻ nhưng có ý chí lớn lao đẹp đẽ. Tâm hồn họ thật đẹp, nhân cách họ cao quý. Họ yêu nước, quan tâm tới vận mệnh của dân của nước của chế độ. Đúng ra, thay cho lập tòa án đễ xử họ, chúng ta nên mở hội nghị đễ tuyên dương họ. Thử nghĩ, có vinh dự nào bằng những người lãnh đạo quốc gia biết trọng thị những công dân ưu tú của mình (kể cả trong trường hợp họ có việc làm hay cử chỉ nào đó mà mình chưa thật đồng tình.) Tôi nghĩ các anh, chị cần có thái độ về trường hợp này. Nó chỉ làm thêm sự cao thượng trong tâm hồn, và làm tăng thêm niềm quý trọng của nhân dân và xã hội đối với các anh chị. Nếu cứ đồng tình với những sai lầm không thể biện hộ như trường hợp này, các anh chị sẽ đánh mất sự kính trọng của nhân dân và xã hội, càng làm tăng thêm sự khẳng định của dư luận rằng nhà nước ta đã thoái hóa và đánh mất tính chính thống của chính nghĩa Dân tộc (vì đã xử án những người dũng cảm tố cáo hành vi vô đạo của TQ ở Biển Đông của chúng ta, tố cáo tệ nạn nội xâm, tham nhũng…) Họ ( Phương Uyên và Nguyên Kha) nói rất có lý, xử tội những người yêu nước thì tuổi trẻ làm sao còn giám yêu nước! Tôi đề nghị các anh chị bằng uy tín, bằng trách nhiêm lịch sử của mình hãy can thiệp, đưa ra Tòa án tối cao phúc quyết  và không xử tội mà tôn vinh họ, cảm ơn họ. Một nhà nước đem hành vi yêu nước của công dân ra xử tội, lại đánh tráo tội danh của họ không phải là có chính nghĩa. Đến như Hồ Chí Minh còn phải thừa nhận với thế giới rằng Tổng thống Ngô Đình Diệm có cách yêu nước của ông ấy (HCM trả lời báo chi quốc tế khi đi thăm Ấn độ Năm 1956).
2.Về vấn đề lấy phiếu tín nhiệm của những chức danh do QH bầu và phê duyệt. Tôi rất lo nhiều khả năng sẽ rơi vào hình thúc mà ít thực chất. Điều này chúng ta đã lạm phát như đã lạm phát giấy bạc. Chẳng hạn như lấy phiếu tín nhiệm đối với ông chánh văn phòng QH. Bởi QH sẽ làm cái công việc hằng ngày của chủ tịch, phó chủ tich, những sếp trực tiếp của ông CVP, hay của các ban chuyên môn của QH** . Kể cả của những ông bộ trưởng, đó là việc của Thủ tướng. QH chỉ nên tập trung lấy phiếu tín nhiệm với những chức vụ chủ chốt trong một số lĩnh vực đang là vấn nạn của quốc gia. Có quá nhiều vấn nạn, nhưng phải ưu tiên cho những vấn đề thiết cốt nhất, đang nổi lên trên bề mặt của tình hình Đất nước. Chứ không phải lấy phiếu tín nhiệm tràn lan 45,46 vị. Nếu làm tràn lan chắc chắn sẽ có kết quả rất hình thức, sẽ không khác gì chuyện phê bình tự phê bình của đảng và nhà nước ta lâu nay . QH phải làm trên tư cách là cơ chế tổng thể của dân tộc. Tôi kiến nghị chọn việc đễ kiểm điểm người. Có mấy việc lớn sau đây.
a.Vấn đề tái cấu trúc kinh tế. Đã đề ra ba lĩnh vực tái cấu trúc,hay dỡ đúng sai như thế nào, trách nhiệm quá khứ thế nào, trách nhiệm hiện tại thế nào. Các ông Thống đốc ngân hàng, Bộ trưởng Tài chánh, Bộ trưởng Công thương thế nào. Tất nhiên họ có quyền nêu ra những kẻ liên đới chính như Thủ tướng như Bộ chính trị…
b. Có một vấn nạn lớn của cả dân tộc của cả sự tồn vong của nhà nước, đó là hệ thống hành pháp và đội ngũ công chức. Nền hành chính của chúng ta và đội ngũ công chức đang bị dư luận lên án là yếu kém, phiền nhiễu, tham ô. Có đến quá nửa công chức ngồi chơi xơi nước (công bố của những người có thẩm quyền của Bộ Nội vụ) Bộ trưởng Nội Vụ, Thủ tướng, cả ông Trưởng ban Tổ chức TƯ, và bộ chính trị nữa.
c.Vấn đề đầu mối của mọi đầu mối đó là trách nhiệm của TBT và Bộ chính trị. Có người nói những chức danh này không do QH bầu hoặc phê duyệt nên không thể lấy phiếu tin nhiệm. Tuy thế QH lại có trách nhiệm pháp lý là phải giám sát cái thực thể là Đảng như là một thành tố củahệ thống nhà nước đã được ghi trong Hiến pháp. Nếu không có điều 4 thì không thể lấy phiếu tin nhiệm đối với những chức danh chủ chốt của đảng. Nhưng Hiến pháp đã ghi nhận đảng là người lãnh đạo nhà nước và xã hội, thì đương nhiên đảng phải coi như có vinh dự được QH lấy phiếu tín nhiệm. Nếu chúng ta bỏ qua vấn đề này ( thì) sự bỏ phiếu tín nhiệm bị coi như hình thức nửa vời. Có thể kỳ này chưa lấy phiếu tín nhiệm đối với TBT và BCT, nhưng phải đưa ra và có quyết nghị về vấn đề này. Nếu chỉ mình các anh chị đưa vấn dề này ra người ta có thể kết án các anh chị là đã gây khó dễ cho đảng. Nhưng đây là ý kiến của nhiều người dân có tư cách và trách nhiệm công dân. Điều này chỉ càng làm cho cái pháp quyền và cái tổ chức quyền lực tối cao của đất nước ngày càng trở nên thực chất hơn mà thôi.
d. Nếu đễ chín ngày lấy phiếu tín nhiêm không có trọng tâm trọng điểm,thật rất dễ rơi vào hình thức vì sẽ có nhưng kết luận có thể tốt nhưng vô bổ.kết quả sẽ chỉ là như một cuộc sinh hoạt cơ quan bình thường.Nếu dành chín ngày vào mấy vấn đề then chốt có thể có ích nhiều trong tình hình hiện nay.
Tôi một kẻ U 80, bắt chước lời kết của Kê minh thập sách lời của vị Thánh mẫu được Nhà vua Lê Thánh Tông phong tặng mỹ hiệu “Chế Thắng Phu Nhân”( người chế định được mưu lược đễ chiến thắng), mà có dịp các anh chị nên vào Kỳ anh đễ chiêm bái, Bà rất thiêng, cầu gì được nấy, nhất là cầu cho nước trị, dân an .Mấy lời quê mùa bộc trực xin được chấp nhận, điều hay thì giữ, điều dỡ thì bỏ đi. Chỉ mong nước trị dân an đó là ý nguyện của kẻ thôn dân này.
Hà nội Trước ngưỡng kỳ họp QH Tháng 5-2013. Người già sống ở Ô Đồng Lầm kinh thành Thăng long-Nguyễn Khắc Mai.
Nguyễn Khắc Mai
----------------
* Chắc là cụ Mai đính chính bài Đôi điều về Minh triết Các Mác hay những nghịch lý“cộng sản” của cụ đã đăng ở Quê Choa ( tại đây)
** Câu này QC hiểu là: Bởi vì chỉ có những người làm việc hằng ngày với CVP  như chủ tịch, phó chủ tich, những sếp trực tiếp của ông CVP, hay của các ban chuyên môn của QH thì mới có khả năng xét tín nhiệm CVP chính xác được, vì vậy xét tính nhiệm CVP là công việc của những người đã nói chứ không cần đến QH.
(Quê Choa)
 

Chấm dứt cưỡng chế thu hồi đất: Từ Trung Quốc đến Việt Nam

Đôi lời :Trái với thường lệ, blog chỉ đăng những bài do Thụy My viết hay dịch và các bài đã đăng trên trang web chính thức của RFI Việt ngữ, lần này blog Thụy My trân trọng giới thiệu với độc giả bài viết của cây bút Thường Sơn từ Saigon gởi sang. Xin chân thành cảm ơn nhã ý của tác giả .
Sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc!
Một năm rưỡi sau sự kiện Ô Khảm gây chấn động, vào trung tuần tháng 5/2013, Bộ Tài nguyên Đất đai Trung Quốc đã ban hành một thông tư khẩn kêu gọi chấm dứt các vụ cưỡng chế tịch thu đất bất hợp pháp.
Thông tin trên được loan tải chính thức bởi Nhân dân nhật báo - một kênh phát ngôn chính thức của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Thông tư của Bộ Tài nguyên Đất đai được xem là lời đáp cho hiện tượng dùng bạo lực để trưng thu đất của dân đang ngày càng tăng cao.
Bộ Tài nguyên Đất đai kêu gọi các chính quyền địa phương xem xét lại và tiêu chuẩn hóa thủ tục trưng thu đất. Theo đó “Các hành động dùng vũ lực để tịch thu đất đai bất hợp pháp sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc”.
Theo bình luận của Đài RFI, ở Trung Quốc tràn ngập những câu chuyện về việc các chính quyền địa phương hay các công ty xây dựng cưỡng bức người dân phải lìa bỏ nhà cửa của họ, mà thường không được bồi thường tương xứng, để thực hiện các dự án phát triển đô thị béo bở.
Các vụ cưỡng chế và tịch thu đất đã gây ra hàng chục ngàn vụ biểu tình và xung đột trong những năm gần đây. Khoảng 90.000 vụ “sự cố tập thể” - mỹ từ được sử dụng để chỉ các vụ nổi dậy - được ghi nhận hàng năm tại Trung Quốc, trong đó đến hai phần ba số vụ có liên quan đến việc trưng thu đất - một tỷ lệ gần tương tự ở xã hội Việt Nam.
Người dân biểu tình chống dự án nhà máy lọc dầu ở Côn Minh, Vân Nam ngày 04/05/2013.
Bạo lực là thủ đoạn sau cùng
Trong sâu thẳm và tận cùng, xã hội Trung Quốc luôn tiềm ẩn những nghịch lý kinh khủng.
Trong khi tổng khối lượng kinh tế của Trung Quốc nhìn lên chỉ xếp sau Mỹ, thì vẫn còn quá nhiều nông dân phải cắm mặt xuống đất.
Cánh cổng khép kín của quốc gia này đã khiến cho nhiều vụ việc trở nên câm lặng. Như một sự toa rập với định hướng chỉ đạo, một phần trong hệ thống truyền thông đại chúng vẫn ca ngợi sự thịnh vượng của đất nước, thay cho chuyện mổ xẻ cái nghịch lý “dân nghèo nước giàu”.
Nhưng dù thế nào đi nữa, hàng trăm ngàn cuộc khiếu kiện và biểu tình của người dân xảy ra hàng năm cũng đã cho thấy một sự thật không giống như lề thói tuyên truyền. Chiếm đa số trong khối phản ứng đó lại là thành phần nông dân. Và lý do chính cho đại đa số vụ khiếu kiện xuất phát từ vấn đề đất đai.
Một trong những vụ khiếu kiện điển hình dẫn đến xung đột là sự kiện làng Ô Khảm ở Quảng Đông vào năm 2011. Tại đây, mối quan hệ giữa dân chúng và chính quyền địa phương đã trở nên đối đầu, thay cho trạng thái bức xúc về tư tưởng.
Chỉ đến khi chính quyền trung ương buộc phải tỏ ra hòa dịu hơn đối với yêu sách của người dân Ô Khảm, chấp nhận thả những người bị bắt, thậm chí một trong số họ còn được “cơ cấu” thành bí thứ đảng ủy Ô Khảm, cuộc tuần hành dự kiến của 13.000 dân làng lên Bắc Kinh mới tự động chấm dứt.
Trong khi đó, những nhân chứng tại nhiều địa phương cho biết những người bị chiếm đất cảm thấy tương lai hoàn toàn vô định. Chính quyền đã “trưng thu” đất của dân một cách ngang nhiên, không bồi thường mà cũng không quan tâm đến số phận của các nông dân bị mất đất cày.
Bế tắc đã lên đến đỉnh điểm, kết tụ thành những hành vi tự phát và cả vô thức.
Sau khi vụ việc Ô Khảm xảy ra, ngay cả Nhân dân nhật báo, một tờ báo cấp cao của Đảng Cộng sản Trung Quốc, cũng phải bày tỏ ý kiến phê phán thái độ của chính quyền tỉnh Quảng Đông trong việc không “đáp ứng các đòi hỏi có lý của dân làng” và do vậy đã làm cho “bạo lực leo thang”.
Ngạn ngữ Trung Quốc có câu “Bạo lực là thủ đoạn sau cùng của kẻ không có năng lực”. Sự thừa nhận của tờ Nhân dân nhật báo cũng gián tiếp xác nhận thực tế cầm quyền gần như bất lực của chính quyền.
Chính phủ Việt Nam?
Chỉ hai ngày sau khi thông tư về “chấm dứt các vụ cưỡng chế tịch thu đất bất hợp pháp” của Bộ Tài nguyên Đất đai Trung Quốc ra đời, ngày 17/5/2013, Chính phủ Việt Nam có văn bản về hoàn thiện 7 nhóm vấn đề của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Trong đó, rất đáng chú ý là đề xuất “Việc thu hồi đất chỉ được thực hiện trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh, hoặc vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng mà không quy định trường hợp Nhà nước thu hồi đất của các tổ chức, cá nhân vì lý do “các dự án phát triển kinh tế xã hội”.
Đề xuất trên được nêu ra trong bối cảnh việc giải quyết khiếu tố đất đai đang hết sức nóng bỏng ở Việt Nam, với khoảng 80% đơn thư khiếu tố thuộc về lĩnh vực đất đai và hơn 70% trong số đơn thư đó nhằm tố cáo rất nhiều sai phạm của các chính quyền địa phương về công tác bồi thường, cưỡng chế giải tỏa, tái định cư…
Nhiều vụ khiếu kiện đất đai đã bị quy chụp cho cái mũ “tụ tập mang màu sắc chính trị” và đã bị đàn áp nặng nề.
Vào tháng 4/2013, Tổng thanh tra chính phủ Huỳnh Phong Tranh còn đòi “cưỡng chế những vụ khiếu kiện đông người có màu sắc chính trị” - một tuyên bố hoàn toàn trái ngược với chủ thuyết phủ dụ “thanh tra là bạn của dân” vào thời điểm ông Tranh vừa nhậm chức.
Nhưng với việc Chính phủ Việt Nam chính thức nêu ra đề xuất đáng quan tâm trên, cuộc tranh cãi trước đó về “nhóm lợi ích nào” sẽ có hy vọng được cải thiện theo hướng phục chế cho “gương mặt mới”..
Sau đề xuất “quyền phúc quyết thuộc về nhân dân” cũng xuất phát từ Chính phủ, đề nghị về “các dự án phát triển kinh tế xã hội” trên là động thái đáng lưu tâm thứ hai của cơ quan này.
Cần nhắc lại, một tuần trước khi Bộ Tài nguyên Đất đai Trung Quốc ban hành thông tư về chấm dứt cưỡng chế đất đai, Ủy ban kỷ luật kiểm tra trung ương của Trung Quốc - cơ quan được coi là đầy quyền lực của đảng - đã phát đi một tuyên bố phê phán việc chính quyền địa phương bắt bớ những người khiếu kiện. Ủy ban này còn yêu cầu chính quyền địa phương phải nghênh tiếp những người tố cáo tham nhũng.
Theo tờ China Daily, tuyên bố của Ủy ban kỷ luật kiểm tra trung ương là hoàn toàn trái ngược với một thực tế phổ biến tại Trung Quốc lâu nay. Đó là việc những người khiếu kiện nạn tham nhũng và lạm dụng quyền lực thường bị bắt bớ và bị giam giữ mà không thông qua bất cứ một trình tự pháp lý nào. Tờ báo trên cũng dẫn ra một số trường hợp người đi khiếu kiện bị bắt giữ mới đây tại các tỉnh, hoặc khi tới Bắc Kinh để nộp đơn tố cáo.
Thông thường họ bị đưa vào giam giữ tại các “trại cải tạo giáo dục” hay “trại lao giáo”, sau khi có quyết định của công an, với thời gian bị giam cầm tối đa là 4 năm.
Được lập ra từ năm 1957, các trại lao giáo còn được sử dụng để bắt giam các nhà đối lập và những người bất đồng chính kiến.
Nhưng từ đầu năm 2013 đến nay, một số thông tin từ chính quyền Trung Quốc cho biết hệ thống trại lao giáo trên đất nước này có thể bị hủy bỏ vào cuối năm nay.
Truy cầu công bằng
Trong khi đó, vấn nạn cưỡng chế và lao giáo đối với người khiếu tố ở Việt Nam vẫn chưa phát lộ manh mối khả quan nào. Trong những ngày qua, một số địa phương vẫn hành xử theo cách mà người dân bị chiếm đất gọi là “luật rừng”.
Chính trị không phải tự thân vận động, cũng như các nhóm đòi quyền dân chủ ở Trung Quốc và có lẽ cả với Việt Nam sẽ khó có thể đạt được nguyện vọng của họ chỉ đơn thuần bằng những khẩu hiệu có vẻ như hơi trừu tượng và ít liên hệ đến đời sống hàng ngày của tầng lớp bình dân.
Nhưng nếu chính trị bị tác động bởi nguyên cớ xác đáng là những bức xúc, bất mãn xã hội thì tự thân chính trị có thể bị thay đổi.
Người Trung Quốc lại có một triết lý: “Trong cái thế giới không công bằng này, cái chúng ta cần làm không phải là sự truy cầu sự công bằng, mà là trong sự không công bằng đó giành được thắng lợi”.
Chưa có được một Ô Khảm như ở Trung Quốc, nhưng Việt Nam chí ít đã khởi sự được dấu ấn ban đầu về hình tượng “Người nông dân nổi dậy” Đoàn Văn Vươn.
Mười lăm năm sau “cuộc cách mạng” Thái Bình, một lần nữa cơn bão khiếu tố đất đai của nông dân đang trở nên một phản ứng xã hội ngày càng ghê gớm và có thể đe dọa đến “sự tồn vong của chế độ” - như điều mà người phụ trách cao nhất của Đảng vẫn lo ngại.
Nếu không thể nhận thức và cảm thông với “những cuộc tụ tập có màu sắc chính trị” của tầng lớp nông dân khiếu tố đất đai, nhà cầm quyền sẽ nhanh chóng rơi vào nguy cơ “không có năng lực” và chế độ cũng rất có thể bị đẩy vào tình trạng mất kiểm soát trong không khí đầy bạo lực.
Thường Sơn
(Blog Thụy My)

Sinh con rồi mới sinh cha…

911
Hi hi “Hồ Chí Minh sống mãi trong em” mà Bác sinh năm nào cũng chẳng nhớ. Bố Bác sinh năm 1862 mà Bác sinh năm 1840, rõ là sinh con rồi mới sinh cha/ sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông
(Quê choa) 

TKV: Dư luận đã hiểu nhầm về thuế 0%

Theo TKV, mức thuế suất 15-40% là được áp dụng cho quặng sắt và quặng nhôm, chứ không áp dụng cho alumin...

TKV: Dư luận đã hiểu nhầm về thuế 0%
Quặng bauxite tinh sau tuyển của nhà máy tuyển quặng Tân Rai, sau đó sẽ được chuyển từ nhà máy tuyển quặng đến nhà máy sản xuất alumin.
Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) vừa lên tiếng xung quanh thông tin liên quan đến việc doanh nghiệp này được hưởng mức thuế suất 0% đối với xuất khẩu alumin.
Theo TKV, mặt hàng ôxít nhôm (alumin) có mã số hàng hóa (mã HS) là 2818.20.00 với mức thuế suất thuế xuất khẩu là 0%. Mức thuế này tương đương với mức thuế 0% của các nước xuất khẩu chính alumin như Brazil, Ấn Độ, Australia...
TKV lý giải, alumin khác về bản chất đối với các loại quặng nhôm và tinh quặng nhôm. Từ tinh quặng nhôm phải qua nhà máy luyện kim mới ra alumin.
Mức thuế suất 15-40% ở mục 16 trong Nghị quyết 710/2008/UBTVQH12 là được áp dụng cho quặng sắt và quặng nhôm, chứ không phải thuế suất áp dụng cho alumin.
Ngoài ra, trong quá trình khai thác quặng bauxite và sản xuất alumin, TKV sẽ có nghĩa vụ nộp các khoản thuế khác theo luật hiện hành như thuế và phí môi trường, thuế VAT, thuế tài nguyên, thuế thu nhập doanh nghiệp…
Đại diện TKV nói, việc một số cơ quan truyền thông đưa tin “thuế suất 0%” theo cách như là Chính phủ ưu đãi cho TKV và so sánh với mức thuế xuất khẩu quặng nhôm đã khiến dư luận hiểu nhầm.
Trước đó, một số chuyên gia kinh tế cho rằng, việc TKV đánh giá các dự án bauxite của doanh nghiệp này hiệu quả là vì tập đoàn được hưởng chính sách ưu đãi thuế của Chính phủ áp dụng ở mức 0% cho mặt hàng xuất khẩu quặng nhôm. Nếu tính toán đầy đủ các loại phí, chưa hẳn các dự án này đã có hiệu quả kinh tế.
(VnEconomy)
 

Phải chăng cô gái nhỏ đe dọa nhà nước?

Nữ sinh viên 21 tuổi Nguyễn Phương Uyên vừa bị tòa án nhân dân tỉnh Long An kêu án 6 năm tù vì tội tuyên truyền phá hoại nhà nước. Có phải sự đe dọa của cô gái này đối với nhà nước CHXHCN VN lớn hơn các mối đe dọa khác.
Như vậy là vụ án xử hai sinh viên Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha đã được tiến hành với mức án được coi là nặng nề cho hai người tuổi trẻ này. Nhất là với một điều luật khá mơ hồ như điều 88 bộ luật hình sự của nước CHXHCN VN về việc tuyên truyền chống phá nhà nước. Những người ủng hộ hai sinh viên này cho rằng họ chỉ bày tỏ lòng yêu nước. Thậm chí luật sư Hà Huy Sơn biện hộ cho sinh viên Phương Uyên đã nói trước khi phiên tòa diễn ra rằng,
“Theo quan điểm của tôi thì Phương Uyên vô tội, những hành động yêu nước như vậy đáng lý ra còn phải được kuyến khích.”

000_Hkg8587978-305.jpg
Nguyễn Phương Uyên và Nguyễn Đình Kha tại phiên tòa sơ thẩm Tòa Án Long An hôm 16/5/2013 AFP photo
Việc trấn áp các nhóm đối lập đã tăng lên trong những năm vừa qua. Nhiều người đã bị bắt. Nhà nước Việt Nam còn huy động hệ thống truyền thông mà họ độc quyền làm chủ để tấn công vào những nhóm có ý kiến khác biệt. Ví dụ như nhóm 72 nhân sĩ trí thức với đề nghị sửa đổi Hiến pháp 1992.
Trong hai năm qua nền kinh tế Việt Nam đã bị khựng lại sau hơn một thập niên phát triển. Lạm phát gia tăng đi kèm với sự phá sản của nhiều đại công ty do nhà nước làm chủ. Thị trường bất động sản vẫn đóng băng chôn vùi hàng ngàn tỉ đồng tín dụng chằng chéo qua lại giữa các ngân hàng. Nợ xấu vẫn chưa được giải quyết. Dự án thành lập công ty quản lý vốn đã không thực hiện được vào cuối tháng ba vừa rồi để giải quyết vấn đề nợ đó. Phát biểu với phóng viên Nam Nguyên, tiến sĩ Lê Đăng Doanh nhận định về tình hình kinh tế Việt nam như sau,
“Điều đáng chú ý của nhận định mới đây của IMF là đã giảm mức dự báo tăng trưởng của Việt Nam từ 5,8% xuống 5,2% và cũng giảm dự báo của năm 2014 xuống 5,2% thay vì mức tăng cao như trước đây và điều này cũng phù hợp với các dự báo khác của các ngân hàng tư nhân như HSBC hay các tổ chức tín dụng khác. Điều đó cho thấy một mặt tình hình kinh tế thế giới có khó khăn phức tạp và nó cũng phù hợp với xu thế chung, song điều đáng chú ý là mức giảm của Việt Nam rất cao, cao nhất sau Singapore và Singapore có đặc thù là phù hợp rất nhiều vào thị trường quốc tế còn các nước Đông Nam Á khác thì vẫn có tốc độ tăng trưởng cao. Quĩ Tiền tệ Quốc tế có lưu ý là các cải cách của Việt Nam như vậy là chậm. Nếu như không giải quyết sớm các cải cách ngân hàng và giải quyết nợ xấu thì nền kinh tế Việt Nam khó có thể lấy lại được đà tăng trưởng trước đây.”
Hồi năm ngoái ký giả Ben Bland viết trên tờ Foreign Policy rằng,
Mọi người, từ cố vấn chính phủ cho đến nhà đầu tư nước ngoài đều biết là phải chỉnh lại nền kinh tế cho đúng đường. Hà Nội phải chấm dứt ban phát sự độc quyền, tín dụng dễ dãi, và bao nhiêu thứ ưu tiên khác cho các doanh nghiệp nhà nước và các tay cánh hẩu của chúng. Lĩnh vực ngân hàng phải được tái cơ cấu vốn, phải được khích lệ để đua vốn vào các doanh nghiệp có hiệu quả. Chính phủ phải chống tham nhũng một cách nghiêm chỉnh, vì nó quan hệ hữu cơ với tất cả các bệnh hoạn khác.
Sau hai kỳ hội nghị trung ương đảng cộng sản Việt Nam dường như vẫn đang loay hoay với bộ máy nhân sự và chưa tìm được các giải pháp để thúc đẩy cải cách, giải quyết các vấn đề mà các chuyên gia nêu ra như trên đây.
Bên cạnh đó sức ép về lãnh hải trong tranh chấp với Trung quốc dường như càng lúc càng tăng. Ngư dân Việt Nam bị tàu Trung Quốc đuổi đánh diễn ra thường xuyên ở những nơi là ngư trường quen thuộc của mình. Các động thái xác định chủ quyền của Trung Quốc trên biển Đông trở nên ngày càng mạnh bạo, từ việc kéo dàn khoan dầu khổng lồ vào họat động trong vùng, đến tăng cường lực lượng hải giám, tổ chức họat động du lịch ở Hoàng Sa. Và hiện nay quân đội Trung quốc đang tập trận bắn đạn thật trên biển Đông cùng với đội tàu cá hùng hậu tràn xuống Trường Sa. Lệnh cấm đánh cá kể từ 16/5 đến 1/8 đã được Trung Quốc ban hành trên hầu như tòan bộ biển Đông.
Chính phủ do đảng cộng sản VN nắm giữ phải giải quyết những vấn đề về cải tổ kinh tế rất quan trọng, và phải tìm kiếm giải pháp đối đầu với sức ép lớn từ quốc gia khổng lồ phương bắc. Không rõ việc bắt giam các nhóm đối kháng, hay tấn công những người bất đồng chính kiến có nhằm giải quyết hai vấn đề trọng đại mà họ phải đương đầu hay không trong cương vị lãnh đạo quốc gia. Nói như ký giả Ben Bland,
“Vậy mà chả lo gì về việc nền kinh tế đang vật lộn và căng thẳng xã hội gia tăng, bộ công an lại tăng cường trừng trị các nhà đối lập. Gần đây nhất là họ bỏ tù, với tội trạng tuyên truyền chống phá nhà nước, hai nhạc sĩ và một cô nhóc sinh viên còn chụp hình với một con gấu bông.”
Kính Hòa, phóng viên RFA
2013-05-19 

Ông Trọng và quả báo nhãn tiền


“Quy hoạch cán bộ” là chà đạp dân chủ trong Đảng và nhân dân.
Người Hà Nội có câu tục ngữ hiện đại “Mười năm phấn đấu không bằng một năm cơ cấu”. (nói theo kiểu phương Tây là “được Chúa chọn”).
 “Quy hoạch cán bộ” tức là dự kiến nhân sự từ trên xuống, rồi chỉ đạo sao cho đúng như ý muốn cấp trên.
“Quy hoạch” là dự kiến sẵn, chọn sẵn nhân sự trước một vài năm. Đảng sẽ đưa ra thăm dò qua đảng viên, và quần chúng…
Thăm dò cũng chỉ là qua loa đại khái cho có, cho đủ lộ trình.
Như thế, Ý thức DÂN CHỦ trong Đảng vô hình trung đã bị triệt tiêu.
Nào đâu có sinh hoạt bầu cử hào hứng, sôi nổi hồi hộp và thực chất như ở một nước dân chủ thực sự!
Đảng đã quen dùng chiến thuật “quy hoạch” nhiều chục năm nay rồi. Và lần này hội nghị 6 báo chuẩn bị trước và Hội nghị 7 thực hiện bầu lãnh đạo cấp cao.
 Hội nghị 7 có hai “quy hoạch” đem lại kết quả kỳ lạ.
Quy hoạch 1 dự kiến là ông Nguyễn Bá Thanh và Vương Đình Huệ vô BCT.
Trước 01 tuần lễ, TTX vỉa hè đã loan tin quy hoạch 2 là ông Nguyễn Thiện Nhân và bà Nguyễn Kim Ngân.
Quy hoạch 2 thành hiện thực.
 Liệu có thể coi đó là quyền dân chủ ở cấp Trung ương được phát hủy tốt ?
Trả lời câu hỏi thực khó. Hãy chờ thực tế trả lời.
 Vấn đề là ông Nhân và bà Ngân có đáp ứng nhu cầu đảm nhiệm hai ban quan trọng Trung ương mới lập ra: Ban nội chính và Ban kinh tế để cứu nguy cho chế độ?
 Trung ương làm sao thì cấp dưới cũng y theo đó mà làm.
Ở Việt Nam hiện tại có một thói quen kỳ lạ, đó là thói bắt chước cấp trên y hệt.
Theo thói quen đó, trung ương “quy hoạch” thì cấp dưới cũng “quy hoạch”.
Trung ương sai lầm sao được !
Sai thì chúng ta cùng sai chứ.
Cháy rừng cùng sưởi.
Trong thời gian dự bị quy hoạch, nhân sự chỉ cần cố gắng đừng để xảy ra sự cố gì, cứ im lặng ngoan hiền tránh va chạm thì đến lần xét quy hoạch lần chót vẫn còn tên trong danh sách là chắc ăn. Anh (chị) ta không cần phải được giao nhiệm vụ đặc biệt để thử thách, không cần qua sát hạch gì cả. Nếu đã qua lớp chính trị cao cấp hoặc Cử nhân chính trị thì coi như ổn rồi, ngồi rung đùi. Nếu chưa có một trong hai chứng chỉ trên thì được cử đi học một lớp tại chức Cử nhân chính trị hoặc lý luận chính trị cao cấp, trung cấp trong một vài năm. Xong. Qua thăm dò ổn rồi thì vô đại hội phát phiếu bầu cũng bào đảm chắc chắn 90% kết quả đúng như “quy hoạch”, người bị rớt ắt là người không có tên trong “quy hoạch”.
 Mỗi lần qui hoạch thì bắt đầu hình thành một nhóm lợi ích mới.
 Vì sao hầu như phiếu bầu theo qui hoạch đạt kết quả đa số ?
Có một thủ thuât thường được áp dụng là tung tin nhỏ giọt về nhân sự được chọn.
Thủ thuật sau đây còn lợi hại hơn. Bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo quản lý bên chính quyền cho nhân sự được chọn. Sau một thời gian mới vô đại hội Đảng, thế là mặc nhiên anh ta được nhiều phiếu bầu. Tâm lý đa số đảng viên vô tư lắm, phù thịnh chứ không phù suy. lại nghĩ, cân nhắc chi cho mệt, ai lãnh đạo cũng thế cả thôi. Mặt khác, thấy lãnh đạo đã chọn trước rồi thì mình cũng  bỏ phiếu cho xong. Vả lại ngừuời ta cũng e ngại sự trù úm về sau.
 Ở cấp địa phương, họ thường để Bí thư kiêm luôn thủ trưởng cơ quan, đơn vị để lấy cái nọ đỡ cái kia. Thủ trưởng cơ quan (chính quyền) đồng thời đứng đầu Đảng, quyền hành trọn gói. Ai muốn dân chủ thì nhớ câu “chạy trời không khỏi nắng” nha. Có lẽ người đi tiên phong phá lệ là “hoàng đế Hồ Cẩm Đào” Chủ tịch cả hai thứ luôn cho tiện điều hành. Đảng và chính quyền cứ mập mờ lẫn lộn. Tuy hai mà một. Tuy một mà hai. Xuất quỷ nhập thần.
 So với thời phong kiến xưa, việc quy hoạch cán bộ của Đảng thời nay ngon ăn, chắc ăn và dễ dàng hơn nhiều. Nhân sự được chọn đi học cử nhân chính trị, trung cấp hay lý luận cao cấp. Xong hay chưa xong cũng bổ nhiệm luôn để tạo không khí, tạo đà trước khi bước vô đại hội đảng bộ.
 “Đảng trí” của phần lớn đảng viên thời nay ỉu xìu lắm, chỉ lo “hoàn thành nhiệm vụ” , “chi bộ trong sạch vững mạnh” (!?), ngoài ra mặc kệ, sao cũng được. Sinh hoạt đảng qua loa đại khái cho xong. Chi bộ khóm DT hàng tháng họp chỉ đạt 1/2 hoặc 1/3 đảng viên có mặt (hầu hết số cán bộ nghỉ hưu), vắng mặt cũng chả cần báo cáo.
2. Thất thập nhị hiền và bác tổng Trọng
 Ở Văn miếu- Quốc tử giám trong phần hậu cung có bàn thờ  hình vẽ 72 người hiền- những nho sinh thành công đầu tiên ở phương Đông, những người ấy từng sống cách đây khoảng 2 500 năm.
 Danh sách ký Kiến nghị 72 cũng có 72 người hiền thời hiện đại. Danh sách cao cả này cũng sẽ lưu danh thiên cổ đánh dấu cái giai đoạn đau thương này của dân tộc.
 Đặc biệt có tới  36 người làm nghề văn học, báo chí, nghệ thuật (trong tổng số 72). 36 người ấy kể như cùng nghề đầu tiên với bác Nguyễn Phú Trọng, cái nghê mà bác Trọng đã giã từ khi chưa kịp giỏi nghề, bác đã vội “lỡ bước sang ngang” chuyển qua nghề nghiên cứu lịch sử Đảng và chính trị chuyên nghiệp. (Tôi gọi TBT Nguyễn Phú Trọng là “bác” theo truyền thống quê tôi gọi người hơn vài tuổi là bác – gọi thay con).
 Bác Trọng đã dõng dạc phê phán nặng nề giới phản biện nói chung và 72 người hiền đang góp ý sửa đổi hiến pháp. Đúng ra, bác Trọng với cương vị TBT,  răn dạy cho thuộc hạ ở tỉnh Vĩnh Phúc thì đó là quyền của bác và tùy thuộc sự tiếp nhận của cán bộ tỉnh ủy VP. Nếu chỉ có thế thôi thì chẳng cần bàn.
 Vì cớ gì  ông trùm VTV Trần Bình Minh lại cho phát lại trên VTV thời sự để cho bác có dịp mắng mỏ những người trí thức tinh hoa dân tộc trong đó có “thất thập nhị hiền”? Bác có ra lệnh cho cậu Minh phát hình hay không? Hay anh ta sốt sắng tự lập thành tích? Căn bệnh “hoàng đế không lo, thái giám lo chi” ngày nay đang có cơ lan tràn khắp nơi…
 Bác Trọng chỉ trích họ là “suy thoái tư tưởng chính trị đạo đức lối sống”. Tôi là người ký tiếp đợt 2 sau 72 người hiền, tôi đang ăn cơm xem TV, bỗng kinh ngạc nhìn bác trên màn hình đang phun châu nhả ngọc… không nhịn được, tôi dằn đôi đũa xuống bàn, quát nhẹ “Lộng ngôn”, người nhà giật mình ngơ ngác hỏi “cái gì. cái gì thế?” . Tôi trỏ màn hình nói “kia kià, lộng ngôn, cha này quá lắm rồi!”. Ngay ngày hôm sau, được tin nhà báo Nguyễn Đắc Kiên kiên quyết phản đối bác dù biết trước sẽ bị trả thù cho nghỉ việc. Và không ai ngờ phong trào Tuyên bố của công dân tự do nhân hành động anh hùng của Nguyễn Đắc Kiên đã tiếp nối ý chí của anh, được sự đông tính ký tên của  nhiều nghìn người trong ngòaì nước.
 Hậu quả đó là nhỡn tiền.
 Phát ngôn hấp tấp nông nổi của bác đã  làm giảm uy tín của TBT  không chỉ trên dư luận rộng rãi trong ngoài nước, mà ngay trong Hội nghị 7 vừa qua – Sự lãnh đạo “tập trung” của Bộ chính trị đã bị vô hiệu hóa từng phần. Uy tín TBT muốn đem dẫn dắt Hội nghị 6,7 đã thất bại thảm hại. Phát ngôn như bác thi “lợi hay hại”?
 Hậu quả đó cũng là nhỡn tiền.
 72 người ký tên KN72 không ai cần chất vấn bác Trọng. Không ai cần bác Trọng phải xin lỗi họ. Những người khác ngoài danh sách 72 vì tinh thần nghĩa hiệp đã lên tiếng đòi bác Trọng phải xin lỗi. “Xin lỗi” nên là hành động tự nguyện, đợi yêu cầu đòi hỏi thì mất giá trị  lắm.
 Bác Trọng đã xem kỹ danh sách những  người 72 và các đợt sau chưa?
Bác có biết nhà thơ Nguyễn Duy người  bạn SV đồng khoa Văn tổng hợp HN của bác? Khi bác đi mài đũng quần  từ trường này tới trường khác, học thơ Tố Hữu thuộc lòng rồi lại đi học Mác Lê trong nước, Mác Lê nước ngoài thì anh Nguyễn Duy đi chiến đấu và sáng tác ở chiến trường. Sau 1975 anh còn sống là may phúc tổ tiên. Anh Duy hiện nay là nhà thơ nổi tiêng của nước Việt Nam và nhiều nước nể trọng.
 Bác lấy tư cách gì mắng anh Duy là “suy thoái tư tưởng chính trị đạo đức lối sống”?
 Bác có biêt trong danh sách 72 còn có GSTS Trần Đình Sử (gsts thực sự chứ không dỏm đâu) là GS đầu ngành văn học nước ta, thầy dạy của nhiều thế hệ GV dạy Văn ở cái nước Việt Nam này? Bác Trọng mắng GS Sử tức là mắng tất cả GV Văn nước ta đấy.
 Bác lấy tư cách gì mà sỉ mắng GSTS Trần Đình Sử là “suy thoái tư tưởng chính trị đạo đức lối sống”?
 Tôi không thể kể hết thành tích và bản lĩnh của 70 người hiền kia trong danh sách.
 Bác lấy tư cách gì mắng họ là “suy thoái tư tưởng chính trị đạo đức lối sống”?
 Tôi là người ký tên thứ 162 trong KN 72, «đạo đức lối sống » của tôi do hàng ngàn học sinh SV tôi đào tạo và hàng trăm đồng nghiệp của tôi  từ Bắc chí Nam mới có quyền đánh giá.
 Bác lấy tư cách gì mà mắng tôi là “suy thoái tư tưởng chính trị đạo đức lối sống”?
 Hiến pháp, pháp luật nào quy định TBT có cái quyền ấy?
 Danh sách 72 người hiền (và đến hôm nay 14 785 người) cùng với danh tính bác TBT Nguyẽn Phú Trọng sẽ cùng được/bị ghi vào lịch sử dân tộc dù đương sự muốn hay không muốn.
Giang Nam Lãng tử
(Blog Giang Nam Lãng tử)
 

Tân ủy viên BCT Nguyễn Thiện Nhân dự Thượng đỉnh Nước

Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân
Ông Nhân tới Thái Lan trong chuyến công du nước ngoài đầu tiên sau khi trở thành Ủy viên Bộ Chính trị

Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân tới dự hội nghị Thượng đỉnh Nước ở Thái Lan từ 19-20/5 trong chuyến công du nước ngoài đầu tiên kể từ khi trở thành tân Ủy viên Bộ Chính trị, theo báo điện tử của Chính phủ Việt Nam.

Ông Nhân và Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đã trúng cử vào danh sách 16 Ủy viên Bộ Chính trị sau khi hai ứng viên được Tổng Bí thư Đảng hậu thuẫn Nguyễn Bá Thanh và Vương Đình Huệ bị loại tại Hội nghị Trung ương 7 họp từ 2-11/5.

Trang tin của Chính phủ Việt Nam nói ông Nhân dẫn đầu đoàn đại biểu Việt Nam dự Thượng đỉnh về nước khu vực Châu Á - Thái Bình Dương lần thứ hai tại Chiang Mai, Thái Lan.

Chinhphu.vn nói thêm: "Việt Nam tham dự Hội nghị lần này nhằm khẳng định quan tâm và cam kết của Việt Nam trong hợp tác quốc tế về nước, chia sẻ quan điểm của Việt Nam về các thách thức đối với an ninh nguồn nước trong khu vực cũng như khả năng tiếp cận, bảo vệ và sử dụng bền vững tài nguyên nước trong bối cảnh biển đổi khí hậu toàn cầu, góp phần thúc đẩy hợp tác trong khu vực."

Ứng phó với biến đổi khí hậu và quản lý tài nguyên môi trường cũng nằm trong nghị trình của Hội nghị Trung ương 7 vừa rồi.

Báo Điện tử của Chính phủ cũng nói ông Nhân dự kiến sẽ có các cuộc gặp song phương với một số nguyên thủ quốc gia nhưng không cho biết thêm chi tiết.

Tân ủy viên

Ông Nhân là Ủy viên Bộ Chính trị đầu tiên được đào tạo bài bản tại Đức và Hoa Kỳ, có khả năng giao tiếp và thuyết trình khá lưu loát bằng tiếng Anh.

Mặc dù tin ông lọt vào Bộ Chính trị chỉ được Đảng xác nhận hôm 11/5, các nguồn tin khác đã nói về điều này ngay từ ngày họp thứ ba của Hội nghị Trung ương 7.

Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân và Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường
Ông Nhân thăm Trung Quốc khi nhiều nguồn tin nói ông đã được bầu vào Bộ Chính trị dù chưa được công bố

Như vậy vị Phó Thủ tướng trên thực tế công du Trung Quốc từ 10-12/5 khi đã trở thành ủy viên Bộ Chính trị dù chưa chính thức được Đảng công khai.

Ông Nhân đã hội đàm với Thủ tướng Lý Khắc Cường và Ủy viên Quốc Vụ Viện Dương Khiết Trì khi tới Bắc Kinh dự Phiên họp lần thứ 6 Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam - Trung Quốc.

Trong bản tin về chuyến thăm Bắc Kinh của ông Nhân, trang tin Dân Trí nói:

"Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân khẳng định phát triển quan hệ ổn định, lâu dài, hợp tác toàn diện với Trung Quốc là chính sách nhất quán, lâu dài của Đảng và Nhà nước Việt Nam, mong muốn cùng Trung Quốc cùng nhau nỗ lực, tăng cường hợp tác, đưa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc phát triển sang giai đoạn mới."

Kể từ khi thành Ủy viên Bộ Chính trị, ông Nhân cũng đã có những chuyến thị sát tới Bình Định và Phú Yên.

Khi ở Bình Định ông Nhân đã đến thăm Trung đoàn Không quân 940 thuộc Sư đoàn 372 của Quân chủng Phòng không.

Các hình ảnh từ những chuyến đi trong nước cho thấy ông Nhân có tác phong dân dã, sơ mi để ngoài thay vì đóng thùng như các cán bộ địa phương tiếp đón ông.
(BBC)

Dương Đình Giao - Chuyện kể của một người mẹ

Đầu thu năm 2002, tôi đến chơi nhà một người  bạn thân ở  Đ., cách Hà Nội khoảng hơn hai chục cây số. Trước vùng này thuộc Hà Tây, bây giờ thuộc Hà Nội.
Sau một tuần trà, anh dẫn tôi đi thăm nhà anh em, họ hàng quanh xóm trong khi ở nhà chuẩn bị cơm nước. Qua chợ, một cái chợ quê lâu ngày tôi không có dịp ghé qua, vài nhà trồng phong lan, cây cảnh,  anh đưa tôi đến thăm nhà người em trai. Căn nhà cấp 4 ba gian tuyềnh toàng, nhưng bên trong thấy đồ đạc giường tủ bàn ghế khá đầy đủ và đẹp.  Trước nhà là một mảnh sân và khu vườn cũng không rộng lắm. Người em đang hí hoáy sửa cái quạt điện, thấy có khách vội mời vào nhà. Trong khi chủ nhà pha nước, bạn tôi giới thiệu: “Anh giới thiệu với chú, đây là anh Giao, bạn anh dạy học ngoài Hà Nội.”
Vừa nghe thế, anh ngẩng đầu lên, nhìn tôi không mấy thiện cảm và buông ra một câu làm tôi rất bất ngờ: “Em chẳng biết các bác dạy dỗ thế nào mà học trò thì lười chảy thây ra lại còn toàn nói dối.” Tôi “choáng” quá! Anh bạn tôi vội “chữa cháy”: “Xin lỗi anh, chú ấy đang có chuyện “bức xúc”.” Chị vợ thấy có khách,  đang cho gà vịt ăn ngoài vườn cũng chạy vào, còn  đang thập thò bên ngoài vội  can chồng: “Ấy, sao bố nó lại nói thế!”,  rồi rỉ tai vài câu gì đó, anh chồng chậm rãi nói : “Các bác ngồi chơi!” rồi đi ra ngoài. Chị vào ngồi rót nước tiếp khách, vẫn chưa hết vẻ ngượng ngùng. Để xua tan không khí nặng nề, tôi vui vẻ hỏi chị: “Chắc vợ chồng có chuyện gì?” Anh bạn tôi gạt đi: “Không, vợ chồng chú ấy có chuyện gì đâu! Đây là chuyện thằng con!” Tôi vội hỏi thăm: “Có chuyện gì thế? Cháu nó đau ốm sao?” Chị vợ lúc ấy đã thấy nghẹn ngào, như tìm được người sẻ chia, bắt đầu kể lể. Chuyện của chị ấy lúc khoan lúc nhặt, nhiều khi lại xen vào những chuyện này chuyện khác, nhiều khi chẳng có liên quan gì đến nhau. Để không làm mất thời gian của mọi người, tôi xin tóm lược lại cho gọn:
- Vợ chồng em làm nghề nông, được  hai thằng con trai. Hai vợ chồng đều khỏe mạnh, chịu khó, chồng em anh ấy lại tháo vát, khéo tay nên đời sống cũng tạm đủ ăn. Tám năm trước, thằng con lớn của em học hết lớp 9 nhưng thi không đủ điểm vào lớp 10. Vợ chồng em nhờ vả, chạy chọt mãi để cho nó được học lớp 10 mà không được. Bác tính cả hai vợ chồng ngày trước cũng chỉ được ông bà chúng em  cho học hết cấp 2 nên muốn “con  hơn cha là nhà có phúc”. Chúng em định cho cháu đợi sang năm thi tiếp, nhưng nó không chịu. Nó bảo con không thích đi học. Thế là nó tự mầy mò tìm người học nghề mộc tận trên Thạch Thất. Bây giờ cháu nó vẫn làm thuê cho người ta trên ấy.  Nó thì yên rồi, tay nghề cũng khá, bây giờ đã thành thợ chính, bàn ghế giường tủ này là của cháu nó đóng đấy bác ạ. Nó bảo chờ thêm vài ba năm nữa, nó tích cóp thêm ít vốn rồi về mở xưởng riêng. Sau đó sẽ nghĩ đến chuyện làm nhà. Phải làm được cái nhà, rồi mới tính đến chuyện vợ con. Năm nay mới có 23 tuổi, vội gì!”
“Cách đây ba năm, thằng thứ hai nhà em cũng học lớp 9,  thi cũng không được vào lớp 10. Chúng em buồn quá. Nhưng may, lúc ấy đã có trường dân lập. Ban đầu cũng chẳng hiểu trường dân lập  là thế nào. Sau thấy người ta bảo: cũng chẳng khác gì trường quốc lập. Thầy hiệu trưởng là  hiệu trưởng của trường cấp 3 vừa về hưu, giáo viên đều là các thầy các cô trường cấp 3 cả, chỉ khác là lớp học phải  nhờ mấy cái gian nhà kho của hợp tác cũ thôi. Thế là chúng em xin cho cháu vào học dân lập. Biết là tốn kém đấy nhưng vì cứ muốn “con hơn cha là nhà có phúc” , chả lẽ con người ta đi học mà con mình lại không, nên hai vợ chồng bảo nhau phải cố. Thằng anh sau 5 năm đã thành nghề, bây giờ đi làm đã có lương, bảo: “con đã không học được cấp 3 rồi, cứ cho em  đi học, con sẽ đỡ thêm.” Thế là chúng em xin cho đi học. Ban đầu đã nghĩ là tốn, nhưng không ngờ nó lại tốn thế , bác ạ. Thôi thì tiền xây dựng trường đầu năm, tiền học phí hàng tháng, tiền học thêm ở trường, học thêm ở trung tâm, tiền gửi xe, tiền nước uống, tiền thuê lao công quét dọn, tiền đóng góp ngày lễ, ngày Tết, ngày 20 tháng 11, tiền dã ngoại du lịch, tiền photo đề thi, tiền đề cương đáp án,  trăm thứ tiền…Mỗi tháng tiền học của nó cũng tốn đến gần tạ thóc. Nhưng chúng em cũng yên tâm vì thấy năm nào cũng được giấy khen, cũng được  tiên tiến. Chị chỉ lên khoảng tường trống bảo: chỗ này là chỗ nhà em dán 6 cái giấy khen của nó đấy. Nhưng hôm nọ nhà em điên quá xé hết rồi. Tôi xen vào: “Sao lại xé?”
- A, là vì vừa rồi đi thi đại học, khi người ta gửi giấy báo điểm về, cả ba môn cộng lại mà chỉ được có 2 điểm bác ạ. Đầu tiên ai cũng không tin, sợ người ta nhầm. Nhưng đi hỏi thì người ta bảo “nhầm thế nào được!” Chúng em mới ngồi lại hỏi nó: “Sao năm nào mày cũng được giấy khen, được tiên tiến mà đi thi ba môn chỉ được có 2 điểm.” Nó giải thích:  “Đi học được tiên tiến vì cứ mỗi khi gần đến bài kiểm tra, thầy đều bảo trước đề bài, giải sẵn cho, chúng con chỉ việc chép vào vở,  đến khi kiểm tra thì nhìn vào đấy, chép vào giấy đem nộp. Kiểm tra hang ngày thì đứa nào bị điểm kém thầy đều “treo”, lần sau kiểm tra lại. Thế thì gì chẳng được tiên tiến! Nhiều đứa nó chép “siêu”, nó còn được giỏi cơ!” Nhà em mới quát nó: “Mày nói láo. Sao tao thấy thằng Trung con nhà Chức vẫn phải thi lại cơ mà!” Con em nó bảo: “Vâng, nó phải thi lại nhưng đấy là các thầy “dọa” thôi. Đứa nào dốt quá thì các thầy bắt thi lại. Nhưng chỉ cần học một tuần, thầy cũng dạy cho làm cái đề sẽ thi lại, cứ làm đi làm lại. Một tuần mà chỉ có mỗi cái đề ấy thôi. Thế là chẳng đứa nào phải ở lại lớp cả. Chỉ có đứa nào vẫn không biết chép hoặc hư quá thì các thầy bắt chuyển trường. Nếu đồng ý chuyển đi trường khác thì các thầy “tha” cho,  nghĩa là làm lại học bạ, coi như “được lên lớp”. Nhà em quát: “Mày nói láo thế nào chứ! Cái loại học trò ấy thì ai người ta nhận?” Nó bảo: “Bố thì biết gì! Cứ trường nọ nhận học trò hư của trường kia. Bây giờ chẳng thiếu gì trường. Chỉ thiếu học sinh thôi. Quanh mình, hồi con vào lớp 10 mới chỉ có một trường dân lập, bây giờ có 5 trường rồi đấy. Nên học sinh thành thượng đế cả. Còn có trường  nổi tiếng lắm có cả khu nội trú để đón  học trò toàn là người các tỉnh về học. Bố mẹ chúng nó ở các tỉnh giàu lắm. Những đứa nghiện hút, hư hỏng để ở nhà sợ mang tiếng thì chuyển về Hà Nội. Chúng nó đi học còn được bố mẹ mua nhà,  thuê cho ô sin nấu cơm, giặt quần áo! Người ta còn thuê thầy đến dạy từng đứa ở nhà cơ!””  Nhà em lại hỏi: “Thế sao thi tốt nghiệp điểm thi của mày lại cao thế? 6 môn mà được 43 điểm?” Nó bảo: “Phát đề thi xong một lúc là có người đưa cho lời giải, mình chỉ cần chép vào thôi.” Em hỏi nó: “Mày nói thế thì ra bài thi giống nhau hết à? Điểm bằng nhau  hết à?” Nó trả lời: “Mẹ thì biết gì! Bài giải thì giống nhau nhưng có đứa chép đúng, có đứa chép sai, điểm bằng nhau thế nào được!” Rồi nó còn kể có cái trường gì đấy trên huyện B. đang thi, có một ông mồ hôi nhễ nhại chạy vào hành lang, hỏi: “Đây có phải phòng thi số 6 không thầy?” Rồi ông ấy chạy vào phòng thi, lớn tiếng hỏi: “Hùng ơi! Mày ngồi ở đâu hả con?” Một đứa ở dưới vội kêu: “Bố ơi, con đây!” Ông ấy vội chạy tới giúi cho nó tờ giấy, rồi quay ra. Đến cửa còn quay lại, nói vội: “Chép xong nhớ đưa cho thằng Hải nhé!”
Anh bạn tôi ra ý không bằng lòng: “Chú thím hay thật, con nó bảo “Bố mẹ thì biết gì” thì phải bảo nó chứ!” Cô em dâu không nói gì, tôi mỉm cười nghĩ thầm: “Đúng thế chứ còn uốn nắn gì nữa. Mà phụ huynh đâu chỉ có vợ chồng nhà này!”
Quay ra sân đuổi đàn gà bới đống rơm, chị quay vào tiếp:
- Nó còn giải thích cho chúng em là cái tiền nộp trước khi đi thi, mấy trăm nghìn mà bố mẹ cứ kêu sao nhiều thế ấy,   các thầy gọi là tiền “chống trượt”. Tiền ấy để “bồi dưỡng” cho các thầy coi chấm thi!.
Em ngán ngẩm quá, than: “Thế thì học với hành, thi với cử gì, chỉ là trò lừa bịp cả thôi! “Nó lại còn gân cổ lên cãi  em: “Mẹ thì biết gì! Các thầy vẫn bảo “tất cả vì học sinh thân yêu” mà lại.”
Tôi cúi xuống nhìn, nền nhà chị láng xi măng, không chui được!
Chị dừng lại một lát rồi tiếp:
- Nhà em bảo không thể trông mong gì vào nó nữa rồi. Sang năm có cho thi lại cũng chẳng nước non gì. Bây giờ phải theo gương thằng anh thôi, kiếm lấy một nghề, cho nó hạn từ giờ đến  cuối năm để  tìm nghề, chúng em cũng đang nhờ mọi người tìm giúp.”
Anh bạn tôi ngắt lời:
- Tôi bảo chú thím chẳng nghe. Bây giờ chú sẵn có cái nghề sửa chữa điện đài đấy. Cho nó theo. Cần thì cho ra Hà Đông  học nghề thêm mấy tháng. Hoặc là cho nó theo anh nó, học nghề mộc, anh em nó dìu dắt nhau.
Anh quay sang nói với tôi: “Chú ấy tuy chỉ học hết cấp 2 nhưng sáng dạ lắm. Ngoài việc làm ruộng, trong làng ai cần mắc điện, chữa cái quạt, cái máy bơm nước, là chú ấy làm được cả. Lại còn có một bộ loa cho  các gia đình thuê khi có đám cưới đám ma nữa. Thu nhập cũng được đấy!”
Người mẹ thở dài đánh sượt, than:
- Khổ quá bác ơi, nhà em nói, em nói, anh nó cũng nói, nhưng nó có chịu nghe đâu! Nó cứ đòi đi học lái xe, nhưng chúng em không đồng ý. Bố nó đi làm bảo nó theo, nó bảo “thế nhỡ điện giật thì làm thế nào! Có mà toi!” Suốt ngày chỉ lang thang trò chơi điện tử, rồi “chát chit”. Bác tính ăn không quen rồi. Suôt ba năm học cấp 3, không phải đụng đến một công việc gì. Ăn xong cái bát cũng chẳng phải rửa, quần áo thay ra cũng có khi bố mẹ giặt cho. Chỉ dành thời gian cho nó học. Học hành đã chẳng ra thế nào rồi, bây giờ làm cái gì cũng ngại, không muốn đụng chân đụng tay vào việc gì cả.
Tôi hỏi:
- Thế vừa rồi có chuyện gì?
Chị thẫn thờ:
- Khổ quá, bác ạ! Nhà có xe máy, nhưng từ hôm thi cử như thế nhà em nhất định không cho đi nữa. Nhà em bảo: “Mày đi làm kiếm tiền mua xe mà đi”. Hôm kia, nó lên nhà cậu nó nói dối “Bố cháu bảo cậu cho cháu mượn cái xe đi ra Hà Đông mua cho bố cháu mấy thứ.” Cậu ấy tin,  đưa xe cho nó. Chẳng biết đi đứng thế nào, lao vào con nhà người ta. Người ta thì gãy chân, nó thì gãy tay, mặt mũi sưng húp lên, xe thì hỏng. Bây giờ lại mất bao nhiêu tiền, tiền chữa xe, tiền đền cho người ta, tiền thuốc, tiền viện phí. Ôi giời ôi! Sao tôi khổ thế này!
Bạn tôi hỏi:
-         Thế hôm nay nó đi đâu?
Chị thút thít:
- Em phải đưa nó xuống ở tạm dưới bà ngoại. Nó mà ở nhà, lúc nhà em điên lên thì nó chết. Mà cái tay nó thì đang bó bột.
Chẳng biết nói gì hơn, tôi đưa mắt cho anh bạn. Chúng tôi cáo từ ra về. Trên đường về, anh hỏi tôi:
-         Nó nói thế có đúng không ông?
Tôi ngậm ngùi, bảo:
-         Trẻ con nó không bịa được như thế đâu ông ạ. Mà chúng nó sao đã biết hết được mọi chuyện.
Lúc ngồi ăn cơm, anh đưa tôi chén rượu, vẫn chưa hết áy náy:
-         Chuyện vừa rồi ông bỏ qua nhé! Chú ấy đang nóng!
Tôi vội gạt đi:
- Bị “chửi” như thế còn là nhẹ đấy,  ông ạ!
Dương Đình Giao
(ABS)
 

Hàng hóa phục vụ cho việc trấn áp của công an Trung Quốc : Thị trường béo bở

Công an Trung Quốc sử dụng loại xe hai bánh chuyên dụng để tuần tra ở quảng trường Thiên An Môn.
Công an Trung Quốc sử dụng loại xe hai bánh chuyên dụng để tuần tra ở quảng trường Thiên An Môn. (Reuters)

Phóng sự ngày hôm nay 19/05/2013 của AFP về hội chợ thiết bị dành cho công an ở Bắc Kinh đã mô tả, các mặt hàng thuộc « công nghệ chống khủng bố » như các người mẫu trong sắc phục chống bạo động, xe hơi lắp kính chống đạn hay máy bay không người lái…đang nở rộ. Đây là thị trường béo bở, người bán được hưởng lợi từ ngân sách dành cho việc chống nổi dậy của Trung Quốc, mà năm nay đã vượt qua ngân sách quốc phòng.

Với số lượng « sự cố tập thể » - từ ngữ hoa mỹ mà chính quyền Bắc Kinh dùng để chỉ các vụ nổi dậy - lên đến 180.000 vụ một năm, quỹ dành cho nội an của Trung Quốc năm nay là 769 tỉ nhân dân tệ (98 tỉ euro), tức cao hơn đến 200 tỉ nhân dân tệ so với năm 2010.

Ryan Fan, phụ trách gian hàng bán áo giáp, nón chống đạn và khiên nhựa trong suốt vui vẻ cho biết : « Các sản phẩm này nhằm phục vụ cho cảnh sát chống bạo động. Chính phủ chúng tôi có ngân sách hàng năm dành cho việc giữ gìn an ninh trật tự cao hơn trước rất nhiều ».

Một nhóm người mặc đồ đen xem xét loại kính hồng ngoại nhìn được ban đêm, và một nhóm công an từ tỉnh Giang Tây xa xôi đứng xem cuộc trình diễn một robot tháo gỡ bom. Một người công an trong nhóm khẳng định : « Chúng tôi có rất nhiều tiền để chi tiêu, đặc biệt là trong việc đấu tranh chống khủng bố ».

Lu Hui, người bán xe hai bánh kiểu « Robostep », loại được công an sử dụng để tuần tiễu trên quảng trường Thiên An Môn cũng nhìn nhận : « Nhà nước hỗ trợ mạnh các chi tiêu của công an ». Quảng trường nổi tiếng từng diễn ra cuộc thảm sát các sinh viên biểu tình đòi dân chủ năm 1989, hiện đầy dẫy các camera quan sát và lực lượng an ninh hiện diện đông đảo.

Hàng mấy chục gian hàng giới thiệu các công nghệ tân tiến nhất, như các máy chặn sóng điện thoại di động – hiện đang có hơn một tỉ chiếc trên khắp nước Trung Quốc, các thiết bị nghe trộm siêu nhỏ, máy bay không người lái. Một chiếc trực thăng điều khiển từ xa có giá 100.000 nhân dân tệ (12.700 euro). Một nhân viên công ty Seven Dimension Information khẳng định, đã có nhiều cơ quan công an trên cả nước sử dụng loại này.

Các công ty ngoại quốc cũng có mặt tại hội chợ. Một máy bay không người lái có camera do Úc sản xuất được trình bày với nhiều không ảnh chụp các khu dân cư. Cách đó không xa là những chiếc xe hiệu Mercedes, Ford, Huyndai mang chữ « Công an ».

Các tổ chức bảo vệ nhân quyền lên án các công ty hỗ trợ chính quyền Trung Quốc thiết lập hệ thống theo dõi rộng khắp. Kaye Stearman, thuộc tổ chức phi chính phủ Anh Campaign Against the Arms Trade (Chiến dịch chống buôn bán vũ khí) nhấn mạnh : « Các công nghệ giám sát ngày càng làm cho chúng tôi lo ngại ».

Lệnh cấm xuất khẩu vũ khí sang Trung Quốc do Liên hiệp châu Âu đưa ra sau vụ thảm sát Thiên An Môn không áp dụng cho đa số các trang thiết bị được sử dụng vào việc đàn áp các cuộc nổi dậy trong nước.

Chih-Jou Jay Chen, nhà nghiên cứu thuộc Academia Sinica ở Đài Loan tiết lộ, chính quyền tăng cường cho lực lượng công an nhằm « phản ứng trước số lượng các cuộc biểu tình đang nhanh chóng tăng lên, và trước các đe dọa tiềm năng của internet ».

Cho dù Mạnh Kiến Trụ (Meng Jianzhu), người đứng đầu ngành an ninh không vào được thường trực Bộ Chính trị trong đại hội Đảng vừa qua, nhưng các nhà sản xuất thiết bị cho công an Trung Quốc không hề lo lắng. Chen Dahai, một cựu công an hình sự nay chuyển nghề bán thiết bị phát hiện vân tay cho biết : « Chúng tôi sẽ tiếp tục rủng rỉnh tiền, mô hình duy trì ổn định sẽ còn kéo dài ». Theo ông thì lực lượng an ninh có nhiều tiền cho đến nỗi « không biết tiêu xài vào đâu cho hết ».
Thụy My (RFI)

Bài toán “gạo” và “đất”

Cùng với việc kêu gào giải cứu hay để rơi thị trường bất động sản, ngành nông nghiệp Việt Nam cũng kêu gọi sự hỗ trợ từ Chính phủ do nông sản gặp sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường quốc tế.
Nếu so sánh lợi ích giữa “gạo” và “đất” để “ưu tiên cứu” thì quả thật rất khó, vì mỗi bên đều có những đóng góp nhất định cho đất nước. Kịch bản đầu tiên Việt Nam có thể tham khảo chính là để “cái yếu” cho bàn tay vô hình của nền kinh tế thị trường sàng lọc, thanh trừ.
Nông nghiệp cứu nền kinh tế
Theo lý thuyết lẫn thực tế thì bàn tay vô hình có thể khiến nền kinh tế tổn thương trong thời gian dài nếu trong ngắn hạn, cả “gạo” lẫn “đất” đều suy kiệt. Thế nên vai trò Nhà nước cần được thể hiện như cái cách mà Mỹ, EU vẫn thường làm khi họ đối mặt với khủng hoảng kinh tế. Câu hỏi đặt ra là cứu ai và chưa cứu ai?
Để xác định được việc “cứu ai?” thì nhất thiết phải so sánh ba yếu tố quan trọng:
1. Đóng góp trong ngắn và dài hạn của ngành;
2. Ảnh hưởng của ngành đến lực lượng lao động (yếu tố con người);
3. Tính công bằng xã hội giữa các ngành trong can thiệp kinh tế của Nhà nước.
Nếu xét về yếu tố đóng góp cho nền kinh tế trong ngắn hạn lẫn dài hơi, rõ ràng nông nghiệp đã và đang cứu nền kinh tế quốc gia trong khi bất động sản (BĐS) có xu thế ngược lại. Năm 2012 vừa qua chứng kiến sự “vượt rào” trong nông nghiệp khi gạo, cà phê và nhiều mặt hàng nông sản thắng lớn về xuất khẩu trên thị trường quốc tế. Nguồn ngoại tệ mang về từ ngành này góp phần quan trọng trong cân bằng cán cân thương mại. Cùng với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI, những người nông dân đã góp phần mang về thành tích xuất siêu cho nền kinh tế quốc gia trong năm qua. Xét trong dài hạn, nông nghiệp vẫn sẽ là thế mạnh của Việt Nam, có chăng là nông nghiệp sẽ lột xác khi được công nghiệp hóa và dịch vụ hóa trong tương lai.
Nếu xét về yếu tố đóng góp cho nền kinh tế, nông nghiệp đã và đang cứu nền kinh tế quốc gia trong khi bất động sản có xu thế ngược lại. Ảnh: HTD
Chưa dừng ở đó, trong khi ngành nông nghiệp trực tiếp ảnh hưởng đến đông đảo dân số Việt Nam - lực lượng trực tiếp tham gia vào chuỗi sản xuất, cung ứng sản phẩm cho tiêu dùng quốc gia và xuất khẩu thì ngành BĐS chỉ chiếm một phần nhỏ lực lượng lao động liên quan.
Nếu cứ mặc số phận của nền nông nghiệp thì nay mai, dưới tác động ngày càng khắc nghiệt của khí hậu và cơ chế cạnh tranh cao của nền kinh tế thị trường trong bối cảnh giá cả vật tư nông nghiệp ngày càng đắt đỏ… không chỉ vấn đề xuất khẩu nông nghiệp gặp thất bại, an ninh lương thực quốc gia bị ảnh hưởng mà khoảng 70% dân số Việt Nam vẫn phải loay hoay với phận nghèo.
Đó là chưa kể động thái cứu trợ của Nhà nước đối với một trong hai ngành sẽ ảnh hưởng đến yếu tố công bằng xã hội - yếu tố quan trọng trong mô hình kinh tế mà Việt Nam đang theo đuổi như nhận định của nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan hồi đầu năm 2013. Nhìn lại trong cả thập kỷ vừa qua, BĐS đã giúp không ít cá nhân “đổi đời”. Thậm chí yếu tố hám lợi của một bộ phận không nhỏ các nhà kinh doanh BĐS đã khiến giá đất “phát sốt”, đưa ngành này lần lượt rơi vào tình trạng “căng tròn” rồi nổ tung. Nếu trước đó, việc ăn nên làm ra của ngành BĐS không để lại sự “than phiền” nào thì giờ đây, khi gặp khó khăn thì trách nhiệm được “đá” sang Nhà nước. Trong khi đó, ngành nông nghiệp vẫn miệt mài với sản lượng, thuế má đầy đủ.
Tính công bằng trong phát triển kinh tế
Bằng cách này hay cách khác, hiện nay BĐS dường như vẫn được “ưu ái” hơn khi không ít các ý kiến, thậm chí là một lực lượng khá đông các doanh nhân lẫn nhà chức trách liên quan lên tiếng “cứu đất”. Trong khi đó, liên tiếp trong những tháng qua, ngành nông nghiệp phải lên tiếng kêu khó. Gạo Việt Nam lâm nguy khi “giá rẻ nhất thế giới vẫn không bán được” trước cuộc đua khắc nghiệt với các nước khác. Cà phê Việt vẫn chấp nhận cảnh “ăn may” nhờ các yếu tố khách quan. Thủy sản Việt Nam đang bị một số nơi cấm nhập khẩu… Như vậy, ngành nông nghiệp “tuy đông” nhưng vẫn chưa có đủ sức mạnh trong việc thuyết phục sự quan tâm cần thiết của Nhà nước.
Để tạo được bước ngoặt cho nền kinh tế nói chung và trong ngành “gạo” và “đất” nói riêng, đòi hỏi Nhà nước phải có sự đột phá trong lựa chọn mô hình. Lựa chọn đó, tất nhiên phải dựa trên những phân tích thiệt hơn, sức ảnh hưởng đến lực lượng lao động, an sinh xã hội cũng như tính công bằng trong phát triển kinh tế. Nhưng trong thời điểm hiện tại, dường như sự so sánh và ưu tiên chọn lựa theo hướng khách quan đã hiển hiện quá rõ ràng qua kết quả cân đo giữa “gạo” và “đất”.
(PLTP)

Hôm nay khai mạc ỳ họp thứ 5 của Quốc hội

Kỳ họp thứ 5 và “nhãn lực tinh tường” của Quốc hội

“Hơn lúc nào hết, Quốc hội rất cần nhãn lực tinh tường để nhận diện đúng tầm mức của các vấn đề “nước sôi lửa bỏng” hiện nay”...
Tràn ngập tâm tư từ các cuộc tiếp xúc cử tri, cũng có nghĩa là trách nhiệm của các vị đại diện cho dân càng nặng nề. Không chỉ ở "nhãn lực tinh tường" để nhận diện rõ các vấn đề đang đặt ra cho cả trước mắt và lâu dài. Mà cao hơn còn là bản lĩnh để bàn, để quyết các giải pháp, phương cách giải quyết vấn đề.
499 vị đại biểu Quốc hội khóa 13, sáng 20/5 cùng bước vào kỳ họp thứ 5, kéo dài một tháng tại Thủ đô Hà Nội.
“Hơn lúc nào hết, Quốc hội rất cần nhãn lực tinh tường để nhận diện đúng tầm mức của các vấn đề “nước sôi lửa bỏng” hiện nay”, một vị đại biểu chuyên trách nói với VnEconomy trước thềm kỳ họp.
Tâm tư này cũng được nhiều vị khác sẻ chia. Bởi, tại đây, không chỉ lần đầu tiên việc lấy phiếu tín nhiệm sẽ diễn ra mà Hiến pháp đang cần sự thay đổi có tính lịch sử, sửa Luật Đất đai vẫn ngổn ngang trăm mối… Nhìn rộng hơn thì từ kinh tế, xã hội, niềm tin... đều “đang có vấn đề” và sự kỳ vọng ở Quốc hội, đương nhiên vì thế mà cũng lớn hơn.
Mới đây, tại một diễn đàn về kinh tế vĩ mô với sự có mặt của gần 200 quan chức, nhà khoa học, chuyên gia và đại biểu Quốc hội, một chuyên gia kinh tế đã nêu nhận định: “Đất nước đang rơi vào tình trạng suy thoái toàn diện từ kinh tế, xã hội, văn hóa, đạo đức, giáo dục y tế đến niềm tin, kỷ luật, kỷ cương, pháp luật, đạo đức”.
Gần hơn, ở phiên họp thứ 18 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 14/5 vừa qua, Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan sau khi nêu sự cấp thiết phải cứu doanh nghiệp trong nước, đã nhấn mạnh rằng, “tôi thấy nguy cơ lắm”.
Kỳ họp thứ 5 và “nhãn lực tinh tường” của Quốc hội 1Tiếp xúc với đại biểu Quốc hội, cử tri Bắc - Trung - Nam đều bày tỏ quan tâm và cả lo ngại tới sự khách quan của những lá phiếu tín nhiệm.
Bà Doan cũng tâm tư, khi ngân sách eo hẹp thì chi tiêu vẫn chưa triệt để tiết kiệm. Sự dàn trải, lãng phí của các chương trình mục tiêu quốc gia từng được phê phán mạnh mẽ ở nhiều diễn đàn và cả trên nghị trường, nhưng nay vẫn thế không thể khắc phục. Vì “ngay trong đại biểu Quốc hội cũng không dám quyết thì còn ai dám quyết”.
Trong khi đó, xem xét “túi tiền” của quốc gia với góc nhìn của người đã đứng đầu ngành tài chính nhiều năm liền, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng cũng ngậm ngùi “tình hình xấu lắm”.
Mức độ lạc quan tại báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế - xã hội đã giảm đi khá nhiều. Các chuyên gia cũng chẳng mất nhiều thời gian tranh luận xem tăng trưởng và lạm phát ở mức nào thì hợp lý nữa. Bởi CPI thấp chưa hẳn do kiềm chế mà do thiếu tiền. Nhưng tiền có bơm ra thì doanh nghiệp cũng khó hấp thụ vì gần 70% đã báo lỗ. Doanh nghiệp “chết” thì kinh tế khó mà hồi phục…, vòng luẩn quẩn này dù được vẽ đi vẽ lại thì giải pháp hữu hiệu vẫn còn là câu hỏi lớn.
Vậy nhưng, nếu chỉ cảm nhận tình hình qua các báo cáo “tự kiểm điểm” phục vụ cho việc lấy tín nhiệm tại kỳ họp này thì như nhận xét của nhiều vị đại biểu, rằng “dường như đất nước chẳng mấy khó khăn vất vả”. Bởi khó khăn, hạn chế, nếu có cũng khá nhẹ nhàng, còn thành tích vẫn là cơ bản.
Song, nói như đại biểu Lê Thanh Vân, Ủy viên Thường trực Ủy ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội thì sau gần hai năm, chẳng cần các báo cáo đó, cử tri cũng có thể đánh giá được kết quả công việc của bộ trưởng, huống chi đại biểu của dân có nhiều thông tin hơn để cân nhắc. Vấn đề còn lại là Quốc hội phải xem “y phục” hiện tại có vừa vặn với các vị được lấy phiếu hay quá rộng và cũng có thể là quá hẹp.
Tuy nhiên, “muốn cho Quốc hội nhận diện đúng thì cá nhân được lấy tín nhiệm phải thể hiện dấu ấn. Ví dụ ở cương vị thành viên Chính phủ thì anh phải thể hiện tư tưởng, đưa ra chính sách lớn để cải biến tình hình. Từ đó anh sắp xếp theo lớp lang cái gì trước cái gì sau, khâu nào là khâu cửa mở để giải quyết vấn đề. Chứ còn nhiều anh cứ nói tôi nghiêm cái này, chỉnh cái nọ mà chả cái biến được gì trong tình hình hiện nay, thì không thể đạt tín nhiệm cao”, ông Vân nói.
Đấy là chưa kể, bên cạnh một số vị rất có trách nhiệm với sản phẩm mang đậm dấu ấn cá nhân, thì vẫn có người hầu như chỉ kể lại công việc của cơ quan mình, ngành mình, chỉ thay ngày tháng và danh xưng, vẫn theo nhận xét của ông Vân.
Tiếp xúc với đại biểu Quốc hội, cử tri Bắc - Trung - Nam đều bày tỏ quan tâm và cả lo ngại tới sự khách quan của những lá phiếu tín nhiệm. Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng cũng nhấn mạnh rằng, không thể xem đây là kỹ thuật mà là vấn đề mang ý nghĩa chính trị. Bởi vậy, hướng dẫn phải chặt chẽ, và tạo điều kiện cho đại biểu đánh giá không ngược ý dân.
Đại biểu của dân đương nhiên phải thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước trong Quốc hội. Nhưng dân không chỉ quan tâm đến kết quả bỏ phiếu tín nhiệm. 26 triệu lượt ý kiến góp ý vào dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã cho thấy sự quan tâm đặc biệt của nhân dân với công việc mà ở kỳ họp này Quốc hội sẽ dành liên tục hai ngày để bàn thảo.
Kỳ họp thứ 5 và “nhãn lực tinh tường” của Quốc hội 2Chúng ta đã từng có những yếu kém lỏng lẻo trong quản lý, vậy thì phải xúm nhau vào thực hiện để tạo ra sự đồng thuận. Trong lúc này, không nặng về xử lý, tìm ra để làm cái gì, mà là để khắc phục tình hình. Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan
Mặc dù vậy, thông tin về ý dân với sửa đổi Hiến pháp thế nào hiện còn nhỏ giọt. Sau gần 5 tháng tổ chức lấy ý kiến nhân dân, Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 chưa có cuộc họp báo nào để công bố kết quả lấy ý kiến. Báo cáo hơn 100 trang của Chính phủ về kết quả lấy ý kiến nhân dân cũng chưa được công bố công khai vì "chưa có quy định". Còn thông tin do người phát ngôn của Quốc hội nêu về phương án tên nước tại dự thảo sửa đổi Hiến pháp dường như cũng chưa hoàn toàn chắc chắn.
Cử tri còn tâm tư về nhiều vấn đề khác. Dù chương trình kỳ họp thứ 5 không có phiên nào Quốc hội nghe báo cáo hay bàn về tình hình biển Đông, song cử tri vẫn đang lo lắng, bất bình trước diễn biến phức tạp ở đây. Họ cũng vẫn không quên "nhắc” các vị đại diện cho mình chuyện công khai hình thức xử lý trách nhiệm cụ thể đối với người đứng đầu, cá nhân, tập thể để xảy ra sai phạm tại Vinashin, Vinalines… đã được hứa hẹn nhiều lần giữa nghị trường.
Tràn ngập tâm tư từ các cuộc tiếp xúc cử tri, cũng có nghĩa là trách nhiệm của các vị đại diện cho dân càng nặng nề. Không chỉ ở "nhãn lực tinh tường" để nhận diện rõ các vấn đề đang đặt ra cho cả trước mắt và lâu dài. Mà cao hơn còn là bản lĩnh để bàn, để quyết các giải pháp, phương cách giải quyết vấn đề.
“Chúng ta đã từng có những yếu kém lỏng lẻo trong quản lý, vậy thì phải xúm nhau vào thực hiện để tạo ra sự đồng thuận. Trong lúc này, không nặng về xử lý, tìm ra để làm cái gì, mà là để khắc phục tình hình”, lời của Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan chắc cũng hợp lòng nhiều cử tri và đại biểu.
(VnEconomy)

Trò chuyện với con gái nuôi của Bác Hồ Elizabeth Helfer Aubrac tại Paris

Vừa qua, hoạ sĩ Nguyễn Thu Thuỷ - tác giả Con đường gốm sứ ven sông Hồng đã có mặt tại Choisy le Roi và Paris (Pháp) dự các hoạt động kỷ niệm 40 năm Hiệp định Paris và khánh thành bức tranh gốm với chủ đề Tình hữu nghị Pháp - Việt (kích thước 2mx2m) do UBND TP Hà Nội tặng TP Choisy le Roi. Tại đây, nữ họa sĩ đã gặp lại chị Elizabeth Helfer Aubrac - con gái nuôi của Bác Hồ và có cuộc trò chuyện thú vị với chị Elisabeth về cuộc đời và tình bạn của gia đình Aubrac với Bác Hồ.
Bác Hồ bế con gái nuôi Elizabeth. Bên cạnh là bà Lucie Aubrac. Ảnh tư liệu.
Thể thao & Văn hóa trân trọng giới thiệu cuộc trò chuyện này.
Món quà đặc biệt của cha nuôi là tấm lụa để may áo cưới
* Thưa chị Elizabeth Aubrac, đầu tiên, xin chị chia sẻ những kỷ niệm của gia đình mình với Bác Hồ ?

- Tôi luôn tự hào về cha mẹ đẻ của mình và người cha nuôi là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cả ba người đều đã đi vào sử sách của đất nước mình và quốc tế.
 Chắc các bạn đều biết, năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh sang thăm Cộng hoà Pháp. Trong chuyến thăm đó, Bác Hồ đã gặp cha tôi - ông Raymond Aubrac, cựu Ủy viên Cộng hoà ở Marseille, nghị sĩ Quốc hội Pháp. Cha tôi đã ngỏ ý mời Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm gia đình mình ở 190 – đường Soisy sous Montmorency, quận Seine et Oire2, cách thủ đô Paris 10 km.
Nhận lời mời của cha tôi, Bác Hồ đã chuyển về ở trong căn nhà và khu vườn của chúng tôi từ đầu tháng 8 đến giữa tháng 9/1946. Ngày 15/8 năm đó, mẹ tôi - bà Lucie Bernard - đã sinh tôi, đặt tên là Elizabeth. Bác Hồ đã đến nhà hộ sinh Port - Royal ở Paris thăm hai mẹ con, tặng quà và nhận làm cha đỡ đầu của tôi. Cha nuôi đặt tên thân mật cho tôi là Babette.
Cha tôi kể lại là cha mẹ tôi đã vô cùng vui sướng và hạnh phúc. Chị gái tôi là Catherine Vallade được Tổng thống Pháp Charles De Gaulle đỡ đầu, còn tôi được Bác Hồ, Chủ tịch nước Việt Nam đỡ đầu.
Những năm sau đó, giữa bộn bề công việc của một nhà lãnh đạo, Bác Hồ vẫn thường gửi thư và quà tới cha mẹ tôi. Tôi rất vui sướng mỗi khi được nhận quà của cha đỡ đầu vào dịp sinh nhật: có khi là quả cầu nhỏ hay một con trâu bằng ngà, có khi là một bức ảnh chân dung của Người hay một đồng tiền vàng có mang hình Người với những lời chúc rất tình cảm, thể hiện sự quan tâm sâu sắc.
Một món quà đặc biệt Người dành cho tôi khi trưởng thành chính là tấm lụa vàng để may áo cưới. Những món quà tặng của cha đỡ đầu luôn được tôi gìn giữ như những kỷ vật, và đối với tôi, đó là những “kỷ niệm đẹp đẽ nhất trong đời” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành cho người con gái nuôi là tôi.
Bác Hồ và gia đình Raymond Aubrac những ngày ở Soissy-sous-Monmorency (Pháp).
* Tôi từng đọc một bài báo trên The New York Times đăng ngày 11/4/2012 với nhan đề “Raymond Aubrac - vị lãnh tụ xuất sắc của cuộc kháng chiến Pháp mất ở tuổi 97”. Trong đó nhà báo Douglas Martin đánh giá cha mẹ chị là biểu tượng cao quý của chủ nghĩa anh hùng trong cuộc kháng chiến của nhân dân Pháp chống lại Đức quốc xã. Chị có thể kể thêm về các chiến công của cha mẹ chị trong đại chiến thế giới thứ hai?
- Cha tôi tên thật là Raymond Samuel, sinh ngày 31/7/1914 trong một gia đình người Do Thái tại Vesoul, Pháp. Cha tôi tốt nghiệp ngành kỹ thuật cầu đường và luật ở Pháp và nhận học bổng học tiếp một năm ở Trường ĐH Công nghệ Massachusettes và ĐH Havard (Mỹ).
Cha tôi gặp mẹ tôi khi tham gia nhóm chính trị cánh tả ở Paris. Khi đó mẹ tôi là giáo viên trung học. Cha mẹ tôi đã phải lòng nhau từ cái nhìn đầu tiên. Cả hai lấy bí danh Aubrac trong các hoạt động bí mật. Mẹ tôi tham gia kháng chiến vào tháng 10/1940, cha tôi gia nhập một tháng sau đó. Cha mẹ tôi sống ở Lyon. Cha tôi trở thành người đồng sáng lập phong trào Giải phóng miền Nam Pháp. Cha mẹ tôi tuy không phải là đảng viên cộng sản nhưng là những người tiến bộ, yêu nước và tích cực tham gia cuộc kháng chiến của nhân dân Pháp chống phát xít.
Cha tôi bị Phát xít Đức bắt và được lực lượng kháng chiến cứu thoát vào tháng 6/1943. Ngày 21/6/1943, ông lại bị bắt và kết án tử hình. Chính mẹ tôi đã trở thành anh hùng khi tổ chức một cuộc tập kích giải thoát cho cha tôi.
Bị lộ, cha mẹ tôi bay sang Lodon (Anh) cùng anh trai tôi là Jean Pierre. Cha tôi đã làm việc cho Chính phủ Pháp lưu vong của tướng Charles De Gaulle, khi đó đang ra lời kêu gọi người Pháp tiếp tục kháng chiến chống sự chiếm đóng của quân đội Đức quốc xã. Mẹ tôi đã sinh chị Catherine chỉ vài ngày sau khi đến nước Anh. Và chị Catherine đã được Tổng thống Charles De Gaulle đỡ đầu trong hoàn cảnh đó.
Năm ngoái, khi cha tôi mất vào tháng 4/2012, Tổng thống Nicolas Sarkozy có đánh giá: “Ông Aubrac và các cộng sự đã hoạt động phía sau hậu trường để cứu vãn danh dự của nước Pháp vào thời điểm tưởng như đã bị mất”.
Họa sĩ Nguyễn Thu Thuỷ và Elizabeth Helfer Aubrac - con gái nuôi của Bác Hồ
Tích cực ủng hộ Việt Nam
* Hai năm trước, truyền hình Việt Nam có chiếu bộ phim tài liệu mang tên Người bạn thầm lặng của Bác Hồ nói về tình bạn thân thiết giữa cha chị và Bác Hồ, về sự giúp đỡ quý báu của cha chị đối với nhân dân Việt Nam. Chị có thể điểm lại một cách tổng quát về những đóng góp của cha mình đối với Việt Nam?
- Tôi rất vui và tự hào mỗi khi ôn lại những kỷ niệm của cha tôi với Bác Hồ, những đóng góp của cha tôi cho Việt Nam.
Cha tôi được báo chí Việt Nam đánh giá là một người bạn Pháp thân thiết, luôn sát cánh cùng nhân dân Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ; có nhiều đóng góp tích cực vào sự nghiệp đổi mới của Việt Nam và việc vun đắp tình hữu nghị và hợp tác Việt-Pháp.
Cha tôi là người đã giúp đỡ ký kết Bản thỏa thuận thương mại đầu tiên giữa Việt Nam và Pháp (năm 1955); trao đổi thông điệp giữa Hà Nội và Washington để xác định chấm dứt vô điều kiện việc Mỹ ném bom xuống Việt Nam (1967); kêu gọi chấm dứt việc ném bom xuống các đê sông Hồng (1972); đại diện Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc thực hiện chương trình trợ giúp của Liên Hiệp Quốc cho Việt Nam thống nhất (1976); yêu cầu Mc Namara chấp thuận chuyển giao cho Việt Nam sơ đồ các bãi mìn ở vĩ tuyến 17 (1979) và thực hiện nhiều chương trình hợp tác kỹ thuật giúp Việt Nam của Liên Hiệp Quốc, FAO và Pháp từ 1976…
* Thưa chị Elizabeth, chị đã kể nhiều về tình bạn của cha mẹ chị với Bác Hồ. Vậy chị có thể nói thêm một chút về  hiện nay mình - người được Bác Hồ đặt cho cái tên thân mật Babette…
- Tôi luôn cảm thấy có sợi dây liên lạc gần gũi với nhân dân và đất nước của vị cha đỡ đầu đáng kính của tôi. Tôi đã cùng cha đẻ Raymond Aubrac đến Việt Nam vài lần. Tôi hiện là giảng viên trường trung cấp kỹ thuật. Chồng tôi là giáo viên trung học. Chúng tôi sống ở Paris và đã có 3 con: hai trai một gái. Chúng tôi rất vui và hạnh phúc khi có nhiều học sinh và sinh viên Việt Nam du học tại trường của chúng tôi. Tôi luôn tự hào vì được là con gái nuôi của vị lãnh tụ đáng kính của nhân dân Việt Nam và thế giới.
* Cảm ơn chị rất nhiều. Chúc chị và gia đình luôn hạnh phúc và tiếp tục phát huy các hoạt động gắn bó với Việt Nam!
Gia đình Raymond Aubrac được trao Huân chương Hồ Chí Minh
Ngày 25/9/2012, tại Hà Nội, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh cho ông Raymond Aubrac, chiến sĩ kháng chiến nổi tiếng của Pháp, người bạn thân thiết của Chủ tịch Hồ Chí Minh và là người gắn bó sâu sắc với Việt Nam.



Thay mặt gia đình, Elizabeth Aubrac, con gái của Raymond Aubrac, con gái nuôi của Bác Hồ đã nhận danh hiệu cao quý này. Ông Raymond Aubrac mất ngày 10/ 4/ 2012, thọ 97 tuổi.
Nguyễn Thu Thuỷ (thực hiện)
Thể thao & Văn hóa

Báo Văn Nghệ bạo gan trao giải thưởng cho tác phẩm vi phạm quy chế !?

Tác giả “Mảnh đất lắm người nhiều ma” khẳng định: Truyện ngắn trên của Chu Thị Minh Huệ không vi phạm thể lệ cuộc thi của báo Văn Nghệ. Lý do: “Truyện ngắn đó chỉ in ở báo địa phương, được giải ở địa phương, thì có vấn đề gì đâu?”.
Tác giả Chu Thị Minh Huệ (thứ 2 từ phải sang). Ảnh: Đỗ Hiếu.
TRANH CÃI XUNG QUANH GIẢI THƯỞNG BÁO VĂN NGHỆ 2013 “HỒNG TRẦN” KHÔNG PHẠM LUẬT, NHƯNG…
TP - Dư âm của cuộc thi truyện ngắn báo Văn Nghệ (lễ trao giải diễn ra ngày 27/4/2013 tại Hà Nội) chưa nguội thì lình xình đã kéo đằng sau. “Hồng trần” - truyện ngắn của cây viết nữ Chu Thị Minh Huệ, đoạt giải ba, bị nghi ngờ vi phạm qui chế của cuộc thi. Người trong cuộc đã phủ nhận điều này nhưng không vì thế mà những băn khoăn được giải tỏa.
Đúng thể lệ và chẳng… “thuổng” của ai
Nhà văn Nguyễn Khắc Trường là người đã theo “Hồng trần” từ đầu chí cuối (từ khi tác phẩm tranh giải ở cuộc thi địa phương, sau đó, tranh giải cấp quốc gia, cuộc thi báo Văn Nghệ. Ở cả hai cấp, Nguyễn Khắc Trường đều giữ vai trò “cầm cân nảy mực”).
Chúng tôi đã trao đổi ngắn với nhà văn. Anh cho biết, về mặt văn chương của “Hồng trần”, anh hoàn toàn đồng ý với lời bình của nhà văn Trung Trung Đỉnh cho truyện ngắn này. (Chúng tôi cũng chuyện phiếm cùng Trung Trung Đỉnh, anh đánh giá đây là một trong những tác phẩm viết về vùng cao thuộc dạng hay).
Tác giả “Mảnh đất lắm người nhiều ma” khẳng định: Truyện ngắn trên của Chu Thị Minh Huệ không vi phạm thể lệ cuộc thi của báo Văn Nghệ. Lý do: “Truyện ngắn đó chỉ in ở báo địa phương, được giải ở địa phương, thì có vấn đề gì đâu?”.
“Hồng trần” khá gian nan đúng như cái tên của nó. Trước đây, khi truyện mới được trao giải của tỉnh Hà Giang, đã nổi lên một luồng dư luận nói nó giống tinh thần của một tiểu thuyết Trung Quốc, thậm chí cách đặt đại từ nhân xưng với một số nhân vật cũng giống.
Xung quanh một số dư luận kiểu này, nhà văn Nguyễn Khắc Trường cũng khẳng định: “Chẳng qua là cách xưng hô có vẻ “Tàu”. Chúng tôi đã xem xét kỹ lưỡng rồi. Đọc cả các truyện khác của cô ấy nữa. Cô ấy không “ăn cắp” của ai cả, không lấy của ai cả, tự viết thôi. Cốt truyện là của cô ấy”.
Đưa ra cảm nhận, rằng, đọc “Hồng trần” lại nhớ “Vợ chồng A Phủ”, Nguyễn Khắc Trường công nhận, tuy nhiên ông vẫn bảo vệ quan điểm của mình: “Đọc xong khiến người ta nhớ đến “Vợ chồng A Phủ”, nhưng cô Huệ không thuổng của ai đâu”.
Ông trấn an: “Yên tâm không “đạo” và thể lệ hợp lí”. Đặt câu hỏi cuối cùng với Nguyễn Khắc Trường: “Nếu anh được toàn quyền quyết định, anh sẽ nâng “Hồng trần” lên giải cao hơn chứ?”. Vị giám khảo đáp: “Không, không. Chỉ giải ba thôi. Vì tôi cũng nằm trong hội đồng xét giải của Báo Văn Nghệ. Tôi thấy tác phẩm này không thể bằng tác phẩm đoạt giải nhất, giải nhì của cuộc thi được. “Hồng trần” chỉ xứng đáng nhất khi thi ở Hà Giang. Hôm xét giải ở báo, chính tôi là người đầu tiên nói về trường hợp Chu Thị Minh Huệ. Dù nhất ở Hà Giang nhưng ở đây chỉ đáng giải ba, mọi người nhất trí ngay. Khi bỏ phiếu, thì kết quả cũng là như thế”.
Nghĩ thế nào… là việc của mọi người
Chu Thị Minh Huệ, sinh năm 1981, đang sống tại thành phố Hà Giang. Tác giả kể, sáng tác “Hồng trần” chỉ trong vòng “hai đêm gì đấy thôi”. Hỏi cô ấp ủ tác phẩm lâu không, cô đáp: “Ấp ủ thì không nói được. Chả biết từ bao giờ”. Cũng lại hỏi cô về bóng dáng vợ chồng A Phủ trong “Hồng trần”, cô cười: “Vùng đất của Vợ chồng A Phủ cũng giống vùng đất của bọn tôi, vùng đất của dân tộc Mông”. Cô tiết lộ chi tiết thú vị, bà của cô (không rõ bà nội hay bà ngoại - PV) là người Mông, bà kể cho cô nhiều câu chuyện về dân tộc mình.
Trước dư luận cho rằng “Hồng trần” có màu sắc Trung Quốc, Chu Thị Minh Huệ trả lời: “Thực ra lúc viết tôi chẳng nghĩ đến điều đó. Còn mọi người nghĩ thế nào là quyền của mọi người. Chức tước (“quân trưởng”) chẳng qua là từ phúng dụ, tôi lựa chọn dùng để tránh “động chạm” mà thôi”. Về thông điệp của truyện ngắn, cây viết người Hà Giang không định truyền tải điều gì mới mẻ, chỉ nhắc lại câu của người xưa: “Hồng nhan đa truân”: “Truyện ngắn của tôi có sự chuyển đổi của không gian. Không gian đầu tiên là toà biệt thự đẹp, đấy là không gian hiện đại, rồi tôi đẩy lùi lại một chút, để tạo dựng không khí. Từ bối cảnh cổ điển đến bối cảnh hiện đại, nhằm truyền thông điệp, thời nào cũng vậy, hồng nhan bạc phận (bây giờ gọi là chân dài qua tay đại gia). Ai bảo càng hiện đại thì con người càng sướng? Đó là sợi dây xuyên suốt”.
Cô giải đáp về “nghi án” vi phạm qui chế cuộc thi Báo Văn Nghệ: “Thể lệ cuộc thi không khắt khe điều đó mà. Từ vòng sơ khảo đến chung khảo, người ta đều gọi điện cho tôi để xác minh tác phẩm. Tác phẩm của tôi dự cuộc thi truyện ngắn, bút kí Hà Giang (do Hội VH-NT tỉnh tổ chức, năm 2010-2011 - PV), được giải nhất và được đăng đầu tiên ở tờ Văn nghệ Hà Giang (Chu Thị Minh Huệ cũng làm việc ở tạp chí này - PV), tức là chỉ trong phạm vi tỉnh, không phạm luật. Nhà văn Nguyễn Khắc Trường bảo tôi gửi truyện ngắn dự thi ở báo Văn Nghệ, chứ tôi chẳng biết cuộc thi này. Nhà văn còn bảo: Không nghĩ ở địa phương lại có người viết hay thế, sao cô còn ẩn ở đây làm gì? Nhà văn Nguyễn Khắc Trường cũng nằm trong ban chung khảo quốc gia nên chú ấy có thể làm bằng chứng”.
Chu Thị Minh Huệ vui vẻ “bật mí”: Sẽ không xuống Thủ đô, sau khi đã đoạt giải ba ở cuộc thi truyện ngắn danh giá. “Em chẳng đánh đu, đánh đáo với các bác ở dưới, em cứ ở với đồng bào cho… lành”.
Trả lời phỏng vấn của chúng tôi qua điện thoại, ông Nguyễn Trí Huân, Tổng biên tập báo Văn Nghệ, lên tiếng: “Về chuyện “Hồng trần” chúng tôi đã bàn, đã xét kỹ, không vi phạm chúng tôi mới quyết định trao giải”. Đánh giá về tác phẩm của Chu Thị Minh Huệ, theo ông, giải ba là chính xác: “Tôi thấy nhiều nhà văn khen truyện ngắn này. Thậm chí trong hội đồng chấm giải có anh đề nghị cho giải hai cơ song cuối cùng giải ba là hợp lí. Vì cũng không thật xuất sắc so với truyện khác”.
Nhiều tranh cãi về thể lệ cuộc thi
Thể lệ cuộc thi truyện ngắn 2011-2013 của Tuần báo Văn Nghệ (nguồn từ trang web của Hội Nhà văn Việt Nam: vanvn.net/news/1/1627-thong-bao--cuoc-thi-truyen-ngan-2011-2013-cua-tuan-bao-van-nghe---hoi-nha-van-vn.html) quy định:
“Tác phẩm hợp lệ trước tiên phải là truyện ngắn với số lượng không quá 5.000 từ. Truyện chưa in trong sách hoặc trên các báo và tạp chí Trung ương (pv nhấn mạnh). Bản thảo vi tính trên một mặt giấy, sạch và rõ. Trong thời gian cuộc thi, tác phẩm dự thi không được gửi in sách, báo hay tạp chí nào khác".
Căn cứ theo thể lệ này thì không có dòng nào nêu về vấn đề các tác phẩm đã đoạt giải tại các cuộc thi khác có được dự thi hay không. Đây chính là điều giúp Ban tổ chức cuộc thi vững tin vào cái lý của mình. Nhưng nhiều ý kiến của người viết trong giới lại cho quy định như vậy là chưa đầy đủ, còn bất cập.
Có người thẳng thừng: Một cuộc thi của Trung ương không nên trao giải cho một tác phẩm đã được trao giải tại một cuộc thi văn chương địa phương, hoặc của ngành, và nói chung là ở mọi cấp khác. Đây là quy định bất thành văn rồi! Người phân tích rõ hơn: Có thể thấy, khi quy định một tác phẩm “chưa in trong sách hoặc trên các báo và tạp chí Trung ương” mới được dự thi, Ban Tổ chức mong muốn tìm thấy tác phẩm mới, nhân tố mới - hiểu theo nghĩa đen là “không cũ”.
Nhưng một tác phẩm đã đoạt giải Nhất của cuộc thi văn chương 2 năm một lần của một tỉnh, thì nghĩa là đã công bố khá rộng, đã lên mạng, rõ ràng là “cũ”!
Một tác giả đã có thâm niên sáng tác, đã có một số giải thưởng (đề nghị không nêu tên) nêu ý kiến: nếu có thể chấm giải cho một tác phẩm như vậy, thì từ nay, các cuộc thi “ở Trung ương” sẽ tràn ngập các tác phẩm đã đoạt giải từ địa phương, Ban Giám khảo sẽ hành xử thế nào? Nhất là trong trường hợp một số giám khảo tại cuộc thi ở Trung ương thực ra cũng là người làm giám khảo cuộc thi tại địa phương.
Bình luận về yếu tố mới mẻ trong sáng tạo, sự phát triển trong lực lượng sáng tác, Chủ tịch Hội NV TP Hà Nội, nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên nói: Trừ một số giải thưởng có tính đặc thù như Giải thành tựu trọn đời, Giải tôn vinh tác giả ở tầm khu vực, quốc tế… các cuộc thi mang tính chất phát hiện nhân tài và tác phẩm nổi bật hàng năm cần phải xét tác phẩm hoàn toàn mới.
Có lẽ đây cũng là một ý kiến cần lưu tâm. Cũng nên lưu tâm thêm, giải thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội nhiều năm nay được đánh giá là một giải thưởng có uy tín trong cả nước.
Lê Anh Hoài - Hồng Diệu
(Tiền phong)