Tổng số lượt xem trang

Thứ Sáu, 11 tháng 10, 2013

Bài đáng chú ý - Chữ Nhẫn gồm có chữ Tâm và chữ Đao

Đảng Cộng sản cần tái cơ cấu chính mình

Be-mac-8-305.jpg
Hội nghị Trung ương 8 diễn ra từ ngày 30/9 đến ngày 9/10 tại Hà Nội.  Courtesy chinhphu.vn
Hội nghị Trung ương 8 diễn ra sau cánh cửa khép kín ở Hà Nội. Kết quả 10 ngày thảo luận của Trung ương Đảng, được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đúc kết ngày 9/10 cho thấy, đường lối lãnh đạo đất nước của đảng Cộng sản không thay đổi, dù Đảng nhìn nhận thất bại kinh tế chưa rõ lối thoát.

Bản chất chế độ không thay đổi

Bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng được đăng nguyên văn trên truyền thông báo chí chính thức có đoạn nói rằng, việc đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, thực hiện 3 đột phá chiến lược mới chỉ là bước đầu, còn chậm và nhiều bất cập. Đặc biệt, Đề án tổng thể tái cấu trúc nền kinh tế chưa thực sự định hướng được cho việc tái cấu trúc các ngành, lĩnh vực trên phạm vi cả nước và các vùng.
Nhận định về vấn đề vừa nêu TS Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển IDS đã tự giải thể, từ Hà Nội phát biểu:
Chừng nào vẫn đường lối như bây giờ, vẫn khư khư đất đai sở hữu toàn dân vẫn cứ muốn kinh tế Nhà nước làm chủ đạo thì làm sao có thể tái cơ cấu được.
-TS Nguyễn Quang A
“Nền kinh tế này chỉ có thể tái cơ cấu khi đảng Cộng sản tái cơ cấu lại chính mình. Đó là về tổng thể, còn chừng nào vẫn đường lối như bây giờ, vẫn khư khư đất đai sở hữu toàn dân vẫn cứ muốn kinh tế Nhà nước làm chủ đạo thì làm sao có thể tái cơ cấu được.”
Xác định Việt Nam tiếp tục con đường kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh đến việc hoàn thiện thể chế này đồng bộ về hệ thống pháp luật, chính sách về kinh tế, kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế và các chủ thể kinh tế tham gia thị trường; và cơ chế vận hành nền kinh tế, trước hết là cơ chế hoạt động bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Trong dịp trả lời chúng tôi, chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan từ Hà Nội nhận định:
“Vì cải cách thế chế chậm nên các mục tiêu quan trọng của tái cơ cấu kinh tế cho đến nay cũng chưa được thực hiện bao nhiêu. Thí dụ như tái cơ cấu ngân hàng, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, tái cơ cấu đầu tư công đều chậm. Tình hình kinh tế khó khăn trong mấy năm vừa qua liên tục kéo dài cho đến năm nay, triển vọng cũng chưa rõ trong thời gian tới. Ý kiến chung cũng cho là nguyên nhân chính là do cải cách thể chế không được tiến hành đúng như yêu cầu cần thiết.Cải cách thể chế ở đây trên cơ sở phải làm rõ ra được vai trò giữa Nhà nước và thị trường, phân định được  rõ vai trò của Nhà nước và thị trường.”
nguyen-phu-trong-300913-250.jpg
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại Hội nghị Trung ương 8 hôm 30/9. Photo courtesy of chinhphu.vn
Trong bài phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 8, ông Nguyễn Phú Trọng hàm ý Hiến pháp Việt Nam dù chuẩn bị sửa đổi nhưng sẽ không thay đổi bản chất của chế độ. Ông Trọng lưu ý Đảng đoàn Quốc hội và các cơ quan chức năng phải theo đúng định hướng của Trung ương Đảng hoàn tất Dự thảo Hiến pháp sửa đổi, để Quốc hội thông qua vào kỳ họp thứ 6 sắp tới.
Đối với việc chậm cải cách chính trị kinh tế, ông Bùi Kiến Thành chuyên gia tài chánh hiện sống và làm việc ở Hà Nội nhận định:
“Nếu nói như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là sẽ không có và không khi nào có vấn đề tam quyền phân lập ở đất nước này, thì như thế làm gì có tự do làm gì có vấn đề nhân quyền, làm gì có sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế được.”

Chính sách mất lòng dân

Đúc kết khi bế mạc Hội nghị Trung ương 8, một lần nữa, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thay mặt Đảng báo động về tình trạng an ninh chính trị tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định. Bảo vệ chủ quyền quốc gia đứng trước nhiều thách thức.
Theo nhận định của Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thế Hùng hiện sống và làm việc ở Đà Nẵng, chính Đảng và Nhà nước đã thực hiện những đường lối chính sách làm mất lòng dân, đi ngược lại quyền lợi người dân cho nên xã hội mới tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định. Ông nói:
“Quyền lợi Tổ quốc là trên hết, những vấn đề quan trọng phải đưa ra Quốc hội thảo luận. Thậm chí phải tổ chức những Hội nghị Diên Hồng cho dân chúng góp ý. Cần xây dựng Nhà nước Pháp quyền, theo những thể chế tiên tiến thí dụ như tam quyền phân lập để chống tham nhũng, nghĩa là thiết lập một xã hội trong sạch, bầu cử tự do đưa những người tài giỏi lãnh đạo đất nước. Như vậy người dân ai nấy đều vui vẻ đồng lòng.”
Nhận định về cảnh báo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng theo nguyên văn “Bảo vệ chủ quyền quốc gia đứng trước nhiều thách thức”. Mặc dù ông Trọng không đề cập một từ nào liên quan đến những kẻ đe dọa chủ quyền Việt Nam, nhưng người đọc báo chỉ có thể liên tưởng đến tham vọng của Bắc Kinh muốn chiếm cứ toàn bộ Biển Đông với đường chủ quyền hình lưỡi bò. GSTS Nguyễn Thế Hùng nhận định:
Quyền lợi Tổ quốc là trên hết, những vấn đề quan trọng phải đưa ra Quốc hội thảo luận. Thậm chí phải tổ chức những Hội nghị Diên Hồng cho dân chúng góp ý.
-GS Nguyễn Thế Hùng
“Nếu như không có cường quốc hàng đầu là Mỹ, Nhật rồi Ấn Độ, các nước tiên tiến khác thì Biển Đông đã mất từ lâu rồi. Chứ Việt Nam làm sao mà giữ Biển Đông được, ngoài biển khơi ai mạnh thì được. Tưởng rằng chúng ta ai cũng phải thấy những thế lực nào là thù địch muốn chiếm Biển Đông và thế lực nào yêu chuộng hòa bình muốn giữ ổn định thế giới. Các nước trông thấy là nếu Trung Quốc thắng, chiếm Biển Đông, độc quyền Biển Đông thì sẽ làm mất ổn định thế giới. Giữ ổn định thế giới là người ta giúp Việt Nam. Các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước phải phân định được ai là thù ai là bạn, chứ không nên quá mơ màng như vậy.”
Trước một nền giáo dục đào tạo lạc hậu không theo kịp khu vực, không đào tạo ra những thợ chuyên môn hay chuyên viên kỹ thuật đáp ứng nhu cầu phát triển. Trung ương Đảng cũng hứa hẹn đổi mới toàn diện giáo dục đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Nhận định về vấn đề đổi mới toàn diện giáo dục đào tạo ở mọi cấp học mọi ngành học theo lời ông Nguyễn Phú Trọng, Tiến sĩ Nguyễn Quang A nhận định:
“Để đào tạo được những người thực sự cần thiết cho nền kinh tế thì mảng cao đẳng, đại học phải thực sự có cạnh tranh. Các trường phải được tự trị và lúc đó mới đáp ứng được. Còn vẫn cứ muốn chính trị hóa ở bậc học trên như thế thì chỉ có thể cải thiện một chút gì đó, nhưng sẽ không giải quyết được triệt để. Không nên để đảng hoạt động trong trường học, cũng như trong nhà máy, trong quân đội hay là trong bộ máy nhà nước, như thế trong hệ thống giáo dục cũng không cần có những tổ chức như vậy.”
Cùng về vấn đề Đảng hứa hẹn đổi mới toàn diện giáo dục đào tạo trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thế Hùng một nhà giáo chuyên nghiệp ở Đà Nẵng cho rằng cần có tự trị đại học, cần thay đổi đào tạo có phẩm chất, không nên chạy theo số lượng. Ông nói:
“Một trong những thay đổi cơ bản nhất là phải có một triết lý giáo dục lành mạnh. Các nước tiên tiến người ta không đưa chính trị vào học đường. Đào tạo là làm sao khai trí, khi mở được trí học được giá trị phổ quát của nhân loại rồi, trí tuệ thông minh rồi từ đó anh nhận xét cái này đúng, cái kia sai, đó là triết lý giáo dục. Chứ không thể hướng người ta cái này đúng cái kia sai, làm mất tính khách quan trong nghiên cứu  khoa học, mất khách quan trong vấn đề nhận xét thế giới.”
Mặc dù Tổng Bí thư  Nguyễn Phú Trọng gọi Hội nghị Trung ương 8, một hội nghị giữa nhiệm kỳ là có tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, xem xét các vấn đề một cách khách quan khoa học. Nhưng các học giả chuyên gia lại nói ngược lại là Đảng Cộng sản không nhìn thẳng vào điều gọi là cuộc khủng hoảng toàn diện ở Việt Nam cả về chính trị, kinh tế, xã hội. Chúng tôi xin lập lại lời TS Nguyễn Quang A, khi nào Đảng Cộng sản chưa tái cơ cấu chính mình, thì Việt Nam chưa thể ra khỏi những bế tắc triền miên.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp và những ước nguyện không thành


000_Hkg1467615-305.jpg
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, ảnh chụp năm 2008 tại Hà Nội.AFP
Một chỉ huy quân đội trong chiến tranh chống Pháp được mệnh danh Con hùm xám đường số 4, trung tá Đặng Văn Việt là sĩ quan dưới quyền Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Trước sự ra đi của người chỉ huy trước đây, ông Đặng Văn Việt có một số chia sẻ về tình cảm riêng đối với Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng như một số những điều mà ông cho là ước nguyện không thành và bi kịch trong cuộc đời của người mới qua đời.
Những sức cản của chế độ

Trước hết ông Đặng Văn Việt bày tỏ:

Đặng Văn Việt: Trong thời kỳ chiến tranh chống Pháp, tôi là người may mắn gần gũi với Bác Giáp không phải hằng năm, hằng tháng mà có khi hằng ngày khi tôi ở Bộ Tổng Tham Mưu thời kỳ 46. Đến năm 47 tôi lên mặt trận đường số 4 Cao - Bắc - Lạng lại phụ trách trung đoàn chủ lực trực thuộc Bác Giáp, cho nên cấp trên trực tiếp của tôi là bác Giáp. Trong các chiến dịch lớn nhỏ, Bác Giáp lại có thiện ý - vào những lúc khó khăn nhất, trong những trận có tính chất quyết định nhất- đều nghĩ đến sử dụng Trung đoàn Cao - Bắc - Lạng, trung đoàn của tôi mà tôi là chỉ huy trưởng.

Lần này Bác Giáp mất, đối với tôi là một tổn thương lớn trong tình cảm, quan hệ giữa người thủ trưởng và người cán bộ chỉ huy trực tiếp. Tôi với Bác Giáp có rất nhiều kỷ niệm: vui có, buồn có. Lúc này Bác Giáp ra đi rồi, tôi mong Bác sẽ yên vui nơi cực lạc và sẽ luôn theo dõi sự tiến triển của đất nước. Về mặt tâm linh, nếu như những điều gì mà Bác trong lúc còn sống không làm được; về mặt tâm linh khi Bác qua đời mà thực sự có ảnh hưởng, tôi cũng mong Bác phát huy được tác dụng của Bác đối với những người lãnh đạo hiện nay, giúp cho đất nước phát triển tốt hơn, đẹp hơn.

Gia Minh: Ông biết Đại tướng có những ước nguyện mà không thực hiện được, vậy xin ông cho biết vì sao trong đời Đại tướng không thể thực hiện được những ước nguyện đó?

Đặng Văn Việt: (Cười) Nói chung Bác Giáp là người có công lớn đối với đất nước, nhưng trong cuộc đời của Bác cũng có những cái bất hạnh mà nếu như không phải là những người ở gần Bác không thể hiểu được.
000_Hkg9064931-250.jpg
Báo chí Việt Nam đăng tải hình ảnh Đại tướng Võ Nguyên Giáp, ảnh chụp ngày 05 tháng 10 năm 2013 tại Hà Nội. AFP PHOTO.
Ví dụ bản thân tôi là một cán bộ trực quyền, dưới quyền của Bác Giáp; đáng lẽ Bác Giáp sử dụng những cán bộ thân cận như vậy cho những việc lớn; nhưng có khi Bác bị sức cản của những lực lượng xung quanh, làm cho Bác không thực hiện được. Đơn cử trong chiến dịch Điện Biên Phủ, nếu tôi còn ở trong chiến dịch ấy và dưới quyền chỉ huy của Tướng Giáp, tôi có thể giải quyết trận đánh A1 - trận quyết định chiến trường nhất của chiến dịch - một cách nhanh gọn hơn. Nhưng chính sách cán bộ lúc ấy điều tôi đi ra khỏi và vô hiệu hóa khả năng của cán bộ, tôi không được dưới quyền chỉ huy của Tướng Giáp nữa, nên trận đánh ấy phải trả giá rất đắt. Và Tướng Giáp rất đau lòng khi nghĩ đến không có những cán bộ tin cậy muốn dùng mà không được dùng như tôi chẳng hạn. Đó là một ví dụ có tính cách cá nhân mà Bác thì biết.
Chuyện độc quyền lãnh đạo

Gia Minh: Hiện nay trên thế giới và ở Việt Nam người ta có những ý kiến khác nhau khi nói về Đại tướng Võ Nguyên Giáp, trước những luồng ý kiến như thế, ông nói thế nào?

Đặng Văn Việt: Theo tôi, Tướng Giáp tuy rằng trong suốt cuộc đời đã là người đứng đầu Quân đội Nhân dân Việt Nam và đã đưa cuộc chiến tranh chống Pháp và sau này chống Mỹ đi đến thành công; nhưng  tôi là người ở gần Tướng Giáp suốt trong một thời gian dài, tôi cũng hiểu Tướng Giáp gặp một số những trắc trở mà Tướng Giáp không vượt lên được. Ví dụ như vấn đề sử dụng cán bộ thì chính sách sử dụng cán bộ của chế độ cộng sản dựa trên chủ nghĩa thành phần, chủ nghĩa lý lịch thành ra những người mà hơi bị vướng vào thành phần bị loại dần ra khỏi quân đội, và những người có trình độ mà Tướng Giáp tin cậy, ông không được dùng. Tôi tin đó là suy nghĩ không vui của Tướng Giáp trong quá trình làm tổng tư lệnh.

Tuy nhiên Tướng Giáp cũng có thời kỳ vượt lên được khó khăn đó, ví dụ trong thời gian chiến tranh luôn bên cạnh có những ông cố vấn Trung Quốc, giữa cố vấn Trung Quốc và Việt Nam có khi có những bất đồng, không đồng nhất với nhau; nhưng Tướng Giáp sau khi xuất phát từ thực tế chiến trường đã giữ được không hoàn toàn phụ thuộc vào sự giúp đỡ của cố vấn như trong chiến dịch Điện Biên: việc đánh nhanh, rút nhanh chuyển qua đánh chắc, thắng chắc là sáng kiến của Tướng Giáp. Hay như trong chiến dịch biên giới Thu - Đông 50, chủ trương đánh Cao Bằng, trận mở màn cho chiến dịch, sau khi đi nghiên cứu lại thực địa, Tướng Giáp đồng ý với tôi là người trung đoàn trưởng có nhiệm vụ đánh Cao Bằng là đánh Cao Bằng khó và có thể thương vong lớn, Tướng Giáp đi nghiên cứu lại thực địa và thay đổi chủ trương, vì đánh Cao Bằng 99% sẽ thất bại. Chiến dịch biên giới mà ngay từ trận đầu thất bại thì sẽ ảnh hưởng đến cục diện của cuộc kháng chiến.

Gia Minh: Lịch sử tại Việt Nam ghi về Tướng Giáp có còn điều gì chưa được nói ra không?

Đặng Văn Việt: Về điểm ấy như tôi nói: trong điều hành chiến tranh và đất nước luôn có những mâu thuẫn, những người lãnh đạo cao như Tướng Giáp, như Bác Hồ không phải lúc nào cũng được nghe hết cả đâu! Đơn cử như cải cách ruộng đất, Bác Hồ không muốn làm theo lối Trung Quốc, nhưng Bộ Chính Trị quyết định làm theo lối Trung Quốc thành ra Bác Hồ cũng chịu. Còn nhiều chuyện khác nữa cũng tương tự như vậy.

Chuyện độc quyền lãnh đạo với tập trung tất cả vào Bộ Chính Trị, lấy thiểu số phục tùng đa số; những nguyên tắc ấy làm cản trở cho việc bảo vệ những sáng kiến đúng, những nhận thức đúng trước những đa số sai lầm.

Gia Minh: Chúc ông khỏe, xin chào.
Gia Minh, biên tập viên RFA
2013-10-10

Đàm Vĩnh Hưng có lập dị và thực dụng?


Mấy bữa nay dân mạng xôn xao chuyện ca sỹ Đàm Vĩnh Hưng đến viếng Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại nhà riêng chiều 6-10-2013, sảy ra cãi cọ với các chiến sỹ cảnh vệ , gây phản cảm giữa chốn tôn nghiêm. Nguyên nhân là do Đàm Vĩnh Hưng không xếp hàng mà đi thẳng vào nơi đặt di ảnh Đại tướng, cảnh vệ yêu cầu Đàm Vĩnh Hưng xếp hàng , ca sỹ này không nghe, bị người chung quanh phản đối.
Dư luận cho rằng Đàm Vĩnh Hưng ỷ mình là “ngôi sao” muốn chơi trội, thiếu tôn trọng người khác, nhất là đối với các cựu chiến binh từ xa tới đã sắp hàng mấy tiếng đồng hồ. Đàm Vĩnh Hưng bảo mình đã gọi điện báo trước cho người nhà Đại tướng ra đón vảo viếng , và rằng : “ Nếu tôi sếp hàng thì sẽ xảy ra cảnh mọi người vây quanh tôi xin chụp ảnh hoặc xin chữ ký gây mất trật tự và phảm cảm hơn”. Trả lời báo chí, Đàm Vĩnh Hưng “mắng” những người phê phán mình là thiếu văn hóa?
Đại tướng Võ Nguyên Giáp là bậc khai quốc công thần,tài đức song toàn được nhân dân kính trọng, bạn bè nể phục, đặc biệt từ anh binh nhì đến cấp tướng đều coi ông là “Người người anh cả của lực lượng vũ trang nhân dân!”. Đại tướng mất đi gây nỗi tiếc thương vô hạn, mỗi người đều cảm thấy như mất người thân của mình. Hàng triệu người đã nhỏ lệ và hàng ngàn người trong đó có tôi, không quản đường xa dặm thẳng đã về Hà Nội viếng Người để bày tỏ lòng mình.
Không ai muốn giành cho mình một đặc ân trong cuộc viếng tang hoàn toàn tự nguyện này. Không ai thích nổi trội giữa không khí đau buồn này. Đó là đạo lý. Mọi người tự đến, tự đứng vào đội ngũ, trật tự, trang nghiêm, không chen lấn, không nói to. Chúng tôi hiểu rằng mình đã đến đây bằng lòng thành kính thì dù phải sắp hàng dài cỡ nào, lâu đến mấy cũng không ngại. Trong hàng người dài như vô tận ấy, không ít tướng lĩnh cùng thời với Đại tướng, nhiều nhà văn, nhà báo , nhà giáo, nghệ sỹ nồi tiếng có quan hệ thân thiết với Đại tướng và người nhà Đại tướng, nhưng không ai yêu cầu người nhà Đại tướng ra đón vào viếng như ca sỹ Đàm Vĩnh Hưng.
Nhẽ ra Đàm Vĩnh Hưng ăn mặc giản dị, hòa vào dòng người một cách khiêm tốn, thì tôi chắc mọi người sẽ yêu quý anh hơn. Nhưng Đàm Vĩnh Hưng đã gọi điện cho người nhà Đại tướng , yêu cầu ra đón tận cổng, rồi xuất hiện với bộ quần áo biểu diễn , ôm bó hoa to, có trợ lý đi kèm. Quan trọng quá! Nhiêu khê quá! Hình thức quá! Nổi trội quá ! Kiêu căng và nhố nhăng quá trong một khung cảnh hết sức nghiêm trang.
Đàm Vĩnh Hưng ngộ nhận mọi người sẽ xô tới xin chụp ảnh và xin chữ ký mình. Thật đáng buồn cho đầu óc tự phụ của một ca sỹ xuất thân từ anh thợ hớt tóc . Nên nhớ , với kiến thức thanh nhạc thiếu bài bản và với giọng hát nhừa nhựa, khàn khàn ít nội tâm của mình, Đàm Vĩnh Hưng không phải là “sao” của người sành âm nhạc. Tôi đã nghe rất nhiều người nói ,là thường bấm chuyển kênh khi thấy Đàm Vĩnh Hưng trên TV. Bởi thế sẽ không có chuyện mọi người xô tới xin chữ ký và chụp ảnh với Đàm Vĩnh Hưng trong lúc xếp hàng vào viếng viếng Đại tướng. Nói thế là tự phụ, là ngụy biện.

Ôi, Đàm Vĩnh Hưng hôn môi nhà sư rất chi là 'đắm đuối'!
Chỉ có thể giải thích cách hành xử cùa Đàm Vĩnh Hưng là muốn đánh bóng tên tuổi mình. Đây đâu phải lần đầu. Đàm Vĩnh Hưng đã tạo ra quá nhiều Scandan rồi, tiêu biểu là hôn môi nhà sư trên sân khấu, khiến nhà sư này sau đó phải hoàn tục.
Từ Đàm Vĩnh Hưng tôi nhớ tới một nhân vật khác.
Cụ H B S, quê Quảng Nam, là bậc lão thành cách mạng, nguyên thứ trưởng bộ ngoại giao, nên đám tang cụ được tổ chức rất trọng thể, có các vị lãnh đạo đảng , nhà nước và đại diện các bộ ngành đến viếng. Giữa lúc tang gia bối rối thì một gã mặt dày trán bóng xuất hiện. Gã đeo băng tang, đi ra đi vào, sai người này, bảo người kia, tự nhiên như ở nhà mình. Người nhà tưởng gã là cán bộ cơ quan cụ S, người cơ quan lại tưởng là người nhà của cụ . Khi các vị lãnh đạo đến viếng tang , gã bước tới tự giới thiệu là con cụ S, nhận lời chia buồn, tay phó nháy riêng đi kèm bấm máy lia lịa những tấm hình gã bắt tay các nhà lãnh đạo.
Sau đám tang có người hỏi cụ bà:
-Thế cụ ông có người con trai à?
Cụ bà cứ ngớ ra không hiểu đầu cua tai nheo gì. Bấy giờ mọi người mới truy tìm tung tích gã cha vơ chú vếu mặt vuông trán hói kia . Thì ra gã là một kẻ “buôn vua”.
Gã lợi dụng đám tang cụ HBS để tiếp cận các vị lãnh đạo. Gã nhận là con, ai muốn hiểu con đẻ, con nuôi thì tùy. Chỉ cần một lần tiếp xúc cũng đủ gây ấn tượng cho các vị lãnh đạo. Hình ảnh gã bắt tay ông nọ, bà kia sẽ được cắt xén công phu ép Plasstic , đó là cái vé ra vào nhà các vị khi cần, là lá bài để hắn lòe thiên hạ, để đe nẹt người khác về nhân thân và mối quan hệ của mình.
Được biết, bằng cách tiếp cận kể trên và nhiều chiêu tinh vi khác, gã “mặt dày trán bóng” kia đã trở thành “con nuôi” một số vị lãnh đạo cao cấp. Lợi dụng mối quan hệ đó, gã biến mình thành một kẻ siêu quyền lực, mua chuyện , bán tin, móc nối người này với người khác, lấy của chỗ này đút lót chỗ kia, tìm đường thăng quan tiến chức cho người nọ, người kia , chạy thuốc cho kẻ pham tội nhiều tiền, dìm chết người nay không có tiền, thế cô , vơ vét của cải làm giàu bất chính.
Anh H, một cán bộ ở Bộ TT&TT nói với tôi :
- Thằng này cũng nhận là con nuôi cụ Giáp. Hắn có tấm ảnh chụp chung với cụ. Một lần một nhóm tác giả đưa ra bản phác thảo quyển sách viết về cụ Giáp, hắn ngồi cạnh phán: “Viết về cụ Giáp thì phải hỏi tôi!”.
Ca sỹ Đàm Vĩnh Hưng gây những Scandal để đánh bóng tên tuổi, thu hút fan hâm mộ, nâng tiền case và kéo khán giả vào các sô diễn của mình.
Gã “mặt dày trán bóng” dùng cái mánh lới “buôn vua” từng quen của nhiều kẻ khác, để lừa đảo trục lợi.
Cà hai hạng người đó hiện đang tồn tại trong xã hội ta, một xã hội tự phỉnh nịnh mỉnh là tốt đẹp, mọi tầng nấc được sắp xếp trật tự, lô gic như một công thức toàn học, nhưng thực ra rất lỏng lẻo xô bồ, trong đó có những người tưởng rất thông minh, thận trọng nhưng lại ưa nịnh, trở nên quá dễ dãi đến mù quáng!
Tuân Tử nói: "Người chê ta mà chê phải là thầy của ta, người khen ta mà khen phải là bạn của ta, những kẻ vuốt ve nịnh bợ chính là kẻ thù của ta vậy". Lời người xưa thật trí lý nên suy ngẫm!
Minh Diện
(Blog Bùi Văn Bồng)

Phương Bích - Chữ Nhẫn gồm có chữ Tâm và chữ Đao


Hẳn là sau bài này, tôi sẽ mất đi nhiều người bạn. Nhưng quả là khó được lòng tất cả bạn bè trên facebook. Không hoàn toàn là muốn dĩ hòa vi quý, mà tôi vẫn bị dằn vặt giữa cái yêu và ghét, giữa thù hận và thứ tha.
“Chữ Nhẫn gồm có chữ Tâm và chữ Đao. Chữ Đao đâm xuống trái tim. Tức là phải chịu đau đớn một mình... để cuộc đời trôi qua ...êm ả”?
Những ngày qua, tình cảm trong tôi diễn biến khá phức tạp. Chưa bao giờ, sự ra đi của một người, lại gây sóng gió trong lòng người Việt đến thế, bởi kẻ yêu người ghét có lẽ chẳng kém gì nhau. Dăm ngày qua, những hàng người xếp hàng vào nhà cụ Võ Nguyên Giáp, để viếng cụ vẫn kéo dài không dứt, cứ như thể thi hài cụ đang thực sự hiện diện ở đó. Ngày nào cũng thế, người ta xếp hàng từ sáng sớm, cho đến đêm khuya. Nếu lớp người có tuổi đến viếng đã đành, nhưng trong dòng người ấy có rất nhiều thanh thiếu niên, chỉ tầm tuổi cháu chắt của cụ, họ biết và hiểu gì về cụ?
Đã có lúc tôi nghĩ đơn giản đó chỉ là sự tò mò, hiếu kỳ. Mặc dù tôi cũng đến viếng cụ, nhưng tình cảm lúc đó chỉ như đi viếng mọi con người bình thường khác, khi họ ra đi về bên kia thế giới. Nghĩa là cũng xúc động, cũng rơi nước mắt. Cũng có người nói, không hẳn là có tình cảm gì đặc biệt lắm, nhưng đây là một cơ hội hiếm hoi, phải đến một lần vừa là để viếng, vừa là để thăm nơi con người được nhiều người cho là một huyền thoại, đã sống hơn nửa thế kỷ tại đây. Nói thế thôi chứ khó lý giải lắm trước những hiện tượng đó. Giải thích cách gì cũng là phiến diện.
Tôi đã định không viết gì, trước hết vì đôi lúc nói ra sự thật khá nguy hiểm. Nó không chỉ động chạm đến người đã khuất, mà đến cả những người còn đang sống. Chỉ vì chuyện yêu ghét, khen chê mà nhiều người đang là bạn bè lại quay lưng lại với nhau sau những cuộc tranh cãi gay gắt, hoặc biết là không thể tranh luận, nên chỉ thất vọng về nhau trong im lặng. Có người vốn chẳng bao giờ quan tâm đến mọi sự kiện, lại dửng dưng nhìn tất cả những chuyện ồn ào đó, bảo cả đất nước đang lên đồng yêu, lên đồng ghét, lôi chuyện cũ ra bới móc mà quên đi cái thực tại, như ở Văn Giang và Trịnh Nguyễn đang dầu sôi lửa bỏng chuyện nông dân giữ đất.
Tôi như kẻ ba phải, ngơ ngác đứng giữa những hỗn loạn thông tin, những quan điểm trái chiều, thấy ai cũng có lý của họ. Họ cãi nhau và không ai đặt được mình vào địa vị của người khác, kể cả của người vừa mới nằm xuống. Cứ gì cụ Giáp, bất cứ mỗi sự ra đi của một người nào có ảnh hưởng đến xã hội như 2 nạn nhân, trong vụ bắn cán bộ địa chính ở Thái Bình, cũng đều chia dư luận ra làm 2 phe. Nhiều khi người ta tán thành, đồng ý, nhưng lại kèm theo chữ “nhưng mà” phía sau. Đúng là chuyện đời không đơn giản chỉ là “Yes” or “No”, mà còn “But” hay “If” nữa!
Khi một người nằm xuống, đó không phải là thời điểm thích hợp để lôi quá khứ ra mổ xẻ. Nhưng vì cả cuộc đời cụ gắn liền với một chế độ, mà không ai thống kê ra được là có bao nhiêu người yêu, bao nhiêu người ghét, bao nhiêu người sung sướng, bao nhiêu người đau khổ vì nó, nhất là cụ lại ở một vị trí đặc biệt như vậy thì khó tránh khỏi chuyện mổ xẻ kia. Thôi thì cũng đừng ai bức xúc quá về những bức xúc của người khác. Hãy công bằng cho họ được yêu, được ghét đi.
Thế thì cũng cho tôi bày tỏ chút ít. Những năm gần đây, tôi không còn thần tượng cụ Giáp như trước kia, không phải vì cụ nhẫn nhịn nhận cái chức trưởng ban sinh đẻ có kế hoạch, mà vì cụ không lên tiếng bảo vệ các tướng lĩnh khi họ bị thanh trừng. Tuy chỉ là dân thường, nhưng tôi luôn coi trọng cái nghĩa hơn cái tài. Thế nên, tôi rất buồn vì những thông tin thâm cung bí sử, có liên quan đến cuộc đời của cụ, mà chỉ vào thời đại internet mới được hé lộ, bởi những người tạm coi là người trong cuộc. Giờ đây, chỉ cần gõ vào google là ra rất nhiều bài viết về điều này. Có thể nó không hoàn toàn chính xác và khách quan, nhưng đáng tiếc là tôi lại tin vào điều đó.
Rất nhiều năm trước, đã có những xì xầm bàn tán, những bài viết truyền tay nhau trong xã hội, về những vụ “thanh trừng” người nào dám phản đối đường lối chính sách của đảng, mà họ cho là sai lầm. Cho dù những người đó là bậc công thần cỡ nào như cụ Hoàng Minh Chính, cụ Trần Xuân Bách, cụ Phạm Mạnh Tường, cụ Trần Độ....Trong bối cảnh đó, cụ Giáp muốn tồn tại buộc phải “Nhẫn”?
Ít ra cho đến bây giờ, người đời vẫn có kẻ trách cụ nhẫn quá thành nhục. Sau này những người được cho là hãm hại cụ hoặc đã về bên kia thế giới, hoặc cũng đã “về vườn”, lớp lãnh đạo trẻ kế tục cũng không khá gì hơn. Bề ngoài họ vờ vĩnh kính trọng cụ, nhưng phớt lời mọi ý kiến đóng góp của cụ trước những vấn đề hệ trọng của đất nước.
Có ai nghĩ rằng, cái “Nhẫn”của cụ Giáp cũng là một sự hy sinh không?
Cái “Nhẫn” của cụ là để cho lịch sử thấy, cách đối xử của những người cộng sản với nhau như thế nào?
Ví dụ ngay bản thân tôi, chỉ là một kẻ vô danh tiểu tốt, cũng không thích chịu ơn của kẻ mình khinh bỉ. Thế nên họ đểu cáng tôi lại thấy thanh thản, vì đã không mắc nợ họ điều gì.
Nếu cụ Giáp cáo lão từ quan, để tỏ rõ khí phách anh hùng thì chuyện gì sẽ xảy ra? Chắc gì cả thiên hạ đã hoan nghênh cụ? Có khi lúc đó thiên hạ lại kết tội cụ là một người lính đào ngũ, bỏ trống trận địa cho gian thần bách hại công thần?
Hình như chưa một ai trong hàng ngũ lãnh đạo cao cấp nhất, lại thực sự về vườn một cách đúng nghĩa. Không hẳn là vì họ tham quyền cố vị, mà có lẽ có một cơ chế nào đó, giống như vòng kim cô chẳng hạn, để họ khống chế lẫn nhau. Thế nên nếu cụ Giáp mà có ý từ quan thì đâu có dễ?
Vậy là cụ chịu nhẫn để ở lại với đời. Cụ như một tượng đài sống mà cả hai phía cùng muốn duy trì để lợi dụng. Một người bạn giải thích cho tôi, “Chữ Nhẫn gồm có chữ Tâm và chữ Đao. Chữ Đao đâm xuống trái tim. Tức là phải chịu đau đớn một mình... để cuộc đời trôi qua ...êm ả”. Tôi thích cách giải thích này.
Khôn ngoan không lại với giời, họ chơi xấu cụ thì thiên hạ mới thấy cái tâm địa xấu xa của họ được chứ? Ngay cái cách họ không nghe lời cụ, nhưng lại tỏ ra hiếu thảo với cụ đã tố cáo đó là trò hề. Bản thân họ cũng rối như gà mắc tóc, không biết xử trí thế nào ngay cả trước sự ra đi của cụ. Nào đâu cần họ đứng ra tổ chức Quốc tang, việc người dân tự nguyện đến viếng tại nhà cụ đã đủ làm họ ghen tức nổ ruột. Có ý kiến còn cho đó là sự phản kháng ngầm, có ý thách thức của dân chúng. Có lẽ nhìn khối người này, cũng lắm anh ngán lắm. May họ không dở cái bài cấm tụ tập đông người ở đây.
Thậm chí cho rằng dân chúng lên đồng đi, tôi vẫn dám chắc trong tất cả những người cộng sản, không có một ai được dân chúng tiễn đưa khi về bên kia thế giới như cụ Giáp. Đó mới chính là nỗi hận khó nuốt trôi của những người từng ganh ghét, hãm hại cụ. Buộc phải tổ chức Quốc tang, họ phải ngậm bò hòn làm ngọt. Thôi! Đó cũng là cách trả thù ngọt ngào rồi các bác ạ.
Mặc kệ ai tung hô, phong thánh. Mặc kệ ai chửi bới hay nguyền rủa, cụ ra núi Chùa đảo Yến nghỉ, cách xa mọi ồn ào của trần thế. Mấy ai ra đó được để mà quấy quả cụ. Người đời nay hay đời sau phán xét công hay tội thì cụ cũng đi xa rồi. Một trăm linh ba năm gánh gánh nặng cuộc đời, đã quá đủ với một con người rồi, phải không ạ.
Kính cụ về nơi yên giấc ngàn thu.
Đặng Phương Bích
11.10.13
(FB. Đặng Phương Bich)

Tướng Giáp – Trước và sau khi mất

000_Hkg9084159-305.jpg
Các bạn trẻ trong đồng phục áo dài với khung ảnh tướng Giáp trên tay đến tư gia ông hôm 10/10/2013   -AFP photo

Quốc tang trọng thể

Quốc tang của Đại tướng Võ Nguyên Giáp sẽ diễn ra trọng thể trong 2 ngày 12 và 13 tháng 10, với mấy chục sĩ quan cấp tướng túc trực bên linh cữu, có xe kéo pháo hộ tống linh cữu, lễ Truy điệu diễn ra ở Nhà tang lễ Quốc gia, đoàn xe tang đi qua khu phố trung tâm Hà Nội, dừng lại tư gia Đại tướng ở đường Hoàng Diệu trước khi tiến ra sân bay Nội Bài để máy bay đưa linh cữu Đại tướng cùng người thân, Ban lễ tang…về Đồng Hới, Quảng Bình, nơi Đại tướng Võ Nguyên Giáp an nghỉ ngàn thu tại Vũng Chùa, Đảo Yến.
Trong những ngày qua, báo chí nhà nước đồng loạt dồn dập ngợi ca một cách “ồ ạt đến nỗi không kịp đọc” – nói theo lời blogger Cánh Cò, cũng như hết lời tiếc thương cố Đại tướng Võ Nguyên Giáp, qua đó, theo GS Jonathan London thuộc Đại học TP Hong Kong, giới lãnh đạo Hà Nội xem chừng như muốn biến vị anh hùng Điện Biên thành một “biểu tượng mới của chế độ mang tính chính đáng không thể phủ nhận của đảng CSVN”.
Cảnh số lượng bài “báo lề đảng” dồn dập “đọc không kịp” cùng với việc tổ chức quốc tang vô cùng trọng thể dành cho cố Đại tướng như vậy thể hiện một sự tương phản với những đề nghị bị “chìm vào quên lãng”của ông lúc hãy còn tỉnh táo, kể cả đề nghị đình chỉ “chủ trương lớn của đảng và nhà nước” liên quan vấn đề bauxite Tây Nguyên; cái cảnh dồn dập, rình rang đó cũng tương phản với một thời gian dài Đại tướng đành thúc thủ và phải sống trong lặng lẽ – nói theo blogger Cánh Cò – do “tính “gian hùng và quyết đoán” đã làm cho ông Lê Duẩn trở thành “gian thần” thao túng quyền lực, qua đó, phe Lê Duẩn-Lê Đức Thọ đã thu tóm quyền lực từ cuối thập niên 60; tình cảnh đó, như đại tá nhà báo Nguyễn Như Phong mô tả, khiến “có một thời khu vườn (thuộc tư gia Đại tướng) số 30 Hoàng Diệu nom như vườn hoang, với lá cây rụng đầy, ít người quét dọn và những bức tường cỏ mọc rêu phong”.
Theo blogger Nguyễn Tiến Dũng thì ngày xưa Đại Thần Nguyễn Trãi, sau khi giúp Vua Lê Lợi đuổi được giặc Minh, đã từ quan về ở ẩn mà vẫn không tránh khỏi bị các gian thần ám hại tru di tam tộc.
Ngày nay, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng từng bị người ta tìm cách vu oan, các chiến hữu thân cận của ông thì bị vùi dập, nhưng blogger Nguyễn Tiến Dũng “không hiểu sao, khác với Nguyễn Trãi, đại tướng không từ quan mà nhẫn nhục chịu đựng trong mấy chục năm trời, nhận cả chức trông coi việc sinh đẻ có kế hoạch, để người ta lợi dụng”!
000_Hkg9079240(1)-250.jpg
Người dân Hà Nội xếp hàng viếng tướng Giáp hôm 09/10/2013. AFP photo
Qua bài tựa đề “Những ý nghĩa của việc tướng Giáp qua đời”, GS Jonathan London, từng làm việc và nghiên cứu tại VN trong mấy thập niên, nhận xét rằng:
Được những người ngưỡng mộ khen ngợi như một chiến lược gia tài giỏi, chiến thuật quân sự của Tướng Giáp lại bị chất vấn thẳng thừng và thậm chí mạt sát bởi những ai lo rằng ông ta coi sự mất mát nhân mạng quá nhẹ nhàng.
- GS Jonathan London
Tướng Giáp, tất nhiên, là một nhân vật quan trọng trong lịch sử quân sự và chính trị Việt Nam và thực sự là một nhân vật lịch sử quan trọng của thế giới. Thông tin về cái chết của ông được lan truyền đầu tiên qua Facebook hơn là truyền thông nhà nước và được quốc tế đón nhận với kí ức ca ngợi từ mọi nơi, sự tôn trọng miễn cưỡng từ những người khác và sự khinh thường không khoan nhượng từ những người vẫn tranh cãi về cuộc chiến ở Việt Nam…..
Đến tận những giờ phút cuối cùng, Tướng Giáp và tinh hoa của ông vô cùng phức tạp. Được những người ngưỡng mộ khen ngợi như một chiến lược gia tài giỏi, chiến thuật quân sự của Tướng Giáp lại bị chất vấn thẳng thừng và thậm chí mạt sát bởi những ai lo rằng ông ta coi sự mất mát nhân mạng quá nhẹ nhàng.
Blogger Trọng Đạt, qua bài “Tuyên truyền nhồi sọ”, không quên nhắc tới bi cảnh lịch sử một cách chua chát rằng:
Thực tế cho thấy hàng triệu thanh niên đã phơi xác ngoài trận địa, trên dẫy Trường Sơn, để cho một mình ông tướng già hưởng thành quả, ông được vinh danh là anh hùng dân tộc, sống lâu trăm tuổi, vinh quang phú quí. Hàng triệu chiến sĩ yêu nước hy sinh cho cuộc chiến đánh đuổi ngoại xâm để bây giờ Đảng bắt tay Đế quốc, để các đảng viên  xây biệt thự, đi xe triệu đô, hưởng thú vui bên các em chân dài, để các bà mệnh phụ phu nhân, các bà đại gia hưởng lạc bên các chàng phi công trẻ. Người ta thường nói xã hội có những thằng ăn ốc và những thằng đổ vỏ.

Cam chịu trong thời bình

Khi lưu ý về tình trạng “Thắng trong chiến tranh, thua trong hòa bình”, blogger Nguyễn Tiến Dũng đề cập tới chuyện Hà Nội luôn tự hào là chiến thắng những kẻ thù “lớn hơn gấp bội trong chiến tranh”, nhưng, tác giả lấy làm tiếc một điều, là “cái giá phải trả cho chiến thắng đó quá đắt”, và “sau các chiến thắng lại là các thất bại, thất bại ngay trong hòa bình”. Blogger Nguyễn Tiến Dũng phân tích:
Chiến tranh làm cho Việt Nam trở nên kiệt quệ, không chỉ về mặt vật chất, mà nguy hiểm hơn nữa, đó là sự kiệt quệ về tinh thần. Chiến tranh làm huỷ hoại các sự tinh tuý của văn minh, tạo điều kiện cho bạo lực, giáo điều và cơ hội chủ nghĩa phát triển. Kết quả là, có độc lập chưa chắc đã có tự do, có “ổn định” chưa chắc đã có hạnh phúc. Nhân dân không bị thế lực này thì bị thế lức khác đè đầu cưỡi cổ, và hơn nữa văn hoá bị suy đồi. Người đối với người, trong xã hội ngày nay, còn tồi tệ hơn so với thời Pháp thuộc 100 năm về trước.
Theo blogger Bùi Tín, người nhiều lần tiếp xúc với Tướng Võ Nguyên Giáp, cho rằng tướng Giáp là người có tài, có ý chí, là một ông tướng thông minh, có tư duy riêng, nhất là thể hiện tư duy độc lập trong trận Điện Biên Phủ. Nhưng, nhà báo Bùi Tín cho biết, “mọi cái cũng chỉ tương đối thôi”. Lên tiếng với Đài ACTD, nhà báo Bùi Tín không quên lưu ý một khía cạnh về tướng Võ Nguyên Giáp:
000_Hkg9069093-250.jpg
Bên ngoài tư gia tướng Giáp hôm 06/10/2013. AFP photo
Nhược điểm tôi thấy là phong thái còn quan liêu, xa dân, xa lính chỉ được cái sinh hoạt giản dị, không có tham ô nhưng ông cũng không đóng góp được gì vào sự lãnh đạo của đảng Cộng sản để khỏi rơi vào chủ quan, quan liêu, giáo điều mù quáng theo chủ nghĩa Mác-Lênin. Đó là sai lầm chung của ông Giáp góp chung vào cái sai lầm của đảng Cộng sản.
Ông là bậc tôi trung, ông luôn chấp hành nghị quyết và ý chí của đảng, dù nhiều lúc ý chí đó bị bọn tiểu nhân lợi dụng.
- Nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh
Trong khi Tướng Võ Nguyên Giáp, theo nhận xét của blogger Huy Đức, rất “mưu lược và quyết liệt” trong những cuộc chiến quy ước như Điện Biên Phủ, và theo GS Jonathan London, ông là một nhân vật lịch sử quan trọng không những tại VN mà còn trên thế  giới, thì blogger Huỳnh Ngọc Chênh nhận thấy, ngoài tư cách là một “danh tướng, đại khai quốc công thần”,  tướng Giáp là một “Tôi trung” – tôi trung hiếm có. Nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh hình dung ra rằng nếu sống trong một chế độ thật sự dân chủ, tự do, thì Đại tướng Võ Nguyên Giáp có thể như danh tướng lục quân Eisenhower của Mỹ, ra ứng cử tổng thống “chắc chắn sẽ dành tuyệt đại đa số phiếu” của cử tri, “bỏ xa vạn dặm” những đối thủ như Trường Chinh, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng…nếu những ông ấy “dám ra tranh cử” với Đại tướng Giáp.
Nhưng, nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh kịp nhớ lại, tướng Giáp là “người của chế độ độc đảng tòan trị và là bậc tôi trung, mở lời không bao giờ nằm ngòai ý Bác, ý Đảng” nên danh tướng này đành “ thụ động ngồi chờ sự chọn lựa” từ Bác và Đảng. Và rủi thay, Bác và Đảng đã không chọn ông mà lại chọn ông Lê Duẩn nắm tòan quyền; và tướng Giáp “an phận chấp hành”!
Nhắc tới chuyện tướng Giáp “an phận chấp hành” theo phận “ tôi trung”,  blogger Huy Đức qua cuốn “Bên Thắng Cuộc” có đọan nhận xét rằng  “Mưu lược và quyết liệt không chỉ trong những cuộc chiến quy ước như Điện Biên Phủ, năm 1946, khi Hồ Chí Minh đi Pháp nhân Hội nghị Fontainebleau, ở Hà Nội, tướng Giáp đã cùng với Trường Chinh thanh trừng đối lập gần như triệt để. Nhưng trước những đối thủ chính trị nhân danh Đảng, tướng Giáp trở nên cam chịu và thụ động. Có lẽ lòng trung thành với tổ chức và ý thức tuân thủ kỷ luật đã rút đi thanh gươm trận của ông”.
Blogger Huỳnh Ngọc Chênh nhận thấy danh tiếng của tướng Giáp “lẫy lừng vượt ra khỏi biên giới của VN Dân Chủ Cộng Hòa, đến khắp 5 Châu” nên có kẻ trong triều đình Hà Nội không muốn để ông “an phận”, mà họ tìm cách “vùi dập” ông – những kẻ không những cùng thời với ông mà cả “bọn tiểu nhân đắc chí về sau” thuộc “hàng nhãi nhép” cũng nhân danh triều đình mà vùi dập ông không thương xót. Nhưng, nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh nhắc lại:
Ông là bậc tôi trung, ông luôn chấp hành nghị quyết và ý chí của đảng, dù nhiều lúc ý chí đó bị bọn tiểu nhân lợi dụng. Nghị quyết đặt ông ở đâu và ông luôn chấp hành ngồi ở đó. Sự chấp hành tuyệt đối nguyên tắc đảng của ông làm người ta thấy ông là mẫu người của “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”. Ông là hình ảnh của Nhạc Phi, của Nguyễn Trãi thời phong kiến xa xưa, chiến thắng lẫy lừng mọi kẻ thù ngoài biên cương nhưng không thắng nổi bọn hổ cáo chốn triều đình vì lòng trung quân mê muội của mình.

Bậc “tôi trung hiếm có”

000_Hkg9065520-200.jpg
Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại tư gia nhân sinh nhật thứ 95 hôm 01/8/2006. AFP photo
Ngòai chuyện tướng Võ Nguyên Giáp là bậc “tôi trung hiếm có”, vẫn theo nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh, “những điều ông nói chẳng khác gì ông Lê Duẩn hoặc báo Nhân Dân”. Đó là lý do mà nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh đọc về Điện Biên Phủ và về Tướng Võ Nguyên Giáp thì rất thích nhưng “ không có chút thú vị nào khi đọc những gì ông viết hoặc nghe ông phát biểu tại các lễ lạc quan trọng”.
Nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh nhớ lại là khoảng sau năm 1990 thì nhà báo gặp được “thần tượng của mình bằng xương bằng thịt” nhân dịp cuộc hội thảo rất lớn về cụ Phan Chu Trinh diễn ra tại Đà Nẵng, với thành phần tham dự tên tuổi như GS Trần Quốc Vượng, nhà văn Nguyên Ngọc, Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình, học giả Nguyễn Văn Xuân.v.v…và Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Rồi mọi người xem chừng như nôn nóng chờ tướng Giáp phát biểu. Blogger Huỳnh Ngọc Chênh kể lại:
Thế nhưng đại tướng đã làm mọi người thất vọng. Không hề bị lung lạc bởi những học giả đổi mới, ông vẫn khuôn sáo và rất kiên định lập trường, phát biểu của ông không có một chút mới mẻ. Ông không đi ra khỏi tinh thần của nghị quyết đảng. Những điều ông nói về Phan Chu Trinh là những gì tôi đã nghe cả trăm lần qua những đợt học chính trị dành cho giáo viên. Ông vẫn nói y những gì mà Tố Hữu đã thay mặt đảng định hướng từ lâu: Phan Chu Trinh lạc lối trời Âu, đường lối cải lương…Trong phát biểu của ông, ông thường xuyên nhắc đến Bác và Đảng, và nhắc đến với một thái độ hết sức tôn kính gây ra cho tôi một cảm giác là ông không thể nào có ý kiến gì khác những ý kiến của Bác và Đảng đã đề ra và đã thấm sâu vào trong ông tự bao giờ.
Ông là hình ảnh của Nhạc Phi, của Nguyễn Trãi thời phong kiến xa xưa, chiến thắng lẫy lừng mọi kẻ thù ngoài biên cương nhưng không thắng nổi bọn hổ cáo chốn triều đình vì lòng trung quân mê muội của mình.
-Nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh
Trong khi blogger Huỳnh Ngọc Chênh bày tỏ rằng hôm nay Đại tướng Võ Nguyên Giáp vĩnh viễn ra đi, để lại đàng sau một hệ thống mà chính đại tướng là “bậc khai quốc công thần”, là “vị tôi trung hiếm có”, thì blogger Nguyễn Tiến Dũng lại liên tưởng đến Đại Thần Nguyễn Trãi, dù đã rũ áo từ quan, vẫn không tránh khỏi án “tru di tam tộc”. Nhưng, blogger Nguyễn Tiến Dũng lưu ý, khác với Đại Thần Nguyễn Trãi, Đại tướng Võ Nguyên Giáp “không từ quan mà nhẫn nhục chịu đựng trong mấy chục năm trời, nhận cả chức trông coi việc sinh đẻ có kế họach, để người ta lợi dụng”. Blogger Nguyễn Tiến Dũng nhận thấy có điều gì khuất tất:
Ắt hẳn đại tướng có nhiều điều bức xúc trong lòng mà không dám nói ra. Có thể do ý thức kỷ luật đảng của đại tướng quá cao, nên không dám nói gì trái quan điểm chính thống. Kể cả khi bàn đến Phan Chu Trinh ở một hội thảo, đại tướng cũng không dám khen ngợi sự sáng suốt của vị tiền bối của mình. Nay đại tướng đã sang thế giới bên kia, không còn kỷ luật gì để mà giữ, không còn gì để mà sợ. Cầu mong đại tướng sống khôn chết thiêng, hiện về nói cho con cháu biết, làm sao để khỏi bị tiếp tục thua trong hòa bình.

NHÂN DÂN VIỆT NAM NHẤT ĐỊNH THẮNG LỢI, GIẶC TRUNG QUỐC XÂM LƯỢC NHẤT ĐỊNH THẤT BẠI

Bài này chép ở Vietstudies và GS Trần hữu Dũng cho biết nó đã “biến mất” trên TC. cọng sản , :  Ồ, nhưng bài này không còn trong tổng thư mục các số đã ra (THD còn giữ!!!) của Tạp Chí Cộng Sản nữa. Phi tang là chính sách lớn của Đảng ta?

Vietstudies

Tạp Chí Cộng Sản
số 3/1979

NHÂN DÂN VIỆT NAM NHẤT ĐỊNH THẮNG LỢI,
GIẶC TRUNG QUỐC XÂM LƯỢC NHẤT ĐỊNH THẤT BẠI

Đại Tướng Võ Nguyên Giáp
Cuộc kháng chiến cứu nước thần thánh chống giặc Trung Quốc xâm lược, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đang diễn ra quyết liệt ở các tỉnh biên giới phía bắc của nước ta.
Ngày 17 tháng 2 năm 1979, bọn cầm quyền phản động Bắc Kinh đã phát động cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn chống nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Từ những ngày đầu, quân và dân ta ở các tỉnh biên giới, từ Lai Châu, Hoàng Liên Sơn, đến Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh đã nêu cao tinh thần quyết chiến quyết thắng, chiến đấu cực kỳ anh dũng bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của tổ quốc, gây cho quân giặc những tổn thất nặng nề.
Hưởng ứng Lời kêu gọi của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta từ Bắc chí Nam, ức triệu người như một, nhất tề đứng lên, chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Cả nước ta đang hướng về tiền tuyến phía bắc, sôi sục căm thù, tăng cường sẵn sàng chiến đấu, ra sức lao động quên mình, quyết tâm đánh thắng hoàn toàn giặc Trung Quốc xâm lược.
Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã công bố lệnh tổng động viên trong cả nước, để bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa: chủ trương quân sự hóa toàn dân, vũ trang toàn dân đang được khẩn trương thực hiện để đánh thắng hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược của bọn bành trướng và bá quyền Trung Quốc.
I
Cuộc chiến tranh xâm lược do bọn cầm quyền phản động Trung Quốc gây ra đã ngang nhiên xâm phạm độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt-nam, chà đạp lên mọi tiêu chuẩn của luật pháp quốc tế và những nguyên tắc cơ bản trong quan hệ giữa các nước độc lập có chủ quyền.
Tập đoàn phản động Băc Kinh đã phát hành một cuộc chiến tranh xâm lược không tuyên bố, mở những cuộc tiến công quy mô lớn vào các tỉnh biên giới ở phía Bắc nước ta. Trong lúc đó, chúng rêu rao là đang tiến hành cái gọi là “một cuộc phản công tự vệ”
Chúng đã tuôn ra trên chiến trường một lực lượng quân sự trên nửa triệu quân gồm nhiều quân đoàn và sư đoàn với nhiều đơn vị xe tăng, pháo binh và không quân, ồ ạt đánh sang nước ta trên toàn tuyến biên giới. Chúng đã bị tiêu diệt hàng vạn sinh lực, hàng trăm xe tăng và nhiều phương tiện chiến tranh khác; mặc dù đã bị tổn thất nặng nề, chúng vẫn hung hăng tiếp tục chiến tranh. Trong lúc đó, chúng lại rêu rao là đang tiến hành cái gọi là “những hành động quân sự có tính chất hạn chế về không gian và thời gian” với những lực lượng được gọi là bộ đội biên phòng.
Chúng đốt phá làng bản, cướp bóc của cải, giết người già, trẻ em, hãm hiếp phụ nữ, gây ra những tội ác trời không dung, đất không tha. Chúng đến đâu cũng bị đồng bào, chiến sĩ ta đánh trả mãnh liệt. Thế mà, chúng lại rêu rao về cái gọi là thái độ “hữu nghị” với nhân dân địa phương.
Tại sao bọn giặc Trung Quốc xâm lược lại phải bưng bít giấu giếm, hành động xâm lược bỉ ổi của chúng như vậy ?
Đó là về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam do chúng gây ra là một trong những cuộc chiến tranh phi nghĩa, tàn bạo nhất trong lịch sử. Cuộc chiến tranh ấy là cuộc chiến tranh bẩn thỉu và hèn hạ chống lại nhân dân một nước xã hội chủ nghĩa, một nước từ lâu đã từng là người bạn chiến đấu của nhân dân cách mạng Trung Quốc. Cuộc chiến tranh ấy đã xâm phạm độc lập và chủ quyền của một nước đã được thế giới coi là biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, một nước đã từng hy sinh tất cả vì độc lập, tự do của Tổ quốc mình, vì sự nghiệp cách mạng và hòa bình của nhân dân các dân tộc trên thế giới, trong đó có nhân dân Trung Quốc.
Đó là vì, cuộc chiến tranh xâm lược nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là biểu hiện tập trung bản chất phản bội, độc ác và nham hiểm của bọn cầm quyền phản động Trung Quốc. Cuộc chiến tranh ấy chính là sản phẩm của sự câu kết giữa tập đoàn phản bội Trung Quốc với các giới chống cộng khét tiếng ở Mỹ và các giới quân phiệt phản động ở Nhật.
Trong lịch sử phong trào cộng sản Quốc tế, cũng đã từng có bọn phản động đội lốt xã hội chủ nghĩa Mác để chống lại chủ nghĩa Mác, làm tay sai cho chủ nghĩa đế quốc để phá hoại phong trào cách mạng. Đặc điểm nổi bật của các thế lực phản bội Bắc Kinh là chúng đang lũng đoạn quyền bính trong một nước đất rộng người đông, có sẵn trong tay một tiềm lực kinh tế và quân sự đáng kể. Chúng luôn luôn nói đến chủ nghĩa Mác – Lênin để chống chủ nghĩa Mác – Lênin, đội lốt cách mạng để chống phá cách mạng. Chẳng thế mà chúng không ngới hò hét chiến tranh, tự hào là NATO của phương đông, là “người bạn nghèo” của chủ nghĩa đế quốc Mỹ và chủ nghĩa tư bản phương Tây. Chúng điên cuồng chống liên xô và các nước xã hội chủ ngĩa khác, chống phong trào giải phóng dân tộc, phá hoại hòa bình thế giới với hành động phiêu lưu quân sự xâm lược Việt Nam, chúng đã nghiễm nhiên trở thành một thứ sen đầm quốc tế mới, một tên lính xung kích của chủ nghĩa đế quốc quốc tế.
Chính vì vậy, mà bọn cầm quyền phản động Trung Quốc là bọn phản bội lớn nhất của thời đại. Chúng là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm của nhân dân ta, đồng thời là kẻ thù nguy hiểm của cả toàn bộ hệ thống xã hội chủ nghĩa, của phong trào độc lập dân tộc, dân chủ và hòa bình ở châu Á và trên thế giới.
Đối với nước Việt Nam ta, thì chính sách xâm lược tàn bạo của chúng chính là sự kế tục ở một thời kỳ mới của chủ nghĩa bành trướng đại dân tộc đã từng ngự trị trong lịch sử lâu đời của các triều đại phong kiến Trung Quốc. Chính sách ấy là sự biểu hiện tập trung của tất cả những gì là phản động nhất, độc ác và nham hiểm nhất trong quốc sách thôn tính nước ta mà bọn hoàng đế Trung Quốc đã từng theo đuổi qua mấy ngàn năm. Trước chí khí quật cường của dân tộc ta, quốc sách ấy đã bị đập nát tan tành.
Cũng cần nói rằng, chúng ta đã sớm phát hiện dã tâm của các thế lực bành trướng ngày nay, từ lúc chúng chưa có điều kiện xuất đầu lộ diện một cách trắng trợn, ngay trong những năm tháng nhân dân ta còn đang kề vai sát cánh với nhân dân cách mạng Trung Quốc, cùng nhau chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc quốc tế. Dã tâm của bọn chúng là luôn luôn tìm mọi cách làm cho nước ta suy yếu, buộc nhân dân ta phải thần phục chúng. Đi vào quỹ đạo của chúng.
Ngay lúc đế quốc Mỹ mới phát động chiến tranh phá hoại bằng không quân đánh phá miền Bắc nước ta, nhân dân Trung Quốc đang ủng hộ và giúp đỡ nhân dân ta chiến đấu, thì giới cầm quyền Trung Quốc đã từng nói cho Mỹ biết: hễ Mỹ không đụng đến Trung Quốc, Trung Quốc không đụng đến Mỹ. Nói một cách khác, Mỹ có thể yên tâm đánh phá Việt Nam.
Đến lúc nhân dân ta giành được thắng lợi vang dội, quân đội viễn chinh Mỹ đang lâm vào thế bị suy sụp thì giới cầm quyền Bắc Kinh đã vội vã đón tiếp Ních-xơn, lợi dụng thắng lợi của ta để gây dựng nên cái gọi là “kỷ nguyên mới” trong quan hệ Trung Mỹ, một điều mà họ đã từng ước mơ từ lâu.
Tiếp đó, với sự thỏa thuận ngầm của Mỹ, họ đã thừa lúc ta còn phải dồn sức vào kháng chiến, ngang nhiên đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của nước ta.
Mùa xuân năm 1975, nhân dân ta phát động cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, thì trong giới cầm quyền Băc Kinh lại có những kẻ trách cứ chúng ta không làm theo lời khuyên của họ: nên để công việc thống nhất nước nhà lại cho thế hệ con cháu mai sau.
Họ đã coi thắng lợi vĩ đại của cả nhân dân ta là thất bại thảm hại của đế quốc Mỹ, đồng thời là thất bại nghiêm trọng của chính bản thân họ.
Với thắng lợi hoàn toàn và trọn vẹn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời; ước mơ lâu đời của nhân dân ta đã biến thành hiện thực. Anh em bè bạn khắp năm châu đều đón mừng sự kiện vĩ đại ấy, coi đó là biểu tượng sức mạnh vô địch của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, của chủ nghĩa Mác – Lênin. Thế nhưng, đối với bọn bành trướng Trung Quốc thì lại khác. Chúng cho rằng, một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày càng giàu mạnh, có đường lối cách mạng Mác – Lênin chân chính, độc lập và tự chủ là một trở ngại to lớn đối với cuồng vọng của chúng, là một nguy cơ không cho phép chúng dễ dàng bành trướng xuống các nước Đông Nam Châu Á.
Chính vì vậy, mà ngay từ những ngày đầu nhân dân ta giành được toàn thắng, các thế lực bành trướng Bắc Kinh ngày càng công khai theo đuổi một chính sách thù địch có hệ thống đối với nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chúng không ghê tay sử dụng một bọn đồ tể man rợ là bọn Pôn Pốt – Iêng-xa-ry để tàn sát cho hết những người dân yêu nước Cam-pu-chia. Biến nước này thành nước chư hầu và căn cứ quân sự của chúng, gây ra cuộc chiến tranh biên giới ngày càng đẫm máu ở Tây nam nước ta. Trong lúc đó, chúng xúc tiến mọi mưu đồ nham hiểm, dựng nên cái gọi là “Nạn kiều” mượn cớ cắt hết viện trợ gầy ra tình hình căng thẳng ở biên giới phía bắc, chuẩn bị thế trận thôn tính nước ta từ hai hướng, buộc nước ta phải khuất phục chúng.
Nhân dân ta hết sức bình tĩnh, vững vàng, quyết không rời bỏ con đường cách mạng chân chính của mình. Tiếp tục theo sự vùng lên đấu tranh thắng lợi của nhân dân Cam-pu-chia anh em, trận đồ bát quái của chúng đã bị phá vỡ. Tập đoàn phản bội Trung Quốc bèn điên cuồng phát động chiến tranh xâm lược nước ta hòng thực hiện mưu đồ đen tối của chúng.
Cuộc xâm lược quy mô lớn vào nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã làm cho tập đoàn phản động Trung Quốc lộ rõ nguyên hình. Chúng là bọn phản bội lớn nhất của thời đại, phản cách mạng, phản chủ nghĩa Mác – Lê nin. Chúng là một “bầy quạ đội lốt công”, đã vứt bỏ cái mặt nạ giả danh cách mạng. Cuộc chiến tranh xâm lược nước ta thực chất là một bộ phận của chiến lược bành trướng đại dân tộc và bá quyền nước lớn của chúng, của chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chúng, đồng thời là một bộ phận của chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chủ nghĩa đế quốc quốc tế.
Chúng là những tên tội phạm chiến tranh độc ác hơn cả Hít-le, gây ra những tội ác tày trời trên đất nước ta, coi thường xương máu của bản thân nhân dân nước chúng. Chúng đantg ra sức kế tục và hoàn thiện hơn nữa cái thứ đạo đức kinh tởm mà một nhà văn vô sản vĩ đại Trung Quốc dã từng mệnh danh là “đạo đức ăn thịt người” của các triều đại phong kiến (1). Chúng đã làm ô nhục truyền thống và thanh danh của nhân dân cách mạng Trung Quốc và của những người cộng sản Trung Quốc chân chính. Chúng muốn biến nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa, thành quả cách mạng của nhân dân Trung Quốc thành dinh lũy của một tập đoàn phát xít hiếu chiến, biến quân giải phóng nhân dân Trung Quốc thành một công cụ bành trướng xâm lược.
Các thế lực phong kiến phương Bắc cũng như các nước đế quốc đã mang quân xâm lược nước ta đều đã phạm sai lầm chiến lược, do đó mặc dù hung hăng, tàn bạo đến đâu, cuối cùng đều đi đến thất bại nhục nhã.
Tập đoàn phản động Bắc Kinh hãy coi chừng. Chúng hẵn chưa lường hết những thất bại thảm hại trước mắt và cả lâu dài đang chờ đợi chúng.
Tổ quốc Việt Nam anh hùng từng là mồ chôn của tất cả mọi kẻ thù xâm lược. Bọn bành trướng ngày nay nhất định không thể nào thoát khỏi quy luật của lịch sử. Chúng sẽ cùng chung một số phận, chuốc lấy thất bại hoàn toàn.

II
Dân tộc Việt Nam là một dân tộc độc lập, có hơn bốn nghìn năm văn hiến, một quốc gia có chủ quyền từ thuở xa xưa. Với một sức sống và chiến đấu mãnh liệt, nhân dân ta đã sớm cùng nhau chung lưng đấu cật, đem hết sức lực và trí tuệ để dựng nước và giữ nước, rèn luyện nên một khí phách kiên cường, một truyền thống bất khuất chống mọi kẻ thù xâm lược.
Qua các thế hệ, chúng ta đã biết bao phen đứng lên chiến đấu và chiến thắng bọn phong kiến xâm lược phương Bắc, giữ gìn độc lập, chủ quyền của Tổ quốc. Hết diệt Tần, chống Hán, phạt Đường, lại đánh Tống, thắng Nguyên, bình Ngô, phá Thanh. Dân tộc ta có thể tự hào rằng, vào thế kỉ XIII, nước đại Việt đã đánh thắng giặc Nguyên là kẻ xâm lăng hung bạo nhất bấy giờ, không những bảo vệ được nền độc lập của mình mà còn góp phần quan trọng ngăn chận giặc Nguyên tràn xuống Đông – Nam châu Á.
Bước vào thời kì lịch sử hiện đại, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, nhân dân Việt Nam đã tiến hành cuộc chiến tranh chống ngoại xâm oanh liệt nhất trong lịch sử của dân tộc. Nhân dân ta có thể tự hào rằng, trải qua ba mươi năm chiến tranh giải phóng và chiến tranh giữ nước dân tộc ta đã lần lượt đánh đổ chủ nghĩa phát xít Nhật, dánh thắng chủ nghĩa đế quốc Pháp, đánh thắng chủ nghĩa đế quốc Mỹ là tên đế quốc đầu sỏ có tiềm lực kinh tế và quân sự hết sức to lớn.
Ngày nay, đi theo vết xe cũ của bọn phong kiến Trung Quốc và bọn đế quốc thực dân, tập đoàn phản động Bắc Kinh lại ngang nhiên phát động chiến tranh quy mô lớn nhằm thôn tính nước ta, nô dịch nhân dân ta. Chúng ta đang đứng trước một sứ mệnh lịch sử mới, một nhiệm vụ trọng đại không những có ý nghĩa quyết định đối với vận mệnh của dân tộc ta, mà còn có ý nghĩa thời dại sâu sắc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, toàn dân ta cả nước một lòng đứng lên tiến hành cuộc kháng chiến thần thánh cứu nước nhằm bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ nước ta. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta còn mang tính chất một cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt nhằm đánh bại kẻ thù nguy hiểm của hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Trong cuộc đụng đầu lịch sử mới giữa chính nghĩa và phi nghĩa, giữa văn minh với bạo tàn, giữa cách mạng với phản cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam ta nhất định thắng lợi, giặc Trung Quốc xâm lược nhất định sẽ thất bại.
Chúng ta nhất định thắng, bởi vì chúng ta chiến đấu cho hòa bình, cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Chúng ta có đường lối Mác – Lê nin đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta. Chúng ta có sức mạnh của chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, của nền kinh tế mới, nền văn hóa mới và con người mới xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta nhất định thắng, bởi vì chúng ta có sức mạnh tổng hợp vô địch của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc và của nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, có lực lượng vũ trang nhân dân anh hùng, có khoa học giữ nước ưu việt và nghệ thuật quân sự sáng tạo.
Chúng ta nhất định thắng, bởi vì chúng ta có sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ quốc tế to lớn và có hiệu lực của Liên xô, của các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác, của nhân dân các nước yêu chuộng hòa bình và công lý trên thế giới, kể cả nhân dân cách mạng Trung Quốc. Chúng ta có sức mạnh to lớn của dân tộc kết hợp với sức mạnh của ba dòng thác sức mạnh của thời đại.
Không kể tập đoàn phản động Bắc Kinh gây ra chiến tranh xâm lược với quy mô nào, sử dụng lực lượng và phương tiện vũ khí như thế nào, không kể mưu mô và thủ đoạn của chúng tàn bạo và nham hiểm như thế nào, nhân dân ta quyết dứng lên giết giặc cứu nước, quyết đưa cuộc kháng chiến thần thánh chống giặc Trung Quốc xâm lược đến thắng lợi hoàn toàn, làm tròn nghĩa vụ dân tộc vẻ vang và nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình trong giai đoạn mới của cách mạng.
Phải chăng giặc Trung Quốc xâm lược cho rằng, nước chúng lớn, dân chúng đông, quân chúng nhiều thi nhân dân Việt Nam phải sợ chúng, phải khuất phục chúng ?
Tập đoàn phản động Bắc Kinh phải biết rằng: Dân tộc Việt Nam không hề biết sợ. Ngay từ thuở xa xưa, khi số dân nước ta mới trên dưới một triệu người, dân tộc ta đã từng đứng lên chiến đấu thắng lợi, lật đổ ách thống trị của bọn phong kiến phương Bắc. Với số quân ít hơn địch, chúng ta đã từng chiến thắng oanh liệt những đội quân đông hơn mình gấp nhiều lần, từ những đội quân xâm lược của các triều đại phong kiến Trung Quốc cho đến những đội quân xâm lược của các nước đế quốc.
Bọn xâm lược Trung Quốc phải biết rằng: đất nước chúng rộng, người chúng nhiều, nhưng sức chúng nào có mạnh; quân chúng đông mà lại yếu. Đó là vì sức mạnh kháng chiến của cả một dân tộc, cả nước đứng lên chiến đấu, dũng cảm và thông minh, quyết đánh và biết đánh, bao giờ cũng là một sức mạnh vô địch. Đó là vì cuộc chiến chúng gây ra là phi nghĩa, lòng dân ly tán, nội bộ lục đục, làm sao có đủ sức để cướp nước ta. Đó là vì nước Việt Nam ta có chủ; non sông Việt Nam là của người Việt Nam; bất cứ kẻ thù nào đến xâm phạm, nhất định nhân dân Việt Nam ta dánh bại.
Phải chăng tập đoàn phản động Bắc Kinh cho rằng, với đường biên giới chung dài trên một nghìn ki lô mét – một đường biên giới mà nhân dân hai nước bao giờ cũng mong muốn xây dựng thành đừơng biên giới hữu nghị – chúng có thể lợi dụng địa thế nước ta ở gần nước chúng mà mang quân ồ ạt đánh chiếm nước ta, buộc chúng ta phải khuất phục chúng chăng ?
Bọn chúng hẵn còn nhớ: 600 năm trước đây, giặc Nguyên đã từng cho rằng, nước Nam ở gần như trong lòng bàn tay, còn Gia-va thì xa hơn như ở đầu ngón tay, vì vậy cần phải xâm lược nước Nam trước để mở đường tràn xuống các nước khác sau. Và chúng đã ba lần phát động chiến tranh xâm lược nước Nam, đã ba lần bị đánh bại hoàn toàn. Xưa nay, nước ta vẫn ở gần Trung Quốc, những điều kiện địa lý ấy nào có cứu vãn được cho các đạo quân xâm lược đông đảo từ đời Tần, đời Tống, cho đến đời Nguyên, Minh, Thanh tránh khỏi số phận bị nhân dân ta đánh bại. Chúng ta càng thấy rõ, nhân tố quyết định thắng bại trong chiến tranh đâu phải là đường đất xa gần; bọn xâm lược bao giờ cũng là kẻ thù địch, xa lạ đối với nhân dân ta, đất nước ta. Vì vậy, chúng làm thế nào lường được hết sức mạnh to lớn của dân tộc ta trong thời đại mới khi vùng lên chiến đấu vì đại nghĩa. Chúng làm thế nào hiểu được núi sông, cây cỏ, bầu trời và vùng biển của Việt Nam, làm thế nào hiểu được cái thế thiên hiểm của địa hình Việt Nam, “bất cứ nơi nào trên đất nước ta cũng là những Chi Lăng, Đống Đa, sông biển ta đều là những Bạch Đằng, Hàm Tử”.
Phải chăng tập đoàn phản động Bắc Kinh đang muốn diễn lại thế trận xâm lược Việt Nam của các thế lực bành trướng phương Bắc dưới thời phong kiến ?
Chúng ta đều biết rằng mỗi khi muốn đánh nước ta thì bọn phong kiến phương Bắc thường đánh chiếm Lâm ấp, Chiêm Thành để tạo nên thế trận bao vây từ hai hướng. Ngày nay, để chuẩn bị xâm lược Việt Nam, tập đoàn phản động Bắc Kinh lại ra sức biến Cam-pu-chia thành căn cứ quân sự vững chắc của chúng, và để phối hợp với quân của chúng từ phía Bắc đánh xuống, vừa để chuẩn bị cho cuộc chinh phục Đông Nam châu Á sau này. Thế nhưng, nhân dân Cam-pu-chia đã vùng lên làm chủ vận mệnh của mình, khôi phục tình hữu nghị lâu đời với nhân dân Việt Nam anh em, giáng cho bọn bành trướng một đòn chí mạng, thế trận nham hiểm của chúng đã bị phá vỡ.
Phải chăng tập đoàn phản động Bắc Kinh cho rằng, chúng là tập đoàn cầm quyền ở một nước lớn đang đội lốt Mác – Lê nin, lại câu kết chặt chẽ với chủ nghĩa đế quốc quốc tế và mọi loại phản động nhất trên thế giới, thì chúng đã có vây cánh hơn trước, cho nên đã đủ sức để phát động chiến tranh xâm lược quy mô lớn thôn tính nước ta, buộc nhân dân ta phải khuất phục ?
Ngang nhiên xâm lược nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chúng đã lộ rõ bộ mặt phản cách mạng trước dư luận tiến bộ toàn thế giới. Không những nhân dân ta đang quyết tâm chống lại chúng, đánh bại chúng, mà nhân dân Liên-xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác, nhân dân tiến bộ cả thế giới đều đứng lên chống lại chúng; những người cộng sản chân chính và phong trào cộng sản và công nhân khắp trái đất đang kiên quyết chống lại chúng. Ngay nhân dân cách mạng Trung Quốc và những người cộng sản Trung Quốc chân chính cũng đang đứng lên và sẽ đứng lên ngày càng đông đảo chống lại chúng. Chúng không nghe thấy tiếng thét phẩn nộ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới nguyền rủa chúng, lên án chúng đó sao ?
Hơn thế nữa, những kẻ đồng minh của chúng là chủ nghĩa đế quốc quốc tế và mọi loại phản động hiện đang trên con đường suy yếu, nội bộ đầy mâu thuẫn, làm sao có thể hà hơi tiếp sức để cứu vớt chúng khỏi cảnh cô lập. Còn ba dòng thác cách mạng của thời đại thì đang ở trên thế tiến công mạnh mẽ. Hệ thống xã hội chủ nghĩa ngày nay mạnh hơn bao giờ hết, không ngừng phát huy tác dụng là nhân tố chủ yếu quyết định sự phát triển của xã hội loài người trong thời đại mới, bất chấp sự phản bội của các thế lực bành trướng đại dân tộc và bá quyền nước lớn câu kết với chủ nghĩa đế quốc, bất chấp sự giãy giụa điên cuồng của chủ nghĩa đế quốc liên minh với các thế lực bành trướng và bá quyền nước lớn.
Chúng phải biết rằng, chỉ có chủ nghĩa Mác- Lê-nin chân chính, chỉ có lý tưởng độc lập và chủ nghĩa xã hội, chỉ có nhân dân cách mạng và những người cộng sản chân chính mới có sức mạnh vô địch, sức mạnh đó nhất định sẽ đánh bại tất cả mọi thế lực phản động, kể cả bọn phản động Trung Quốc xâm lược.
III
Tổ quốc ta một lần nữa dang đứng trước nguy cơ còn mất.
Toàn quân và toàn dân ta hưởng ứng lời kêu gọi của Trung ương Đảng, với niềm tin vô hạn, với tinh thần quyết chiến quyết thắng cao nhất, đang anh dũng lên đường ra trận, giáng cho quân xâm lược Trung Quốc những đòn chí mạng.
Tiếp theo cuộc chiến tranh giải phóng chống đế quốc Pháp và đế quốc Mỹ, cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống giặc Trung Quốc xâm lược là một cuộc chiến tranh toàn dân phát triển đến những đỉnh cao mới. Trong lịch sử chống ngoại xâm, chúng ta đã từng lấy nhân nghĩa thắng bạo tàn, lấy chính nghĩa thắng phi nghĩa, lấy những giá trị cao quý nhất của con người mà thắng sức mạnh của sắt thép.
Ngày nay, vì độc lập, chủ quyền của đất nước, vì sự sống còn của dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội, vì sự trong sáng của chủ nghĩ Mác – Lê-nin, chúng ta nhất định đánh thắng hoàn toàn chủ nghĩa bành trướng đại dân tộc và bá quyền nước lớn, đánh thắng hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược của bọn cầm quyền phản động Trung Quốc.
Bí quyết bách chiến bách thắng của dân tộc ta là cả nước chung sức lại, toàn dân đoàn kết chiến đấu, phát động và tổ chức chiến tranh toàn dân, phát huy đến trình độ cao sức mạnh của cả nước đánh giặc, thề không đội trời chung với kẻ thù xâm lược. Từ miền biên cương đến các hải đảo, từ thành thị đến nông thôn, toàn thể đồng bào các dân tộc trong cả nước, các tôn giáo, các đảng phái, bất kể già, trẻ, gái, trai, hễ là người dân Việt Nam thì đều kiên quyết đứng lên giết giặc, cứu nước; năm mươi triệu đồng bào từ Bắc chí Nam kết thành đội ngũ chiến đấu là 50 triệu dũng sĩ giết giặc Trung Quốc xâm lược.
Hơn lúc nào hết, sự nghiệp giữ nước vĩ đại đòi hỏi ở mỗi người chúng ta những hy sinh lớn lao. Trên con đường đi đến thắng lợi, khó khăn gian khổ còn nhiều. Tuy nhiên, sức mạnh giữ nước của dân tộc ta ngày nay lớn mạnh hơn bao giờ hết, chúng ta có những điều kiện cơ bản hơn bao giờ hết.
Đã qua rồi những ngày mà nhân dân ta chưa có một tấc đất tự do, chưa có một tấc sắt trong tay, trong khi nhiệm vụ đề ra là phải chớp lấy thời cơ đưa Tổng khởi nghĩa tháng Tám đến thắng lợi. Cũng đã qua rồi những năm tháng của hai cuộc kháng chiến thần thánh, lúc đầu còn phải chiến đấu với gậy tầm vông và súng kíp, về sau cũng chỉ mới có nửa nước được giải phóng làm hậu phương.
Bước vào kỷ nguyên mới, đất nước ta đã thay đổi và khác xưa. Cả nước Việt Nam đã hoàn toàn độc lập và thống nhất, đang vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở chế độ xã hội mới, với sự nhất trí chính trị và tinh thần, với lòng yêu nước xã hội chủ nghĩa và tinh thần làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa ngày càng cao, chúng ta đã xây dựng được nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, một lực lượng vũ trang hùng mạnh hơn bao giờ hết.
Cả nước một lòng, phát huy truyền thống đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc, nhân dân ta quyết nâng cao hơn nữa những kinh nghiệm đánh giặc, cứu nước, phát triển hơn nữa khoa học và nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.
Ngày nay, chiến tranh nhân dân ở các địa phương trên mọi miền đất nước đã có một bước phát triển mới, một sức mạnh chiến đấu mới hết sức to lớn. Mỗi một người dân là một chiến sĩ. Mỗi bản làng, xí nghệp, nông trường, hợp tác xã, thị xã, quận huyện, là một pháo đài kiên cường chống giặc. Mỗi tỉnh, thành là một đơn vị chiến lược có đủ sức mạnh tiêu diệt hàng vạn quân địch. Cả nước ta là một chiến trường rộng lớn. Thực tế đó đã được chứng minh ngay từ những ngày đầu kháng chiến khi giặc Trung Quốc xâm lược đặt chân lên mảnh đất biên cương của Tổ quốc ta. Trong cuộc đọ sức với dân quân tự vệ và bộ đội địa phương của ta, quân đội chính quy của chúng đã bị giáng trả những đòn trừng phạt nặng nề. Mỗi một ngọn đồi ở biên cương là một Chi Lăng chồng chất xác thù. Mỗi một con suối, dòng sông là một Bạch Đằng nhuộm đỏ máu giặc. Ý nghĩa quan trọng của những thắng lợi đầu tiên của quân và dân ta là ở chỗ đó.
Ngày nay, quân đội ta đã có những binh đoàn chủ lực hùng mạnh, có sức đột kích lớn, khả năng cơ động cao, sức chiến đấu mạnh, đã từng tiêu diệt hàng chục vạn quân địch trong một trận tiến công, dù kẻ địch đông như thế nào, hung hãn và được trang bị như thế nào. Trước họa xâm lăng, phối hợp chặt chẽ với cuộc chiến đấu tại chỗ của nhân dân, cả ba thứ quân đều đánh giỏi. Lục quân, hải quân, không quân đều đánh giỏi. Bộ đội thường trực phải thật tinh. Lực lượng hậu bị phải thật mạnh. Vừa chiến đấu vừa rèn luyện, nêu cao tinh thần quyết chiến quyết thắng, nâng cao kỷ luật trong toàn quân, làm chủ mọi thứ binh khí kỹ thuật hiện đại, nâng cao trình độ hiệp đồng tác chiến, tạo nên chất lượng chiến đấu thật cao, sức mạnh và hiệu lực chiến đấu thật lớn. Các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam quyết làm tròn xuất sắc mọi nhiệm vụ, phát huy tác dụng to lớn trên chiến trường, tiêu diệt quân giặc Trung Quốc xâm lược.
Trong cuộc kháng chiến thần thánh bảo vệ Tổ quốc hiện nay, với ý chí chiến đấu cao, với những kinh nghiệm sẵn có, với những tổ chức đã được hình thành, với những thế trận đã được bố trí, quân và nhân dân ta nhất định phát huy lên một trình độ mới khả năng chủ động và sáng tạo của mình, đánh bại hoàn toàn quân xâm lược. Nhanh chóng phát hiện và nắm vững quy luật của chiến tranh, bám sát và nắm chắc quân địch, nhanh chóng phát hiện chỗ yếu cơ bản và chỗ mạnh tạm thời của quân địch. Lấy đó làm cơ sở để thực hiện chiến lược làm chủ đất nước để tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để giữ vững quyền làm chủ đất nước. Làm chủ chiến trường trong từng trận chiến đấu, trong từng hướng chiến dịch cũng như trong toàn bộ cuộc chiến tranh. Luôn luôn chủ động, luôn luôn quán triệt tư tưởng tiến công, Kiên quyết và linh hoạt, giỏi đánh địch bằng mọi hình thức, tiến công dũng mãnh, phản công kiên quyết, phòng ngự ngoan cường. Bất luận trong tình hình so sánh lực lượng như thế nào, điều kiện và phương tiên vũ khí như thế nào đều phải tạo nên sức mạnh tổng hợp áp đảo, đánh địch trên thế mạnh, giành chủ động về ta, dồn địch vào thế bị động. Đó chính là biểu hiện cao nhất của tư tưởng cách mạng tiến công, là biểu hiện tập trung của tinh thần làm chủ tập thể ở trên chiến trường.
Cuồng vọng của bọn bành trướng Trung Quốc và vô hạn độ. Mưu đồ độc ác và nham hiểm của chúng là trường kỳ tiêu hao lợc lượng của ta, trường kỳ phá hoại công cuộc hòa bình xây dựng đất nước ta. Mục đích sâu xa mà chúng theo đuổi là dùng trăm phương nghìn kế làm sao cho nước Việt Nam ta không thể trở nên một nước xã hội chủ nghĩa giàu mạnh để chúng dễ dàng khuất phục, dễ dàng thôn tính.
Chính vì vây, mà trong lúc tập trung sức lực ra chiến trường để tiêu diệt chúng, quét sạch chúng ra khỏi bờ cõi, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước ta, thì nhân dân ta phải ra sức phấn đấu, vừa chiến đấu, vừa xây dựng, hoàn thành xuất sắc nhỡng nhiệm vụ cấp bách mà Trung ương Đảng để ra, thực hiện kỳ được phương sách giữ nước và dựng nước về lâu dài.
Trên mặt trận, đồng bào và chiến sĩ ta phải chiến đấu kiên cường cũng cảm, đánh bại quân xâm lược. Ở hậu phương, khắp cả nước, đồng bào và chiến sĩ ta phải luôn luôn sẵn sàng chiến đấu, chi viện cho tiền tuyến và ra sức xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa, ổn định đời sống của nhân dân. Lao động quên mình với năng suất cao, luyện tập quân sự để sẵn dàng ra trận. Giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong cả nước phải có sự cố gắng vượt bậc về mọi mặt, kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, thực hiện càng đánh càng thắng, càng đánh càng mạnh.
Để bảo vệ độ lập, chủ quyền của tổ quốc, chỉ có một con đường là tiêu diệt hoàn toàn giặc Trung Quốc xâm lược. Để làm cho nước ta ngày càng giàu mạnh lên, chỉ có một con đường là vừa giành thắng lợi trên mặt trận, vừa giành thắng lợi trong lao động sản xuất, chăm lo đời sống cho chiến sĩ và đồng bào ta trong cả nước. Đó là nhiệm vụ cao nhất mà Đảng và Tổ quốc đề ra cho các chiến sĩ lực lượng vũ trang nhân dân, cho giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập thể, tầng lớp trí thức xã hội chủ nghía, cho mỗi một người công dân yêu nước trong lúc này. Hơn lúc nào hết, với tính sáng tạo phi thường, toàn dân và toàn quân ta nhất định sẽ lập nên những chiến công vang dội trên tiền tuyến, đồng thhời lập nên những chiến công to lớn trong công cuộc xây dựng kinh tế, xây dựng đất nước.
Trước tình hình mới, chúng ta cần ra sức biến tiềm lực mọi mặt của đất nước thành sức mạnh quân sự trên chiến trường, chuyển sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân thành sức mạnh lớn nhất của chiến tranh nhân dân bảo vệ tổ quốc, muốn vậy cần căn cứ vào kế hoạch đã được chuẩn bị và tình hình diễn biến thực tế của chiến tranh mà nhanh chóng động viên sức người, sức của phục vụ tốt nhất cho chiến tranh và quốc phòng, đồng thời tiếp tục đẩy mạnh sản xuất, bảo đảm đời sống của nhân dân.
Đây là một công tác tổ chức thực tiễn cực kỳ quan trọng, có liên quan đến mọi mặt đời sống của xã hội. Chúng ta phải làm thật tốt công tác tổ chức thực tiễn ấy, vừa tập trung lực lượng để đánh thắng quân xâm lược, vừa tăng cường quản lý kinh tế – xã hội, nâng cao kỷ luật lao động và hiệu quả kinh tế trong tất cả các ngành, các địa phương. Có làm được như vậy, chúng ta mới phát huy được tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, động viên được mạnh mẽ và kịp thời sức người, sức của cho tiền tuyến, thực hiện “Tất cả để đánh thắng giặc Trung Quốc xâm lược”, đồng thời bảo vệ tính mệnh, tài sản của nhân dân, xây dựng hậu phương ngày càng vững mạnh.
Trong những thế kỷ trước đây, trước họa xâm lăng, chúng ta chứ hề có những bạn đồng minh lớn mạnh như bây giờ. Tuy vậy, dân tộc ta đã nêu cao tinh thần chiến đâu bất khuất, tự lực tự cường và tài thao lược kiệt xuất, đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược của các thế lực bành trướng thống trị ở Trung Quốc lúc bấy giờ.
Ngày nay, trong thời đại mới, sự nghiệp chiến đấu chính nghĩa của nhân dân Việt Nam ta có một ý nghĩ quốc tế to lớn. Đứng lên chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội dân tộc Việt Nam đã được coi như lương tri và trái tim của cả loài người. Dựa vào sức mình là chính, chúng ta có cả loài người tiến bộ cổ vũ và ủng hộ mạnh mẽ. Chúng ta só sự ủng hộ và giúp đỡ to lớn và có hiệu lực của Liên-xô -nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên trái đất- và của các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác. Chúng ta có tình đoàn kết chiến đấu keo sơn của nhân dân Lào và nhân dân Cam-pu-chia anh em” “Hết lòng ủng hộ Việt Nam”, “không được đụng đến Việt Nam”, đó là ý chí và hành động của mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống Trung Quốc xâm lược. Trong lịch sử của dân tộc, chưa bao giờ bằng lúc này, kể cả trong những năm kháng chiến chống Mỹ, nhân dân Việt Nam ta lại được sự đồng tình, ủng hộ quốc tế mạnh mẽ, rộng rãi, kịp thời và kiên quyết như ngày nay.
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do”
Cả nước lên đường ra trận.
Giương cao ngọn cờ của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh đứng đầu là đồng chí Lê Duẫn kính mến, với quyết tâm cao, với niềm tin lớn, quân và dân ta kiên quyết tiến lên, đánh thắng cuộc chiến tranh phi nghĩa của giặc Trung Quốc xâm lược, đưa sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam đến toàn thắng, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Bọn phản động Trung Quốc xâm lược nhất định sẽ thất bại !
Nhân dân Việt Nam nhất định thắng lợi !
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa muôn năm !

Chú thích
(1)- Lỗ Tấn: “Mở lịch sử ra tra cứu … Chỉ thấy trên mỗi tờ giấy viết xiêu xiêu những chữ nhân, nghĩa, đạo đức … mà nhìn thấu đến giữa những dòng chữ thì ra cả cuốn đều chép rặt có ba chữ: “Ăn thịt người” … “.
Đăng lại trên
“Đại Tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp”
Vị Tướng Của Hòa Bình

PGS-TSKH Bùi Loan Thùy chủ biên
NXB Văn Hóa Sài Gòn 5/2009
trang 1266-1277

Đào Tuấn - Cách mạng giáo dục nên bắt đầu từ… chữ trinh

2 chữ “trinh”, nhiều chữ sốc, choáng, và vô số gạch đá…đang phản chiếu chung một điều: Định kiến xã hội đang nặng nề hơn so với 37 năm trước
(Theo Vietnamnet).
Người mẫu Ngọc Trinh từng trả lời phỏng vấn rằng : “Yêu không có tiền thì cạp đất mà ăn à?” Mới đây cô gái trẻ Lê Thị Huyền Anh (biệt danh “Bà Tưng”) khi trả lời một trang mạng xã hội, cũng thẳng thắn : “Tôi mơ ước có nhiều đại gia, nhiều người giàu quan tâm đến mình, cho tôi thật nhiều tiền: (Theo Vietnamnet).
Từ những hiện tượng trên, anh/chị hãy viết một bài văn (tối đa 800 từ) về chủ đề : “Tiến bộ xã hội và ước mơ đại gia của cô gái trẻ”.
Đây là một đề thi chọn học sinh giỏi văn được cho là của TP Hải Phòng đang được mạng xã hội và một số báo điện tử chia sẻ với tốc độ… cởi áo của 2 nàng.
Sốc, hay choáng là những tính từ cảm xúc được gắn kèm trên các bản tin. Còn tại sao một nhân vật xã hội, gắn với một vấn đề xã hội không nhỏ khi được đưa vào đề thi lại gây sốc, gây choáng thì chịu. Không có báo nào chịu giải thích.
Nói đến (đề thi) Ngọc Trinh, không thể nhắc tới đề thi “chữ Trinh” của ĐH FPT năm ngoái.
Dẫn Đại thi hào Nguyễn Du “Xưa nay trong đạo đàn bà Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường/ Có khi biến, có khi thường/ Có quyền, nào phải một đường chấp kinh” và “Đạo tòng phu, lấy chữ trinh làm đầu”, đề thi ĐH FPT viết “Ngày xưa, nếu cô dâu bị mất trinh thì coi như mất hết, hôn nhân đỗ vỡ, người vợ bị đem trả lại. Nhưng ngày nay, đối với nhiều bạn trẻ, cái màng trinh không còn ý nghĩa quan trọng đến thế, thậm chí nhiều người còn ủng hộ quan điểm tình dục trước hôn nhân. Vậy theo bạn, người phụ nữ có nhất thiết phải giữ gìn trinh tiết trước khi về nhà chồng? Và hạnh phúc thật sự của một cuộc hôn nhân có phụ thuộc vào việc người vợ có còn trinh hay không?”
Khỏi phải nhắc lại chuyện thầy trò FPT đã phải mang rổ, đội mũ bảo hiểm để hứng đá thế nào khi xuất hiện vô số các nhà đạo đức học, các anh hùng bàn phím ném đá chí chết với quan điểm đã là đề thi mà nói đến một chữ tế nhị, nhạy cảm như chữ trinh là…phản cảm. Bấy giờ, nhà nghiên cứu văn hóa, giảng viên khoa Ngữ văn, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn Nguyễn Hùng Vĩ, người có khuôn mặt lành như đất, cũng phải lắc đầu. Thầy Vĩ nói ông chịu, không sao hiểu nổi tại sao 37 năm trước, đề thi chữ Trinh là bình thường, còn bây giờ thì lại là “lạ”, là “phản cảm”.
2 chữ “trinh”, nhiều chữ sốc, choáng, và vô số gạch đá…đang phản chiếu chung một điều: Định kiến xã hội đang nặng nề hơn so với 37 năm trước. Nặng không phải chỉ ở một chữ trinh, dù Ngọc Trinh hay trinh tiết, mà ở chỗ người ta không có thói quen đưa những điều thiếu mô phạm vào giáo dục dù đó là thực tế xã hội.
Thói quen đền thờ hóa giáo dục đang sinh đẻ theo kế hoạch ra những đề thi, đại loại luận về lối sống “Không ca tụng trí tuệ mà ca tụng sự khôn khéo. Khôn khéo là ăn đi trước, lội nước theo sau, biết thủ thế, giữ mình, gỡ được tình thế khó khăn”- như câu hỏi nghị luận trong đề thi quốc gia vừa rồi.
Nếu có ý định so sánh, thì dường như không thể phủ nhận rằng đề thi chữ Trinh, hay Ngọc Trinh hay hơn, thời sự hơn, hấp dẫn hơn, gần gũi hơn, thực tiễn hơn hoặc ít nhất cũng… gợi cảm hơn rất nhiều so với đề thi về sự khôn khéo.
Bộ trưởng Giáo dục vừa nói về một trận đánh lớn trong giáo dục. Hình như trận đánh đó rất nên bắt đầu bằng những đề nghị luận trước những vấn đề xã hội gần gũi, thực tế. Bà Tưng, Ngọc Trinh với phát ngôn “Cạp đất”… bất tử chẳng hạn. Và trận đánh đó muốn chiến thắng, phải là việc tôn trọng cả những thái quá trong tình cảm của học trò. Ví dụ như sẵn sàng chấp nhận cả những bài thi để giấy trắng công khai bày tỏ thái độ phản đối đề thi đang xúc phạm những ồ pa của mình.
Đào Tuấn
Theo blog Đào Tuấn

VỀ HAI DÂN OAN KHIẾU KIỆN NGUYỄN THỊ ÁNH NGUYỆT VÀ NGUYỄN THỊ TUYỀN ĐANG BIỆT VÔ ÂM TÍN


Chị Nguyệt Và Các Dân Oan Cần Thơ Tại Hà Nội
Đến hôm nay ngày 10 tháng 10 là vừa tròn một tháng kể từ ngày hai người dân oan, khiếu kiện vì ruộng đất bị trấn cướp, Nguyễn Thị Ánh Nguyệt và Nguyễn Thị Tuyền bị an ninh cộng sản huyện Cờ Máu, Cần Thơ bắt giam biệt tích, gia đình vẫn tiếp tục đi tìm kiếm trong và vẫn hoàn toàn vô vọng vì chẳng biết hai người vợ, hai người mẹ của đàn con trẻ dại hiện đang bị giam giữ ở đâu, sống chết ra sao.
Không riêng hai anh Phạm Văn Cờ – Điện thoại: (+84)12345 08563 và Trương Văn Thạnh – Điện thoại: (+84)1202 871342 là chồng các chị Nguyễn Thị Ánh Nguyệt và Nguyễn Thị Tuyền cùng các con hàng ngày phải tất tả ngược xuôi đến các trại tạm giam, các cơ quan điều tra xét hỏi khắp các huyện thị của Cần Thơ để tìm kiếm, mà những người nông dân trong số 3,000 hộ nông dân bị cướp mất đất ở hai nông trường Cờ Đỏ và Sông Hậu cũng đều giúp sức đi tìm kiếm hai chị, bởi trong suốt quá trình đấu tranh để đòi lại ruộng đất đã bị cường quyền tham nhũng cộng sản ở địa phương trấn cướp của họ suốt 37 năm qua, tức là từ năm 1976 cho đến nay, thì hai chị không những chỉ là những người bạn đồng hành của những người nông mất đất ruộng, mà hai chị luôn là đại diện của những người thấp cổ bé họng này trong suốt hành trình đi tìm công lý từ huyện, tỉnh đến trung ương. Chính vì lý do đó mà cơ quan an ninh đã bắt giam hai chị, vì họ thừa hiểu rằng bịt được miệng của chị Nguyệt, chị Tuyền có nghĩa là dập tắt được phong trào dân oan Cờ Đỏ, Sông Hậu đi khiếu kiện vì cái đầu tàu đã bị đánh sập, thì đoàn tàu không thể hoạt động được, và điều đó cũng có nghĩa là ruộng đất của những người nông dân chân lấm tay bùn nghiễm nhiên được sang tên đổi chủ cho bè lủ cường quyền theo chính sách “cải cách ruộng đất” lần thứ hai của đảng và nhà nước.
Tiên liệu được rằng sớm muộn rồi cơ quan an ninh cũng sẽ bắt giam, thậm chí sẽ thủ tiêu, để bịt miệng hai chị và dập tắt phong trào đòi công lý, đòi lại tài sản, ruộng đất bị cướp cạn của dân oan, nên vào ngày 24 tháng 8 năm 2013 vừa qua, chị Nguyễn Thị Ánh Nguyệt đã viết một bức tâm thư gởi đến các cơ quan truyền thông đại chúng, các nhân sỹ trí thức để tố cáo hành vi cướp cạn ruộng đất của cường quyền cộng sản ở địa phương Cần Thơ đối với nông dân thuộc khu vực Cờ Đỏ và Sông Hậu từ 37 năm qua đồng thời chị Nguyệt cũng khẩn báo về mối đe dọa đến an ninh tính mạng của hai chị, từ phía cơ quan an ninh và nhà cộng sản Việt Nam. Dưới đây, chúng tôi xin được trích đăng lại tâm thư của chị Nguyễn Thị Ánh Nguyệt đã gởi đi trước khi hai chị bị bắt giam biệt tích:
Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã vu cáo hai chị Nguyệt và Tuyền tội gây rối trật tự cộng cộng để bắt giam, mặc dù trong suốt hành trình đi tìm công lý cho ba con nông dân và cho gia đình họ luôn ôn hòa và tôn trọng mọi quy định về an ninh trật tự ở những nơi công cộng.
Chúng tôi xin được tóm lược cuộc trường chinh tranh đấu vì đất đai bị cướp cạn như sau:
-         Vào tháng 3 và tháng 4 năm 2013, chị Nguyệt cùng nhiều dân oan ở tỉnh Cần Thơ đến Văn Phòng Công Lý và Hòa Bình ở Quận 3 Sài gòn để nhờ tư vấn quy trình đòi lại đất ruộng của họ đã bị cường quyền tham nhũng trấn cướp từ 37 năm qua, thì chị Nguyệt và bà con dân oan đã bị  một lực lượng an ninh ngăn cản và sách nhiễu, không cho họ tiếp cận với Văn Phòng, vì theo các nhân viên an ninh thì Văn Phòng Hòa Bình và Công Lý  là một tổ chức “phản động của các phần tử xấu”
-         Vào ngày 05 tháng 5 năm 2013 cùng với đoàn dân oan khiếu kiện đến từ Tiền Giang và từ Bà Rịa – Vũng Tàu, chị Nguyễn Thị Ánh Nguyệt cùng 6 dân oan Cần Thơ, tập trung trước Nhà Thờ Đức Bà Sài Gòn để cầu nguyện cho công lý được thực thi và cũng biểu tình một cách ôn hòa với băng rôn, biểu ngữ phản đối hành động cướp đất ruộng phi pháp của bọn cường quyền khiến cho những người nông dân trở thành tay trắng, không cửa không nhà, gia đình tan nát, họ đã bị lực lượng an ninh cướp bang rôn, biểu ngữ và đánh đập, rất dã man đến nỗi một dân oan ở Vũng Tàu Bà Rịa phải quyết định tự thiêu để đánh động lương tri của nhân loại đối với chế độ cộng sản toàn trị Việt Nam đã cướp mất ruộng đất, cửa nhà và cướp luôn cả các quyền làm người căn bản của họ.
-         Ngày 13 tháng 6 năm 2013 và tiếp đến ngày 18 tháng 6 năm 2013 là hai lần các chị Nguyệt, Tuyền cùng dân oan khiếu kiện Cần Thơ, cùng nhiều dân oan khiếu kiện của nhiều tỉnh thành miền Nam và tây Nguyên đã tập trung trước Đại Sứ Quán của Hoa Kỳ tại số 7 Láng Hạ, Hà Nội để tố cáo hành vi cướp đất ruộng của nông dân mà các thế lực cường quyền tham nhũng cộng sản Việt Nam liên tục thực hiện trên phạm vi cả nước từ sau ngày 30 tháng tư năm 1975 cho đến nay, đồng thời yêu cầu chính phủ Hoa Kỳ đưa ra những biện pháp chế tài về viện trợ nhân đạo cũng như về giao thương hầu tạo áp lực, buộc nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam tôn trong các quyền tự do dân chủ căn bản của người dân Việt Nam cũng như chấm dứt mọi hành vi trấn cướp đất đai của nông dân một cách phi pháp, rồi lại đàn áp những người dân khiếu kiện vì bị mất đất quá thô bạo. Trong lần tiếp cận Đại Sứ Quán Hoa Kỳ tại Hà Nội lần này để xin được giúp đỡ, những người dân oan khiếu kiện đã bị đàn áp thô bạo, bị cưỡng bức trở về các địa phương mà không lâu sau đó họ bị phạt hành chánh vì can tội tụ tập đông người và khiếu kiện vượt cấp.
-         Ngày 31 tháng 7 năm 2013 một lần nữa chị Nguyệt, chị Tuyền và các nông dân khiếu kiện của Cần Thơ đã cùng hàng chục nông dân khiếu kiện của các tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, Vĩnh Long, Tiền Giang lại tập trung cầu nguyện trước tượng đài Đức Mẹ tại Nhà Thờ Đức Bà, Sài Gòn thì một lần nữa các chị cùng những người dân oan khiếu kiện đã bị lực lượng công an chống bạo động 113 cùng các lực lượng dân phòng đàn áp và đánh đập vô cùng dã man gây thương tích cho rất nhiều người.
-         Trong các ngày 20, 21 và 22 tháng 8 năm 2013, được tin có đoàn công tác của trung ương do ông Trương Hòa Bình, chánh án Tòa Án Tối Cao tại Hà Nội, về huyện cờ đỏ để giải quyết việc khiếu kiện của 3,000 hộ nông dân bị mất đất do cường quyền tham nhũng tại địa phương trấn cướp, chị Nguyệt và chị Tuyền cùng với hàng trăm nông dân đã tập trung trước Văn Phòng Ủy Ban Huyện Cớ Đỏ, nơi đoàn công tác của trung ướng đang làm việc, để khiếu kiện với các biểu ngữ tố cáo hành vi cướp ruông đất tại địa phương của các quan quyền, và yêu cầu trả lại đất ruộng cho nông dân. Những tưởng là người cầm cân nẫy mực tối cao củ ngành tư pháp đến từ trung ương sẽ công minh xem xét để cho công lý được thực thi, cho nông dân được lấy lại đất ruộng, nào ngờ vẫn chỉ là lề thói xưa nay của chế độ bạo quyền, tức là “phủ lại bênh phủ, huyện lại bệnh huyện” và cộng sản lại bênh Việt cộng nên chẳng những yêu cầu đòi lại ruộng đất của dân oan không được đáp ứng, mà những người có chút chữ nghĩa, thường đại diện cho dân oan thấp cổ bé họng lại lụy vòng lao lý, mà cho đến giờ đây, sau một tháng bị bắt giam, vẫn không ai biết được tin tức gì về tình trạng an ninh cũng như sức khỏe của các chị, mặc dù chồng con cùng nhiều nông dân trong vùng đã cùng hợp sức tìm kiếm khắp nơi – Không biết các chị vẫn còn sống hay đã chết, bởi mục tiêu của nhà cầm quyền là không chỉ bịt miệng các chị, mà dập tắt hoàn toàn phong trào dân oan khiếu kiện, bởi chế độ cộng sản vẫn cương quyết không chấp nhận bất cứ hình thức nào của dân chủ, của tự do, dù là tự do giữ lấy tài sản, của cải của mình.
Chế độ cộng sản vốn độc tài toàn trị, vốn tự cho mình cái quyền được đè đầu kẻ cổ người khác, với một tuyên bố rất sắt máu của HỒ CHÍ MINH khi vừa cướp được chính quyền, rằng “Kẻ nào đi ngược lại với lịch sử, sẽ bị bánh xe lịch sử nghiền nát”. Đây là lời đe dọa của thủ lĩnh của đảng cướp cộng sản đối với những người thuộc các tổ chức, đảng phái không công sản, hay những người muốn đối kháng với cộng sản. Tất nhiên những lãnh tụ của cộng sản và những kẻ nô lệ cộng là những chính là những kẻ đang đi ngược lại lịch sử của thế giới loài người. Cần nhớ rằng,
Nghị quyết 1481 của Hội Đồng Châu Âu thông qua ngày 25 tháng 01 năm 2006 đã  lên án chủ nghĩa cộng sản và đồng nhất chủ nghĩa này với tội ác chống lại loài người, với điều khoản thứ 9 khẳng định rằng: ”Các chế độ độc tài toàn trị còn lại trên thế giới vẫn tiếp tục gây tội ác. Không thể dùng quan điểm quyền lợi quốc gia để biện hộ, lấp liếm sự lên án của cộng đồng nhân loại với các tội ác của các chế độ toàn trị này. Quốc hội chung châu Âu cực lực lên án tất cả mọi vi phạm quyền con người trong các chế độ cộng sản, coi nó như là tội ác chống nhân loại…”
Các lãnh tụ cộng sản Việt Nam đã gây quá nhiều tội ác với đồng bào mình từ khi cướp được chính quyền từ chính phủ Quốc Gia vào năm 1945, và để duy trì và cũng cố quyền lực của mình, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đang tiếp tục vấy máu đồng bào bởi những cuộc đàn áp dã man, bắt bớ và thủ tiêu những tiếng nói đối lập, những tiếng nói đòi hỏi công lý của những người dân thấp cổ bé họng – Điều này khiến chúng tôi quan ngại về sự an nguy đén tính mạng của hai chị Nguyễn Thị Ánh Nguyệt và Nguyễn Thị Tuyền – Kính mong các cơ quan thông tấn báo chí, các tổ chức Quốc Tế Nhân Quyền tiếp tay phổ biến thông tin này cũng như lên tiếng để bảo vệ sinh mạng của hai người dân oan Việt Nam trước khi quá muộn.
Ngày 10 tháng 10 năm 2013
Nguyễn Thu Trâm, 8406

Tiếng Cú Bis

Tưởng năng Tiến -RFA


 S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Xã hội chúng ta không cần thêm bất kỳ một “bên thắng cuộc” nào nữa, mà đang khát khao sự hòa giải và yêu thương.
Trịnh Hữu Long
Ngày 25 tháng 6 năm 2013, sinh viên Từ Anh Tú bị “mời đi làm việc” vì sở hữu một cuốn sách (Bên Thắng Cuộc) của nhà báo Huy Đức. Qua hôm sau, RFA đã trực tiếp truyền thanh lời cô Từ Thị Minh Thu – em gái của T.A.T – về chi tiết của vụ mời mọc (rầm rộ) này:
Lúc 9:30 sáng công an ở Hưng Yên đến… gồm 15 người, có cả đại tá, thượng tá, và trung tá…”
Công an ở đâu ra mà lắm thế, và rảnh rỗi thế, hả Trời? Đã thế, ở đâu cũng thế, chứ chả riêng gì thành phố Hưng Yên. Trước đó, có bữa, báo Dân Việt đã buồn bã đi tin:
Trung tá Nguyễn Hoàng Tương – Phó Công an phường An Hoà, Rạch Giá, Kiên Giang bị tạm đình chỉ công tác để làm rõ nguyên nhân dẫn đến vụ xô xát với ông Cao Trọng Lợi.”
Mới đây, báo Pháp Luật cũng vừa cho hay:
Ngày 8/7, Công an tỉnh Khánh Hòa đã kết luận bước đầu về vụ Trung tá Hồ Lưu Luyến – nguyên Đội phó Đội Tuần tra kiểm soát giao thông Cam Ranh bị tố ép doanh nghiệp (DN) trả tiền nhậu, dùng số điện thoại cá nhân in trên danh thiếp giới thiệu quán cơm, cây xăng để “tiếp thị.”
Trung Tá Hồ Lưu Luyến đang “tác nghiệp” – ảnh Phương Nam
Nếu cấp bậc của những nhân vật kể trên nhỏ hơn, và tương xứng với những chức vụ (khiêm tốn) của họ hơn thì sự việc, xem ra, chắc đỡ … xấu hơn – thí dụ như:
- Trung sĩ  Nguyễn Hoàng Tương , phó công an phường An Hoà, xô xát với dân …
- Trung sĩ Hồ Lưu Luyến, đội phó đội tuần tra kiểm soát giao thông Cam Ranh, dùng số điện thoại cá nhân in trên danh thiếpgiới thiệu quán cơm, cây xăng để tiếp thị …
Chớ đeo lon đại tá, thượng tá, trung tá mà đi … “bắt” một cuốn sách, hay lê la đầu làng cuối xóm đánh nhau với dân, hoặc đứng đường “tiếp thị” (một hai chầu nhậu) thì rõ ràng là không được đẹp, và cũng hơi bị … hẹp.
Sự hẹp hòi này có nguyên do rất giản dị, theo như ghi nhận của ông Trần Ngân –  trên trang viet-studies:
“…từ khi thủ tướng Dũng, một nhà chính trị kỳ tài trong việc xây dựng phe cánh và đấu đá nội bộ lên làm thủ tướng thì ông này đã phong hàm tướng cho hàng loạt cán bộ CA:
- 2007: 29 thiếu tướng; 12 trung tướng (CAND, 28/4/2007)
-  2008: 33 thiếu tướng, 4 trung tướng (http://CAND, 5/6/2008)
-  2009: 10 thiếu tướng, 5 trung tướng (CA TP.HCM, 20/10/2009)
-  2010: 44 thiếu tướng, 8 trung tướng (Langmotrach, 2010)
-  2011: 51 thiếu tướng, 7 trung tướng (VOV, 16/12/2011)
-  2012: 34 thiếu tướng, 14 trung tướng (CA Đà Nẵng, 2012)
Như vậy, chỉ trong 6 năm, thủ tướng Dũng đã ký phong hàm cho tổng cộng là 201 thiếu tướng và 50 trung tướng ngành CA, đây là một con số rất lớn so với thời kỳ trước đó cũng như so với lực lượng cảnh sát của hầu hết các quốc gia trên thế giới...
Tướng mà nhiều (tới) cỡ đó thì tá ra … đứng đường là phải rồi, chớ còn phàn nàn chi nữa – đúng không?
Thì đâu có ai dám phàn nàn, thắc mắc, hay khiếu nại gì nhưng nghĩ tới hậu vận cũng phải thấy lo chớ bộ. Bây giờ thì Đảng còn mình, nếu không có rượu cũng có bia bốc lai rai nhưng rồi biết ra sao – ngày sau – khi Đảng không còn tồn tại nữa?
Mà cái ngày đó, ngó bộ, cũng không xa xôi gì lắm – theo như tường trình của Thanh Trúc (RFA) nghe được vào hôm 6 tháng 9 năm 2013:
“Báo động của ILO Tổ Chức Lao Động Quốc Tế, rằng nguồn quĩ hưu trí của Việt Nam sẽ bị thâm hụt và cạn kiệt trong thời gian tới …Giám đốc  Bảo Hiểm Xã Hội thành phố Hồ Chí Minh, ông Cao Văn Sang, cho rằng cảnh báo này có cơ sở vì theo dự kiến đến năm 2023, số thu Bảo Hiểm Xã Hội dành cho hưu trí sẽ ngang bằng số chi, và những năm sau đó muốn trả lương hưu thì phải sử dụng số dư từ nguồn thu Bảo Hiểm Xã Hội của những năm trước. Hậu quả là, ông Cao Văn Sang nói tiếp, một thập niên nữa tức vào năm 2034 thì nguồn quĩ hưu trí bị cạn kiệt và không còn tiền để thanh toán.”
Ngân qũi cạn kiệt là kể như “hết phim,” theo như cách nói (gở) của blogger tranhung09. Hết phim là hết chuyện nhưng nhà nước mà hết tiền thì sẽ nẩy sinh ra cả tỉ chuyện lôi thôi. Viễn ảnh không chỉ sẽ ảm đạm mà còn hứa hẹn rất nhiều rối loạn, cùng bạo loạn.
Hình ảnh của những ông đại tá vá xe hay trung tá bán chè, chắc chắn, sẽ lại tái diễn trong tương lai gần.  Nhưng sau một cuộc đời tác nghiệp, và tác yêu tác quái, liệu đám sĩ quan công an sẽ được để cho yên thân kiếm ăn ở đầu đường hay cuối phố  như qúi vị sĩ quan quân đội – ngày trước – hay không?
Đây không phải là câu hỏi chỉ dành riêng của những ông trung tá vá xe, hay đại tá công an bán chè (mai hậu) mà cho tất cả của mọi người dân Việt. Không ít người vẫn thường  cầu mong cho cái chế độ hiện hành sụp đổ nhưng hầu như không mấy ai bận tâm về những hệ quả ngay sau đó.
Trong một bài viết trước (Tiếng Cú) chúng tôi đã mạo muội đề cập đến vấn đề này. Nay xin phép được nhắc lại – đôi điều – với hy vọng là mong được dư luận quan tâm:
Lực lượng công an hiện nay, dù đông đảo và có vẻ áp đảo – theo như cách đánh giá của nhà báo Ngô Nhân Dụng – chỉ là một thứ “xi măng cốt tre” thôi. Và cái  giàn “xi măng cốt tre” này được một nhà báo khác, ông Bùi Tín, ghi nhận như sau:
“Dưới danh hiệu Công an Nhân dân, dưới khẩu hiệu Công an là bạn dân, trong con mắt của đông đảo người dân lương thiện, công an bị đánh giá là bọn kiêu binh tệ hại nhất, dùng quyền lực để hà hiếp, bóc lột, làm tiền, cướp đất, cướp nhà cửa, của cải của nhân dân một cách ngang ngược, bị nhân dân xa lánh, khinh bỉ nhất.”
Sau hơn nửa thế kỷ “dùng quyền lực để hà hiếp, bóc lột, làm tiền, cướp đất, cướp nhà cửa, của cải của nhân dân một cách ngang ngược,” chuyện gì sẽ xẩy ra cho “bọn kiêu binh tệ hại nhất” này – khi cái “giàn xi măng cốt tre” gẫy đổ?
Câu hỏi được đặt ra (xem chừng) đã muộn nhưng muộn còn hơn không. Bên cạnh những vấn đề cấp thiết khác trước mắt (đạo đức xã hội suy vi, tình trạng sắc tộc căng thẳng, an ninh lãnh thổ bị đe dọa, tài nguyên cùng ngân sách quốc gia bị thao túng và cạn kiệt, môi trường bị hủy hoại…) tưởng chúng ta cũng cần phải quan tâm và chuẩn bị để giảm thiểu (tối đa) cảnh tàn bạo – sau này – khi mà những cô chú công an (bỗng chốc) biến thành đích nhắm cho mọi người trút sự thù hằn, oán hận, và phẫn uất đã chất chứa hơn nửa thế kỷ qua!
Chỉ cần nhìn thái độ hiếu sát của dân làng ở những nơi có kẻ trộm chó bị đánh chết (tại chỗ) hay nghe nghóng sự đồng tình của dư luận trước vụ nổ súng của ông Đặng Ngọc Viết – bây giờ – cũng có thể đoán biết được “độ nóng” của người dân đã lên cao đến mức nào rồi?
Trước những sự kiện vừa kể, bất cứ ai còn quan tâm đến vận mệnh đất nước cũng đều thấy bất an:
- Blogger Cánh Cò: “Không thể nói là lạ, mà phải nói là man rợ. Chỉ có kẻ man rợ chưa hưởng ánh sáng văn minh mới có thể hành động một cách xuẩn động như vậy. Cái lạ là họ không ở trong hang động, họ đang sống, đang sinh hoạt bình thường tại nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, đất nước luôn tự hào có truyền thống này truyền thống nọ nhưng hình như đã lâu không ai nhắc tới truyền thống thương yêu đồng loại. Bằng chứng là tại cái làng ấy, cái thôn ấy người ta thương chó hơn còn ‘đồng loại người’. Họ đồng loạt vung tất cả phương tiện giết người lên. Giết tập thể. Giết hội đồng.
- Ông Nguyễn Nguyễn Gia Kiểng: “Trong một quốc gia bình thường một hành động như vậy chắc chắn đã phải bị đồng thanh lên án. Chúng ta đang ở trong một tình trạng tâm thần rất không bình thường. Xã hội ta có nguy cơ bùng nổ.”
- Ông Nguyễn Quang A: ”… tôi thực sự bị sốc khi xem một đoạn video mang tên ‘Lê Quốc Quân’ trên mạng. Tại đó một người phụ nữ hô to ‘Học tập gương anh hùng Đặng Ngọc Viết ở Thái Bình,… ‘Nhìn thẳng đầu bọn quan tham mà nổ súng,’ ‘Nhìn thẳng đầu bọn tham nhũng mà bóp cò.
Với ít nhiều chủ quan, tôi thành thật tin rằng đã đến lúc mà lòng bao dung, đức nhân ái, và tính độ lượng (vốn) tiềm tàng trong tâm hồn dân tộc Việt cần phải được khơi dậy và đề cao – chứ không phải là những việc làm ngược lại. Trong tinh thần này, cách đây chưa lâu, blogger Mai Xuân Dũng đã gửi đi những lời lẽ cảnh cáo tuy nhẹ nhàng, và ôn tồn nhưng rất đáng trân trọng:
Cũng là một lũ bần cùng khố dây khố rợ cả, nên thương nhau thì hơn. Bức tranh tôi có post lên đấy, các chú xem nhé: bão cát thì ngập đến đầu gối các chú rồi, bão đang to lên lắm, liệu mà nương nhờ nhau cho khỏi cát vùi bão dập thì hơn chứ đừng làm cái chuyện bẩn thỉu như vậy. Nếu các chú là con người, cũng có vợ và con cái như những người khác thì hối đi kẻo không kịp.”
 
Tranh Goya. Nguồn: blog Mai Xuân Dũng
Trước viễn cảnh “cát vùi bão dập” này, nhà văn Dương Thu Hương cũng đã ân cần nhắc nhở mọi người đừng quên rằng giữa “bầy chó berger của chế độ” không thiếu những người trung thực và tử tế:
Tuy nhiên, tôi không có ý nói rằng toàn thể các sĩ quan công an đều là bọn mafia, đều là quân cướp. Bởi, nói như vậy là vu khống, là hàm hồ… Trong đám công an, không thiếu những người trung thực, theo ngôn ngữ bình dân, người tử tế. Chỉ có điều họ đã trở thành thiểu số và họ gần như vô năng.
Những kẻ “thiểu số vô năng” này, tất nhiên, đều vô tội. Còn cái đám đa số còn lại (cũng) chỉ là nạn nhân của một thể chế bạo ngược, và bất nhân thôi – như cách nhìn bao dung của nhà văn Uyên Thao: ”Mọi con dân Việt Nam, vì thế, đều trở thành nạn nhân bi thảm vì bị tước đoạt mọi quyền sống, bao gồm trong đó không ít nạn nhân đã và đang còn đóng vai thủ phạm gieo rắc tội ác không chỉ cho đồng loại mà cho ngay cả bản thân.”
Nghĩ cho cùng họ vẫn đáng tha thứ hơn là trừng phạt. Hơn nữa, hơn nửa thế kỷ qua, có người dân Việt nào dám tự hào nói rằng mình hoàn toàn (và tuyệt đối) không bị ảnh hưởng, hay lây nhiễm tính vô cảm và thói bạc ác của chế độ hiện hành?
Nói thế(e) độ lượng quá chăng? Biết thế nhưng với hiện cảnh, với lịch sử của một dân tộc đã triền miên sống giữa cảnh bom đạn máu lửa, giữa oán hận chất chồng, và nghi kỵ và phân hoá – kéo dài hết từ đời này sang đời khác – liệu có lựa chọn nào khác (thế) không?

 tuongnangtien’s blog

Minh Hiền - Khủng hoảng hậu tốt nghiệp (hay câu chuyện trăn trở tuổi 23)

Tôi cứ nghĩ người ta chỉ khủng hoảng tuổi 18, rồi tuổi 30 - những cái tuổi đánh dấu các mốc của cuộc đời con người, chứ nào có mấy ai lại khủng hoảng ở cái tuổi 23 vui tươi này. Nhưng sự thật thì tôi (và một bộ phận các bạn trẻ 23 tuổi) đang trải qua những tháng ngày khủng hoảng mà không biết thoát ra bằng cách nào.
Hai mươi ba tuổi. Vừa tốt nghiệp cử nhân một trường Đại học hàng đầu của Việt Nam. Gia đình hạnh phúc. Công việc ổn định. Bạn bè tình thân mến thân. Các mối quan hệ xã hội khác vừa đủ. Có một công việc làm thêm đúng với sở thích của mình… Đó là tất cả những gì miêu tả về chân dung của tôi – một cô nàng hai mươi ba tuổi.
Thoạt tiên nhìn vào, tôi cũng giống như bao bạn bè cùng trang lứa khác. Có nghĩa là ngày ngày đi làm, rồi đi chơi, thi thoảng đến lớp tập yoga, rồi cafe tán gẫu với bạn bè, cũng có những cuối tuần hẹn hò đón đưa với một vài anh chàng nào đó. Rảnh thì online facebook để "quăng boom" status, post ảnh tự sướng, check-in... Nói chung là chẳng có gì đáng chán và đáng – để - phải – chán.
Thế nhưng tôi vẫn luôn miệng kêu buồn, kêu chán, thấy bản thân mình rất này nọ nọ kia. (Mà có lẽ cái "sự kêu" của tôi nhiều đến mức mẹ tôi phải ngạc nhiên xen lẫn hốt hoảng để mà thốt lên rằng: con còn điều gì chưa đủ hay sao mà không thấy bằng lòng với bản thân mình?).
Sự thật thì tại sao tôi lại không thấy bằng lòng với bản thân mình?
Tôi đọc trong rất nhiều các tác phẩm văn học của các cây viết trẻ bây giờ, họ đều nhắc đến một điều rằng: càng lớn con người ta càng cảm thấy cô đơn. Cô đơn không chỉ là khi có một mình giữa Hà Nội, Sài Gòn xa lạ. Cô đơn là ngay chính khoảnh khắc ngồi giữa bạn bè mà chợt thấy mình lạc lõng, cảm giác như là người vô hình. Hay khi đi bên cạnh người mình thương yêu mà cảm giác cách xa vời vợi.
Tại sao càng trưởng thành, con người ta càng cảm thấy có quá nhiều thứ trong cuộc sống của chính mình đến như vậy?
Ở cái tuổi 23, cái tuổi bắt đầu biết lo biết nghĩ, bắt đầu biết bước đi bằng chính đôi chân của mình, đáng lẽ ra tuổi trẻ phải tràn đầy nhiệt huyết, vì có gia đình, có bạn bè ở phía sau ủng hộ, vì có đủ kiến thức làm hành trang vững bước vào đời. Vậy tại sao chúng ta luôn cảm thấy mình thiếu thốn. Thiếu thốn về thời gian, về tiền bạc, về sức khỏe, và thấy thiếu thốn cả những yêu thương.
Là có những buổi tối ở lì trong phòng, tắt điện thoại và để mặc bản thân mình trong bóng tối, tôi vẫn nghe đâu đó văng vẳng bên tai lời của đứa bạn tên A – 23 tuổi đang lo lắng về chuyện thất nghiệp giữa thời buổi kinh tế khó khăn này. Rồi là hình ảnh của cô bạn tên B – cũng 23 tuổi đang vật vã với nỗi đau chia tay người yêu. Hay đâu đó thấp thoáng dáng dấp của cậu bạn tên C – tuổi 23 khi gặp áp lực công việc vì những gì học được ở trường hoàn toàn không thể áp dụng vào thực tế...
Những Huyền Chíp, những Phan Việt nói với chúng ta rằng "hãy xách balo lên và đi". Những Phan Ý Yên, Hamlet Trương nói với chúng ta rằng "hãy học cách sống chung với nỗi cô đơn để trưởng thành". Nhưng có ai nói với chúng ta rằng, làm cách nào tôi, để A, để B, C và cả D, E, F ngoài kia biết cách đối diện với khủng hoảng tuổi 23 mà không phải cảm thấy rất này nọ, nọ kia.
Nếu như khủng hoảng tuổi 18 người ta hay nghĩ đến cái chết để giải thoát, coi đó là con đường duy nhất để có thể tìm lại chính mình, khủng hoảng ở lứa tuổi 30 người ta lại chọn cách lao vào công việc, vào những thú vui cuộc sống để cân bằng, thì với thế hệ 9x, với những người đang sống trong tháng ngày khủng hoảng ở lứa tuổi 23, chúng ta chọn cách chấp nhận. Chấp nhận coi khủng hoảng là một phần cuộc sống của mình. Chấp nhận rằng sẽ có những tháng ngày mình rất muốn nhắm mắt lại và ngủ một giấc dài để quên tất cả đi.
Cuộc sống không dạy cho chúng ta biết cách vượt qua và tìm lại sự cân bằng khi 23 tuổi. Nhưng ở cái tuổi mà không còn nhìn mọi thứ qua lăng kính màu hồng và cũng chưa thấy tất cả là màu xám, có đôi khi chỉ là một cái nắm tay bạn bè, một lời động viên ân cần của bố mẹ, hoặc chui vào một xó xỉnh nào đó trên thế giới để khóc ngon lành,... tất cả cũng đủ để giúp chúng ta cảm thấy nhẹ nhõm hơn, cảm thấy ổn yên hơn.
Những ngày tháng rơi vào khủng hoảng ấy, tôi gọi chúng là "ngày trắng" - ngày mà bản thân mình chẳng có gì – chẳng còn gì – và chẳng muốn gì. Sâu thẳm trong suy nghĩ, tôi biết sẽ có nhiều hơn một lần mình thấy mọi thứ đều vô nghĩa, bản thân mình vô giá trị như thế. Nhưng nếu không trải qua khủng hoảng tuổi 23 với những thứ rất không đầu không cuối kia, làm sao chúng ta có thể lớn lên, có thể bước vào những ngày khủng hoảng tuổi 24, 25, 26?
Thế cho nên, này những chàng trai cô gái 23 tuổi ngoài kia, đừng ngại ngần hét lên cho cả thế giới biết rằng mình đang rất chi là cái lọ cái chai. Tuổi 23 ấy mà, ai cũng có đôi lúc mỏng mảnh mong manh lắm. Nên hãy cứ vô tư mà sống, mà chờ đợi những ổn yên. Ai cũng chỉ có một lần trong đời được sống tuổi 23 (và trải qua khủng hoảng 23 tuổi) mà thôi.
Minh Hiền

Trung Quốc lập lại yêu cầu Mỹ, Nhật chớ xen vào tranh chấp Biển Đông


Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường nhấn mạnh Bắc Kinh và ASEAN nhất trí rằng tranh chấp Biển Đông nên được giải quyết ôn hòa qua tham vấn và đối thoại giữa các bên trực tiếp liên quan, các nước không có tranh chấp không nên nhúng tay vào.

11.10.2013
Trung Quốc lặp lại yêu cầu Mỹ, Nhật và các nước khác không can thiệp vào tranh chấp giữa Bắc Kinh với một số nước Đông Nam Á ở Biển Đông.

Phát biểu tại Thượng đỉnh Đông Á ở Brunei ngày 10/10, Thủ tướng Trung Quốc, Lý Khắc Cường, nhấn mạnh Bắc Kinh và ASEAN đã nhất trí với nhau rằng tranh chấp Biển Đông nên được giải quyết ôn hòa qua tham vấn và đối thoại giữa các bên trực tiếp liên quan, các nước không có tranh chấp không nên nhúng tay vào.

Ông Lý quả quyết quyền tự do hàng hải ở Biển Đông chưa từng là vấn đề và sẽ không bao giờ trở thành vấn đề.

Tại thượng đỉnh với sự tham dự của 18 nước, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe nhắc tất cả các nước liên hệ nên hành xử theo luật quốc tế và tránh hành động đơn phương hay dùng võ lực, một ám chỉ rõ ràng nhắm tới các động thái ngày càng gây hấn của Bắc Kinh dành chủ quyền gần như toàn bộ Biển Đông.

Dịp này, Hoa Kỳ và các quốc gia Đông Nam Á cũng kêu gọi tăng tiến các cuộc thảo luận giữa ASEAN với Trung Quốc về một Bộ quy tắc ứng xử Biển Đông để tránh xung đột.

Tuy nhiên, Trung Quốc dường như không mấy nhiệt tình với đề nghị đó.
Trong cuộc họp với lãnh đạo các nước ASEAN hôm 9/10, Thủ tướng Trung Quốc một lần nữa khẳng định Bắc Kinh không muốn quốc tế hóa vấn đề Biển Đông.
Nguồn: Reuters, Abs-cbn news
(VOA)

Đi tìm sự thật về “bà cố vấn” của chế độ Diệm - Nhu (kỳ 1 & 2)

Đi tìm sự thật về “bà cố vấn” của chế độ Diệm - Nhu (kỳ 2)
Bà Nhu năm 1963.
Tổng thống Mỹ Lyndon Johnson “đầu mày cuối mắt” với “bà cố vấn” Lệ Xuân. Tổng thống Mỹ John F.Kennedy ghét bà. Các sử gia đổ lỗi cho bà đã khiến chính quyền gia đình trị của dòng tộc Ngô Đình ở Nam Việt Nam sụp đổ.
Nhiều thập kỷ sau, một nhà văn đã tìm thấy “bà cố vấn” đang sống ẩn dật tại Paris. Một tác phẩm mới đã được ra mắt nhằm dựng lại những ngày cuối cùng của người đàn bà quyền lực một thời của Sài Gòn.
Sài Gòn năm 1963:
Cả thành phố chìm trong làn sóng bạo lực. Trên các tuyến phố, nhiều nhà sư tự thiêu để phản đối chính sách chống đạo Phật của chính quyền Diệm-Nhu. Những âm mưu nổi dậy lan tràn khắp nơi trong hàng ngũ quân đội. Trong những nhà tù đông nghẹt, sinh viên và tù nhân chính trị bị đưa vào trừng trị trong các xà lim chuồng cọp. Trong Dinh Độc lập không xa nơi đó, chính quyền gia đình trị Diệm - Nhu đang đau đầu chuẩn bị cho việc ban hành luật quân sự và bịa đặt ra các báo cáo về thành tích trong phong trào chống Cộng.
Nhưng những người Mỹ ủng hộ chính quyền Nam Việt Nam yếu ớt ngày càng bất mãn với Tổng thống Ngô Đình Diệm cũng như những kẻ họ hàng bợ đỡ và muốn đa số họ “biến cho khuất mắt”: Từ ngài tổng thống thiếu kinh nghiệm nhưng ngoan cố, cho đến người em trai tàn nhẫn, và đặc biệt là người em dâu ông Diệm - người phụ nữ mà Tổng thống Mỹ John F. Kennedy đã sử dụng biệt danh “hổ cái đáng nguyền rủa” để mô tả sự hãnh tiến, đầy toan tính của “Đệ nhất phu nhân” chính quyền Sài Gòn nổi danh với cái tên “Bà Nhu”.
“Ngây thơ như rắn hổ mang”
Vào thời kỳ đỉnh cao quyền lực, với vẻ đẹp chết người và những tham vọng không thèm che giấu, bà Nhu là nguồn gốc của hàng loạt câu chuyện thêu dệt và cũng tạo nên sự căm ghét của cả người dân địa phương và người phương Tây. Các tạp chí danh tiếng Time và Life đưa “bà cố vấn” lên các trang bìa và gọi bà là “sự quyến rũ xảo quyệt”. Tờ The New York Times khi đó mệnh danh bà là “người phụ nữ quyền lực nhất” Châu Á. Bà Nhu được mô tả “tự mãn và kiêu ngạo”, “một nhân vật của Ian Fleming (tiểu thuyết gia, “cha đẻ” của điệp viên 007-PV) ngoài đời thực”, người “ngây thơ như rắn hổ mang”, hay một “Nữ thần chiến tranh” phương Đông.
Đệ nhất phu nhân Mỹ Jackie Kennedy thậm chí cho rằng bà ta có “sự kỳ quái của quyền lực” và phóng viên của Hãng thông tấn Mỹ AP tại Sài Gòn, Malcolm Browne, biết bà Nhu là “kẻ thù nguy hiểm nhất mà một người đàn ông có thể gặp phải”. Xu hướng thời trang của bà Nhu với những chiếc áo dài bó sát và móng tay sơn màu đỏ tươi càng khiến hình ảnh của bà gần hơn với một “mệnh phụ đỏm dáng”. Tên của bà Nhu thậm chí còn được sử dụng như tiếng lóng để mô tả người phụ nữ đáng sợ: Jackie Kennedy sử dụng nó để chỉ những phụ nữ mà bà không ưa, trong lúc những người ghét Yoko Ono - vợ của ca sĩ John Lennon trong ban nhạc Beatles - gọi bà ta là “Bà Nhu của Lennon”.
Song đáng tiếc, con đường quyền lực và danh vọng của bà Nhu lại sớm tàn. Vào mùa thu năm 1963, vụ đảo chính do Mỹ hậu thuẫn đã hạ bệ và sát hại luôn cả người anh chồng và người chồng quyền lực của bà Nhu, buộc người đàn bà một thời quyền lực phải rời bỏ cố quốc sống ẩn dật cách quê hương nửa vòng trái đất. Sau một vài nỗ lực tuyệt vọng để giành lại chút hư danh qua đề nghị bán bản quyền hồi ký cho các nhà làm phim Hollywood, bà Nhu hầu như biến mất hoàn toàn khỏi thế giới, cho đến khi một học giả có tên Monique Demery tìm thấy dấu vết của bà vào giữa năm 2000 và đề nghị bà kể lại câu chuyện về một thời hoàng kim trong chế độ Sài Gòn. Tuy nhiên, trò chơi “mèo vờn chợt” đã bộc lộ rõ trong cuốn sách mới xuất bản của Demery “Đi tìm Quý bà Tuổi Rồng: Bí ẩn về Bà Nhu của Việt Nam”.
Mọi lời kể từ bà Nhu đều đáng ngờ
Cuốn sách được viết rất hấp dẫn, dù thi thoảng có vài hạt sạn, về người đàn bà vẫn còn đang chìm đắm trong hư ảo của quá khứ vinh quang, với trí óc đã nửa phần ngây dở sau nhiều năm ẩn dật xa lánh xã hội, người đã phải trải qua hoàn cảnh nghèo túng đầy ngạo mạn, giữa sự thâm hiểm và đáng thương, và cả mánh khóe quỷ quyệt, mà thông thường là tổng hòa của toàn bộ những khía cạnh này.
Demery đã dệt nên truyền thuyết về công cuộc tìm kiếm Bà Nhu cùng lúc tái hiện lại tiểu sử cuộc đời của đệ nhất phu nhân Sài Gòn trong lịch sử hiện đại đầy hỗn loạn ở Việt Nam và Đông Dương khi đó. Được sinh ra sau khi Diệm đã bị lật đổ một thập kỷ, Demery chưa từng có cơ hội được chứng kiến về thời đại cầm quyền của gia đình họ Ngô như nó đã diễn ra.
Thay vào đó, bà đã dựa vào những ghi chép đương thời của các nhà báo Mỹ, các tư liệu nhân chứng, các ghi chép của Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA), các thư từ và đoạn ghi hội thoại của tổng thống, cả tấm bằng cử nhân của bà về nghiên cứu Châu Á và hai chuyến nghiên cứu thực địa ở Việt Nam, các cuộc đàm thoại với bà Nhu, và cuối cùng, những hồi ức bị cắt xén của “bà cố vấn” và một nhật ký bí ẩn. Vấn đề là, bất cứ điều gì được kể lại từ miệng hay trí óc của bà Nhu, kể cả những cuộc trả lời phỏng vấn trực tiếp của bà với báo chí Sài Gòn khi đó, đều đáng phải đặt trong sự nghi vấn bởi thiên hướng thích phóng đại, tô vẽ sự việc và cả những mánh khóe lừa gạt khéo léo của “bà cố vấn”.
Người mẹ tham vọng
Kể cả những giai thoại đầu đời của bà Nhu dường như cũng bị bao phủ bởi một lớp sương mù đẫm chất thần thoại. Khi bà Nhu được sinh ra, vào năm 1924, một thầy bói tại Hà Nội đã tiên đoán rằng “ngôi sao chiếu mạng của cô bé không thể sáng hơn!” và nói với người mẹ, một công nương hoàng gia, rằng số phận của cô con gái nhỏ “vượt qua mọi sự tưởng tượng”. Lời tiên đoán này đã khiến cha mẹ của bà, khi đó được đặt tên là Lệ Xuân, đặt nhiều kỳ vọng vào cô con gái giữa và dành nhiều ưu ái cho cô hơn người chị gái và người em trai. Lệ Xuân lớn lên luôn là trung tâm của sự chú ý và được hậu thuẫn mạnh mẽ, những người chị em cùng cha mẹ luôn khích bác rằng cô là người trái tính trái nết, khiến Lệ Xuân cảm thấy mình là “chủ đề của các nguồn cơn hay cuộc chiến trong gia đình”.
Tuy nhiên, khó có thể mô tả thời thơ ấu của Lệ Xuân là khốn khổ, ít nhất không phải về bình diện vật chất. Cha của Lệ Xuân, một luật sư trong chính quyền thuộc địa và có họ hàng xa với hoàng đế, lại ngưỡng mộ tất cả những gì có xuất xứ phương Tây. Ông cho các con học trường Pháp, nói tiếng Pháp ở nhà và tham gia vào các cuộc tiếp tân ở thuộc địa. Gia đình Lệ Xuân khi đó thuê hàng chục người hầu để nấu nướng, dọn dẹp và lái xe chở họ đi vòng quanh thành phố trên chiếc Mercedes bóng loáng.
Mẹ của bà Nhu có thể ghen ghét, hoặc thậm chí là khinh miệt cô con gái thứ hai, nhưng cả hai lại có rất nhiều điểm tương đồng. Bà Chương nổi tiếng vì sắc đẹp - người Pháp mô tả bà là “Hòn ngọc Châu Á” - vì sự lịch lãm và quý phái toát ra từ các trang phục đắt tiền. Bà cấm tất cả những người khách đến nhà được mặc màu vàng, màu của hoàng gia. Bà Chương cũng thể hiện dự cảm chính trị sắc bén. Các buổi tiếp tân thứ ba hàng tuần tại tư dinh bà Chương ở Hà Nội trở nên nổi tiếng với sự góp mặt của những vị chức sắc “tai to, mặt lớn” của cả giới chức Pháp và Việt.
Vào năm 1939, khi chế độ Vichy cho phép Nhật Bản được vào Đông Dương, gia đình bà Chương bắt đầu tạo dựng mối quan hệ với các nhà ngoại giao từ Tokyo. Sắc đẹp của bà Chương trở thành vũ khí lợi hại, mà theo cảnh sát mật của Pháp, bà ta đã “nổi tiếng trên toàn Đông Dương” vì “những tham vọng bền bỉ cũng như sẵn sàng lên giường với bất cứ người nào có ảnh hưởng từ bất cứ nơi nào và với mọi quốc tịch”, kể cả những đối tác mới từ Nhật. Nhờ vũ khí lợi hại là bà vợ, ông Chương đã nhận được một công việc hời trong chính phủ bù nhìn của Nhật. Cảnh sát Pháp còn nhận định “với sắc đẹp và mưu lược, bà Chương chính là người “đứng mũi chịu sào” trong gia đình. Bà ta điều khiển chồng”.
Một trong số những người tình được đồn đại của bà Chương - mẹ Lệ Xuân - chính là Ngô Đình Nhu. Người đàn ông này xuất thân từ một gia đình Thiên Chúa giáo danh tiếng. Cha của ông ta từng là quan lại trong triều đình, nhưng đã từ chức để phản đối các chính sách của chính quyền thuộc địa. Người cha với tư tưởng dân tộc chủ nghĩa chống Pháp đã gây ảnh hưởng lớn đến tư tưởng của cả 6 người con trai, đặc biệt là người con thứ ba, Ngô Đình Diệm, và người con thứ tư, Ngô Đình Nhu.
Đính ước vì “liên minh chiến lược”
Ngô Đình Nhu khi đó mới từ Pháp về Việt Nam sau khi có bằng thủ thư và chuyên viên lưu trữ. Trong một lần đến thăm gia đình ông Chương, Ngô Đình Nhu đã gặp cô thiếu nữ Lệ Xuân mới 15 tuổi trong vườn nhà. Cả hai đã nhanh chóng đính hôn như một nhu cầu thiết yếu của việc tìm kiếm “liên minh chiến lược”.
“Tôi chưa từng trải qua mối tình sâu đậm nào”, bà Nhu tâm sự với một phóng viên nhiều năm sau đó. “Tôi đã đọc nhiều về những điều như vậy trong sách vở, nhưng tôi chẳng bao giờ tin rằng chúng thực sự tồn tại”.
Cặp đôi kết hôn vào năm 1943, khi cô dâu tròn 18 tuổi và đã cải đạo Thiên Chúa giáo. Trong ngày cưới, Lệ Xuân lộng lẫy trong bộ váy cưới bằng lụa được may theo kiểu hoàng gia.
Sau đám cưới, đôi vợ chồng chuyển tới sống tại kinh thành Huế, nơi họ phải chứng kiến sự tàn phá chết chóc của quân đội Nhật hoàng tại vùng nông thôn, khiến nạn đói lan tràn vào năm 1944 và 1945 tại Việt Nam, làm hơn 2 triệu người chết.
Trong cơn tuyệt vọng, những người nông dân khốn khổ đã phải ăn cả cỏ, lá cây và vỏ cây và tha hương vào thành phố hòng mong kiếm được thức ăn.
Trước cảnh khốn cùng của nhân dân, những người cộng sản đã bí mật giúp người dân có lương thực, trao cho nông dân hạt giống để gieo trồng.
Khi Nhật đầu hàng quân đội đồng minh vào cuối Đại chiến II, người Pháp ôm mộng có thể tái chiếm thuộc địa - song đã hoảng sợ phát hiện ra rằng họ đang phải đối mặt với phong trào giành độc lập lan rộng trên khắp Việt Nam.
Vào năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, những người cộng sản đã đánh bại quân đội Pháp và xét xử những kẻ theo chân quân xâm lược, trong đó có người anh cả của gia đình Ngô Đình. Ngô Đình Diệm cũng bị bắt giữ trong một thời gian ngắn, trong lúc người em Ngô Đình Nhu và Lệ Xuân trốn chạy về Sài Gòn.
Từ đây, vợ chồng Ngô Đình Nhu tiếp tục di chuyển đến ở cùng bố mẹ Lệ Xuân trong một dinh thự ở Đà Lạt, không xa dinh thự của người anh em họ, vị hoàng đế Bảo Đại - người vẫn duy trì cuộc sống xa hoa nhàn hạ với các trận tennis, câu cá, bơi lội hay đi săn vào thời điểm chiến tranh đang tàn phá mọi nơi.
Cả Bảo Đại và gia đình Lệ Xuân đều coi thường cuộc chiến tranh giành độc lập của những người cộng sản chống lại thực dân Pháp.
Đi tìm sự thật về “bà cố vấn” của chế độ Diệm - Nhu (kỳ 1)
Bà Nhu tập bắn súng lục 38 ly. Ảnh: Larry Burrows.
Pháp biết trước Diệm sẽ thất bại
Trái lại, Ngô Đình Nhu luôn dè chừng, nghi hoặc. Bọc dưới lớp vỏ của cuộc sống an nhàn tại Đà Lạt, với các cuộc săn bắn lớn và sở thích ươm các loài lan quý, Nhu đã bí mật xây dựng một đảng mới bao gồm mạng lưới những kẻ chống lại những người cộng sản.
Đảng này được điều hành bởi anh trai của Nhu là Ngô Đình Diệm - một viên quan cũ được tiếng liêm khiết, song luôn bị ám ảnh bởi việc xây cho được một quốc gia phi cộng sản.
Vào năm 1954, Diệm đã thuyết phục được người Mỹ - lúc này đang vật lộn trong nỗi sợ hãi chủ nghĩa cộng sản ảnh hưởng sâu rộng tại Châu Á - ủng hộ kế hoạch của ông ta.
Khi phái đoàn Mỹ đến Geneva để tham gia đàm phán kết thúc cuộc chiến tại Đông Dương, họ đã nêu tên Diệm như “người được lựa chọn” cho cương vị Thủ tướng quốc gia phi cộng sản được lập nên từ vĩ tuyến 17 đổ vào miền Nam.
Người anh em họ của bà Nhu, hoàng đế Bảo Đại, sẽ là người đứng đầu quốc gia mới trên danh nghĩa (trên thực tế, ông này đã lên kế hoạch sang Pháp sinh sống để trốn tránh chính trị).
Chỉ sau này Diệm mới hiểu vì sao Pháp - vốn căm ghét lập trường dân tộc chủ nghĩa cứng rắn của ông ta - lại nhất trí với kế hoạch của Mỹ. Chính phủ Pháp hiểu rất rõ rằng, Diệm sẽ hoàn toàn bó tay trước nhiệm vụ bất khả thi là gây dựng chế độ Sài Gòn để có thể ngăn chặn kế hoạch thống nhất đất nước của Hồ Chí Minh.
Khi Diệm đặt chân đến Sài Gòn với tư cách người đứng đầu chính quyền, ông ta đối mặt với một ngân khố rỗng không, thành phố bị tàn phá bởi các băng đảng tội phạm có tổ chức, và làn sóng người di cư.
Trong khi đó, những người cộng sản ở miền Nam đã rút vào hoạt động bí mật để tổ chức các cuộc chiến tranh du kích.
Ngô Đình Diệm, một người có lối sống khổ hạnh và ít hiểu biết về chính trị, hầu như phải phụ thuộc vào sự cố vấn của người em nhiều mưu mô Ngô Đình Nhu. Vì vậy, vợ chồng Nhu đã chuyển vào ở trong Dinh Tổng thống để giúp Diệm dẹp loạn các băng đảng tội phạm, đàn áp những kẻ thân Pháp và củng cố quyền lực.
Vào năm 1957, nhờ sự giúp đỡ của người em trai, Ngô Đình Diệm đã được báo chí nước ngoài tung hô như “người có bàn tay rắn kỳ diệu của Đông Nam Á”, và từ đây, Mỹ đã rót hàng triệu đồng đô la xanh vào túi chính quyền miền Nam Việt Nam.
Qua mặt anh em Diệm, Nhu
Ngô Đình Nhu lúc này đã được thừa nhận là bộ óc đằng sau chính quyền Diệm, song rất nhanh chóng bà Nhu đã nổi lên vượt qua cả hai anh em nhà Ngô Đình về cả tham vọng và máu lạnh.
Khi một đối thủ chính trị và cũng là con rối của Pháp huênh hoang rằng, ông ta sẽ đuổi cổ Diệm ra khỏi Sài Gòn và bắt Lệ Xuân làm vợ bé, bà ta nạt giọng: “Ông chẳng bao giờ có thể lật đổ được chính quyền này vì ông không có gan. Và ngay cả khi ông có thể lật đổ được đi nữa, ông sẽ không bao giờ có được tôi vì tôi sẽ cắt cổ ông trước”.
Sau đó, Lệ Xuân đã tổ chức một cuộc tuần hành tố cáo chính trị gia trên và đồng bọn người Pháp là “những kẻ phá hoại độc lập quốc gia” - một hành động khiêu khích trong bối cảnh “bầu không khí chính trị đã quá nóng” khiến bà ta bị buộc phải tạm lánh sang Hồng Kông nhiều tháng dưới sức ép của Mỹ.
“Thay vì xem nó như một sự trừng phạt, bà Nhu lại cho rằng việc họ đưa bà ta đi xa là sự khẳng định về uy quyền bà ta có thể có. Vì nếu bà ta không phải là mối lo, họ sẽ chẳng phải buộc bà rời khỏi gia đình. Rõ ràng, bà ta quá nguy hiểm để có thể tảng lờ cho qua”.
Vào năm 1956, sức ảnh hưởng của bà Nhu được thể hiện rõ khi bà ta giành được một ghế trong Quốc hội Sài Gòn, trong cuộc bầu cử bị tố cáo là do chính quyền Ngô Đình giật dây. Tuy nhiên, bà Nhu luôn khẳng định việc bà được đề cử “phản ánh ý chí của những người ủng hộ bà”.
Cha mẹ của bà Nhu cũng được thơm lây nhờ con gái, khi ông Chương được bổ nhiệm làm Đại sứ chính quyền Sài Gòn tại Mỹ, còn mẹ của bà trở thành Quan sát viên miền Nam Việt Nam tại Liên Hợp Quốc.
Ngay sau khi nhậm chức, bà Nhu đã sử dụng tài khéo léo để thúc đẩy việc thông qua các đạo luật mang màu sắc của những sự trả đũa cá nhân.
Dưới chiêu bài vì quyền của phụ nữ, bà ta đã soạn thảo Luật Gia đình để cấm việc giới chức có vợ bé và cấm ly dị - một động thái những tưởng là vì sự tiến bộ cho đến khi hàng loạt tin đồn xuất hiện về việc chị gái của bà Nhu là Lệ Chi ngoại tình và muốn ly dị chồng.
Khi Lệ Chi biết tin về luật mới, bà ta đã tự làm đau mình rồi cuồng loạn chạy quanh Dinh Tổng thống để phản đối. Bà Nhu được cho là đã nói với Lệ Chi rằng “nỗi hối hận duy nhất là sao không để bà ta chết đi cho rồi”.
Sau đó, người tình của Lệ Chi tiết lộ, bà Nhu đã muốn trừ khử ông ta bằng cách lén thuê người tiêm khuẩn tả cho ông này. Bà Nhu cũng đưa ra Luật Đạo đức cấm các cuộc khiêu vũ, thi sắc đẹp, cấm ngừa thai, các loại áo nịt ngực có gọng, trong lúc chính bà ta luôn ưa diện những loại áo dài may sát người với giày gót nhọn của Pháp.
Trên thực tế, bà Nhu thường phô bày sự gợi cảm của mình, trong lúc luôn miệng rao giảng về tính nhu mì.
Một mô tả thời đó về bà Nhu viết “bà cố vấn lúc nào cũng đỏm dáng, với một sự lẳng lơ không thèm che giấu trong lúc khiển trách người Mỹ về việc “cám dỗ phụ nữ Việt Nam vào con đường sai trái”. Một người khác cho rằng bà ta là “người vô cùng gợi cảm, và nói rất to”.
Bà Nhu còn được cho là đã khiến các chính trị gia và tướng lĩnh “bái phục” trong những cuộc chè chén say sưa khi tháp tùng chồng đến thủ đô Washington DC (Mỹ) và gửi những lá thư ướt át đến Phó Tổng thống Lyndon Johnson.
Khi Ngô Đình Diệm - thường cậy nhờ người em dâu đảm đương vai trò của một Đệ nhất phu nhân trong các cuộc tiếp tân chính thức - chỉ trích bà ta về những trang phục quá bó sát cơ thể, bà Nhu quặc lại: “Nó có khít cổ anh đâu, mà là cổ tôi. Vì thế, đừng nói nữa”.
“Bất cứ ai được thăng chức, mà không xấu trai, là bồ của bà Nhu”
Dù có hay không có việc bà Nhu ngoại tình - chủ đề nóng cho dư luận đồn đại khi đó - thì bà ta luôn được nhìn nhận như một “người đàn bà đầy quyến rũ và khêu gợi”, một biểu tượng của tính dục và một người lăng loàn. Song dường như bà Nhu rất thích những tin đồn này, hoặc ít nhất là chả thèm để tâm.
“Nếu bất cứ người đàn ông nào được thăng cấp và ông ta không quá xấu, dư luận lập tức cho rằng ông ta là người tình của bà Nhu” - bà cố vấn giễu cợt dư luận trong một lần trả lời phỏng vấn tạp chí Time.
Rõ ràng, những định kiến của dư luận đối về người mẹ “ngoại tình bừa bãi” của bà Nhu đã tiếp tục được áp đặt, dù đúng hay không, đối với người con gái.
Giống như mẹ mình, bà Nhu bị tố cáo, như lời của Demery, là “người đàn ông thực sự trong gia đình”.
Chánh Văn phòng của Tổng thống Diệm từng mô tả với các phóng viên rằng “bà ta nắm mọi quyền hành trong nhà”; còn một phóng viên Washington Post cho rằng Tổng thống Diệm “nghe lời em dâu hơn bất cứ ai khác ở Việt Nam”.
Bà Nhu thích được sống trong thế giới của đàn ông, tận hưởng sự thích thú khi chứng kiến những kẻ đến và đi khỏi bộ máy chính trị, mà theo một mô tả đương thời “mưu đồ của bà ta là không có giới hạn”.
Phóng viên từng giành giải Pulitzer của tạp chí Times, David Halberstam, ghi lại: “Bà Nhu có một sự say mê kinh ngạc đối với các buổi lễ phô trương quyền lãnh đạo.
Bà ta là người duy nhất trong gia đình có thể bước đi với dáng vẻ của một kẻ độc tài, với niềm thích thú hứng khởi khi nhìn thấy những hàng người dài tiếp đón, và quay từ từ sang phải, rồi sang trái để có thể nếm trải cảm giác được là tâm điểm của cả đám người. Nó luôn là một màn trình diễn của bậc thầy... Đó cũng là cách mà Mussolini (nhà độc tài Ý) đã làm”.
Để chứng tỏ lòng dũng cảm của chính mình và dè bỉu sự yếu đuối của anh em họ Ngô, bà Nhu thường kể câu chuyện về cách bà ta đã trấn an được tinh thần của “Diệm mềm yếu” và người chồng khi đó hoảng loạn phải đánh trả mạnh mẽ lại những kẻ phản bội trong một âm mưu đảo chính năm 1960.
“Trước thời điểm đó, họ chưa bao giờ nhìn nhận về tôi một cách nghiêm túc. Nhưng từ sau đó, họ đã bắt đầu chú ý đến tôi” - bà Nhu kể với tờ Halberstam một vài năm sau. Trong một dịp khác, bà Nhu phát biểu với phóng viên của tạp chí Newsday, Marguerite Higgins, rằng “Quyền lực là tuyệt vời”.

(Xem tiếp kỳ sau)

A.P (dịch từ thedailybeast)
 (Lao động) 

Bảy mối họa của Trung Quốc

Mao Trạch Đông qua lăng kính danh họa Andy Warhol.
Mao Trạch Đông qua lăng kính danh họa Andy Warhol.  -DR

Minh Anh  -RFI

Đề tài thời sự trên các báo Pháp sáng nay 11/10/2013 khá tản mạn. Riêng nhật báo Le Monde có nhiều bài viết nhận định về tình hình chính trị, kinh tế và xã hội tại châu Á, đặc biệt là tại Trung Quốc. Tờ báo có bài phân tích khá sâu sắc về chủ trương « hoài Mao » được các lãnh đạo Trung Quốc đề xướng trong thời gian gần đây qua hàng tựa « Bảy mối họa của Trung Quốc ».
Theo François Bougon, tác giả bài viết việc trở lại với tư tưởng Mao cho thấy sự suy yếu của dàn lãnh đạo mới của Trung Quốc, những người không còn được hưởng tính chính đáng từ các cựu lãnh đạo tiếng tăm, như là Giang Trạch Dân hay Hồ Cẩm Đào đã có thể làm.
Tác giả nhận định Mao Trạch Đông đã để lại di sản kế thừa quá nặng nề. Tầm ảnh hưởng của ông lên đời sống chính trị Trung Quốc cho đến giờ vẫn còn quá mạnh mẽ. Bất chấp những hậu quả nặng nề của cuộc Cách mạng văn hóa và các chiến dịch thanh trừng nội bộ, đối với Đặng Tiểu Bình, cha đẻ của các chính sách cải cách kinh tế, người sáng lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chỉ phạm có 30% sai lầm, nhưng có đến 70% thành công. Do đó, không có lý do gì để gạt bỏ tư tưởng Mao. Thế nhưng đối những ai quan tâm đến lịch sử đất nước, đều nhận thấy là lý thuyết đưa ra trong những năm 1980, theo đó mở cửa phát triển kinh tế sẽ đưa đến nền dân chủ đã gặp thất bại hoàn toàn.
Giờ đây, trong năm 2013 này, người ta không khỏi tự hỏi làm thế nào một Trung Quốc ngày càng theo chủ nghĩa tư bản lại bao quát được cả một chủ nghĩa Mao được tái sáng tạo mới. Mà biểu tượng của hiện tượng này, ấn bản sắp tới của Sách đỏ sẽ được bán với một cái giá 2000 nhân dân tệ (khoảng 242 euro), một phiên bản hạng sang.
Theo François Bougon, trào lưu hoài Mao còn được các thế hệ lãnh đạo mới sau này sử dụng để thăng tiến trên con đường sự nghiệp chính trị, mà nhân vật điển hình là vị Bí thư đảng ủy thất sủng Trùng Khánh Bạc Hy Lai, hiện đang bị kết án tù chung thân vì tội tham nhũng.
Giờ đây, ông Tập Cận Bình có thể ung dung thực hiện chiến dịch « hoài Mao » mà không ngại một phe tả trong Đảng ngáng chân. Tư tưởng hoài Mao được thể hiện rõ nét trong các bài diễn văn của chủ tịch Tập Cận Bình. Không những ông khẳng định lập trường « quốc gia không bao giờ thay đổi màu cờ » mà ông còn kêu gọi các cấp lãnh đạo phải ghi nhớ lời dạy của Mao chủ tịch « phải khiêm tốn, cẩn trọng và không ngạo nghễ cũng như liều lĩnh » và phải biết « gìn giữ một nếp sống giản dị ». Đến mức mà giờ đây Tập Cận Bình còn được đặt cho một cái tên mới « Tân Mao Trạch Đông ». Bởi vì, Tập Cận Bình đã từng tuyên bố là « Chúng ta không thể nào gạt qua một bên chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông, vì như vậy sẽ làm mất đi cội rễ của chúng ta ».
Tác giả lưu ý là lời nói phải đi kèm với hành động. Bộ máy cầm quyền chống lại những ai dám yêu cầu tôn trọng Hiến Pháp hay cân bằng quyền lực trước sự độc tôn của Đảng. François Bougon cho hay một cuộc tấn công đang được tiến hành nhằm « tẩy rửa » giới tiểu blog, những trang mạng xã hội lớn, để chấn chỉnh họ lại. Theo nhận định của Thường Bình, cựu tổng biên tập tờ Nam Phương Chu Mạt, hiện sống lưu vong tại Đức, « Đảng đang tìm cách cải cách mạng Internet sao cho các phương tiện này trở thành một kiểu truyền thông chính thống ».
Theo một tài liệu nội bộ, được giới truyền thông Hồng Kông tiết lộ và được xem như là « tài liệu trung ương số 9 », Trung Quốc kêu gọi quan chức chiến đấu chống lại « những giá trị phương Tây nguy hiểm » khi chỉ ra 7 mối nguy : Đó là các giá trị phổ quát ca tụng nhân quyền, tự do báo chí, xã hội dân sự, quyền công dân, chỉ trích vô hư về các sai lầm của Đảng, giới tư sản đặc quyền và độc lập tư pháp.
Theo Bougon, chủ trương « hoài Mao », vốn dĩ đang bóp nghẹt nền xã hội dân sự là một trong những ba lựa chọn của chế độ để đối phó với những thách thức đề ra cho cường quốc kinh tế thứ hai thế giới. Hai biện pháp còn lại là chú trọng theo mô hình Đặng Tiểu Bình. Một mặt để cho nền thị trường tự do nở rộ. Mặt khác, hạn chế tối đa việc dân chủ hóa xã hội.
Tác giả bài viết cũng nhận thấy rằng sự hoài Mao này cũng chứng tỏ cho thấy sự mong manh của dàn lãnh đạo mới của Trung Quốc. Tình trạng bấp bênh đó là một nguồn bất ổn tiềm tàng cho một quốc gia muốn vượt mặt Hoa Kỳ trong thế kỷ XXI này.
Cuối cùng, tác giả nhận xét, bất đồng gia tăng, khủng hoảng sinh thái, tăng trưởng kinh tế ì ạch và thách thức về đô thị hóa có thể sẽ biến đế chế Trung Hoa thành một gã khổng lồ với đôi chân bằng đất sét.
Trung Quốc : cường quốc kinh tế, cường quốc nhập khẩu năng lượng
Về điểm này, phụ san Kinh tế và Doanh nghiệp của Le Monde cũng đồng quan điểm. Để đi lên thành cường quốc kinh tế thứ hai, Trung Quốc giờ đây phải đối mặt với mối đe dọa lớn mang tính chiến lược đó là vấn đề năng lượng.
« Trung Quốc trở thành quốc gia nhập khẩu dầu hỏa hàng đầu » là hàng tựa nhận định trên Le Monde. Theo bản báo cáo của Cơ quan quản lý thông tin năng lượng Hoa Kỳ EIA, công bố hôm thứ Ba 08/10, cho biết nhập khẩu tịnh của Trung Quốc trong tháng Chín vừa qua đã đạt đến mức 6,3 triệu thùng dầu/ngày, vượt qua Mỹ 6,24 triệu thùng/ngày.
Trên thực tế, từ năm 1993, Trung Quốc đã trở thành quốc gia nhập khẩu năng lượng, trong khi chỉ cách đó có 8 năm (tức 1985) quốc gia này còn là nước xuất khẩu. Sự lệ thuộc hoàn toàn vào nguồn năng lượng hóa thạch như (dầu hỏa, khí đốt , than đá…) tăng mạnh do mức cầu cho giao thông và sản xuất điện tăng.
Sự phát triển ngành công nghiệp ô tô cũng làm cho nhu cầu về nhiên liệu hóa lỏng gia tăng. Theo ước tính, trong giai đoạn 2011-2014, mức cầu này sẽ phải tăng thêm 13% để đạt ở mức 11 triệu thùng/ ngày.
Sự lệ thuộc hoàn toàn vào năng lượng đang để lại nhiều hậu quả « đáng ngại » về môi trường và kinh tế, theo như đánh giá của Hội đồng Năng lượng Thế giới. Trung Quốc hiện là quốc gia thải nhiều khí cácbon nhất trên hành tinh.
Tình thế này cũng để lại nhiều hệ quả địa chính trị. Bắc Kinh buộc phải tìm các nguồn cung ứng tại các khu vực Trung Đông và tại quốc gia vùng Vịnh, thậm chí các những quốc gia châu Phi. Ngoài việc phải đảm bảo nguồn cung ứng, Trung Quốc còn phải giám sát cả các con đường vận chuyển dầu hỏa của mình. Bắc Kinh tăng cường chiến hạm và đầu tư nhiều vào các hải cảng nằm dọc theo con đường hàng hải nối liền châu lục đen và vùng Vịnh với Trung Quốc.
Fukushima : « địa ngục » cho những người làm công tác tháo dỡ
Nhìn sang Nhật Bản, báo Le Monde có bài viết quan tâm đến những con người đang âm thầm làm công tác tháo dỡ khu trung tâm hạt nhân Fukushima bị tai nạn do sóng thần và động đất năm 2011. Tờ báo chạy tựa, « Fukushima : trong ‘địa ngục’ của những người làm công tác tháo dỡ ».
Philippe Pons, tác giả cho biết buổi nói chuyện được diễn ra tại một địa điểm kín đáo. Bởi vì, trao đổi với các phóng viên là một việc làm rất mạo hiểm. Công ty tuyển dụng có thể xem như đây là cái cớ để sa thải họ.
Theo lời thuật của những người được hỏi, nhân sự làm việc tại đây thường xuyên thay đổi. Ngoài việc do bị nhiễm xạ ở mức cao buộc phải rời công việc sớm, rất nhiều người cho rằng lương bổng thấp, không được hưởng đúng mức hỗ trợ rủi ro hay lương ngoài giờ là những nguyên nhân chính dẫn đến nhiều người phải bỏ việc tại đây, gây ra tình trạng thiếu nhân công triền miên.
Do đó, các doanh nghiệp nhà thầu lãnh nhận việc tháo dỡ trung tâm hạt nhân buộc phải liên tục tuyển người. Hệ quả là họ không kịp có thời gian để đào tạo và hầu như là những người thiếu kinh nghiệm, tay nghề non kém. Họ còn cho biết thêm là những ai có tay nghề kém nhất lại không được bảo đảm về an toàn lao động và còn bị các nhà tuyển dụng trung gian rút rỉa tiền lương.
Theo quan sát của Philippe Pons, thì cuộc sống của những người làm việc tại đây thật là buồn tẻ và đơn điệu. Tại nơi họ sinh sống, đường phố vắng vẻ như là trong một thành phố chết. Không tuyến xe lửa, cũng không có xe buýt, ngoại trừ chuyến xe ca chở họ đi làm và chở về nhà. Trường học cũng vắng tanh. Nhà cửa, cửa hàng và quán ăn đóng im ỉm, không chút ánh đèn. Những người làm việc tại đây hoặc sống trong những căn phòng tạm bợ do doanh nghiệp dựng lên, hoặc sống thuê trong những căn nhà mà ngay chính chủ nhà cũng không muốn ở.
Tokyo phản đối lệnh cấm vận lương thực của Trung Quốc và Hàn Quốc
Cũng liên quan đến Fukushima, nhật báo kinh tế Les Echos cho hay « Tokyo nổi dậy chống lệnh cấm vận của Trung Quốc và Hàn Quốc ».
Tờ báo cho hay hôm qua, thứ Năm 10/10, nhân cơ hội gặp mặt các đồng nhiệm Trung Quốc và Hàn Quốc, thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã kiên quyết đề nghị lãnh đạo hai quốc gia dỡ bỏ lệnh cấm vận lên các mặt hàng thủy sản đến từ nhiều vùng lân cận với tỉnh Fukushima.
Theo Tokyo, lệnh cấm áp đặt lên các mặt hàng này là không có cơ sở và phủ nhận thực tế các xét nghiệm khẳng định có rất ít cá đến từ các vùng biển Nhật Bản bị nhiễm xạ. Les Echos nhắc lại bối cảnh sự việc. Trung Quốc đã áp dụng lệnh cấm ngay từ khi xảy ra sự cố Fukushima. Còn đối với Hàn Quốc, Nhật Bản đặc biệt có những phản ứng mạnh mẽ. Vịn vào lý do rò rỉ nước nhiễm xạ, ngoài các sản phẩm đến từ tỉnh Fukushima đã bị cấm, Seoul còn mở rộng thêm lệnh cấm nhập khẩu hải sản Nhật Bản lên 8 tỉnh khác, đôi khi cách Fukushima đến hàng trăm km.
Ấn Độ trả giá đắt cho sự đam mê vàng
Vàng đối với người Ấn Độ cũng như người Việt Nam được xem như là yếu tố bảo đảm cho sự phồn thịnh. Thế nhưng, đối với nền kinh tế Ấn hiện nay, kim loại màu vàng đó đang là một trong những mối đe dọa đè nặng lên nền kinh tế đất nước. Chủ đề này được phụ san Kinh tế và Doanh nghiệp báo Le Monde phản ảnh lại qua bài viết « Ấn Độ và vàng, cái giá cho một niềm đam mê ».
Việc nhập khẩu vàng ồ ạt đang ngày càng đè nặng lên cán cân thương mại của Ấn Độ. Quốc gia Nam Á này nhập khẩu đến 1/3 lượng vàng sản xuất trên thế giới, bỏ xa cả Trung Quốc lẫn Hoa Kỳ. Vào thời điểm đồng rupee bị trượt giá, trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế èo uột, chính phủ lại không có chút nỗ lực nhằm kìm hãm bớt nỗi thèm khát vàng của người dân.
Đối với chính quyền New Dehli, đây quả là một thách thức quá to lớn. Vào cuối thập niên 2000, Ấn Độ nhập khẩu đến 1000 tấn vàng. Sự thèm khát quả là quá đắt. Nhập khẩu vàng trong giai đoạn 2010-2011, đã ngốn của chính phủ đến gần 40 tỷ đô-la, tức chiếm đến 10% tổng lượng nhập khẩu.
Giải thích cho sự đam mê đắt đỏ đó, Le Monde đưa ra hai lý do. Thứ nhất, xuất phát từ tập tục cưới hỏi và các lễ hội truyền thống. Đây cũng là dịp để người dân Ấn Độ mua sắm loại kim loại quý này. Thứ hai, xuất phát từ những kinh nghiệm xa xưa, giờ vẫn còn in đậm trong tiềm thức của người dân, đó là vàng được xem như là một giá trị bảo toàn tốt nhất, dùng để phòng thân trong các trường hợp binh biến, loạn lạc (về điểm này rất giống suy nghĩ của người Việt Nam). Vấn đề là đối với nền kinh tế, việc trữ vàng lại được xem như một đầu tư « không sinh lợi ».
Alice Munro, giải Nobel Văn học ở tuổi 82
Trên lãnh vực văn hóa, một số báo Pháp hôm nay có bài viết về giải Nobel Văn học 2013 được trao cho nữ sĩ người Canada, bà Alice Munro, 82 tuổi. Đa số các báo đều có chung nhận định bà là phụ nữ Canada đầu tiên và cũng là phụ nữ thứ ba được nhận giải thưởng cao quý này.
Libération chạy tít lớn trên trang nhất « Nobel Văn học : Alice Munro, tin vui ». Vượt qua các đối thủ nặng ký khác như nhà văn Nhật Bản Haruki Murakami, hay như Svetlana Alexievitch, bà Alice Munro, bậc thầy dòng tiểu thuyết mới đã được nhận giải thưởng cao quý từ Ủy ban Nobel Thụy Điển. Sau Mạc Ngôn, một nhà văn Trung Quốc, Nobel văn học năm 2012, đây là lần đầu tiên Viện Hàn lâm Thụy Điển trao giải thưởng cho một tác giả thuộc dòng văn học đương đại. Libération đánh giá quyết định chọn bà Munro là một sự chọn lựa mang tính chất thuần túy văn học không mang màu sắc chính trị. Bởi vì, Alice Munro là một « bậc thầy của dòng văn học đương đại ».
Nhật báo Công giáo La Croix, dành một góc nhỏ trên trang nhất để chạy tựa « Tiểu thuyết gia Alice Munro được trao giải Nobel Văn học ». Cũng như Libération, nhật báo công giáo công nhận « Alice Munro, bậc thầy dòng truyện ngắn ». Hiếm có những tác giả đương đại nào lại có sự nghiệp sáng chói ngang hàng với các đồng nghiệp, những tiểu thuyết gia khác : kể từ cuối thập niên 60, nữ sĩ Alice Munro chứng tỏ sự thanh cao và cao cả của nghề nghiệp khi tự đặt mình vào trong dòng xoáy của Goethe et Schlegel, Balzac và Flaubert, Henry James, Tchekhov ou Sarraute. Một nữ sĩ « kín đáo và lặng lẽ », theo như đánh giá của Le Figaro.

Tập đoàn Than Khoáng sản đang đốt 11.000 tỷ đồng mỗi năm như thế nào?

http://ttvn.vn/kinh-doanh/tap-doan-than-khoang-san-dang-dot-11-000-ty-dong-moi-nam-nhu-the-nao–201310041559259439.htm
11/10/2013 15:12 - Trí thức trẻ

4.000 tỷ đồng trả lương cho lao động dôi dư và gần 7.000 tỷ đồng do thẩm lậu than.

Vài năm nay, Tập đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) vẫn luôn miệng thở than về việc giá bán than cho ngành điện rẻ đến ‘bèo bọt’, thấp hơn cả giá thành sản xuất khiến tập đoàn này chẳng có tiền quay vòng đầu tư. Tuy vậy, chẳng mấy ai biết cái “giá thành sản xuất” của TKV là bao nhiêu để mà hiểu nó cao hay thấp!
Tuy vậy, dù thấp hay cao, theo phân tích của nhà báo Tấn Đức trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn, TKV đáng lẽ đã tiết kiệm được cả chục ngàn tỷ đồng mỗi năm nếu công tác quản lý được thực hiện tốt hơn.
Đầu tiên, phải kể đến khoảng gần 4.000 tỷ đồng ‘vỗ béo đội quân ngồi rỗi’.
Dựa theo phát biểu của Chủ tịch TKV Trần Xuân Hòa tại Diễn đàn Kinh tế Mùa thu 2013 tổ chức tại Huế hồi cuối tháng 9, Tập đoàn này hiện có 140.000 nhân viên, trong đó có đến 40.000-50.000 nhân viên dôi dư mà chưa biết giải quyết thế nào nếu tái cơ cấu.
Với mức lương bình quân đầu người 9 tháng đầu năm đạt 7,2 triệu đồng/tháng, thì từ đầu năm đến nay, Tập đoàn này đã mất không cỡ khoảng 3.456 – 4.320 tỷ đồng mỗi năm, tương đương với doanh số bán 2,6 – 3,2 triệu tấn than.
Đáng ngại hơn, không chỉ tốn tiền nuôi hàng chục ngàn nhân công ngồi rỗi, vấn nạn mà TKV gặp phải là tình trạng thẩm lậu than ra bên ngoài, cụ thể là buôn lậu than sang Trung Quốc.
Theo số liệu công bố trên website của TKV, trong 5 tháng đầu năm, TKV xuất sang Trung Quốc 4,8 triệu tấn than. Cùng thời gian này, hải quan Trung Quốc lại ghi nhận con số nhập than từ Việt Nam cao gấp rưỡi con số mà TKV công bố, lên đến 6,9 triệu tấn.
Theo nhà báo Tấn Đức, số chênh lệch 2,1 triệu tấn than này chính là số than bị thất thoát. Với mức thất thoát 2,1 triệu tấn than trong 5 tháng, ước tính con số mất mát mà TKV phải gánh lên đến gần 2.800 tỷ đồng. Nếu mức thất thoát này giữ nguyên trong cả năm, thì mỗi năm TKV bị bốc hơi tới 5 triệu tấn hay 6.800 tỷ đồng vì thẩm lậu than.
Phép cộng sơ bộ đơn giản cho ra kết quả giật mình: Mỗi năm ít nhất TKV lãng phí hơn 10.000 tỷ đồng do công tác quản lý. Và cuối cùng, gánh nặng chi phí này lại đổ hết lên đầu người mua than!
Có thể, đây chưa phải con số cuối cùng. Vì theo nhà báo Tấn Đức, còn một phần than thẩm lậu được tiêu thụ ngay tại thị trường nội địa Việt Nam. Bằng chứng là nhiều khách hàng của TKV hiện không mua trực tiếp than từ TKV nữa mà chuyển sang mua của đối tác bên ngoài trong khi lượng than nhập khẩu về Việt Nam không đáng kể.
Giá như, TKV tinh giản đi 1/3 số nhân sự dư thừa của bộ máy cồng kềnh hiện tại và tìm cách xử lý mạnh tay đại nạn thẩm lậu than, Tập đoàn này đã có thể tiết kiệm được cả chục ngàn tỷ đồng thay vì than khóc vì giá bán than quá rẻ như mấy năm nay.
Thùy Phương

Thế nước chông chênh dường như sắp thể chia đôi

"...dùng bọn nhân chứng tay trong bịa đặt để vu khống người lương thiện. Lấy người lương thiện ra làm con bài đối ngoại xong lại quay sang đối nội. Nếu thất đức thế, thì chuyện quân nhà Sản tấn công khắp nơi cũng là nhân quả mà thôi. Chả còn kịp trở tay về phương Nam nương náu nữa đâu..."


Nước Vệ triều nhà Sản năm thứ 68.

Mùa thu năm ấy, nước Vệ có nhiều chuyện xấu. Ở phủ Thiên Trường có người dân bị quan lại cướp mất đất đai, gia cảnh bị đẩy vào cảnh cùng khổ, thân phụ buồn sinh bệnh nằm liệt trên giường. Người ấy mang súng hỏa mai, giữa ban ngày đột nhập vào công đường, hạ sát lũ tham quan, làm chết một mống, gây cho hai mống bị thương. Sau vác súng đến chùa tự vẫn dưới chân tượng Phật.

Người đời cảm thán, gọi là anh hùng dân oan. Dân mất đất tứ xứ kéo nhau đến viếng, hương khói cả tuần chưa dứt.

Kế đó xảy đến bọn công sai đường bộ, ăn chia tiền mãi lộ không đều. Sinh mâu thuẫn, súng nổ ầm cả góc trời, một viên quan năm thiệt mang, viên quan tư là thủ phạm thì hôn mê bất tỉnh, mấy công sai nữa cũng phải nằm nhà thương chưa biết sống chết ra sao.

Có một ông già nợ bọn du thủ du thực 3 lượng bạc không có trả, lãi mẹ đẻ lãi con, bị thúc ép đe dọa, cụ ông mang dầu đến cổng phủ hình cấp huyện tự thiêu giữa thanh thiên, bạch nhật.

Cũng năm ấy, tháng ấy trong Nam có người vợ trẻ, uất hận gia đình túng bấn, châm lửa tự thiêu chết cùng hai con nhỏ.

Miền Trung nước lũ cuốn trôi xe tứ mã chết cả gia đình. Vẫn chưa hết, quan coi đập bất ngờ xả lũ chết mấy mạng người, bao nhiêu tài sản, hoa màu, gia súc, gia cầm cuốn theo lũ. Thiệt hại đến hàng triệu lượng bạc.

Cháy chợ ở trấn Kinh Sách mạn tả ngạn Huyết Giang, cháy từ sáng đến chiều quân chữa cháy triều đình chưa thấy mặt, khí đến nơi thì hàng tỷ quan tiền đã ra tro. Dân chúng khóc than rầm trời, khiến trời đất tối tăm, mù mịt.

Triều đình huy động 4 ngàn binh mã bao vây đất Mỹ thuộc châu Hoan, phủ Diễn để trấn áp người dân theo Đạo Trời. Quân lính chỉ trong chớp mắt như từ dưới đất mọc lên,giăng tứ ngả trùng điệp, khiên giáp, vũ khí tinh nhuệ. Đánh cho đám dân ấy không kịp chạy, mấy chục mạng nằm la liệt khiến nhà thương không có chỗ chứa. Đánh trận ấy xong, cho loa rao khắp bốn phương vu cho đám ấy là theo giặc Cờ Mới. Dân tình ai nghe cũng hoang mang. Khắp nơi than rằng.

- Thời nay dân chúng đói khổ, vỡ nợ, thất nghiệp tràn lan. Dân tình mất đất oan khiên khắp chốn. Vợ chồng nghèo khó sinh mâu thuẫn đến nỗi đem cả con quyên sinh. Người dân mất đất cùng đường hại quan rồi tự vẫn. Đường đời quẩn bách thế. Nay lại giặc giã nổi lên thế, làm sao mà sống nổi.

Có người đáp:

- Giặc đâu mà giặc, triều đình muốn dẹp đám ấy, vu là thế để bịt miệng thiên hạ dễ bề điều quân. Giá như hôm cháy chợ Kinh Sách. Cứ la là đám Cờ Mới đốt, quân triều đình đến còn nhanh hơn chớp thì đâu đến nỗi dân táng gia bại sản vì chậm chữa cháy.

Bấy giờ tể tướng là Bạo mải công du bên phương Tây, việc nước tạm gác đó. Mọi khi xảy chuyện thế này, đích thân ngài tự tay chỉ đạo sâu sát, khắc phục hậu quả. Cách xử lý của Bạo rất tài tình chỉ cần nói tể tướng đã chỉ đạo giải quyết là đâu vào đấy, dân tình không ai oán than. Bởi người ta mất của, mất người thân chỉ đau đớn phẫn uất lúc đầu, sau thì nỗi đau cũng tự nhạt như vết thương tự lành vậy. Chả ai chờ được kết quả giải quyết của tể tướng triển khai hay không. Nắm được tâm lý ấy, nên cái gì lớn nhỏ Bạo đều có thể trực tiếp xử lý và theo thời gian kết quả tự khắc tốt đẹp vì không ai nhớ đến việc ấy nữa.

Lại nói về Bạo khi ấy dẫn quân bản bộ sang phương Tây, đến thành Ba Lê xứ Phú Lãng Sa. Được triều đình Phú Lãng Sa tiếp đón tử tế, bàn bạc, ký kết nhiều chuyện trọng đại. Như thế đáng gọi là chuyến công du của Bạo thành công.

Nhân lúc Bạo đi xa, Vệ Kính Vương mật dụ cho các đạo quân thân cận triển khai đánh vào các cơ sở của Bạo. Các tướng như Thánh Ba, Quả Sáng, Quả Thanh, Vương Hạ, Xuân Phước đồng loạt ra quân rầm rộ đánh từ miền Trung trở ra Bắc. Duy có miền Nam, từ dạo đất ấm tập của Bạo là khu Cửu Giang tập trận đến nay, các đại thần nghị sự nhà Sản không ai dám bén mảng vào. Bài học khi xưa Cù tiên sinh đơn đao, độc mã bị công sai thân tín của Bạo mưu hại ai cũng rõ.

Nhưng Bạo cũng đã phòng xa từ hồi tay chân Trì Bạch Thủ là hào phú đất Bắc bị Quả Sáng triệt hạ, nên lúc công du những thuộc hạ nào có thể bị nhà Sản hại, Bạo đều đem theo hết. Bạo đi lần này, thừa thắng ở thành Ba Lê kéo quân sang Hoa Thịnh Đốn quyết đánh trận Kim Tiền, Dầu Khí...quân Bạo không tinh nhuệ. Nhưng hy vọng gặp thời, phương Tây mở lòng chiếu cố mà cho lập hai trận ấy, thì may ra nhà Chúa còn vững được thêm mươi năm nữa. Nếu không chắc hẳn quay về đất sinh thành phương Nam nơi có sẵn quân thủ túc miệt Cửu Giang, lại bao nhiêu kho tàng, vựa thóc, nhà xưởng ở đó. Chỗ thực túc, binh cường nơi ấy đủ để Bạo hùng cứ một phương. Thân gia quyến thuộc nhà Baọ bẵng đi dạo gần đây không thấy hiện diện ngoài Bắc. Các đại thần nghị sự thân Vệ Kinh Vương chẳng thấy vào Nam. Thế nước chông chênh dường như sắp thể chia đôi.

Trong cảnh rối bời ấy nghĩa quân khắp nơi nổi lên. Thanh niên lập đội Nhị Ngũ Bát, cao niên lập đội Thất Thập Nhị, rồi đội Dân Chủ, đội Dân Sự ...cơ man nào là các đội nghĩa quân khắp miền giương cờ tụ nghĩa, đòi nhà Sản phải trả quyền tự do, dân chủ, công bằng, bác ái cho dân tộc. Tiếc rằng có đội quân vừa đánh nhà Sản, vừa đánh các đạo quân khác không kém phần gay gắt. Đôi khi mải tranh giành cát cứ ảnh hưởng, cất quân đánh tứ tung sang đội nghĩa quân khác. Y như thời hậu Hán trước lúc Tam Phân, âu cũng là quy luật chẳng biết sao được.

Mỗ có người bạn họ Lê làm thầy cãi, sinh ở châu Hoan, lập thân ở đất kinh kỳ. Cuối năm ngoái bị công sai bắt bỏ ngục vì tội lậu thuế. Người đời cứ cho rằng vì Lê thầy cãi hoạt động chính trị, nên vì thế mà triều đình vu tội lậu thuế mà bỏ ngục. Lê thầy cãi bạn mỗ người thiện lương, tất không lậu thuế triều đình, chuyện làm chính trị của Lê thầy cãi chỉ quanh quẩn thư phòng, bên mâm rượu, bàn trà. Thảng viết một thiên ngắn luận bàn thế sự. Gọi là có quan tâm đến thời thế So với các anh hùng khác trong gầm trời Nam, Lê thầy cãi cũng chưa thấm đâu. Nếu vì e sợ Lê thầy cãi làm chính trị tranh quyền đoạt tước với mình, mà nhà Sản cho quân bắt vì tội lậu thuế cũng không đúng cho lắm, nhưng bảo không phải là chuyên chính trị cũng không hẳn là đúng.

Lê thầy cãi đam mê phân tích kinh tế, xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp các doanh nghiệp, hãng, xưởng, ngân hàng nhà Sản. Đến thời đình đốn, suy thoái, nợ nần be bét khắp đất nước. Vì muốn che đậy để yên lòng bên trong, để dụ nhà đầu tư, để chủ tướng đi mượn tiền bên ngoài dễ dàng, các thủ hạ tay chân của Bạo lấy cớ trốn thuế khám xét tịch thu tư liệu, sách vở, hồ sơ của anh em nhà Lê thầy cãi, bắt cả hai anh em nhốt vào ngục. Thế nên nói chính trị là oan cho Lê,vì nói có khi khiến dân chúng nghĩ kiểu buông tuồng như '' được làm vua thua làm giặc'' mà xuê xoa oan khuất của anh em Lê thầy cãi. Nói lậu thuế là kiểu cờ bạc được'' ăn cả, ngã về không '' người đời tặc lưỡi chép miệng là qua.

Chính xác tội anh em nhà Lê oan thấu trời, dậy đất. Tựu chung vì dám tìm hiểu sự thật về tư cách làm ăn của những bọn bất lương, hòng giúp người lương thiện phòng tránh bị lừa đảo. Rồi cơ sự xảy ra y như thế, lúc đổ vỡ kinh tế cận kề, phủ Chúa đang muốn bịt tin đồn để còn xoay sở mới bắt Lê thầy cãi vì tội ''lậu thuế'' để nói thiên hạ, mập mờ chuyện tranh quyền để nói với nhà Sản bên trong.

Bao nhiêu tâm cơ của anh em nhà Lê thầy cãi đã bị tịch thu, thiết nghĩ chả còn gì gây hại đến các cơ sở, hãng, xưởng của tay chân nhà Chúa. Bạo đi Bá Lê thành công như vậy cũng là may mắn lắm rồi. Sao còn chưa để người vô tội về với con thơ. Đừng cố thủ đoạn một công đôi ba việc, đã đạt mục đích này rồi. Lại đem người ta ra xử tội, dùng bọn nhân chứng tay trong bịa đặt để vu khống người lương thiện. Lấy người lương thiện ra làm con bài đối ngoại xong lại quay sang đối nội. Nếu thất đức thế, thì chuyện quân nhà Sản tấn công khắp nơi cũng là nhân quả mà thôi. Chả còn kịp trở tay về phương Nam nương náu nữa đâu.

Người Buôn Gió
(Blog Người Buôn Gió) 

Tự truyện của PV Nội chính vào tù vì liên quan đến vụ án Năm Cam (2)

Tự truyện của Hoàng Linh – Bài 2: Trong trại giam lắng tiếng chuông đời
hoang-linh-trong-trai-giam-Nghia-Pham-motthegioi (4)


Sau thời gian thụ án vì liên quan đến  vụ án “Năm Cam và đồng bọn”, Hoàng Linh hồi tưởng lại 5 năm rưỡi trong tù và những bài học làm người.

Bài 1: Vỉa hè Sài Gòn

Sau khi chuyển từ trại giam Bộ công an về một trại giam tỉnh, tôi bị chứng bệnh người tù gọi là bệnh quay. Nhắm mắt là thấy mình quay cuồng rớt xuống đất, hoảng hốt mở mắt vẫn nằm trên phản xi măng.

Người bạn tù tôi gọi là anh Ba, là người địa phương tự xưng là giáo viên cấp 3, bể hụi bị bắt. Tôi sợ anh Ba là “chèo” (người lấy tin cho công an), nếu tâm sự với anh ta có thể tăng án. Nhưng 2 người ở cạnh nhau 24/24 mà không nói chuyện thật không dễ, xem ra con người không thể thiếu sự giao tiếp ngôn ngữ, im lặng hoài có mà điên mất! Tôi nhủ: “Cứ nói đại với lão, có tăng án cũng được!”

hoang-linh-trong-trai-giam-Nghia-Pham-motthegioi (6)

Chúng tôi không phân biệt được giờ giấc vì phòng rất tối, chỉ phân biệt thời khắc bằng tiếng kẻng: báo thức, báo nghỉ trưa, báo làm việc trưa, báo ngủ…Đêm đó, gần đến kẻng báo ngủ (21 giờ), 5 chốt khóa và 2 lớp cửa đều được mở ra, một người bị đẩy vào phòng, té nhào vì không định hướng được. Trong bóng tối kẻ kia tự giới thiệu là Dũng BC bị bắt ở Hà Nội, chuyển từ trại giam T16 vào bằng máy bay: Mấy ngày sau, anh Ba được gọi ra thăm nuôi, Dũng BC lôi tôi ngồi dậy:

- Ông anh, nếu cánh cửa mở ra lần nữa là em và ông anh không bao giờ có cơ hội gặp nhau nên em nói luôn một thể. Ông anh phải nhớ thật kỹ. Đừng nghĩ mình có kinh nghiệm ngoài xã hội thì có thể đánh giá, phán đoán những việc xảy ra trong tù. Nhà tù là một thế giới hoàn toàn khác, người tù là những con người hoàn toàn khác, không thể tin tưởng được. Tù không bao giờ thương tù, chút lòng thương hại dù nhỏ nhất cũng sẽ dẫn ông thầy xuống địa ngục…

Dũng BC khá nổi tiếng trong giới giang hồ, hoạt động cả Bắc lẫn Nam, là bạn của những anh chị tên tuổi lừng lẩy như Dũng đui, Hải chó ngao, Hải bánh, Thủy té, Dung Hà…là đệ của Cu Lý – vua giang hồ đất Bắc…nên dù những gì cậu ta nói có vẻ cực đoan tôi cũng lắng nghe và ghi nhớ.

Tiếng khóa khua chốt rút, cửa buồng giam bật mở, người cán bộ bước vào chỉ Dũng:

-  “Soạn đồ, chuyển buồng giam”.

Có gì mà soạn, Dũng bước ra. Tôi báo cán bộ xin ra làm việc.

Sau khi được 2 người tù tự giác khám xét từ A tới Z theo đúng nghĩa đen, tôi được đưa vào phòng làm việc của cán bộ Trại tạm giam:

-     Báo cáo cán bộ,tôi xin chuyển buồng giam.

-     Những người cùng buồng giam đe dọa hay xâm hại gì đến anh?

- Báo cáo cán bộ không, nhưng anh Ba cùng phòng quá lão luyện tôi sợ mình sẽ bị tăng án.

- Tôi đã đọc những bài báo viết về anh. Tôi không có ấn tượng tốt về anh, nhưng bây giờ tôi lại thấy anh khá trung thực. Tôi sẽ chuyển anh Ba đi và cho phạm nhân khác đến để giúp anh những việc trong buồng giam để anh có thời gian khai báo cho tốt.

Phía trong buồng giam phạm nhân - Ảnh: Nghĩa Phạm
Phía trong buồng giam phạm nhân – Ảnh: Nghĩa Phạm
Tiếng chuông đời

Khi tôi trở lại buồng giam đã thấy một cậu nhỏ lui cui dọn dẹp, cửa trong mở nên phòng sáng mờ mờ. Cậu nhỏ tên Quy khá lanh lợi, bất cứ con vật gì lọt vào phòng cậu đều chế biến thành món ăn chỉ với nước tương và bột ngọt (trại giam không cho sử dụng nước mắm vì có thể làm gỉ sét chốt khóa buồng giam).

- Ông ăn mì gió không?

Quy dùng nước đi vệ sinh trong hồ ngâm mì gói rồi dùng tay xốc mì lên, lấy quạt quạt cho khô, giống như những mỹ nhân đang hong tóc. Đó là mì gió, bột nêm được trộn sau cùng và ăn: ngon tuyệt ! Ăn xong, cửa buồng giam cũng khóa lại hết, Quy lui cui trong bóng tối rột rẹt suốt:

- Tui làm cho ông “bóng đời” để ông soi mặt.

- Trong này tối thui soi mặt sao được?

- Sáng cán bộ mở cửa lấy nước tui làm từ từ cho ông có thời gian soi mặt.

“Bóng đời” là mặt trong của gói mì, nhờ lớp tráng bạc nên có thể soi mặt được. Trong gói mì lộn ngược gương mặt tôi quá thảm hại. Tôi thật sự mệt mỏi muốn ngả gục buông xuôi. Từ buồng giam tử tội gần đó một giọng nữ cất lên nghe sầu thảm: “Soi bóng đời bằng gương vỡ nát”…

Sau một ngày buồn thảm, không lối thoát buổi tối hôm đó tự nhiên tôi thấy lòng nhẹ nhỏm và nghe tiếng máy cô le xành xạch từ xa vọng vào. Quy giải thích đó là tiếng xuồng máy chở trái cây trên kênh. Đây là lần thứ hai tôi nghe âm thanh của đời sống vọng vào chốn lao tù và có cảm giác như được giải thoát, hệt như lần thứ nhất. Khí bị giam ở trại trên đường Nguyễn Trãi, trong đêm ngủ sâu vì mệt mỏi tôi bỗng nghe tiếng chuông huyền hoặc từ nơi xa xăm nào vọng đến và thấy lòng thanh thoát, mọi cảm giác lo âu đều trút bỏ hết. Sáng ra tôi kể cho người bạn tù, Hải cười:

- Ông thầy không nằm mơ đâu. Đó là tiếng chuông của nhà thờ Chợ Đũi.

Năm xưa Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn cũng có cảm giác được giải thoát như vậy khi nghe tiếng chuông chùa Thiếu Lâm trong những ngày bị cầm giữ tại địa lao bởi các vị đại sư. Có ai đó nói rằng cái vật nặng nhất trên cõi đời này chính là sự cô đơn vì không có ai gánh vác nó nổi.Tội ác của Tạ Tốn quá lớn, những ai từng tiếp xúc với tác phẩm Cô Gái Đồ Long của Kim Dung đề biết nhiều mạng người đã ngã xuống oan ức trên con đường tầm cừu của Kim Mao Sư Vương. Nỗi đau sẽ là tột cùng vì muốn hối hận cũng không ai chấp nhận. Chính sự sâu nhiệm mà họ Tạ lĩnh hội được qua tiếng chuông chùa và những lời kinh mà các vị đại sư tụng niệm đã giải thoát cho ông. Với tôi, tiếng chuông trong đêm không có ý nghĩa rõ ràng như vậy nhưng âm thanh huyền hoặc đó đã  rũ sạch gánh nặng trong  hồn tôi. Tôi thanh thản đón nhận những gì mình phải trả giá.
Rất nhiều những nội khắt khe với phạm nhân - Ảnh: Nghĩa Phạm
Rất nhiều những nội khắt khe với phạm nhân – Ảnh: Nghĩa Phạm
Bồng bềnh trên cánh bọ             

Rồi một đêm nọ có hàng ngàn hàng vạn con bọ cánh cứng to bằng hạt đậu phọng bò vào buồng giam từ mọi khe hở. Cứ đụng vào là nó tiết ra xạ như mùi tinh dầu cay nồng. Quy chỉ bảo:

- Ông cởi quần cụt tròng lên đầu mới ngủ được.

Tôi lấy áo án che mặt nhưng khong ngủ được vì lũ bọ chun vào tai vào mũi, nghe lời Quy tôi cởi quần cụt tròng lên đầu, những con bọ rút lui khỏi phần đầu chỉ loi ngoi từ cổ trở xuống. Ôi! còn gì kỳ lạ hơn không? Tôi đi vào giấc ngủ, bồng bềnh trong mùi xạ hương thơm ngát như ở Spa 5 sao, có một bàn tay nồng ấm của cô kỹ thuật viên đặt lên trán.

- Dậy đi ông,kẻng báo thức rồi.

Quy lôi quần ra khỏi đầu tôi, bảo tôi thức gấp để dọn dẹp. Cán bộ mở lớp cửa trong cho mượn chổi để quét bọ. Xác bọ nằm dày đặc khắp nơi, quét gom lại gần đầy một xô nhựa 10 lít. Quá nhiều cái chết cho một giấc mơ đẹp.

Chó càng hiền càng khó bắt

Như có lần đã nói, trại giam hiện nay có mô hình giam giữ, lao động, dạy nghề, dạy người…Cơ hội phạm nhân sớm được đoàn tụ với xã hội rất lớn bằng hình thức giảm án, tha tù trước hạn, đặc xá…nếu phạm nhân làm tốt việc lao động học nghề và học làm người cũng như khắc phục hậu quả mà mình gây ra. Sau thời gian đi làm cỏ lúa, suốt lúa, thu hoạch mía, bồi bùn đắp bờ, lột vỏ hạt điều…tôi được chuyển sang tổ may giày do phạm nhân Sang hoàng đế làm tổ trưởng. Mấy mươi năm mang giày giờ tôi mới biết làm ra đôi giày trần thân như thế nào. Hai bàn tay ứa máu, đầy vết sẹo do vết kim, lẹm đâm vào. Ngày nọ giám thị bất ngờ vào kiểm tra tổ may giày, ông bày tỏ sự ưu tư:

- Cơm các anh ăn hiện nay đầy đủ nhưng thức ăn theo chế độ không đủ dinh dưỡng, tình trạng tự nấu nướng không đảm bảo vệ sinh nên tôi giao cho các anh nhiệm vụ chế biến thức ăn dạng như suất ăn công nghiệp với giá khoảng 5000đ/phần để phục vụ anh em đồng cảnh.

Vậy là chúng tôi phải học làm cá, giết mổ heo gà. Về chế biến anh Cường mập (con rể Năm Cam) đảm nhận. Cường mập trước đây là bếp trưởng nhà hàng lớn ở TPHCM nên chất lượng món ăn không thể chê được. Sau đó phối hợp với căng tin, anh Cường còn chế biến các món cầy làm phạm nhân rất khoái. Khi trại có khách, chúng tôi mang ra cho khách thưởng thức và vị nào cũng khen ngon. Có một vấn đề là trong trại giam không cho sử dụng vật sắc nhọn hoặc những vật có thể gây khống chế sát thương nên tất cả đều dùng bằng tay kể cả việc bắt chó. Anh Cường gọi đó là chiêu Cầm chó thủ và buộc chúng tôi phải học và thực hành thành thạo. Anh thao diễn cho tất cả xem bằng cách thả con chó có vẻ  hung dữ nhất trong cũi ra. Vừa tháo cũi xổ lồng con vật đã nhe răng đe dọa. Cường mập bước tới, tay trái giơ lên, con chó gầm gừ tập trung cả hai mắt vào bàn tay đang giơ cao đầy đe dọa, nhanh như chớp Cường mập dùng tay phải tóm gáy con vật bóp mạnh. Hoàn toàn tê liệt con chó duỗi thẳng đuôi buông xuôi ra cái vẻ “muốn làm gì thì làm đi!”. Con vật dễ dàng bị cột tứ chi và dĩ nhiên “lên dĩa”. Cường mập tổng kết nghe hết hồn:

- Chó càng hiền càng khó bắt. Chó điên dễ bắt nhất. Các bạn giết mổ nhiều sẽ có sát khí, chó hay cầy gì trông thấy đều sợ cúp đuôi không dám chống cự.

 Quê hương khuất bóng hoàng hôn…

Cơn bão số 5 vừa dứt chưa bao lâu trong trại lại xảy ra tình trạng kỳ lạ. Đầu tiên là chuột cống nhum chạy loạn xạ, không sợ người, cá lóc 3 – 4 kg một con đen thui nổi lờ đờ dưới kênh mương, nước lộ thiên bị hóa mặn, hệ thống nước ngầm bị tụt không bơm lên được. Các hồ,bể chứa dự trữ đưa vào sử dụng cũng dần cạn kiệt vì không có nguồn bổ sung. Chờ đợi nhìn trời đất suốt mấy ngày, buối chiều gần 4 giờ giám thị vào trại ra lệnh Tổ Hỏa thực và T2 đi lấy nước trời. Gần 10 chiếc thuyền lớn (ghe bầu) xuất phát từ cổng đường thủy của trại hướng ra cửa sông. Chẳng mấy chốc 2 khẩu thần công trấn cửa nội thủy đã khuất xa tầm mắt. Nước đổ một chiều ra cửa sông làm thuyền di chuyển rất nhanh, đến đoạn dòng sông mở ra rộng bát ngát thì dòng chảy cũng ngưng lại vì nước từ phía ngược lại chảy vào, cán bộ ra lệnh cho dừng thuyền. Anh em kéo nước lên uống thử: mặn đắng. Vị cán bộ đứng ở đầu mũi thuyền chụm tay lên mắt nhìn đường chân trời. Trời quang đãng, không bóng mây, mấy anh tù nhìn trời mãi chẳng thấy gì nên gõ mạn thuyền hát nhạc sến. Bỗng mây đen từ chân trời bốc lên và di chuyển rất nhanh, cán bộ ra lệnh:

- Chuẩn bị!

Tay lái cho máy nổ anh em ngồi bám vào mạn thuyền, rất nhanh nước từ đâu đổ xuống như vỡ đập như thác đổ. Rất nhanh và đột ngột như khi đến, chỉ vài phút trời đất lại như củ.

- Lấy nước

Cán bộ ra khẩu lệnh, anh em dùng thùng gàu kéo nước lên. Khoảng một giờ các vật chứa đều đầy nước, anh em tranh thủ uống nước thật nhiều để giải mặn, nước trời vừa thơm vừa ngọt:

- Có mùi sữa đậu nành… – Mùi dừa dứa… – Mùi nước cơm… – Trật lất, mùi bồ kết, chắc mấy bà tiên đang cởi đồ tắm trên trời…

Tôi đưa hồn vào câu chuyện xa xăm huyền hoặc tuồng Chiêu Quân cống Hồ mà tôi xem ở đình làng thời thơ ấu: xưa có nàng Chiêu Quân rất đẹp, nàng hay giặt áo trên sông, áo nàng thơm đến nỗi cả dòng sông đều thơm mát theo. Những tưởng con người có nhan sắc khuynh thành sẽ có cuộc sống hạnh phúc, nào ngờ nàng bị cống nộp làm vợ người nơi xứ xa và chết nơi đất khách quê người trong tiếng đàn tì bà thương nhớ quê nhà…

- Điểm danh…

Thuyền quay về chốn cũ. Trời tắt dần ánh nắng, khói sóng trên sông như sương buổi sớm, mới cười nói tất cả bổng im lặng u uất, có tiếng vạc bay ngang trời kêu sầu thảm, nước đã đổi chiều, đâu đó 1 tiếng bìm bịp lạc loài kêu nước lớn, nước sông mặn đắng trở lại.

Điều kỳ lạ là anh em đi lấy nước dù rất mệt nhưng đều trải qua một đêm khó ngủ. Năm dài chỉ tiếp xúc với những bức tường vây quanh, cảnh sông nước ngút ngàn với khói sóng buổi hoàng hôn đã khơi lên nỗi nhớ quê nhà từ trong những miền sâu thẳm của tâm hồn con người. Cách đây hơn ngàn năm, nhà thơ Thôi Hiệu (704 – 754) khi đứng tại lầu Hoàng Hạc ngắm cảnh trời chiều trên sông Trường Giang đã phải thốt lên:

Nhật mộ hương quan hà xứ thị

Yên ba giang thượng sử nhân sầu

(Quê hương khuất bóng hoàng hôn

Trên sông khói sóng cho buồn ḷòng ai)

(Bản dịch:Tản Đà)

Thì ra cho dù là thi hào,nghệ sĩ hay những người tù lưu đày đều có tình yêu quê nhà u uất, mãnh liệt. Tôi quay mặt vào tường không khỏi trào nước mắt. Tôi nhớ bãi sông đầy dừa nước, lục bình ở cầu sắt Phú Long (Quận 12), ba tôi thường hay lặn xuống sông gỡ  những cái lụp chìm. Tôi đổ nó ra, đủ loại cá, nhiều nhất là cá bống dừa. Trong niềm vui trẻ thơ tôi không để ý gì đến việc ba tôi ho xù xụ vì quá lạnh. Khi gió sông thổi ngược vào bờ, gà đã lên chuồng ba tôi cởi áo khoác thêm một lớp cho tôi, mặc những cơn gió căm căm, ba đốc bó lá dừa làm đuốc cõng tôi về nhà, giỏ cá đeo bên thắt lưng. Chẳng mấy chốc, tôi đã ngủ trên lưng ba, miệng nhóp nhép mơ mình đang ăn cơm với cá bống thơm lừng.

Hơn năm năm rưỡi ở tù, tôi được Chủ tịch Nước đặc xá vì cải tạo tốt và khắc phục hoàn toàn hậu quả vụ án . Từ giã bạn đồng cảnh, chúc những người ở lại cải tạo tốt để sớm quay về với xã hội. Từ giã cán bộ – những người thầy của tôi trong quãng đời tù tội.

Tại cổng bảo vệ cuối cùng, tôi ký tên vào sổ xuất trại. Người cảnh sát bảo vệ bắt tay tôi thật chặt:

- Chúc mừng anh Hoàng Linh ! Hãy đi thẳng và không nhìn lại.

HL
Người cảnh sát bảo vệ bắt tay tôi thật chặt: “Chúc mừng anh Hoàng Linh ! Hãy đi thẳng và không nhìn lại”.
- Ảnh: Nghĩa Phạm
Tôi đi bộ một quãng dài, vượt qua đập nước đến bãi xe, không có chiếc nào quay đầu vào cổng trại. Tôi bước lên xe, cố gắng nhìn thẳng, cửa kính tự động quay lên. Tôi muốn quay lại nhìn nơi mà mình đã ở suốt nhiều năm tháng nhưng không thể…

Bài 1: Vỉa hè Sài Gòn

11-10-2013
 Hoàng Linh (còn tiếp)

* DHK- Trang Thông Tin Đa Chiều. Tất cả bài đăng tải trên thể hiện quan điểm riêng và cách hành văn của tác giả không phản ảnh quan điểm hay lập trường của DHK