Tổng số lượt xem trang

Thứ Năm, 12 tháng 9, 2013

Bài đáng chú ý: Dân muốn rõ ràng: Tín nhiệm hoặc bất tín nhiệm

Xích Tử - Đảng tự vong thân

Khi, Đảng, để bảo vệ, giữ cho bằng được quyền cai trị của mình, đã liên kết, sử dụng những lực lượng mafia, giả danh nhân dân, hoặc xã hội đen để chống lại phản ứng của người dân đối với sự tha hóa của Đảng, đó là dấu hiệu của diệt vong. (Ảnh của Nguyễn Quốc Khải gửi tới Dân Luận)
Xin được nói trước rằng từ “vong thân” được dùng trong bài viết là một cách dịch từ thuật ngữ “alienation” trong tiếng Anh, Pháp hoặc “entfremdung” trong tiếng Đức, vốn đã quen với sinh hoạt triết học ở Việt Nam một thời. Thuật ngữ này được sử dụng từ trong triết học F. Hégel, kinh tế chính trị học K. Marx và triết học hiện sinh và có một cách chuyển ngữ phổ biến hơn ở Việt Nam là “tha hóa”.
Nội hàm của khái niệm/thuật ngữ nói trên được xác định có chỗ khác nhau tùy mỗi cách thế sử dụng, song điểm giống nhau là cùng nói lên quá trình vận động khiến một hiện tượng, sự vật tự/bị đánh mất những giá trị, đặc trưng bản thể của mình và biến thành/bị biến thành một cái khác.
Trong sinh hoạt học thuật và giao tiếp thông thường ở Việt Nam sau này, từ “tha hóa” được thêm một nét nghĩa thiên về đánh giá đạo đức: “tha hóa” là sự vận động, chuyển hóa từ trạng thái tốt sang xấu; theo đó, một cách vắn tắt và dân dã, tha hóa được hiểu như suy thoái, thoái hóa, hủ hóa, hủ bại v.v...
Gộp cả hai nghĩa đó lại, tha hóa (vong thân) là khái niệm diễn đạt đầy đủ nhất cho bản lai diện mục của Đảng CSVN từ ngày thành lập đến nay.
Ra đời trong hoàn cảnh lịch sử đất nước bị Pháp thuộc, Đảng đã gắn, lồng ghép, hòa nhập các mục tiêu đấu tranh theo lý tưởng cộng sản với mục tiêu đấu tranh chống ngoại xâm, giành độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc. Chính Nguyễn Ái Quốc khi tán thành gia nhập Quốc tế III cũng chỉ nhờ đọc Sơ thảo Luận cương của Lenin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, trong đó Quốc tế cộng sản hứa hẹn sẽ ủng hộ phong trào giải thực một cách thiết thực bằng việc đào tạo cán bộ, gầy dựng tổ chức cách mạng thiên tả, cung cấp tài lực và thậm chí cung cấp vũ khí, gây áp lực ngoại giao v.v...Thậm chí, khi chuẩn bị giành chính quyền, thông qua sách lược tổ chức các hình thức mặt trận để tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân từ 1936, đảng đã đặt mục tiêu độc lập dân tộc lên trên hết. Những chính sách phân loại nhân dân thành các đối tượng của cách mạng vô sản có từ 1930 đã bị gạt sang một bên. Cao điểm của sự chuyển hướng có tính chất cơ hội đó là việc tuyên bố tự giải thể ngày 11/11/1945.
Trong suốt giai đoạn lịch sử ấy, các mục tiêu đấu tranh nhằm giải phóng dân tộc, đánh đuổi các kẻ thù ngoại bang, hướng đến xây dựng một xã hội mới độc lập, dân chủ, tự do, công bằng, bình đẳng, không áp bức bóc lột, không còn bất công và sự bất bình đẳng xã hội, không lệ thuộc vào nước ngoài... được tiến hành bằng một tổ chức chính trị tuy không chính danh, hoạt động bí mật nhưng được tổ chức chặt chẽ, biết dựa vào và tập hợp được một bộ phận lớn dân chúng đã tạo nên uy tín, sức thu hút, thuyết phục của Đảng. Ngay cả những điều còn xa vời như xây dựng xã hội không còn nhà nước, không còn giai cấp, không còn tư hữu, của cải dồi dào và được phân phối công bằng, tiến tới không còn quốc gia và thế giới đại đồng vẫn có lúc tạo nên niềm tin bãng lãng cho cả một bộ phận trí thức và đặc biệt là giới công nhân và bần cố nông, để mới có hình ảnh “ông lão ngồi mơ nước Nga” trong thơ Tố Hữu.
Để duy trì niềm tin của của nhân dân vào mình, vào các hoạt động đấu tranh vì các mục tiêu đó, Đảng và đảng viên chưa có một lợi ích hữu hình nào ngoài việc lợi ích chung thiêng liêng cao cả. Đảng lãnh đạo các phong trào cách mạng bằng việc vận động, thuyết phục, tuyên truyền, giáo dục và tổ chức hoạt động thực tiễn chứ chưa có sự ra lệnh hoặc cai trị. Đảng viên là người trực tiếp tham gia các hoạt động đó, tiền phong, gương mẫu, dám xả thân hy sinh, xem sự hy sinh đó là sứ mệnh vì Đảng, là một kiểu tử vì đạo – đạo vì đảng và vì Tổ Quốc. Người đi theo cách mạng cộng sản là hoàn toàn tự nguyện, sẵn sàng chết vì Đảng, vì mục tiêu đấu tranh của Đảng; do vậy, cũng là vì Tổ Quốc, ngoài ra không còn mục đích lợi ích nào khác. Chính trong tinh thần đó, có một thời Đảng đã tạo được niềm tin, sức hấp dẫn đối với nhiều tầng lớp nhân dân ở tính chất bí mật, ở khía cạnh tổ chức chặt chẽ, và đặc biệt là sự vô vị lợi, vì nghĩa trong mục tiêu cũng như hoạt động đấu tranh. Với mỗi đảng viên, sự hấp dẫn đó là sự gần gũi, hòa nhập vào nhân dân, phương thức hoạt động bí mật xuất quỉ nhập thần, tính kiên định lập trường tư tưởng, sự dũng cảm – nhiều khi cũng yêng hùng, oai hùng – thể hiện trong việc dám đi đầu, đương đầu và hy sinh tính mạng trong hoạt động đấu tranh trước quân thù.
Tuy nhiên, những cái đó mất đi khi Đảng giành được chính quyền, trở thành tầng lớp cai trị, cầm quyền. Đảng choán ngự và tiến tới thống ngự quyền lực bằng cách vô hiệu hóa dần khối mặt trận to lớn đã nuôi Đảng và giúp Đảng giành chính quyền; tiến hành thanh toán các lực lượng, chính đảng đối lập rồi đến các chính đảng thân thiện hoặc bung xung; chi phối và hạn chế quyền của các thiết chế nhà nước và tổ chức chính trị trong nội bộ hệ thống. Bằng cách ấy, Đảng đã quay trở lại các mục tiêu đấu tranh giai cấp đặc thù của một đất nước nông nghiệp và tiền tư bản. Để chứng minh cho tính hiện thực, tất yếu của một cuộc đấu tranh ảo, mô phỏng ấy, Đảng đã biến một bộ phận lớn của nhân dân thành đối tượng cách mạng, thành kẻ thù và kẻ thù tiềm ẩn. Trước kẻ thù to lớn và chưa từng có như vậy, Đảng phải không ngừng củng cố quyền lực bằng việc thiết lập một hệ thống thiết chế chính trị chỉ có phục tùng mình, hình thành một thiên là địa võng những công cụ cai trị và công cụ bạo lực để bảo đảm sự đe dọa và hiệu quả thực hiện hiệu lực các công cụ cai trị đó cùng với hệ thống tuyên truyền luôn luôn chỉ biết đánh bóng, khoe khoang thiên tài, trí tuệ và kể lể công ơn của Đảng. Đó là giai đoạn Đảng vừa nắm được quyền lực chính trị, thực hiện quyền lực, củng cố quyền lực, đồng thời cũng chuẩn bị đối phó với khả năng bị tước mất quyền lực, vốn đã trở thành mỏng manh vì phải chống lại cả nhân dân và những mục tiêu cách mạng đã tuyên trước đây khó thành hiện thực. Qua đó, Đảng mạnh lên vì đã khống chế được toàn bộ đời sống xã hội, sử dụng chuyên nghiệp các kỹ thuật cai trị và chi phối được toàn bộ lực lượng vật chất của đất nước, bao gồm cả công cụ bạo lực. Tuy nhiên, tất cả điều đó chứng minh cho sự tha hóa của Đảng trong hệ thống quyền lực của mình, quay lưng với những lời hứa, tôn chỉ chính trị trước đây, phản bội nhân dân vì chỉ lo giữ quyền lực của mình và do vậy, không thể nào xây dựng được một đất nước dân chủ, tự do, nhân quyền, bình đẳng hơn hẳn thời trước cách mạng được. Vì mục tiêu giữ quyền lực để chống lại nhân dân (kể cả trong cuộc chiến nhằm thống nhất Tổ quốc sau này) cũng khiến Đảng đẩy đất nước vào thế bị lệ thuộc vào các ngoại bang khác. Quyền lực của Đảng càng mạnh, hình ảnh về một xã hội không giai cấp, không nhà nước, hoàn toàn bình đẳng càng trở nên xa vời. Đảng, từ chỗ sống trong lòng một bộ phận nhân dân, một thành tố của mặt trận dân tộc, trở nên một bộ phận thống trị, đứng ngoài và đứng trên nhân dân, kiêu ngạo với nhân dân và ban ơn cho nhân dân.
Nhân dân đã phát hiện được sự tha hóa đó. Phong trào Nhân văn – Giai phẩm, các hoạt động của nhân sĩ trí thức trong tổ chức Mặt trận Tổ quốc giai đoạn 1956 – 1957 và cả sau này, của số đảng viên bị ghép tội “xét lại chống Đảng” chính là những phản ứng chống lại sự tha hóa quyền lực của Đảng.
Đảng đã đàn áp tàn bạo các phản ứng ấy và phát động cuộc chiến tranh chống Việt Nam Cộng Hòa dưới chiêu bài chống Mỹ xâm lược, chống chính quyền bù nhìn do Mỹ lập nên ở miền Nam, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Cuộc chiến khốc liệt đã làm mờ đi những động thái ngày càng xấu hơn về sự tha hóa quyền lực, cuốn hút và huy động sức lực, sinh mạng của nhiều triệu người vào khói lửa, chết chóc để đến năm 1975, Đảng lại có được phong độ quyền lực của người chiến thắng, người có công thống nhất đất nước. Trên nền tảng oanh liệt đó, Đảng quay trở lại đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa, củng cố chuyên chính vô sản để tiếp tục cuộc đấu tranh giai cấp trên cả nước.
Tuy nhiên, do những điều kiện mới sau thống nhất hai miền, công cuộc cách mạng vừa nhằm củng cố quyền lực, vừa thực hiện những mục tiêu giai cấp, vừa lại phải phát triển kinh tế, giải quyết đời sống cho một dân số đông hơn trong những điều kiện quốc tế ngày càng ít thuận lợi, Đảng đã rơi vào bế tắc cả về lý luận và được lối thực tiễn, buộc phải “đổi mới”.
Đây chính là giai đoạn Đảng tự tha hóa nghiêm trọng hơn. Về chính sách vĩ mô, Đảng đưa ra mô hình chủ nghĩa xã hội kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần kinh tế, nhiều loại hình doanh nghiệp và nhiều hình thức sở hữu. Mô hình đó phi lý, thậm chí vô nghĩa về lý luận và đi ngược hoàn toàn với đường lối khởi thủy, vốn là lời hiệu triệu cách mạng với nhân dân. Đó là sự tha hóa ở cấp tôn chỉ vĩ mô.
Trong lãnh đạo thực tiễn, Đảng bị buộc phải gắn quyền lực chính trị với lợi ích kinh tế. Giữ quyền lực chính trị là giữ lợi ích kinh tế, bằng giữ lợi ích kinh tế; ngược lại, có nắm được kinh tế thì mới giữ được quyền lực chính trị. Từ đó mới có sự bùng nhùng suốt mấy chục năm về thứ tự của cải cách kinh tế và cải tổ chính trị, về sự mở rộng dân chủ, các thứ tự do và nhân quyền cho công dân – nhân dân, vể độ mở của đời sống xã hội, về hội nhập kinh tế quốc tế rồi đến hội nhập quốc tế...
Trong tình hình mới đầy bất trắc và bế tắc như vậy, Đảng đã tiếp tục củng cố, đồng thời cũng là tha hóa trong hệ thống quyền lực, bằng hệ thống quyền lực với những kỹ thuật của giai đoạn trước được nâng cấp tinh vi xảo diệu hơn, đồng thời lợi ích hóa bằng công cụ kinh tế tất cả các giá trị chính trị, đối với toàn bộ hệ thống Đảng và từng đảng viên. Công dân muốn vào biên chế nhà nước để có thu nhập ổn định từ ngân sách phải có lý lịch tốt; công chức viên chức muốn thăng tiến phải vào đảng, tức là bảo đảm tiêu chuẩn là đảng viên. Mỗi vị trí thăng tiến đó đều được xác định bằng một cấp gia tăng thu nhập lương, và càng về sau là thu nhập bất chính từ các nguồn tham nhũng mà mức giá trị của thu nhập tham nhũng ấy được quyết định bởi độ cao lớn của quyền lực chức tước. Có lúc, trong một nhiệm kỳ của một vị Tổng bí thư, đã có chỉ thị yếu cầu phải phát triển đảng viên trong ngành giáo dục đến tỉ lệ 40%, có nghĩa là nếu không vào đảng, một số thày cô giáo sẽ không còn được lên bục giảng.
Từ đó, người vào Đảng không phải là tự nguyên để đấu tranh cho lý tưởng của Đảng, là dám hy sinh vì lý tưởng nữa, mà vì những mục tiêu rất thực dụng thích ứng với một đất nước chỉ có một đảng lãnh đạo và có toàn quyền định đoạt vận mệnh của con dân. Đó là môi trường Đảng tạo nên sự giả dối trong Đảng, cho mỗi đảng viên. Sự giả dối về đạo đức chính trị đó cùng với sự giả dối thể hiện trong mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội thị trường đã khiến đảng bị và tự tha hóa, vong thân một cách tuyệt đối về chính trị, văn hóa, đạo đức đảng, đẩy đất nước, xã hội đến một tình trạng suy sụp không thể nào gượng, lùi hoặc cải thiện được. Khi, Đảng, để bảo vệ, giữ cho bằng được quyền cai trị của mình, đã liên kết, sử dụng những lực lượng mafia, giả danh nhân dân, hoặc xã hội đen để chống lại phản ứng của người dân đối với sự tha hóa của Đảng, đó là dấu hiệu của diệt vong.
Xích Tử
(Dân luận)

Máu lại đổ vì đất

Vụ xả súng bắn cán bộ tại nơi làm việc đang làm cho dư luận nhức nhối trước hai cái chết không đáng có của Phó giám đốc Trung tâm Phát triển Quỹ đất tỉnh Thái Bình và kẻ gây án là anh Đặng Ngọc Viết. Điều gì đã dẫn đến quyết định cùng đường này của một người dân bình thường bỗng trở thành sát nhân khi anh ta biết rằng không thể nào tránh khỏi cái chết của chính mình?
Dân bị dồn vào thế cùng
Chưa bao giờ chính quyền phải đối mặt với một sức ép lớn như hiện nay sau khi một thanh niên vào văn phòng làm việc của UBND thành phố Thái Bình nã súng vào các cán bộ địa chính thuộc Trung tâm Phát triển Quỹ đất của tỉnh gây cho một người chết và ba người khác bị thương. Kẻ gây án cũng tự sát vài giờ sau đó.
Sự thật đã nhanh chóng được sáng tỏ khi chính ông Đỗ Đình An, chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố trong một cuộc họp báo rộng rãi sáng ngày 12 tháng 9 tại Thái Bình đã xác định nguyên nhân dẫn đến vụ bắn người này là từ chuyện bất công trong khâu đền bù giải tỏa chứ không có một hiềm khích cá nhân nào.
Sát thủ là anh Đặng Ngọc Viết, vừa là kẻ sát nhân cũng là nạn nhân của câu chuyện đền bù giải tỏa. Anh Viết xuất hiện trên mặt báo với hai khuôn mặt, một kẻ sát nhân máu lạnh và một người đáng được thông cảm vì suy nghĩ nông cạn mặc dù nguyên nhân khiến anh tiến tới việc bắn người là do chính sách đất đai quá bất công kéo dài nhiều chục năm qua. Điều này chứng tỏ rằng động cơ giết người của anh Viết hoàn toàn có thể chia sẻ: bị dẫn tới đường cùng.
Gia đình anh Viết được láng giềng cho biết đã tận cùng của sự khốn khó. Cha và em trai anh là nạn nhân chất độc da cam. Anh Viết đã ly dị vợ và có hai con phải nuôi trong khi không có một nghề nghiệp gì chắc chắn. Mảnh đất duy nhất của gia đình anh đã qua nhiều đời bỗng nhiên bị trưng thu và đền bù với cái giá thấp hơn giá thật của nó rất nhiều lần. Một người láng giềng của gia đình anh Đặng Ngọc Viết cho chúng tôi biết:
Nó làm đường đi qua nhà người ta và lại đền bù không thỏa đáng. Trên cơ sở nó nói rằng nhà người ta không có giấy tờ nhưng thực ra đất này đã có bốn đời rồi cũng hơn trăm năm rồi. Thực tế là vậy đã dẫn đến bức xúc trước việc lấy quyền lực áp đặt trên đất đai của họ khiến đi kiện mãi nhưng không được thế thì bắn! Nó đi miền Nam sống nhưng thấy việc gia đình như vậy mà không giải quyết được nên nó bức xúc quá nó phải bắn vì biết không làm gì được chính quyền này đâu.
Sự khốn cùng về kinh tế cộng với bất công của chính sách đã đẩy anh vào con đường sát nhân. Sợ hãi và ân hận khiến anh phải tự sát vì biết rằng không thể trốn khỏi lưới pháp luật cùng sự trả thù của hệ thống.
Câu chuyện bi thảm khép lại với cái chết của hai con người và hơn hết hai cái chết ấy là hậu quả của một chính sách sai lầm về đất đai bao năm qua đã làm xã hội đảo điên khi chính sách ấy được dùng để nuôi sống nhiều nhóm lợi ích cũng như giúp nhiều cán bộ làm giàu qua sự tiếp tay của họ.
Do sai lầm chính sách đất đai

docbao-250.jpg
UBND thành phố Thái Bình, nơi anh Viết xả súng bắn cán bộ. Photo courtesy of docbao.vn

Nhà báo Kha Lương Ngãi, nguyên Phó tổng biên tập báo Sài Gòn Giải Phóng cho biết nhận xét của ông về chính sách gây ra những cái chết này:
Luật lệ quy định đất đai là của toàn dân, chính là ở đó. Cái đó đã tạo điều kiện tước đoạt đất của dân cho nên dân người ta mới phản ứng như thế và phản ứng như thế là đúng. Muốn khắc phục phải thay đổi vấn đề “đất đai là của toàn dân” phải bỏ cái đó mới được.
Đại tá Phạm Đình Trọng, nguyên là cây viết quân đội đã trả thẻ đảng và có các bài viết đào sâu về chính sách đất đai cho biết nhận xét của ông:
Chỉ có trả lại quyền sở hữu đất đai thiêng liêng của người dân, cho người dân chứ không thể lấy cái quyền công hữu hóa đất đai là sở hữu toàn dân để cướp đất của người ta được. Chỉ tạo điều kiện cho bọn quan tham nó cướp đất của người dân và nó sẽ đẩy nhà nước này tới chỗ đối lập với toàn bộ dân tộc Việt Nam chứ không phải chỉ mấy người nông dân mà thôi đâu.
Trong lúc các vụ đàn áp tôn giáo đang diễn ra tại Nghệ An chưa ngã ngũ, thì vụ xả súng bắn cán bộ tại Thái Bình như thêm dầu vào lửa. Người giáo dân cảm thấy có một sức mạnh mới phía sau trong khi nông dân mất đất được an ủi rất nhiều qua những phát súng của Đặng Ngọc Viết. Nhân dân không nhẫn tâm với cái chết của Phó giám đốc Trung tâm Phát triển Quỹ đất tỉnh Thái Bình nhưng họ khó thể thông cảm cho vị trí mà ông này đang nắm giữ.
Hai cái chết ấy mở ra những câu hỏi cho lương tâm của nhiều giới trong đó có những người đang nắm vận mệnh đất nước và có trách nhiệm về chính sách đất đai buộc họ phải can đảm nhìn lại những gì mà từ lâu vẫn khăng khăng xác định là đúng đắn cần phải bảo vệ.
Cái cần phải bảo vệ ấy nay không còn chính đáng vì nó đã được tô bằng máu của người mất đất lẫn kẻ thừa hành chính sách lấy đất của người dân. Chính sách nào cũng do con người lập ra và vì vậy khi nó xâm phạm lương tâm, sinh mạng và tài sản con người thì phải bị đào thải. Nếu không thì chính người làm ra chính sách phi nhân ấy sẽ bị đào thải theo quy luật lịch sử.
Đã có rất nhiều ý kiến tâm huyết về chính sách đất đai nhưng chưa bao giờ chúng được xem xét một cách triệt để trong tinh thần chia sẻ và phân tích khoa học. Nhà báo Kha Lương Ngãi nhận xét:
Phải thực hiện theo kiến nghị của nhóm 72, bỏ luật đất đai là sở hữu toàn dân mà phải là đa sở hữu, và muốn trưng thu đất thì phải bồi thường xứng đáng và đúng luật pháp thì mới giải quyết được vấn đề
Người láng giềng của anh Đặng Ngọc Viết cũng là nạn nhân của việc trưng thu đất, ông bức xúc không kém anh Viết và thẳng thắn nói rằng nếu tới bước đường cùng thì ông cũng làm như thế:
Khi nào cảm thấy chán quá rồi thì cũng giống như họ, bắt chước họ là xong: bắn chết mấy cái thằng ấy càng nhiều càng tốt!
Câu nói “đất đai là sở hữu toàn dân do nhà nước quản lý” vẫn nằm bệ vệ trong Hiến pháp và không ai có thể lay chuyển được, trong khi đó hệ thống tuyên truyền vẫn nỗ lực cho rằng “Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai là xu thế tất yếu của quá trình phát triển ở nước ta”.
Sự phát triển ấy chỉ thấy rõ trong từng gia đình đảng viên các cấp khi tài sản của họ mỗi ngày một lớn theo tỷ lệ teo tóp của đất đai khắp nước. Tỷ lệ teo tóp này cùng chiều với đà phát triển của bất công, đàn áp, cưỡng chế một cách dã man và nhiều nơi đã xuất hiện sự phản kháng mạnh mẽ không khoan nhượng của nhân dân.
Trí thức vẫn nhiều lần lên tiếng rằng thay một khẩu hiệu, cải tổ một chính sách không thật sự khó khăn như hệ thống vẫn đưa ra. Lịch sử không thời nào lại chấp nhận sự im lặng kéo dài trước cách rẻ rúng lương tâm và sinh mạng người dân để củng cố quyền lực và lợi ích của phe nhóm nhất là lợi dụng sức mạnh sẵn có để định danh những sai lầm ấy ngay trong Hiến pháp.
Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2013-09-12

Vụ nổ súng ở UBND TP.Thái Bình: Đình chỉ vụ án

(tại sao ko tìm hiểu ngọn nguồn vụ này mà đình chỉ nhanh vậy, sợ điều tra ra nhiều khuất tất nữa chăng ?)

Vì hung thủ gây ra vụ nổ súng đã tử vong, nên cơ quan cảnh sát điều tra đã quyết định đình chỉ vụ án.

Chiều 12/9, Phó Chánh Văn phòng Công an tỉnh Thái Bình, thiếu tá Nguyễn Quốc Vương cho VOV online biết, ngay sau khi vụ việc xảy ra, cơ quan điều tra đã tiến hành khởi tố vụ án, khởi tố bị can, ra lệnh truy nã theo đúng quy định của Bộ Luật hình sự.

Tuy nhiên, sau khi gây án, đối tượng đã bỏ trốn về quê gốc ở xã Trà Giang, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình rồi tự sát trong chùa Đông.
Cơ quan chức năng khám nghiệm hiện trường vụ án 

Thiếu tá Nguyễn Quốc Vương cũng cho biết, sau khi nhận được thông tin có người tự sát ở chùa Đông, ráp nối các thông tin của vụ việc, cơ quan điều tra xác định đây chính là Đặng Ngọc Viết (42 tuổi). Khám nghiệm tại hiện trường, cơ quan công an xác định, Viết đã dùng viên đạn cuối cùng trong khẩu súng colt để bắn vào đầu tự sát. Khẩu súng được cơ quan công an tìm thấy ở trong hồ của chùa.

Vì hung thủ gây ra vụ nổ súng đã tử vong, nên cơ quan cảnh sát điều tra đã quyết định đình chỉ vụ án.

Về nguyên nhân của vụ việc, cơ quan điều tra cho rằng, cần điều tra làm rõ. Chưa thể khẳng định, việc nổ súng ở UBND TP Thái Bình bắt nguồn từ mâu thuẫn trong việc giải phóng mặt bằng.

Cũng từ thông tin của thiếu tá Nguyễn Quốc Vương, ngay sau khi xảy ra vụ việc cơ quan công an điều tra và làm rõ, giữa Viết và hai người anh em của mình có mâu thuẫn. Cơ quan công an sẽ có thông tin chính thức về nguyên nhân của vụ việc sau khi có kết quả điều tra cụ thể.

Thiếu tá Vương cũng cho biết, khẩu súng mà Viết dùng để bắn ở trụ sở UBND TP Thái Bình là khẩu súng Colt quay của Trung Quốc bắn đạn chì. Theo pháp lệnh 116, vũ khí này cũng được xem là loại vũ khí quân dụng. Cho nên đối với người gây ra vụ án này như Viết, sẽ bị khởi tố về hai tội Giết người và Tàng trữ vũ khí quân dụng.

Như thông tin đã đưa, khoảng 14h ngày 11/9, một đối tượng từ bên ngoài vào bắn người trong trụ sở UBND TP Thái Bình, khiến ông Vũ Ngọc Dũng (Phó Giám đốc Trung tâm phát triển Quỹ đất Thành phố) bị bắn vào đầu và tử vong ngay sau đó.

Ngoài ra còn có Nguyễn Thanh Dương, Vũ Công Cương, Bùi Đức Xuân, cán bộ trung tâm bị bắn bị thương. Chị Phạm Thị Lan Anh – Phó Giám đốc Trung tâm Phát triển Quỹ đất bị bắn sượt qua mang tai.

Đối tượng gây án được xác định là Đặng Ngọc Viết (42 tuổi, trú tại phường Kỳ Bá, TP Thái Bình). Đối tượng đã tự sát ngay sau đó bằng viên đạn cuối cùng trong khẩu súng colt./.
Việt Đức
(VOV online)
 

Nguyễn Ngọc Già - Chúc cho "Lời kêu gọi ký tên phản đối bè lũ phản động" thành công rực rỡ!

Đài RFI đưa tin: Tòa án La Haye xử Phó Tổng Thống Kenya "phạm tội ác chống nhân loại" [1]. Vụ xử án đang diễn ra tại Hà Lan từ ngày 10/9/2013. Tin cũng cho hay, phiên tòa xét xử Tổng thống Kenya sẽ tiếp nối vào 12/11/2013 cùng tội danh, bất chấp Quốc hội Kenya có ý định "rút khỏi Quy chế Roma về Tòa hình sự Quốc tế". Nhà báo Trọng Thành nhận định: "Đây là hai phiên tòa mang tính lịch sử, vì lần đầu tiên Tòa án La Haye xử các giới chức đương nhiệm ở cấp cao nhất". Căn cứ để Tòa án La Haye xử tội: Trong khoảng 3 tháng sau bầu cử năm 2007, hơn 1.300 người đã bị giết chết, 600.000 người phải đi sơ tán.
Song song đó, đài BBC tường thuật trực tiếp [2] ý kiến Tổng thống Hoa Ký về khủng hoảng trong xử lý vấn đề Syria trước việc nên tấn công hay không, sau vụ giết người bằng vũ khí hoá học làm 1.429 thường dân thiệt mạng. Tổng thống Obama nói: "Chúng ta không thể khắc phục được tất cả các sai trái trên đời, nhưng với nỗ lực khiêm tốn và tối thiểu nguy cơ, chúng ta có thể ngăn chặn việc trẻ em bị chết vì hơi độc... Tôi tin rằng chúng ta phải hành động".
Trong một diễn biến khác, tại Việt Nam, vụ chôn chất hoá học đã làm cho (chỉ) một xã nghèo có tên Yên Lâm thuộc huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa có số người mắc các bệnh: ung thư, thần kinh, u bướu, mất khả năng sinh con, trẻ bị dị dạng, dị tật bẩm sinh v.v.. lên đến 957 người [3]. Có vẻ châm ngôn "chết còn sướng hơn" (so với dân Syria, Kenya nói trên) trở nên "thuyết phục"(!), bởi chúng ta đang sống ngay xứ sở được mệnh danh "thiên đường XHCN".
Diễn biến của vụ việc này vẫn đang được các cơ quan chức năng Việt Nam..."tà tà" điều tra, kể từ vụ chôn hóa chất trở nên gay gắt vào 26/8/2013, khi người dân chặn một chiếc xe tải của công ty Nicotex chở nhiều thùng phuy nghi là được đem đi phi tang.
Người dân Yên Lâm không còn cách nào khác - với tục ngữ "Tự cứu mình trước khi trời cứu" - ngoài việc tập hợp trên 1.000 chữ ký gởi đến báo Vietnamnet [4], dù không chắc tòan bộ ngàn người đứng đơn, ai cũng biết đến khái niệm "xã hội dân sự".
000_Hkg8650239-305.jpg
Các bạn trẻ Việt Nam biểu tình phản đối Trung Quốc hôm 02/6/2013 tại Hà Nội. AFP photo
Xã hội dân sự
"Xã hội dân sự" cấu thành từ tổng thể của các tổ chức xã hội và dân sự mà các tổ chức này tạo nên cơ sở của một xã hội tự vận hành, khác với các cấu trúc quyền lực của một nhà nước (bất kể hệ thống chính trị của nhà nước này thuộc kiểu gì) và các thể chế thương mại của thị trường (theo wikipedia).
Đó là tất yếu khách quan của một xã hội phát triển theo chiều hướng ngày càng văn minh, nhấn mạnh tính trách nhiệm, tính chủ động của người dân ngày được nâng cao và được khẳng định đối với xã hội song song với bộ máy nhà nước.
Hình thái "xã hội dân sự" lấy vai trò người dân làm nòng cốt để lập ra những tổ chức nhằm bảo vệ, đòi hỏi quyền lợi mà bộ máy công quyền có bổn phận đáp ứng và giải quyết. Thông thường "xã hội dân sự" được biểu hiện qua các hội, đoàn do người dân tự nguyện và tự giác lập ra. Ở Việt Nam, giới cầm quyền luôn lồng ghép "xã hội dân sự" với "lật đổ nhà nước", "tranh giành quyền lực", dù ngay cả người dân nghèo không hề manh nha chống đối gì "đảng và nhà nước" cả!
Dù bị bóp nghẹt và ngăn trở bởi nhà cầm quyền, hình thái "xã hội dân sự" đang diễn ra ngày càng lớn mạnh tại Việt Nam mà không thế lực nào cưỡng lại nổi trong một xã hội ngày càng rơi rụng "vai trò" "đảng và nhà nước lo"...
"tuốt tuồn tuột"(!) Nó - "đảng và nhà nước" - không tài nào kham nổi mọi trách nhiệm và bảo vệ tối đa quyền lợi cho người dân, dù cứ tạm cho rằng giới cầm quyền Việt Nam rất mực "thương dân" như... "cha mẹ" thương con (!).
Bà Tôn Nữ Thị Ninh đã từng tuyên bố trong buổi họp báo tại Câu lạc bộ Báo chí Quốc gia Hoa Kỳ hồi tháng 10/2004, khi bị chất vấn về tình trạng vi phạm nhân quyền ở Việt Nam: "... Trong gia đình chúng tôi có những đứa con, đứa cháu hỗn láo, bướng bỉnh thì để chúng tôi đóng cửa lại trừng trị chúng nó, dĩ nhiên là trừng trị theo cách của chúng tôi. Các anh hàng xóm đừng có mà gõ cửa đòi xen vào chuyện riêng của gia đình chúng tôi".
Ông Lê Hồng Anh, lúc đương chức Bộ trưởng Bộ Công an, trả lời báo chí về vụ tham nhũng PCI do Huỳnh Ngọc Sĩ chủ mưu, cho biết [5]: "...chất lượng cán bộ cấp càng cao, nói gì thì nói, dù sao tư tưởng cũng đỡ hơn, đỡ lệch lạc hơn cấp dưới. Cũng như trong gia đình, người cha người mẹ cũng chững chạc hơn con cái chút".
Tư duy "làm cha làm mẹ" dân của những kẻ kém ý thức đến nỗi, ngoài việc bộc lộ thái độ hống hách, trịch thượng, họ còn không hiểu rõ thân phận công bộc với chén cơm trên tay mỗi ngày, nó có được là do dân nuôi nấng.
Dù rất xấc xược, khi người cộng sản tự cho phép bản thân "đứng trên đầu thiên hạ", người dân vẫn rộng lượng giáo dục lại bà Ninh, ông Anh cùng nhiều ông (bà) khác, để họ được học mà biết tôn trọng Quyền Con Người và Quyền Công Dân trong xã hội hiện đại ngày nay.
Người dân cũng sẵn sàng tha thứ cho những bộ não quá phẳng, bởi khái niệm "xã hội dân sự" trở nên thật khó khăn cho trình độ tiếp thu của những bộ óc chỉ duy chứa đựng "mối tương quan mất dạy" [6]: "chủ - chó" như blogger Đinh Tấn Lực đã chỉ trích kịch liệt.
Lẽ ra, những ông (bà) cộng sản cần hiểu, thay vì đòi "trèo lên đầu dân chúng" để ra vẻ "lo lắng", "dạy dỗ", họ chỉ cần làm mỗi việc "ký quyết định" thành lập hội, đoàn bất kỳ nào đó khi một hay nhiều nhóm người dân có nhu cầu. Suy cho cặn kẽ, để "xã hội dân sự" hình thành tự do, tự nguyện, tự giác một cách nhanh chóng, "bộ máy nhà nước" càng "nhẹ gánh" hơn nhiều lần; mặt khác chính những tổ chức "xã hội dân sự" đi vào hoạt động công khai còn góp phần rất lớn làm cho xã hội trở nên trật tự, an tòan, nó còn giúp luật pháp phát huy mạnh mẽ và hữu hiệu, ngoài ra nó cũng là tác nhân chính để nâng cao dân trí lên cao rất nhiều trong một xã hội ngày càng hỗn loạn.
Chẳng ai yêu mình bằng bản thân mình, bởi có biết yêu mình, mới biết yêu những người xung quanh, kể cả người thân ruột thịt. Cần phân biệt điều này với thói "ích kỷ". Chính vì cùng có lợi ích chung, người dân tự nguyện và tự động liên kết lại trước một vấn đề xã hội cần giải quyết, thông qua ví dụ sống động về "vụ chôn hóa chất" cũng như hàng ngàn vụ việc khác liên quan đến an sinh xã hội. Từ đấy, người dân càng thể hiện tính đoàn kết, tinh thần tương thân tương ái, cùng đấu tranh với cái xấu, cái ác, cái sai và những việc vi phạm pháp luật, giúp cho "nhà nước" xử lý nhanh và hợp lý, hợp pháp.
Chỉ tiếc, giới cầm quyền không chịu nhìn nhận những lợi ích to lớn do các tổ chức "xã hội dân sự" mang lại, nên họ cố tình dây dưa và tránh né với "Luật về hội", nợ dân hơn 30 năm qua. Lý do chính xuất phát từ nỗi sợ mất quyền lợi của cá nhân, dòng tộc và phe nhóm, nên họ để mặc người dân bơ vơ, lẻ mẻ tự xoay xở trong tuyệt vọng mỏi mòn cho đến khi uất ức đến cùng tận, người dân manh động thì họ phủ chụp tội "chống đối", "phản động", "thế lực thù địch" v.v... là điều thật dễ hiểu với hàng ngàn ví dụ: Văn Giang, Đoàn Văn Vươn, Nguyễn Viết Trương (uất ức nổ mìn tự tạo tại nhà giám đốc công an Khánh Hòa) và mới đây là Đặng Ngọc Viết bắn 5 người và tự sát [7] cũng vì vấn đề đền bù đất đai! Thật ngao ngán!
Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ được xem là một trong những người đấu tranh cho "xã hội dân sự" phát triển lành mạnh thông qua những việc ông làm: đấu tranh cho giáo dân Cồn Dầu, kiện Thủ tướng vụ boxite, kiện vụ xâm hại đồi Vọng Cảnh v.v...
Tác giả Lưu Mạnh Anh với "Ai có thể giải cứu Cù Huy Hà Vũ?" [8] đã manh nha như lời kêu gọi hình thành thế trận "xã hội dân sự", sau đó, một lá thư được đề nghị soạn thảo để gởi đến nhiều tổ chức, hội đoàn trên thế giới nhằm đòi hỏi quốc tế quan tâm hơn, có trách nhiệm hơn để nhắc nhở, yêu cầu nhà cầm quyền Việt Nam thay đổi cách điều hành quốc gia trong tư cách thành viên Liên Hiệp Quốc và tự nguyện ký tham gia "Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị" từ 1982, nhưng rất tiếc, lúc bấy giờ công việc này chưa được nhiều người hưởng ứng.
Chỉ 3 năm qua, từ vụ án Cù Huy Hà Vũ, nhiều người đã thay đổi cách nhìn về "nội lực, ngoại lực", về "đối nội, đối ngoại", đến bây giờ người dân không còn nghĩ nhiều đến việc "ban phát", "bố thí", "xin cho" từ phía cơ quan công quyền trong việc giải quyết quyền lợi của mình, thay vào đó, nhiều nhóm người đã biết liên kết lại đấu tranh vì lợi ích cộng đồng, lợi ích quốc gia.
Giới cầm quyền Việt Nam (và tất nhiên cả chính quyền độc đài, độc đảng tòan trị ở các nước khác) nên hiểu rằng: "Nhà nước" không bao giờ và không tài nào có đủ khả năng quán xuyến tòan bộ cuộc sống của người dân. Chỉ có người dân mới có thể lo liệu mọi việc cho chính bản thân, cộng đồng, quốc gia thông qua những tổ chức "xã hội dân sự" phát triển mạnh mẽ. Càng kìm hãm sự phát triển những tổ chức này, càng trì hoãn trả nợ "luật về hội" cho dân thì chính "nhà nước" càng làm cho xã hội hỗn loạn khủng khiếp hơn, thực tế đã chứng minh quá rõ trong 10 năm qua.
"Xã hội dân sự" Việt Nam từ nhen nhóm (ký kiến nghị dừng khai thác boxit, về trả tự do Cù Huy Hà Vũ, phản đối xây dựng nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận v.v...) dần hình thành thông qua các biểu hiện sau này: "Kiến nghị 72" với trên 10.000 người đồng tình ký tên, "Tuyên bố công dân tự do" với trên 8.000 người v.v... và mới nhất là "Tuyên bố 258" bay đến thế giới với tin mới nhận [9] : Mạng lưới Blogger Việt Nam trao "Tuyên bố 258" vào chiều 10/9/2013 cho bà Veronique Arnault, đại diện phái đoàn EU sang dự phiên Đối thoại Nhân quyền 2013 với Việt Nam. Lần trao tuyên bố này được đại diện người dân cả ba miền Bắc-Trung-Nam tham dự.
Ngoài việc thể hiện tinh thần đoàn kết, tự nguyện; nó cho thấy bước đi hợp với quy luật của xã hội, khi Việt Nam đã hòa nhập thực sự vào thế giới.
Cách đây chỉ vài năm, những hình thái biểu hiện "xã hội dân sự" văn minh, ôn hòa như thế này còn nhỏ bé và chưa gây tiếng vang, đi cùng với tâm trạng dè dặt, băn khoăn, ví như: "cầu lụy ngoại bang", "cõng rắn cắn gà nhà" v.v... khi "bên thắng cuộc" sử dụng "tấm gương" Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống đe dọa để làm chùng bước nhiều người, cùng với tư tưởng "bán nước" dễ bị giới cầm quyền phủ chụp làm người dân e ngại theo phương châm "không can thiệp vào công việc nội bộ nước khác". Điều này đã trở nên lạc hậu để chúng ta càng hiểu ra, cho đến nay, nhân loại chỉ mới tìm ra một nơi cùng nhau chung sống - "Trái đất này là của chúng mình".
Xin nhớ cho, "đảng và nhà nước" đã và đang cố tình phớt lờ không nói với dân điều cốt lõi: các tổ chức "xã hội dân sự" dù có nhiều đến mấy, cũng không trực tiếp điều hành quản lý quốc gia, không nắm quyền lực kinh tế, không nắm "thanh gươm và lá chắn", cũng chẳng nắm quân đội trong tay.
Người Việt Nam đang chuyển hướng đấu tranh để hình thành "xã hội dân sự" một cách mạnh mẽ và sáng tạo. Thay vì loay hoay "trong nhà" như vài năm về trước, giờ đây nhiều người đã nhận ra, cần kết hợp song song giữa "mặt trận đối nội" với "mặt trận đối ngoại" mà ngay cả "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam" do ông Nguyễn Thiện Nhân vừa đảm nhiệm cũng chưa chắc làm tốt hơn, dù thừa hưởng tòan bộ nhân lực, vật lực, tài lực do "đảng và nhà nước" ban tặng (!).
Đó phải chăng là kết quả người Việt Nam nhanh chóng nhận ra: Thế giới ngày càng nhỏ bé và con người thật gần gũi với nhau thông qua internet và hội nhập quốc tế? Loài người ngày nay phải gắn kết, sống chan hòa, có trách nhiệm và biết chia sẻ với nhau, hơn là co cụm riêng lẻ không xen vào việc "nhà người ta"? Hạnh phúc của tôi là của bạn và ngược lại.
Một số người vẫn không hiểu khái niệm "xã hội dân sự" tốt đẹp đến chừng nào, nên mới đây trang Tin Tức Hàng Ngày cho biết xuất hiện: "Lời kêu gọi ký tên phản đối bè lũ phản động" trong vụ việc phản đối "Tuyên bố 258".
Có vẻ những người phát động "lời kêu gọi" này không biết cách nhìn nhận và phân tích về mối tương quan chủ thể - khách thể của "Tuyên bố 258"! Đó là quan hệ dân sự giữa Chủ thể (những người "Tuyên bố 258", nghĩa là người dân không có quyền lực) với Khách thể (nhà nước Việt Nam, nắm quyền lực). Điều này mới có ý nghĩa. Trong khi những ai phản đối "Tuyên bố 258", tức họ cũng là Chủ thể (nghĩa là cũng không có quyền lực). "Chủ thể" phản đối "Chủ thể" trong trường hợp này là một mệnh đề hoàn tòan vô nghĩa khi gắn vấn đề trách nhiệm nhà nước với công dân.
Nói cách khác, chỉ khi nào nhóm phản đối "Tuyên bố 258" tuyên bố rằng: họ đại diện cho "nhà nước", lúc đó mới có ý nghĩa (!). Tuy vậy, nó trở nên ngây ngô và nực cười, nếu không muốn nói là phản khoa học, phản động, bởi khi điều này là thật, nghĩa là Nhà nước... chống lại nhân dân(?!).
Tuy vậy, cũng nên ghi nhận công sức, tâm huyết của những người khởi xướng phát động "Lời kêu gọi ký tên phản đối bè lũ phản động" bằng cách hướng dẫn và đề xuất với họ một số việc cụ thể như sau:
- Chỉnh sửa lại câu từ cho có văn hóa hơn. Điều này tốt cho chính bản thân họ, nếu họ có ý định không gói gọn "lời kêu gọi" này trong quốc gia Việt Nam.
- Ngoài việc thu thập chữ ký diễn ra từ 14 giờ ngày 10/9/2013 đến 24 giờ ngày 30/9/2013, những người khởi xướng hãy nghĩ đến một cuộc biểu tình đại quy mô để quảng bá rộng rãi đến tòan dân trong nước và thế giới trong việc lột mặt "bè lũ phản động". Để đạt hiệu ứng hoành tráng, quý vị nên liện hệ với các trang báo Nhân Dân, Tuổi Trẻ, Thanh Niên v.v... cùng các đài truyền hình: VTV, VTC, HTV, ANTV v.v... các hội đoàn: ĐTNCSHCM, Hội Thanh niên Việt Nam, MTTQVN v.v... để kết hợp hành động và đưa tin nóng kịp thời.
- Sau khi thu thập xong chữ ký, ngoài các đại sứ quán: EU, Mỹ, Thụy Điển, Đức v.v... đề nghị nhóm khởi xướng "Lời kêu gọi ký tên phản đối bè lũ phản động" hãy tổ chức một đoàn người trực tiếp đến các đại sứ quán: Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Nga, Syria, Cuba v.v... để trao tận tay và đừng quên những tấm ảnh được chụp một cách vui tươi, phấn khởi, thân mật để về "share" trên facebook, blog cho mọi người thưởng lãm công tác cao cả của quý vị. Chỉ xin lưu ý, quý vị nên mời ông Nguyễn Bắc Son - Bộ trưởng Bộ thông tin - Truyền thông tham gia cùng, mục đích là để "bảo kê" cho quý vị an tòan trước "nghị định 72".
Chúc nhóm khởi xướng "Lời kêu gọi ký tên phản đối bè lũ phản động" đạt thành công rực rỡ trong "công cuộc bảo vệ và xây dựng tổ quốc Việt Nam XHCN" của... quý vị.
Nguyễn Ngọc Già
________________
 

Dân muốn rõ ràng: Tín nhiệm hoặc bất tín nhiệm

Tín nhiệm cao, tín nhiệm và tín nhiệm thấp đều là tín nhiệm. Cũng như đã là cán bộ thì chỉ có: Rất giỏi, giỏi và giỏi ít, không thể có cán bộ kém. Tại sao không rõ ràng, dứt khoát là tín nhiệm và không tín nhiệm, giỏi và dở.
Tại cuộc họp Ủy ban Thường vụ Quốc Hội ngày 12.9 về tình hình triển khai và kết quả việc lấy phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, HĐND bầu hoặc phê chuẩn, một vấn đề được đặt ra là không nên để 3 mức đánh giá tín nhiệm, chỉ nên rút lại 2 mức đánh giá tín nhiệm.
Nhiều thành viên của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội cho rằng, đó là đề nghị của cử tri, cần phải xem xét, cân nhắc.

Ý kiến thực hiện hai mức đánh giá tín nhiệm đã được nêu ra từ sau đợt lấy phiếu tín nhiệm vừa qua. Nhiều chuyên gia, nhà quản lý đề xuất đã lấy phiếu tín nhiệm thì phải rõ ràng, minh bạch, đạt hiệu quả phân loại, cho nên chỉ có tín nhiệm và không tín nhiệm.
Không dễ để thấy rằng, với 3 mức như hiện nay thì kết quả là “hòa cả làng”, bởi vì chia 3 là cách an toàn nhất để có con số quá bán về tín nhiệm cao hoặc tín nhiệm. Tương tự như vậy, sẽ khó có ai rơi vào quá bán tín nhiệm thấp. Trong đợt lấy phiếu tín nhiệm vừa qua, có người phiếu cao, có người phiếu tín nhiệm cao thấp hơn, nhưng đều được tín nhiệm. Người phiếu tín nhiệm cao thấp hơn cũng có nhiều cách để lý giải cho lá phiếu. Một trong những lý do khách quan là những cán bộ lãnh đạo ra quyết định điều hành trực tiếp chịu nhiều áp lực hơn từ phía xã hội nên ít nhiều cũng có ảnh hưởng đến uy tín cá nhân. Do vậy, sự chênh lệch lá phiếu tín nhiệm cao hơn nhau đó không có sự phân loại rõ ràng.
Đại biểu Lê Như Tiến – Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội - đã phân tích trên báo Thanh Niên sau đợt lấy phiếu vừa qua: “Đúng là lần đầu tiên tiến hành lấy phiếu và công khai rộng rãi. Mọi người dân đều rất háo hức chờ đợi và xem kết quả tín nhiệm từng vị lãnh đạo chủ chốt thế nào. Nhưng nếu lần 2, lần 3, lần 4 cũng tiếp tục lấy phiếu thế này, và cũng một kết quả chung tất cả đều đạt tín nhiệm cao hoặc khá, hoặc trên trung bình, thì lúc đó cử tri và người dân thử hỏi còn quan tâm đến việc đánh giá tín nhiệm nữa không, có còn tin vào việc lấy phiếu nữa không? Còn những người thuộc diện được lấy phiếu thì dễ nảy sinh tâm lý nhờn đi vì nghĩ kiểu gì mình cũng đạt tín nhiệm”.
Tín nhiệm cao, tín nhiệm và tín nhiệm thấp đều là tín nhiệm. Cũng như đã là cán bộ thì chỉ có: Rất giỏi, giỏi và giỏi ít, không thể có cán bộ kém. Tại sao không rõ ràng, dứt khoát là tín nhiệm và không tín nhiệm, giỏi và dở.
Lấy phiếu tín nhiệm để rồi ai cũng được tín nhiệm, vậy thì lấy phiếu có ý nghĩa gì? Chủ tịch HĐ Dân tộc của QH Ksor Phước nói thẳng: “Cần phải trả lời chúng ta lấy phiếu để làm gì! Không phải để ca ngợi nhau”.
(Lao động)

Ngày 13/9/2013 - SỰ KIỆN THÁI BÌNH 1997

TIN LÃNH THỔ

TIN XÃ HỘI


TIN KINH TẾ

TIN GIÁO DỤC

TIN ĐỜI SỐNG

TIN CÔNG NGHỆ

TIN VĂN HÓA GIẢI TRÍ


TIN THẾ GIỚI

SỰ KIỆN THÁI BÌNH 1997


Sự kiện Thái Bình năm 1997 mặc dù được nghe “truyền miệng” nhiều nhưng lại ít thấy có cuốn sách nào, tờ báo chính thống nào nói một cách đầy đủ và hệ thống. Dù sao, nói đến Thái Bình 1997, người ta vẫn giữ thái độ dè dặt và thận trọng khi phát ngôn, bởi người ta vẫn nghĩ nó “nhạy cảm”.
Mới đây TỈNH ỦY-HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN-ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH THÁI BÌNH chỉ đạo cho ra đời cuốn TỪ ĐIỂN THÁI BÌNH do NXB Văn hóa Thông tin xuất bản 2010.
Cuốn sách, theo lời giới thiệu của ông Bùi Tiến Dũng – Bí thư tỉnh ủy – Chủ tịch HĐND tỉnh giới thiệu, “gồm 5.000 mục từ với hơn 1.300 trang”, đáng được xem là một công trình từ điển bách khoa về Thái Bình.
Không ngại va chạm để nói đến những sự kiện lịch sử có tính bước ngoặt, lần đầu tiên một ấn phẩm, một công trình đồ sộ do Tỉnh Thái Bình xuất bản chính thức đưa Sự kiện Thái Bình 1997 vào sách dưới những đề mục nhỏ, như một sự công nhận lịch sử mà không hề chối bỏ.
Cuốn TỪ ĐIỂN THÁI BÌNH là sách tra cứu và không phải ai cũng có thể sở hữu vì số bản in không nhiều. Đối với sự kiện Thái Bình năm 1997, có 4 đề mục nhỏ là: Vụ Quỳnh Hoa, Vụ Quỳnh Hội, Vụ Quỳnh Mỹ và Vụ Thái Thịnh.

1. Vụ Quỳnh Hoa

“Điểm nóng số 1 của tỉnh. Chiều ngày 16/6/1997, khoảng 300 người dân xã Quỳnh Hoa, huyện Quỳnh Phụ đã bắt giữ Bí thư Đảng ủy, chủ tịch UBND xã và Phó ban tài chính xã dong lên huyện, đi bộ trên quãng đường 7km dưới trời mưa không cho đội mũ nón, vừa đi vừa lăng mạ, chử bới, đánh đập. UBND huyện cứ người ra tiếp, trong cuộc đối thoại, yêu sách của dân tập trung vào việc đòi xử lý cán bộ xã tham nhũng, tiêu cực; huyện yêu cầu trả tự do cho cán bộ xã và hứa cử đoàn thanh tra về làm rõ, nếu cán bộ vi phạm sẽ xử lý.
Sau đó, tại xã Quỳnh Hoa vẫn tiếp tục tiếp diễn tình trạng lăng mạ, vây ép đòi cán bộ xã phải ký vào những văn bản do một số người thảo sẵn. Ngày 12/9/1997, 34 cán bộ xã Quỳnh Hoa gồm Đảng ủy, UBND, Công an, xã đội, các đoàn thể HTX nông nghiệp và 6/10 trưởng xóm mang 6 con dấu và đơn xin nghỉ việc lên trả cho huyện. Không khí ở địa phương rất căng thẳng, ngày nào cũng có hàng trăm người lên UBND xã chất vấn cán bộ. Ngày 12/11/1997, khoảng 400 người dân xã Quỳnh Hoa kéo lên UBND tỉnh khiếu tố, đòi gặp chủ tịch tỉnh.
Do không chấp nhận giải thích của lãnh đạo UBND tỉnh, một số người đã hành động quá khích, gây rối trật tự công cộng, lăng mạ chửi bới cán bộ trước cổng UBND tỉnh. Đoàn người tập trung ngời cổng trụ sở UBND tỉnh từ sáng tới chiều tôi thì nhiều người trèo qua cổng và hàng rào tràn vào UBND tỉnh, đập phá cửa kính, hò hét, chửi bới.
Trước tình hình đó, ngày 13/11 cơ quan bảo vệ pháp luật đã bắt một số người phạm pháp quả tang trong đoàn khiếu kiện tại thị xã và tại xã Quỳnh Hoa. Đối phó lại, ngay chiều tối hôm ấy, tại xã Quỳnh Hoa hàng nghìn người bao vây cản trở không cho công an thi hành nhiệm vụ, lùng sục bắt giữ 23 công an và 1 cán bộ Viện kiểm sát nhân dân tỉnh; cướp 1 máy bộ đàm ném xuống ao, phá hỏng 1 xe ô tô; đối xử tàn nhẫn thô bạo với những người bị bắt đồng thời tổ chức rào làng, đặt chướng ngại vật, huy động thanh thiếu niên sử dụng dao kiếm, côn gậy tuần tra canh gác, liê tục đánh kẻng, gõ mõ báo động, kiểm soát chặt chẽ “nội bất xuất, ngoại bất nhập” gây không khí căng thẳng.
Trong khi đó, hàng trăm người ở các xã Quỳnh Mỹ, Quỳnh Giao, Quỳnh Thọ, An Ấp, An Thái cũng kéo sang Quỳnh Hoa, càng làm cho tình hình thêm phức tạp.
Sau 2 ngày thuyết phục vận động, đến 16h ngày 16/11/1997, 20 cán bộ chiến sĩ công an mới được trả tự do (4 chiến sĩ đã tự giải thoát)
Hoạt động của tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể xã Quỳnh Hoa hoàn toàn bị tê liệt, không kiểm soát được tình hình. Các đoàn công tác của tỉnh, huyện cũng phải rút khỏi Quỳnh Hoa. Sự kiện Quỳnh Hoa gây chấn động dư luận, thu hút sự quan tâm chú ý của cả nước.
Từ ngày 2 đến 4/7/1998, Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình đã mở phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án “gây rối trật tự công cộng, chống người thi hành công vụ, bắt giữ người trái pháp luật” xảy ra tại Quỳnh Hoa. Vụ án có 40 bị cáo, đông nhất từ trước đến nay ở Thái Bình, 28 bị cáo bị tạm giam, 12 bị cáo tại ngoại, một số bị cáo là thương binh, đối tượng chính sách.
Đào Văn Tá bị xử phạt 11 năm 6 tháng tù giam, Nguyễn Văn Hội 9 năm tù giam, Nguyễn Xuân Hùng 8 năm tù giam. Các bị cáo khác bị phạt tù từ 7 năm đến 18 tháng tù cho hưởng án treo. Đồng thời cơ quan cảnh sát điều tra Thái Bình cũng quyết định khởi tố vụ tham ô tài sản XHCN đối với Nguyễn Thanh Vận, Phan Văn Phền, Chủ nhiệm và nguyên chủ nhiệm HTX nông nghiệp Quỳnh Hoa.”
Trích: TỪ ĐIỂN THÁI BÌNH. TỈNH ỦY-HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN-ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH THÁI BÌNH. NXB VĂN HÓA THÔNG TIN. 2010. Trang 1082 – 1083.

2. Vụ Quỳnh Hội

“Sự kiện khởi đầu của tình hình mất ổn định chính trị – xã hội ở Thái Bình. Trong 2 tháng cuối 1996, hàng trăm người ở xã Quỳnh Hội huyện Quỳnh Phụ nhiều lần lên xã, huyện, tỉnh khiếu tố về việc UBND huyện Quỳnh Phụ không thực hiện quỹ đất 5% là trái với chủ trương của tỉnh; các khoản dân phải đóng góp quá lớn; cán bộ xã có hành vi tham nhũng, tiêu cực. Dân yêu cầu cấp trên thanh tra, xử lí cán bộ sai phạm.
Ngày 5/12/1996, UBND huyện Quỳnh Phụ thành lập đoàn thanh tra liên ngành, tiến hành thanh tra việc xây dựng cơ bản, ngân sách xã và kinh tế HTX Nông nghiệp. Kết quả thanh tra xây dựng cơ bản (trạm bơm, cải tạo mương máng, làm đường giao thông…) bước đầu phát hiện có dấu hiệu tham ô 90.600.000 đồng.
Thanh tra kinh tế, tài chính xã, phát hiện chi sai nguyên tắc 48.275.000 đồng. Ngoài ra còn có nhiều biểu hiện tiêu cực trong việc mua thóc giống, vay tiền cá nhân sử dụng cho HTX với lãi suất cao…
19h30 ngày 26/12/1996, Chi nhánh điện Quỳnh Phụ ngừng cấp điện cho xã vì còn nợ chi nhánh 3.800.000 đồng. Hàng nghìn người trong xã kéo đến nhà chủ tịch UBD xã thắc mắc và một số người quá khích đã đập phá tài sản, làm thiệt hại khoảng 3.000.000 đồng.
Ngay sau khi sự việc xảy ra, dưới sự chỉ đạo của Lãnh đạo công an tỉnh, của Thường trực huyện ủy, UBND huyện Quỳnh Phụ, lực lượng công an và các ngành đã tập trung giải quyết nhằm ổn định tình hình.
Ngày 26/12/1996, Công an huyện Quỳnh Phụ đã khởi tố vụ án gây rối trật tự công cộng, khởi tố bị can đối với Nguyễn Văn Toán, Phạm Văn Quýnh, Nguyễn Tiến Mừng.
Ngày 14/1/1997, khởi tố điều tra vụ án tham ô, cố ý làm trái gây thiệt hại tài sản XHCN, khởi tố 3 bị can: Đặng Đình Thảo (Bí thư Đảng ủy xã, nguyên Chủ nhiệm HTX), Nguyễn Quốc Dũng (kế toán trưởng), Vũ Thị Tám (thủ quỹ HTX nông nghiệp).”
Trích: TỪ ĐIỂN THÁI BÌNH. TỈNH ỦY-HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN-ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH THÁI BÌNH. NXB VĂN HÓA THÔNG TIN. 2010. Trang 1083.

3. Vụ Quỳnh Mỹ

Vu gây rối trật tự nghiêm trọng nhất. Ngày 6/5/1997, Phạm Hữu Hoành, Phạm Văn Tới và Nguyễn Văn Ty tự nhận là đại diện cho nhân dân đứng ra in giấy mời, triệu tập Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND xã, Bí thư chi bộ, xóm trưởng, trưởng các ban ngành của xã về Hội trường UBND để họp bàn chống tham nhũng.
Tại đây Phạm Hữu Hoành công khai đả kích , phê phán chính quyền xã, kích động quần chúng kéo lên huyện, tỉnh yêu cầu xử lý những cán bộ mà họ cho là tham nhũng.
Xét hành vi của Phạm Hữu Hoành và Phạm Văn Tới có dấu hiệu về tội “lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm tới lợi ích của Nhà nước và xã hội”, ngày 8/5/1997, Công an huyện Quỳnh Phụ đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can, bắt Phạm Hữu Hoành và Phạm Văn Tới. Lập tức, từ ngày 9 đến 11/5/1997, hàng nghìn người xã Quỳnh Mỹ và các xã lân cận liên tiếp kéo lên huyện đòi thả người bị bắt.
Chiều 10/5, khoảng 3.000 người đã tràn vào Viện kiểm sát nhân dân huyện, một số người đã đập phá phòng làm việc và lăng mạ, súc phạm Viện trưởng; thu và xé tài liệu của Viện kiểm sát nhân dân.
Tình hình càng căng thẳng khi hàng trăm người của xã Quỳnh Hồng cùng số dân xã Quỳnh Mỹ kéo đến bao vây trụ sở công an huyện. Trong suốt 6 giờ đồng hồ (từ 19 giờ ngày 10/5 đến 1 giờ sáng ngày 11/5) khoảng 2.000 người tụ tập trước trụ sở công an huyện. Lợi dụng đêm tối, một số người quá khích hò hét, chửi bới, xô đổ cổng, dậu của Công an huyện và trường Đảng huyện; dùng gạch đá tấn công trụ sở và cán bộ chiến sĩ công an đang làm nhiệm vụ. Họ còn dùng các vật cản chắn đường ô tô, ngăn không cho lực lượng công an tỉnh và công an các huyện tăng cường; đồng thời tổ chức săn lùng, đánh đuổi các chiến sĩ công an. 11 cán bộ chiến sĩ công an bị thương, nhiều tài sản bị hư hỏng, trong đó có 3 xe chữa cháy, 1 xe cứu thương, 1 xe chở quân, vỡ nhiều lá chắn, hỏng toàn bộ cánh cửa nhà 2 tầng, hệ thống chiếu sáng và nhiều máy móc thông tin liên lạc..
Để giảm bớt áp lực của quần chúng, tạm ổn định tình hình, Thường trực Tỉnh ủy và UBND Tỉnh đã họp bàn thống nhất chủ trương tạm tha 2 đối tượng bị bắt. Được thể, một số người ở Quỳnh Mỹ đã ép Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện phải ký vào văn bản họ viết sẵn, thừa nhận việc bắt người là sai rồi công bố trên Đài truyền thanh xã Quỳnh Mỹ và tổ chức ăn mừng thắng lợi.
Trích: TỪ ĐIỂN THÁI BÌNH. TỈNH ỦY-HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN-ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH THÁI BÌNH. NXB VĂN HÓA THÔNG TIN. 2010. Trang 1083 – 1084.

4. Vụ Thái Thịnh

Vụ tham nhũng, tiêu cực và gây rối trật tự công cộng điển hình ở huyện Thái Thụy.
Ngày 25/6/1997, 60 người dân xã Thái Thịnh lên UBND tỉnh kiến nghị giải quyết thanh quyết toán các công trình xây dựng của xã và tố cáo Chủ tịch xã vi phạm luật đất đai, tham nhũng. Buổi tối cùng ngày, quần chúng họp tại 2 địa điểm xóm 1 và xóm 5 để nghe thông báo kết quả đi khiếu kiện ở tỉnh về.
14h ngày 26/6/1997, trong lúc Đảng bộ xã đang họp bàn chủ trương thực hiện công văn số 279 của UBND tỉnh, hơn 200 người kéo đến bao vây trụ sở, yêu cầu xã phải thực hiện ngay công văn số 279. Chủ tịch xã ra giải quyết yêu cầu mọi người giải tán. Quần chúng không nghe và có lời lẽ thô tục, lăng mạ.
5h chiều cùng ngày, Chủ tịch huyện cùng đoàn cán bộ huyện Thái Thụy về xã Thái Thịnh để giải quyểt, hứa sẽ chỉ đạo xã thực hiện nghiêm túc công văn 279 của UBND tỉnh. Có tới hàng nghìn quần chúng tụ tập tại trụ sở UBND xã. Những người quá khích đã ào lên vây giữ Chủ tịch huyện và đoàn cán bộ. Lực lượng công an tìm cách đưa được Chủ tịch huyện ra ngoài. Chủ tịch xã và Trưởng công an huyện bị một số phần tử xấu hành hung trọng thương. 6 cán bộ khác của xã, trong đó có Bí thư Đảng ủy và 3 an ninh viên bị xâm phạm đến thân thể. Toàn bộ bàn ghế, cánh cửa, tủ đựng tài liệu, tăng âm, loa đài của xã và HTX bị đập phá và mất 13,600,000 đồng quỹ UBND xã.
Sau đó, họ kéo đập phá nhà, tài sản gia đình Phạm Văn Chiêm (Chủ tịch xã), Phạm Văn Nghị (Phó Chủ tịch xã), Đinh Thị Tâng (Cán bộ địa chính xã), gây nhiều thiệt hại.
Tình hình rối loạn diễn ra từ 7 giờ tối ngày 26/6 đến 1 giờ sáng ngày 27/6/1997.
Để giải quyết ổn thỏa tình hình xã Thái Thịnh, Thường trực Tỉnh ủy Thái Bình đã chỉ đạo 3 ngành Công an, Viện Kiểm sát, Tòa án tiến hành đồng thời việc điều tra truy tố những đối tượng quá khích, gây rối trật tự công cộng, vi phạm pháp luật với việc truy tố những cán bộ xã có hành vi tham nhũng, tiêu cực là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới việc khiếu kiện phức tạp của quần chúng.
Ngày 3/7/1997, Công an tỉnh đã thực hiện lệnh bắt 5 đối tượng chủ yếu (Vũ Văn Kiện, Vũ Văn Tuấn, Phạm Văn Vịnh, Ngô Thị Duyên, Phạm Văn Khuynh) trong 36 đối tượng gây rối trật tự công cộng, cố ý hủy hoại tài sản XHCN, tài sản công dân, cố ý gây thương tích, xảy ra đêm 26/6/1997 tại Thái Thịnh.
Đồng thời, Công an tỉnh khẩn trương điều tra, xác định Phạm Văn Chiêm (Chủ tịch xã từ 1991 – 1997) đã cấp trái phép 23.686m2 đất và đã cùng Phạm Văn Thiện (Phó ban tài chính xã) vi phạm các quy định về chế độ, nguyên tắc quản lí kinh tế nhà nước, gây thất thoát ngân sách xã hơn 220 triệu đồng. Chiêm tham ô 24.670.000 đồng, Thiện tham ô 63.804 ngàn đồng.
Một số cán bộ chủ chốt khác của xã như Phạm Thanh Nghị (Phó chủ tịch xã) , Phạm Văn Thái (Bí thư Đảng ủy xã), Phạm Huy Khản (Phó Bí thư Đảng ủy xã), Phạm Thị Duyên (Thủ quỹ UBND xã) đồng phạm gây thất thoát 154 triệu đồng ngân sách xã. Ngoài ra, Nghị còn tham ô 13 triệu đồng, Thái 11 triệu đồng, Khản hơn 2 triệu đồng, Duyên 5 triệu đồng, Tăng hơn 13 triệu đồng.
Trích: TỪ ĐIỂN THÁI BÌNH. TỈNH ỦY-HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN-ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH THÁI BÌNH. NXB VĂN HÓA THÔNG TIN. 2010. Trang 1084 – 1085.
THEO NÔNG DÂN RA PHỐ