Tổng số lượt xem trang

Thứ Tư, 23 tháng 7, 2014

Người Việt mình có NGU DỐT, DỐI TRÁ, HIẾU CHIẾN không !?

Nếu Đảng vì tổ quốc thì mọi việc đã khác !

*** Đảng CSVN có vì tổ quốc chứ sao không, nhưng mà “tổ quốc Xã hội chủ nghĩa”- Điều đó đã được lãnh đạo CHXHCN VN xác định từ lâu.- Tại những người VN không chịu hiểu , đã tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên CNXH (CS) thì cái TỔ QUỐC CHUNG là đúng rồi chớ đâu có sai, VN-Trung cộng- Cu ba -Bắc hàn là một tổ quốc , chớ đã theo CNCS mà quốc gia này của tôi, quốc gia kia của anh…thì theo CS làm gì. Cho nên phải bảo vệ TỔ QUỐC XHCN , mà ông GS TS Đt Thanh chỉ ra là cái SỔ HƯU đấy.

Nam Nguyên, phóng viên RFA

Trung Quốc âm mưu thôn tính biển Đông khóa chặt Việt Nam trong vòng lệ thuộc, Đảng Cộng sản Việt Nam đang đứng giữa ngã ba lịch sử, thân Trung Quốc để giữ đảng và vai trò độc quyền cai trị hay chấp nhận cải tổ chính trị, dân chủ hóa đất nước tìm chỗ dựa bảo vệ chủ quyền.
Liên minh và không liên minh

Sự kiện Nhà nước Việt Nam khẳng định không liên minh với ai để chống nước thứ ba, được các nhà phản biện gọi là sự không tưởng trong tư duy chiến lược, hoặc biểu lộ sự nhu nhược chủ hòa với kẻ xâm lăng bá quyền Trung Quốc.
Ông Lê Phú Khải, nhà báo kỳ cựu từng ở trong guồng máy thông tin tuyên truyền của nhà nước Việt Nam từ Hà Nội nhận định:
“ Một nước bé như nước mình, nước Việt Nam mà không liên minh với một nước thứ ba không có một chỗ dựa thì làm sao mà có thể đương đầu với Trung Quốc mạnh hơn mình. Rõ ràng là không tưởng và điều này chứng tỏ nhà nước Việt Nam cũng chưa thoát Trung được, chưa nhìn thấy rõ kẻ thù thâm độc như thế nào, vẫn còn lấn cấn không thoát Trung ra được, không dứt khoát nên mới đưa ra chiến lược như thế.”
Theo ông Nguyễn Trung, một cựu Đại sứ của chế độ Hà Nội, Việt Nam trong thể chế hiện nay, nếu có nài xin cũng chẳng có nước nào muốn liên minh. Trong bài viết được phổ biến trên các trang mạng xã hội, ông Nguyễn Trung cho rằng: “… Nếu dân tộc ta, nước ta còn chưa đủ bản lĩnh sống vì chính ta, thì ai dám liên minh với ta? Xin hãy tự hỏi mình: Bản thân chúng ta có dám kết thân với kẻ ba, bốn mặt, hư, ăn bám và èo uột không.”
Một nước bé như nước mình, nước Việt Nam mà không liên minh với một nước thứ ba không có một chỗ dựa thì làm sao mà có thể đương đầu với Trung Quốc mạnh hơn mình. Rõ ràng là không tưởng và điều này chứng tỏ nhà nước Việt Nam cũng chưa thoát Trung được
nhà báo Lê Phú Khải
Cùng về vấn đề liên quan, TS Phạm Chí Dũng thành viên sáng lập Hội Nhà Báo Độc Lập từ TP.HCM phân tích:
“ Trừ phi người Việt Nam biến thành người Philippines và tự đứng bằng đôi chân của mình và sau đó thì mới nhờ tới người Hoa Kỳ. Khi người Hoa Kỳ thấy người Philippines tự đứng bằng đôi chân của họ, tự dám bắt tàu cá Trung Quốc xâm phạm lãnh hải thì lúc đó Manila mới có được Hiệp định tương trợ quốc phòng đối với Mỹ. Còn Việt Nam bản lĩnh quá kém, cả thế giới coi thường không muốn có bất kỳ mối tương trợ quân sự nào về mặt thực chất, cho dù Việt Nam đã có hàng chục đối tác chiến lược toàn diện mà trong đó đối tác chiến lược toàn diện lớn nhất, có ý nghĩa nhất chính là Trung Quốc và Trung Quốc đang trở mặt với Việt Nam.”
Trong bài viết góp ý với Đại hội Đảng khóa XII sắp tới được phổ biến trên mạng, cựu Đại sứ Nguyễn Trung cảnh báo những kịch bản đen tối nhất có khả năng xảy đến cho Việt Nam. Ông Nguyễn Trung kêu gọi Đảng đấu tranh, cắt đứt cái thòng lọng ý thức hệ và sự nô lệ của quyền lực, cũng như sự cám dỗ của của mọi lợi ích tội lỗi, trả lại quyền làm chủ đất nước cho nhân dân. Từ đó Việt Nam cùng các nước trong khu vực tranh đấu thắng lợi trước bá quyền Trung Quốc, tránh được chiến tranh. Vẫn theo ông Nguyễn Trung, nếu chọn lựa con đường này, chế độ toàn trị cùng với mọi quyền lực và đặc quyền của nó sẽ không còn nữa, Đảng CSVN phải trở thành một đảng khác, hoặc sẽ không tồn tại nữa.
Không còn cách nào khác
Trò chuyện với chúng tôi, nhà báo Lê Phú Khải nhận định:
“ Nếu mà bảo vệ toàn trị thì không thể đi với dân chủ được. Dân chủ là minh bạch là công khai là đa nguyên. Khi mà toàn Đảng hô lên tổ quốc trên hết thì nó khác, còn nếu bây giờ lại chế độ trên hết thì nó khác. Nếu bây giờ bảo hộ chế độ thì Đảng rất là cô đơn không có nhân dân cũng không có đồng minh. Đây là điều Đảng Cộng sản Việt Nam phải lựa chọn không có cách nào khác.”
Nếu mà bảo vệ toàn trị thì không thể đi với dân chủ được. Dân chủ là minh bạch là công khai là đa nguyên. Khi mà toàn Đảng hô lên tổ quốc trên hết thì nó khác, còn nếu bây giờ lại chế độ trên hết thì nó khác. Nếu bây giờ bảo hộ chế độ thì Đảng rất là cô đơn không có nhân dân cũng không có đồng minh
nhà báo Lê Phú Khải
Đáp câu hỏi của chúng tôi là, có khả năng nào cho thấy Đảng Cộng sản Việt Nam vào kỳ Đại hội Đảng lần thứ XII sắp tới sẽ chọn lựa tổ quốc thay vì độc quyền cai trị. Nhà báo Lê Phú Khải nhận định:
“ Đây là câu hỏi khó vì nó là chính trị, nó biến động, đa dạng và nó bất ngờ, không ai có thể đoán được. Nhưng tôi nghĩ và theo những gì tôi cảm nhận được thì Đảng Cộng sản không thay đổi đâu, bây giờ số phận của đất nước tùy thuộc vào nhân dân thôi.”
Vận mệnh đất nước đang ở trong tay nhân dân như cách nhìn thế sự của nhà báo lão thành Lê Phú Khải. Nhưng nhân dân đâu có quyền lực cũng chẳng có lãnh tụ để đấu tranh. Tuy vậy ông Lê Phú Khải nói là ông vẫn tin vào xu thế thay đổi của thời đại. Ông nói:
“ Tôi nghĩ là thời đại này là thời đại thông tin, xã hội dân sự nó sẽ hình thành và nó sẽ phát triển, nhưng tất nhiên sẽ chậm. Dân trí như thế này thì nó chậm nó lâu, còn nếu đảng cầm quyền đứng ra cải tổ thì nó mau. Nhất định xu thế của thời đại là xu thế dân chủ rồi. Ngay cả Trung Quốc cũng không mạnh và chế độ toàn trị cũng không mạnh, sớm muộn cũng phải thay đổi không thể như thế này mà tồn tại được.”
Khi cảnh báo với Đại hội Đảng khóa XII sắp tới, cựu Đại sứ Nguyễn Trung cũng đề cập tới khả năng Đảng Cộng sản Việt Nam chọn con đường chủ hòa theo kiểu đầu hàng, không kiện ra quốc tế, chấp nhận đàm phán song phương cho vấn đề Biển Đông, gác tranh chấp cùng khai thác, để tạm thời tránh được chiến tranh bảo vệ quyền lực và tài sản của riêng họ. Ông Nguyễn Trung gọi cách chủ hòa như thế là phương án chấp nhận chết dần từng nấc về thể xác, nhưng chết ngay và chết hẳn về nhân cách một quốc gia, một dân tộc. Nhân dân Việt Nam sẽ phản kháng quyết liệt và dù Đảng có dùng nội chiến để đàn áp nhân dân đi nữa, thì theo vị cựu Đại sứ, trước sau và cuối cùng vẫn sẽ là cái chết nhục nhã của quyền lực.
Về phần nhà báo Lê Phú Khải, ông nói  người dân Việt Nam sẽ không chấp nhận đầu hàng Trung Quốc dưới bất cứ hình thức nào. Cho nên sẽ là thảm họa khi nhân dân không còn chấp nhận chính phủ của mình.

Người Việt mình có NGU DỐT, DỐI TRÁ, HIẾU CHIẾN không !?

Canh Le FB
 Xin được bắt đầu bằng HIẾU CHIẾN trước :
Dân mình vốn “hào hứng” với chiến tranh … Các võ tướng, các chiến trường … thường được vinh danh ca tụng bằng các tượng đài “hoành tráng”, bằng các tên trường, tên đường, tên quảng trường to lớn và đẹp đẽ … Trong khi đó, một nhân vật lịch sử – văn hóa uyên bác kiệt xuất là Trạng Nguyên – Đông Các Đại Học Sĩ – Thái Phó – Trình Tuyền Hầu – Trình Quốc Công – Tuyết Giang Phu Tử – Nguyễn Bĩnh Khiêm liệu đã được hậu thế ngưỡng vọng, tri ân, và noi gương xứng đáng … !?
Ngài từng được người đời đánh giá như sau :

+   Trạng nguyên, Lại bộ thượng thư Giáp Hải đời Mạc :
-   “Chu Liêm Khê hậu hữu Y Xuyên, Lý học vu kim hữu chính truyền” ( Sau Liêm Khê lại có Y Xuyên, Lý học ngày nay bậc chính truyền ) ;
-   “Danh quán nho khoa lôi chấn địa, Lực phù nhật cốc trụ kình thiên ( Kim bảng đứng đầu tên sấm dậy, Chống trời cột vững sức cường kiên ) ;
Tứ triều huân nghiệp nhân trung kiệt, Cửu lão quang nghi thế thượng tiên” ( Bốn triều nghiệp lớn tay anh kiệt, Chín lão dung nghi dáng khách tiên ).
+   Tiến sĩ Đinh Thì Trung, trong bài văn tế Môn Sinh Tế Tuyết Giang Phu Tử Văn :
-   “Muôn chương đọc khắp, học tài chẳng kém Âu, Tô” ( Âu Dương Tu và Tô Đông Pha đời Tống ), “Văn lực không nhường Lý, Đỗ” ( Lý Bạch và Đỗ Phủ đời Đường ) ;
-   “Một kinh Thái ất thuộc lòng, đốt lửa soi gan Dương Tử” ( Dương Hùng đời Hán ) ;
-   “Suy trước biết sau, học lối Nghiêu Phu môn hộ” ( Thiệu Ung đời Tống ) ;
-   “Một mình Lý học tinh thông, hai nước anh hùng không đối thủ”.
+   Tiến sĩ Ôn Đình hầu Vũ Khâm Lân đời Lê Trung Hưng, trong bài Bạch Vân Am Cư Sĩ Nguyễn Công Văn Đạt Phả Ký :
“… Bởi tiên sinh chẳng những chỉ tinh thâm một môn Lý học, biết rõ dĩ vãng cũng như tương lai, mà sự thực thì trăm đời sau cũng chưa dễ ai hơn được vậy. Ôi ! Ở trong thiên hạ, các bậc quân vương, các vị hiền giả, hỏi có thiếu chi, nhưng chỉ có lúc sống thì được phú quí vinh hoa, còn sau khi mất thì những cái đó lại cũng mai một đi với thời gian, hỏi còn ai nhắc nữa ? Còn như tiên sinh, nói về thế hệ đã truyền đến 7, 8 đời, gần thì sĩ phu dân thứ ngưỡng vọng như bóng sao Đẩu trên trời, dẫu cách ngàn năm cũng còn tưởng như một buổi sớm, xa thì sứ giả Thanh triều tên Chu Xán, nói đến nhân vật Lĩnh Nam cũng đã có câu An Nam Lý học hữu Trình Tuyền tức là công nhận môn Lý học của nước An Nam chỉ có Trình Tuyền là người số một, rồi chép vào sách truyền lại bên Tàu. Như thế, đủ thấy Tiên sinh quả là một người rất mực của nước ta về thời trước vậy.”
+   La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp, sống qua các thời vua Lê – chúa Trịnh, nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn, trong bài thơ Quá Trình Tuyền Mục Tự ( Qua Chùa Cũ Của Trình Tuyền ) :
-   “Huyền cơ tham tạo hóa” ( mưu cơ thâm kín can dự cả vào công việc của tạo hóa ). Ý chỉ đến “Sấm Trạng Trình”
-   “Phiến ngữ toàn tam tính” (một lời ngắn gọn mà bảo toàn cho cả ba họ). Ý chỉ đến ba câu : “Hoành Sơn Nhất Đái, Vạn Đại Dung Thân” giúp họ Nguyễn … ; ” Cao Bằng Tuy Thiển, Khả Diên Sổ Thế” giúp họ Mạc … ; ” Giữ Chùa Thờ Phật Thì Ăn Oản” giúp họ Trịnh …
+   Phạm Đình Hổ trong Vũ Trung Tùy Bút :
“Lý học như Nguyễn Bỉnh Khiêm và Phùng Khắc Khoan đều là tinh anh của non sông đúc lại”.
+   Phan Huy Chú, danh sĩ thời nhà Nguyễn, trong Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí :
“Một bậc kỳ tài, hiền danh muôn thuở”.
Một Đấng – Bậc Kẻ Sĩ mà, chỉ dùng lời nói, có thể định được Xã Tắc ( phía bắc ), mở được Sơn Hà ( phía nam ), những lời “sấm” tiên tri vận nước còn truyền tụng đến ngày nay … xem ra không hấp dẫn, làm nức lòng dân Việt bằng các Chiến Tướng “Nhất Tướng Công Thành Vạn Cốt Khô” :
+   Tiền Ngô Vương – Ngô Quyền ;
+   Vạn Thắng Vương – Đinh Tiên Hoàng Đế – Đinh Bộ Lĩnh ;
+   Thập Đạo Tướng Quân – Lê Đại Hành Hoàng Đế – Lê Hoàn ;
+   Thái Úy – Việt Quốc Công – Lý Thường Kiệt ;
+   Quốc Công Tiết Chế – Hưng Đạo Đại Vương – Trần Quốc Tuấn ;
+   Bình Định Vương – Lê Thái Tổ – Lê Lợi ;
+   Long Nhương Tướng Quân – Bắc Bình Vương – Quang Trung Hoàng Đế – Nguyễn Huệ ;
+   Võ Hiển Đại Học Sĩ – Tráng Liệt Bá – Nguyễn Tri Phương ;
+   Quản Cơ – Nguyễn Trung Trực ;
+   “Hùm Thiêng Yên Thế” – Đề Thám – Hoàng Hoa Thám ;
+   Đại Tướng “Trăm Năm Hào Kiệt” – Võ Nguyên Giáp, … ;
… vv …
với các Chiến Trường “Chiết Kích Trầm Giang, Khô Cốt Doanh Khâu” :
+   “Đằng Giang tự cổ huyết do hồng” ;
+   Phòng Tuyến Như Nguyệt ;
+   “Đoạt sáo Chương Dương Độ / Cầm Hồ Hàm Tử Quan” ;
+   Chi Lăng giết Liễu Thăng ;
+   Rạch Gầm – Xoài Mút nhấn chìm quân Xiêm, Đống Đa gò chôn thây giặc ;
+   Đại Đồn Chí Hòa, Lũy Bán Bích ;
+   “Hỏa hồng Nhật Tảo oanh thiên địa / Kiếm bạt Kiên Giang khấp quỷ thần” ;
+   Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” ;
+   Đồng Xoài, Bình Giã, “A Sao máu thù còn nồng”, Khe Sanh, Dak Tô, Plei Me, “Gio Linh đón thây giặc về làm phân xanh cây lá”, “đồn Tà Cơn năm nào bốc cháy”, Cổ Thành Quảng Trị, Bình Long, “Phước Long xây chiến thắng”, “Xuân Lộc cánh cửa thép”, … “Đại Lộ Kinh Hoàng”, … “Truông Gọi Hồn, Đồi Xáo Thịt”, … “trận địa thì loang máu tươi” …
… vv …
Ngoài ra, những Đấng – Bậc Sĩ – Sư khác, các Văn Thần “Kinh Bang Tế Thế” bằng tiết tháo thanh cao, chính trực, bằng tài văn học uyên thâm như :
+   Thiền Sư – Pháp Sư – Lý Triều Quốc Sư – Nguyễn Minh Không ;
+   Tả Gián Nghị Đại Phu – Thái Phó Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự – Tể Tướng Thái Sư – Lý Đạo Thành ;
+   Hàn Lâm Học Sĩ – Hành Khiển – Tả Gián Nghị Đại Phu – Tham Tri Chính Sự – Thái Bảo – Thái Phó – Trương Hán Siêu ;
+   Thái Học Sinh – Tiều Ẩn - Quốc Tử Giám Tư Nghiệp - Văn Trinh Công - Chu Văn An ;
+   Tiến Sĩ – Đông Các Đại Học Sĩ – Quốc Tử Giám Tế Tửu - Lễ Bộ Thượng Thư – Hàn Lâm Viện Sự Trưởng – Lại Bộ Thượng Thư – Nhập Nội Phụ Chính – Tao Đàn Nhị Thập Bát Tú Phó Đô Nguyên Súy - Thân Nhân Trung ;
+   Gia Ðịnh Xử Sĩ Sùng Đức Võ Tiên Sinh – Võ Trường Toản :
Sinh Tiền Giáo Huấn Đắc Nhân, Vô Tử Nhi Hữu Tử
Một Hậu Thịnh Danh Tại Thế, Tuy Vong Giả Bất Vong ;
+   Hàn Lâm Viện Chế Cáo – Hộ Bộ Thượng Thư – Lễ Bộ Thượng Thư – Lại Bộ Thượng Thư –  Binh Bộ Thượng Thư – Quốc Sử Quán Phó Tổng Tài – Hiệp Biện Học Sĩ – Thiếu Bảo Cần Chánh Điện Đại Học Sĩ - Trịnh Hoài Đức ;
+   Hàn Lâm Viện Chế Cáo – Đông Cung Thị Giảng – Hình Bộ Hữu Tham Tri – Binh Bộ Thượng Thư – Hộ Bộ Thượng Thư – Lê Quang Định ;
+   Hàn Lâm Viện Thị Độc – Binh Bộ Hữu Tham Tri – Công Bộ Thượng Thư – Tĩnh Viễn Hầu – Ngô Nhân Tịnh ;
+   Hàn Lâm Viện Chế Cáo – Lễ Bộ Tham Tri – Đông Cung Phụ Đạo – Tán Trị Công Thần Đặc Tiến Kim Tử Vinh Lộc Đại Phu – Trụ Quốc Thái Sư – Châu Quận Công – Ngô Tùng Châu ;
+   Tiến Sĩ – Hàn Lâm Viện Biên Tu – Đô Sát Viện Phó Đô Ngự Sử – Lại Bộ Thượng Thư – Cơ Mật Viện Đại Thần – Quốc Sử Quán Tổng Tài – Hiệp Tá Đại Học Sĩ – Phan Thanh Giản ;
+   Huy Chương Dũng Sĩ Cứu Thế của Tòa Thánh La Mã, ngày 1 tháng 10 năm 1863,
Hội Viên Hội Nhân Văn Và Khoa Học vùng Tây Nam nước Pháp, Hội Nhân Chủng Học, Hội Giáo Dục Á Châu, năm 1871,
Giáo Sư Ngôn Ngữ Á Đông, thông hiểu 27 sinh ngữ trên thế giới, năm 1874,
“Toàn Cầu Bác Học Danh Gia”, đứng hàng thứ 17 trong 18 “Thế Giới Thập Bát Văn Hào”, năm 1874. Được ghi trong Bách Khoa Tự Điển Larousse,
    Hội Viên Hội Chuyên Khảo Văn Hóa Á Châu, ngày 15 tháng 2 năm 1876,
Hội Viên Hội Chuyên Học Địa Dư Paris, ngày 7 tháng 7 năm 1878,
Khuê Bài Hàn Lâm Viện Đệ Nhị Đẳng Bội Tinh (Palmes d’Académie) của Hàn Lâm Viện Pháp, ngày 17 tháng 5 năm 1883,
Tứ Đẳng Long Tinh, Ngọc Khánh, Long Khánh của Nam Triều, ngày 17 tháng 5 năm 1886,
Huy Chương Isabelle la Catholique của Tây Ban Nha, ngày 27 tháng 6 năm 1886,
Bắc Đẩu Bội Tinh Đệ Ngũ Đẳng của Pháp ngày 4 tháng 8 năm 1886,
Hàn Lâm Viện Đệ Nhất Đẳng của Pháp ngày 3 tháng 6 năm 1887,
Hàn Lâm Viện Đệ Nhất Đẳng của Hoàng Gia Cam Bốt,
Hàn Lâm Viện Thị Giảng Học Sĩ ( dưới triều Đồng Khánh ),
Hàm Lễ Bộ Tham Tri ( dưới triều Khải Định ),
Hàm Lễ Bộ Thượng Thư ( dưới triều Bảo Đại ),
Pétrus Trương Vĩnh Ký ;
… vv …
cũng chịu chung số phận bị thờ ơ bởi dân Việt …
Đối với các sự kiện lịch sử, dân mình cũng xem nhẹ các công cuộc Cải Cách của Hồ Quý Ly, công cuộc Nam Tiến của các chúa Nguyễn theo kế sách “Tàm Thực” của Nguyễn Cư Trinh, công cuộc Duy Tân : Khai Dân Trí – Chấn Dân Khí – Hậu Dân Sinh của Phan Chu Trinh, phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục của Lương Văn Can, phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm …, nhu nhuyễn, ôn hòa, bất bạo động …, mà “hào hứng” với các phong trào Xô Viết Nghệ Tỉnh, Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Đồng Khởi, các chiến dịch Mậu Thân, Đường 9 Hạ Lào, Mùa Hè Đỏ Lửa … đầy xương máu …
Hiện thời, trên các trang mạng, nhiều người đả kích lại những người biểu tình ôn hòa chống Trung Quốc xâm lược, bất đồng chính kiến ôn hòa … rằng chỉ giỏi biểu tình, không dám cầm súng bảo vệ đất nước …, rằng chỉ giỏi “chém gió”, làm “anh hùng bàn phím” …, rằng thì là … vv … Thực ra, có thể nhìn sự việc theo một hướng khác : “Quốc Gia Hưng Vong, Thất Phu Hữu Trách”, mỗi công dân, tùy theo vị thế và khả năng, có những phương cách khác nhau để biểu lộ trách nhiệm và thực hiện bổn phận, người lính thì chiến đấu bằng vũ khí, người dân thường thì chiến đấu bằng biểu tình, với các khẩu hiệu, biểu ngữ bày tỏ chính kiến, có khi chỉ biểu tình trong im lặng, bất động, tuyệt thực … ( chứ không phải bằng “chiến tranh nhân dân”, một con dao hai lưỡi rất nguy hiểm, Thảm Sát Mỹ Lai là một ví dụ đau thương trong muôn vàn vụ thảm sát thường dân khác, trên khắp thế giới … ), người trí thức thì chiến đấu bằng văn chương, phản tỉnh, phản biện … Một cuộc biểu tình, một lời hịch, một câu văn … nhiều khi có sức mạnh hơn một đạo quân, có thể “thắng nhi bất chiến”, “bất chiến tự nhiên thành”, giúp giảm thiểu máu xương, sức người sức của …
Võ có “Cương” có “Nhu”, Văn có “Hùng” có “Diễm” …
Võ có những “Võ Tướng” “ngoài biên thùy rạch mũi Can Tương”, lúc dùng trường trận, khi dụng đoản binh, xông pha chiến địa, chém tướng đoạt thành … ; đồng thời cũng có những “Nho Tướng” “kinh luân khởi tâm thượng, binh giáp tàng hung trung”, ngồi trong màn trướng thảo hịch, định kế … mà quyết được sự thắng thua, thành bại ngoài trăm dặm …
Văn có những “Văn Thần” “trong lang miếu ra tài Lương Đống”, xông xáo trên “trường văn trận bút”, “bút chiến” lẫy lừng, “cầm chính đạo để tịch tà cự bí, hồi cuồng lan nhi chướng bách xuyên” … ; đồng thời cũng có những “Tao Nhân Mặc Khách” “nào thơ, nào rượu, nào địch, nào đờn …”, “tiêu dao nơi hàn cốc thanh sơn”, “mặc ai hỏi, mặc ai không hỏi tới” mà “ngâm hoa vịnh nguyệt”, “gẫm việc đời mà ngắm kẻ trọc thanh”, “phù thế giáo một vài câu thanh nghị” …
Không thể nhận định phiến diện, chủ quan là “Võ cường Văn nhược”, mà “nhất trọng nhất khinh” … Xưa nay “cương chiết nhược tồn”, “nhu nhược thắng cương cường” không hiếm … ! …
Tất cả, Văn và Võ, Cương – Nhu – Hùng – Diễm, đều cần thiết và có giá trị hỗ tương, hình thành nên tính cách của một con người, hình thành nên tính cách của một dân tộc, “dân tộc tính” …
Mà, “TÍNH CÁCH LÀM NÊN SỐ PHẬN” !!!
Đến bao giờ thì dân Việt mới có thể nhận chân được tính cách “HIẾU CHIẾN”, “TRỌNG VÕ KHINH VĂN” tiềm ẩn trong “dân tộc tính” của mình … !? … !? … !? …
 Tiếp theo, xin bàn đến DỐI TRÁ :
Truy tìm “dân tộc tính” của một dân tộc, theo tôi, có một con đường là đi qua Văn Học Dân Gian, những câu chuyện cổ tích dân gian của dân tộc ấy. Bởi vì chúng phản ánh một cách tự nhiên nhất tâm tư, tình cảm của một dân tộc, chưa qua sàng lọc của lý trí, học thuật. Cô Tấm, một nhân vật chính diện tiêu biểu, đại diện cho cái thiện, vẫn dùng cách nói dối để trả thù, và trả thù một cách độc ác. Những nhân vật chính diện như Thằng Bờm, Trạng Quỳnh, Ba Giai, Tú Xuất … cũng dùng cách nói dối để đạt được mục đích của mình, mà những mục đích đó, rất nhiều khi, cũng chẳng có gì cao thượng …
Tục ngữ Việt Nam có câu :
-   Thật thà là cha đứa dại.
-   Thật thà là cha quỷ quái.
-   Thật thà thường thua thiệt.
Đành rằng, vẫn có những câu :
-    Ăn ngay nói thật mọi tật mọi lành.
-    Một câu nói ngay bằng ăn chay cả tháng.
-    Ngang bằng sổ ngay – So tày vót nhọn.
Người Tàu ngày xưa từng nhận xét : “Dân Giao Chỉ thích dối và ưa nổi loạn”.
Người Pháp đã gọi triều đình Huế là “Cái ổ dối trá”, do sự bất nhất trong lập trường hòa – chiến.
Người Mỹ cũng nhận xét người Việt “thường không thẳng thắn vì những lý do lặt vặt, vì thế hy sinh những mục tiêu quan trọng vì lợi ích của những mục tiêu nhỏ”.
Đành rằng, đó là những nhận xét của đối phương, hay thậm chí, kẻ thù, kẻ thù truyền kiếp, nhưng cũng không thể không xét đến …
Đánh lận ngôn từ cũng là một biểu hiện của dối trá :
Cái lập trường “địch / ta” ấu trĩ và cực đoan của những người CS được “diễn dịch” qua các cặp từ :
- liều chết / cảm tử
- khủng bố / biệt động
- phiến quân / du kích quân
- sát nhân / dũng sĩ
- khát máu / anh dũng
- liều lĩnh / dũng cảm
- hèn nhát / thận trọng
- ngoan cố / bất khuất
- cố chấp / kiên định
- điên cuồng / kiên cường
- mù quáng / nhiệt tình
- âm mưu / chủ trương
- thủ đoạn / chính sách
- xảo quyệt / mưu trí
- hiểm độc / sáng suốt
- lấn chiếm / tiến công
- tạm chiếm / giải phóng
- đánh lén / đột kích
- càn quét / công kích
- rình mò / trinh sát
- chó săn / điệp báo
- gián điệp / nội tuyến
- tháo chạy / rút lui
- hốt hoảng, vội vã / khẩn trương
- đền tội / hy sinh
- sào huyệt / căn cứ
- đầu sỏ / lãnh đạo
- xúi giục / động viên
- dụ dỗ / giác ngộ
- rêu rao / tuyên truyền
- mị dân / tuyên giáo
- chống lưng / ủng hộ
- độc tài / chuyên chính
- tàn dư / di sản
- bè lũ / đồng chí
- đồng lõa / đồng minh
- chư hầu / bạn bè quốc tế
- hà hơi tiếp sức / giúp đỡ chí tình
- bồi bút / chiến sĩ trên mặt trận văn hóa – tư tưởng
- cơ hội / chớp thời cơ
- bắt lính / thực hiện nghĩa vụ quân sự
- ráo riết bắt lính / tổng động viên
- xâm lược / làm nghĩa vụ quốc tế
- nhồi sọ / giáo dục
- tẩy não / cải tạo
- lao động khổ sai / cải tạo lao động
- cướp của / cải tạo tư bản tư doanh, cải tạo công thương nghiệp, chống đầu cơ tích trữ phá rối thị trường
- cướp tiền / đổi tiền
- đi sưu / đóng góp ngày công lao động xã hội chủ nghĩa
- thuế thân / đóng góp an ninh quốc phòng, thuế thu nhập
- nhảy đầm / múa đôi
- lợi dụng, lạm dụng / sử dụng
- xâm phạm đời tư, xâm phạm bí mật thư tín, tra tấn, bức cung, mớm cung / dùng biện pháp nghiệp vụ
- cướp đoạt / cưỡng chế
- đàn áp / chế tài

Với một hệ thống “loa phường” ra rả, dần dần in sâu vào não trạng con người như một sự “mặc định” : “địch” thì kiểu gì cũng xấu, “ta” thì kiểu gì cũng tốt …
Khi sự “dối trá” được / bị coi là “mặc nhiên”, thì người ta không còn nhận thấy mình đang nói dối, hay đang bị người khác nói dối … ! …
Cuối cùng, xin bàn đến NGU DỐT :
Một điều hiển nhiên là, người “khôn ngoan” thì không “hiếu chiến”. Người “khôn ngoan” biết vận dụng mọi phương tiện để đạt đến mục đích với ít tổn thất nhất, biết hóa giải các bất đồng, mâu thuẩn bằng hòa đồng, thỏa hiệp. Chỉ khi nào không còn lựa chọn nào khác, bất đắc dĩ thì mới phải sử dụng chiến tranh để giải quyết những vấn đề cấp bách ; còn đối với các chiến lược lâu dài, thì hòa bình là phương sách tốt nhất … ! …
Người Việt mình chưa có được tập quán nghiên cứu về đối thủ …
Sau “một ngàn năm đô hộ giặc Tàu”, người Việt hiểu về Trung Quốc được bao nhiêu !?
Sau “một trăm năm đô hộ giặc Tây”, người Việt hiểu về Pháp được bao nhiêu !?
Sau “hai mươi năm nội chiến từng ngày”, người Việt hiểu về Mỹ và cộng sản được bao nhiêu !? …
Các nước đều có môn “Việt Nam Học” để nghiên cứu về Việt Nam, đừng vội nghĩ rằng vì Việt Nam “oai linh”, “hiển hách”, “vinh quang”, “vĩ đại”, “thần thánh” … gì, mà họ “nghiên cứu” là nhằm để giành được vị thế chủ động trên mọi phương diện khi bang giao, kể cả trong chiến tranh … ! Việt Nam nghiên cứu về các nước được bao nhiêu … !? Việt Nam mãi ở trong thế “nhược tiểu”, bị động, bị chèn ép, và buộc phải dùng chiến tranh làm phương tiện để giải quyết tranh chấp là vì lý do đó … ! …
THẮNG NHI BẤT CHIẾN !
BẤT CHIẾN TỰ NHIÊN THÀNH !
TRI KỶ TRI BỈ, BÁCH CHIẾN BÁCH THẮNG !
TRẬN ĐÁNH HAY NHẤT LÀ TRẬN ĐÁNH MÀ TA TRÁNH ĐƯỢC !

là vậy … ! …
Cũng hiển nhiên, người “khôn ngoan” thì không cần phải “dối trá”. Người “khôn ngoan” biết xoay chuyển những điều kiện bất lợi thành có lợi một cách sáng suốt để hướng đến những giá trị bền vững, tức “chân lý”, và hiểu rằng không có công trình gì được xây dựng bền vững dựa trên một cái nền ảo, không có thật, tức “dối trá” … ! …
Không phải không có lý do mà trong Khổng Giáo, TRÍ và TÍN được đưa và Ngũ Thường, bên cạnh NHÂN, NGHĨA, LỄ, làm năm đức lớn của bậc Chính Nhân Quân Tử. Ngũ Thường cùng với Tam Cương ( ba giềng mối : Quân – Thần, Phụ – Tử, Phu – Phụ ) đã điều tiết được xã hội Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản trong hàng ngàn năm qua, đến nay vẫn còn giá trị …
Như vậy, “hiếu chiến” và “dối trá” không phải là tính cách của con người “khôn ngoan”, mà chính là hệ quả của “ngu dốt”.
 Chính vì các tính cách này mà trong suốt mấy ngàn năm, người Việt đã không thể xây dựng được điều gì lớn lao và bền vững, cả về vật chất lẫn tinh thần, mà còn phải gánh chịu chiến tranh triền miên, cả ngoại xâm lẫn nội chiến !
   Người Việt cần nhận chân ra các tính cách NGU DỐT, DỐI TRÁ, HIẾU CHIẾN tiềm ẩn trong “Dân Tộc Tính” của mình, và nghiêm khắc sửa đổi, để có thể thoát khỏi thân phận “nhược tiểu”, mà vững bước “lớn mạnh” trên con đường VĂN MINH !

   Vì : “TÍNH CÁCH LÀM NÊN SỐ PHẬN” !

Lê Mai - Kissinger và Trung Quốc (2)


 Sẽ không có gì quá lời khi cho rằng, Kissinger là nhân vật nổi bật nhất của trường phái ngoại giao “con thoi” thời chiến tranh lạnh. Ông ta thực hiện chính sách ngoại giao do chính mình vạch ra một cách tận tụy và khéo léo. Đột phá quan hệ với TQ, đàm phán với Liên Xô về hiệp ước hạn chế vũ khí chiến lược, thương lượng với VNDCCH nhằm tìm một con đường rút lui danh dự cho nước Mỹ, ông ta di chuyển như coi thoi giữa Washington – Pari – Moscow và Bắc Kinh.

Xem ra, Kissinger đàm phán với TQ dễ dàng hơn nhiều so với VNDCCH, vì Bắc VN không chịu thỏa hiệp. Kissinger khen những nhà thương lượng Bắc VN cứng rắn, nguyên tắc, kỷ luật và vô cùng kiên nhẫn, song “chê” họ là những nhà thương lượng tồi. Chừng nào mà họ chưa chịu thay từ “phải” bằng “sẽ là”, chừng đó cuộc hòa đàm Pari chưa thể tiến triển – Kissinger kết luận.

Và Kissinger cũng gặp không ít khó khăn khi thuyết phục VNCH.

Với bản dự thảo Hiệp định Pari đã thỏa thuận giữa Hoa Kỳ và VNDCCH, ngày 18.10.1972, Kissinger tới Sài Gòn. Khi nghiên cứu bản dự thảo, Tổng thống Thiệu hết sức sửng sốt vì tất cả những đề nghị, phản đề nghị của Nam VN đã bị bỏ qua. Thiệu nói: “xin hỏi ngài ba nước Đông Dương được đề cập đến là những nước nào?”. Kissinger trả lời, không hề ấp úng: “à chắc đó là lỗi in sai” và mặc dù nó xuất hiện không chỉ một lần trong dự thảo hiệp định nhưng Kissinger cứ khăng khăng đó là lỗi in sai. Đối với Thiệu, có tất cả bốn nước, trong đó “hai nước VN” là VNDCCH và VNCH theo Hiệp định Giơnever năm 1954, chờ ngày thống nhất, dù chưa biết là ngày nào.

“Điều gì sẽ đến với quân đội Bắc VN khi hiệp định Pari ký kết?”. “Sẽ không có sự xâm nhập từ miền Bắc của quân cộng sản và quân đội VNCH hùng mạnh với 1,1 triệu quân chẳng có gì phải sợ hãi 140 ngàn quân Bắc VN”. Trả lời của Kissinger có nghĩa là quân Bắc VN được phép ở lại miền Nam. Thiệu dứt khoát yêu cầu Kissinger sửa đổi 69 điểm trong bản dự thảo Hiệp định. Dù sao, chẳng còn bao lâu nữa, cuộc hòa đàm Pari sẽ kết thúc.

Đi đêm với Bắc Kinh, Kissinger đe dọa Bắc VN qua đại sứ TQ:

“Đàm phán đã đến lúc có hậu quả nghiêm trọng: Bắc VN đòi Mỹ hoặc trở lại hiệp định cũ, hoặc nhận một hiệp định xấu hơn. Mỹ không thể chấp nhận cả hai điều kiện đó. Nếu Bắc VN cứ giữ lập trường đó thì đàm phán đứt quãng và Mỹ sẽ có mọi hành động bảo vệ nguyên tắc của mình”.

Cuộc ném bom Giáng sinh là nỗ lực cuối cùng của Hoa Kỳ trong cuộc chiến VN. Nixon và Kissinger tính toán, nước cờ này vừa làm hài lòng Nam VN, vừa gây sức ép tối đa lên Bắc VN. Dĩ nhiên, đàm phán bị cắt đứt.

Kissinger yêu cầu TQ khích lệ Bắc VN trở lại đàm phán để giúp giải quyết tình hình căng thẳng. TQ bèn lên tiếng chỉ trích cuộc ném bom Giáng sinh, nhưng Kissinger nhận thấy sự chỉ trích là “ôn hòa”. Ngày 6.1.1973, Lê Đức Thọ trở lại Pari và ba tuần sau đó, Hiệp định về việc chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở VN được bốn bên chính thức ký kết tại Pari. Kissinger và Lê Đức Thọ cùng được giải Nobel về hòa bình.

Kissinger phát hiện, người chế ngự chính sách ngoại giao của TQ là Mao chứ không phải Chu Ân Lai. Chu vẫn là người thừa hành và về mặt này, phải nói ông ta tỏ ra rất xuất sắc.

Kissinger nói với các cố vấn của Chu: Thủ tướng của các ngài nói tôi là người duy nhất có thể phát biểu trong 30 phút chỉ toàn là những lời trống rỗng. Tôi không giận Thủ tướng, nhưng ông ấy đã tiết lộ bí mật về tôi !?

Tháng 10.1975, Kissinger đã có một cuộc nói chuyên dài với Mao tại Trung Nam Hải, có mặt Đặng Tiểu Bình.

Mao tán dương Kissinger:

- Ngài quá bận.

Kissinger:

- Ngài cho rằng hành trình của tôi dài quá hay sao?

Mao:

- Tôi nói ngài quá bận, nếu không bận như vậy, xem ra ngài không phát huy được tác dụng. Ngài không thể không bận. Khi mưa gió tới thì con chim én luôn bận rộn.

Kissinger thán phục Mao:

- Muốn hoàn toàn lĩnh hội hàm ý sâu sắc câu nói này của Chủ tịch, tôi phải mất vài ngày.

Mao tiếp:

- Thế giới này không yên tĩnh. Một cơn bão tố, mưa gió sẽ ập tới. Khi mưa gió tới thì con chim én luôn bận rộn.

Kissinger không vừa:

- Đúng vậy, song tôi hy vọng tác động của tôi đối với bão tố phải lớn hơn so với tác động của chim én đối với mưa gió.

Mao:

- Cho mưa gió đến chậm lại là có khả năng, nhưng muốn ngăn chặn nó là khó khăn.

Kissinger:

- Song khi bão ập đến, liệu có tìm được một tình thế tốt nhất để đối phó với bão hay không là điều rất quan trọng. Chúng tôi tán đồng quan điểm của ngài cho rằng mưa gió sắp tới hoặc có thể sẽ tới, chúng ta cố gắng điều chỉnh bản thân trong tình thế tốt nhất, song không phải né tránh mà là chiến thắng nó.

“Mưa gió” và “bão tố” đã tới – có thể thấy điều đó qua sự kiện HD-981 của TQ. Và không ai khác, chính các nhà lãnh đạo thế hệ thứ năm của TQ đem nó tới. Giờ đây, vấn đề quan trọng đối với VN – như Kissinger nói, “không phải né tránh mà là chiến thắng nó”.

Tại Bắc Kinh, Kissinger gặp những đối thủ đáng gờm như Mao, Chu, Đặng. Mao thường thăm dò Kissinger khả năng Liên Xô tấn công TQ. Mao nói, Liên Xô tập trung một triệu quân ở biên giới Trung – Xô là chưa đủ cho một cuộc tấn công, họ phải có thêm một triệu quân nữa. “Chúng tôi có thể điều họ đi đâu, đến đâu. Họ muốn vào lưu vực Hoàng Hà ư? Tốt, tốt lắm. Còn họ muốn vào sâu lưu vực Trường Giang? Cũng không tồi”. “Nhưng nếu họ chỉ cho máy bay đến ném bom thì sao” – Kissinger hỏi. “Làm gì ư? Có lẽ ngài phải lập một hội đồng để nghiên cứu vấn đề này. Chúng tôi là nước XHCN, Liên Xô cũng XHCN, thành ra CNXH đánh CNXH” – Mao nói.

Kissinger có khuynh hướng ưu ái TQ. Ông ta ca ngợi cả lãnh đạo TQ đương nhiệm: “Tôi mới chỉ gặp Chủ tịch Tập Cận Bình một vài lần, nhưng tôi đã rất ấn tượng bởi quyết tâm và sự can đảm của ông ấy. Ban lãnh đạo mới đã bắt đầu tiến hành một loạt cải cách. Những cuộc cải cách này có thể không diễn ra một cách êm ả, nhưng tôi tin rằng ông ấy có ý chí và khả năng để vượt qua những vấn đề đó”.

Nhưng, chúng ta khó có thể tán thành đánh giá ấy của Kissinger về Tập – chắc rằng, vụ HD-981 và các sự kiện trong tương lai sẽ nhanh chóng trả lời. Thử hỏi, “quyết tâm” và “sự can đảm” của TQ gần đây – dưới sự lãnh đạo của Tập, có được thế giới tôn trọng hay không? Có nhận được sự ủng hộ của thế giới hay không?

Chơi con bài TQ là một trong những thành công ngoại giao lớn nhất của Kissinger. Nền ngoại giao mà ông ta tiến hành đầy ấn tượng. Kissinger sử dụng những mánh khóe ngoại giao lắt léo với ngôn ngữ hoa mỹ, tinh tế, trí tuệ, pha chút tự phụ nhưng làm đối phương vì nể. Cho dù có ưu ái TQ, nó vẫn khác xa nền ngoại giao “pháo hạm”, “đổi trắng thay đen”, “biến không thành có”, “trơ tráo” – dựa trên thứ chính trị cường quyền đang phơi ra trước thế giới của TQ. Có lẽ, một nhà ngoại giao xuất chúng, lừng danh như Kissinger cũng khó mà lý giải hiện tượng “quái gở”đó? Ta hãy chờ xem.
Lê Mai

Nguyễn Hưng Quốc - Văn học và chính trị

Mấy năm gần đây, trên blog của tôi trên đài VOA, cũng như mấy tháng gần đây, trên facebook, tôi hay viết về chính trị. Một số bạn bè hỏi: Tại sao?

Trước hết, cần khẳng định rõ ràng là tôi hoàn toàn không có tham vọng gì về chính trị, tuyệt đối không dính líu gì đến các sinh hoạt chính trị. Sau nữa, cũng cần khẳng định tiếp: Tôi viết với tư cách một trí thức muốn dùng kiến thức và khả năng nhận thức để mổ xẻ những ung nhọt của đất nước; tôi viết với tư cách một nạn nhân và một chứng nhân để ghi lại những kinh nghiệm và cảm nghiệm của mình; tôi viết để giải tỏa những u uẩn và u uất trong lòng; tôi viết để, may ra, gặp được những người đồng cảm và đồng điệu để những bận tâm đau đáu của mình không thành lẻ loi. Liên quan đến đất nước, nhất là một đất nước lớn có cả gần một trăm triệu dân, nghịch lý và phi lý nhất là cảm giác lẻ loi.

Ngoài những lý do vừa kể, có thể còn nhiều lý do khác nữa. Nhưng thôi, chuyện đó cũng chả có gì quan trọng. Điều khiến tôi loay hoay nghĩ ngợi nhiều hơn, thời gian gần đây, là mối quan hệ giữa văn học và chính trị.


Dĩ nhiên, đó là một đề tài cũ mèm. Cách đây hơn 2500 năm, ở Hy Lạp, Plato đã đặt ra vấn đề ấy khi đề nghị choàng lên cổ các nhà thơ một vòng hoa nguyệt quế rồi đuổi họ ra khỏi nước Cộng hòa Lý tưởng với lý do họ chỉ làm mọi người nhìn hiện thực một cách lệch lạc. Aristotle không đồng ý với thầy khi ông nhấn mạnh thơ ca có chức năng thanh tẩy cảm xúc và phản ánh hiện thực một cách sâu sắc và chính xác hơn cả lịch sử. Ở Trung Quốc, cũng thời gian ấy, Khổng Tử cho thơ có tác dụng giúp con người quan sát tinh tế, biết cảm xúc, biết đoàn kết, biết giận, biết oán, biết phẫn khích… nghĩa là, nói cách khác, có chức năng giáo dục và phục vụ chính trị tốt. Sau đó, suốt cả thời Trung đại, ở Tây phương, chủ nghĩa cổ điển chủ trương dùng văn học để giáo hóa con người; ở Trung Hoa và Việt Nam, người ta chủ trương văn chương là dùng để tải đạo mà cốt lõi của cái gọi là đạo ấy không có gì ngoài đạo trung và đạo hiếu, mà nói đến trung là nói đến chính trị, thậm chí, chữ hiếu trong quan niệm của Nho giáo cũng đẫm đầy màu sắc chính trị: có “tề gia” giỏi mới có thể “trị quốc” được.

Nhưng có lẽ không có lúc nào người ta lại bàn về quan hệ giữa văn học và chính trị nhiều như thời hiện đại. Có lẽ lý do chính gắn liền với sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản. Từ đầu thập niên 1930, ở Liên Xô, người ta đưa ra lý thuyết văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa với mấy nội dung chính: Một, văn học phản ánh hiện thực; hai, cách phản ánh hiện thực của văn học lệ thuộc vào lập trường giai cấp của tác giả; ba, khi phản ánh hiện thực như vậy, văn học tác động mạnh mẽ lên cách suy nghĩ và cách cảm xúc của quần chúng; bốn, với tác động như vậy, văn học có quan hệ chặt chẽ và không thể chối cãi được, với chính trị; năm, trong công cuộc vận động cách mạng, đảng Cộng sản nhất thiết phải nắm cho được công cụ văn học; sáu, để nắm văn học, các nhà tuyên huấn Cộng sản đưa ra khái niệm tính đảng: văn học phải tuân theo chỉ thị của đảng và phải phục vụ đảng, v.v…

Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa với những quan điểm một chiều và nông cạn như vậy chỉ phát triển ở các quốc gia Cộng sản tại Đông Âu và, khi du nhập vào Trung Quốc, bị Mao-hóa, trở thành giáo điều hơn nữa. Con đường du nhập của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa vào Việt Nam xuất phát từ hai nguồn: Một, qua các nhà văn Cộng sản của Pháp khi họ sang Liên Xô tham dự đại hội nhà văn vào năm 1934. Hai, khi chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, sách báo từ Pháp không được nhập cảng vào Việt Nam được nữa, người ta quay sang Trung Quốc, và từ Trung Quốc, người ta học được quan điểm của Mao Trạch Đông, đặc biệt trong bài nói chuyện tại Diên An vào năm 1942.

Mặc dù không bị chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa thuyết phục, nhưng giới cầm bút ở Tây phương vẫn không thoát khỏi ám ảnh về nó, do đó, mối quan hệ giữa văn học và chính trị trở thành một đề tài được nhiều người quan tâm phân tích. Có điều, dù bàn sâu đến mấy, vấn đề ấy vẫn không ngớt day dứt trong tâm trí của mọi người. Mỗi câu trả lời, may lắm, chỉ chính phục được một thế hệ. Đến thế hệ tiếp theo sau, với những mâu thuẫn mới và hoàn cảnh mới, người ta lại đặt ra câu hỏi ấy và lại loay hoay suy nghĩ, tìm kiếm câu trả lời.

Ở Việt Nam cũng vậy. Ngay sau năm 1975, Nguyễn Minh Châu đã từng thao thức với vấn đề ấy khi nhìn lại nền văn học về chiến tranh của Việt Nam, tuy nhiều về số lượng, nhưng lúc nào cũng còi cọc về chất lượng. Mấy năm sau, ông và Hoàng Ngọc Hiến lại đặt ra vấn đề ấy lần nữa; cuối cùng, thời đổi mới, ông lại đặt ra vấn đề ấy trong bài “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa”, trong đó, ông cho cái gọi là văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa thực chất chỉ là một nền văn học minh hoạ cho các chính sách hà khắc của chế độ, nền văn học của những người hèn, lúc nào cũng nơm nớp lo sợ đến độ sẵn sàng bẻ cong ngòi bút của mình, hoặc nếu không, cũng lạng lách, viết một câu trung (thực) lại kèm theo một câu nịnh.

Với giới cầm bút ở hải ngoại, nhiều người cũng hay trăn trở về quan hệ giữa văn học và chính trị. Lý do cũng dễ hiểu. Phần lớn giới cầm bút Việt Nam ở hải ngoại là những người tị nạn chính trị. Họ trốn khỏi Việt Nam cũng vì chính trị. Bản sắc của họ, với tư cách người tị nạn, cũng gắn liền với chính trị, chủ yếu chính trị của các nạn nhân vừa thua trận vừa bị đày đoạ trong các trại cải tạo. Trong suốt hơn một thập niên đầu, từ năm 1975 đến 1990, lúc chế độ Cộng sản sụp đổ ở Nga và Đông Âu, mảng văn học phản kháng, với những đề tài mất nước và cải tạo, nở rộ. Lúc ấy, người ta cho việc tố cáo tội ác của Cộng sản là việc đương nhiên và mặc nhiên. Không ai thấy có vấn đề gì cả.

Tuy nhiên, sau đó, khi cơn phẫn nộ và đau xót nguội dần, cảm hứng văn học trở thành đa dạng hơn, nhiều người quay lại với vấn đề quan hệ giữa văn học và chính trị. Không có cuộc tranh luận nào thật lớn nhưng những bàn cãi nho nhỏ quanh bàn nhậu hoặc trên một số diễn đàn thì có. Nhưng, cũng giống như mọi lần, trong lịch sử, không có một kết luận nào chung nhất để kết thúc các cuộc tranh luận ấy cả.

Theo tôi, nói đến quan hệ giữa văn học và chính trị, trước hết, cần phân biệt hai phạm trù: tác giả và tác phẩm. Hai khái niệm này không đồng nhất với nhau. Một tác giả tham gia trực tiếp vào các hoạt động chính trị không nhất thiết phải viết nhiều về chính trị. Trong văn học Việt Nam, có thể lấy trường hợp Nhất Linh làm ví dụ. Từ đầu thập niên 1940 trở đi, ông hoạt động chính trị rất sôi nổi, nhưng các tác phẩm ông viết lại rất ít màu sắc chính trị. Ngược lại, một người không gian gia chính trị có thể viết rất nhiều về chính trị. Như Võ Phiến, chẳng hạn. Bởi vậy, để tìm hiểu quan hệ giữa văn học và chính trị, có lẽ chúng ta chỉ tập trung vào tác phẩm hơn là tác giả.

Giới hạn trong phạm vi tác phẩm, tính chất chính trị có thể được nhìn từ ba khía cạnh khác nhau: trong tác phẩm (in the text), với tác phẩm (with the text) và qua tác phẩm (through the text).

Thứ nhất, bên trong tác phẩm, chủ yếu ở đề tài và nội dung tác phẩm. Ở phương diện này, không có gì mâu thuẫn giữa văn học và chính trị cả. Viết về chính trị cũng giống như viết về một cuộc tình, một cuộc đời, một số phận hay một kinh nghiệm nào đó. Nó có thể hay hoặc dở. Nhưng cái hay hoặc cái dở ở đây gắn liền với tài năng của tác giả hơn là bản thân đề tài.

Thư hai, tính chính trị thể hiện với tác phẩm, tức gắn liền với ý đồ của tác giả, nhằm tuyên truyền cho một lý tưởng chính trị nào đó mà tác giả tin tưởng hoặc phục vụ. Đây là điều các chế độ độc tài thường đòi hỏi ở người cầm bút. Nói cách khác, đó là thứ văn học có tính chất luận đề, nói theo ngôn ngữ của nhóm Tự lực văn đoàn trong thập niên 1930 hoặc văn học minh hoạ, nói theo ngôn ngữ của Nguyễn Minh Châu. Việc nhìn chính trị như một động cơ trong sáng tác này thường chỉ dẫn đến sự thất bại cho cả tác giả lẫn cho tác phẩm. Cuối thập niên 1950, ở Sài Gòn, trong cuốn Viết và đọc tiểu thuyết, Nhất Linh nhìn nhận tiểu thuyết luận đề mà ông là cổ suý và là một tác giả tiêu biểu nhất là một thất bại. Đọc lại, ông chỉ thấy đơn giản và nhạt nhẽo. Từ cuối thập niên 1970 đến giữa thập niên 1980, ở Việt Nam, cả Nguyễn Minh Châu lẫn Hoàng Kiến đều phê phán việc sử dụng văn học để phục vụ cho chính trị qua những tác phẩm minh hoạ như thế.

Thứ ba, tính chính trị thể hiện qua tác phẩm (through the text) tức ở những tác động của nó trong độc giả. Ở đây, chúng ta sẽ có hai trường hợp chính: Một, có khi tác giả viết với một động cơ chính trị rõ rệt nhưng ý nghĩa của nó, ở người đọc, lại có tính chất thuần thẩm mỹ; hai, ngược lại, có khi tác giả không có động cơ chính trị gì cả nhưng khi tác phẩm ra đời, nó lại có tác động chính trị mạnh mẽ lên người đọc, một cách tức thời hoặc nhiều thế hệ sau đó. Ví dụ, Truyện Kiều ra đời từ cuối thế kỷ 18 hoặc đầu thế kỳ 19, nhưng đến đầu thế kỷ 20 lại được nhìn như một tác phẩm đầy màu sắc chính trị: với Phạm Quỳnh, nó là nền tảng để xây dụng nền quốc văn và quốc học trong quá trình hiện đại hoá Việt Nam; với Ngô Đức Kế, nó lại là một tác phẩm cổ vũ cho sự thoát ly, quay lưng lại công cuộc đấu tranh giành độc lập. Tất cả những ý nghĩa và tác động này đều nằm ngoài ý đồ của chính tác giả.

Nói một cách tóm tắt, quan hệ giữa văn học và chính trị là một vấn đề phức tạp bao gồm nhiều khía cạnh khác nhau. Chỉ trừ việc sử dụng văn học như một công cụ chính trị, tất cả những khía cạnh khác đều bình thường, không hay và cũng không dở. Với tư cách một đề tài, chính trị cũng bình đẳng với các loại đề tài khác, hay hay dở nằm trong tầm nhìn và tài năng của tác giả. Còn ý nghĩa (significance) của tác phẩm đối với nhận thức chính trị của độc giả trong một thời điểm nào đó thì hoàn toàn nằm ngoài khả năng kiểm soát của tác giả.

* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.  ( VOA )

BRICS làm đảo lộn trật tự tài chính thế giới ?

Lãnh đạo 5 nước thành viên nhân kỳ thượng đỉnh BRICS tại Brazil - REUTERS /Ueslei Marcelino
Lãnh đạo 5 nước thành viên nhân kỳ thượng đỉnh BRICS tại Brazil – REUTERS /Ueslei Marcelino

Thanh Hà  -RFI

Tại thượng đỉnh BRICS 2014, nhóm 5 nước Brazil, Nga, Ấn Độ Trung Quốc và Nam Phi đưa ra hai quyết định quan trọng : thành lập Ngân hàng Phát triển Mới New Development Bank (NDB) và một quỹ dự trữ 100 tỷ đô la. Trung Quốc đóng góp hơn 40 % vào quỹ đó. Phải chăng BRICS đang sắp đặt lại trật tự tài chính thế giới ?
Ngân hàng NBD được lập ra với mục đích cấp vốn cho các nước nghèo đầu tư vào hạ tầng cơ sở. Thế còn chủ đích của quỹ dự trữ chung 100 tỷ đô la là nhằm can thiệp trong trường hợp khẩn cấp, để bảo vệ tỷ giá đơn vị tiền tệ của các nền kinh tế đang trỗi dậy.

Nước Nga của Tổng thống Putin đang bị cô lập vì khủng hoảng Ukraina đánh giá hai dự án nói trên là « một thách thức chống lại thế độc quyền của Mỹ trên bàn cờ tài chính quốc tế. Đối với Brazil thì sáng kiến của nhóm BRICS sẽ góp phần « cải tổ hệ thống tài chính của thế giới, vốn không được cân bằng và quá thuận lợi cho Tây phương ».
Bắc Kinh khéo léo hơn khi cho rằng, Ngân hàng Phát triển Mới NDB sẽ không cạnh tranh với Ngân Hàng Thế Giới hay Ngân Hàng Phát Triển Á Châu (ADB) mà sẽ đóng một vai trò « bổ sung » so với định chế tài chính có trụ sở ở Manila.
Cũng Trung Quốc trong một thông cáo lưu ý : WB và ADB chú trọng nhiều vào mục tiêu xóa đói giảm nghèo, trong lúc NDB của nhóm BRICS sẽ dồn nỗ lực giúp các nước nghèo đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Lại cũng Bắc Kinh đã kín đáo đưa ra nhận xét : một khi đi vào hoạt động, Ngân hàng Phát triển Mới sẽ không đòi hỏi nhiều trước khi cấp tín dụng cho các quốc gia cần được cấp vốn. Nói cách khác quyết định cho vay hay không của NDB sẽ không đi kèm theo các điều kiện như điều mà cả IMF lẫn WB đang làm.
Cúp bóng đá Thế giới 2014 vừa hạ màn, Tổng thống Brazil Dilma Rousseff đã chủ trì thượng đỉnh nhóm BRICS lần thứ 6. Tại Fortaleza, miền đông bắc Brazil, lãnh đạo 5 nước chính thức khai sinh New Development Bank (NDB) để giảm bớt lệ thuộc vào các cường quốc tài chính quốc tế. Đây là một sáng kiến đã được các bên nêu lên từ thượng đỉnh ở New Delhi năm 2012 với dụng ý hỗ trợ cho các nước « phương Nam » có vốn đầu tư, bớt lệ thuộc vào hai định chế tài chính đa quốc gia là Ngân Hàng Thế Giới và Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế.
NDB trên nguyên tắc chính thức hoạt động vào năm 2016. Trụ sở sẽ được đặt tại Thượng Hải. Ngân hàng này có số vốn hoạt động ban đầu là 50 tỷ đô la. Mỗi thành viên đóng góp 10 tỷ. Nhưng trong tương lai, vốn của Ngân hàng Phát triển mới có thể sẽ được tăng lên gấp đôi.
Sáng kiến thành lập một ngân hàng phát triển riêng cho những nước nghèo xuất phát từ việc các nước công nghiệp phát triển đã bơm quá nhiều tiền vào guồng máy kinh tế của họ để khắc phục hậu quả khủng hoảng tài chính 2008. Hiện tượng đó dẫn tới tình huống « dư thừa tiền mặt » trên thị trường, làm khuynh đảo nền kinh tế ở các quốc gia đang vươn lên.
Bên cạnh đó, nhóm BRICS chỉ trích tiến trình cải tổ quá chậm chạp của Ngân Hàng Thế Giới và Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế. Cả hai vẫn gần như do châu Âu và Mỹ độc quyền kiểm soát. Còn Ngân Hàng Phát Triển Á Châu ADB thì do Nhật Bản và Mỹ áp đảo. Hai quốc gia này đóng góp trên 30 % vốn cho ABD.
BRICS bao gồm 40 % dân số trên hành tinh, bảo đảm đến 25 % GDP toàn thế giới. Tổng kim ngạch trao đổi mậu dịch giữa 5 thành viên tăng 28 %, đạt 230 tỷ đô la trong năm 2012. Đây cũng là khu vực có tỷ lệ tăng trưởng tương đối hấp dẫn. Cho dù đang gặp khó khăn so với thời điểm đầu những năm 2000, GDP của Trung Quốc vẫn tăng 7,5 %, của Ấn Độ là trên dưới 5 %, của Nam Phi là khoảng 2 %. Yếu hơn một chút là Brazil với khoảng 1 %. Kém nhất là Nga.
Nhóm BRICS hiện đang làm chủ một khối dự trữ ngoại tệ 5.000 tỷ đô la và như vậy là có điều kiện để thành lập một ngân hàng riêng. Với trọng lượng kinh tế ngày càng lớn, nhóm này đòi hỏi phải có tiếng nói trên sân khấu kinh tế thế giới.
Trả lời trong chương trình phát thanh democracynow.org của Mỹ, ngày 17/07/2014, giải Nobel Kinh tế Joseph Stiglitz nêu ra 3 yếu tố khiến ông coi NDB là một sáng kiến hay của nhóm BRICS :
« Đây là một quyết định hết sức quan trọng, vì nhu cầu đầu tư của các quốc gia đang phát triển hiện rất lớn. Mỗi năm các nền kinh tế này cần đầu tư khoảng 2 tỷ đô la để phát triển hạ tầng cơ sở. Các định chế tài chính đang hiện hành không có đủ phương tiện để đáp ứng nhu cầu đó. Như vậy với Ngân hàng NDB những quốc gia nào cần đầu tư – nhất là các nước nghèo- sẽ dễ dàng được cấp tín dụng hơn. Những khoản tiền đó có thể được sử dụng vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng, hay đầu tư vào các dịch vụ xã hội, giúp các nước chậm tiến thích nghi với hiện tượng biến đổi khí hậu chẳng hạn.

Điểm thứ nhì là việc nhóm BRICS thành lập ngân hàng NDB phản ánh một sự thay đổi quan trọng về tương quan lực lượng cả trong lĩnh vực kinh tế lẫn chính trị. Nhóm BRICS ngày nay giàu hơn các nước phát triển ở vào thời kỳ Ngân Hàng Thế Giới và Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế được hình thành. Trong hơn 60 năm qua cục diện của thế giới đã thay đổi trong khi đó thì các định chế đa quốc gia truyền thống này vẫn không thích nghi được với những thay đổi đó.
Tôi đơn cử một thí dụ cụ thể là nhóm G 20 đã thảo luận và đồng ý cải tổ hệ thống vận hành của Ngân Hàng Thế Giới và IMF, cả hai đã được hình thành từ những năm 1944-45. Thế nhưng Hạ viện Mỹ thì lại không đồng ý cải tổ hai định chế đó. Vào thế kỷ XXI mà một số người vẫn chưa hiểu rằng lãnh đạo của IMF hay Ngân Hàng Thế Giới phải là những nhân vật được chọn vì khả năng của họ chứ không phải chì vì họ là người Mỹ. Trong bối cảnh đó, Ngân hàng Phát triển Mới NDB sẽ góp phần cân bằng hóa lại phần nào sự thiếu dân chủ đó trong các định chế tài chính đa quốc gia.
Yếu tố thứ ba nữa là Ngân hàng phát triển của nhóm BRICS sẽ tạo ra một sự năng động mới. Tôi hy vọng đây cũng sẽ là động lực thúc đẩy IMF và Ngân Hàng Thế Giới nhanh chóng tiến hành cải tổ. Nhưng điều quan trọng nhất không phải là ngân hàng NDB sẽ có đóng vai trò cạnh tranh với Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế và Ngân Hàng Thế Giới hay không, mà chủ yếu đây sẽ là một cơ quan cấp tín dụng cho những quốc gia cần vốn để phát triển, vì quyền lợi và để đáp ứng nhu cầu của các nền kinh tế chậm tiến ».
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là sự áp đảo của Trung Quốc trong định chế Ngân hàng Phát triển Mới sắp tới. Khi biết rằng Trung Quốc với 3 200 tỷ đô la dự trữ – nặng gấp 6 lần chiếc gối đô la của Nga và gần gấp 10 lần so với Ấn Độ- sẽ lấn át 4 thành viên còn lại trong nhóm BRICS.
Một số chuyên gia lo ngại, NDB sẽ là cửa ngõ để Bắc Kinh « đổ vào các nước nghèo những dự án đầu tư bừa bãi, gây tai hại cho môi trường và đời sống con người ». Về điểm này giáo sư Joseph Stiglitz không bi quan như vậy. Ngược lại ông cho rằng đây là điều hợp lý vì Trung Quốc có của, Brazil thì có nhiều kinh nghiệm :
« Trung Quốc đang có một khoản dự trữ ngoại tệ hơn 3000 tỷ đô la. Bắc Kinh cần sử dụng số tiền đó vào những chuyện khác, chứ không chỉ để mua công trái phiếu của Mỹ. Trong khi đó thì bản thân Trung Quốc cũng như nhiều nước đang phát triển khác trên thế giới, đang thực sự cần vốn để nâng cấp cơ sở hạ tầng, cần có phương tiện tài chính để đáp ứng một số nhu cầu cơ bản về phương diện xã hội.

Còn đối với Brazil, không mấy ai biết rằng quốc gia này đã có một ngân hàng phát triển BNDES với khả năng hoạt động lớn không thua gì Ngân Hàng Thế Giới. Ngân hàng này đã hoạt động rất hiệu quả. Điều đó cho thấy Brazil hoàn toàn đủ kinh nghiệm để đóng góp vào Ngân hàng Phát triển Mới, NDB ».
Về câu hỏi cụ thể đâu là khác biệt giữa ngân hàng NDB với những ngân hàng phát triển khác ở những nước phương Tây, giải Nobel Kinh tế và cũng là cựu kinh tế trưởng của Ngân Hàng Thế Giới, Joseph Stiglitz cho rằng chưa thể trả lời một cách cụ thể vì Ngân hàng Phát triển của nhóm BRICS sẽ chỉ bắt đầu hoạt động vào năm 2016 nhưng ông nhấn mạnh đến quyết tâm hợp tác của 5 nền kinh tế thường có những lợi ích mâu thuẫn với nhau :
« Còn quá sớm để trả lời câu hỏi này. Ngân hàng Phát triển Mới chưa thực sự đi vào hoạt động. Dự án này đã được các bên đề cập tới từ ba năm nay. Điểm đáng khích lệ là 5 nền kinh tế đang trỗi dậy của nhóm BRICS đã vượt lên trên các bất đồng về những quyền lợi riêng để lập ra một ngân hàng phát triển chung. Họ có thể hợp tác với nhau một cách có hiệu quả. Thậm chí, còn hiệu quả hơn so với những gì mà các quốc gia phát triển đang làm. »
« Vượt lên trên những bất đồng » như giáo sư Stiglitz vừa nói đối với nhóm BRICS không phải là chuyện dễ nhưng đây là một tín hiệu mạnh mà 5 nền kinh tế đang trỗi dậy muốn gửi đến cộng đồng quốc tế như phân tích của kinh tế trưởng Cơ quan bảo hiểm ngoại thương Pháp COFACE, Yves Zlotowski. Ngân hàng Phát triển Mới được lập ra trong bối cảnh chính bản thân 5 nước thành viên nhóm này đang đứng trước nhiều thách thức :
« Kinh tế của nhóm này đang chựng lại chủ yếu là do các vấn đề cơ cấu. Đương nhiên là những khó khăn kinh tế của khu vực đồng euro đã tác động dây chuyền đến các nền kinh tế đang trỗi dậy, đặc biệt là qua ngả giao thương. Nhưng bản thân nhosm BRICS cũng đang phải đương đầu với nhiều vấn đề nội bộ, đặc biệt là về cơ sở hạ tầng. Ấn Độ, Brazil hay Nam Phi thì bị thiếu điện và đó là trở lực đối với khu vực sản xuất của các nền kinh tế này.

Vấn đề thứ nhì liên quan đến môi trường làm ăn buôn bán : Nga, Brazil và Ấn Độ bị coi là những quốc gia bị tham nhũng lũng đoạn. Điều này làm nản lòng giới đầu tư. Cuối cùng, vấn đề chính đối với nhóm BRICS là khối nằng thực sự thiếu một nguồn lao động có tay nghề cao ».
Vậy đâu là lợi ích chung của BRICS ? Kinh tế trưởng COFACE trả lời :
« Lợi ích chung của các thành viên trong nhóm BRICS chủ yếu xoay quanh vấn đề đầu tư. Các nước này muốn lôi cuốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, và muốn tránh để tư bản ồ ạt rút đi như kịch bản đã xảy ra khi Mỹ tăng lãi suất ngân hàng. BRICS lập ra quỹ dự trữ chung để bảo vệ đơn vị tiền tệ của chính họ. Đây là một phương tiện để trấn an các nhà đầu tư trước những rủi ro về hối đoái và nhất là để chứng minh rằng các nền kinh tế đang lên có khả năng hợp tác với nhau. Họ có thể vượt lên các bất đồng để đổi lấy sự tin tưởng của các nhà đầu tư quốc tế ».
Trên thực tế, nhóm BRICS lợi dụng thời cơ để mở rộng tầm ảnh hưởng. Trước sáng kiến ở New Delhi năm 2012, với Tổ chức Thượng Hải năm 1996, Bắc Kinh và Matxcơva đã nghĩ tới việc hợp tác để làm đối trọng với sự độc quyền của Mỹ trên sân khấu tài chính quốc tế.
Từng bước Trung Quốc và Nga đã lôi kéo thêm Ấn Độ, Brazil, rồi Nam Phi. Mục tiêu của nhóm BRICS là để giảm bớt mức độ lệ thuộc vào đồng đô la.
Câu hỏi đặt ra là liệu trong tương lai các nước đang phát triển có chịu thuần phục Trung Quốc hay không bởi vì đương nhiên là Ngân hàng Phát triển Mới sẽ được đặt dưới trướng của Bắc Kinh.
Giáo sư Jean Pierre Lehmann chuyên gia về kinh tế và chính trị quốc tế tại trường thương mại Lausanne- Thụy Sĩ cho rằng, bản thân 5 thành viên BRICS luôn thiếu một sự gắn bó keo sơn. Không thiếu những mâu thuẫn giữa 5 nền kinh tế đang lên này : chỉ riêng trong lĩnh vực thương mại Brazil, Nga, Ấn Độ, Nam Phi và Trung Quốc vừa là những bạn hàng vừa là những nguồn cạnh tranh của lẫn nhau. Chưa kể tới những hiềm khích lịch sử hay tranh chấp lãnh thổ giữa ba nước lớn trong khối này như Nga, Trung Quốc và Ấn Độ.
 

Ngân Hàng Phát Triển BRICS

Ngân Hàng Phát Triển BRICS

Nguyễn xuân Nghĩa – Nguoiviet
Thêm một con ngựa chiến của Trung Quốc, nhưng là ngựa gỗ
Bị chìm trong các biến cố chính trị là một sáng kiến xây dựng kinh tế ít được ai ngó ngàng. Bài viết này cố giải quyết sự bất công ấy…
Biến cố chính trị là vụ thảm sát MH17: chiều ngày 17 phi vụ số 17 của hàng không Malaysia từ Amsterdam bay tới Kualar Lumpur bị hỏa tiễn bắn hạ tại miền Ðông của Ukraine khiến 298 thường dân thiệt mạng. Biến cố mở rộng cuộc khủng hoảng Ukraine với hậu quả có khi tương tự như vụ ám sát Ðại Công Tước Franz Ferdinand khiến thế chiến bùng nổ đúng trăm năm trước. Cùng với vụ MH17 là xung đột trên Dải Gaza, khi quân đội Israel vào truy lùng khủng bố và tiêu diệt kho vũ khí của lực lượng Hamas và các nhóm dân quân Hồi Giáo quá khích. Loại biến cố ấy khiến dư luận ít chú ý đến chuyến công du của hai lãnh tụ Liên bang Nga và Trung Quốc.

Sau khi ghé Cuba, Tổng Thống Vladimir Putin tham dự ba ngày thượng đỉnh BRICS từ 15 đến 17 tại thành phố Fortaleza của Brazil rồi trở về. Do sự trùng hợp mới có tin đồn nhảm, có lẽ phát ra từ Moscow, rằng phi vụ trở về của Putin bị ai đó có ý đồ tấn công mà lại… bắn lầm vào máy bay dân sự Malaysia! Phần mình, Chủ Tịch Tập Cận Bình dự thượng đỉnh BRICS rồi lần lượt thăm ba nước Trung Nam Mỹ là Argentina, Venezuela và Cuba. Chúng ta tiến dần vào chuyện kinh tế.
Rồi mới nói đến chính trị!
BRICS là chữ viết tắt của năm quốc gia là Brazil, Nga, Ấn Ðộ, Trung Quốc và Nam Phi. Khởi đi từ sáng kiến năm 2001 của kinh tế gia Jim O’Neill người Anh, thuộc tổ hợp đầu tư Goldman Sachs của Mỹ, để ca ngợi triển vọng của các nền kinh tế “đang lên” như Brazil, Nga, Ấn, Tàu (BRIC). Lãnh tụ bốn nước này tưởng thật và mời thêm Nam Phi gia nhập thành một câu lạc bộ.
Hàng năm, các lãnh tụ câu lạc bộ này vẫn họp thượng đỉnh với chủ đích là mở rộng không gian hành động để đẩy lui ảnh hưởng của các nước Tây phương. Lần vừa rồi là thượng đỉnh thứ sáu.
Tại Brazil, xưa kia ta gọi là Ba Tây, nhóm BRICS hoàn tất hai sáng kiến có mục tiêu xây dựng kinh tế. Thứ nhất là thành lập một ngân hàng phát triển, gọi là BRICS Development Bank mà người viết xin ghi tắt là BDB. Thứ hai là chung góp ngoại tệ vào một quỹ cấp cứu tài chánh gọi là Contingency Reserve Arrangement, mà người viết xin ghi tắt là CRA.
Sau khi bàn tính từ nhiều năm, tuần qua nhóm BRICS tiến tới việc lập ra Ngân Hàng Phát Triển BDB với số vốn sơ khởi là 50 tỷ Mỹ kim. Mỗi nước chung 10 tỷ để đến năm 2016 bắt đầu cho các nước nghèo vay tiền thực hiện dự án phát triển. Triển vọng kế tiếp là tăng vốn gấp đôi để nội năm năm tới, BDB có trăm tỷ đô la viện trợ cho các nước đang phát triển tương tự như Ngân Hàng Thế Giới World Bank. Sáng kiến kia là lập ra quỹ CRA có trăm tỷ để xứ nào mắc nạn hối đoái thì được vay tạm, hầu khỏi vướng vào những điều kiện khắt khe của Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF.
Hãy nói về kinh tế trước.
Thế Chiến II chưa kết thúc, các nước Tây phương chủ yếu là Mỹ và Anh đã sớm rút kinh nghiệm về một nguyên nhân xa của thế chiến là vụ Tổng Khủng Hoảng Kinh Tế 1929-1933 và tìm giải pháp ngăn ngừa về kinh tế tài chánh. Họ lập ra một ngân hàng cấp cứu gọi là Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế IMF, và một quỹ viện trợ gọi là Ngân Hàng Tái Thiết và Phát Triển Quốc Tế, tiền thân của Ngân Hàng Thế Giới. Trong cấu trúc tài chánh quốc tế ấy, gọi là Bretton Woods, siêu cường giàu nhất và chi tiền nhiều nhất chính là Hoa Kỳ, với phép phân công lao động là Mỹ chỉ định người lãnh đạo Ngân Hàng Thế Giới và Âu Châu để cử người điều hành IMF.
Quy tắc kinh tế là viện trợ và cứu trợ theo tinh thần tự do thị trường và phát triển tư doanh trong kỷ cương ngân sách. Về viện trợ thì đấy là cho vay dài hạn với lãi suất rẻ, thời gian ân hạn cao (trả tiền lời, chưa trả vốn) nên có tỷ lệ tặng dữ (grant element) đáng kể so với nguồn tài trợ của thị trường tư nhân. Về cứu trợ khẩn cấp thì cho các nước mắc nạn vay ngoại tệ giải quyết thất quân bình chi phó nhất thời, với điều kiện là cải cách cơ chế, quân bình ngân sách và phát huy tự do mậu dịch để khỏi tái diễn khủng hoảng.
Về chính trị, những quy tắc đó thực tế quảng bá cho tư bản chủ nghĩa và dân chủ chính trị.
Sau đấy, các nước mở thêm nhiều ngân hàng phát triển cấp vùng nên tới nay, số định chế viện trợ phát triển lên tới hơn nửa tá: Ngân Hàng Ðầu Tư Âu Châu có 331 tỷ đô la, Ngân Hàng Thế Giới 223 tỷ, Ngân Hàng Phát Triển Á Châu ADB 163 tỷ, Ngân Hàng Phát Triển Trung-Nam Mỹ (Inter-American Development Bank) 129 tỷ, Ngân Hàng Phát Triển Phi Châu 103 tỷ, v.v…
Với 50 tỷ, ngân hàng BDB của nhóm BRICS sẽ lớn hơn Ngân Hàng Phát Triển Hồi Giáo chỉ có 47 tỷ! Ðấy là về kích thước tung hoành qua viện trợ. Còn về khả năng kỹ thuật của các dự án phát triển thì ta có thể nhìn vào thành tích xây dựng loại dự án mềm như tàu hủ của Trung Quốc.
Ðáng chú ý hơn ngân hàng phát triển BDB là sáng kiến cấp cứu tài chánh CRA.
Năm nước trong nhóm BRICS lập ra quỹ dự trữ trăm tỷ để xứ nào nhất thời cần ngoại tệ thì có thể trích xuất mà khỏi mắc vào thòng lọng của IMF. Khác với ngân hàng phát triển của BRICS là năm nước chung vốn bằng nhau, quỹ cấp cứu tài chánh thì gọi vốn theo sức nặng kinh tế từng nước. Vì vậy, phần chung góp của Trung Quốc là 41 tỷ, nôm na là 41%.
Mỹ mang tiếng khuynh đảo tài chánh quốc tế với 17,69% phần hùn và 16,75% số phiếu của quỹ IMF – trước Nhật, Ðức, Pháp, Anh. Trung Quốc thì bày ra con ngựa chiến trăm tỷ với 41% của mình để bành trướng ảnh hưởng trong các nước đang phát triển và thay thế dần cơ chế tư bản và vai trò của Tây phương.
Khốn nỗi, đấy là thớt ngựa gỗ con con.
Vì so với sức nặng của Quỹ IMF có trong tay hơn 800 tỷ đô la để cấp cứu các nước theo quy cách được hội đồng thống đốc duyệt xét thì quỹ CRA của Bắc Kinh không chỉ có kích thước nhỏ hơn mà còn đang tìm ra đường đi nước bước, khi năm hội viên của BIRCS lại nhìn về năm hướng.
Không kể Nam Phi hiện diện cho ra màu ngũ sắc, hai nước Ấn Ðộ và Brazil có thể không vui với sức nặng của các Ngân Hàng Trung Ương Hoa Kỳ (Federal Board of Reserve) và Âu Châu (European Central Bank) qua biện pháp bơm tiền và hạ lãi suất. Nhưng chẳng vì vậy mà họ lại sát cánh với Trung Quốc, nhất là khi Bắc Kinh đòi nạp vốn vào ngân hàng phát triển BDB theo sức nặng kinh tế của từng nước. Tức là sẽ góp hơn phần trung bình là 20%, để có tiếng nói mạnh hơn.
Ngoài hai sáng kiến BDB và CRA với nhóm BRICS, Bắc Kinh còn chiêu dụ các nước Á Châu qua sáng kiến lập ra Ngân Hàng Ðầu Tư Hạ Tầng Châu Á (Asian Infrastructure Investment Bank) với số vốn trăm tỷ đô la. Mục tiêu là xuất cảng khả năng xây dựng dự án cầu đường cho tập đoàn nhà nước và giải trừ ảnh hưởng của Ngân Hàng Phát Triển Á Châu ADB, một định chế do Mỹ và Nhật lãnh đạo.
Tức là Trung Quốc dùng nhóm BRICS này như con ngựa chiến mà thôi.
Nhưng ngần ấy sáng kiến chói lọi của Bắc Kinh đều bị che mờ bởi giàn khoan ngoài Ðông Hải. Ngoại trừ trường hợp các nước Phi Châu hay Nam Mỹ ở xa, chưa chắc là các nước Châu Á đã dễ trao duyên lầm tướng cướp khi thấy Trung Quốc đề nghị những giải pháp xây dựng đó.
Phép hối lộ có nói đến quy luật “đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn.” Bắc Kinh chưa đi tiền đã vội cắm giàn khoan!

Nguyên Thọ – Chiến dịch “báo cáo” và thực trạng quyền tự do ngôn luận của Việt Nam

Nguyên Thọ, cộng tác viên Dân Luận

Tác giả gửi tới Dân Luận

Trang cá nhân facebook của những người đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền Việt Nam bị đóng tạm thời do những “báo cáo” của các “báo cáo viên” tới nhà mạng facebook. Một số trang FB đã mở lại, nhưng còn một số vẫn chưa lấy lại được quyền kiểm soát. Facebook Lã Việt Dũng là trường hợp nạn nhân mới nhất của chiến dịch này!

facebook-front_179_2232542b.jpg

Chiến dịch báo cáo

Những nhà hoạt động ở Việt Nam ngày nay chủ yếu dùng mạng xã hội facebook để truyền đạt suy nghĩ của mình về những vấn đề nhức nhối của đất nước đến với người dân. Trước đây là blog Yahoo 360, nhưng khi đến mức không gian blog này không thể kiểm soát được, đã bị tác động của bàn tay nhám nhúa nào đó bắt buộc dừng hoạt động. Người dùng í ới nhau “chuyển nhà”, và lo lắng tìm nhau trong những trang blog mới.
Điểm hạn chế của blog là tính cập nhật không thể nào nhanh và không kết nối nhiều người được. Facebook ra đời, phát triển và vào Việt Nam như một cứu cánh đối với các nhà hoạt động. Nó đáp ứng nhu cầu trò chuyện (chat) thay thế hiệu quả Yahoo, nó giống như một trang nhật ký có thể chia sẻ những tấm hình gia đình đến với nhiều người hơn; nó còn là một trang báo không bị kiểm duyệt mà mỗi cá nhân là những người làm báo.
Anh T, một nhà hoạt động nhân quyền ở Sài Gòn, công việc hàng ngày của anh là thức dậy vào lúc 6 giờ sáng, vệ sinh thân thể và ngồi vào máy. Anh đăng nhập vào facebook đầu tiên, dạo một vòng mạng xã hội này đến những trang cá nhân của những nhà hoạt động nổi tiếng và bắt đầu ghi chép. Những tin tức nóng hổi mà những người này cập nhật sẽ là các bài viết, bài nhận định mà anh sẽ gởi cho các trang web hoạt động về vấn đề nhân quyền.
Rồi một ngày anh mở máy, đăng nhập facebook và nhận ra rằng facebook đã đóng lại trang cá nhân của những người bạn của anh, trang cá nhân có 5000 bạn, và trên 10000 người theo dõi! Anh lo lắng và gọi cho bạn bè thì nhận được câu trả lời là tài khoản FB của họ cũng bị đóng lại giống vậy!

Thuyết âm mưu

Theo thuyết âm mưu thì dĩ nhiên những nhân viên an ninh mạng, dư luận viên đứng đằng sau các vụ báo cáo này. Họ nắm quyền điều khiển những fanpage và kêu gọi lập ra những đội báo cáo (team report) lên đến hàng ngàn người mang những cái tên rất “kêu” như: Quân đoàn Z, Cộng đồng Isocial…
Đối tượng rất rõ ràng: những cá nhân có tư tưởng chống đối đảng và nhà nước, bài viết có trên 20 lượt thích (Like). Khi đã hẹn đúng giờ đủ quân số theo quy định, admin sẽ dẫn một đường link trang cá nhân lên nhóm, thành viên sẽ ào ạt báo cáo các trang này là “quấy rối”, dẫn đến việc Facebook đóng cửa trang cá nhân này.
Việc này không thể “bịt miệng” lâu những nhà đấu tranh, nhưng nó gây nên một sự hoang mang có thật cho những “dữ liệu” đã được xây dựng khá lâu. Từ hiện tượng này cho cái nhìn khá xám xịt cho tương lai Việt Nam.

“Đắng lòng”

Từ “Đắng lòng” được sử dụng khá thường xuyên hiện nay, như một sự châm biếm những phóng viên trên các tờ báo lá cải online, thường xuyên sử dụng từ này để câu “lượt xem” (view) cho các đề tài cướp, giết, hiếp. Nhưng người viết bài này thực sự “đắng lòng” khi nhìn thực trạng hiện nay của giới trẻ.
Lướt qua thông tin cá nhân của các “báo cáo viên” hầu hết đều là những người trẻ tuổi, họ còn là học sinh, sinh viên. Những người dễ dao động nhưng mang tâm lý thù hận “dân chủ Mỹ” do nền giáo dục, báo chí định hướng và tuyên truyền một chiều! Họ gọi dân chủ là “rân chủ” và những nhà hoạt động là “rận chủ”, đáng “chém, giết…”
Đã có tình trạng tự phát mang tính trả đũa sau những gì những các “báo cáo viên” này gây ra, một số trang cá nhân của những người được cho là có ý kiến trái chiều với giới dân chủ cũng đã bị đóng. Điển hình là các tài khoản của Võ Khánh Linh, Hoàng Thị Nhật Lệ, Quang Trần Nhật v.v… Kết quả là người Việt đang tự bịt miệng lẫn nhau và hủy hoại không gian tự do ngôn luận hiếm hoi đã và đang được hình thành trên Facebook.
“Người đánh ta một cái, ta phản đòn hai cái!” Tình trạng này liệu còn kéo dài đến bao giờ?

Quan hệ chiến lược Việt-Mỹ lớn hơn sẽ làm đảo lộn tham vọng Trung Quốc

Một tái lập quan hệ chiến lược rộng lớn hơn giữa Mỹ với Việt Nam chắc chắn sẽ làm đảo lộn (tham vọng của) Trung Quốc thiết lập trật tự an ninh mới ở châu Á.
Giáo sư Carl Thayer, ảnh: Talk Vietnam
The Diplomat ngày 22/7 dẫn phân tích của giáo sư Carl Thayer cho rằng có thể Trung Quốc đã "đánh đòn phủ đầu" về mặt ngoại giao khi dịch chuyển giàn khoan 981 khỏi "vùng biển tranh chấp" với Việt Nam, mà thực tế là vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam và hoàn toàn không có tranh chấp - PV.

Cuộc khủng hoảng 981 đã tạo ra khoảng cách giữa Việt Nam và Trung Quốc, đối với Việt Nam việc Bắc Kinh dịch chuyển giàn khoan 981 sớm hơn thời hạn tuyên bố 1 tháng vào thời điểm này là động thái xuống thang của Bắc Kinh để sửa chữa quan hệ đang xấu đi với láng giềng.

Theo truyền thống, quan hệ Việt - Trung được giữ tương đối ổn định bởi mối quan hệ giữa 2 đảng cầm quyền, còn quan hệ Việt - Mỹ đã dần dần được mở rộng sau 19 năm thiết lập. Cuộc khủng hoảng 981 là khúc dạo đầu quan trọng đối với Washington trong khu vực Đông Nam Á mà nếu biết tận dụng, Hoa Kỳ sẽ có thêm nhiều bạn bè ở châu Á - Thái Bình Dương.
Ông Carl Thayer nhấn mạnh, dư luận Việt Nam vừa qua sau khủng hoảng giàn khoan 981 ủng hộ mối quan hệ gần gũi hơn giữa Việt Nam với Hoa Kỳ hơn là với Trung Quốc. Dù hoạt động của các doanh nghiệp nước ngoài đã được khôi phục như thương lệ khi Bắc Kinh có thành công nhất định trong các hoạt động chắp vá ngoại giao với láng giềng, sẽ khong dễ dàng xóa bỏ mối ngoài nghi chiến lược đối với Trung Quốc từ phía người Việt Nam.

Giáo sư người Úc cho rằng, nhiều lãnh đạo cao cấp của Đảng xem lợi ích quốc gia, dân tộc quan trọng hơn tất cả. Họ coi hệ thống các mối quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện với Trung Quốc đang trong trạng thái bị (Bắc Kinh) phá hủy. Trong khi đó một đối tác toàn diện như Hoa Kỳ đã làm nhiều hơn để hỗ trợ Việt Nam bảo vệ chủ quyền so với Nga vốn được liệt kê ở vị trí số 2 trong hệ thống phân cấp là một đối tác chiến lược toàn diện.

Tất cả điều này cho thấy khúc dạo vào thời điểm này nên đến từ phía Việt Nam. Không lâu trước khi xảy ra khủng hoảng giàn khoan 981, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã sử dụng đối thoại an ninh Shangri-la tại Singapore để kêu gọi một vai trò lớn hơn của Mỹ trong khu vực và điều hòa căng thẳng ở Biển Đông.

"Sẽ không có quốc gia nào trong khu vực phản đối sự tham gia chiến lược của các cường quốc ngoài khu vực nếu sự tham gia như vậy nhằm mục đích tăng cường hợp tác vì hòa bình, ổn định và phát triển. Chúng tôi đặc biệt chú trọng đến vai trò của một Trung Quốc đang mạnh lên và Hoa Kỳ, một sức mạnh ở Thái Bình Dương", phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Shangri-la được The Diplomat trích dẫn, nhấn mạnh tính hợp pháp ảnh hưởng của Mỹ ở Thái Bình Dương.
Ngoại trưởng Mỹ John Kerry và Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh.
Thực trạng hợp tác quân sự giữa Hoa Kỳ và Việt Nam cũng đang dần phát triển. Tàu Mỹ đã ghé thăm các căn cứ quân sự Việt Nam, trong đó có cảng Đà Nẵng và Cam Ranh. Mặc dù vẫn còn những rào cản trong quan hệ quân sự Việt - Mỹ như việc Hoa Kỳ duy trì lệnh cấm vận bán vũ khí sát thương cho Việt Nam, nhưng bên ngoài vấn đề quân sự vẫn còn rất nhiều lĩnh vực hợp tác.

Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) là một ví dụ, được xem như con đường rất hứa hẹn mà Việt Nam có thể giảm thiểu nguy cơ bị bỏ rơi bởi nền kinh tế Trung Quốc. TPP sẽ cung cấp cho Việt Nam cơ hội tiếp cận thương mại ưu đãi với 11 quốc gia khác dọc theo bờ Thái Bình Dương, đó là một lợi ích kinh tế có tiềm năng rất lớn.

Theo The Diplomat, Hoa Kỳ không nên chỉ đơn thuần nhằm vào việc chiếm được cảm tình của Việt Nam trước những hành động khiêu khích của Trung Quốc, thay vào đó cần phải chứng minh giá trị của họ đối với Việt Nam. Cách tốt nhất để làm điều này là giúp Việt Nam thoát khỏi sự phụ thuộc kinh tế vào Trung Quốc. TPP là một cách tuyệt vời để làm điều này.
 Tổng kim ngạch thương mại song phương Việt-Mỹ năm 2012 đạt mức trên 20 tỉ USD vào năm 2012, tăng 13 lần kể từ khi Hoa Kỳ mở rộng quy chế bình thường hóa thương mại với Việt nam vào năm 2001.

Một tái lập quan hệ chiến lược rộng lớn hơn giữa Mỹ với Việt Nam chắc chắn sẽ làm đảo lộn (tham vọng của) Trung Quốc thiết lập trật tự an ninh mới ở châu Á gạt Hoa Kỳ ra khỏi khu vực như ông Tập Cận Bình kêu gọi.

Ngoại trưởng John Kerry đã nói với Dương Khiết Trì trong cuộc Đối thoại Kinh tế chiến lược Mỹ-Trung gần đây rằng, Mỹ có kế hoạch duy trì quan hệ với một số đồng minh và đối tác trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, bất chấp mối nghi ngại từ Trung Quốc.

Trong khi đó tờ Thời báo Hoàn Cầu đã bôi nhọ Việt Nam đang "nhảy múa giữa khả năng liên minh với Mỹ và (cái gọi là) tình huynh đệ với Trung Quốc". Thời báo Hoàn Cầu cao giọng lên lớp rằng, sẽ không phải khôn ngoan nếu Việt Nam tham gia 1 liên minh với Hoa Kỳ với một sự "nhiệt tình bẩm sinh để thúc đẩy nền dân chủ phương Tây, ủng hộ các giá trị phương Tây như nhân quyền và tự do".

Thời báo Hoàn Cầu cho rằng, đối với Việt Nam 1 năm trước đây việc lựa chọn không hề dễ dàng so với sau khi xảy ra khủng hoảng giàn khoan 981 với Trung Quốc. Tờ báo này thậm chí tuyên truyền xuyên tạc rằng, câu nói "quá gần Trung Quốc thì mất nước, quá thân Mỹ thì mất Đảng" để dọa dẫm, lừa phỉnh Việt Nam rằng sẽ "mất nhiều hơn được" khi "ngả theo" Hoa Kỳ.

Việt Nam là một nước độc lập có chủ quyền, thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa đa dạng hóa các mối quan hệ trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Do đó dù có là nước láng giềng lớn bên cạnh, nhưng một khi Trung Quốc nhăm nhe xâm phạm chủ quyền của Việt Nam thì người Việt quyết đứng dậy để bảo vệ chủ quyền, quyền và lợi ích hợp pháp của mình bằng các biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế chứ không phải "ngả" hay "theo" bên nào chống lại bên nào - PV
  Hồng Thủy
( Giáo Dục )

NÊN CHĂNG, HẬN THÙ TRÊN MÀU CỜ?

Nhipcauthegioi

Thu Nga (Ba Lan)
(NCTG) “Để chống Trung Quốc, chúng ta cần một thông điệp rõ ràng. Bây giờ không phải là lúc tranh chấp ai sai ai đúng, màu nào là màu phải chọn. Hãy để cho mỗi người đều có quyền lựa chọn khi thời điểm lịch sử đến. Chỉ có đoàn kết mới giúp chúng ta đưa dân tộc Việt ngẩng cao đầu” – ý kiến của Thu Nga từ Warszawa.

Tác giả trong cuộc biểu tình thứ hai phản đối Trung Quốc tại thủ đô Warszawa

Warszawa là nơi đã tổ chức hai cuộc biểu tình của người Việt nhằm kêu gọi sự ủng hộ của chính quyền Ba Lan, cộng đồng Châu Âu và dư luận quốc tế, phản đối sự bành trướng bá quyền, xâm phạm chủ quyền lãnh hải Việt Nam, chà đạp lên luật pháp quốc tế của nhà cầm quyền Trung Quốc.Với tiêu chí không đảng phái chính trị, tất cả đều tham gia với tư cách là một người mang dòng máu Việt, nhóm tổ chức tình nguyện đã kết nối được những trái tim yêu nước, cùng nhau đứng trong đội ngũ đấu tranh lên án âm mưu muốn nuốt trọn Biển Đông của Trung Quốc. Đặc biệt, cuộc biểu tình lần hai, tuy số người tham dự ít hơn hẳn so với lần đầu, nhưng đã bước đầu gây được chú ý của dư luận Ba Lan. Tuy nhiên, hai cuộc biểu tình nói trên cũng làm dấy lên rất nhiều tranh cãi về việc dùng màu cờ nào trong biểu tình.
Như một nhận định trên tờ “Đàn Chim Việt”, cộng đồng người Việt ở Ba Lan chủ yếu xuất thân từ miền Bắc, ra đi không vì lý do chính trị, mà vì lý do kinh tế. Đa số họ không dự định đi mãi mãi, mà luôn đau đáu trở về quê hương sau khi đã gom góp được số vốn liếng cần thiết, khi điều kiện kinh tế đã được đáp ứng. Gia đình họ tộc của họ hầu hết vẫn sinh sống ở Việt Nam. Đa số họ không có lý do gì để căm ghét chế độ cộng sản.

Đoàn biểu tình tập trung trên Thành Cổ Warszawa
Cá nhân tôi cũng thuộc lớp người được sinh ra, lớn lên dưới chế độ cộng sản và màu cờ đỏ sao vàng. Tôi rời Việt Nam khi vừa tốt nghiệp Đại học, tới giờ đã có gần hai chục năm sinh sống ở Ba Lan, một đất nước đã vươn lên mạnh mẽ từ quá khứ đau thương, trở thành một quốc gia thịnh vượng.
Lần vừa rồi, tôi đi biểu tình với lá cờ xanh EU và quốc kỳ Ba Lan hai màu trắng – đỏ trên tay. Lá cờ vàng ba sọc đỏ với một bộ phận người Việt, nhất là cộng đồng Việt ở Ba Lan và một số nước XHCN (cũ) tại vùng Đông Âu rất xa lạ, gần như không được biết đến, đã không hề có mặt trong hai lần biểu tình. Chỉ có rất nhiều bà con cầm cờ đỏ, với họ lá cờ đó là biểu trưng cho Tổ quốc Việt Nam.
Khi báo “Đàn Chim Việt” hai lần đưa tin về cuộc biểu tình ở Warszawa là hai lần Ban biên tập và tác giả bài viết hứng chịu chỉ trích của phe “cờ vàng”. Đó là những lời chỉ trích đầy hằn học, mang tính thóa mạ, phỉ báng cao độ… Họ rủa xả những người cầm cờ đỏ là ngu muội, u mê… Những người ủng hộ cầm cờ đỏ (hoặc theo họ là “làm ngơ”) bị coi là là phản bội, “thay màu”… Lá cờ đỏ được họ gọi là “cờ máu” với thái độ khinh miệt…

Đoàn biểu tình (lần hai) trước Dinh Tổng thống Ba Lan
Nếu nhiều người miền Nam phải bỏ nước ra đi trong đau thương, hận thù sâu sắc với Cộng sản, gắn bó với lá cờ vàng ba sọc bao nhiêu, thiết nghĩ họ cũng nên hiểu một bộ phận đáng kể của cộng đồng Bắc Việt cũng gắn bó với lá cờ đỏ sao vàng bấy nhiêu. Đối với họ, lá cờ đỏ sao vàng không hẳn là lá cờ của chế độ cộng sản mà đơn thuần đó là lá cờ của Tổ quốc Việt Nam – trong nhận thức của họ từ bao năm nay rồi.
Với những người cầm cờ đỏ, đó là máu của cha ông thế hệ trước của họ đã đổ xuống để giành độc lập, tự do… Vấn đề nhận thức không phải ngày một ngày hai. Nó cần cả một quá trình dài, đấu tranh đau đớn cả về thể xác và tinh thần. Để thuyết phục người ta nghe theo, phải bằng những việc làm cụ thể, chứ không chỉ bằng lời nói, càng không phải bằng những thóa mạ, miệt thị, xúc phạm tình cảm của những người không cùng chính kiến.
Xét cho cùng, chế độ nào sau một quá trình không thanh lọc, cũng sẽ có nhiều rác cặn, cần loại bỏ. Nỗ lực của cộng đồng Việt ở Ba Lan không đáng phải nhận mũi dùi và sự chỉ trích từ những người tự coi là “chiến sĩ đấu tranh vì tự do dân chủ cho Việt Nam”. Họ không có mối hận thù giống bạn, không có nghĩa là họ ngu si hay u muội hơn bạn. Mà có khi, họ hạnh phúc hơn bạn đấy!

Trước tòa đại sứ Trung Quốc tại Ba Lan
Tôi hiện đã là một công dân Châu Âu “cờ xanh”, may mắn không phải mang trong tim sự hận thù đối với bất kỳ chế độ nào. Để chống Trung Quốc, chúng ta cần một thông điệp rõ ràng. Bây giờ không phải là lúc tranh chấp ai sai ai đúng, màu nào là màu phải chọn. Hãy để cho mỗi người đều có quyền lựa chọn khi thời điểm lịch sử đến. Hiện tại, chỉ có đoàn kết mới giúp chúng ta đưa dân tộc Việt ngẩng cao đầu.
Phe “cờ vàng” nếu đấu tranh vì mục đích chống Trung Quốc, xin hãy dẹp bỏ lòng hận thù và mối căm ghét những đồng bào mang cờ đỏ. Bởi trong huyết quản chúng ta đều chảy chung dòng máu Việt.
Bài và ảnh: Thu Nga, từ Warszawa (Ba Lan)
 

Mỹ, đồng minh và đối tác không khoanh tay đứng nhìn với Trung Quốc

 Trung Quốc ra sức phát triển hải quân nhưng Mỹ không ngại, nhưng lo ngại về tên lửa DF-21D, Nhật Bản và các nước Đông Nam Á đang hành động đáp trả TQ.
Tàu sân bay động cơ hạt nhân thế hệ mới USS Gerald R Ford Mỹ

Mạng tuần san "Thời đại" Mỹ ngày 17 tháng 7 có bài viết cho rằng, rất ít có gì có thể khiến người ta kính nể hơn tàu sân bay của Mỹ - tàu sân bay động cơ hạt nhân lớp 100.000 tấn, từ đường mớn nước trở lên cao như tòa nhà 20 tầng, đồng thời có thể trang bị gần 70 máy bay quân sự - có thể thực hiện mệnh lệnh quốc gia bất cứ lúc nào. Một chiếc tàu sân bay như vậy có thể giúp cho đồng minh yên tâm, đồng thời lại có thể ngăn chặn những kẻ gây rối trên toàn cầu.

Hơn nửa thế kỷ qua, những tàu sân bay này và thủy thủ trên tàu có thể tuần tra tự do trên biển. Hải quân Mỹ rõ ràng cho rằng trong tương lai họ cũng có thể như vậy: Hải quân Mỹ đang chế tạo 2 tàu sân bay mới, mỗi chiếc chi gần 15 tỷ USD. Tướng lĩnh hải quân thường gọi 1 chiếc tàu sân bay là "lãnh thổ chủ quyền Mỹ 4,5 mẫu Anh".

Nhưng, tính chất "(kẻ địch) không thể chiến thắng" của những vũ khí tác chiến mạnh mẽ này có lẽ đang yếu đi, ít nhất là ở vùng biển Thái Bình Dương, nơi tiếp giáp Trung Quốc.

Từ năm 2010 đến nay, Bắc Kinh đã triển khai một loại tên lửa đạn đạo mặt đất mới tên là Đông Phong-21D, loại tên lửa này có thể sẽ làm thay đổi thế cân bằng quyền lực ở một khu vực bất ổn và quan trọng trên thế giới. Loại tên lửa có thể phóng trên xe tải này có thể bay khoảng 1.000 dặm Anh (khoảng 1.609 km) trên biển, đồng thời ngắm và bắn trúng tàu trong thời điểm bay cuối cùng.
Cụm tấn công tàu sân bay Mỹ
Nếu sĩ quan chỉ huy quân sự Trung Quốc muốn tấn công thành công, thậm chí bắn chìm một mục tiêu, điều này sẽ có nghĩa là, bá quyền ở vùng biển quốc tế của Mỹ rõ ràng thất bại.

Nếu có thể giành được hiệu quả như vậy, loại vũ khí này sẽ buộc tàu sân bay Mỹ phải cách xa Trung Quốc hơn, làm suy yếu sức chiến đấu của máy bay quân sự trên tàu sân bay và bảo hộ an ninh do Mỹ cung cấp - sự phát triển kinh tế và ổn định tương đối của Đông Á phải được thực hiện dưới loại bảo hộ này.

Loại mối đe dọa này đồng thời xuất hiện cùng với "tranh chấp" một loạt hòn đảo giữa Trung Quốc và Nhật Bản, Trung Quốc và Nhật Bản đều đưa ra chủ trương chủ quyền đối với những hòn đảo nào.

Trước khi tên lửa Đông Phong-21D xuất hiện, Mỹ có thể nhanh chóng điều 1 - 2 tàu sân bay đến khu vực này, ngăn chặn có hiệu quả hành động quân sự của Trung Quốc.

Việc bàn bạc của Mỹ về tên lửa Đông Phong là bí mật và gay gắt. Không có các bức ảnh công khai về tên lửa này. Vài chục quan chức Mỹ và Trung Quốc đều từ chối thảo luận về vũ khí này, cho biết chủ đề này quá nhạy cảm.

Tham mưu trưởng Hải quân Mỹ Jonathan Greenert trả lời tuần san "Thời đại" cho rằng, Hải quân Mỹ đã bỏ ra thời gian vài năm để nỗ lực nghiên cứu cách thức chiến thắng tên lửa Đông Phong-21D.

Ông nói: "Đây là một loại vũ khí rất tốt do họ nghiên cứu chế tạo", nhưng bất cứ sự vật nào đều có khuyết điểm. Ông Greenert nói: "Chúng ta sẽ không ngồi nhìn... khu vực mà tên lửa đạn đạo có khả năng rơi xuống như mưa".
Tên lửa đạn đạo Đông Phong-21D (DF-21D) Trung Quốc

Chỉ về điểm này có nghĩa là Mỹ thay đổi tư thế ở Thái Bình Dương. Nhưng, hiện nay, sĩ quan Hải quân Mỹ cho rằng, tình hình triển khai tàu sân bay vẫn chưa có gì thay đổi.

Từ khi kết thúc Chiến tranh thế giới lần thứ hai đến nay, Quân đội Mỹ coi khu vực Tây Thái Bình Dương là lãnh địa riêng của mình. Tàu chiến Mỹ thường xuyên đi lại ở vùng biển cách các nước như Trung Quốc trong vòng 3 dặm Anh, còn Trung Quốc lại bất lực đối với điều này - trong rất nhiều trường hợp, Trung Quốc thậm chí đều không biết rõ về điều này.

Nhưng, vài chục năm gần đây, tình hình đã thay đổi, cùng với sự phát triển của vệ tinh, radar tầm xa và các thủ đoạn do thám khác, Bắc Kinh đã biết rõ Hải quân Mỹ luôn đi lại ở khu vực cách không xa đường bờ biển của họ.

Do bị Mỹ, Nhật Bản và phương Tây thống trị, bao vây trong thời gian dài, Trung Quốc ngầm quyết tâm làm thay đổi trò chơi này. Trung Quốc đang không ngừng tăng cường sức mạnh hải quân. Còn Hải quân Mỹ cho rằng, những tàu chiến cỡ lớn này không tạo ra mối đe dọa cho họ. Nhưng, các cuộc tấn công hỏa lực từ tên lửa đạn đạo Đông Phong-21D lại là một loại thách thức khác.
Máy bay không người lái X-47B hạ cánh trên tàu sân bay Mỹ
Có người dự đoán, Trung Quốc - nước tự nhận mình là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, sẽ làm cho Mỹ thất sắc một cách ngán ngẩm vào năm 2017 - Trung Quốc luôn ra sức đầu tư xây dựng quân sự, hiện nay chi tiêu mỗi năm của Trung Quốc gần 200 tỷ USD.

Mặc dù điều này chưa bằng 1/3 chi tiêu hàng năm của Lầu Năm Góc, nhưng Mỹ gánh vác nghĩa vụ quân sự trên phạm vi toàn thế giới, còn Trung Quốc lại tập trung mối quan tâm quân sự vào khu vực Tây Thái Bình Dương.

Theo tuyên truyền của báo Trung Quốc, sự "phiền phức" của Trung Quốc đến từ các nước láng giềng của họ. Trong mấy năm gần đây, Bắc Kinh không ngừng đưa ra yêu sách lãnh thổ (phi pháp) đối với một loạt đảo đá ở Biển Đông và ở biển Hoa Đông.

Để đáp trả Trung Quốc, Malaysia và Việt Nam đều đã tăng cường sức mạnh quân sự. Vào năm 2011, Philippines tăng gấp đôi chi tiêu quốc phòng, đồng thời vào tháng 4 năm 2014 đã ký với Mỹ thỏa thuận dài tới 10 năm, cho phép nhiều lực lượng Mỹ hơn đóng trên lãnh thổ của họ.

Ngày 1 tháng 7, Chính phủ Nhật Bản tuyên bố, muốn giải thích lại Hiến pháp hòa bình để cho phép quân đội của họ có thể tiến hành cứu viện khi đồng minh bị tấn công.

Tàu ngầm diesel-điện Tp.Hồ Chí Minh lớp Kilo của Hải quân Việt Nam (ảnh minh họa)
Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương Mỹ, thượng tướng Harry Harris tháng 4 cho biết: "Tôi cảm thấy lo ngại về tăng trưởng sức mạnh quân sự của Trung Quốc, họ thiếu minh bạch, hơn nữa phương thức hành vi ở khu vực này ngày càng cứng rắn".
  Đông Bình
( Giáo Dục )

2014: Ai sẽ diện kiến Barak Obama?

2014: Ai sẽ diện kiến Barak Obama?

Phạm chí Dũng – Nguoiviet
Có lẽ Giáo Sư Carl Thayer của Học Viện Quốc Phòng Úc là một trong số ít ỏi học giả quốc tế có được nguồn thông tin tương đối xác thực về tình hình và những biến động trong triều chính Việt Nam. Cuộc trả lời phỏng vấn của ông với đài RFI Việt ngữ mới đây lại một lần nữa biểu tả những gì mà dư luận đang rất nghi ngại và nghi ngờ về “diễn biến nội bộ.”

“Nguyễn Tấn Dũng bị gạt qua một bên”?


Ngay sau cuộc rút lui không kèn trống của giàn khoan HD 981 của Trung Quốc khỏi khu vực Biển Ðông với lý sự “tránh bão Rammasun,” Giáo Sư Carl Thayer đã nêu ra một nhận định mà có thể làm nhiều người sửng sốt: “Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng có nguy cơ bị gạt qua một bên.” Cơ sở của nhận định này được ông Thayer dẫn luận: Phe gọi là ủng hộ Trung Quốc, hoặc là thỏa hiệp (accommodationist), sẽ chống lại bất kỳ hành động nào có thể sẽ làm xấu thêm quan hệ với Trung Quốc. Ðiều này có nghĩa là phương án pháp lý và việc nâng cấp quan hệ với Hoa Kỳ không có khả năng xảy ra trong tương lai gần.
Còn trong quá khứ gần, trước tháng 5, 2014 – thời điểm Trung Quốc bắt đầu khai triển giàn khoan HD 981 ở Biển Ðông, vị thế và thế lực của ông Nguyễn Tấn Dũng có vẻ khá ổn, đặc biệt là tỷ lệ khá cao trong số 175 ủy viên trung ương đảng mà ông nắm được, theo đánh giá chung của giới quan sát quốc tế và trong nước. Tuy nhiên cũng theo nhận định của một số quan sát viên, gần đây bắt đầu xuất hiện dấu hiệu quyền lực của ông thiếu tính thăng bằng. Ngay cả một tuyên bố có vẻ ngẫu hứng của Nguyễn Tấn Dũng về “hữu nghị viễn vông” ám chỉ Bắc Kinh, cho tới nay vẫn luôn bị dư luận phê phán là “thiếu tính thực tiễn.”
Không thể nói khác hơn là sự vụ giàn khoan HD 981 của Trung Quốc đã làm lộ ra những bí ẩn nơi chốn cung đình Việt Nam. Một sự thật mười mươi hiện rõ trong tâm não toàn dân là sau gần ba tháng “kiên định đấu tranh mềm dẻo,” vẫn chẳng lộ ra một mảnh hồ sơ kiện cáo nào của nhà nước Việt Nam đối với kẻ vi phạm trắng trợn Công Ước Quốc Tế Về Luật Biển. Ngược lại như một trò ú tim, chỉ mỗi lúc bị dồn vào thế cùng quẫn, Hà Nội mới khe khẽ vén áo cho Washington.
Bài phân tích của Giáo Sư Carl Thayer là đáng chú ý về cả hai mặt ẩn dụ cũng như lộ thiên, sau khi những người bảo thủ ý thức hệ lẫn lợi ích hệ được Bắc Kinh động viên tối đa qua chuyến “thăm và làm việc” của ủy viên quốc vụ viện Trung Quốc Dương Khiết Trì tại Hà Nội vào cuối tháng 6, 2014, tức thời điểm sau cuộc bạo động Bình Dương, Ðồng Nai và Hà Tĩnh mà đã khiến Bộ Chính Trị Trung Hoa tỏ ra khá bối rối.
Nhưng sau chuyện Trung Quốc bất ngờ rút giàn khoan HD 981 trước thời hạn “thăm dò dầu khí” một tháng, nếu “nguy cơ” đối với Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng là có thực như giả thiết của ông Thayer, chính trường Hà Nội có thể xoay chuyển sang một khúc ngoặc phức hợp hơn nhiều.
Một minh chứng sống động cho mối quan hệ “môi răng” vẫn tiếp tục tỏ ra gắn bó là lời tuyên bố ngập ngừng “không loại trừ Việt Nam và Trung Quốc tiếp tục hợp tác khai thác dầu khí ở Biển Ðông” của Ðại Sứ Lê Hoài Trung – Việt Nam – tại Liên Hiệp Quốc. Vào lần này, không phải Thông Tấn Xã Việt Nam, cũng không phải do người phát ngôn hay trang web của Bộ Ngoại Giao Việt Nam, mà lại là đài Tiếng Nói Nước Nga (Voice of Russia) phát đi thông tin nóng sốt đến mức quay quắt này. Cung cách khá điển hình cho tính không chính danh như thế khiến người ta lập tức liên tưởng đến tư thế né tránh và còn có vẻ lén lút của giới ngoại giao đoàn Việt Nam trước con mắt quốc tế, và dĩ nhiên trước cả 90 triệu người dân quốc gia này. Ngay sau hành sự được xem là “cát tát” của HD 981 vào mặt Hà Nội, tuyên bố của ông Lê Hoài Trung lại như bồi thêm một cái tát vào mặt những trí thức và quan chức còn quá trông chờ vào thái độ hồi tâm dân tộc của những người “đu dây.”

“Tam quốc”

Những tin đồn về một cuộc họp trung ương bất thường sẽ diễn ra trong thời gian sớm nhất có vẻ đang dần hợp lý. Nghe nói Bộ Chính Trị họp liên tục. Và cũng nghe nói vẫn chưa thống nhất được một quan điểm về việc “hướng Bắc” hay “sang Tây.” Ðiều này cũng phù hợp với tin tức mà Giáo Sư Carl Thayer nhận được: “Một cuộc họp của Ban Chấp hành Trung Ương Ðảng dự kiến sẽ cân nhắc lợi hại của hành động pháp lý chống Trung Quốc. Cuộc họp đó sẽ chuyển khuyến nghị lên Bộ Chính Trị,” cũng như một nhận định khác của ông: “Sự kiện Trung Quốc rút giàn khoan sẽ dẫn đến việc giảm căng thẳng và làm tăng khả năng các cuộc đàm phán song phương cấp cao Việt-Trung. Ðiều đó sẽ có lợi cho những người muốn thỏa hiệp với Trung Quốc. Ðấu đá trong nội bộ Ðảng có khả năng tăng cường độ trên những bất đồng về lợi ích ngắn hạn so với lợi ích lâu dài.”
Không chỉ nhân dân, mà cả các chính khách thâm sâu đều khó bỏ qua một sự kiện buồn thảm: khi nhìn lại là từ thời điểm nêu ra Thông điệp đầu năm 2014 với hàng loạt khái niệm mới mẻ như “đổi mới thể chế,” “nắm chắc ngọn cờ dân chủ,” “xóa độc quyền” và cả “nhà nước kiến tạo phát triển,” cho đến nay vẫn chưa có bất kỳ nội dung nào được thủ tướng Việt Nam hóa giải thành hành động.
Bởi thế, cung đường mà ông Nguyễn Tấn Dũng muốn vượt qua để tiến tới đại hội đảng 12 vào năm 2016 chắc chắn sẽ biến thành một con đường và mang tính thử thách hơn cả một lý thuyết. Khái niệm “lợi ích ngắn hạn” nhiều khả năng sẽ bao trùm cho một cuộc chạy đua vai trò lãnh đạo thay cho lợi ích lâu dài của quê hương.
Vậy tình hình đó sẽ dẫn đến hệ quả xung khắc nào?
Có lẽ không phải vô căn cứ mà Giáo Sư Carl Thayer cho rằng, “Nếu lãnh đạo Việt Nam tiếp tục chia rẽ giữa phe thân Trung Quốc và phe thân Mỹ, điều đó có nghĩa là Việt Nam sẽ không thể đẩy mạnh quan hệ với Hoa Kỳ trong các lĩnh vực quốc phòng và an ninh. Việt Nam sẽ thận trọng tiến hành việc này và một cách thất thường.”
Không chỉ tiến đến đại hội 12, mà trong tình thế “thù trong giặc ngoài” như hiện nay, ông Nguyễn Tấn Dũng còn phải tìm cách chinh phục cảm tình của Washington. Nhưng không chỉ người đại diện cho chính phủ, thậm chí những lãnh đạo tượng trưng cho nhà nước và điểm xuyết cho khối đảng cũng có thể muốn hiện diện tại xứ Cờ Hoa, với mong muốn ít nhất để diện kiến vị tổng thống chưa hề đặt chân đến Việt Nam nhưng đã công du gần hết Châu Á.
Năm 2013, đã chỉ có Chủ Tịch Nước Trương Tấn Sang bước qua ngưỡng cửa tòa Bạch Ốc.
Thế “tam quốc” như thế lại càng khiến cho tình thế triều chính thêm phức hợp và hấp dẫn, dù cho triển vọng “đối tác chiến lược toàn diện” và nhu cầu dinh dưỡng của Việt Nam về “hiệp ước tương trợ quốc phòng” với người Mỹ vẫn không bớt trừu tượng.

HD-981 : Việt Nam không nên sập bẫy ‘song phương’ và ‘không kiện’ Trung Quốc

Sau hơn hai tháng cho giàn khoan HD-981 vào hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ngoài Biển Đông, khuấy động quan hệ giữa Bắc Kinh và Hà Nội, ngày 15/07/2014 vừa qua, Trung Quốc đã di chuyển giàn khoan về hướng đảo Hải Nam. Quyết định - được Bắc Kinh loan báo một hôm sau đó - đã làm cho tình hình bớt căng thẳng – nhưng cũng làm dấy lên nhiều câu hỏi về dụng tâm thực sự của Trung Quốc.

Giới chuyên gia đều ghi nhận là việc Bắc Kinh « cho rút » giàn khoan diễn ra ít lâu sau khi Thượng viện Mỹ, trong một cử chỉ hiếm thấy, đã bỏ phiếu nhất trí thông qua một Nghị quyết lên án hành vi khiêu khích của Trung Quốc, và yêu cầu Bắc Kinh trả lại hiện trạng cho khu vực, và sau một cuộc điện đàm giữa Tổng thống Mỹ Barack Obama và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình.
Dàn khoan Hải Dương HD-981 (DR)

Quyết định rút sớm hơn thời hạn dự trù ban đầu cũng được đưa ra một tháng trước Hội nghị Ngoại trưởng thường niên của Khối ASEAN và các đối tác tại Miến Điện, đặc biệt là hội nghị thường niên của Diễn đàn An ninh Khu vực ASEAN (ARF), trong bối cảnh có tin là Mỹ sẽ nêu bật các hành động của Trung Quốc.

Còn đối với Việt Nam, việc Trung Quốc hạ nhiệt căng thẳng cũng diễn ra và lúc Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam chuẩn bị hội nghi bàn về Biển Đông và cân nhắc khả năng kiện Trung Quốc ra trước quốc tế.

Trong những ngày qua, đã có rất nhiều chuyên gia phân tích về động thái hạ nhiệt của Trung Quốc ngoài Biển Đông. Hôm nay, RFI xin giới thiệu nhận định của Giáo sư Ngô Vĩnh Long, một nhà nghiên cứu kỳ cựu về Biển Đông tại trường Đại Học Maine, Hoa Kỳ.

Đối với Giáo sư Long, tham vọng khống chế toàn bộ Biển Đông của Trung Quốc không thay đổi, và Việt Nam vẫn là đối tượng cần tấn công để thực hiện ý đồ đó. Theo Giáo sư Long, quyết định rút giàn khoan còn nằm trong một âm mưu lôi kéo Việt Nam vào con dường đàm phán song phương để giải quyết căng thẳng do chính Bắc Kinh tạo ra, đồng thời thúc giục Việt Nam từ bỏ ý định kiện Trung Quốc ra trước tòa án quốc tế về vấn đề Biển Đông.

Đó là những cái bẫy mà Việt Nam không nên rơi vào nếu muốn bảo vệ lợi ích dân tộc.

Sau đây là toàn văn bài phỏng vấn Giáo sư Ngô Vĩnh Long.

Giáo sư Ngô Vĩnh Long - Đại học Maine (Hoa Kỳ)
 
21/07/2014
by Trọng Nghĩa
 

Giàn khoan đến và đi đều nhằm mục tiêu chính trị : Uy hiếp Việt Nam

"Ngay từ đầu khi Trung Quốc cắm giàn khoan cách đảo Tri Tôn khoảng 18 dặm, và nói rằng nó hoạt động trong vùng biển không có tranh chấp của quần đảo Hoàng Sa của Trung Quốc, lý do chính là lý do chính trị : Uy hiếp Việt Nam, đặc biệt là chính quyền Việt Nam, cũng như để dò xét phản ứng của các nước trong khu vực và trên thế giới.

Nay, động thái dịch chuyển giàn khoan của Trung Quốc cũng là để thử xem phản ứng của Việt Nam và của các nước khác trên thế giới, đặc biệt là Hoa Kỳ, để Trung Quốc quyết định các bước tiếp theo.

Nếu Trung Quốc thực sự rút giàn khoan về đảo Hải Nam, thì đó cũng là để chứng minh rằng Trung Quốc đã hay là đang hạ nhiệt, do đó Việt Nam không nên kiện Trung Quốc nữa mà nên đàm phán tay đôi với Trung Quốc.

Hạ nhiệt để "dụ dỗ" Việt Nam đàm phán tay đôi và không kiện Trung Quốc

Tôi nghĩ rằng đây là việc dẫn dụ, dụ dỗ Việt Nam, và tôi cũng hơi lo là vì ngày 16/07, ông Lê Hải Bình, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam Việt Nam cho biết là Việt Nam mong muốn thông qua đàm phán hữu nghị để giải quyết các vấn đề tranh chấp, bất đồng ở Biển Đông với Trung Quốc. Lẽ dĩ nhiên là trên cơ sở luật pháp quốc tế, và cũng yêu cầu Trung Quốc không đưa giàn khoan HD-981 quay trở lại.

Nhưng mà nếu Trung Quốc không đưa HD-981 mà đưa 4, 5 cái giàn khoan nhỏ trở lại thì lúc đó Việt Nam làm gì ? Cho nên tôi nghĩ đây là vấn đề Trung Quốc muốn thử xem Việt Nam phản ứng như thế nào.

Nếu Việt Nam đàm phán song phương với Trung Quốc, việc này sẽ giúp cho Trung Quốc biện hộ rằng tranh chấp ở Biển Đông chỉ liên quan đến hai nước Việt Nam và Trung Quốc mà thôi, và không một nước nào khác được can dự vào.

Trung Quốc đã nhiều lần nói công khai với Mỹ là không được xía vào công việc nội bộ của các nước trong khu vực. Cho nên, nếu Việt Nam cho thế giới biết, hay là thế giới nghĩ lầm Việt Nam muốn thông qua đàm phán song phương để giải quyết vấn đề, thì việc đó sẽ làm hỏng cẳng Mỹ và đồng minh, đặc biệt trong vấn đề họ muốn đưa căng thẳng ở Biển Đông ra Diễn đàn An ninh Khu vực ASEAN, tức là ARF, vào tháng tới ở Miến Điện.

Mưu đồ của Trung Quốc : Làm Mỹ hụt chân

Ngoài việc muốn làm hụt cẳng Mỹ tại Diễn đàn ARF vào tháng tới, thì Trung Quốc cũng muốn làm cho Việt Nam mất đi sự ủng hộ của các nước khác ở trong khu vực nếu đi đàm phán song phương với Trung Quốc, đặc biệt là chia rẽ quan hệ giữa Việt Nam và Philippines.

Ngoài ra, vừa qua, Thượng viện Mỹ đã bỏ phiếu hoàn toàn nhất trí nói rằng Trung Quốc không nên tiếp tục gây hấn và hy vọng rằng Trung Quốc đưa mọi việc trở về vị trí cũ, tức là trước ngày 02/05. Thì Trung Quốc di chuyển giàn khoan như để nói với Thượng viện Mỹ rằng « tôi đã hạ nhiệt rồi, thì các anh không nên tiếp tục làm áp lực trên tôi »....

Nếu Thượng viện Mỹ thấy rằng không cần phải làm áp lực trên Trung Quốc nữa, thì có thể là chính quyền Obama cũng không làm áp lực trên Trung Quốc nữa. Mà áp lực của Mỹ là quan trọng nhất, Mỹ mà nới tay thì Trung Quốc thấy rằng họ có cớ lấn tới thêm, không những đối với Việt Nam, mà cả đối với Mỹ.

Bài học cho Việt Nam : Trung Quốc mềm nắm rắn buông

Bài học đầu tiên là Trung Quốc có thái độ mềm nắn rắn buông. Trung Quốc hiện tỏ thái độ « buông » trước hết là vì phản ứng của người dân Việt Nam. Tôi nghĩ là Trung Quốc biết phản ứng của các lãnh đạo Việt Nam như thế nào, nhưng họ không ngờ rằng phản ứng của người dân Việt Nam mạnh như thế.

Thành ra lúc này Trung Quốc hạ nhiệt chút xíu để cho giới lãnh đạo Việt Nam, đặc biệt là thành phần thiên về Trung Quốc – đang trong thế yếu - có tiếng nói mạnh hơn.

Ngoài ra, Việt Nam sắp có Hội nghị Trung ương để bàn riêng về tình hình Biển Đông và về việc có nên kiện Trung Quốc ra Tòa án Quốc tế hay không. Trung Quốc hạ nhiệt để chính quyền Việt Nam và Hội nghị Trung ương thôi không bàn đến chuyện kiện Trung Quốc nữa, và như vậy, Trung Quốc có thể tiếp tục ép Việt Nam.

Bài học là Việt Nam mà yên lặng hơn, thì Trung Quốc sẽ đẩy tới hơn. Và nếu chính phủ Mỹ, Quốc hội Mỹ và các nước khác Nhật, Úc cũng thấy là vấn đề đã tạm yên rồi thì họ có thể cứ để cho yên và Trung Quốc trước sau gì cũng sẽ quay trở lại, và lần sau sẽ làm mạnh hơn một chút.

Xu hướng thân Bắc Kinh trong giới lãnh đạo Việt Nam

Việc cắm giàn khoan trong thềm lục địa Việt Nam là một chính sách uy hiếp giới lãnh đạo Việt Nam, đặc biệt là Bộ Chính trị đảng Cộng sản Việt Nam.

Bộ Chính trị chia thành ba nhóm, số đông thân Trung Quốc, số « trung lập » tức là không biết nghiêng về ai, và số ít hơn thì muốn kiện Trung Quốc. Cho nên khi cắm giàn khoan, Trung Quốc muốn thử xem phản ứng của Bộ Chính trị đảng Cộng sản Việt Nam như thế nào…

Phản ứng của Việt Nam cho thấy là Bộ Chính trị chưa có một chính sách đàng hoàng để kiện Trung Quốc.

Đó là trong lúc tình hình đang căng thẳng. Còn bây giờ Trung Quốc hạ nhiệt và làm giảm sự căng thẳng đi, thì có thể là Việt Nam sẽ không quyết định kiện Trung Quốc ra tòa án trọng tài theo phụ lục 7 của UNCLOS, chung với Philippines hay là riêng rẽ.

Nguy cơ mất đi hậu thuẫn của người dân Việt Nam và của quốc tế

Nếu như vậy, Chính quyền Việt Nam không những mất đi sự ủng hộ của dân chúng trong nước, mà cũng sẽ mất sự ủng hộ của các nước trong khu vực và của nhân dân trên thế giới. Việc đó sẽ làm suy yếu các lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng, và Nhà nước Việt Nam nói chung.

Và nếu như vậy thì Trung Quốc thấy là họ đã kéo thêm được vào quỹ đạo của Trung Quốc, và nếu mà mọi người đều nghĩ rằng Việt Nam đã bị Trung Quốc kéo sâu thêm vào trong quỹ đạo của họ thì có thể là họ sẽ từ bỏ Việt Nam và đi đêm với Trung Quốc...

Vấn đề kiện Trung Quốc không phải là vấn đề thắng hay là thua, mà là vấn đề vận động chính trị. Nếu Việt Nam không kiện Trung Quốc, tức là Việt Nam đã chứng minh cho thế giới là Việt Nam chịu thua Trung Quốc, và nếu như vậy thì những nước khác họ sẽ suy nghĩ lại và có chính sách riêng của họ...

Trọng Nghĩa
 (RFI)

Phân hóa giàu nghèo đang tăng nhanh

Từ ngày nền kinh tế chuyển đổi sang hướng thị trường đến nay, bên cạnh sự phát triển tất yếu của xã hội là sự xuất hiện của một tầng lớp doanh nhân năng động biết cách làm giàu. Số người giàu tăng nhanh dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội nhiều năm qua là vấn đề không chỉ người trong nước quan tâm mà còn là nội dung nghiên cứu của nhiều định chế quốc tế.
Một phúc trình của Ngân hàng Thế giới vừa công bố cho thấy thành phần giàu có ở Việt Nam đã tăng gấp ba trong thập niên qua. Trong khi đó, theo Tập đoàn Knight Frank, Việt Nam có khoảng 110 đại gia có tài sản cá nhân vượt quá 30 triệu USD trong năm 2013, tăng 34 người so với 10 năm trước đây. Có thể nói đây là những người siêu giàu mà tổng tài sản của họ đạt gần 3,4 tỉ USD.

Trên thực tế, số người siêu giàu ở Việt Nam có thể cao hơn dự báo này rất nhiều. Bởi số liệu thống kê của chúng ta thường không chính xác, thêm vào đó là tâm lý e ngại công bố tình hình tài sản công khai.
Knight Frank là tập đoàn hoạt động trong lĩnh vực tư vấn bất động sản, có trụ sở chính tại London (Anh), hiện điều hành 207 văn phòng tại 43 quốc gia với hơn 6.340 chuyên gia. Báo cáo hằng năm của Knight Frank thường được các tờ báo uy tín thế giới tham khảo sử dụng.
Để đưa ra các dự báo, Knight Frank dựa trên tình hình kinh tế thế giới, đầu tư thương mại và kể cả xu hướng phát triển toàn cầu. Tại mỗi quốc gia, chính sách vĩ mô đã được ban hành và những chính sách dự kiến sẽ được ban hành cùng với tình hình phát triển của thị trường, nhu cầu người tiêu dùng, xu hướng kinh doanh đầu tư, số liệu kết quả kinh doanh… là một số trong nhiều cơ sở để đưa ra dự báo.
Nghiên cứu của Knight Frank dưới tiêu đề “Báo cáo Thịnh vượng 2014” công bố cách đây vài tháng còn đi xa hơn một bước khi đưa ra nhận định tại châu Á sẽ xuất hiện nhiều người siêu giàu trong 10 năm tới, trong đó Việt Nam có tốc độ tăng người siêu giàu dự đoán 166%, cao nhất thế giới, đạt 293 người.
Tiếp theo là Indonesia tăng 144% với 1.527 người, Bờ Biển Ngà 54 người, tăng 116%. Siêu giàu được nói đến ở đây gồm những người có tài sản ròng từ 30 triệu USD trở lên.
Không chỉ siêu giàu, lần đầu tiên Việt Nam cũng đã có tỉ phú đôla, thể hiện qua giá trị vốn hóa của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán tăng mạnh.
Ông Phạm Nhật Vượng, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn VinGroup, dẫn đầu danh sách 10 người giàu nhất trên thị trường chứng khoán Việt Nam, có tài sản trị giá hơn 22.000 tỉ đồng tương đương trên 1 tỉ USD, được đánh giá là giàu gấp sáu lần những đại gia trung bình ở Việt Nam.
Hiện nay, chỉ tính riêng tổng tài sản của 10 người giàu nhất trên thị trường chứng khoán Việt Nam đã đạt hơn 56.000 tỉ đồng, tăng khoảng 30% so với giữa năm 2013.
Sau ông Phạm Nhật Vượng là ông Đoàn Nguyên Đức (Chủ tịch HĐQT Hoàng Anh Gia Lai), ông Trần Đình Long (Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Hòa Phát)… là những người trong Top 10 giàu nhất trên sàn chứng khoán.
Những đại gia chứng khoán này sau khi tập trung đầu tư vào bất động sản là chính, nay phát triển theo hướng đa ngành, có sản xuất công nghiệp nặng, bán lẻ…, những ngành hàng mang tính bền vững hơn.
Ở cấp độ đô thị lớn, TP. Hồ Chí Minh được dự đoán sẽ là nơi có số người giàu tăng mạnh nhất, lên đến 173% trong thập niên tới. Năm 2013, TP.HCM có 90 người siêu giàu trên tổng số 9 triệu dân.
Chuyên gia kinh tế tài chính Bùi Kiến Thành cho rằng tỷ lệ người siêu giàu Việt Nam tăng là dấu hiệu tốt cho nền kinh tế và nhấn mạnh “đại diện cho một nền kinh tế chính là cộng đồng doanh nghiệp, đối tượng chứng tỏ sức khỏe của nền kinh tế đó”.
Trong khi nền kinh tế 2014 được dự báo vẫn tăng trưởng dưới tiềm năng, số lượng người siêu giàu tại Việt Nam đã và đang tăng nhanh, làm gia tăng nguy cơ bất bình đẳng. Ông Sandeep Mahajan, chuyên gia Kinh tế trưởng của WB tại Việt Nam, nhận xét cứ khoảng 1 triệu người Việt Nam thì có một người siêu giàu, hiện Việt Nam đứng thứ hai trong số các nước Đông Nam Á có số người siêu giàu tăng mạnh trong vòng một năm qua.
Khoảng cách giữa những người rất giàu với số đông người nghèo sẽ tạo ra những phản ứng chính sách và xu hướng ngày càng có nhiều người dân chuyển đến các thành phố và những khu vực có điều kiện phúc lợi tốt hơn. Do vậy giảm khoảng cách giàu nghèo là mục tiêu quan trọng của kế hoạch phát triển kinh tế xã hội mà từ lâu Chính phủ đã có nhiều cố gắng.
Cách đây 20 năm, khi vừa mới thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế, Việt Nam có quá nửa tổng số hộ dân sống dưới mức nghèo khổ, nay thì cả nước chỉ còn khoảng 10% tổng số hộ nghèo và hầu như không còn hộ đói. Cũng cách đây 20 năm, có đến 2/3 tổng số hộở khu vực nông thôn sống ở mức nghèo khổ và cũng có một tỷ lệ không nhỏ số hộ còn bị đói, giờ thì tỷ lệ này đã giảm khá nhanh.
Tuy đạt được những kết quả tích cực, nhưng tỷ lệ nghèo và quy mô số người nghèo ở Việt Nam còn lớn. Việc phân bố số người nghèo không chỉ chênh lệch ở tỷ lệ cao thấp qua các vùng, mà còn ở quy mô số người tuyệt đối.
Theo số liệu thống kê của nhà nước, vùng Đồng bằng sông Hồng có khoảng 1,23 triệu người, vùng trung du và miền núi phía Bắc có 2,76 triệu người, vùng Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung có 3,21 triệu người, vùng Tây Nguyên có khoảng trên 1 triệu người, Đông Nam bộ có gần 213.000 người và vùng Đồng bằng sông Cửu Long có trên 1,84 triệu người.
Đáng chú ý là với một đất nước liên tục phải gánh chịu thiên tai như Việt Nam thì ranh giới giữa mức cận nghèo và nghèo là rất mong manh nên nguy cơ số hộ nghèo tăng lên rất dễ xảy ra.
Thực tế trên cho thấy, bất bình đẳng trong thu nhập ở nước ta ngày càng rõ nét và gay gắt hơn, tỷ lệ hộ nghèo tập trung chủ yếu ở những vùng khó khăn, có nhiều yếu tố bất lợi như điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, kết cấu hạ tầng kém, trình độ dân trí thấp, trình độ sản xuất manh mún, sơ khai.
Ngoài ra, còn xuất hiện một số đối tượng nghèo mới ở những vùng đang trong quá trình đô thị hóa và nhóm lao động nhập cư vào đô thị, họ thường gặp khó khăn nhiều hơn và phải chấp nhận mức thu nhập thấp hơn lao động sở tại. Đây là những yếu tố làm gia tăng tình trạng tái nghèo và tạo ra sự không đồng đều trong tốc độ giảm nghèo giữa các vùng trong cả nước.
Hiện nay, hệ số chênh lệch giàu/nghèo của Việt Nam cao hơn nhiều nước đã trải qua thời kỳ dài phát triển kinh tế thị trường. Nhìn chung, cơ chế thị trường của chúng ta còn mới mẻ, thậm chí có người cho là nền kinh tế thị trường hoang dã, đã tạo ra những kẽ hở để cho một bộ phận lách cơ chế hoặc lợi dụng cơ chế để trục lợi, tham nhũng. Số người làm giàu dạng này thường không đóng góp bao nhiêu để chia sớt gánh nặng của nhà nước mà còn làm cho tiềm lực kinh tế ngày càng suy giảm.
Vì thế, nếu không nhanh chóng hoàn thiện thể chế, nhất là thể chế dân chủ, nhà nước pháp quyền, đồng thời xử lý vấn đề lợi ích nhóm, sở hữu chéo, lạm dụng độc quyền… thì chênh lệch giàu – nghèo hiện đang quá lớn lại sẽ càng tăng nhanh.
Thách thức này đòi hỏi Nhà nước và cả xã hội, trong khi khuyến khích, tôn vinh người làm giàu chính đáng, thì phải có biện pháp để tăng thu nhập của người nghèo, đảm bảo hệ số chênh lệch sẽ được kiềm chế, tiến tới giảm dần khoảng cách giàu – nghèo.
Nhà nước cũng cần có chính sách khuyến khích người giàu tham gia vào đời sống xã hội bằng cách giảm thuế cho các đóng góp tự nguyện hoặc có các quy định ưu đãi cho doanh nghiệp tham gia vào hoạt động từ thiện mà về lâu dài là nhằm rút ngắn phần nào chênh lệch giàu nghèo.
Hệ thống chính trị tốt thường biểu hiện qua việc phân bổ tài nguyên (đồng vốn, tài nguyên thiên nhiên, con người) đúng người đúng việc để với ưu thế vận tốc ban đầu được giao, những con người có năng lực sẽ tạo nên những giá trị gia tăng cho xã hội và đương nhiên họ được hưởng công lao xứng đáng với thành quả mang lại. Đó chính là sự công bằng.
Để có sự công bằng phải sử dụng công cụ điều tiết được mọi người chấp nhận, khi đó người giàu không phải là đối tượng của sự ganh tỵ, soi mói trong xã hội và khi họ làm tròn nghĩa vụ thì đáng được vinh danh.
Công cụ điều tiết công bằng xã hội có hiệu quả là khi tất cả mọi người đều đủ ăn đủ mặc, trẻ con được học hành, mọi người đều có cơ hội làm việc, được sống tự do hạnh phúc, là những điều kiện cơ bản phải đạt được. Và khi đó phân hóa giàu nghèo được trả lại vị trí của nó chỉ là sự phát sinh tự nhiên trong thời buổi thị trường.
HOÀNG LONG
(DNSGCT) 

Chuyện cảnh sát giao thông và người dân

Với một quốc gia bất kì và bình thường nào nhất, cảnh sát là lực lượng bảo an của nhân dân và là biểu tượng về an ninh của xã hội, đặc biệt, lực lượng cảnh sát giao thông luôn là tiêu điểm để hướng đến một trật tự chung nhằm duy trì an toàn trong lưu thông.

Nhưng, ở Việt Nam, trong thời Cộng sản xã hội chủ nghĩa, lực lượng cảnh sát nói chung và cảnh sát giao thông nói riêng chưa bao giờ nắm giữ đúng vai trò và chức năng này. Với người dân, lực lượng cảnh sát giao thông luôn là nỗi ám ảnh và khi bóng áo vàng xuất hiện trên đường, sự rối loạn cũng xuất hiện đồng thời.

Người dân luôn lo sợ bởi cảnh sát

Một cư dân quận 7, Sài Gòn, tên Phúc, chia sẻ: Không riêng gì cảnh sát giao thông mà mọi thứ công cụ cảnh sát khác đều khiến dân sợ hãi hết. Dân họ cúi đầu lặng lẽ sống để được yên ổn. Trong cách sống người Việt Nam mình vậy thôi, người ta khinh bỉ và sợ hãi nhưng yên lặng để sống yên ổn. Một khi nó thổi thì không lỗi thì cũng thành có lỗi!

Theo ông Phúc, nếu như những năm trước 1975 ở Sài Gòn, hình ảnh người quân cảnh luôn làm cho người dân yên tâm mỗi khi ra đường. Đặc biệt, nếu gặp cướp, chỉ cần la to hai chữ “quân cảnh” thì nhất định tên cướp có ăn gan trời cũng phải chùng tay trong phút chốc để quan sát. Hoặc nếu lúc đó có quân cảnh ở gần đó thì bằng mọi giá, lực lượng quân cảnh cũng truy lùng cho được tên cướp để đưa về bốt. Còn Sài Gòn những năm sau 1975 thì hoàn toàn khác, mọi sự rối loạn nhen nhóm hình thành và cuối cùng là bùng phát dữ dội.

Hiện tại, nếu ra đường gặp cướp, dù có đang bị cướp ở vị trí rất gần đồn công an thì người dân cũng chỉ bằng mọi giá giữ lấy sinh mạng và tài sản nếu được, chuyện hô to kêu cứu chỉ có giá trị nếu gặp một vài cảnh sát chìm nào đó còn lương tri, họ sẽ truy đuổi, nếu không gặp những cảnh sát chìm như thế, chuyện mất mát là đương nhiên. Mà Sài Gòn hiện tại, lực lượng cảnh sát chìm có mặt trên mọi nẻo đường nhưng họ có mặt không phải để duy trì an ninh cho nhân dân mà là để đề phòng và phát hiện những cuộc biểu tình chống Trung Quốc bành trướng. Chính vì thế, khi có một cuộc biểu tình nhỏ vừa diễn ra thì ngay lập tức có công an bao vây và dập tắt. Số lượng công an chìm nổi nhiều vô kể.

Cảnh sát giao thông trên đường di sản Hà-Nội. RFA
Cảnh sát giao thông trên đường di sản Hà-Nội. RFA
Nếu so sánh giữa mức độ kêu cứu khi gặp cướp và mức độ hô hào biểu tình của một nhóm nhỏ, bao giờ mức độ kêu cứu cũng có cường độ âm thanh to và khẩn cấp hơn nhiều. Thế nhưng tiếng kêu cứu bị bỏ ngoài tai công an, cảnh sát nhưng tiếng hô của người biểu tình sẽ được phát hiện ngay tức khắc, thậm chí không hô, chỉ trương khẩu hiệu, biểu ngữ vẫn bị phát hiện như thường. Đó là trường hợp ngành công an nói chung, nếu xét riêng ngành công an giao thông thì mức độ gây sợ của họ đối với người dân còn cao hơn nhiều.

Bất kì con đường nào đang có xe cộ lưu thông một cách bình thường, nhịp nhàng, chỉ cần những áo vàng xuất hiện cộng thêm vài áo xanh của cảnh sát cơ động thì mọi chuyện trở nên phức tạp, người đi đường trở nên bất an, nháo nhào và dáo dác…

Trong một số trường hợp, cảnh sát giao thông chơi trò núp lùm, ngồi trong các bụi cây để bắn tốc độ hoặc ngồi phục kích ở những vị trí khuất tầm mắt, đợi cho các cô nữ chạy xe ngang qua thì nhảy xổ ra thổi còi một phát nghe đinh tai nhức óc và chỉ thẳng gậy vào mặt đối phương, làm cho đối phương bị bất ngờ, khủng hoảng tâm lý trong giây lát và dừng xe, không hiểu chuyện gì. Sau đó là hàng loạt cáo buộc của cảnh sát đối với người đi đường mà nếu người đi đường biết điều nhét cho cảnh sát vài trăm ngàn thì mọi chuyện sẽ êm xuôi, chuyến đi được tiếp diễn.

Và cứ như thế, nạn mãi lộ đối với cảnh sát giao thông trở thành một hoạt động thường nhật ở Việt Nam, nơi nào có cảnh sát giao thông, tất nhiên nơi đó có mãi lộ, việc mãi lộ đã ăn sâu vào tiềm thức và lâu ngày, trở thành một loại văn hóa của dân tộc. Hay nói cách khác, sợ cảnh sát giao thông khi ra đường đã trở thành một loại tâm lý tập thể của người Việt.

Đầu tư để được đứng đường

Một cựu nhân viên ngành công an giao thông, yêu cầu giấu tên, chia sẻ: Mãi lộ cũng là thứ tham nhũng nhỏ nhỏ thôi chứ gì đâu. Đại khái là thứ tham nhũng nhỏ nhỏ đó nó đã tràn ngập xã hội rồi. Không phải nghĩa là có cảnh sát giao thông lả an toàn mà không có thì không an toàn. Người đi đường mà ý thức thì không có cảnh sát giao thông cũng tốt thôi! Cảnh sát nó núp trong lùm cây nó bắn tốc độ, đâu cần ở xa, ngay ở Sài Gòn, cảnh sát đầy đường đầy sá mà trộm cắp, cướp giật như rươi vậy thôi!

Theo ông này, tuy cảnh sát giao thông phải núp lùm, phải đứng đường và đại đa số là tạo ra hình ảnh xấu trong mắt nhân dân và có thể bị nhân dân phản ứng, đánh đập hoặc đánh đập nhân dân bất kỳ giờ nào nhưng đã là cảnh sát giao thông, ai cũng mong được đứng đường. Việc đứng đường của cảnh sát giao thông là một cơ hội ăn nên làm ra, nó cũng giống như một cô gái điếm thì phải ra đường đứng vẫy khách, một công an giao thông phải ra đường, phải chỉ gậy mới có thể kiếm ăn, mới ăn nên làm ra, có của dư của để.

Chính vì vậy mà phần đông các cảnh sát giao thông có đạo đức trong ngành hoặc cô thế, bị trù dập đều phải ngồi văn phòng đến mòn ghế và ăn lương chay ba đồng ba cọc, khó có cơ hội mà phất lên được. Còn những cảnh sát giao thông biết ăn chia, biết liều lĩnh và biết ép phạt đều tìm cách để được đứng đường. Thậm chí có những trạm đứng đường như trạm Hàng Xanh, trạm số 2 Thủ Đức là những trạm mà muốn được đứng đó, các cảnh sát phải tự đấu giá ngầm với nhau, phải chung chi tiền tỉ mỗi năm để được đứng đường.

Chỉ cần được đứng ở các trạm này, mỗi đêm, thu nhập của mỗi cảnh sát thấp nhất cũng được năm triệu đồng, nếu trúng thì con số lên mười triệu, thậm chí vài chục triệu nếu bắt trúng những xe chở hàng lậu hoặc động vật quí hiếm. Cứ chia ca với nhau, mỗi người đứng từ một đến ba đêm và ba ngày mỗi tuần. Có thể nói con số thu nhập của các cảnh sát này là con số khủng. Bởi chỉ cần một chiếc xe tải bình thường đi qua trạm, nếu có chở hàng thì cách gì cũng dừng lại để chung từ hai trăm đến năm trăm ngàn đồng. Mà lưu lượng xe trung bình trên đường phải là con số hàng ngàn chiếc, cứ như vậy nhân lên sẽ thấy ngay thu nhập của các cảnh sát đứng đường.

Đó là chưa nói đến những vụ tai nạn giao thông được dàn xếp “công bằng” bởi cảnh sát giao thông, họ cũng được hưởng đậm trong các vụ tai nạn. Và sở dĩ ngành cảnh sát giao thông có thể ăn tàn bạo mà không nói được gì là vì trên một tuyến xe, tất cả mọi trạm đều có chung chi cho cảnh sát giao thông, vì phải chung chi, người chủ xe buộc phải độn thêm hàng cho quá trọng tải cho phép mới bù được khoản chung chi này, mà một khi đã độn thì cái lỗi đã đeo trước ngực nên không chung không được. Ngược lại, nếu không độn quá tải thì sẽ bị hạch họe đủ thứ, từ cái còi cho đến cái đèn, gương chiếu hậu và giấy phép lái xe, cảnh sát sẽ hạch họe bao giờ lòi ra lỗi mới thôi.

Chính vì thế, với người dân, cảnh sát giao thông nói riêng và công an nói chung là một thứ gì đó đáng kinh sợ và luôn gây rối loạn, bất an trên đường đi cũng như trên đường đời.
Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.
  (RFA) 

Nước cờ sau giàn khoan của TQ: VN cần làm gì?

Con đường tơ lụa trên biển là một thực tế, không bác bỏ trong đó đóng góp của tất cả các nước ven biển là quan trọng. Nhưng việc vinh danh nó phải trên cơ sở tôn trọng luật quốc tế, tôn trọng độc lập chủ quyền các nước, vì mục đích hòa bình, củng cố tình hữu nghị giữa các dân tộc, không thể xen lẫn bất kỳ mục đích tư lợi nào.

Tiếp theo bài đầu tiên nói về việc TQ đăng ký di sản con đường tơ lụa trên biển, chúng tôi xin giới thiệu tiếp phần 2 bài viết.

Năm 2007, Campuchia đề nghị công nhận Di sản văn hoá cho đền Preah Vihear nhưng đã bị UNESCO bác bỏ do còn tồn tại những bất đồng với Thái Lan và vì một phần Thái Lan bác bỏ và phản đối đề nghị này của Campuchia. Tuy nhiên, một năm sau, được Bộ Ngoại giao Thái Lan ủng hộ, vào ngày 7 tháng 6 năm 2008, Ủy ban di sản thế giới họp tại Canada đã công nhận đền Preah Vihear là di sản thế giới. Quyết định này cũng dựa trên phán quyết của Tòa án quốc tế năm 1962 công nhận chủ quyền của Campuchia đối với đền Preh Vihear.

Lịch sử thế giới ghi nhận con đường tơ lụa bắt đầu từ Phúc Châu, Hàng Châu, Bắc Kinh (Trung Quốc) qua Mông Cổ, Ấn Độ, Afghanistan, Kazakhstan, Iran, Iraq, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, xung quanh vùng Địa Trung Hải và đến tận châu Âu. Con đường cũng đi đến cả Hàn Quốc và Nhật Bản. Nó có chiều dài khoảng 4.000 dặm, hay 6.437 km. Nhưng đến thời nhà Minh, Con đường tơ lụa đã bị vương triều này khống chế và bắt mọi người phải nộp thuế rất cao khiến cho những thương gia phải tìm đến những con đường vận chuyển bằng đường biển.

Với việc giao thương qua đường biển phát triển (hình thành Con đường tơ lụa trên biển) và Quảng Châu đã được xem là nơi khởi đầu của Con đường tơ lụa trên biển. Con đường này xuất phát từ cảng Từ Văn, Hợp Phố ( bán đảo Lôi Châu) qua vịnh Bắc Bộ, men theo bờ biển Việt Nam qua vịnh Thái Lan xuống vùng tây – nam Malaysia, đi qua eo Malaca vòng lên phía bờ biển nam Thái Lan, qua Miến Điện vào vịnh Ben-gal rồi xuôi xuống vùng nam Ấn Độ và dừng lại trên đảo Xrilanca. Nhà Hán học người Pháp Edourd Chavanse ( 1865-1918) trong tác phẩm “ Sử liệu Tây Turki”, cho rằng “ Con đường tơ lụa có hai tuyến: đường bộ và đường biển”.
Trung Quốc, biển Đông, tơ lụa, tư lợi, Việt Nam
Ảnh: telegraphindia
Khó có con đường di sản chung
Con đường tơ lụa không chỉ là huyết mạch thông thương buôn bán mà còn là một hành trình văn hóa, tôn giáo đa dạng được hòa trộn, có thể mang lại nhiều lợi ích đa phương trong trao đổi văn hóa và du lịch. "Con đường tơ lụa là con đường: Thương mại, Du hành, Chiến tranh và Niềm tin". Hiện tại các tổ chức quốc tế UNESCO, ICMOS, UCL đang triển khai dự án nghiên cứu các địa điểm và tuyến đường dọc theo con đường tơ lụa trên bộ  (Silk Roads World Heritage Serial Nomination project). Dự án đã có 15 nước tham gia.
Ngày 22/6/2014, tại khóa họp lần thứ 38, UNESCO đã thông qua danh sách ghi nhận Kênh Lớn (Grand Canal ) của Trung Quốc và Con đường tơ lụa (Silk Road - trên bộ), mà Trung Quốc, Kazakhstan và Kyrgyzstan đồng trình là di sản văn hóa thế giới, đưa danh sách di sản của Trung Quốc lên con số 47.
UNESCO cũng quan tâm đến việc bảo vệ các di sản văn hóa dưới nước. Các di chỉ khảo cổ dưới nước được đề cập lần đầu trong Công ước Luật biển UNCLOS 1982. Hai điều khoản liên quan trự tiếp đến các di sản văn hóa dưới nước là 149 và 303.
Điều 149 quy định: “Tất cả các di vật khảo cổ hay lịch sử tìm thấy trong Vùng đều được bảo tồn hay nhượng lại vì lợi ích của toàn thể loài người, đặc biệt quan tâm đến các quyền ưu tiên của quốc gia hay của nơi xuất xứ, hoặc của quốc gia xuất xứ về văn hóa, hay còn của quốc gia xuất xứ về lịch sử hay khảo cổ”. Điều này liên quan đến các di vật khảo cổ hay lịch sử nằm trong Vùng di sản chung của loài người, tức vùng biển nằm ngoài thềm lục địa của quốc gia ven biển.
Điều 303 quy định: “Các quốc gia có nghĩa vụ bảo vệ các hiện vật có tính chất khảo cổ hay lịch sử được phát hiện ở biển, các quốc gia hợp tác với nhau vì mục đích ấy.
Để kiểm soát việc mua bán hiện vật này, bằng cách áp dụng điều 33, quốc gia ven biển có thể coi việc lấy các hiện vật đó từ đáy biển trong vùng nói ở điều đó mà không có sự đồng ý của mình là sự vi phạm các luật và quy định của quốc gia ven biển ở trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình, đã được nêu ở điều 33.
Điều này không đụng chạm đến các quyền của những người sở hữu có thể được xác nhận, cũng không đụng chạm đến quyền thu hồi các xác tàu và các quy tắc khác của luật hàng hải cũng không động chạm đến các luật và tập quán về mặt trao đổi văn hóa. Điều này không làm phương hại đến các điều ước quốc tế khác và các quy tắc của pháp luật quốc tế liên quan đến việc bảo vệ các hiện vật có tính lịch sử hay khảo cổ.”
Điều 33 là điều quy định chế độ pháp lý của vùng tiếp giáp lãnh hải. Như vậy, trong Biển Đông, nơi có nhiều yêu sách biển chồng lấn, sẽ khó có Vùng di sản chung nên chỉ còn điều 303 được áp dụng cho vùng tiếp giáp lãnh hải 24 hải lý tính từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.
Quốc gia ven biển có đầy đủ quyền chủ quyền đối với các di vật mang tính lịch sử và khảo cổ trong vùng nội thủy, lãnh hải và tiếp giáp lãnh hải của mình. Việc trục vớt, lấy các hiện vật đó từ đáy biển trong vùng nói ở điều đó mà không có sự đồng ý của quốc gia ven biển được coi là sự vi phạm các luật và quy định của quốc gia đó ở trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình
Để làm rõ thêm các quy định của UNCLOS 1982, năm 2001 UNESCO đã thông qua Công ước về bảo vệ các di sản văn hóa dưới nước. Điều 1 của Công ước định nghĩa các di sản văn hóa dưới nước là : “tất cả dấu vết của sự tồn tại của con người có tính chất văn hóa, lịch sử hay khảo cổ có một phần hoặc hoàn toàn dưới nước, định kỳ hoặc liên tục, ít nhất là 100 năm như: các địa điểm, các cấu trúc, các công trình, đồ tạo tác và vết tích con người...; tàu, máy bay ... [và] hàng hóa của họ, cùng với nội dung khảo cổ  và tự nhiên của chúng; và các đối tượng mang tính tiền sử”. Tiêu chí thời gian 100 năm đã loại bỏ tất cả các dấu tích của hai cuộc Thế chiến thế giới đến nay.
Mục đích chính của Công ước là bảo vệ và bảo tồn các di sản văn hóa dưới nước “vì lợi ích của toàn thể nhân loại” ngay tại các điểm (situ) phát hiện ra chúng. Quốc gia ven biển và các quốc gia khác hợp tác với nhau bảo vệ các di sản văn hóa dưới nước tránh sự tác động của kỹ thuật, của các hoạt động do con người gây ra đối với tự nhiên (như đặt cáp, khoan đào, khai thác tài nguyên..) và nâng cao giáo dục, truyền bá kiến thức về các di sản này cho các thế hệ.
Luật cứu hộ và luật tìm thấy sẽ không được áp dụng đối với các di sản văn hóa dưới nước. Công ước đã có hiệu lực vào ngày 2/1/2009 và hiện đã có 48 quốc gia phê chuẩn (Tại Đông Nam Á chỉ mới có Campuchia tham gia).
Việt Nam cần làm gì?
Con đường tơ lụa trên biển thực chất là con đường thương mại. Hàng hóa trao đổi không chỉ có tơ lụa. Các quốc gia nằm ven bờ Biển Đông đều có lịch sử thương mại hàng hải phong phú.
Các vụ trục vớt tàu thuyền như ở Cù Lao Chàm năm 2003 đã cho thế giới thấy một nền văn minh gốm Chu Đậu khác biệt hẳn với Trung Hoa và đã được trao đổi buôn bán với nhiều nước trên thế giới. Các hải cảng Phố Hiến, Hội An đã từng là các trung tâm thương mại hàng hải lớn của khu vực. Tàu thuyền qua lại Biển Đông đều có hành trình an toàn nhất là chạy dọc theo bờ biển Việt Nam, vì vậy tuyến đường hàng hải qua biển Việt Nam cũng đã là một phần của con đường tơ lụa trên biển trong quá khứ.
Lịch sử Việt Nam cũng ghi nhận nhiều hoạt động mang tính Nhà nước về khai thác các hóa vật từ tàu đắm trên quần đảo Hoàng sa, Trường Sa, trợ giúp cứu hộ các tàu thuyền nước ngoài bị nạn trong vùng biển của mình. Bằng các hành động của đội Hoàng Sa, Bắc Hải, Việt Nam  là Nhà nước đầu tiên đã khẳng định chủ quyền trên hai quần đảo và các vùng biển xung quanh, ít nhất từ thế kỷ XVII mà không gặp phải sự phản ứng từ bất kỳ quốc gia nào.
Căn cứ vào Công ước Luật biển 1982 và các Công ước về bảo vệ di sản văn hóa và tự nhiên của UNESCO 1972 và 2001, Việt Nam là quốc gia ven biển có chủ quyền đối với tất cả các  “tất cả dấu vết của sự tồn tại của con người có tính chất văn hóa, lịch sử hay khảo cổ  có một phần hoặc hoàn toàn dưới nước, định kỳ hoặc liên tục, ít nhất là 100 năm như: các địa điểm, các cấu trúc, các công trình, đồ tạo tác và vết tích con người...; tàu, máy bay ... [và] hàng hóa của họ, cùng với nội dung khảo cổ  và tự nhiên của chúng; và các đối tượng mang tính tiền sử” trong vùng nội thủy, lãnh hải và tiếp giáp lãnh hải của mình.
Đồng thời Việt Nam cũng có nghĩa vụ hợp tác với các quốc gia khác trong việc bảo vệ và bảo tồn các di sản văn hóa dưới nước tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, Vùng di sản chung của loài người bên ngoài các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền quốc gia ven biển.
Trên cơ sở đó Việt Nam cần nhanh chóng kiểm tra, bổ sung các quy định về di sản văn hóa, lịch sử và khảo cổ trong vùng tiếp giáp lãnh hải vào Luật các vùng biển Việt Nam 2012 và Nghị định 96/2009/NĐ-CP ngày 30/10/2009 về việc xử lý tài sản bị chôn giấu, bị chìm đắm được phát hiện hoặc tìm thấy thuộc đất liền, các hải đảo và vùng biển Việt Nam.
Khảo sát, nghiên cứu, xây dựng danh mục các địa điểm đăng ký di sản văn hóa dưới nước với UNESO đồng thời là cơ sở đấu tranh với các ý định bành trướng trên biển dưới chiêu bài bảo vệ các di sản nhân loại.
Tuyên truyền quảng bá các kiến thức về di sản văn hóa dưới nước, tạo nhận thức chung trong công chúng.
Con đường tơ lụa trên biển là một thực tế, không bác bỏ trong đó đóng góp của tất cả các nước ven biển là quan trọng. Nhưng việc vinh danh nó phải trên cơ sở tôn trọng luật quốc tế, tôn trọng độc lập chủ quyền các nước, vì mục đích hòa bình, củng cố tình hữu nghị giữa các dân tộc, không thể xen lẫn bất kỳ mục đích tư lợi nào.
    Nguyễn Hồng Thao
   ( Tuần Việt Nam )