Thị trường và đạo đức
Temba A. Nolutshungu
Tự do chính trị cùng với tự do kinh tế làm cho những điều kì diệu của con người sinh sôi nảy nở
Phạm Nguyên Trường dịch
Trong
tiểu luận này nhà kinh tế học Nam Phi, Temba A. Nolutshungu, rút từ
lịch sử gần đây của đất nước ông sự khác biệt giữa qui tắc đa số (giành
được sau hàng chục năm đấu tranh chống lại sự độc chiếm quyền lực của
nhóm thiểu số) với tự do và cho thấy tiềm lực giải phóng của tự do kinh
tế.
Temba
A. Nolutshungu là giám đốc Quĩ thị trường tự do ở Nam Phi. Ông giảng
dạy chương trình kinh tế tại nhiều trường ở Nam Phi và thường xuyên viết
bài cho báo chí Nam Phi. Ông từng là ủy viên Hội đồng kiến nghị
Zimbabwe, tức một loạt đề xuất về chính sách giúp phục hồi Zimbabwe sau
những thảm họa do Mugabe gây ra và được đệ trình lên thủ tướng Morgan
Tsvangirai. Thời trẻ Nolutshungu từng là nhà hoạt động nổi tiếng trong
Phong trào giác ngộ của người da đen Nam Phi.
_____________________________________________________________
Tháng
7 năm 1794, Maximilien Robespierre, một nhà cách mạng theo phái cộng
hòa đồng thời là một nhà dân chủ cấp tiến và là người chống lưng cho
Giai đoạn Khủng bố trong cách mạng Pháp – trong giai đoạn này đã có
40.000 công dân Pháp bị đưa lên đoạn đầu đài vì bị coi là “kẻ thù của
nhân dân” – bị những người chống đối kết án tử hình. Trước khi chết ông
đã nói với quần chúng một câu thường được người ta dùng để nịnh hót ông,
nhưng nay lại gào lên đòi lấy máu ông. Câu ấy như sau: “Tôi đã mang đến
cho các vị tự do, bây giờ các vị lại đòi cả bánh mì nữa”. Và Giai đoạn
Khủng bố kết thúc ở đấy.
Đạo
lí có thể rút ra ở đây là trong khi có thể có liên hệ nào đó giữa tự do
chính trị và sự thịnh vượng kinh tế, nhưng chúng không phải là một.
Thịnh
vượng kinh tế là kết quả của tự do. Ở Nam Phi, với tỉ lệ thất nghiệp
được chính thức ghi nhận là 25,2% (không kể những người đã chán nản,
không tiếp tục tìm kiếm công việc nữa), sự tách biệt giữa tự do chính
trị và thịnh vượng kinh tế phản ánh khả năng xảy ra xung đột lớn – mối
nguy còn gia tăng bởi những lời hứa hẹn về đủ kiểu lợi ích mà các chính
quyền nối tiếp nhau vẫn nói với cử tri của họ.
Muốn giải quyết những thách thức mà chúng ta đang đối mặt, cần phải làm rõ một số quan điểm sai lầm.
Tạo
công ăn việc làm không phải là công việc của chính phủ. Chỉ có lĩnh vực
tư mới tạo được việc làm ổn định. Công việc do chính phủ tạo ra là dựa
vào tiền của người đóng thuế và được coi là công việc được trợ cấp. Vì
là những công việc không ổn định cho nên chúng không tạo được hậu quả
kinh tế tích cực. Khu vực tư nhân là khu vực tạo ra của cải chủ lực, còn
khu vực nhà nước chỉ là khu vực tiêu thụ mà thôi.
Tiền
là phương tiện trao đổi hàng hóa và dịch vụ cho nên nó phải liên quan
tới và phản ánh được năng suất lao động. Năm 1991, khi tôi đến thăm Nga
và Czechoslovakia hậu cộng sản, ở đâu tôi cũng nghe người ta nói câu
chuyện tiếu lâm là công nhân giả vờ làm việc, còn chính phủ thì giả vờ
trả lương cho họ. Nhu vậy là, theo ý tôi, khi nói về việc tạo công ăn
việc làm, chúng ta chỉ cần tập trung vào khu vực tư nhân mà thôi.
Nhưng
chúng ta chưa nói tới câu hỏi là phải áp dụng chính sách nào với doanh
nghiệp tư nhân. Chính sách nào làm tăng, còn chính nào thì làm giảm năng
suất lao động? Phải làm gì đây?
Xin
xem xét những những nguyên tắc làm nền tảng cho một cuộc trao đổi đơn
giản nhất giữa hai bên. Những vụ giao dịch đơn giản có thể sử dụng là
thí dụ và đại diện cho nền kinh tế lớn hơn. Chúng có thể nói cho những
người làm chính sách biết chính sách nào phù hợp với bản chất của con
người vì con người là tác nhân then chốt trong nền kinh tế. Xin quay trở
lại thời kì huyền sử với một người sống trong hang hốc, giỏi săn bắn
nhưng không thông thạo trong việc sản xuất cung tên. Anh chàng này gặp
một người làm cung giỏi và đồng ý đổi một phần thịt vừa săn được lấy vũ
khí. Sau vụ đổi chác hai người đều cảm thấy hài lòng vì nghĩ rằng đã
nhận được cái có giá trị lớn hơn là cái mà họ cho đi. Chẳng chóng thì
chày người làm cung sẽ nhận ra rằng nếu chuyên tâm vào việc làm cung chứ
không đi săn nữa thì anh ta có thể đổi cung lấy lông thú, thịt, ngà voi
và những thứ khác. Đấy là anh ta tham gia kinh doanh. Anh ta sẽ phát
đạt và tất cả khách hàng của anh ta cũng sẽ phát đạt vì họ đang sử dụng
những chiếc cung tên hiệu quả cao hơn là những thứ do chính họ làm ra.
Điều
quan trọng cần nói là trong kịch bản này không có ai sử dụng vũ lực hay
lừa dối. Cũng không có sự tham gia của bên thứ ba. Không cần phải có
người đưa ra luật lệ kiểm soát giao dịch gì hết. Luật lệ mà các bên tham
gia giao dịch phải tuân thủ sẽ xuất hiện một cách tự phát. Họ tuân thủ
như thể đấy là trật tự tự nhiên vậy. Đấy là điều mà sau này nhà kinh tế
học đã quá cố, ông Friedrich Hayek, gọi là trật tự tự phát, và một phần
của trật tự này là sở hữu tư nhân, được các bên tôn trọng.
Từ
thí dụ đơn gian này người ta có thể suy ra rằng trong nền kinh tế hiện
đại ngày nay, trong các nước mà chính phủ hạn chế can thiệp vào lĩnh vực
kinh tế thì tốc độ phát triển kinh tế sẽ cao, đồng thời lợi ích về mặt
kinh tế-xã hội cũng gia tăng tương ứng. Nói cách khác, nếu chính phủ
thúc đẩy quyền tự do kinh tế của cả người sản xuất lẫn người tiêu dùng
và tạo điều kiện cho họ tham gia giao dịch không có lừa dối và ép buộc
thì đất nước và nhân dân sẽ thịnh vượng. Đấy là con đường làm giảm thất
nghiệp, cải thiện giáo dục và tạo ra hệ thống chăm sóc sức khỏe tốt hơn.
Đây
là những nguyên tắc căn bản, áp dụng cho tất cả các nền kinh tế, không
phụ thuộc vào cái nôi văn hóa của nó. Huyền thoại về “tinh thần lao
động” tồn tại dai dẳng đáng được giới phê bình quan tâm. Quan điểm này
còn làm gia tăng những cách nghĩ theo kiểu rập khuôn là sắc dân này hay
dân tộc này thì có tinh thần lao động, còn sắc dân kia hay dân tộc kia
thì không có; và mở rộng ra: dân tộc nghèo, sắc dân nghèo là vì không có
tinh thần lao động, còn dân tộc giàu, sắc dân giàu thành công hơn là vì
có tinh thần lao động – đây là quan điểm rất nguy hiểm, đặc biệt là khi
nó gắn với sắc tộc.
Trước
khi bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989, Tây Đức có nền kinh tế lớn
thứ hai thế giới trong khi Đông Đức là khu vực thảm họa về kinh tế. Họ
là người cùng một dân tộc, cùng nền văn hóa, thậm chí cùng gia đình
trước khi bị Thế chiến II chia rẽ. Có thể nói tương tự như thế về hai
nước Triều Tiên: miền Nam là một người khổng lồ về kinh tế, trong khi
miền Bắc là địa ngục, tiếp tục ngửa tay xin viện trợ của nước ngoài. Họ
cũng là người cùng một dân tộc, cùng một nền văn hóa. Và sự tương phản
đến thế nào giữa Trung Hoa lục địa và Hồng Công – đấy là nói trước năm
1992, khi Đặng Tiểu Bình khởi động cuộc cải cách thị trường tự do, sau
khi đã tuyên bố rằng làm giàu là vinh quang và mèo trắng hay mèo đen đều
tốt, miễn là bắt được chuột. Một lần nữa, đây cũng là một giống người,
một nền văn hóa và cùng một sự khác biệt một trời một vực về kinh tế. Sự
khác biệt là do – lúc nào cũng thế - mức độ tự do mà các tác nhân kinh
tế được hưởng.
Từ
năm 1992, nhờ những cuộc cải cách thị trường quyết liệt nhất trong
những năm vừa qua, Trung Quốc đã trở thành nền kinh tế lớn thứ ba thế
giới. Và trái ngược lại, điều đáng buồn là, như Bertel Schmittc đã nói:
“Hoa Kì lại nhặt được cuốn sách dạy về kinh tế xã hội chủ nghĩa mà Đặng
Tiểu Bình đã nhanh trí vất đi”.
Khuôn
khổ pháp lí và định chế, đặc biệt là mức độ tự do của những qui định
điều tiết nền kinh tế, là yếu tố quyết định mức độ giàu có của đất nước
cũng như của người dân của nó. Nói cách khác, mức độ tự do mà chính phủ
dành cho các cá nhân hoạt động trong lĩnh vực kinh tế sẽ quyết định kết
quả hoạt động của họ. Năm 1986, giáo sư Walter Williams – tác giả cuốn Cuộc chiến chống chủ nghĩa tư bản của Nam Phi (South Afriica’s War Against Capitalism)
– đã tổng kết tất cả những vấn đề này bằng mấy từ như sau: “… Giải pháp
cho các vấn đề của Nam Phi không phải là những chương trình đặc biệt,
không phải là ra các văn bản pháp qui, không phải là bố thí, và cũng
không phải là trợ cấp. Đấy là tự do. Bởi vì nếu bạn nhìn ra thế giới và
nếu bạn tìm kiếm nhưng người giàu, những người biết làm ăn giỏi, bạn
còn thấy xã hội, ở đó cá nhân có tương đối nhiều quyền tự do”.
Thị trường và đạo đức (Kì 15)
June Arunga
Chủ nghĩa tư bản và công lí
Phạm Nguyên Trường dịch
Trong
tiểu luận này, June Arunga kêu gọi đưa chủ nghĩa tư bản thị trường tự
do vào châu Phi và phản đối những người ngăn cản, không cho châu Phi dựa
vào nền thương mại tự do để tham gia vào nền kinh tế thế giới. Bà ủng
hộ thương mại tự do, và phê phán những người ủng hộ “khu vực thương mại”
được lựa chọn, tức là khu vực cung cấp những khoản ưu tiên ưu đãi (và
đôi khi vi phạm quyền sở hữu của người dân địa phương) cho các nhà đầu
tư nước ngoài hay giới tinh hoa địa phương và phủ nhận quyền tự do
thương mại hoặc quyền đầu tư trên cơ sở bình đẳng của những người khác.
Bà kêu gọi tôn trọng quyền sở hữu của người dân châu Phi và chủ nghĩa tư
bản tự do, không để cho những ưu tiên ưu đãi và các cơ sở độc quyền làm méo mó đi.
Kinh
nghiệm của tôi là phần lớn – có thể đến 90% - bất đồng là do thiếu
thông tin tại một trong hai phía. Điều này đặc biệt quan trọng, nhất là
khi người ta chuyển từ không gian văn hóa này sang một không gian văn
hóa khác. Chúng ta đang chứng kiến sự phát triển như vũ bão của ngành
thương mại ở châu Phi, giữa người châu Phi với nhau, sau một giai đoạn
cách li kéo dài – đấy là do chủ nghĩa bảo hộ, chủ nghĩa dân tộc và sự
thiếu hiểu biết lẫn nhau mà ra. Tôi nghĩ chúng ta phải hân hoan trước sự
phát triển như thế của ngành thương mại. Một số người lo sợ trước sự
phát triển của thương mại, tôi nghĩ họ cần có nhiều thông tin hơn.
Đang
diễn ra quá trình toàn cầu hóa và tôi nghĩ là chúng ta phải chào mừng
nó. Nó giúp cho việc chuyển giao các kĩ năng, giúp người ta tiếp cận với
công nghệ trên toàn thế giới và nhiều điều khác nữa. Nhưng nhiều người
vẫn đứng bên ngoài quá trình này. Câu hỏi là: Tại sao? Năm 2002 tôi đã
gặp ông Johan Norberg, một nhà kinh tế học Thụy Điển, tác giả cuốn sách
có tính khai minh với tựa đề là Bảo vệ chủ nghĩa tư bản toàn cầu (In Defense of Global Capitalism), và tôi đã kinh ngạc trước cách xử lí thông tin của ông.
Ông
không làm một việc đơn giản là gạt bỏ những người chống lại thương mại
tự do. Không những thế, ông còn lắng nghe họ, xem xét quan điểm của họ
và kiểm tra lại thông tin của họ. Khởi kì thủy, sự quan tâm đối với
những tin tức có đầy đủ căn cứ đã làm ông hết lòng ủng hộ chủ nghĩa tư
bản.
Tôi
còn ngạc nhiên hơn trước cách suy nghĩ về tương lai của những người
nghèo, tức là những người bị tác động nhiều nhất. Norberg đã đi khắp thế
giới để hỏi người dân. Ông không nói với họ những việc họ nên nghĩ. Ông
hỏi họ đang nghĩ gì. Bằng cách hỏi những người nghèo, những người được
tạo cơ hội tham gia vào thương mại – như thương nhân hay người buôn bán
nhỏ hoặc những người lao động trong các doanh nghiệp có tham gia vào
lĩnh vực ngoại thương – ông phát hiện ra những sự kiện mà các quan chức
giáo điều đã bỏ qua. Công việc trong nhà máy mới làm cho cuộc sống của
bạn tốt lên hay xấu đi? Cái điện thoại cầm tay đầu tiên làm cuộc sống
của bạn tốt lên hay xấu đi? Thu nhập của bạn tăng hay giảm? Bạn đi lại
bằng phương tiện gì: đi bộ, đi xe đạp, đi mô tô hay ô tô? Bạn thích đi
mô tô hay đi bộ? Norberg nhấn mạnh rằng cần phải xem xét những sự kiện
xảy ra trong dân chúng. Ông hỏi những người dân tham gia vào nền thương
mại toàn cầu xem họ nghĩ gì và liệu thương mại tự do có cải thiện được
đời sống của họ hay không. Ông muốn nghe đánh giá của từng cá nhân.
Chúng
ta phải hỏi chính phủ đang làm gì với chúng ta chứ không phải hỏi họ
đang làm gì cho chúng ta. Chính phủ của chúng ta đang làm hại chúng ta:
họ ăn cắp của chúng ta, họ ngăn chặn, không cho chúng ta buôn bán, và
làm cho người nghèo càng nghèo thêm. Những nhà đầu tư ở địa phương không
được phép cạnh tranh vì chế độ pháp quyền không tồn tại trong các nước
nghèo. Có thể đấy là lí do làm cho họ trở thành những nước có thu nhập
thấp – vì nhân dân không được chính phủ tôn trọng.
Chính
phủ nhiều nước nghèo tìm cách lôi kéo “các nhà đầu tư ngoại quốc”,
nhưng lại không cho dân chúng nước mình tham gia thương trường. Mở cửa
thị trường và cạnh tranh cho dân chúng trong nước không nằm trong chương
trình nghị sự của họ. Dân chúng địa phương có kiến thức và hiểu rõ khu
vực của mình. Nhưng chính phủ các nước Phi châu của chúng ta lại ngăn
chặn, không cho nhân dân nước mình tham gia thương trường nhằm tạo điều
kiện cho các nhà đầu tư ngoại quốc hoặc những nhóm quyền lợi đặc biệt
trong nước.
Thí
dụ, những hạn chế nghiêm ngặt đã gây ra trở ngại rất lớn đối sự cạnh
tranh của các công ty nội địa trong lĩnh vực dịch vụ như ngân hàng và
cung cấp nước uống, phớt lờ khả năng của nhân dân chúng ta, không để họ
sử dụng những kiến thức tại chỗ về công nghệ, về sở thích của dân chúng
và cơ sở hạ tầng tại chỗ. “Toàn cầu hóa” mà chỉ ưu tiên ưu đãi “các nhà
đầu tư ngoại quốc”, trong khi các nhà đầu tư địa phương bị gạt ra và
không được phép cạnh tranh là sai. Nếu “các đặc khu
kinh tế” mà chính phủ dựng lên là để thu hút “các nhà đầu tư ngoại
quốc” thì tại sao đa số người dân lại chẳng được lợi lộc gì? Tại sao
chúng lại được coi là những khu vực ưu tiên ưu đãi đặc biệt chứ không
phải là thành phần của sự tự do thương mại cho tất cả mọi người? Tự do
thương mại phải là tự do cạnh tranh trong việc phục vụ người dân, chứ
không phải là ưu tiên ưu đãi cho giới tinh hoa trong khu vực, những
người không thích cạnh tranh hay ưu tiên ưu đãi cho những nhà đầu tư
ngoại quốc, những người có thể gặp riêng các vị bộ trưởng.
Khi
các công ty ngoại quốc được chính phủ ưu tiên ưu đãi thì đấy không phải
là “thương mại tự do”, khi các công ty trong nước bị chính phủ ngăn
chặn, không cho tham gia thương trường thì đấy cũng không phải là
“thương mại tự do”. Thương mại tự do đòi hỏi chế độ pháp quyền cho tất
cả và tất cả mọi người đều được tự do tham gia vào những hành động tự
nhiên nhất: trao đổi tự nguyện.
Sự
thịnh vượng của người châu Phi không phải xuất phát từ những khoản trợ
giúp của ngoại quốc hay những đồng tiền do gian lận mà ra. Ở châu Phi,
chuyện đó đã xảy ra quá nhiều rồi, nhưng nó không có ảnh hưởng tích cực
đối với cuộc sống của người nghèo. Kiểu “giúp đỡ” như thế chỉ làm gia
tăng nạn tham nhũng và làm suy yếu chế độ pháp quyền mà thôi. Nó buộc
chúng ta phải mua dịch vụ từ những người dân của đất nước viện trợ. Nó
làm biến dạng các quan hệ thương mại. Nhưng tai họa nhất là: “viện trợ”
làm cho chính phủ và nhân dân không còn liên hệ với nhau nữa vì người
thanh toán các khoản chi tiêu của chính phủ nằm ở Paris, Washington hoặc
Brussels, chứ không nằm ở châu Phi .
Quan
hệ thương mại cũng có thể bị giới tinh hoa trong khu vực, những kẻ được
giới chức chính trị ưu ái, làm cho méo mó hoặc mất tự do, chắc chắn là
độc giả biết rõ lí do rồi. Quan hệ thương mại cũng có thể bị bóp méo
bằng cách bảo đảm sự độc quyền, không cho cả những người cạnh tranh
trong nước cũng như nước ngoài tham gia vào những lĩch
vực nào đó. Hơn nữa, quan hệ thương mại có thể bị làm méo mó và mất tự
do khi giới tinh hoa nước ngoài câu kết với chính phủ nước họ để được
chính phủ nước nhận viện trợ giành cho những hợp đồng độc quyền thông
qua những khoản viện trợ ràng buộc: cả công ty cạnh tranh trong nước lẫn
nước ngoài đều không được tham gia vì thỏa thuận đã kí rồi. Tất cả
những qui định này đều trói buộc thị trường và quyền tự do của chúng ta.
Chúng ta buộc phải mua những hàng hóa hay dịch vụ với chất lượng và giá
cả không chắc đã phải là tốt nhất vì chúng ta không có quyền tự do lựa
chọn. Mất quyền tự do làm cho chúng ta cứ mãi ở vị trí kém cỏi và nghèo
đói.
Chúng
ta không bị cướp bóc vì giá thấp và chất lượng hàng hóa tốt. Chúng ta
bị cướp mất cơ hội cải tiến, bị cướp mất cơ hội sử dụng đầu óc của chính
mình, bị cướp mất cơ hội cải thiện hoàn cảnh của mình bằng chính năng
lực và trí tuệ của mình. Về lâu dài, tội đó còn to hơn. Chủ nghĩa bảo hộ
và đặc quyền đặc lợi không chỉ duy trì sự khánh kiệt nền kinh tế mà còn
làm cho trí tuệ, lòng dũng cảm, tính cách, ý chí, lòng quyết tâm và
lòng tự tin, không thể phát triển được.
Thông
tin chính là cái chúng ta cần. Chúng ta phải nói chuyện với quần chúng
nhân dân. Chúng ta cần phải kiểm tra lại các sự kiện. Trong đa số các
trường hợp, đấy không phải là thông tin mật, nhưng ít người chịu quan
tâm. Bằng chứng không thể chối cãi được là chủ nghĩa tư bản thị trường
tự do, tự do thương mại và bình đẳng trước pháp luật, tạo ra thành công
kinh tế cho quần chúng nhân dân.
Điều
chúng ta là cần chủ nghĩa tư bản thị trường tự do, nó sẽ tạo ra không
gian cho chúng ta thể hiện năng lực của mình. Nhà kinh tế học Peru, ông
Hernando de Soto, đã chỉ rõ trong tác phẩm Điều kì diệu của tư bản (The Mystery of Capital)
cách thức người nghèo biến “vốn chết” thành vốn “năng động” nhằm cải
thiện cuộc sống của chính họ. Thiếu vốn không phải là sự kiện không thể
tránh được. Ở châu Phi chúng ta có nhiều vốn, nhưng đa phần không được
sử dụng nhằm cải thiện cuộc sống của chúng ta. Đấy là “vốn chết”. Chúng
ta phải hoàn thiện quyền sở hữu của chúng ta để biến những đồng vốn nhàn
rỗi thành “vốn năng động”, thành những
đồng vốn tạo ra cuộc sống. Chúng ta cần phải có quyền sở hữu, nghĩa là
chúng ta đòi tôn trọng quyền của chúng ta. Chúng ta đòi bình đẳng trước
pháp luật. Chúng ta đòi chủ nghĩa tư bản thị trường tự do.
June
Arunga là nữ doanh nhân và nhà sản xuất phim ở Kenya. Bà là người sáng
lập và tổng giám đốc điều hành của hãng Open Quest Media LLC và đã thực
hiện mấy dự án trong lĩnh vực viễn thông ở châu Phi. Bà đã sản xuất hai
bộ phim tài liệu về châu Phi cho hãng BBC là Con đường của quỉ sứ (The
Devil’s Footpath), nói về chuyến đi sáu tuần, dài 5.000 dặm, từ Cairo
đến Cape Town, của bà; và Lên án ai? (Who’s to Blame?), nói về cuộc
tranh luận/thảo luận giữa Arunga và cựu tổng thống Jerry Rawlings của
Ghana. Bà thường viết cho trang mạng AfricanLiberty.org và là đồng tác
giả cuốn Cuộc cách mạng của điện thoại di động ở Kenya (The Cell Phone
Revolution in Kenya). Arunga tốt nghiệp khoa luật tại trường tổng hợp
Buckingham (University of Buckingham), Anh quốc.
Nguồn: The Morality of Capitalism do Tom G. Palmer chủ biên, nhà xuất bản Jameson Books ấn hành, 2011.
Trên mạng: http://studentsforliberty.org/college/the-morality-of-capitalism/
Thị trường và đạo đức 16
Ludwig von Mises - Cơ sở kinh tế của tự do
Phạm Nguyên Trường dịch
Động
vật hành động vì những thôi thúc bản năng. Chúng làm theo những xung
động mạnh mẽ nhất và đòi đáp ứng ngay tại mỗi thời điểm. Chúng là những
con rối của những ham muốn của chính chúng.
Con
người khác loài vật ở chỗ biết lựa chọn giữa những phương án khác nhau.
Con người điều chỉnh hành vi của mình một cách có cân nhắc. Con người
có thể làm chủ được những xung động và ước muốn của mình, con người có
đủ sức kìm nén những ước muốn mà để đáp ứng chúng thì phải hi sinh những
mục tiêu quan trọng hơn. Nói ngắn: con người hành động, con người hướng
tới những mục tiêu đã được lựa chọn. Đấy là điều chúng ta nghĩ trong
đầu khi chúng ta tuyên bố rằng con người là một nhân vật đức hạnh, nhận
vật tự chịu trách nhiệm cho nhân cách của mình.
Tự do là định đề của đức hạnh
Tất
cả những học thuyết và những lời giáo huấn về đức hạnh, dù là dựa trên
tín điều tôn giáo hay học thuyết thế tục, thí dụ như những người khắc
kỉ, đều giả định rằng các cá nhân tự chủ về mặt đạo đức và vì vậy mà tất
cả những học thuyết và lời giáo huấn đó đều viện đến lương tâm của mỗi
cá nhân. Tất cả các học thuyết này đều giả định rằng cá nhân có quyền
tự do lựa chọn giữa những phương án hành xử khác nhau và đòi hỏi rằng
phải hành xử phù hợp với những qui tắc xác định, tức là phải hành xử
theo các qui tắc đạo đức. Làm điều tốt, tránh xa điều xấu.
Rõ
ràng là những lời cổ vũ và khuyên răn về đức hạnh chỉ có ý nghĩa khi ta
nói với những người tự do mà thôi. Nói điều đó với những người nô lệ là
việc làm vô nghĩa. Nói với người nông nô cái gì là tốt, cái gì là xấu
cũng chẳng được ích lợi gì. Anh ta không được tự do lựa chọn cách hành
xử của mình, anh ta bị buộc phải nghe theo mệnh lệnh của chủ. Thật khó
có thể lên án anh ta nếu anh ta làm theo lệnh của chủ dù có thể bị những
hình phạt cực kì tàn ác, đe dọa không chỉ anh ta mà cả người thân trong
gia đình anh ta nữa.
Đấy
là lí do vì sao tự do không chỉ là định đề chính trị mà còn là định đề
quan trọng của mọi nền đạo đức, cả tôn giáo lẫn thế tục.
Cuộc đấu tranh cho tự do
Trong
hàng ngàn năm, phần đông nhân loại hoàn toàn hay ít nhất là về nhiều
mặt đã không được quyền lựa chọn giữa cái đúng và cái sai. Trong xã hội
chia thành đẳng cấp của những ngày đã qua đó, những giai tầng bên dưới
(đa phần dân chúng) thường bị hệ thống kiểm soát khắt khe ngăn chặn.
Biểu hiện rõ ràng nhất của nguyên tắc này là quy chế của Đế chế La Mã,
cho phép các ông hoàng và bá tước của đế chế có quyền quyết định trách
nhiệm tôn giáo của những người dưới quyền họ.
Người
phương Đông ngoan ngoãn qui thuận tình trạng này. Nhưng những người
Thiên chúa giáo và hậu duệ của họ ở những vùng lãnh thổ hải ngoại chưa
bao giờ ngừng đấu tranh cho tự do. Họ đã xóa bỏ dần tất cả đặc quyền đặc
lợi của các giai tầng và đẳng cấp và xóa bỏ những điều kiện bất lợi cho
đến khi thiết lập được điều mà những nhà tiên khu của chế độ toàn trị
cố gắng bôi nhọ bằng cách gọi đấy là hệ thống tư sản.
Uy thế của người tiêu dùng
Nền
tảng kinh tế của hệ thống tư bản là kinh tế thị trường, trong đó người
tiêu dùng là “thượng đế”. Người tiêu dùng, nghĩa là tất cả mọi người,
quyết định – bằng cách mua hay không mua – cần sản xuất cái gì, số lượng
bao nhiêu và chất lượng ra sao. Các doanh nhân - do tính toán lời lỗ -
buộc phải tuân thủ mệnh lệnh của người tiêu dùng. Chỉ những doanh nghiệp
cung cấp một cách tốt nhất và rẻ nhất những món hàng và dịch vụ mà
người tiêu dùng muốn mua nhất mới có thể phát đạt được mà thôi. Những
doanh nghiệp không đáp ứng được người tiêu dùng sẽ bị lỗ và cuối cùng
phải ngừng kinh doanh.
Trong
giai đoạn tiền tư bản người giàu là những người có những điền sản lớn.
Họ hay tổ tiên của họ có được tài sản là do nhà vua – người mà nhờ họ
giúp đỡ đã chiếm được đất nước và nô dịch được những người sống trên
vùng đất đó – ban tặng (dưới dạng thái ấp hay đất phong). Những điền chủ
quí tộc đó là những ông chủ thật sự, họ không cần người mua. Nhưng
người giàu trong xã hội công nghiệp tư bản lại phụ thuộc vào thị trường.
Họ kiếm được tài sản là do phục vụ người tiêu dùng tốt hơn những người
khác và họ sẽ bị mất tài sản khi những người kia đáp ứng được ước muốn
của người tiêu dùng tốt hơn hay rẻ hơn họ.
Trong
nền kinh tế thị trường tự do, người chủ tư bản buộc phải đầu tư vào
những ngành có thể phục vụ xã hội một cách tốt nhất. Do đó, quyền sở hữu
hàng hóa tư bản liên tục được chuyển vào tay những người biết cách phục
vụ người tiêu dùng một cách tốt nhất. Hiểu theo nghĩa này, trong nền
kinh tế thị trường, tài sản tư nhân là một loại dịch vụ công cộng, buộc
người chủ sở hữu phải sử dụng nó nhằm đáp ứng một cách tốt nhất quyền
lợi của người tiêu dùng. Đấy là cái mà các nhà kinh tế học hàm ý khi họ
gọi kinh tế thị trường là nền dân chủ, trong đó từng đồng xu đều có
quyền bỏ phiếu.
Khía cạnh chính trị của tự do
Chính
phủ đại diện là hệ quả chính trị tất yếu của nền kinh tế thị trường.
Phong trào tư tưởng xây dựng lên chế độ tư bản hiện đại cũng là phong
trào đã đưa các quan chức được bầu thế chỗ cho chính quyền độc tài của
những ông vua chuyên chế và những nhà quí tộc cha truyền con nối. Chính
cái chủ nghĩa tự do tư sản vẫn bị người ta chê bai đó đã đem đến tự do
lương tâm, tự do tư tưởng, tự do ngôn luận và tự do báo chí và đặt dấu
chấm hết cho những sự ngược đãi bất công đối với những người bất đồng.
Đất
nước tự do là đất nước, trong đó mỗi công dân đều có quyền tự do sống
theo ý mình. Người công dân được tự do cạnh tranh trên thương trường
nhằm giành lấy những công việc mà anh ta ưa thích nhất và trên sân khấu
chính trị thì giành lấy những chức vụ cao nhất. Anh ta phụ thuộc vào
thiện ý của người khác như thế nào thì những người kia cũng phụ thuộc
vào thiện ý của anh ta như thế ấy. Muốn thành công trên thương trường,
anh ta phải làm cho người tiêu dùng hài lòng; muốn thành công trong lĩnh
vực công, anh ta phải làm cho cử tri hài lòng. Hệ thống này đã đem đến
cho những nước tư bản phương Tây, Mĩ, Australia mức độ gia tăng dân số
chưa từng có trước đây và đem đến cho họ mức sống cao chưa từng thấy.
“Người dân bình thường” được hưởng những thứ mà ngay cả những người giàu
có nhất trong thời tiền tư bản cũng không dám mơ ước. Anh ta được hưởng
những thành quả tinh thần của khoa học, của thi ca và nghệ thuật mà
trước đây chỉ có nhóm tinh hoa trong số những người giàu có mới được
tiếp cận mà thôi. Và anh ta được tự do thờ cúng theo lương tâm của mình.
Sự xuyên tạc của phái xã hội chủ nghĩa
Tất
cả những sự kiện liên quan tới hoạt động của hệ thống tư bản chủ nghĩa
đã bị các chính trị gia và người cầm bút tự dán lên mình nhãn mác của
chủ nghĩa tự do xuyên tạc và bóp méo. Thế mà trong thế kỉ XIX chủ nghĩa
tự do chính là trường phái tư tưởng đã đập tan chính quyền độc đoán của
vua chúa và quí tộc và mở đường cho tự do thương mại và tự do kinh
doanh. Theo những người biện hộ cho sự trở lại của chế độ chuyên chế thì
tất cả những điều xấu xa đang làm bại hoại nhân loại đều từ những âm
mưu nham hiểm của những nhà tư sản kếch xù mà ra, muốn đem lại của cải
và hạnh phúc cho người dân lương thiện thì phải đặt những công ty này
dưới quyền kiểm soát ngặt nghèo của chính phủ. Họ thừa nhận – mặc dù mới
chỉ gián tiếp – rằng điều đó có nghĩa là chấp nhận chủ nghĩa xã hội,
chấp nhận Liên Xô. Nhưng họ bảo là chủ nghĩa xã hội trong các nước
phương Tây sẽ hoàn toàn khác với chủ nghĩa xã hội ở Nga. Và dù thế nào
đi nữa thì đấy cũng là biện pháp duy nhất có thể áp dụng nhằm tước đoạt
quyền lực của những công ty khổng lồ và ngăn chặn, không để chúng tiếp
tục xâm phạm lợi ích của nhân dân.
Muốn
chống lại trò tuyên truyền cuồng tín này thì phải nhắc đi nhắc lại sự
thật là chính các doanh nghiệp lớn đã mang đến cho quần chúng mức sống
cao chưa từng có. Những món hàng xa xỉ phẩm dành cho một số ít người
giàu có có thể được những doanh nghiệp nhỏ sản xuất. Nhưng nguyên tắc
căn bản của chủ nghĩa tư bản là sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu của nhiều
người. Chính những người làm cho các công ty lớn lại cũng là những người
tiêu thụ những sản phẩm do họ làm ra. Quan sát gia đình những người có
thu nhập trung bình ở Mĩ, bạn sẽ thấy bánh xe của máy móc đang quay vì
ai. Chính các công ty lớn đã làm cho người dân bình thường tiếp cận được
với những thành tựu của công nghệ hiện đại. Năng suất lao động cao của
nền sản xuất lớn làm cho mọi người đều được lợi.
Nói
về “quyền lực” của doanh nghiệp lớn là việc làm ngu xuẩn. Biểu hiện chủ
yếu nhất của chủ nghĩa tư bản trong tất cả các vấn đề kinh tế là quyền
lực tối cao nằm trong tay người tiêu dùng. Tất cả các doanh nghiệp lớn
đều phát triển từ một xuất phát điểm khiêm tốn, chúng lớn lên là nhờ sự
ủng hộ của người tiêu dùng. Không có doanh nghiệp vừa và nhỏ nào có thể
đưa ra những sản phẩm mà không người Mĩ nào muốn mua. Công ty càng lớn
thì càng phụ thuộc vào thiện ý của người tiêu dùng. Chính ước muốn (có
người nói là sự điên rồ) của người tiêu dùng đã thúc đẩy ngành sản xuất ô
tô làm ra những chiếc xe to đùng và bây giờ lại buộc họ phải sản xuất
những chiếc xe nhỏ hơn. Các cửa hàng và siêu thị phải thường xuyên điều
chỉnh, thường xuyên đổi mới hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu luôn luôn
thay đổi của người tiêu dùng. Qui luật căn bản nhất của thị trường là:
khách hàng bao giờ cũng đúng.
Những
người phê phán hoạt động kinh doanh và làm ra vẻ như nắm được những
biện pháp cung cấp tốt hơn thực chất chỉ là kẻ ba hoa chích chòe vô công
rồi nghề mà thôi. Nếu những người đó nghĩ rằng biện pháp của họ hoàn
hảo hơn thì tại sao họ không tự mình đem ra thử? Ở đất nước này lúc nào
cũng có những nhà tư sản đang tìm kiếm cơ hội đầu tư, họ sẵn sàng cung
cấp vốn cho bất kì sáng kiến hữu lí nào. Xã hội bao giờ cũng muốn mua
những món hàng tốt hơn hoặc rẻ hơn hoặc vừa tốt hơn vừa rẻ hơn. Trên
thương trường, giá trị không phải là lời nói mà là việc làm. Nói không
làm cho các “ông trùm tư bản” trở thành giàu có được, phục vụ những
người tiêu dùng đã làm cho họ trở thành những người giàu có như thế.
Tích lũy tư bản làm cho mọi người đều được lợi
Hiện
nay sành điệu là người phớt lờ sự kiện sau đây: tất cả sự tiến bộ về
mặt kinh tế đều phụ thuộc vào quá trình tiết kiệm và tích lũy tư bản.
Không một thành tựu tuyệt vời nào của khoa học và công nghệ có thể được
đem ra áp dụng trong thực tiễn nếu số vốn cần thiết không được tích lũy
sẵn từ trước. Điều cản trở những nước lạc hậu về kinh tế, không cho họ
triển khai tất cả những lợi thế của những phương pháp sản xuất của
phương Tây và vì vậy mà tiếp tục giam hãm nhân dân các nước đó trong
cảnh bần hàn không phải là họ chưa làm quen với công nghệ mà là do đồng
vốn ở đó không có hiệu quả. Khẳng định rằng vấn đề của các nước chưa
phát triển là thiếu hiểu biết kĩ thuật, không có “know-how” là sai. Đa
số các doanh nhân và các kĩ sư của họ đều tốt nghiệp tại những trường
tốt nhất của châu Âu và Mĩ, những người này nắm được các môn khoa học
ứng dụng. Nhưng họ bị trói chân trói tay vì thiếu vốn.
Một
trăm năm trước, nước Mĩ thậm chí còn nghèo hơn các nước này. Chính “chủ
nghĩa cá nhân thô lậu”, trong những năm trước khi có Chính sách mới
(New Deal), không tạo ra những trở ngại trầm trọng cho những người có
sáng kiến đã biến nước Mĩ thành đất nước giàu có nhất thế giới. Doanh
nhân trở thành những người giàu có vì họ chỉ tiêu dùng một phần nhỏ lợi
nhuận của mình và đầu tư trở lại phần lớn số tiền kiếm được. Đấy là cách
họ làm cho mình và đồng thời làm cho những người khác cùng trở thành
giàu có. Tích lũy tư bản làm cho năng suất lao động tăng lên và đồng
lương cũng tăng lên theo.
Trong
chế độ tư bản, lòng tham của từng doanh nhân riêng lẻ làm cho không chỉ
anh ta mà tất cả những người khác đều được lợi. Có mối quan hệ hỗ tương
giữa tài sản mà anh ta thu về thông qua việc phục vụ người tiêu dùng và
số tư bản tích lũy được, và sự cải thiện điều kiện sống của những người
làm công ăn lương, cũng là những người tiêu dùng. Quần chúng nhân dân,
cả trong vai trò người làm công ăn lương lẫn người tiêu dùng đều muốn
việc làm ăn luôn phát đạt. Đấy chính là tâm tư của những người theo
trường phái tự do trước đây khi họ tuyên bố rằng trong nền kinh tế thị
trường quyền lợi chân chính của tất cả các nhóm dân cư đều được điều
hòa, hài hòa quyền lợi là hiện tượng giữ thế thượng phong.
Chế độ tập quyền đe dọa thịnh vượng kinh tế
Người
công dân Mĩ sống và làm việc trong trạng thái tinh thần và đạo đức của
hệ thống tư bản chủ nghĩa. Điều kiện ở một số khu vực ở Mĩ vẫn còn kém
xa so với dân cư những khu vực phát triển hơn, mà đây lại là phần lãnh
thổ rộng lớn hơn. Nhưng tốc độ công nghiệp hóa nhanh chóng đáng lẽ đã
xóa bỏ được những khu vực lạc hậu nhỏ bé này từ lâu nếu chính sách Kinh
tế mới không làm chậm lại quá trình tích lũy tư bản, một phương tiện
không thể thay thế được đối với sự cải thiện nền kinh tế.
Đã
quen với những điều kiện của chủ nghĩa tư bản, người dân bình thường ở
Mĩ coi việc doanh nghiệp mỗi năm đều tạo ra một điều gì đó mới mẻ và dễ
dàng tiếp cận hơn là chuyện đương nhiên. Nhìn lại những năm trước đây
của chính cuộc đời mình, người ta thấy rằng nhiều đồ đạc mà thời trai
trẻ người ta chưa hề biết và nhiều thứ thời đó rất ít người được sử dụng
thì nay đã trở thành thiết bị bình thường hầu như của mọi gia đình.
Người ta tin tưởng rằng xu hướng đó sẽ vẫn còn giữ thế thượng phong
trong tương lai. Người ta gọi nó một cách đơn giản là “Lối sống Mĩ” và
không hề suy nghĩ nghiêm túc về câu hỏi: điều gì làm cho sự cải thiện
liên tục như thế trở thành khả thi? Người ta không hề bận tâm về hoạt
động của những tác nhân chắc chắn sẽ chặn đứng quá trình tích lũy tư bản
mà còn có thể chẳng bao lâu nữa sẽ làm cho nó phân tán ra nữa. Người ta
không phản đối những lực lượng (bằng cách gia tăng những khoản chi tiêu
công, cắt giảm việc tích lũy tư bản và thậm chí còn mang ra dùng ngay
một phần vốn đã được đầu tư vào doanh nghiệp và cuối cùng là gây ra nạn
lạm phát) đang phá hoại ngay chính cơ sở của sự thịnh vượng về mặt vật
chất của anh ta. Người ta không bận tâm tới sự phình ra của bộ máy nhà
nước, mà ở đâu làm như thế thì cũng đều dẫn đến kết quả là tạo ra hoặc
giữ lại những thứ mà người ta cho là cực kì xấu xa.
Không có tự do kinh tế thì không thể có tự do cá nhân
Đáng
tiếc là nhiều người cùng thời với chúng ta không nhận thức được sự rằng
sự phình lên của bộ máy nhà nước và đem quyền năng vô hạn của nhà nước
thay cho nền kinh tế thị trường thì chắc chắn sẽ làm cho đạo đức của
người ta thay đổi đến mức nào. Người ta nghĩ rằng hoạt động của con
người chia thành hai lĩnh vực rõ ràng – một bên là lĩnh vực hoạt động
kinh tế còn bên kia là lĩnh vực hoạt động được coi là phi kinh tế. Họ
nghĩ rằng hai lĩnh vực này chẳng liên quan gì với nhau hết. Cái tự do mà
chủ nghĩa xã hội xóa bỏ “chỉ là” tự do hoạt động kinh tế, còn tự do
trong tất cả các lĩnh vực khác đều vẫn giữ nguyên không suy xuyển.
Nhưng
đây không phải là hai lĩnh vực độc lập với nhau như học thuyết này nói.
Loài người không bơi trên chín tầng mây. Mọi việc con người làm đều
nhất định sẽ tác động tới lĩnh vực kinh tế hoặc vật chất và đều đòi hỏi
người đó phải có đủ sức mạnh để có thể tác động tới những lĩnh vực này.
Muốn sống sót người ta phải đổ mồ hôi sôi nước mắt và phải có cơ hội sử
dụng một số tài sản vật chất hữu hình nào đó.
Nhiều
người lầm lẫn khi cho rằng những sự kiện diễn ra trên thương trường chỉ
liên quan đến khía cạnh kinh tế của đời sống mà thôi. Nhưng trên thực
tế, giá cả trên thị trường phản ánh không chỉ “những mối quan tâm về mặt
vật chất” như thức ăn, nhà ở và những tiện nghi khác, mà còn phản ảnh
cả những mối quan tâm thường được gọi là tinh thần hay cao quí nữa. Theo
hoặc không theo những điều răn của tôn giáo (hoàn toàn không làm một số
việc nào đó hoặc không làm trong những ngày đặc biệt nào đó, giúp những
người khốn khó, xây dựng hoặc sửa chữa nơi thờ phụng và nhiều việc khác
nữa) là một trong những nhân tố quyết định việc cung cấp và nhu cầu về
những loại hàng hóa tiêu dùng khác nhau và vì vậy mà cũng quyết định giá
cả và hành động của doanh nghiệp. Cái tự do mà nền kinh tế thị trường
bảo đảm cho cá nhân không đơn giản chỉ là tự do “kinh tế”, tách biệt hẳn
với những quyền tự do khác. Nó còn ngụ ý cả quyền tự do quyết định tất
cả những vấn đề được coi là đạo đức, tinh thần hay trí tuệ nữa.
Bằng
cách kiểm soát toàn diện và tuyệt đối tất cả các tác nhân của quá trình
sản xuất, chế độ xã hội chủ nghĩa còn kiểm soát toàn bộ đời sống của cá
nhân nữa. Chính phủ phân cho mỗi người một công việc cụ thể. Chính phủ
quyết định được in và được đọc những loại sách báo nào, ai được hưởng
thú vui viết lách, ai được quyền sử dụng phòng họp công cộng, được quyền
phát ngôn và được quyền sử dụng tất cả các phương tiện thông tin liên
lạc khác. Điều đó có nghĩa là những người nắm quyền điều khiển những
công việc của chính phủ cũng là những người quyết định tối hậu tư tưởng
nào, học thuyết nào, giáo lí nào thì được tuyên truyền còn tư tưởng nào,
học thuyết nào, giáo lí nào thì không. Dù hiến pháp thành văn và được
phổ biến có thể nói về tự do lương tâm, tự do tư tưởng, tự do ngôn luận,
tự do báo chí và về việc không can thiệp vào các vấn đề tôn giáo thì
trong chế độ xã hội chủ nghĩa, khi chính phủ không cung cấp những điều
kiện vật chất cho việc thực hiện những quyền đó thì chúng chỉ là những
ngôn từ chết mà thôi. Người nào nắm độc quyền toàn bộ phương tiện thông
tin thì kẻ đó cũng nắm chắc trong tay mình trái tim và khối óc của tất
cả những người khác.
Điều
làm cho nhiều người hoàn toàn không nhận thức được những tính chất căn
bản của hệ thống xã hội chủ nghĩa cũng như những hệ thống toàn trị khác
là ảo tưởng cho rằng hệ thống này sẽ được vận hành theo đúng như những
gì họ nghĩ là đáng ao ước nhất. Trong khi ủng hộ chủ nghĩa xã hội, họ
cho rằng đương nhiên là “nhà nước” lúc nào cũng sẽ làm cái mà họ muốn nó
làm. Họ chỉ coi chế độ toàn trị kiểu đó mới là chủ nghĩa xã hội “chân
chính”, “thực tế” hoặc “tốt đẹp”, đấy là chế độ mà những người cầm
quyền tương thích với ý tưởng của chính họ. Tất cả những kiều khác đều
bị họ coi là giả mạo hết. Điều đầu tiên họ chờ đợi ở bạo chúa là ông ta
sẽ dẹp hết những ý tưởng trái ngược với ý tưởng của họ. Trên thực tế,
tất cả những người ủng hộ chủ nghĩa xã hội kiểu đó đều là những người bị
ám ảnh bởi phức cảm độc tài hay toàn trị mà chính họ cũng không biết.
Họ muốn chính phủ dùng vũ lực tiêu diệt hết những ý kiến và kế hoạch mà
họ không đồng ý.
Ý nghĩa của quyền được bất đồng
Những
nhóm ủng hộ chủ nghĩa xã hội khác nhau – dù họ có tự gọi là cộng sản,
xã hội hay đơn giản là cải cách xã hội thì cũng thế - đồng ý với nhau về
một cương lĩnh chính trị nòng cốt. Tất cả bọn họ đều muốn dùng bộ máy
kiểm soát hoạt động sản xuất của nhà nước (hay như một số người thích
gọi là kiểm soát của xã hội) thay thế cho kinh tế thị trường cùng với
những người tiêu dùng đầy uy quyền của nó. Họ chia rẽ không phải vì
những vấn đề về quản lí kinh tế mà vì đức tin tôn giáo hay ý thức hệ. Có
những người xã hội chủ nghĩa Thiên chúa giáo (Tin lành hay Công giáo)
và có những người xã hội chủ nghĩa vô thần. Mỗi một kiểu chủ nghĩa xã
hội này lại cho rằng quốc gia xã hội chủ nghĩa đương nhiên là sẽ được
dẫn dắt bởi những giáo huấn tôn giáo của họ hoặc phủ nhận bất kì giáo lí
nào. Họ không bao giờ nghĩ đến khả năng là chế độ xã hội chủ nghĩa có
thể được cai trị bởi những người thù địch với đức tin hay những nguyên
tắc đạo đức của họ, những kẻ có thể coi nhiệm vụ của họ là sử dụng tất
cả sức mạnh khủng khiếp của nhà nước xã hội chủ nghĩa nhằm đàn áp tất cả
những gì mà dưới con mắt của họ là sai lầm, mê tín dị đoan hay sùng bái
ngẫu tượng.
Sự
thật đơn giản là cá nhân chỉ được quyền tự do lựa chọn giữa điều mà họ
coi là đúng và điều mà họ coi là sai khi họ độc lập về mặt kinh tế với
chính phủ. Chính phủ xã hội chủ nghĩa có đủ sức mạnh làm cho bất đồng ý
kiến trở thành bất khả thi, bằng cách kì thị những nhóm tôn giáo hay ý
thức hệ mà họ không ưa và không cung cấp cho những nhóm này phương tiện
vật chất cần thiết cho việc truyền bá và thực hành đức tin của họ. Hệ
thống độc đảng, cũng là nguyên tắc chính trị của luật pháp xã hội chủ
nghĩa, còn hàm ý một tôn giáo và một hệ thống đạo đức nữa.
Chính
phủ xã hội chủ nghĩa nắm trong tay những phương tiện có thể được sử
dụng nhằm tạo ra sự phục tùng nghiêm ngặt trên tất cả các mặt, chính phủ
quốc xã gọi đấy là Gleichschaltung (phục tùng chính trị). Các nhà sử học đã chỉ ra rằng trong giai đoạn Cải cách[i],
in ấn có vai trò quan trọng. Nhưng nếu tất các máy in đều do chính phủ
dưới quyền Charles V của Đức hay những ông vua vương triều Valois của
Pháp[ii] thì
các nhà cải cách còn có cơ hội nào hay không? Tương tự như thế, nếu tất
cả các phương tiện thông tin liên lạc đều nằm trong tay nhà nước thì
Marx còn có cơ hội nào hay không?
Tất
cả những người yêu chuộng tự do lương tâm đều phải kinh tởm chủ nghĩa
xã hội. Đương nhiên là tự do tạo điều kiện cho con người làm không chỉ
việc tốt mà còn cả việc xấu nữa. Nhưng hành động được thực hiện dưới áp
lực của một chính phủ có quyền lực vô giới hạn thì dù tốt đến đâu cũng
chẳng có tí giá trị đạo đức nào.
Ludwig
von Mises (1881-1973) là lãnh tụ nổi tiếng của trường phái kinh tế Áo.
Ông giảng dạy và viết về lí thuyết kinh tế, lịch sử, nhận thức luận,
chính quyền và triết lí chính trị. Ông có những đóng góp quan trọng
trong lí thuyết kinh tế, trong đó có lí thuyết về quan hệ giữa lượng
tiền lưu thông và giá cả, lí thuyết về chu kì kinh doanh… Mises là học
giả đầu tiên công nhận rằng kinh tế học chỉ là một phần của môn khoa học
lớn hơn về hành vi của con người mà Mises gọi là “nghiên cứu hành vi
của con người”.
Bài
này được đăng lần đầu trên tờ The Freeman, vào tháng 4 năm 1960, sau đó
trở thành chương 1 cuốn: Tự do kinh tế và chủ nghĩa can thiệp (Economic
Freedom and Interventionism - 1980). Trên mạng: http://mises.org/daily/5310
[i] Ý nói cải cách tôn giáo ở châu Âu thế kỉ XVI-XVII.
[ii] Charles
V của Đức (1500–1558), theo Thiên chúa giáo, khủng bố những người dị
giáo ở Hà Lan và chiến đấu chống lại đạo Tin lành trong các công quốc
Đức. Trong giai đoạn trị vì của dòng họ Valois ở Pháp (1328–1589) đã xảy
ra những cuộc chiến tranh tôn giáo, đấy là người tin lành, trong đó có
người Huguenots, chiến đấu giành tự do thờ phụng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét