Tổng số lượt xem trang

Chủ Nhật, 17 tháng 7, 2011

Thị trường địa ốc: 4 kịch bản, 3 lựa chọn


(VEF.VN) - Do đến nay đã có sự xuất hiện manh nha của yếu tố chính sách, kịch bản suy thoái lâu dài và kịch bản "vỡ nợ" thị trường BĐS là khó có thể xảy ra, nếu có xảy ra thì chỉ đối với kịch bản suy thoái và xác suất của kịch bản này cũng chỉ chiếm khoảng 20-30%.
Tạm loại trừ hai kịch bản đổ dốc
Đã bước vào nửa cuối của tháng 7/2011, tức đỉnh con sóng bất động sản (BĐS) ở Hà Nội đã trôi qua được đúng 4 tháng, ở Đà Nẵng hơn 2 tháng, còn toàn bộ thị trường BĐS khu vực phía Nam vẫn bất động.
Nếu nhìn trên bình diện tổng thể các kênh dẫn tiền thì trong 4 tháng qua, chỉ có mỗi vàng là kênh duy nhất có sóng, còn lại các kênh đầu tư khác như ngoại tệ, BĐS và chứng khoán đều lặng tăm. Riêng với thị trường chứng khoán, từ "lặng tăm" vẫn còn là quá an ủi, bởi đây lại là thị trường tệ nhất trong tất cả các phân khúc thị trường từ hơn một năm qua.
Kênh đầu tư tệ thứ hai, sau chứng khoán, dĩ nhiên là BĐS. Tại cuộc hội thảo về chính sách tài chính cho thị trường BĐS vào cuối tháng 6/2011 do Hiệp hội Bất động sản Việt Nam tổ chức, Tiến sĩ Trần Kim Chung - Trưởng ban nghiên cứu chính sách đầu tư (Viện nghiên cứu Kinh tế TƯ) đã phác thảo 3 kịch bản cho thị trường BĐS trong 6 tháng cuối năm 2011.
Những gì mà chúng ta đã chứng kiến trong quý I và nửa quý II năm nay rõ ràng là ứng với kịch bản đầu tiên của TS. Chung, tức "Chính sách không thay đổi, thị trường suy yếu". Theo đó, nếu không có gì thay đổi về chính sách, tình hình kinh tế trong nước và thế giới không có biến động, thị trường sẽ suy yếu dần và không có cơ hội phục hồi do thị trường BĐS không có nguồn vốn bổ sung trong khi lãi vay ngân hàng quá lớn nên không thể phục hồi được.
Gần đây, có chuyên gia của một hãng tư vấn BĐS dự đoán là cứ với không khí này thỉ phải đến 3 năm nữa thị trường BĐS mới lập đáy. Chuyên gia này không nói rõ là thị trường BĐS thuộc khu vực nào (Hà Nội hay TP.HCM, phía Bắc hay phía Nam), nhưng cứ căn cứ vào thực tế đã diễn ra thì thị trường BĐS Hà Nội hiện đang có nhiều đặc điểm nhất để phù hợp với thời hạn 3 năm như thế.
Phản ứng với yếu tố chính sách, thị trường BĐS có thể biểu hiện hai xu hướng: hoặc phục hồi từ từ hoặc bật dậy nhanh chóng (ảnh laodong).
Trong khi đó, thị trường BĐS TP.HCM, vốn đã nằm im ba năm rưỡi nay, nếu kéo tiếp 3 năm nữa thì không còn gọi là suy thoái mà nên coi là khủng hoảng mới đúng.
Cho tới giữa tháng 5/2011, thị trường BĐS không còn được xem là "suy yếu", mà hàng loạt tiếng kêu la xen lẫn tâm trạng hoảng hốt của nhiều doanh nghiệp BĐS càng làm cho nhà đầu tư địa ốc tưởng đâu mình đang bị biến thành nhà đầu tư trên sàn chứng khoán. Tình hình khi đó bị xem là vô vọng và đe dọa đến tính tồn vong của ít nhất 30% số doanh nghiệp BĐS. Mặc dù chưa có con số thống kê tạm thời hay chính thức nào công bố về sự phá sản của một số doanh nghiệp BĐS nào đó, nhưng chắc chắn sự nguy kịch là có thật.
Cho tới nay, đã bắt đầu có một vài công bố sơ bộ về chuyện chưa có doanh nghiệp BĐS nào bị phá sản trong thời gian qua. Nhưng đó là chuyện của hiện nay, hay nói chính xác là từ cuối tháng 5/2011 đến nay, khi yếu tố chính sách bắt đầu manh nha xuất hiện trong nghị quyết tháng 5/2011 của Chính phủ giao cho các Bộ Xây dựng, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu đề xuất các biện pháp bình ổn hai thị trường BĐS và thị trường chứng khoán.
Nếu không có sự xuất hiện của yếu tố chính sách như một "cứu tinh" kịp thời, hầu như chắc chắn thị trường BĐS sẽ rơi vào kịch bản thứ hai của TS. Chung về "Lãi suất cao, doanh nghiệp phá sản, thị trường khó khăn". Theo đó, nếu chính sách không thay đổi (duy trì chính sách tiền tệ thắt chặt, tiếp tục cắt giảm đầu tư công, lạm phát tiếp tục giữ ở mức cao trên 15%, thậm chí xấp xỉ 20%), thị trường BĐS sẽ lâm vào tình trạng khó khăn toàn diện, các nhà đầu tư thứ cấp sẽ phải thanh lý các dự án đầu tư (dựa vào vốn vay từ ngân hàng). Thậm chí, tình trạng phá sản có thể xảy ra đối với những dự án những doanh nghiệp, những nhà đầu tư mất khả năng thanh toán.
Nếu kịch bản thứ hai xảy ra, không cần phải chờ đến cuối năm nay hay sang năm 2012, mà ngay lập tức các ngân hàng đã phải chạy đôn đáo siết nợ của các chủ doanh nghiệp BĐS. Hậu quả lập tức bùng nổ, ít nhất một nửa số "người giàu" sẽ chết đứng trên đống tài sản ngồn ngộn không tiêu thụ được của mình.
Thế mới biết là doanh nghiệp BĐS bề ngoài thì nhiều dự án và vô khối tài sản, nhưng thực chất lại là con nợ của "ông chủ" ngân  hàng. Bằng chứng là ngay vào thời kỳ khó khăn nhất năm 2008 và từ đầu năm 2011 đến nay, khi phần lớn doanh nghiệp BĐS và công ty chứng khoán đều lao đao, một số kề cận bờ vực phá sản, thì đa số các ngân hàng vẫn bình yên như không có chuyện gì xảy ra.
Nhưng sự tồn tại của hệ thống ngân hàng trong kịch bản thứ hai cũng chỉ là nhất thời. Hiệu ứng domino vốn đã bắt đầu từ quan hệ vay vốn, bảo lãnh mật thiết giữa ngân hàng và doanh nghiệp BĐS, cũng sẽ diễn ra trong dây chuyền vỡ nợ và phá sản. Nếu trường hợp này xảy ra cùng hàng loạt doanh nghiệp BĐS không làm cách nào để bán được hàng trả nợ, đến lượt nhiều ngân hàng cũng không thu nợ được, dẫn đến tình trạng doanh nghiệp BĐS chết trước, ngân hàng chết sau - một hiệu ứng của thảm cảnh chết chùm. Tất cả có lẽ sẽ trở thành tai họa dây chuyền diễn ra trong liên tục 2 năm 2012-2013.
Nhưng ơn trời, hình như kịch bản thứ ba của TS. Chung bắt đầu ứng nghiệm: "Chính sách thay đổi, thị trường có xung lực mới". Ngay hiện thời thì chưa biết xung lực ở đâu ra, khi lạm phát và lãi suất vẫn còn khá cao. Nhưng mối quan tâm của Chính phủ về tình thế nguy cấp của thị trường BĐS thì đã rõ ràng.
Vào giữa tháng 5/2011, khi cơn bạo bệnh của thị trường BĐS trở nên nguy kịch nhất thì một lượng tiền 70.000 tỷ đồng đã được Ngân hàng nhà nước rót cho một số ngân hàng cấp dưới thông qua kênh tái cấp vốn. Cũng từ đó đến nay, rõ ràng là mặt bằng lãi suất đã được kéo xuống, tuy chưa đủ lạc quan nhưng cũng đã chớm chút hy vọng cho doanh nghiệp và người tiêu dùng.
Lựa chọn kịch bản phục hồi nào?
Cần lưu ý, 3 kịch bản của TS. Trần Kim Chung mà bài viết này tham dẫn đều căn cứ vào biến số chủ yếu là chính sách của nhà nước về thị trường BĐS. Trong cách nhìn nhận của chúng tôi về thực tế tình hình hiện nay, yếu tố này chiếm đến 90% tầm quan trọng đối với sự phục hồi của thị trường.
Hiện thời, nguồn tiền trong dân không thể coi là thiếu. Từ cuối năm 2010 đến nay, giá vàng tăng phi mã nhưng chỉ giảm nhỏ giọt, cho thấy giá vàng trong nước không chỉ được nâng đỡ bởi đà tăng của giá vàng thế giới, mà còn được nguồn tiền dân cư bổ trợ. Cũng từ đầu năm 2010 đến nay, có khoảng 20.000 tỷ đồng được rút ra khỏi thị trường chứng khoán, có thể một phần lớn trong số đó thuộc về những tổ chức và nhóm đầu cơ lớn.
Về hàng hóa, trừ thị trường BĐS Hà Nội và Đà Nẵng vẫn còn trong tình trạng giá trên trời đối với các phân khúc đất nền và căn hộ trung - cao cấp, còn tại thị trường BĐS TP.HCM và các tỉnh lân cận như Đồng Nai, Bình Dương, Long An, sau cuộc khủng hoảng năm 2008, cho tới nay thời gian điều chỉnh giảm đã kéo dài ba năm rưỡi và mức giá chung đã lập đáy tạm thời.
Riêng với phân khúc căn hộ trung cấp có mức giá 12-13 triệu đồng/m2 thì có thể nói là đã gần như về sát giá thành và không thể giảm hơn nữa, đặc biệt trong bối cảnh lạm phát, giá vàng và giá vật liệu xây dựng đã tăng vọt.
Tất nhiên, dù đã giảm về đáy tạm thời, nhưng nếu nền kinh tế trong nước và cả thế giới rơi vào kịch bản xấu, đáy tạm thời của thị trường BĐS khu vực phía Nam sẽ tiếp tục bị phá vỡ và giá BĐS tiếp tục suy giảm trên con đường tìm đáy mới. Kịch bản đó ứng với một thời gian suy thoái lâu dài 2-3 năm, thậm chí lâu hơn nữa. Nhưng với các điều kiện về nguồn tiền và giá nhà đất như hiện nay, yếu tố chính sách lại trở nên cần thiết đến mức đó có thể là kích thích tố vực dậy toàn bộ thị trường BĐS.
Do đến nay đã có sự xuất hiện manh nha của yếu tố chính sách, chúng tôi cho rằng kịch bản suy thoái lâu dài và kịch bản "vỡ nợ" thị trường BĐS là khó xảy ra, nếu có xảy ra thì chỉ đối với kịch bản suy thoái và xác suất của kịch bản này cũng chỉ chiếm khoảng 20-30%.
70-80% xác suất còn lại sẽ thuộc về kịch bản lạc quan nhất: thị trường BĐS phục hồi. Yếu tố chính sách hiện ra càng rõ, khả năng phục hồi càng lớn.
Hiện nay, những bộ ngành liên quan đang bàn đến một số vấn đề then chốt của thị trường như các hình thức quỹ BĐS, lãi suất, nguồn vốn cho BĐS... Tuy nhiên, đó mới chỉ là phép thử đối với thị trường, bởi thị trường BĐS như một bệnh nhân trên giường bệnh lâu ngày, nay muốn vận động đi lại tất có nhiều khó khăn. Vì thế, phản ứng với yếu tố chính sách, thị trường có thể biểu hiện hai xu hướng: hoặc phục hồi từ từ với tỷ lệ tăng trưởng khiêm tốn, hoặc bật dậy nhanh chóng.
Chắc chắn nhiều chuyên gia phân tích, doanh nghiệp BĐS và cả người dân đều nghiêng về khả năng thị trường BĐS, nếu có phục hồi, sẽ diễn ra từ tốn và có thể phải sang năm 2012 thị trường mới tạo được những đợt tăng trưởng khá mạnh. Tuy nhiên nếu nhìn lại lịch sử thị trường BĐS và so sánh với lịch sử của thị trường chứng khoán thì chúng ta thấy hai thị trường này đều luôn có thể bật mạnh nếu xuất hiện yếu tố đột biến.
Do vậy, ngoài 3 kịch bản mà TS. Trần Kim Chung nêu ra, có lẽ chúng ta cần suy nghĩ đến một kịch bản thứ tư là khả năng phục hồi từ từ dẫn đến phục hồi mạnh của thị trường, không phải sang năm 2012 mới diễn ra mà có thể diễn ra ngay trong cuối năm 2011 này. Tất nhiên, kịch bản này chỉ xảy ra khi xuất hiện yếu tố đột biến tác động vào thị trường.
Vậy yếu tố đột biến đó là cái gì và có thể xuất hiện vào thời điểm nào?

Tan vỡ chuỗi cung ứng: Tử huyệt của nền kinh tế


Tranh luận Online

(VEF.VN) - Cho đến nay, ở Việt Nam, cách tiếp cận theo chuỗi cung ứng vẫn chưa được áp dụng một cách có hệ thống trong quản lý kinh tế của nhà nước cũng như trong hoạch định chiến lược kinh doanh của tư nhân.
LTS: Sau loạt bài viết liên quan đến việc thương nhân Trung Quốc ồ ạt sang mua hàng nông sản Việt Nam, Diễn đàn Kinh tế Việt Nam, báo VietNamNet xin giới thiệu bài viết của tác giả Đinh Thế Phong (dtphong@most.gov.vn), công tác tại Bộ Khoa học - Công nghệ, với cách tiếp cận rộng hơn, có chiều sâu về chuỗi cung ứng ở Việt Nam - lâu nay vẫn là điểm yếu của nền kinh tế.
Trân trọng giới thiệu với độc giả bài viết này. Mọi ý kiến tranh luận xin gửi về vef@vietnamnet.vn hoặc phần thảo luận phía dưới. Độc giả cũng có thể liên hệ trực tiếp với tác giả qua email trên. Xin cảm ơn.
Cách tiếp cận chuỗi cung ứng một mặt giúp làm ăn hiệu quả hơn; mặt khác, giúp các doanh nghiệp nhỏ, nhà nước yếu tìm ra chỗ đứng tối ưu cho mình để tồn tại trong thị trường khu vực và toàn cầu. Cho đến nay, ở Việt Nam, cách tiếp cận theo chuỗi cung ứng vẫn chưa được áp dụng một cách có hệ thống trong quản lý kinh tế của nhà nước cũng như trong hoạch định chiến lược kinh doanh của tư nhân.
Điều này đã, đang và sẽ gây những phá sản lớn về kinh tế, kinh doanh, đặc biệt trong thị trường mở và toàn cầu hóa.
Bài này quan tâm đến sự tan vỡ hiện nay của chuỗi cung ứng trong công nghiệp sản xuất - chế biến Việt Nam - trái tim của công nghiệp hóa.
Trước đây, các ngành sản xuất - chế biến Việt Nam bị chặn ở đầu ra do không bán, xuất khẩu được sản phẩm, chủ yếu do giá thành quá cao so với thị trường, ví dụ trong công nghiệp ôtô, điện tử,..v..v.. Gần đây, các ngành sản xuất - chế biến Việt Nam lại bị chặn thêm ở đầu vào vì mua không được nguyên liệu trong nước, ví dụ chế biến thủy sản, rau hoa quả, hạt tiêu,..v..v.
Việc khâu sản xuất Việt bị "cắt đứt" khỏi nguồn nguyên liệu Việt chứng tỏ mối liên kết giữa các bên tham gia là yếu.
Hiện tượng và phân tích
Không mua được nguyên vật liệu cho sản xuất có nghĩa khâu sản xuất không có mới liên kết với khâu nguyên vật liệu, tức là đã bị cắt đứt khỏi chuỗi cung ứng. Có thể kể ra vài nguyên nhân tiêu biểu cho tình trạng này. Trong chuỗi cung ứng của các thị trường lành mạnh, có một (hay một số) công ty mạnh, chiếm ưu thế trong chuỗi cung ứng. Đây có thể là công ty sản xuất hay thương mại. Các công ty này thường đưa ra cơ chế, quy định, "luật chơi" cho cơ chế liên kết, thông tin, hoạt động trong chuỗi cung ứng đó, ví dụ các hệ tiêu chuẩn kỹ thuật, các chuẩn về kế toán, đánh giá, giao nhận (ví dụ các công ty phần mềm Mỹ hay dùng hệ chuẩn CMM - Capability Maturity Model). Việc thống nhất cơ chế hoạt động giúp chuỗi cung ứng trở nên hiệu quả hơn.
Việc khâu sản xuất Việt bị "cắt đứt" khỏi nguồn nguyên liệu Việt chứng tỏ mối liên kết giữa các bên tham gia là yếu. Công ty Trung Quốc thu mua được nguyên liệu của nhà nông Việt chứng tỏ nhà nông Việt đã có liên kết chặt chẽ hơn với khâu sản xuất trong chuỗi cung ứng Trung Quốc. Các nguyên liệu Việt được chế biến, gia công ở công ty Trung Quốc và có thể xuất khẩu mang nhãn Trung Quốc. Nói cách khác: nhà nông Việt đã dần thành nhà cung cấp (supplier) trong chuỗi cung ứng Trung Quốc.
Toàn cầu hóa và sự thống trị của các chuỗi cung ứng mạnh sẽ phá vỡ, xé lẻ các chuỗi cung ứng yếu. Đây là điều tất yếu. Ở đây, các chuỗi cung ứng mạnh của Trung Quốc đang dần cắt đứt nguồn nguyên liệu khỏi khâu sản xuất của các chuỗi cung ứng Việt. Họ thu hút vào chuỗi cung ứng của mình các công đoạn rẻ nhất, hay mang tính cạnh tranh nhất. Họ thu mua nguyên liệu nhiều hơn thuê khoán ta gia công chứng tỏ giá nguyên liệu của ta "rẻ" hơn giá ta gia công sản xuất.
Trong chiến lược quốc gia hay doanh nghiệp, ta vẫn "chê" khâu gia công, làm thuê khoán ngoài, mà muốn sản xuất toàn sản phẩm như trong công nghiệp ôtô, đóng tàu, săt thép, điện tử, chip, công nghệ cao,..v..v. Nhìn khách quan, thực tế với chút hiểu về kỹ thuật - kinh doanh sẽ thấy: nếu vẫn viển vông, không hoạch định một cách nghiêm túc thì không bao lâu nữa, ngành sản xuất của ta có muốn cũng sẽ không được các chuỗi cung ứng mạnh thuê làm gia công nữa. Hay nói khác, lúc đó, vì sinh kế, ta sẽ phải nhận làm các việc gia công rẻ mạt hơn, với giá trị gia tăng thấp hơn các việc ta có thể làm ngày nay nếu hoạch định tốt.
Có thể có nhiều nguyên nhân cho việc không mua được nguyên liệu.
Một là, cơ chế thị trường chưa phát huy tác dụng nên doanh nghiệp chưa thấy lợi. Cơ chế thị trường yếu, lắm thủ tục nhũng nhiều, gây khó cũng làm cho doanh nghiệp muốn mua cũng khó mua được. Đây có thể là nguyên nhân cho (tưởng như) nghịch lý: ta bán than tiểu ngạch với thuế xuất thấp và nhập khẩu than chính ngạch đắt và thuế nhập cao hơn nhiều hay bán sắn tiểu ngạch nhưng lại nhập đến 70% thức ăn gia súc.
Hai là, nguyên nhân này mới là hệ trọng cho công nghiệp Việt, giá thành cho gia công, sản xuất của chuỗi cung ứng Việt đã cao hơn của các chuỗi cung ứng bên ngoài. Nói cách khác, năng suất lao động trong lĩnh vực sản xuất hay của nền công nghiệp Việt thấp hơn nhiều so với chuỗi cung ứng bên ngoài. Nguyên nhân quan trọng nhất (và đáng sợ nhất) cho năng suất lao động thấp là công nghệ lạc hậu so với công nghệ của chuỗi cung ứng bên ngoài.
Vì sao lại đáng sợ hay là tử huyệt của nền công nghiệp? Vì đầu tư nâng cấp cho công nghệ, cho tạo dựng cơ sở hạ tầng công nghiệp là rất tốn kém và cần phải được hoạch định, thực hiện một cách tập trung, kiên định, nhất quán trong 3-4 thập kỷ, chứ không thể làm trong 5-10 năm hay chỉ có tiền, giàu tài nguyên là được. Đó là trong bối cảnh của nửa cuối thế kỷ 20 khi các thị trường quốc gia còn chưa mở, các quốc gia còn hầu như làm chủ thị trường nội địa và có thể có các chính sách công nghiệp (industrial policy) khôn khéo loại bỏ cạnh tranh nước ngoài, bảo hộ công nghiệp của mình.
Nhưng nay, nền kinh tế đã mở, bảo hộ nội địa không thực hiện được nữa, nhà nước có hỗ trợ nền công nghiệp ôtô nước nhà thì cũng "nuôi béo" trước hết mấy hãng ôtô nước ngoài. Đấy là chưa nói về sự khó khăn, hạn hẹp để nhận biết, chen chân vào được các ngách cơ hội rất hẹp (hay cơ hội cửa sổ, window opportunities, ví dụ thời gian chuyển thế hệ công nghệ, phát sinh các ngành hay công nghệ mới, khả năng bỏ qua giai đoạn, tận dụng cơ hội địa - chính trị... ). Đây là điểm mấu chốt cho thấy nền công nghiệp không thể thể đứng vững trong thị trường mở nếu không dựa vào khoa học - công nghệ.
Thương nhân Trung Quốc sang Việt Nam mua hàng thủy sản (ảnh SGTT)
Người ta có nói đến vì sao các doanh nghiệp Việt không đặt giá cao hơn để mua được nguyên liệu của nhà nông Việt. Đây là điều không thể làm được vì các doanh nghiệp Trung Quốc chắc chắn sẽ chấp nhận mua giá cao hơn ta. Vì sao họ làm được như vậy? Vì trong khâu sản xuất, với công nghệ tốt hơn, năng suất lao động cao hơn, họ làm ra giá trị gia tăng cao hơn ta trong cùng một đơn vị sản phẩm.
Do đó, họ có thể dùng phần lợi nhuận lớn hơn đó để tăng giá mua nguyên vật liệu. Giả dụ trong thị trường giả định với nguồn cung nguyên liệu vô hạn, đây là đủ để họ thắng. Nhưng đây lại một thị trường có giới hạn, họ mua thì ta không có nguyên liệu, vì vậy, sau vài mùa thì rất nhiều khả năng loại bỏ luôn được nền sản xuất Việt cạnh tranh với họ.
Các cơ quan quản lý cũng nói đến việc dùng các biện pháp để làm sao doanh nghiệp Việt mua được nguyên liệu như về hành chính - quản lý, vận động, tác động tư tưởng, phi thị trường, như cử người nắm xem Trung Quốc thu mua gì, bao nhiêu, ở đâu, giá thế nào..v..v. Những biện pháp này không có tác dụng trong nền kinh tế thị trường.
Con đường phía trước
Có thể chia ra các việc nên làm ngay, việc trung hạn và việc dài hạn hơn.
Để ngăn ngừa sụp đổ (Crash), việc cần làm ngay là chuyển hoạt động của nền kinh tế sang "chế độ an toàn" (Safe Mode). Điều này tương tự như máy tính đã được mặc định để khi bị lỗi quá nặng, nó sẽ tự chuyển sang chế độ an toàn để duy trì hoạt động tối thiểu và tránh bị tắt"phụt" hay phải đóng hoàn toàn.
Chế độ an toàn cho nền kinh tế Việt bây giờ là: chuyển từ nền kinh tế hướng tới tăng trưởng sang nền kinh tế đủ dùng, tự tại (tự cung cấp đủ). Tức là chuyển từ định hướng tăng trưởng nhưng đi kèm với nguy cơ đổ vỡ cao sang sự duy trì bền vững và với tính khả thi cao. Đây là điều chắc chắn ta đạt được, nếu muốn.
Theo đó, tư nhân và đặc biệt là nhà nước, không đầu tư lớn cho tăng trưởng (cho làm giàu) mà cho an sinh, bảo đảm đời sống cho dân. Tránh những tư duy "ngành kinh tế mũi nhọn", sản phẩm chủ lực,"rượt đuổi, bắt kịp","đi tắt, đón đầu", vv. Chạy theo tăng trưởng ngày nay cũng tựa như tàu đi trên biển khơi đang đắm mà người trên tàu thì lại lo quăng lưới, đánh cá.
Việc trung hạn là: đánh giá, định vị, nhìn nhận cơ hội và hoạch định một cách khách quan và chuyên nghiệp để làm gia công, thuê khoán ngoài một cách có định hướng. Định hướng ở đây là: đi vào các ngành ta có thế mạnh (có thể về kỹ năng bẩm sinh, kỹ năng rèn luyện, điều kiện đặc thù về vị trí, địa lý, thổ nhưỡng, nguyên liệu,..v..v.. ) hay các lĩnh vực để sau này tạo ra các chùm, cụm (Clusters) về công nghệ hay khu vực địa lý có tính năng tương tác với nhau. Định hướng cũng là việc dự kiến về phát triển một số chuỗi cung ứng hay công đoạn nhất định của chuỗi cung ứng phù hợp với điều kiện của ta.
Ngoài ra, nhà nước làm đúng chức năng, vai trò của mình trong nền kinh tế thị trường. Đúng chức năng gồm lãnh nhận các trách nhiệm từ trước làm chưa tốt như quản lý kinh tế vĩ mô, duy trì sự ổn định vĩ mô, hoạch định phát triển hạ tầng vật chất và khoa học - công nghệ, định hướng cho ghép nhập các doanh nghiệp Việt vào các chuỗi cung ứng khu vực và thế giới...
Đúng chức năng cũng là: không làm các việc không phải của mình, mình làm không hiệu quả, tác động xấu tới thị trường, làm "méo" các giá trị (distort) như không can thiệp hành chính, mệnh lệnh và phi thị trường vào nền kinh tế, không điều hành sản xuất - kinh doanh (không "làm" kinh tế),.. v..v.
Cái nhìn xa hơn là: chọn mô hình phát triển (với các cơ hội cửa sổ mở đóng rất nhanh về thời gian, hẹp về không gian). Đó là chân nhận, đoạn tuyệt với những quan niệm kinh tế giáo điều, không còn phù hợp bối cảnh hiện tại. Đó cũng là tiếp cận nền kinh tế dựa trên tri thức, nền kinh tế sáng tạo - đổi mới, nền kinh tế dịch vụ.