Tổng số lượt xem trang

Thứ Hai, 6 tháng 1, 2014

BÌNH ẢNH - NHỮNG ĐIỀU CẦN PHÊ PHÁN Ở HAI QUYỂN SÁCH VỀ PHONG THỦY VIỆT NAM

BÌNH ẢNH


Cũng là đi xuống dân để chia sẻ thiệt hại thiên tai, nhưng hai bức ảnh ra được hai cách khác nhau hoàn toàn. Cái hay là cả hai bức ảnh đều chụp đối tượng đến với dân trong mưa trút. Nhưng Tổng thống Obama thì không cần che ô, toàn thân ướt sũng, bắt tay chia sẻ với người dân của mình. Bức ảnh kia, là quan Trung Quốc, được che ô, cúi nhìn người dân đang quỳ mọp.
Hai bức ảnh cho ta nhiều ý nghĩ lớn.
Thế mới hay, làm chính khách cần văn hóa của chính khách.
Một cử chỉ thôi, lột tả rất nhanh bản chất của chính khách.
Đứng ngang dân và đứng trên dân.
Rứa đó.

NHỮNG ĐIỀU CẦN PHÊ PHÁN Ở HAI QUYỂN SÁCH VỀ PHONG THỦY VIỆT NAM

                                               HOÀNG TUẤN PHỔ
Thành nhà Hồ, cổng phía Nam gắn với câu chuyện 
đường đá Hoa Nhai
Thị trường sách nước ta những năm gần đây bày bán ê hề những ấn phẩm một thời bị xếp vào loại duy tâm, thần bí, mê tín, dị đoan: tử vi, tướng số, bói toán, xem ngày tốt xấu, phong thủy...Cũng có một ít “hàng thật”, đa số “hàng rởm”. Ví dụ sách Tìm hiểu phong thổ học qua quan niệm triết Đông của Mộng Bình Sơn (2) hay sách Nghiên cứu phong thủy và phong thủy Việt Nam dưới góc độ khoa học của Ngô Nguyên Phi (1)...

Sách Tìm hiểu phong thổ học qua quan niệm triết Đông (280 trang, khổ 13x29) thuộc dạng biên khảo, không đề cập vấn đề phong tục và thổ ngơi của một địa phương mà lại xoay quanh chuyện phong thủy của hai thầy địa lý nổi tiếng trong dân gian: Cao Biền (người Tàu) và Tả Ao (người Việt).
Mộng Bình Sơn viết: “Cao Biền là một nhân vật rất giỏi về khoa địa lý”, “đây không phải là truyền thuyết mà là một dữ kiện lịch sử có chi trong sử liệu” (2.tr27). Sự thật, Cao Biền sinh ra trong gia đình nhiều đời làm tướng. Bản thân Cao Biền tinh thông võ nghệ, ham đọc sách. Biền xuất thân coi giữ cấm binh, có công được phong làm Phòng ngự sứ ở Trần Châu. Năm 864, quân Nam Chiếu đánh cướp Giao Châu (Việt Nam), Cao Biền đang giữ chức Kiêu vệ tướng quân được vua Đường Ý tông sai sang Giao Châu dẹp giặc. Hoàn toàn không phải vì ông ta giỏi phong thủy nên vua Đường Trung tông sai sang Việt Nam để tìm long huyệt lớn kết phát tốt thì yểm phá và lập bản tấu trình về Tàu cho vua Đường biết, như Mộng Bình Sơn viết. Cao Biền giết hàng vạn dân Nam Chiếu, thu lại Giao Châu, được vua Đường phong làm Tiết độ sứ Giao Châu. Năm 875, vua Đường gia phong Cao Biền chức Kiểm hiệu Thượng thư hữu bộc xạ, gọi về Trung Quốc, sai làm Tiết độ sứ nơi khác. Trong 13 năm ở Việt Nam, Cao Biền chuyên lo chính sự, đắp thành Đại La, mở mang giao thông, đường thủy, giữ cho dân quận một cõi được yên. Chính sử Trung Quốc cũng như Việt Nam không có dòng nào viết về tài phong thủy của Cao Biền và nhiệm vụ nghiên cứu phong thủy mà vua Đường giao cho. Mộng Bình Sơn đã lượm lặt những mẩu chuyện dân gian về Cao Biền rồi lại mập mờ nói là “dữ kiện lịch sử có ghi trong sử liệu” để đánh lừa người đọc không có đủ điều kiện khảo cứu sử sách. Mộng Bình Sơn không hiểu hay cố tình không hiểu việc dân gian nước ta hư cấu một Cao Biền có tài phong thủy với dụng ý tố cáo âm mưu thâm độc của phong kiến xâm lược phương Bắc, đề cao khí thiêng sông núi Việt Nam đã làm cho Cao Biền phải chịu thất bại thảm hại. Điều này có thể thấy rõ trong hai quyển sách cổ: Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái có chép mấy mẩu chuyện về Cao Biền nhưng chỉ chứng tỏ ông là một pháp sư phù thủy, không trừ thủ đoạn tàn bạo nào, để yểm trấn thần thiêng nước ta, kết quả, Biền bị thần núi Tản Viên nhổ nước bọt mà bỏ đi !
Mộng Bình Sơn trong Tìm hiểu phong thổ học qua quan niệm triết Đông, đặc biệt đề cao tập “Cao Biền tấu thư địa lý kiểu tự”, xem là công trình lớn của Cao Biền khảo cứu về phong thủy Việt Nam. Nhưng chúng ta có thể tin chắc cuốn sách nói trên của Cao Biền do người đời sau biên soạn, mượn danh Cao Biền để lòe bịp thiên hạ. Chứng cứ là những địa danh, tên những cuộc đất phong thủy trong cuốn sách, thời Cao Biền chưa hề có. Ví dụ: Thanh Oai, Chương Đức, Sơn Minh,...
-Vùng đất Thanh Oai (Hà Tây) đời Đường là Đỗ Động thuộc huyện Long Biên. Năm 966, sứ quân Đỗ Cảnh Thạc chiếm cứ đất này. Đời Lý, Thanh Oai là tên một hương thuộc châu Quốc Oai. Thời Lê Thánh tông, Thanh Oai là huyện thuộc phủ Ứng Hòa...
-Tên Chương Đức và đơn vị huyện mang tên Chương Đức từ đời Trần trở về trước chưa có. Đời Lê Thánh tông mới đặt huyện Chương Đức, lệ vào phủ Ứng Hòa, nay là huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây.
-Vùng đất Sơn Minh xưa là đất Đường Lâm, thuộc châu Phong cũ. Tên Sơn Minh xuất hiện đời Lý. Nhà Minh đổi làm Sơn Định. Đời Lê Thánh tông lấy lại tên Sơn Minh thuộc phủ Ứng Hòa, sau là huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây,...
Mộng Bình Sơn muốn chứng minh sách Tấu thư địa lý cảo tự chính thực của Cao Biền lại bịa ra chuyện Thượng thư Hoàng Phúc trong đội quân xâm lược nhà Minh, “rất giỏi về địa lý” mang theo quyển Cao Biền tấu thư địa lý kiểu tự sang Việt Nam để xét duyệt lại và tiếp tục hủy phá những cuộc đất có long huyệt lớn, nhằm mục đích “tận diệt phong thổ Việt Nam”, và không cho phát sinh ra những bậc vương tướng, những anh hùng yêu nước chống lại chính sách đô hộ của Trung Hoa (2.tr.54). Hẳn Mộng Bình Sơn cũng biết rằng Thượng thư Hoàng Phúc phải “trói mình nộp thân” (Bình Ngô đại cáo) cho nghĩa quân Lam Sơn, nếu không nhờ chính sách khoan dung của Lê Thái tổ, liệu có thoát khỏi tội chết bỏ xác nơi đất Việt ?
Về nhân vật Tả Ao, Mộng Bình Sơn viết: “Cuộc đời hoạt động của cụ Tả Ao về hai ngành y lý và địa lý cũng không thấy một tài liệu nào lưu lại, chỉ thấy những mẩu chuyện vui cười về cụ Tả Ao đi tầm long điểm huyệt trong dân gian do người đời sau sáng trước tác (!) không có giá trị khảo cứu (!)...” (2.tr.65). Thế mà, Mộng Bình Sơn, không rõ lại có tài liệu nào để căn cứ và đưa ra một bản “Thân thế và tiểu sử của cụ Tả Ao” và khẳng định “thân thế và tiểu sử của cụ Tả Ao lưu lại như vậy” !? (2.tr 56-62). Sự thật, cái gọi là “thân thế và tiểu sử về cụ Tả Ao” đó chỉ là một truyện kể dân gian trong “kho tàng truyện cổ tích”. Chính Mộng Bình Sơn cũng tự mình mâu thuẫn với mình: ở trang 57, ông khẳng định Thánh địa lý Tả Ao “sinh vào thời vua Lê chúa Trịnh” nhưng đến trang 257, nói về thành nhà Hồ, ông lại viết: “Thành này do cụ Tả Ao Nguyễn Đức Hiên tìm ra, dựa trên một cuộc đất phát vương, cuộc đất đó nằm trên phủ Quảng Xương” ! Thế nhưng Quảng Xương là huyện và cách xa thành nhà Hồ, huyện Vĩnh Lộc đến 60 km!)
Mộng Bình Sơn giới thiệu ba tập sách quý của cụ Tả Ao: Địa lý Tả Ao toàn thư, Địa đạo diễn ca, Dã đàm Tả Ao, cũng không có cơ sở nào để tin chắc do chính cụ Tả Ao Nguyễn Đức Hiên soạn. Ngay cả quyển Địa lý Tả Ao chân truyền (khắc in năm 1919) cũng không thể chắc là “chân truyền”. Nói riêng về Địa đạo diễn ca gồm 120 câu thơ Nôm, người viết trình độ rất kém và không có hơi hướng cổ văn. Cả “ba tập sách quý” ấy thực chất chỉ là loại sách “vỡ lòng” của những người mới theo học nghề phong thủy, do thầy địa lý hạng bét biên soạn. Theo tôi, Tả Ao chỉ là cái tên phiếm chỉ, mượn tên làng Tả Ao, xã Tả Ao (Hà Tĩnh) để chỉ về một ông tổ nghề địa lý của làng Tả Ao. Trước năm 1945, trong nhân dân ta, các cụ vẫn truyền tụng thầy địa lý Tả Ao giỏi phong thủy, cũng như thầy đồ Nghệ “hay chữ dữ đòn”. Thực tế thầy địa lý Tả Ao không có ai là thánh sư, thầy đồ xứ Nghệ cũng chẳng có ai làm đại sư hay thần tổ.
Mộng Bình Sơn soạn sách phong thủy nhưng kiến văn rất lơ mơ về khoa phong thủy. Ông viết: “...Sách địa lý rất hiếm, ngay ở trên đất Trung Hoa là nơi sáng tác ra nó cũng khó tìm” (2, tr.20). Rồi ông đổ tội cho vua chúa Trung Quốc, nào là đốt sách chôn sống học trò (Tần Thủy Hoàng) nào là hoàng tộc giữ độc quyền không cho phổ biến, đó là những tội do Mộng Bình Sơn tưởng tượng. Nên biết, Tần Thủy Hoàng không đốt loại sách bói toán và sách bói toán, tướng số phong thủy không hề hiếm ở Trung Quốc. Ở Trung Quốc, qua các triều đại, nhiều học giả công khai tranh luận về phong thủy và có lúc xã hội đầy rẫy yêu ngôn, loạn thư. Đến đây, chúng ta có thể kết luận: Mộng Bình Sơn và sách Tìm hiểu phong thổ học qua quan niệm triết Đông không hề có “triết Đông” hay “triết Tây” gì cả. Thậm chí, cả cái mục “Đất nước Việt Nam, vùng địa linh nhân kiệt”, Mộng Bình Sơn cũng chỉ tập hợp một ít tài liệu “hổ lốn”, văn không ra văn, sử không ra sử. Ví dụ Mộng Bình Sơn viết về Thanh Hóa: “Vị trí Thanh Hóa từ đời Lý Trần cho đến nay hình thể không thay đổi mấy” (2, tr.258). Thế là Mộng Bình Sơn không đọc sử, hay có đọc mà không nhớ? Ông đã không hiểu về núi Chí Linh, về Lam Sơn, nhưng cứ viết bừa rằng “Lam Sơn là nơi khởi nghĩa, nhưng ở đất này cũng như ở một Lũng Nhai không có bài phú, bài văn nào của những tác giả đương thời, riêng Chí Linh được hai bài phú, đủ biết Chí Linh quan trọng như thế nào” (2, tr.260) (Tôi không dám viện dẫn dài dòng những tài liệu thơ văn đương thời viết về Lam Sơn và Chí Linh sơn, xin bạn đọc giở lại Hoàng Việt thi văn tuyển sẽ rõ).
Ngô Nguyên Phi với bộ sách Nghiên cứu phong thủy và phong thủy Việt Nam dưới góc độ khoa học tỏ ra “uyên bác” hơn Mộng Bình Sơn. Tiếc rằng phần lớn sách, Ngô Nguyên Phi không làm việc “nghiên cứu phong thủy” mà chỉ tập hợp, in ra những tài liệu Dịch học, Thiên văn lịch pháp, Độn giáp, Âm dương ngũ hành, La bàn, Lý khí, là những nội dung từ lâu đã không còn xa lạ đối với bạn đọc Việt Nam.
Đáng chú ý nhất của bộ sách là vấn đề Phong thủy Việt Nam dưới góc độ khoa học, cụ thể ở tập II, Ngô Nguyên Phi bàn về “Phong thủy trên đất nước Việt Nam”. Hy vọng đây chính là chỗ người viết sách có ít nhiều đầu tư nghiên cứu và tư duy sáng tạo. Nhưng Ngô Nguyên Phi lại tỏ ra rất hời hợt, non kém, chẳng những ôm đồm, nhầm lẫn về tư liệu mà con đưa ra những suy diễn hết sức chủ quan, nông cạn, những ý kiến kỳ lạ đến kỳ quái !
Ví dụ: về thành nhà Hồ đã có nhiều bài viết và công trình nghiên cứu nhưng Ngô Nguyên Phi cứ nhắm mắt viết bừa:
-“Thành tọa lạc ở động Ân Tôn (?) xưa kia là các ấp Hoa Nhai, Tây Nhai, Phương Nhai, Đông Môn”. Xin hỏi: Ân Tôn hay An Tôn ? Xưa kia là thời điểm nào, trước hay sau khi xây thành ? Tây Nhai, Phương Nhai, Hoa Nhai là tên phố, sau khi xây thành mới mở phố xá để phục vụ quý tộc, quan lại, binh lính. Còn địa danh Đông Môn cũng phải đến lúc nhà Hồ sụp đổ mới xuất hiện ấp Đông Môn, rồi làng Đông Môn.
-Những địa danh soạn giả viết lầm (khó đổ lỗi cho nhà in) thì nhiều lắm, như mô tả thành Tây Đô, soạn giả viết: “ Phía hữu thành có quận Hoàng Sách, ven bờ sông Mã chạy đến núi Ân Tôn (?) ở hướng đông. Hai phí tả hữu đều dài vài vạn trượng” (1, tr.586-587). Đọc đi đọc lại vẫn không hiểu ý soạn giả muốn nói gì, tại sao động An Tôn hóa thành động Ân Tôn (chữ Ân Tôn nhắc lại nhiều lần). Hay huyện Vĩnh Lộc (và cả tỉnh Thanh Hóa) làm gì có quận Hoàng Sách ? Lại còn “tả hữu đều dài đến vài vạng trượng” là thế nào ? Tra tìm các sách địa chí, thấy Đại Nam nhất thống chí phần tỉnh Thanh Hóa (biên soạn đời Thành Thái-Duy Tân) chép câu ấy là: “Phía hữu từ tổng Quan Hoàng huyện Cẩm Thủy, theo sông Mã đi sang phía đông, thẳng đến núi An tôn, bao la mấy vạn trượng...”. Phải viết như thế mới đúng !
Nghiên cứu phong thủy thànhTây Đô (thành nhà Hồ), Ngô Nguyên Phi viết: “Kể về địa thế thì có sông Bái ôm phía đông, sông Mã ấp phía tây (?) lại có sông Lương hơi nhỏ chạy từ Ai Lao sang thọc thẳng về hướng thành”. Về núi, “phía ngoài một lớp là Lôi Dương, Đông Sơn, Nông Cống, Ngọc Sơn. Các dãy núi ấy vòng bọc bao quanh như triều phục” ! (1,tr.587)
Thế là “nhà nghiên cứu phong thủy” không cho sông Lương gặp sông Mã ở ngã ba Giàng, bắt phải “thọc thẳng về hướng thành” ! Ông cũng thay quyền tạo hóa, bắt tất cả các thế núi, hướng núi thiên hình vạn trạng ở tận Đông Sơn, Nông Cống, thậm chí ở xa như Ngọc Sơn-Tĩnh Gia giáp Nghệ An, cách Vĩnh Lộc tới cả trăm cây số đều phải quay đầu triều phục thành nhà Hồ ! Không thể tin nổi, Ngô Nguyên Phi còn liều mạng viết: “Đó là Tây Đô, sử gọi là thành nhà Hồ, dựa trên một cuộc đất phát vương, cuộc đất đó nằm trên phủ Quảng Xương” !?. Trong thực tế, Quảng Xương chưa bao giờ là đơn vị “phủ” và nếu “cuộc đất phát vương” “nằm trên phủ Quảng Xương” thì tại sao thành nhà Hồ lại “chạy về” huyện Vĩnh Lộc-nơi cách xa địa danh Quảng Xương tới 60 km ?
Ngô Nguyên Phi viết tiếp về “Cung sơn” và “Tiễn lộ”:
Khi thành xây xong, Trần Khát Chân là “người tinh thông địa lý” không muốn cho đế nghiệp họ Hồ lâu dài nên bày ra cách đắp một con đường ngay trước Cung Sơn chạy thẳng đến trước Tây Đô như một mũi tên gọi là đường Tiễn lộ. Ngô Nguyên Phi phân tích:
-“Đứng về mặt phong thủy học nhận xét thì tiệc làm “tiễn lộ” đó rất tệ hại”.
-“Trước nhất, mũi tên ấy thọc thẳng ngay điện vua. Mũi tên lại đã được giăng sẵn rồi, chỉ cần bay ra thôi. Ý nghĩa tượng trưng cho sự gấp gáp và nguy hiểm”.
-“Trong phong thủy học, một cuộc đất kết phải có tiền Án, hậu Chẩm (trước án, sau gối): có Án sơn trước mặt thì phía sau phải có Chẩm sơn mới đúng. Chẩm sơn đã có rồi thì cần gì phải tiễn lộ nữa?” (1, tr.585-586).
Trước hết, cần phải nhấn mạnh chuyện Trần Khát Chân đắp đường Hoa Nhai (tiễn lộ) chỉ là truyền thuyết dân gian. Thành nhà Hồ là một đồ án hoành chỉnh do Thái sử Đỗ Tỉnh, một kiến trúc sư có tài phục trách và trong chỉnh thể ấy không thể không có đường hố Hoa Nhai. Đường Hoa Nhai là một trục dài thẳng, đoạn thứ nhất từ điện Hoàng Nguyên (điện Kính Thiên không phải nơi vua ở) đến cửa Đoan Môn; đoạn thứ hai từ cửa Đoan Môn đến thẳng đàn Nam Giao ở núi Đốn Sơn (tên núi Cung Sơn do thầy địa lý đặt). Hai bên đường này vốn là phố xá và có nhiều đường ngõ hẹp cắt ngang. Vì vậy, nếu đường Hoa Nhai nếu là cái tên (Tiễn Lộ) thì nó đã bị chặt đứt từng khúc. Mũi tên ấy không thể bắn thẳng đến tận điện vua ở (điện vua Hồ ở phía sau điện Kính Thiên). Khoa phong thủy từ đời Hán-Đường đã thịnh hành phép yểm trừ “quỷ môn”, “tử huyệt”. Giả sử Đốn Sơn là hình cây cung, đường Hoa Nhai là mũi tên, thì Đỗ Tỉnh với chứ quan Thái sử lệnh (coi thiên văn địa lý), khi dùng đường Hoa Nhai làm đường phố, xây đàn Nam Giao ở Đốn Sơn (tình cờ hoặc hữu ý) đã dùng phép trấn trị (đàn Nam Giao thờ trời đất) khiến cung tên hoàn toàn mất tác dụng. Mặt khác, chúng ta cũng nên nhớ rằng nhà Thượng tướng Trần Khát Chân ở trên núi Đốn Sơn (tức Cung Sơn) đáng nhẽ phải vững như bàn thạch, thế mà nhà Hồ chưa đổ, ông đã bị chém rơi đầu tại chính Đốn Sơn !? Tóm lại, chuyện Cung Sơn-Tiễn Lộ là truyền thuyết do dân gian hư cấu, nói lên trí tưởng tượng phong phú của nhân dân ta xưa, nhằm ca ngợi Trần Khát Chân, chê bai Hồ Quý Ly. Câu chuyện mang màu sắc phong thủy, hoàn toàn không phải nhà Hồ đổ do tính quyết định về mặt phong thủy của Tây Đô. Chỉ có thầy địa lý hạng bét mới tin rằng đó là câu chuyện thật, từng xảy ra trong lịch sử, mới vận dụng nó để lòe bịp người dân thường.
Nhìn chung, Mộng Bình Sơn cũng như Ngô Nguyên Phi đều chung một ngòi bút cẩu thả, thiếu trách nhiệm. Hai soạn giả lại có một số trang giống nhau như in, khiến người đọc không khỏi thắc mắc, không rõ ai “cóp” của ai, hay là họ tuy hai mà một, tuy một mà hai ? (Đề nghị bạn đọc xem các trang từ 252 đến 260 của sách Tìm hiểu phong thổ học qua quan niệm triết Đông và các trang từ 584 đến trang 591 của sách Nghiên cứu phong thủy và phong thủy Việt Nam dưới góc độ khoa học. Đặc biệt, những trang sách phụ lục “Bản mệnh tượng đối của cá nhân qua 12 con giáp”, chỉ gây tác dụng xấu, vì đây là vấn đề rất nhạy cảm, khiến con người dễ mất đi niềm tin vào chính bản thân mình, là chỗ dựa để bọn đồng cốt, bói toán nhảm nhí, tán dóc kiếm ăn.
Gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc là giữ gìn tinh hoa văn hóa dân tộc, cố nhiên phải qua chọn lọc và phê phán. Sách Tìm hiểu phong thổ học qua quan niệm triết Đông cũng như sách Nghiên cứu phong thủy và phong thủy Việt Nam dưới góc độ khoa học (và nhiều sách phong thủy khác) đã núp dưới chiêu bài triết lý, khoa học, bảo tồn văn hóa để đánh lừa người đọc, truyền bá các ngón nghề thần bí, mên tín, cả môn “coi đất” mà từ xưa nhân dân ta đã chế diễu: “Hòn đất mà biết nói năng...” !
H.T.P
(Bài đã đăng trên Tạp chí Văn Hóa dân gian-Viện nghiên cứu văn hóa dân gian-Viện khoa học xã hội Việt Nam-số 4-2007)
Chú thích:
1.Ngô Nguyên Phi, Nghiên cứu phong thủy và phong thủy Việt Nam dưới góc độ khoa học. NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2002.
2. Mộng Bình Sơn, Tìm hiểu phong thổ học qua quan niệm triết Đông, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2002.

" Từ điển từ và từ ngữ Việt Nam", mục chữ cái nào cũng có sai sót

" Từ điển từ và từ ngữ Việt Nam", mục chữ cái nào cũng có sai sót


Góp thêm tiếng nói vì sự trong sáng của tiếng Việt
  Hoàng Tuấn Công 
NQL: Giáo sư Nguyễn Lân là  thầy của nhiều đàn anh khả kính của bọ Lập.  Giáo sư đã qua đời mà mình cứ đem cuốn sách của giáo sư ra nói thật không đành. Nhưng đây không phải cuốn sách bình thường, nó là cuốn từ điển, quan trọng hơn nữa nó là cuốn từ điển từ và ngữ Việt Nam. Do đó, những sai sót của nó không thể không nhắc đến, cũng là để góp thêm tiếng nói vì sự trong sáng của tiếng Việt như tác giả Hoàng Tuấn Công đã nói chữ không có ý gì khác.


Từ điển từ và ngữ Việt Nam - tác giả GS Nguyễn Lân. Xuất bản lần đầu năm 2000, tái bản lần 1 năm 2006, 2.119 trang; tập hợp 51.700 từ và ngữ - Nhà xuất bản Tổng hợp TP Hồ Chí Minh.
Lời Nxb Tổng hợp TP Hồ Chí Minh (dịp tái bản lần thứ nhất) cho ta biết: “Sau khi cuốn sách ra mắt bạn đọc, Tác giả và Nhà xuất bản đã nhận được nhiều ý kiến hoan nghênh công trình này, đồng thời tác giả cũng đã kịp thời sửa chữa, bổ sung những chỗ còn sai sót của lần xuất bản đầu tiên trước khi qua đời 7/8/2003”“… công trình này của GS Nguyễn Lân dù có cố gắng đến đâu vẫn không thể tránh khỏi sai sót, khiếm khuyết …và rất mong nhận được sự ủng hộ và chỉ giáo của quý bạn đọc gần xa”. Trong “Đôi lời tâm sự thay lời tựa” GS Nguyễn Lân viết: “Trong năm năm qua, mặc dầu tôi đã để toàn tâm toàn ý vào việc biên soạn bộ từ điển này gồm 51.700 từ và ngữ, nhưng vì tuổi cao, có thể có những sai sót, dám mong các độc giả sách này vui lòng chỉ bảo cho”.Với tinh thần xây dựng, chúng tôi xin đáp lời ngỏ ý của GS Nguyễn Lân và Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh về cuốn Từ điển từ và ngữ Việt Nam (tái bản lần thứ nhất đã được sửa chữa bổ sung của tác giả).
Để bạn đọc tiện theo dõi, chúng tôi xin được lược trích một phần nhỏ những sai sót  theo mục chữ cái (từ A đến Y) của Từ điển từ và ngữ Việt Nam của GS Nguyễn Lân:
A
A hành ác nghiệp (A: dựa theo; hành: làm; ác: ác; nghiệp: kiếp trước) Nói người độc ác hành hạ người khác:Người mẹ chồng a hành ác nghiệp.
Không đúng ! Thứ nhất: nghiệp không phải là kiếp trước. Phật học từ điển (Đoàn Trung Còn) giải nghĩa “ác nghiệp: nghiệp dữ. Những sự tạo tác dữ mà mình đã gây ra từ những đời trước hoặc trong đời nầy (….) Ác nghiệp là nhơn duyên, còn cảnh khổ đời này và cành khổ đời sau là quả báo”. Hán Việt tự điển của Thiều Chửu giải nghĩa chữ “nghiệp”: “Cái nhân, như: nghiệp chướng 業障 - nhân ác làm chướng ngại”. Như thế, “nghiệp” đây không phải là “kiếp trước” mà là cái nhân. Có “ác nghiệp” (nhân ác) và “thiện nghiệp” (nhân lành). Có thể hiểu là hành vi, việc làm của người ta nó giống như hạt giống, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu. Mặt khác, “a” ở đây không phải “dựa theo” mà nghĩa là hùa theo.“A hành” là hùa theo người khác. A hành ác nghiệp là hùa theo người khác để làm điều ác chứ không phải “nói người độc ác hành hạ người khác” như cách giải thích của GS.
   Á nguyên (Á: sau một bậc; nguyên: bắt đầu) Như á khôi.
“Nguyên” ở đây là đứng đầu chứ không phải là “bắt đầu”. Mục từ “á nguyên” được tác giả chú “như á khôi”. Mà chữ “khôi” ở ngay trang trước đã được chính soạn giả chú nghĩa là “đứng đầu” đấy thôi.
Ái nam, ái nữ. Có cả hai bộ phận sinh dục ngoài của nam và nữ.
Nếu theo cách mô tả của GS Nguyễn Lân có lẽ đây là một ca sinh đôi có “cả hai bộ phận sinh dục ngoài” của một người nam và một người nữ nhưng chung một cơ thể chăng ? Theo Việt Nam tự điển của Hội Khai Trí Tiến Đức Ái nam. Tiếng gọi  đàn ông hay đàn bà không đủ bộ phận sinh dục. Có khi gọi ái nam, ái nữ, cũng là người bán nam, bán nữ. Từ điển tiếng Việt của nhóm Hoàng Phê giải nghĩa: Ái nam, ái nữ. Có bộ phận sinh dục ngoài không giống của nam, cũng không giống của nữ”. Như vậy cách “hình dung” về bộ phận sinh dục người ái nam, ái nữ của soạn giả không đúng và nghe thật đáng sợ !
Anh hùng nhất khoảnh (khoảnh: thời gian ngắn) Nói người tự cho mình là hơn cả mọi người trong một thời gian: Ở bến xe có tên lưu manh tự mình cho là anh hùng nhất khoảnh.
Chữ “khoảnh” trong câu thành ngữ gốc Hán này tự dạng là (), có nhiều nghĩa: khoảng ruộng 100 mẫu; thoáng chốc, khoảnh khắc... Ở đây, khoảnh (nghĩa đen = khoảng rộng100 mẫu) được hiểu là một vùng, một địa phận, khu vực (chỉ không gian) chứ không phải khoảnh khắc (chỉ thời gian) như GS lầm tưởng. Thành ngữ nói kẻ chỉ (dám) xưng hùng, xưng bá, làm mưa làm gió trong một khu vực nhất định. Cái “bến xe” mà tên lưu manh tự xưng anh hùng trong câu dẫn chứng của GS chính là“nhất khoảnh” (chỉ không gian) đấy thôi.
  
Ă
Ăn lông ở lỗ (ở lỗ tức là cởi truồng) Nói cuộc sống của người nguyên thuỷ.
Thực ra “lỗ” đây có nghĩa là hang hốc, hang động. Ý nói chuyện ăn và ở, chứ không nói chuyện ăn và mặc: ăn thì ăn sống nuốt tươi (còn cả lông của thịt thú rừng) ở thì chưa có nhà cửa mà ở lỗ (hang động).
Ăn ít ngon nhiều. Nói một món ăn chỉ cần ăn ít cũng đã thấy ngon: món tôm này ăn ít ngon nhiều.
Sai sót này cũng thuộc dạng được “copy” từ cuốn Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam sang mà chúng tôi đã nói đến trong bài “Những sai lầm mang tính hệ thống của Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam”.
Â
Âm phủ (âm: chết; phủ: dinh thự) Chỗ người chết ở theo mê tín.
Sai ! Ở đây "âm"thế giới của người chết chứ không phải “chết”, “phủ” là là cõi chứ không phải “dinh thự”.
Âm sắc (âm: tiếng; sắc: màu) Tính chất khác nhau giữa hai âm cùng độ cao và độ to hơn: Âm sắc của hai nhạc cụ khác nhau.
Thực ra “sắc” đây nghĩa là sắc thái, tính chất chứ không phải là “màu”, cho dù hai nghĩa đều xuất phát từ chữ sắc có cùng tự dạng là ().
Âm vị (âm: tiếng; vị: nói) Đơn vị ngữ âm nhỏ nhất có tác dụng phân biệt ý nghĩa của từ.
Thực ra "vị" đây có nghĩa là đơn vị, tự dạng là () chứ không phải tự dạng vị () là nói (bảo). Chính soạn giả đã giảng “âm vị”đơn vị ngữ âm nhỏ nhất...” cơ mà ?
Ân trạch (ân: ơn; trạch: ân huệ) Ơn huệ thấm nhuần (Ân trạch của Hồ Chủ tịch đối với nhân dân).
Thực ra “trạch” () đây là thấm ướt chứ không phải là "ân huệ". Thế nên Thiều Chửu mới giải thích “Ân trạch: làm sự lợi ích (ân đức thấm tới mọi người)” và Giáo sư mới giảng thành "Ơn huệ thấm nhuần" chứ ?
B
Bạch hổ. Con cọp trắng vẽ trong các tranh tôn giáo.
Giải thích như vậy là phiến diện. Bởi cọp trắng không chỉ xuất hiện trong tranh thờ mà nó còn là con vật có thật, sống hoang dã. Theo Bách khoa toàn thư mở Hổ trắng hay Bạch hổ  hổ với một gen lặn tạo ra những màu sắc nhạt. Một đặc tính di truyền làm cho các sọc của hổ rất nhạt; trắng”. Ấy là chưa nói việc soạn giả bỏ quên Bạch Hổ với tư cách địa danh nổi tiếng - một mỏ dầu lớn ngoài khơi thuộc vùng biển Vũng Tàu nước ta.
Bát dật (bát: tám; dật: yên vui) Lối múa xưa, có tám hàng, mỗi hàng tám người: Múa bát dật trong cung điện.
Đội múa có tới 64 người tham gia quả là vui thật. Mà có yên thì mới vui, mới bày đặt ra chuyện múa may...Nghe thật có lý ! Thế nhưng “dật” () ở đây không phải là “yên vui” mà có nghĩa là hàng. Không biết chữ "dật" với nghĩa "yên vui" có tự dạng như thế nào và soạn giả căn cứ vào sách nào ? Hán Việt tự điển của Thiều Chửu cho biết: "Dật : Hàng dật. Trong lễ định vua Thiên tử được bắt sáu mươi tư người múa bài hát, mỗi hàng tám người gọi là múa bát dật". Chính soạn giả đã thừa nhận“bát dật”Lối múa xưa, có tám hàng, mỗi hàng tám người” đấy thôi.
Bắc thần (bắc: phương bắc; thần: tinh thần) Ngôi sao sáng nhất trong chùm sao tiểu hùng tinh, giúp người ta xác định hướng chính bắc.
Sai nghiêm trọng. Chữ thần () ở đây chỉ chung mặt trời, trăng, sao. Ví dụ “Vi chính dĩ đức, thí như Bắc thần, cư kỳ sở nhi chúng tinh củng chi:為政以德,譬如北辰,居其所而眾星拱.Nghĩalà: Dùng đạo đức để giải quyết việc nước thì cũng ví như ngôi sao Bắc cực, ở yên một chỗ mà các ngôi sao khác đều chầu về (Luận ngữ - Vi chính). Chữ thần () này khi đọc là thìn lại có nghĩa là rồng - chi thứ năm trong thập nhị chi. Còn chữ thần trong tinh thần có tự dạng là (), không liên quan gì đến bắc thần (北辰). Ở đây chữ thần () phải có nghĩa là trăng sao thì “bắc thần” mới nghĩa là "ngôi sao sáng nhất" thuộc chùm tiểu hùng tinh ở phía Bắc như chính GS Nguyễn Lân đã giảng chứ ? Nếu "thần"“tinh thần” thì "bắc thần" lại nghĩa là "tinh thần phương Bắc" hay phương nào đó rồi !
Bất chắc. Không chắc nhưng có thể cũng sẽ diễn ra:Phòng khi bất chắc dụng binh (Tú-mỡ)
Người Việt chỉ nói không chắc chứ không dùng kết hợp từ: bất (không) + chắc (chắc chắn) = không chắc. Hơn nữa, soạn giả đã lẫn lộn giữa bất chắc (từ do tự GS Nguyễn Lân nghĩ ra) có nghĩa không chắcbất trắc với nghĩa không lường được trong câu thơ của Tú Mỡ. Sai sót này xuất phát từ lỗi phát âm không phân biệt “ch” “tr” dẫn đến lỗi chính tả, và cuối cùng là lỗi từ vựng của chính người làm từ điển.
Bón đón đòng. Bón phân cho lúa khi sắp trổ bông: Kịp thời bón đón đòng nên năng suất cao.
Đã gọi là “bón đón đòng” có nghĩa phải bón khi lúa mới bắt đầu giai đoạn hình thành đòng chứ ? Sao lại bón vào lúc lúa sắp trổ bông ?
Bong bong. Tả tiếng kêu nhỏ và thanh: Sóng dồn mặt nước vỗ bong bong (HXHương)
Câu thơ của Hồ Xuân Hương mà GS trích dẫn ở trong bài “Kẽm Trống”: “Gió đập cành cây khua lắc cắc, Sóng dồn mặt nước vỗ long bong”. Thơ Hồ Xuân Hương thường có nhiều dị bản. Tuy nhiên trong trường hợp này GS Nguyễn Lân đã trích dẫn sai: “vỗ long bong” thành “vỗ bong bong”. Ở câu trên là “khua lắc cắc” chứ đâu phải “khua cắc cắc” ? Hơn nữa phải là từ “long bong” mới tinh tế và phù hợp với âm thanh rất khó tả của nước dội vào Kẽm Trống. Nó khác hẳn với tiếng kêu "bong bong" khô cứng phát ra từ chiếc trống bỏi (muỗi).
Bồ đề (bồ: tên cây; đề: nêu lên) (Chữ Phạn bodhi có nghĩa là giác ngộ, đồng thời chỉ cây bồ đề  mà Thích Ca ngồi dưới gốc trước khi giác ngộ) đạo Phật.
Đây chỉ là từ phiên âm (từ chữ Phạn bodhi như chính soạn giả đã thừa nhận). Do đó “bồ""đề” khi tách ra tuy có chữ mà không có nghĩa. Việc giải nghĩa tách riêng từng từ trong hai từ này là việc làm...vô nghĩa.
C
Cá mè. (...) Phú ông xin đổi một xâu cá mè (ca dao)
Trích dẫn sai. Ca dao nói Phú ông xin đổi ao sâu cá mè, không phải “một xâu cá mè”. Cái "ao sâu" nuôi thả đầy cá mè xưa kia quý giá lắm (cũng như trâu bò, gỗ lim...trong câu ca dao vậy). Nếu chỉ là "một xâu cá mè" như GS viết thì Bờm đâu đến nỗi “bờm” lắm đâu ?
Cá ngựa. Loài cá biển nhỏ, đầu dài, lưng cong, đuôi nhỏ.
Có một đặc điểm rất quan trọng làm nên tên gọi của con cá ngựa không được GS đề cập: đầu giống đầu ngựa. Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê) mô tả như sau: “Cá biển, đầu giống đầu ngựa, thân dài, nhiều đốt, đuôi thon nhỏ và cong, có thể dùng làm thuốc”. Và thực tế (cũng như Hoàng Phê đã mô tả), phần cong của con cá ngựa là đuôi chứ không phải "lưng cong" (như GS Nguyễn Lân viết). Ngoài ra, so với Hoàng Phê, “cá ngựa” của GS Nguyễn Lân thiếu hẳn 2 nghĩa thông dụng: “Cá ngựa. Đánh cuộc ăn tiền trong các cuộc đua ngựa” “Cá ngựa. Trò chơi súc sắc tính điểm để chạy thi quân ngựa gỗ. Chơi cá ngựa”.
Cá nóc. Cá nước ngọt thân tròn và ngắn.Cá nóc đuổi bắt cá con.
Sai nghiêm trọng. Cá nóc là cá nước mặn (cá biển) chứ không phải cá nước ngọt. Từ điển Bách khoa nông nghiệp cho biết "Cá nóc (Tetraodontiformes) bộ cá xương, chủ yếu sống gần bờ biển nhiệt đới và cận nhiệt đới". Mặt khác từ điển thiếu một thông tin quan trọng và bổ ích: cá nóc rất độc, có thể gây chết người khi ăn. Nếu am hiểu, người làm từ điển có thể thay thế ví dụ vô bổ "Cá nóc đuổi bắt cá con" bằng ví dụ: Ăn cá nóc có thể bị ngộc độc gây chết người. Qua đó, người sử dụng từ điển có thêm thông tin cơ bản, hữu ích về loài cá "giết người" này.
Cao lương mỹ vị (mĩ: đẹp; vị: hương vị)
“Mỹ” ở đây không phải là đẹp mà là ngon. Như “mỹ tửu” = rượu ngon. Trong bài thơ “Nhị vật” nói về việc bỏ thuốc lá và rượu, Bác Hồ viết: “Mộng lý hấp yên, ngật mỹ tửu, Tỉnh lai cánh phấn chấn tinh thần” (Trong mơ thấy hút thuốc lá, uống rượu ngon, Tỉnh dậy càng thêm phấn chấn tinh thần).“Mỹ tửu” ở đây chính là rượu ngon.
 Cao minh (minh: sáng) Sáng suốt hơn người.
Chính xác hơn, “cao minh” người có học rộng.
Cầm cương nảy mực (Cầm cương ngựa và nảy mực lên mặt gỗ để cưa). Điều khiển và chỉ dẫn những người dưới quyền làm theo:Trong những năm Hồ Chủ tịch cầm cương nảy mực.
Nhầm lẫn. Cầm cân chứ không phải “cầm cương”. Có lẽ GS cho rằng người cầm cương điều khiển để con ngựa rẽ theo ý muốn, còn người nảy mực nảy lên mặt gỗ để chỉ dẫn thợ mộc cứ thế làm theo ? Thế nhưng người ta dùng chiếc cân để so sánh với công lý, và nảy mực tàu được ví với cách làm thẳng thắn, khách quan, không thiên, không lệch (có câu Thẳng mực tàu làm đau lòng gỗ là vậy). Hai vế của thành ngữ đều nói về sự thẳng thắn, công bằng, không thiên, không lệch, chứ không phải nói về sự dẫn đường chỉ lối. Cũng nên lưu ý soạn giả: người ta chỉ nảy mực lên mặt gỗ để xẻ (dọc) cho thẳng. Còn "cưa" (ngang) không ai nảy mực làm gì.
Câu lạc bộ (Câu: đều; lạc: vui; bộ: bộ phận - Do từ Anh club phiên âm ra tiếng Trung Quốc.
Chiêu mộ1 (Chiêu: sáng; mộ buổi chiều) sáng và chiều: Ba hồi chiêu mộ chuông gầm sóng (HXHương).
Viết sai chính tả “triêu” thành “chiêu”. Chữ “triêu” () mới có nghĩa là buổi sáng. Còn “chiêu” () lại có nghĩa là vời, vẫy, tuyển mộ. Chiêu () mới chính là chữ có nghĩa như GS đã giảng trong mục Chiêu mộ2 (Chiêu: vời tới; mộ: cầu tìm).Tuy nhiên, việc đặt chiêu mộ1chiêu mộ2 là sai.Vì cách trình bày này chỉ đúng khi cả triêumộ đều là những cặp từ cùng tự dạng, đồng âm nhưng dị nghĩa. Cuối cùng và tất nhiên, phải trả lại cho câu thơ của Hồ Xuân Hương là "Ba hồi triêu mộ..."
Choe choét Nói tiếng cười không nghiêm chỉnh:Mấy cô thiếu nữ cười đùa choe choét.
Người ta không dùng từ “choe choét” để ví với tiếng cười của bất cứ ai, ở bất cứ cấp độ nào. GS nhầm với kiểu cười toe toét chăng ?
Chơi gái. Có quan hệ sinh lý với phụ nữ (thông tục): Hắn có học hành gì đâu, chỉ nghĩ đến chuyện chơi gái mà thôi.
 “Gái” ở đây không thể hiểu là “phụ nữ” nói chung mà là hạng gái điếm, kỹ nữ (mà gần đây còn gọi bớp, ca ve, gái gọi, gái bao, v.v...) Còn “quan hệ sinh lý” là nói nhu cầu chính đáng của đời sống tình dục và hàm chứa hoạt động duy trì nòi giống của con người; trong khi từ “chơi gái” lại nói về kiểu chơi bời trác táng, thiên về trải nghiệm nhục dục, thỏa mãn xác thịt, không được xem là tình dục có ý thức của con người. Chính câu ví dụ về cách dùng từ “chơi gái” của Giáo sư: “Hắn có học hành gì đâu, chỉ nghĩ đến chuyện chơi gái mà thôi” đã nói lên cái nghĩa chẳng tốt đẹp gì của từ này. Kẻ đi “chơi gái” thì phải có “gái chơi”. Thế nên, gái điếm, kỹ nữ còn được gọi là “gái làng chơi” là vậy.
Chu niên (H chu: đầy đủ; niên: năm) Đủ số năm đã qua:Kỷ niệm đệ ngũ chu niên ngày giải phóng.
Chu () không phải là “đầy đủ” mà là tròn.Chu niên (周年)nghĩa là năm tròn, năm chẵn. Ví dụ thập lục chu niên = tròn 60 năm. Hoặc ngũ chu niên = tròn 5 năm (cách tính năm đủ ngày, đủ tháng). Ví dụ năm 2010 Việt Nam - Trung Quốc kỳ niệm tròn 60 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao, dòng chữ bằng Trung văn viết (tham khảo tư liệu ảnh trên VOV): 慶祝越-中建交六十周年 Khánh chúc Việt - Trung kiến giao lục thập chu niên (18/01/1950 - 18/01/2010).  Nghĩa là: Chúc mừng Việt-Trung tròn 60 năm thiết lập quan hệ ngoại giao. Còn khi nói đệ thập lục niên = năm thứ 60 tức mới chỉ bước sang năm 2010 chứ chưa tròn (chưa đến ngày 18/01/2010). Không ai đã “đệ” rồi còn dùng “chu”. Giống như tròn 10 tuổi khác với tuổi thứ 10. Và không ai nói tròn thứ 10 tuổi.
Chung kiếp (chung: cuối cùng; kiếp: thời vận) Cuối đời: đến chung kiếp vẫn còn giữ tròn được nhân phẩm.
GS lại phát âm sai dẫn đến viết sai chính tả và đưa ra một kết hợp từ hoàn toàn xa lạ và mâu thuẫn. Nếu "kiếp" = "thời vận" như cách giảng của soạn giả thì "chung kiếp" phải hiểu là thời vận cuối cùng, sao lại có nghĩa là "cuối đời" ? Mặt khác, chỉ có khái niệm trung kiếp (中劫), không có “chung kiếp” (vần tr, không phải vần ch).“Kiếp” ở đây không phải là "thời vận" mà là số kiếp, đời kiếp, tiếng Phạm là kiếp ba ( ). Theo Phật học từ điển (Đoàn Trung còn): "Trung kiếp: Thường thì kêu kiếp, tức là trung kiếp (kiếp vừa vừa). Một trung kiếp có 20 tiểu kiếp, tính ra có 336.000.000 năm".
Chung lưng đấu cật (Cật là chỗ thắt lưng)
Giáo sư sai rồi ! Cật là toàn bộ phía sau lưng chứ không phải là "thắt lưng".
Chung thân (chung: trọn vẹn; thân: thân mình) Suốt đời.
Chữ thân ()có nhiều nghĩa như: thân mình, bản thân, gốc cây, tuổi, đời... Ở đây, thân không phải là “thân mình” mà là đời. "Chung thân"  hết đời, như “tiền thân 前身 đời trước” (Hán Việt tự điển-Thiều Chửu).
Chuyên đề (đề: đưa ra)
Nhầm lẫn. Chữ đề trong chuyên đề (專題)đề mục, luận đề chứ không phải đề nghĩa là “đưa ra”. Chữ đề này có bộ hiệt () tự dạng là (-đề). Còn chữ đề nghĩa là “đưa ra” có bộ thủ () tự dạng là ().
 Chuyên gia (gia: nhà)
Không đúng ! Mặc dù đều có tự dạng là ,nhưng chữ gia trong chuyên gia (專家)lại không có nghĩa là nhà. Hán Việt tự điển của Thiều Chửu giải nghĩa thứ 4 của chữ gia: “Có cái học vấn giỏi riêng về một môn gọi là gia. Như văn học gia 文學家, nhà văn học, chính trị gia 政治家 nhà chính trị, v.v...” Như vậy “gia” ở đây được hiểu là người (có học vấn, tài năng chuyên sâu).
Chuyển khẩu (...) Sang nước khác:nhiều người Việt Nam đã chuyển khẩu từ Pháp về nước.
Thật khó tin cách giải nghĩa sai hoàn toàn này lại nằm trong một cuốn từ điển có tên Từ điển từ và ngữ Việt Nam. Thứ nhất, ta vẫn nói chuyển khẩu từ địa bàn này sang địa bàn khác, từ tỉnh này này sang tỉnh khác mà không cần phải “sang nước khác” mới gọi là “chuyển khẩu”. Thứ hai, nhập khẩu hay chuyển khẩu là cách quản lý hành chính nội địa của riêng Việt Nam, chỉ áp dụng trên lãnh thổ Việt Nam.Theo Bách khoa toàn thư mở: Hệ thống hộ khẩu hiện nay chỉ tồn tại ở 3 nước: Trung Quốc, Bắc Triều Tiên  Việt Nam. Tuy nhiên cách quản lý, các chế độ liên quan đến hộ khẩu của mỗi nước khác nhau. Nếu có việc đi lại trong phạm vi ba nước nói trên cũng không thể gọi là chuyển khẩu được.Việc “đi sang nước khác” được gọi là xuất cảnh,nhập cảnh (cảnh đây có nghĩa biên giới, bờ cõi). Việc xuất cảnh, nhập cảnh phải đáp ứng một số thủ tục hải quan theo quy định giữa hai nhà nước. Ví dụ của Giáo sư: “nhiều người Việt Nam đã chuyển khẩu từ Pháp về nước” có lẽ ý chỉ Việt kiều Pháp hồi hương và sinh sống lâu dài ở Việt Nam chăng ? Để làm được việc này, Việt kiều sẽ thực hiện một số thủ tục theo quy định của pháp luật Việt Nam. Nhưng dứt khoát không thể gọi là “chuyển khẩu”.
Cử tọa (cử: cất lên; tọa: ngồi) Tất cả những người dự một buổi họp:Lời tuyên bố đó khiến cử tọa vỗ tay như pháo nổ.
Ở đây Giáo sư giảng sai nghĩa của cả hai từ "cử""tọa". Cho dù đều có tự dạng là , nhưng chữ “cử” trong cử tọa nghĩa là hết thảy, tất cả chứ không phải là “cất lên”. Ví như cử quốc = cả nước (Hán Việt tự điển - Thiều Chửu) Hán Việt tự điển-Trần Văn Chánh giải nghĩa chữ "cử": "Cả, khắp, tất cả đều, mọi, hết thảy mọi người: 舉座 Tất cả những người dự họp; 舉國歡騰 Khắp nước tưng bừng". Thứ hai, chữ "tọa" () đây là chỗ ngồi chứ không phải chữ "tọa" () là "ngồi".
Cước sắc (cước: cuối cùng; sắc: lệnh vua). Phẩm hàm (cũ) Người có cước sắc ở trong làng.
Sai ! Cước sắc (腳色) có nghĩa là “Nhân vật, vai (trong tuồng kịch, phim ảnh)” (Hán Việt tự điển-Trần Văn Chánh). Soạn giả nhầm với từ chức sắc chăng ?
Cười đứt ruột Cười nhiều quá, không thể nhịn được.
Cười rũ ra, cười bò ra cũng có thể gọi là "cười nhiều quá, không thể nhịn được" chứ ? Chính xác "cười đứt ruột" phải được giảng là: cười đến mức đau cả bụng, ruột thắt lại từng cơn, tưởng có thể “đứt” ruột đi được.
D
Dáng vóc. Thân hình khỏe mạnh.
Sai ! "Dáng vóc” là chỉ ngoại hình cao thấp, gầy, béo. Ai cũng có dáng vóc của người đó, không cứ gì người khỏe mạnh.
Dao sắc chẳng chặt được chuôi. ý nói: dù sao cũng không thể làm hại người thân thích với mình.
Sai ! Cái chuôi là bộ phận của chính con dao chứ không phải là “người thân thích” hay họ hàng của nó. Theo nghĩa đen: con dao dù sắc đến mấy cũng không thể chặt, gọt được cái chuôi của chính nó. Nghĩa bóng: người tài giỏi về phương thuật nào đó thường không tự áp dụng cho chính mình được. Ví như anh thợ cắt tóc chẳng thể cắt cho mình. Bác sĩ giỏi thường không chữa bệnh được cho chính mình.
Dễ dò rốn bể khôn lường đáy sông. Việc khó khăn thì hiểu được, việc dễ dàng thì không lường được.
Phải hiểu “dễ” ở đây không phải “dễ dàng” (ngược lại với khó) mà nghĩa là “liệu có thể” “khó có thể”, “chưa chắc”. Truyện Kiều: “Một người dễ có mấy thân”, “Đàn bà dễ có mấy tay” Đào Duy Anh giải thích nghĩa chữ “dễ” trong văn cảnh này là“Chẳng dễ, khó có thể, khó lòng, có dễ đâu”. Ở đây “dễ”“khôn” trong câu Dễ dò rốn bể khôn lường đáy sông đều có nghĩa là “khó” cả: Dễ gì dò được rốn bể, khó có thể lường được đáy sông. Đây là lỗi mà GS Nguyễn Lân từng mắc (trong Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam) khi giảng câu “Sắc nanh, chuột dễ cắn được cổ mèo”Dù là kẻ thù nguy hiểm thế nào nếu mình có mưu mẹo, có phương tiện thì mình cũng thắng. Trong khi câu tục ngữ phải được hiểu nghĩa đen là: Dù nanh có sắc nhưng chuột cũng khó có thể cắn được cổ mèo.
Đ
Đắc ý (ý: ý nghĩa).
Sai ! “ý” ở đây là ý nguyện.“Đắc ý” là được như ý nguyện chứ không phải được như ý nghĩa.
Đăng khoa (đăng: ghi tên; khoa: khoa cử).
Kế thế đăng khoa (đăng: trèo lên).
Thực ra chữ “đăng” trong hai trường hợp trên đều có nghĩa giống nhau: ghi danh khoa cử. Việc giải nghĩa một “đăng”ghi tên, một “đăng”trèo lên trong hai mục từ trên là "tiền hậu bất nhất".
Đèn huỳnh quang (Huỳnh: đom đóm; quang: ánh sáng).
Chữ “huỳnh” đây chính là cách đọc trệch của chữ Hoàng do kiêng húy (chúa Nguyễn Hoàng). Chữ hoàng (bộ hỏa) nghĩa là sáng sủa, sáng rực (ví dụ như huy hoàng ). Còn chữ "huỳnh" (hoàng) với nghĩa đom đóm lại có tự dạng là (bộ trùng). Không ai mượn hình ảnh ánh sáng lập lòe của con đom đóm để đặt tên cho bóng đèn điện cả. GS suy diễn ánh sáng trắng của đèn huỳnh quang giống ánh sáng trắng xanh của con đom đóm, nên cho rằng chữ “huỳnh” này có nghĩa là “đom đóm”chăng ?
Đĩ đực Từ dùng để chỉ bọn đàn ông lẳng lơ.
Ngày trước có từ “đĩ trai” chỉ loại đàn ông làm dáng, hay ve vãn đàn bà, con gái. Gần đây,“đĩ đực”chỉ hạng đàn ông đi bán dâm (mại dâm nam). Khái niệm “lẳng lơ” là “đặc quyền” dùng cho nữ giới.
Đoản văn. Thể văn gọn gàng.
Chữ "đoản" ở đây có nghĩa là ngắn. Chỉ có văn phong gọn gàng, câu văn gọn gàng. Không có “thể văn gọn gàng”. Nói chính xác đoản vănthể loại văn ngắn.
Đón người cửa trước, rước người cửa sau. Nói kẻ chuyên nghề mại dâm: Công an săn lùng những kẻ đón người kẻ trước rước người kẻ sau.
Đúng ra là “Đưa người cửa trước, rước người cửa sau”. Nếu cửa trước cũng đón, cửa sau cũng rước thì “mại” sao cho kịp ?
Đông phong. Gió từ phương đông thổi tới.
“Đông phong” không đơn giản chỉ là “gió từ phương đông thổi tới” mà nó còn được hiểu là gió xuân, vì hướng đông ứng với hành mộc - mùa xuân. Gió đông cũng gọi là gió xuân. (Đào hoa y cựu tiếu đông phong - Thôi Hiệu). Giống như phương tây ứng với mùa thu nên gió tây còn được gọi là gió thu vậy.
Đồng điếu. Đồng nguyên chất màu đỏ.
Thực ra “đồng điếu” là đồng hợp kim chứ không phải đồng nguyên chất. Đây cũng là cái sai từng được GS Nguyễn Lân giảng trong “Từ điển thanh ngữ tục ngữ Việt Nam”.
Đồng ruộng. Nông thôn nói chung: Trở lại đồng ruộng xí nghiệp, công trường (PVĐồng)
“Nông thôn nói chung” có nghĩa rộng hơn“đồng ruộng” nhiều. Nó bao gồm cả cảnh quan, đường sá, ruộng đồng, làng mạc....Trong khi ruộng đồng chỉ là khu ruộng, mảnh đất phục vụ cho việc cấy cày, trồng trọt mà thôi. Giống như "xí nghiệp, công trường" không phải "thành thị nói chung" mà là nơi làm việc của công nhân.
Động cỡn. Nói phụ nữ có đòi hỏi về tình dục.
Thực ra từ “động cỡn” vốn nói biểu hiện sinh lý bị kích thích ở thời kỳ động dục (thường là) của trâu bò. Chúng hay có động tác nhảy cỡn lên hoặc nô dỡn rất bất thường với nhau. Sau đó, từ “động cỡn” dùng để mắng chửi vỗ mặt những người đàn bà có hành động, cử chỉ, lời nói  giống như hiểu hiện “động cỡn” vậy. Ví dụ: Đồ động cỡn ! ; Động cỡn hay sao mà...! Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê giải nghĩa động cỡn: “(loài thú) có những động tác biểu hiện đòi hỏi sinh lý bị kích thích mạnh khi có đòi hỏi về tính dục. Lợn động cỡn. Đồ động cỡn (tiếng mắng thông tục)”.
 Nếu như GS Nguyễn Lân giải nghĩa "động cỡn" như trên là đúng thì phụ nữ phát triển sinh lý bình thường ai mà không “động cỡn” ? Cũng giống như mục chữ cái C, từ “Chơi gái” được giải thích là “có quan hệ sinh lý với phụ nữ” thì đàn ông mấy người không “chơi gái” ?
Mức độ đúng sai của trường hợp này xin giành sự nhận xét cho độc giả là chị em phụ nữ.
E
Én Loài chim nhảy, đuôi chẻ…
Môi trường kiếm ăn của chim én là bầu trời. Chúng bay qua, bay lại chấp chới (như con thoi dệt vải) để bắt muỗi, côn trùng. Bởi vậy, chim én là loài chim bay, đậu cành, không đậu trên mặt đất (do đuôi dài, chân ngắn và mặt đất không phải môi trường kiếm ăn của én). Nói gì đến chuyện én là loài chim nhảy ?
Eo éo. Tiếng kêu, tiếng gọi từ xa.
Đúng ra là tiếng kêu, tiếng gọi nghe không rõ, vọng lại từ xa, gây cảm giác  khó chịu.
Ê
Ếch ngồi đáy giếng Than phiền là ở một vị trí không hiểu gì ở chung quanh: Tôi ở đây như ếch ngồi đánh giếng, hiểu sao được tình thế đổi thay.
Thực ra tục ngữ được dùng phổ biến với nghĩa: kẻ có hiểu biết hạn chế, nông cạn nhưng lại lầm tưởng ta đây thông thái.
Ếch vồ hoa dâm bụt (Ếch không ăn được hoa dân bụt) Chê kẻ làm việc hão huyền: Tin sao được cái kẻ ếch vồ hoa dâm bụt ấy.
Tục ngữ không có ý nói ếch ăn được hay không ăn được hoa dâm bụt. Mà hoa dâm bụt thường được trồng ở bờ ao. Khi hoa nở, ong bướm, côn trùng đến hút nhụy, ếch ta ngồi ngóng lên thèm thuồng, định thực hiện cú vồ ngoạn mục để đớp gọn con mồi. Ai dè lực bất tòng tâm, cú nhảy chỉ vồ trúng cái hoa dâm bụt mà thôi. Nghĩa bóng: chế giễu kẻ vụng về làm hỏng việc lớn.
G
Gà đồng. Từ dùng đùa để chỉ con ếch.
Con ếch có một số tên chữ như: thanh oa, thanh kê, thủy kê, điền kê. Từ “gà đồng” dịch từ chữ Hán điền kê 田雞 - tên gọi con ếch (hiện vẫn dùng phổ thông của người Trung Quốc).
Gà què ăn quẩn cối xay. Chê kẻ không có tài năng gì lại kiếm chuyện gây gổ với người chung quanh.
“Chê kẻ không có tài năng gì” thì đúng. Nhưng gán cho kẻ thất thế “an phận thủ thường” kia cái tội “kiếm chuyện, gây gổ với người chung quanh” quả là oan cho nó quá ! Có lẽ theo Giáo sư, cái chân què chính là bằng chứng về “tiền sự” kiếm chuyện gây gổ của con gà chăng ?
Gối vụ nói nhà nông làm lấn sang vụ sau, trong khi chưa xong hẳn vụ này. Nông dân phải gối vụ để tăng sản lượng.
Phải hiểu ngược lại: vụ sau gối vào vụ trước mới đúng. Nghĩa là khi vụ trước chưa xong thì đã triển khai vụ sau. Như chuẩn bị cây giống, phân bón, nhân lực để khi vụ trước vừa xong thì gối ngay vào. Ví như để trồng ngô đông trên đất hai lúa, người ta gieo sẵn hạt ngô vào bầu trước khi trồng tới hàng tuần. Đến vụ gặt mùa, thu hoạch lúa phía trước, cày ngay đất phía sau, rải phân bón đã chuẩn bị sẵn đầu bờ ruộng và đưa bầu ngô ra trồng (Sáng lúa, chiều ngô). Như thế cây ngô đông đã gối lên vụ trước được tới cả chục ngày (mà tục ngữ có câu “Hơn một ngày hay một đường”). Nếu nói vụ trước “lấn sang vụ sau” có nghĩa thời gian của vụ trước bị kéo dài, gây ảnh hưởng đến kế hoạch triển khai vụ sau, sao gọi là “gối vụ” được ?
H
Hành quyết. ( Quyết: phán xử).
Chuyện “phán xử” chỉ diễn ra ở pháp đình. Khi đã ra tới pháp trường với hai từ “hành quyết” rồi làm gì còn chuyện phán với xét nữa ? Thực ra chữ “quyết” ở đây có nghĩa là xử chém.“Hành quyết” là thực hiện việc xử chém.
Hiệp thương (hiệp: giúp đỡ; thương: bàn luận)
Chữ hiệp cũng có nghĩa là giúp đỡ. Nhưng “hiệp” ở đây = hòa hợp mới đúng. Hán Việt tự điển của Thiều Chửu: “Hiệp: Hoà hợp, như đồng tâm hiệp lực 同心協力, hiệp thương 協商 cùng bàn để định lấy một phép nhất định”.
Hiếu đạo (đạo: con đường)
Không đúng. Tuy cùng có tự dạng là nhưng đạo trong "hiếu đạo" không thể chọn nghĩa là "con đường" mà phải là đạo lý.
Hiếu đễ (Hiếu: lòng hiếu; đễ: yêu quý anh em) Kính yêu cha mẹ và hòa thuận với anh em.
Thực ra “đễ” là cách ứng xử của người dưới đối với người trên (cụ thể là của em đối với anh) chứ không phải chỉ chung anh em với nhau. Xin trích dẫn “Đễ: Thuận, biết đạo xử với anh gọi là đễ” (Hán Việt tự điển-Thiều Chửu) ; “Đễ: kính mến anh, kính nhường anh, kính thuận (với người lớn hơn mình)” (Hán Việt từ điển-Trần Văn Chánh).
Hiệu phó (…phó: người giúp đỡ)
Không đúng ! Chữ “phó” ở đây có nghĩa là thứ, thứ hai, thứ nhì chứ không phải là "người giúp đỡ". Thế nên Thứ trưởng còn được gọi là Phó bộ trưởng (bên Trung Quốc). Chính Nguyễn Lân đã giải nghĩa chữ “trưởng” trong hiệu trưởng“người đứng đầu” đấy thôi.
Hiệu suất (suất: cái làm chuẩn)
Thực ra “suất” = tỉ lệ, mức.
Hình lập phương (lập: đứng thẳng…)
Đúng ra là "lập" = toàn khối; Hán Việt tự điển của Thiều Chửu: "Lập : Ðứng thẳng (...) Toàn khối, như lập phương 立方 vuông đứng, một vật gì vuông mà tính cả ngang dọc cao thấp gọi là lập phương". Như vậy, chữ "lập" có rất nhiều nghĩa. Thay vì nghĩa thứ nhất của "lập", Giáo sư phải chọn nghĩa thứ (7) của "lập" mới đúng.
Hôi nách. Nói nách có mùi khó ngửi vì thiếu vệ sinh.
Hôi nách là chứng bệnh do tính chất của tuyến mồ hôi. Y học cổ truyền cũng như Y học hiện đại đều cho rằng hôi nách có tính di truyền. Bởi vậy ngay cả khi vừa tắm rửa, vệ sinh sạch sẽ xong vẫn có mùi hôi như thường. Kết luận như GS Nguyễn Lân thật thiếu công bằng.
Huyết tộc đồng hôn. Chế độ hôn nhân trong thời nguyên thủy, buộc trai gái trong họ phải lấy nhau và không được lấy người ngoài.
Hôn nhân thời nguyên thủy là chế độ quần hôn. Còn chế độ trai gái trong họ lấy nhau lại gọi là hôn nhân nội tộc (như nhà Trần chẳng hạn)
I
Im như thóc đổ bồ. Người có thóc đổ bồ không muốn cho ai biết, sợ người ta vay mượn.
Lưu ý: đây là “Im như thóc đổ bồ” chứ không phải Im như đổ thóc vào bồ. Câu này một lần nữa soạn giả lại bê nguyên cái sai trong cuốn Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam (xuất bản 1989) để giải thích. “Im” ở đây không phải tả động tác đổ thóc vào bồ một cách nhẹ nhàng, kẻo có người (đang rình ở xó nhà hay bờ vách nhà mình chăng ? !) nghe tiếng rào rào của thóc chảy vào bồ rồi đến vay mượn như GS hiểu. Sự im lặng theo nghĩa đen này ám chỉ những hạt thóc đã ở yên  trong bồ, đã cất vào bồ, đưa vào trong kho, buồng kín rồi, không có gì xáo trộn nữa. Đó là sự im hơi, lặng tiếng ở một nơi kín đáo, không hề nhúc nhích. Còn có câu mang tính nhấn mạnh hơn “Câm như thóc” hoặc “Im như thóc trầm ba mùa”. Thóc “trầm ba mùa” là thóc không còn khả năng mọc mầm nữa, một sự im lặng tuyệt đối và mãi mãi.
   Ý câu thành ngữ muốn diễn đạt: Nói sự sợ sệt im thin thít, không nhúc nhích, không dám tỏ thái độ phản ứng trước một việc nào đó. Đó là cách ví von, sự mô tả giàu tính hình tượng của thành ngữ dân gian.
K
Khẩu trang (trang: tô điểm)
Thực ra “trang” ở đây là trang phục.
Khí tượng thủy văn (văn: vẻ ngoài)
Thực ra “văn” ở đây là những hiện tượng thiên nhiên.Nên có thiên văn, địa văn, thủy văn là vậy.
Khiếm thính. Không nghe được rõ vì có tật.
Thực ra “khiếm thính” là người bị điếc bẩm sinh (khiếm = thiếu; khiếm thính = thiếu bộ phận, chức năng thính giác). Những người này hoàn toàn không nghe thấy gì, dẫn đến bị câm điếc. Nếu “không nghe được rõ” thì đó là người bị lãng tai.
Không biết ất giáp là gì. Chẳng biết tí gì hết.
“Giáp” nghĩa là đứng đầu, “ất”thứ hai.“Không biết giáp ất là gì” tức không biết trên dưới, phải trái, sau trước thế nào. Còn người ngu dốt nói chung mới là người “Chẳng biết tí gì hết”.
Khuyển. Con chó dùng với ý bông đùa.
Trước tiên “khuyển” là từ Hán Việt nghĩa là con chó. Còn bông đùa hay không còn tùy từng văn cảnh cụ thể.
 Kinh sư (sư: quản lĩnh)
Thực ra “sư” ở đây là nhiều, đông đúc chứ chẳng có quản lĩnh gì ở đây. Hán Việt tự điển của Thiều Chửu viết:  "Sư (): Nhiều, đông đúc, như chỗ đô hội trong nước gọi là kinh sư 京師 nghĩa là chỗ to rộng và đông người".
Kính thiên văn (văn: văn vẻ)
Như trên đã nói, “văn” ở đây có nghĩa là những hiện tượng thiên nhiên. Kính thiên văn là kính quan sát những hiện tượng thiên nhiên trên bầu trời (trăng sao, nhật thực, nguyệt thực…) Ở mục từ "Khí tượng thủy văn" soạn giả giải thích "văn""vẻ bề ngoài" đến mục "Kính thiên văn" cũng là "văn" này, nhưng lại được giải thích là "văn vẻ". Và cả hai cách giải thích đều không đúng.
Kính tiềm vọng (tiềm: ẩn giấu; vọng: trông ngóng).
GS đã chọn nghĩa sai cả hai từ “tiềm”“vọng”. Chữ tiềm ()cũng có một nghĩa là ẩn giấu,(như khen cái đức hạnh của kẻ sĩ ở ẩn gọi là tiềm đức). Nhưng trong văn cảnh này nó lại có nghĩa là ngầm (tiềm thủy đĩnh 潛水艇 = tàu ngầm). Với chữ vọng tuy có cùng tự dạng là (), nhưng “vọng” trong "kính tiềm vọng" không có nghĩa là trông ngóng mà là nhìn xa. Kính tiềm vọng là bộ phận rất quan trọng của tàu ngầm, giúp cho thủy thủ đoàn có thể nhìn thấy bên trên của mặt nước khi tàu ngầm hoạt động dưới nước.
L
Lai vãng (vãng: đi đến) Qua lại một nơi nào đó.
Ở đây có sự nhầm lẫn. “Vãng”đi, đi qua, “lai” mới là đi lại, đi đến. Nên “lai vãng” mới có nghĩa là“qua lại” như GS đã giảng.
   Lành cho sạch, rách cho thơm
Đúng ra là Đói cho sạch, rách cho thơm. Đói mà giữ cho sạch mới khó.
Lãnh địa (lãnh: thống trị)
Lẫm liệt oai phong (phong: lề thói)
Tuy cùng có tự dạng là nhưng thực ra “phong” ở đây là dáng dấp. Lẫm liệt oai phong là cái dáng dấp oai nghi lẫm liệt.
Lục cá nguyệt (cá: từng cái; nguyệt tháng) Sáu tháng một lần: Nộp báo cáo lục cá nguyệt.
“Lục cá nguyệt”  sáu tháng chứ không phải“sáu tháng một lần”. Chữ trong lục cá nguyệt là số đếm = 6 tháng, nhằm phân biệt với lục nguyệt  =  tháng 6. 
Lụng thụng. Nói quần áo rộng quá.
Thực ra“lụng thụng” là nói quần áo vừa rộng, vừa dài mới đúng. Nếu chỉ là rộng thôi phải là “thùng thình” chứ không phải“lụng thụng”.
M
Má hồng không thuốc mà say. Chê kẻ đàn ông quá ham mê sắc đẹp.
Thực ra là nói cái má hồng (vẻ đẹp) của người con gái có thể làm say lòng người. Như “Sắc bất ba đào dị nịch nhân”(Sắc đẹp chẳng phải sóng lớn nhưng có thể nhấn chìm được người ta). Tức nói cái sức mạnh ghê gớm của sắc đẹp.
Màn hình. Bề mặt của đài truyền hình hoặc máy tính.
Phải hiểu ngược lại mới đúng: màn hình là bộ phận hiển thị hình hảnh (Trung văn gọi là hiển thị khí) của máy tính hoặc máy thu hình (chứ không phải "truyền hình"). Và nó không chỉ là “bề mặt” mà là một vật, một bộ phận (ngôn ngữ hàng ngày đôi khi màn hình được dùng để chỉ chung cái Ti-vi - máy thu hình)
Mật ít ruồi nhiều: nói tình trạng việc thì ít mà người xin làm lại nhiều.
Thực ra không chỉ nói chuyện xin việc mà là cách nói hình tượng chỉ chung tất cả những tình huống cầu vượt quá cung.
N
Nạ dòng lấy được trai tơ. Nói người phụ nữ có tuổi lấy được người chồng trẻ.
Nói đúng hơn phải là phụ nữ nhiều tuổi đã từng có chồng lại lấy được một chàng trai trẻ chưa vợ mới chính xác. Vì "phụ nữ có tuổi" nhưng chưa có chồng thì vẫn không thể gọi là nạ dòng được mà xếp vào diện gái quá lứa, lỡ thì. Và trai tơ là trai chưa vợ chứ không đơn thuần là trẻ. Làm từ điển mà giải nghĩa đại khái kiểu này thì lẫn lộng lung tung hết.
Nghênh tiếp (tiếp: liền với nhau).
Sai ! Thực ra “tiếp” ở đây có nghĩa là tiếp đãi, đón tiếp.
Ngọc nữ (nữ: đàn bà)
Ngọc nữ thường được hiểu là tiên nữ. Từ nữ trong “ngọc nữ” phải hiểu là “con gái” không thể là “đàn bà”. Vua Lê Thánh tông có bài thơ Nôm vịnh núi Ngọc Nữ ở Thanh Hóa: “Phau phau da đá phơi màu phấn, Trinh tiết bền gan chẳng lấy chồng”. Ở mục vần T, từ thôn nữ GS Nguyễn Lân giải thích: “nữ: đàn bà. Người con gái ở nông thôn”.Thực ra, nữ trong “thôn nữ” ở đây cũng có nghĩa là: cô gái chứ không phải đàn bà. Như thế từ “thôn nữ” GS Nguyễn Lân mới giảng thành “người con gái ở nông thôn” được chứ ? Từ điển phải phân biệt được thế nào là đàn bà, thế nào là cô gái, con gái, phụ nữ...Sao có thể tùy tiện, lẫn lộn đàn bà với con gái, thiếu nữ với phụ nữ được ?
Ngồn ngộn­1. Rất nhiều:Tiền của ngồn ngộn. (Ng-hồng)
Ngồn ngộn­2. Nói người phụ nữ trắng và đẹp:Cô ta mới lớn lên trông ngồn ngộn.
Về mục Ngồn ngộn­1. thực ra, “ngồn ngộn” đây không chỉ là số lượng "rất nhiều" mà còn gợi cho ta hình dung về khối lượng (rất đầy-Ngồn ngộn sân phơi khoai giát nắng - Tố Hữu). Thế nên câu văn gợi tả của Nguyên Hồng “tiền của ngồn ngộn” = tiền của chất đống.
Thiết nghĩ, đàn ông khi sử dụng cuốn từ điển này nên cẩn thận khi có nhã ý dùng từ “ngồn ngộn” để ngợi khen người“phụ nữ trắng và đẹp” nào đó: Em (cô, chị) đẹp thật, trông ngồn ngộn !”. Trong văn cảnh này các “đấng mày râu” sẽ bị chị em phụ nữ quy ngay cho cái tội “có máu dê” chứ chẳng chơi !
Ngự lãm Nói vua xem (cũ) Đoàn văn công vào cung biểu diễn để nhà vua ngự lãm.
Quả ngự lãm là nói vua xem. Nhưng vua mà ngự lãm văn công biểu diễn thì đây là hiện tượng “tân cổ giao duyên” rất khó chấp nhận trong ngôn ngữ. Văn công là khái niệm hoàn toàn mới, chỉ những đoàn, đội văn nghệ đi biểu diễn lưu động phục vụ công chúng. Vua nào mà tài giỏi tới mức sống dậy để có thể xem được văn công biểu diễn ?
Nhan sắc (Nhan: mặt; sắc: màu - Nghĩa đen: màu mặt) Vẻ đẹp của phụ nữ.
Soạn giả tiếp tục bị nhầm lẫn bởi hiện tượng đồng tự, dị nghĩa. Chữ sắc đúng là có  một nghĩa là màu sắc. Thế nhưng trong văn cảnh này sắc lại được hiểu là sắc đẹp. Thiều Chửu giải nghĩa: “Sắc: Sắc đẹp, gái đẹp. Như hiếu sắc 好色 thích gái đẹp”.
O
Oanh yến (oanh: chim oanh, yến: chim yến) Những người phụ nữ làm nghề ca hát trong chế độ cũ:Vô tình chi bấy, oanh yến kia hát gió ngân trăng (PhBChâu); Lọ là oanh yến hẹn hò (BCKV).
   Cách giải thích này hoàn toàn phỏng đoán theo ý soạn giả. Theo Từ điển Truyện Kiều - Đào Duy Anh, yến anh (oanh) hoặc oanh yến có hai nghĩa: 1.“Tỷ dụ người đi chơi lũ lượt, tấp nập, như chim én, chim oanh bay từng đàn tíu tít trong tiết xuân”. (Truyện Kiều: Gần xa nô nức yến anh, Chị em sắm sửa bộ hành chời xuân - Chính là nghĩa “oanh yến” trong ví dụ thứ nhất của GS Nguyễn Lân). 2.“Tỷ dụ chơi bời hoa nguyệt”. (Mây mưa đánh đổ đá vàng, Quá chiều nên đã chán chường yến anh - Kiều - Chính là nghĩa “oanh yến” trong ví dụ thứ hai của GS Nguyễn Lân). Điều đáng chú ý là đến mục từ Yến oanh phần cuối sách lại được soạn giả giải nghĩa khác hẳn: (Yến: chim yến; oanh: chim hoàng oanh: hai loại chim này hay bay từng đôi, trống và mái) Tình trai gái :Dám đâu học thói yến oanh, Mặn tình trăng gió, nhạt tình lửa hương (BCKN).
Ô
Ô nhục (ô: vẩn đục)
Ô trọc (ô: vẩn đục)
Chính xác chữ “ô” (洿)nghĩa là nước tù, nước đọng, nhơ bẩn.“Vẩn đục” không đồng nghĩa với “nhơ bẩn”.
Ống điếu. Đồ dùng để nhét thuốc lá vào rồi đốt mà hút.
Vật GS mô tả thực ra là cái tẩu hút thuốc. Còn “ống điếu” lại chỉ vật dụng có thêm cái nõ dùng để hút thuốc lào.
Ơ
Ở ẩn. Sống ở một nơi hẻo lánh để không tiếp xúc với xã hội.
Thực ra ở ẩn chính xác phải là sống lánh đời, thể hiện chí khí hoặc giữ gìn khí tiết của nhà Nho hay bậc hiền nhân ngày xưa.
Ời ời Nói tiếng gọi không dứt: Thằng Cuội ngồi gốc cây đa, Để trâu ăn lúa gọi cha ời ời.
Thực ra "tiếng gọi không dứt" thì có thể chỉ nhiều kiểu tiếng gọi. Còn ời ời phải là tiếng gọi với, vang vọng từ một nơi xa, nghe gấp gáp, bức thiết mà không rõ lời. Trong ngôn ngữ thường ngày, từ này ít dùng. Dường như nó chỉ xuất hiện và thực sự đắt trong câu ca dao làm ví dụ của soạn giả.
P
Phi nghĩa (nghĩa: điều phải làm)
Thực ra “nghĩa” đây là nghĩa lý. Còn “điều phải làm” thì nhiều không sao kể xiết.
Q
Quạ ăn dưa bắt cò dãi nắng. Ý nói: Bắt người vô tội chịu hình phạt thay kẻ có tội: Trong chế độ thực dân, thường có chuyện quạ ăn dưa bắt cò dãi nắng.
   Thực ra, quạ là giống chim đa thực. Ngoài gà con, xác thối...chúng còn rất thích ăn các thứ quả như mít, dưa hấu...Tục ngữ có câu “Nắng tốt dưa, mưa tốt lúa”. Thời tiết nắng nhiều khiến quạ được chén những quả dưa ngọt lành. Trong khi đó, cò không ăn được dưa (loài chim này chỉ ăn tôm tép, cá con, côn trùng…) lại phải chịu chung đặc điểm thời tiết nắng nóng chang chang ấy (đôi khi làm cạn nước, chết hết cá tôm, ảnh hưởng đến môi trường kiếm ăn của cò). Ý thành ngữ muốn nói: Hoàn cảnh thuận lợi của người này đôi khi lại chính là khó khăn vất vả đối với người kia. Cách giải thích: “Bắt người vô tội chịu hình phạt thay kẻ có tội” của GS Nguyễn Lân suy diễn quá xa nghĩa bóng của thành ngữ.
Quý hồ tinh bất quý hồ đa (tinh: trong trẻo).
Gs lại mắc lỗi đồng âm, dị tự, dị nghĩa. Chữ “tinh” mà soạn giả chú nghĩa “trong trẻo” có tự dạng () và nghĩa chính xác là trong sáng, được dùng trong kết hợp từ thủy tinh (水晶).Còn chữ tinh()trong tinh lọc, tinh tuyển mới đúng là chữ được dùng trong câu tục ngữ Quý hồ tinh bất quý hồ đa.Thiều Chửu:“Vật gì đã lọc bỏ hết chất xấu rồi đều gọi là tinh”.
R
Rau muống. Thứ rau phổ biến nhất ở nước ta, cùng họ với khoai lang trồng ở ao hoặc ở trên cạn.
Không biết căn cứ vào đâu mà GS lại cho rau muống “cùng họ với khoai lang”. Bách khoa toàn thư mở - WikipediaRau muống (danh pháp hai phầnIpomoea aquatica) là một loài thực vật nhiệt đới bán thủy sinh thuộc họ Bìm bìm (Convolvulaceae), là một loại rau ăn lá”.
Rắn giáo. rắn đầu nhọn, mình dài: Thằn lằn, rắn giáo.
Cái sai này xuất phát từ chỗ phát âm không phân biệt được GiR, dẫn đến viết sai chính tả rồi suy diễn. Ở nước ta không có loại rắn nào tên là rắn giáo, mà chỉ có rắn ráo.
Rắn cạp nia. Rắn độc, mình có những vằn tròn đen và trắng liên tiếp nhau.
Từ “vằn” phải thay bằng khoang, từ “liên tiếp” phải thay bằng xen kẽ: mình có những khoang tròn đen, trắng xen kẽ nhau.
S
Sáng kiến (sáng: bắt đầu, gây dựng nên; kiến: thấy)
Thực ra sáng ở đây nghĩa là mới. Sáng kiến là cách làm mới tìm ra.
Sắc bất ba đào dị nịch nhân ((ba: sóng; đào: dậy sóng)
Chính xác: Ba = sóng nhỏ; đào = sóng lớn.
Sơ cứng. Không linh hoạt: Giải quyết vấn đề một cách sơ cứng.
Ở đây soạn giả viết sai chính tả. Tiếng Việt chỉ có từ xơ cứng, không có “sơ cứng”.
T
Tán phó mát. Theo bài ngụ ngôn “Con quạ và con cáo của La Fontaine con cáo tán con quạ để nói bỏ rơi miếng phó-mát) Có nghĩa ngồi với nhau nói những chuyện bâng quơ.
“Con quạ và con cáo” là câu chuyện ngụ ngôn viết bằng thơ của La Fontaine chứ không phải là một bài thơ. Dùng từ “bài ngụ ngôn” là không đúng. Hơn nữa, câu này GS giải thích mâu thuẫn với chính ý nghĩa và nguồn gốc của câu thành ngữ đưa ra. Một buổi sáng trong rừng, cáo thức dậy với cái bụng đói meo. Khi nhìn thấy quạ cắp một miếng phó-mát, nó nghĩ rằng không phải tìm bữa sáng ở đâu xa nữa, bèn dùng lời tán tỉnh quạ rằng: với một bộ lông bóng mượt như vậy, chắc hẳn tiếng hót của quạ sẽ  hay lắm ! Quạ bị lừa, đắc ý há mỏ cất tiếng kêu để rơi miếng phó-mát xuống đất, biếu không miếng mồi ngon cho cáo ranh mãnh. Như vậy, “Tán phó-mát” không phải là “những chuyện bâng quơ” vô bổ, không có chủ đề, mục đích, mà là những lời tán tỉnh, tâng bốc lừa phỉnh mới đúng.
Tế độ chúng sinh (chúng: nhiều; sinh: cuộc sống) Nói Phật cứu giúp mọi sinh vật ra khỏi bể khổ.
Thực ra “sinh” ở đây phải hiểu là sinh vật, muôn loài, không phải nghĩa là "cuộc sống".
   Thóc lép Nói hạt thóc nhỏ hơn bình thường. Năm ấy hạn hán nên nhiều thóc lép.
   Giải nghĩa như thế là chưa nhìn thấy hạt thóc lép bao giờ. Và cái cơ bản thóc lép khác thóc mẩy ở bên trong chứ không phải bên ngoài. Thóc lép có hai loại. Loại 1: lép lửng (còn gọi lúa trửng hay lúa kẹ) chứa rất ít tinh bột, có khi chỉ bằng 1/3 thóc mẩy. Loại 2: lép hoàn toàn, chỉ có vỏ mà không có chất dinh dưỡng. Như thế, “hạt thóc nhỏ hơn bình thường” không phải là thuộc tính của thóc lép.
Thống lĩnh (Thống: chỉ huy; lĩnh: trông coi) Chỉ huy toàn thể quân đội.
Thực ra “thống” ở đây là thâu tóm; “lĩnh” nghĩa là đứng đầu; thống lĩnh là người đứng đầu thâu tóm tất cả.
Thủy tạ (tạ: ngôi nhà xinh) Ngôi nhà xây trên mặt nước để làm nơi giải trí: Nhà thủy tạ ở Hồ Tây.
Chữ “tạ” theo Thiều Chửu: “Sàn, nhà tập võ, cái đài có nhà ở gọi là tạ”. Như vậy, chữ tạ trong thủy tạ có nghĩa là “cái đài có nhà ở”. Có lẽ soạn giả ngắm nhà thủy tạ ở Hồ Tây thấy nó xinh xắn quá nên tự cho rằng chữ tạ ở đây phải có nghĩa là ngôi nhà xinh.
Tức như bò đá (Thực ra bò không thể đá được) Bực mình vì một chuyện rất vô lý.
Chưa nhìn thấy bò đá bao giờ không có nghĩa "bò không thể đá được". Tuy không ra được những cú song phi uy lực, dứt khoát như ngựa, nhưng bò vẫn đá theo kiểu của bò. Đó là kiểu đá hất một chân ra phía sau. Bình thường, bò là con vật nhút nhát, hiền lành, chậm chạp đến độ bị coi “ngu như bò”. Thế nên người ta có tâm lý xem thường, ít để ý đến nó. Tuy nhiên, đôi khi đi ngang qua hoặc đứng phía sau đuôi bò (do bị giật mình) nó vẫn bất ngờ “ra đòn” đánh “nhằng” một phát. Người bị bò đá đã đau lại bị một phen giật mình, hồn vía lên mây. Định thần lại mới hóa ra nguyên nhân chính từ “kẻ ngu đần” kia. Bực tức, mà chẳng làm gì được, thậm chí có điên tiết lên quất cho nó mấy roi cũng đến thế. Tức như bò đá là như vậy. Ý nói: bỗng dưng gặp phải chuyện bị ức chế, bực mình, rất tức mà chẳng làm gì được.
U
Uyên ương (Loài ngỗng trời, uyên là ngỗng đực, ương là ngỗng cái, tục truyền hai con bao giờ cũng đi với nhau). Vợ chồng yêu thương nhau.
Không đúng. Uyên ương thuộc loài vịt chứ không phải loài ngỗng. Theo Bách khoa toàn thư mở: Uyên ương (danh pháp hai phầnAix galericulata) là một loài vịt đậu cây kích thước trung bình, có quan hệ họ hàng gần gũi với vịt Carolina ở Bắc Mỹ”. Vì uyên ương là một loài vịt, chúng có tập tính, môi trường kiếm ăn giống nhau nên thành ngữ gốc Hán có câu: “Đả áp kinh uyên ương” - đánh con vịt lại sợ động chạm đến con uyên ương là vậy.
Ư
Ướt đẫm Nói mồ hôi thấm đầy vào quần áo: Tay mang khăn gói sang sông, Mồ hôi ướt đẫm, thương chồng phải theo (ca dao).
Từ ướt đẫm không chỉ dùng riêng để “Nói mồ hôi thấm đầy vào quần áo”. Soạn giả mới giải nghĩa từ “ướt đẫm” trong văn cảnh cụ thể của  câu ca dao chứ chưa phải giải nghĩa từ vựng. Người ta vẫn viết và nói ướt đẫm mưa, ướt đẫm nước mắt, ướt đẫm sương v.v... Ví dụ: Tàu chuối ướt đẫm sương đêm. Nghĩa từ vựng phải là nghĩa tổng quát, bao hàm để từ đó người nói, người viết có thể vận dụng vào nhiều trường hợp khác theo cách mà từ điển đã chỉ dẫn. Từ ướt đẫm có thể được dùng trong các trường hợp chỉ ướt đều, ướt hết, ướt mà thấm.
V
Vịt xiêm Giống vịt to, người ta nói nhập từ Thái Lan. Trong sân nhà có đôi vịt xiêm rất lớn.
Thực ra, vịt xiêm là cách gọi tên con ngan của người miền Nam.
Vọng tộc (Vọng: trông xa; tộc:họ) Gia đình có danh tiếng lớn trong xã hội phong kiến.
Thực ra vọng ở đây không phải là “trông xa”. Thiều Chửu giảng nghĩa: “Có cái để cho người chiêm ngưỡng gọi là vọng, như danh vọng 名望, uy vọng 威望, v.v”. Chữ vọng trong vọng tộc chính là theo nghĩa mà Thiều Chửu đã giảng.
Vồ lắm lại vật đau. Chê người lúc đầu đối xử rất tử tế, nhưng về sau vì chạm đến quyền lợi nên lại ăn ở tệ: Ông ấy mới ở ngoại quốc về thì bà ấy săn đón thế, nhưng rồi đây, vồ lắm lại vật đau cho mà xem.
Chính xác phải là “Vồ lắm vập đau” (không có chữ "lại"; chứ “vật” thay bằng chữ "vập"). Ở đây, dân gian chơi chữ “vồ” và “vập”. Ban đầu thì vồn vã, săn đón, vồ (vập) cho lắm vào, đến sau lại vập (đánh nhau) cho đau. Nếu viết "Vồ lắm lại vật đau" thì còn gì là chữ với nghĩa nữa !
Vợ đàn bà, nhà hướng nam. Câu này có vẻ ngớ ngẩn, nhưng chỉ muốn tỏ rằng nhà hướng nam thì tốt, theo lẽ tất nhiên như người vợ phải là đàn bà.
Không hiểu tục ngữ nói gì không có nghĩa tục ngữ "ngớ ngẩn". Đàn bà hay đàn ông cũng có năm bảy loại. Có khi đàn ông nhưng tướng mạo lại ẽo ợt, thiếu bản lĩnh, sống nhỏ mọn, bon chen, chấp nhặt…Trong khi đàn ông thực thụ tướng mạo khôi ngô, rắn rỏi, bản lĩnh vững vàng, trượng nghĩa...Cũng như đàn bà thực sự phải mang vẻ đằm thắm, dịu dàng, chu đáo, biết thương chồng thương con, thu vén cho cuộc sống gia đình... Chẳng may vớ phải cô vợ trông thô kệch như đàn ông, ăn to nói lớn, vụng về, không biết vun thém cho gia đình, ấy là lấy phải người vợ không phải đàn bà. Chưa kể đến nghĩa đen: có khi lấy phải người nam không ra nam, nữ không ra nữ (lỗi tạo hóa theo dân gian, hay rối loạn giới tính theo khoa học). Hoặc bề ngoài là nữ nhưng thực chất lại là nam. Trong xã hội hiện đại, không thiếu những cặp vợ chồng về chung sống với nhau, thậm chí có con có cái rồi mới phát hiện ra là giới tính của vợ hoặc chồng “có vấn đề”. Thế nên chưa hẳn theo lẽ tất nhiên “ người vợ phải là đàn bà” như quan niệm đơn giản của GS Nguyễn Lân. Tục ngữ không hề “ngớ ngẩn” mà còn vô cùng sâu sắc và kinh nghiệm, đi trước thời đại.
Vuông như bánh chưng tám góc. Rất vuông vắn: Một cái bàn vuông như bánh chưng tám góc.
Nếu có tới tám góc thì đó là hình bát giác. Đây là cách nói ngược, nghĩa đen có ý chế diễu người gói bánh chưng vụng, vuông chẳng thành vuông mà lại “xéo xèo xẹo” như hình bát giác.
X
Xanh rì. Có màu xanh lá cây đậm: Cửa son đỏ loét tùm hum nóc, Bậc đá xanh rì lún phún rêu (HXHương); Trắng phau ngựa trắng xanh rì rừng xanh (Tản Đà)
Xanh rờn. Như màu xanh của cỏ tươi: Nắng vàng mát và cỏ xanh rờn (NgTuân)
Thực ra, cả hai từ "xanh rì""xanh rờn" đều giành để mô tả màu xanh sống động của thiên nhiên, gắn với màu xanhtính chất của cỏ cây chứ không phải màu sắc của các đồ vật hay tranh vẽ. "Xanh rì" thường dùng cho màu xanh hơi tối của lá cỏ rậm rạp (có từ rậm rì là như vậy). Còn xanh rờn lại là màu xanh non mơn mởn của cây cỏ. Không ai nói cái áo màu xanh rờn hay xanh rì. Vì tính chất của cái áo là một vật thể chết, nó chẳng có trạng thái của sắc màu gắn liền với rậm rạp hay thưa thoáng, già hay non.
Xanh rớt. Nói nước da xanh quá.
Xanh lè hay xanh lét, xanh rợn cũng là một kiểu “xanh quá”, rất xanh. Thế nên để phân biệt với những cái rất xanh khác, xanh rớt phải được giải nghĩa là xanh một cách yếu ớt; thường dùng để chỉ nước da xanh biểu hiện ốm yếu, bệnh tật, thiếu sức sống.
Xào xạc Nói tiếng động của nhiều thứ chạm vào nhau: Em không nghe rừng thu, Lá thu kêu xào xạc (Lưu Trọng Lư).
Sỏi đá, gạch, ngói, gỗ, sắt cùng va chạm với nhau cũng là "nhiều thứ" chạm vào nhau, nhưng không bao giờ âm thanh chạm vào nhau của chúng được gọi là "xào xạc". Thuộc tính của "xào xạc" phải là tiếng của cành lá giao nhau, chạm nhau khi có gió lay, nghe mơ hồ và rất êm nhẹ (như chính câu thơ của Lưu Trọng Lư ấy)
Xào xáo Nấu thức ăn bằng dầu mỡ và mắm muối: Tính anh ấy dễ dãi, vợ xào xáo thứ gì thì ăn thứ ấy.
Nấu thức ăn bằng dầu mỡ mắm muối gọi là "xào" cứ không phải là "xào xáo". Còn "xào xáo" theo nghĩa "vợ xào xáo thứ gì ăn thứ ấy" lại có nghĩa là nấu qua loa, nấu cho nhanh, không thành món xào cũng chẳng phải món xáo.
Xáo Nấu thịt với các gia vị: Ông ơi ông vớt tôi nao, Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng (cd); Mười voi không được bát nước xáo (tng).
Thịt kho tàu, kho nghệ hay kho với cà chua đều có thể gọi là cách "nấu thịt với các gia vị". Thuộc tính của món "xáo" là phải có nhiều nước. Thế nên hai câu tiếp theo trong bài ca dao mới là: Có xáo thì xáo nước trong, Đừng xáo nước đục đau lòng cò con. Câu "Ba voi không được bát nước xáo" cũng là nói về món có nhiều nước là vậy đó.
Y
Yêu nhau rào dậu cho kín. Ý nói: khi yêu nhau thì người ta cố che đậy những cái sai sót của nhau: Hai ông ấy rất thân nhau, nên họ luôn bênh vực nhau, yêu nhau rào dậu cho kín mà.
Thực ra “rào dậu” không phải là “che đậy những cái sai sót của nhau”. Đây là dị bản có ý nhấn mạnh của “Yêu nhau thì rào dậu”. Nghĩa đen: Hai nhà ở cạnh nhau, dù thân đến mấy cũng nên có hàng rào ngăn cách nhà nọ với nhà kia tạo ra không gian tự do, độc lập. Không nên vì yêu nhau mà phá vỡ ranh giới, sẽ dẫn đến va chạm, thắc mắc dễ xa nhau. Nghĩa bóng: trong mối quan hệ tình cảm nếu muốn giữ bền chặt, lâu dài thì cần thực hiện những nguyên tắc sống, lối ứng xử, cẩn thận, kín kẽ, đặc biệt là những gì liên quan đến vật chất, tiền bạc phải rõ ràng. Không nên xuề xòa, lâu dần sẽ nảy sinh tâm lý thắc mắc, hơn thua khiến người ta dễ xa nhau.
Kẻ mạo muội viết bài này, dù chưa hết ý, cạn lời, nếu có chỗ nào mạo phạm, xin được anh hồn Nhà từ điển học nổi tiếng GS Nguyễn Lân đại xá và các bậc cao minh cùng độc giả chỉ giáo.
Nội dung trên đây được lược trích từ “Phê bình từ điển” - bản thảo đã được Ban lý luận phê bình, dịch thuật-Hội văn học Nghệ thuật Thanh Hóa thẩm định tháng 6/2013 và cấp kinh phí tài trợ xuất bản 2014. Bạn đọc có thể tìm nội dung đầy đủ hơn trong tuancongthuphong.blogspot.com.
H.T.C
Tác giả gửi Quê Choa
Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm riêng của tác giả