Tổng số lượt xem trang

Thứ Năm, 3 tháng 7, 2014

Lại nói về đồng minh

Lê Tuấn Huy - Lại nói về đồng minh

Việc giàn khoan Haiyang Shiyou 981 được đưa vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam cho thấy Hà Nội đã thất bại trong việc dùng “đồng chí” và “phi liên kết” làm đối sách cho sự bành trướng trên biển của Bắc Kinh.

Vài năm gần đây, Việt Nam đã chuyển bước nhất định để tạo vị thế mới. Tuy vậy, sau những thắng lợi ngoại giao từ ghế chủ tịch luân phiên ASEAN (2010), đến khi Hoa Kỳ xoay trục, được sự hỗ trợ của một số lập luận cũ và mới, Hà Nội chỉ duy trì đường hướng mới ở mức tối thiểu để “cân bằng” với các bên, và càng xác quyết con đường phi đồng minh.

Trước khi bàn đến các lập luận ấy, cần nhắc lại rằng lịch sử và thực tế đã cho thấy đồng minh là một nhu cầu quan hệ khách quan ở mọi thời đại, mọi lãnh thổ, mọi chế độ xã hội. Nó có thể là một liên minh chính thức về nhiều mặt, theo mục tiêu chiến lược, mà cũng có thể chỉ là sự gắn kết không chính thức hoặc tùy vào mục tiêu tình thế, dựa trên những chia sẻ về giá trị, quyền lợi, hoặc chỉ là động thái sách lược, chiến thuật. Nó có thể là một liên minh chính trị, một khối quân sự, kinh tế, hay những dạng đồng minh về thể chế, văn hóa… Và quan hệ đồng chí cũng chỉ là một biến thể trong sự đa dạng đó.

Từ sau Thế chiến thứ II, ngoài con số rất hiếm hoi quốc gia được thừa nhận trung lập, còn lại, tùy tương quan và giai đoạn, không một không gian địa lý nào tránh khỏi thế liên kết ngoại biên, theo hình thức này hay hình thức khác.

Khi chưa có sự việc nghiêm trọng hiện nay tại Biển Đông, các ý kiến đứng trên cương vị chính thống đã không bác cách tiếp cận đồng chí. Ngược lại, có nhiều khẳng định, rằng Việt Nam không cần đến đồng minh, vì quyết định là ở nội lực.

1. Hiểu nội lực và ngoại lực như thế nào?

Phát triển nội lực để xây dựng một quốc gia thịnh vượng, đủ sức đối mặt với mọi thách thức, là quan điểm hoàn toàn đúng. Nhưng nói rộng ra, rằng phải tự lực chứ không cần đến ngoại lực, không cần đến đồng minh, là hoàn toàn sai.

Về nhận thức, lập luận mở rộng đó phản ánh một tư duy phi lịch sử và phi thực tế.

Về chiến lược, nó lấycái dài hạn thay cho cái cấp bách, nhầm lẫn giữa tương quan kinh tế – xã hội với tương quan chính trị – quân sự, bởi nội lực là cái trường kỳ của mọi quốc gia, và khoảng cách giữa các nước về nguồn lực này không phải một sớm một chiều mà rút ngắn, trong khi vấn đề chủ quyền liên quan đến Trung Quốc lại rất cấp bách.

Về chiến thuật, chỉ nhắm đến nội lực (vốn rất thua kém) thì chẳng khác nào tự trói tay trước một đối thủ vừa vũ trang hiện đại đầy mình, vừa đủ thế và lực để phân hóa sự liên kết khả dĩ của đối phương.

Bên cạnh đó, nhấn mạnh nội lực để bác bỏ đồng minh, xem nó chỉ là ngoại lực, là cách hiểu siêu hình.

Lẽ nào trong hai cuộc chiến chống Pháp và Mỹ, chỉ bằng nội lực riêng có mà Việt Nam đã thắng? Đương nhiên là không. Hậu thuẫn và viện trợ của các đồng minh Liên Xô, Đông Âu, Trung Quốc, nếu chỉ là ngoại lực thuần túy, tự nó sẽ chẳng mang ý nghĩa gì. Chỉ khi người Việt chuyển hóa thành cái của mình, không xem chúng là bất đắc dĩ hay thiếu hữu dụng, thì mới có được thành quả như đã thấy.

Tương tự, từ sau đổi mới, nếu xem đầu tư nước ngoài là như một ngoại lực chẳng đặng đừng (phải chấp nhận tư bản nước ngoài vào bóc lột), chứ không xem như một nguồn lực nội tại hóa, thì chắc chắn bộ mặt đất nước đã không như ngày nay.

Quan hệ đồng minh, khi xác lập đầy đủ và vận hành hiệu quả, sẽ trở thành một cấu thành của nguồn lực chính trị, kinh tế, ngoại giao, quân sự của quốc gia. Vấn đề là, thay vì giữ nhận thức sai lầm khi tách bạch nội lực và ngoại lực, người làm chiến lược cần tính toán, vận dụng nguồn lực đặc biệt này sao cho tối ưu.

Nhưng không dừng ở vấn đề nội lực, có lập luận cho rằng sự liên kết vẫn không bảo đảm được cho đất nước khi gặp nguy, bởi đồng minh cũng chỉ nhắm đến quyền lợi của họ chứ không vì quyền lợi của ta. Hai dẫn chứng thuyết phục là hải chiến Hoàng Sa năm 1974 bị Hoa Kỳ làm ngơ, và chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979 bị Liên Xô tảng lờ.

2. Đồng minh để làm gì và quyền lợi trong quan hệ đó ra sao?

Cho rằng xác lập đồng minh là để được lập tức can thiệp quân sự, như nhiệm vụ thường trực và bất biến của họ, là cách nghĩ thiếu trách nhiệm với chính mình và người khác.

Trừ khi chiến tranh đã là tất yếu và toàn cục vì một hay nhiều bên đã có chủ đích, không quốc gia nào lại muốn những xung đột nhất thời và cục bộ trở thành nguyên cớ để khơi mào một cuộc chiến diện rộng, có sự tham gia trực tiếp của các bên thứ ba. Với những chuyển biến của cục diện thế giới từ sau chiến tranh lạnh, người làm chiến lược có lý trí khó mà nghĩ rằng tạo quan hệ đồng minh là để đối tác tức thì tham chiến cho mình, bất kể nguyên nhân, thời cuộc và chiến cuộc.

Vậy, phải chăng có đồng minh cũng như không, nên không cần phải có? Không, mà chính liên kết ngoại biên là nhằm hạn chế nguy cơ chiến tranh, bởi quan hệ đồng minh là để gia tăng vị thế và giảm thiểu nguy cơ hay thiệt hại cho các quốc gia của liên minh, chứ không phải để can thiệp vô tội vạ, làm tăng nguy cơ cho nước khác và giảm đi cơ hội hòa hoãn.

Cho nên, đồng minh không phải là loại quan hệ đơn chiều, chỉ để hưởng sự bảo vệ ở quốc gia này và phải đi bảo vệ ở quốc gia khác. Mà, vì quyền lợi của chính mình, nhận định và xử trí chuẩn xác về chiến lược, sách lược và chiến thuật là điều trước tiên phải có của quốc gia liên hệ trong vụ việc; và cùng với nó, tương tác đồng minh là điều kiện không thể thiếu, vì đó không những là thế lực răn đe từ xa, hỗ trợ phòng vệ, mà còn là lực lượng trực tiếp hậu thuẫn về ngoại giao và quốc phòng, chính trị và kinh tế, khi lâm sự.

Đặt hai sự kiện Việt Nam bị đồng minh phớt lờ trong cách nhìn ấy, có lẽ sẽ phần nào khách quan hơn.

Đứng trên lập trường của người Việt, ta không thể không bất bình trước những gì đã diễn ra. Nhưng cũng cần nhìn rộng hơn, vào thời cuộc và vị thế của hai đồng minh đó, tại thời điểm của mỗi sự kiện.

Về vai trò của Hoa Kỳ trong hải chiến Hoàng Sa, đã có ý kiến cho rằng một mặt, sa lầy trong chiến tranh Việt Nam, Hoa Kỳ ký Hiệp định Paris (27/01/1973) để chấm dứt sự tham chiến của mình; mặt khác, trước sự suy tàn kinh tế của khối Xô Viết và xu hướng tư bản hóa của Hoa Lục, nước Mỹ vừa chọn người đồng chí trở mặt của Liên Xô, vừa chấp nhận thua sách lược tại Việt Nam để sẽ thắng chiến lược trên thế giới, qua việc tập trung nguồn lực cho sự diệt vong khả dĩ của khối Đông Âu.

Chúng ta hiện không đủ dữ liệu để kết luận chắc chắn, nên vẫn không loại trừ việc Hoa Kỳ đã bỏ mặc Hoàng Sa chỉ vì sự tàn tạ của họ bởi chiến tranh, nhưng khả năng toàn cục như vừa nói cũng là một lý giải cần được nghiên cứu thấu đáo và có thể chấp nhận.

Khác với trường hợp Hoa Kỳ, nại Liên Xô ra để biện hộ cho quan điểm phi đồng minh, là vô lý và bất công. Họ không can thiệp trực tiếp nhưng vẫn hết lòng ủng hộ Việt Nam trong thời gian ấy. Bên cạnh đó, còn có những khía cạnh khác cần nhìn vào.

Không thể phủ nhận rằng cuộc chiến biên giới phía Bắc có liên hệ tới việc Việt Nam đưa quân vào Kampuchea, ít ra là nguyên cớ đối với Trung Quốc. Với người Việt, hành động của mình là hợp lý. Dù thế, thử hỏi, sau khi ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác với Liên Xô (08/11/1978), Hà Nội hành động quân sự nhưng có tham vấn trước với đồng minh không, hay chỉ nghĩ rằng ở tình huống nào cũng không thể bị Moscow bỏ mặc? Nếu đã tự mình đưa ra quyết sách, không tính đến tình thế của đồng minh, thì không thể trách cứ họ.

Xét trên toàn cục, đấy là thời kỳ mà các khó khăn đã tích tụ sâu rộng ở Liên Xô, và bản thân họ cũng đang trong tình trạng rất dễ bùng nổ tại biên giới với Trung Quốc. Vả lại, chỉ có dân chúng Việt Nam khi ấy không biết rằng một tháng là hạn định mà Đặng Tiểu Bình đã đặt ra cho vụ thử lửa này. Do vậy, xét mọi mặt, việc Liên Xô không can thiệp quân sự là xác đáng.

Nhìn hai sự kiện vừa nói theo kiểu một chiều để cho rằng đồng minh chỉ vì lợi ích của riêng họ mà thôi, thì cũng chính là đang xác tín rằng bản thân ta chỉ đứng trên lợi ích của riêng mình để phán xét.

Từ cổ chí kim, có nước nào không đứng trên lợi ích của chính mình và đặt nó lên hàng đầu không? Việt Nam không vì lợi ích của chính mình và không đặt nó lên hàng đầu chăng? Chỉ cần trả lời hai câu hỏi ấy, sẽ lập tức thấy rằng luận cứ đồng minh chỉ vì quyền lợi riêng của họ, ngay từ việc đặt thành vấn đề, đã là không đúng. Nó phản ánh cái tâm thức lấy mình làm trung tâm, đem quyền lợi của mình ra làm đơn vị đo lường cho người khác. Và đương nhiên, với thước đo ấy, sẽ không một quốc gia nào đáp ứng được.

Trong mọi sự vụ liên quốc gia, cái được xét để xác lập hoặc định hình quan hệ, là quyền lợi và mục tiêu chung. Nếu có thiện chí, các bên liên quan sẽ điều tiết để các quyền lợi trở nên hài hòa, bởi giữa các chủ thể khác nhau, không thể có quyền lợi nào trùng khít vào nhau, mà chỉ có sự đan xen, giao thoa với nhau. Do vậy, nếu đã nhìn nhận quyền lợi chung, vấn đề là cần chủ động thích ứng, vận dụng và mở rộng nó, thay vì cứ bất động mà đòi hỏi người khác phải vì quyền lợi của riêng mình.

Mặt khác, cùng một quốc gia sẽ có những quyền lợi chung khác nhau với những nước khác nhau, và chúng có thể xung khắc nhau. Nên, cùng lúc, sẽ có nhiều loại liên hệ đồng minh, tùy theo thực tế và nhu cầu. Từ đây, điều quan trọng là nhận thức về các quyền lợi ấy ra sao để xác định các nội dung, hình thức của liên kết, mà mấu chốt là xử trí tương quan giữa các liên hệ để xác địnhđâu là loại đồng minh có tính quyết định. Trừ thời kỳ đối lập toàn cầu giữa hai hệ thống xã hội, với sự thống lĩnh của quyền lợi chung về hệ tư tưởng, tự thân việc liên kết ngoại biên đã là và luôn là vấn đề về quyền lợi của quốc gia, dân tộc. Nên ngay trong giai đoạn phân cực đó, ta cũng thấy nổi bật những trường hợp trái khoáy làm nên lịch sử:

Liên bang Xô Viết có thể gia nhập khối Đồng minh của kẻ thù không đội trời chung về ý thức hệ khi bị nước Đức phát-xít tấn công. Tương ứng, để bảo vệ không gian tự do, phương Tây sẵn sàng là bạn chiến đấu của kẻ luôn muốn đào huyệt chôn mình.

Sau cuộc chiến tàn khốc, ở châu Á, Nhật đã nhanh chóng xóa đi mối thâm thù để xác lập đồng minh với chủ nhân hai quả bom nguyên tử ném xuống đất nước mình, bởi quốc gia ấy không những trợ giúp kiến thiết hậu chiến mà còn bảo đảm cho họ trước mọi đe dọa quân sự.

Còn Trung Hoa xã hội chủ nghĩa, đầu những năm 1970, đã đến với phương Tây như một đồng minh chính trị quyết định để chống lại Liên Xô, đồng thời cũng là đối tác hiệu năng cho nền kinh tế ọp ẹp của mình. Và cùng lúc, Hoa Kỳ phớt lờ quan hệ đồng minh thể chế với Đài Loan để chọn Hoa Lục làm “đối tác chiến lược toàn diện”.

Thế nhưng hòn đảo ấy không vì sự “phản bội” này mà mãi “tổn thương”, mãi “dự phòng” điều tương tự và cự tuyệt liên kết để khiến mình có thể cô độc. Họ không vì sự thay đổi nhất định của đồng minh trước tình thế chiến lược mới, không vì sự tương đồng văn hóa, lịch sử với Trung Quốc để bám lấy những cái chung thiếu thực chất so với nền tự do và ý tưởng độc lập mà họ theo đuổi. Từ khi Hoa Kỳ hậu thuẫn Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa giữ ghế tại Liên Hiệp quốc (1971) thay Trung Hoa Dân quốc, cùng với việc tăng cường nội lực từ nền kinh tế tự do và hoàn thiện nền chính trị dân chủ, Đài tiếp tục giữ vững thế liên minh vốn có. Điều đó đã giúp họ hùng mạnh cả về kinh tế lẫn quân sự, là một trong bốn con rồng châu Á, và sớm trở thành thế lực hải quân trong vùng.

Những ví dụ gần gũi trên cho thấy cách xử trí kinh điển về đồng minh, bao gồm cả yếu tố “đồng chí” ở mỗi bên. Họ không lấy hệ tư tưởng làm tâm điểm, mà là tình thế và vị thế. Họ không lấy “anh em” hay “láng giềng” làm chuẩn, mà là quyền lợi thiết thực và sự bảo an. Họ không “ghi vào tâm khảm” một sự biến lịch sử để co thủ, mà nhanh chóngthích ứng với hiện thực để bảo đảm hữu hiệu cho mình.

Trong khi đó, ở Việt Nam, sự cố bị bỏ rơi và nỗi e ngại quyền lợi riêng của đồng minh cứ ám thị không ít người. Gần đây, từ khi Hoa Kỳ xoay trục, nỗi ám ảnh đó lại được bổ sung bằng việc cho rằng chúng ta là bên thứ ba của cuộc chơi nước lớn, phải tránh bị lôi kéo để không trở thành nạn nhân.

3. Xác lập vị thế bên thứ ba bằng mong muốn hay thực tế?

Ý kiến cho rằng Việt Nam là bên thứ ba xuất phát từ tầm toàn cầu của vấn đề, là cuộc đua ngôi vị bá chủ giữa Hoa Kỳ và Hoa Lục. Xét về quyền lợi của riêng họ trong vị thế đó, đúng là Việt Nam ở ngoài cuộc. Nhưng xét giữa ta với từng siêu cường, và giữa ta với tương quan chung, thì không hẳn như vậy.

Với kết thúc của chiến tranh lạnh và do tương quan cụ thể với đồng minh, Hoa Kỳ đã rời khỏi Đông Nam Á qua việc đóng cửa căn cứ không quân Clark (1991) và căn cứ hải quân Subic (1992) ở Philippines. Nga cũng hành động tương tự ở Cam Ranh (1993)[1]. Cơ may bình yên của vùng dường như tiến triển thêm sau khi Tuyên bố về Ứng xử của các bên tại biển Nam Trung Hoa ra đời (2002).

Phần Việt Nam, sau khi rút khỏi Kampuchea (1989), đã bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc (1991) và Hoa Kỳ (1995), gia nhập ASEAN (1995), củng cố nền hòa bình qua Hiệp ước Biên giới trên đất liền (1999), Hiệp định Phân định vịnh Bắc Bộ và Hiệp định Hợp tác Nghề cá (2000) ký với Trung Quốc. Nhưng chính từ khi hai hiệp định sau có hiệu lực (2004), Hoa Lục khởi sự lối hành xử ngang tàng trên biển.

Ngày 08/01/2005, cảnh sát biển Trung Quốc xả súng vào tàu của ngư dân Thanh Hóa tại vùng đánh cá chung. Chín người chết, bảy người bị thương cùng tám người khác bị bắt về Hải Nam, mà theo họ, là kết quả từ hành động “ăn cướp có vũ trang nghiêm trọng trên biển” của ba tàu Việt Nam. Sự việc đã mở ra thời kỳ mới giữa hai nước: tranh chấp trên biển thay cho trên bộ.

Năm 2008, trong cuộc gặp vào những tháng đầu năm với Tư lệnh vùng Thái Bình Dương của Hoa Kỳ, Đô đốc Timothy Keating, giới chức tương nhiệm Hoa Lục đã bán chính thức đề nghị hai nước cùng chia đôi Thái Bình Dương[2].

Đến tháng Ba 2009, cục diện bắt đầu thay đổi từ sau vụ đối đầu Impeccable.

Tháng Năm 2009, Hoa Lục chính thức hóa trước thế giới về lãnh hải đường chín đoạn, bằng bản đồ đệ trình cho Liên hiệp quốc.

Tháng Ba 2010, Trung Quốc thông báo với Hoa Kỳ, xem “Nam Hải” là lợi ích cốt lõi. Đáp lại, tháng Bảy 2010, Ngoại trưởng Hillary Clinton loan báo tại Đối thoại Sangri-La, xem hòa bình, ổn định và tự do đi lại ở Biển Đông là lợi ích quốc gia.

Năm sau, trong vùng biển Việt Nam, tàu Trung Quốc cắt cáp tàu Bình Minh 02 (26/05/2011) và tàu Viking II (09/06/2011).

Tháng Tám 2011, Trợ lý Ngoại trưởng Kurt Campbell nói Hoa Kỳ cần chuyển hướng, từ các thách thức ngắn hạn ở Trung Đông sang các quan ngại lâu dài ở châu Á – Thái Bình Dương. Đến ngày 11/10/2011, Hillary Cliton công bố bài viết Thế kỷ Thái Bình Dương của Hoa Kỳ (America’s Pacific Century).

Tháng Mười một 2011, Tổng thống Barak Obama khẳng định châu Á – Thái Bình Dương là ưu tiên hàng đầu trong chính sách an ninh, cùng lúc với thỏa thuận triển khai 2.500 quân tại căn cứ Darwin, Australia.

Tháng Một 2012, Mỹ công bố chiến lược quốc phòng mới, giảm chi tiêu và chuyển hướng sang châu Á.

Tháng Sáu 2012, Việt Nam thông qua Luật Biển. Trung Quốc đáp lại bằng việc ồ ạt thực hiện các chương trình phát triển Tam Sa. Trước căng thẳng đó, tháng Bảy cùng năm, ASEAN bắt đầu “chính thức hóa” sự chia rẽ khi lần đầu tiên, hội nghị ngoại trưởng của khối không ra được tuyên bố chung do không thống nhất về vấn đề Biển Đông.

Trung tuần tháng Mười một 2012, Đại hội XVIII Đảng Cộng sản Trung Quốc xác định xây dựng một cường quốc biển. Ngày 30/11/2012, tàu Bình Minh 02 lại bị tàu Trung Quốc cắt cáp.

Tháng Một 2013, Tổng thống Obama ký đạo luật chi tiêu quốc phòng của năm, có điều khoản thể hiện việc Hoa Kỳ từ bỏ lập trường trung lập trong tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư tại Đông Bắc Á.

Ngày 22/01/2013, Philippines loan báo kiện Trung Quốc ra Trọng tài Liên hiệp quốc về tranh chấp biển. Trước đó, tháng Sáu 2012, bãi cạn Scarborough rơi vào tay nước lớn sau khi Philippines lỡ “mềm dẻo” mà tin vào kiểu đàm phán để áp đặt một chiều của Trung Quốc, tin vào lời hứa cùng rút lực lượng hai bên khỏi bãi, vốn đã căng thẳng từ khi họ đưa tàu vào hồi tháng Tư. Tháng Năm 2013, tiếp tục trả đủa vụ kiện, Trung Quốc đưa tàu chiến và hải giám vào bãi Second Thomas, nhưng chiếm đoạt bất thành.

Đầu tháng Sáu 2013, tại Đối thoại Shangri-La, Bộ trưởng Quốc phòng Chuck Hagel loan báo chuyển sáu mươi phần trăm lực lượng hải quân và không quân về khu vực Thái Bình Dương. Hoa Kỳ căn bản hoàn chỉnh kế hoạch xoay trục.

Ngày 22/11/2013, Trung Quốc tuyên bố vùng nhận dạng phòng không trên biển Hoa Đông. Bốn ngày sau, Hoa Kỳ điều hai máy bay B52 xâm nhập vào đó.

Hạ tuần tháng Tư 2014, vài giờ trước khi Tổng thống Obama đặt chân đến Philippines (sau chặng dừng chân tại Nhật, Nam Hàn và Malaysia), quan chức Mỹ – Phi ký thỏa thuận an ninh mới, cho phép Mỹ sử dụng một số căn cứ quân sự hướng ra Biển Đông.

Obama vừa rời khỏi châu Á, với các vị trí liên minh tối thiểu dọc biển Hoa Đông và Biển Đông đã chính thức hóa (Nhật – Phi – Úc) mà không có một quốc gia chủ yếu trong tranh chấp, sự vụ giàn khoan 981 xảy đến cho chính nước đó.

Tiến trình trên cho thấy Hoa Kỳ không phải là người khơi mào cuộc đấu hiện nay ở châu Á – Thái Bình Dương. Ngoài điểm nóng Bắc Hàn và trách nhiệm với nước Nhật chịu sự giải giáp, họ đã triệt thoát khỏi Đông Nam Á. Nếu không vì thách thức mới, không hẳn họ lại muốn tốn hao nguồn lực cho nó khi đã hao mòn bởi sự can thiệp vào Afghanistan và Iraq, bởi cuộc chiến chống khủng bố, và đặc biệt, khi địa vị kinh tế đã không còn như trước. Họ như một thế lực bên ngoài phải trở thành người trong cuộc, mà mục đích can dự là để duy trì trật tự thế giới đã có.

Còn Việt Nam, trong các xung đột liên quốc gia có tầm khu vực suốt mấy mươi năm qua, đã và vẫn là một bên chủ yếu. Chúng ta là người trong cuộc tại chỗ, có quyền lợi trực tiếp trong tranh chấp, có mục tiêu đa dạng, cụ thể và thiết thân hơn các thế lực bên ngoài. Chủ quyền bị đe dọa, tài nguyên bị xâm phạm, môi trường sinh sống ngàn đời của người dân ven biển bị thu hẹp đáng kể…, liệu ta có thể trở thành “bên thứ ba” để một “bên thứ hai” khác đối diện mà xử trí?

Trừ khi không xem quốc gia-dân tộc là tiên quyết mà vẫn cho rằng Trung Quốc thắng thế sẽ giúp chủ nghĩa xã hội vững mạnh, thì ở tầm toàn cầu, ai lãnh đạo thế giới chăng nữa, Việt Nam cũng không liên can. Vì dù Hoa Kỳ hay Hoa Lục, với thực tế lịch sử đã trải qua, người Việt biết rằng nước nhỏ cần uyển chuyển trước nước lớn để bảo đảm cho môi trường phát triển của mình.

Thế nhưng, sẽ có sự khác biệt hết sức lớn đối với Việt Nam khi một trong hai quốc gia này chi phối trật tự thế giới. Phần Hoa Kỳ, với cựu thù, họ không đối nghịch về lãnh thổ hay chủ quyền biển. Phần Trung Hoa, với người bạn hữu hảo, ngoài vấn đề lãnh thổ trên bộ đã im ắng, nay họ đang manh tâm cướp đoạt biển đảo. Trừ khi từ bỏ ý đồ thống lĩnh hoặc chiếm lĩnh xa bờ, nhà Hán của thế kỷ XXI sẽ không bao giờ ngừng việc khuất phục đồng chí phương Nam, như là điều kiện tiên quyết để thực hiện chiến lược biển của mình. Như vậy, ngay từ những bước đầu tiên của cuộc tranh đua hải dương, biểu hiện quan trọng nhất của tranh đua toàn cầu Mỹ – Trung, liệu ta có thể là kẻ vô can không?

Nếu chặt khúc toàn cục để lấy cái ngọn, tức sự cạnh tranh ngôi vị toàn cầu, thì chúng ta là người bên ngoài. Nhưng khi xét trong tiến trình tổng thể, từ điểm xuất phát, thì rõ ràng ta đứng bên trong. Thậm chí, cho dù chỉ xét cái kết cục tận cùng, giả định rằng Hoa Lục sẽ bá chủ, thì trên con đường đi đến đó, chủ quyền của Việt Nam đã bị họ bước qua để đi tiếp. Và tại thời điểm lên ngôi của họ, Việt Nam hoặc phải tự tay dâng lấy toàn bộ biển đảo và độc lập của mình, chịu sự đồng hóa, hoặc phải đối diện với những “trừng phạt” trực tiếp và tàn khốc.

Nhưng dù chưa tính đến viễn cảnh đó, thì với tương quan Việt – Trung trong bối cảnh hải dương khu vực và thế giới, có đưa yếu tố Mỹ vào hay không cũng không thay đổi được thực tế là Việt Nam đương nhiên ở vào thế đối nghịch với Trung Quốc, trừ khi nước nhỏ có ý tưởng phục tùng.

Với tương quan Mỹ – Trung, trong cuộc đấu ngôi vị thế giới, có đưa yếu tố Việt vào hay không cũng thay đổi được thực tế là phương Nam nằm trong số những đối tượng chính yếu mà phương Bắc phải khuất phục để xác quyết vị thế toàn cầu mới.

Như thế, giống như trường hợp vai trò đúng của nội lực bị viện dẫn sai trong tương quan với ngoại lực, ý kiến về bên thứ ba xuất phát từ sự thật cạnh tranh chiến lược Mỹ – Trung để kết luận “giả tưởng” rằng chúng ta chỉ là người bên ngoài.

4. Các bên thứ ba tương tự giúp gì được cho bên thứ ba Việt Nam?

Sau khi Việt Nam và Indonesia nối tiếp nhau giữ ghế chủ tịch khối Đông Nam Á, Hoa Kỳ bắt đầu có những bước đi cụ thể nhằm chuyển hướng quân sự. Từ thời điểm đó, không hẹn mà gặp, các nước có chung nền “văn minh lúa nước” bèn quay về lo cho mảnh ruộng, ao làng bình yên của mình, thay vì cho biển lớn đang dậy sóng.

Kampuchea công khai ủng hộ Trung Quốc trong tranh chấp.

Lào chăm chút cho các đập thủy điện trên dòng Mekong, vốn có thể gây hại lớn nhất cho đồng minh truyền thống của mình.

Malaysia nay hòa hoãn hơn nhiều, thậm chí còn thẳng thừng “Kẻ thù của quý vị không có nghĩa là kẻ thù của chúng tôi”, trong khi trước đó còn kêu gọi ASEAN đoàn kết trong tranh chấp.

Singapore luôn kêu gọi Mỹ quay lại vùng nhưng tự mình không đóng vai trò tích cực hơn trong khối, thậm chí khó chịu với Philippines khi nước này kiện Trung Quốc ra toàn quốc tế.

Thailand và Myanmar không cần lo toan với vị trí cách xa Biển Đông. Brunei không phải toan tính với một mẩu biển lọt giữa Malaysia.

Indonesia là quốc gia biển không có mặt trong tranh chấp và giữ thế lớn nhất trong tiểu vùng, thì cần giữ thái độ không nghiêng về ai để còn làm trung gian giữa các bên.

Việt Nam, dù là một bên tranh chấp chính nhưng luôn kiên trì con đường riêng với bên kia.

Còn lại mỗi Philippines, không từ bỏ giải pháp chính trị nhưng tiến hành đồng thời cả biện pháp pháp lý lẫn xúc tiến liên minh quân sự.

Trước sự tích cực hơn của Mỹ, thay vì tiếp tục giữ thế tiến công ngoại giao trong hai năm 2010 và 2011 để hợp lực, hầu hết các nước ASEAN dường như đều “nhận ra” chỗ đứng bên ngoài của mình trong bàn cờ chiến lược Mỹ – Trung. Nhưng cách nghĩ đó là tiếp cận rất tai hại cho ASEAN, cho các nước trong tranh chấp Biển Đông và cho Việt Nam.

Việt Nam thấy rằng mình là bên thứ ba, muốn đứng ngoài những gì được cho là không liên quan đến lợi ích của mình, sao trách được Kampuchea khi họ hoàn toàn là người ngoài cuộc trong tranh chấp Việt – Trung, sao trách được họ đã chọn lấy nước lớn, vì với bên thứ ba, hà cớ gì phải chọn bên yếu hơn để mình mất đi lợi ích mà còn rước họa vào thân?

Việt Nam xem mình là bên thứ ba, sao tránh được Singapore, Malaysia, Indonesia sẽ là người ngoài cuộc khi mà tranh chấp ở bắc và trung phần Biển Đông là của người khác, còn mình đã ở vị trí luôn được đồng minh bảo đảm an ninh, nhờ tuyến lưu thông qua các eo Malacca, Sunda và Lombok.

Các nước ASEAN khác cũng có quyền lợi riêng tương tự, tùy vị thế của họ, mà với tư cách bên thứ ba, Việt Nam không thể trông mong nhiều.

Trong khi hối thúc Mỹ nhập cuộc thì trừ Philippines, các nước ASEAN, kể cả Việt Nam, lại từng bước biến mình thành người ngoài cuộc trước bối cảnh của khu vực và của chính mình, bằng những động thái thiếu thực chất. Trước vai trò không thể né tránh của cường quốc, họ nuôi hy vọng chuyển gánh nặng sang Hoa Kỳ, còn mình trở thành bên thứ ba, đi dây để hưởng lợi.

Nhưng, không giống các nước trong khu vực, Việt Nam vừa rất khác về quan hệ với Trung Quốc và Hoa Kỳ, vừa sử dụng một chiến lược chú trọng chiều rộng ngoại giao, thiếu chiều sâu chính trị và quân sự trong tương quan với bên ngoài, nên khó mà hưởng lợi tương tự như họ.

Đối với Mỹ, nếu Việt Nam cho rằng mình đứng ngoài chuyển biến chiến lược chung, và cũng muốn họ thuần túy là bên thứ ba trong vấn đề giữa Việt Nam và Trung Quốc để giữ sự hòa hiếu với phương Bắc, thì Hoa Kỳ sao phải cố xem mình như người trong cuộc? Và theo đó, họ đương nhiên chỉ cần can dự một cách tối thiểu về ngoại giao vì cho dù trên toàn cục, nhắm đến tự do hàng hải và kiềm chế đối thủ, thì với những tranh chấp cục bộ mà mình không có liên hệ đồng minh, họ cũng phải giữ sự hòa hoãn cho riêng mình khi còn có thể.

Thế giới ngày nay đầy những ràng buộc, và chúng đều tác động đến quyền lợi và an ninh của từng quốc gia liên quan, tùy theo mức độ liên hệ. Nên dù có cố dựa vào cái lợi ích và an ninh chung để thủ lợi cho mình, thì  cũng sẽ chẳng ai hy sinh quyền lợi và an ninh của họ để nhập cuộc nếu bản thân người trong cuộc mà còn không dám vào cuộc.

Cái nhận thức kiểu trục lợi của nhiều nước ASEAN và Việt Nam là một vấn đề có hai khía cạnh. Một mặt, họ muốn biến nhân tố bên ngoài thành nhân tố bên trong nhưng lại chuyển nhân tố bên trong thành nhân tố bên ngoài. Điều đó hoàn toàn bất khả, vì vị thế trong hay ngoài, ngoài thế và lực, còn gắn liền với vị trí của mỗi đối tượng: cái có vị trí bên ngoài có thể mang vị thế bên trong, nhưng cái tại chỗ không thể dời khỏi vị trí ấy để thành cái bên ngoài. Mặt khác, dù muốn người ngoài cuộc giữ vị thế trong cuộc nhưng họ lại muốn kẻ đấy đứng ở bên ngoài chứ không có vị trí tại chỗ. Mà vị trí ấy, ngoài sự hiện diện về chính trị, kinh tế, còn phải đứng chân quân sự tại khu vực, tức có sự liên minh cơ hữu và hiện diện thường trực hay bán thường trực của đồng minh.

Như vậy, cũng giống trường hợp nội lực và ngoại lực, quan niệm rạch ròi về bên thứ ba nhằm tách khỏi thời cuộc mà mình vốn dĩ đã ít nhiều liên đới, là không thấy được sự hàm chứa vị trí của nhau giữa các bên trong từng quan hệ và tổng thể quan hệ, không thấy sự chuyển hóa giữa trong và ngoài, tại chỗ và từ xa, bên này và bên kia, để hợp lực và củng cố vị thế cho chính mình và cho các bên có cùng lợi ích.

Quan niệm đó không những làm giảm hiệu năng đương cự của cả các chủ thể trong khu vực lẫn từ bên ngoài, vừa có thể được vận dụng để thúc đẩy chủ trương song phương mà phương Bắc kiên trì với từng nước nhỏ phía nam.

Vì quyền lợi, các nước ít nhiều liên quan đều tìm cách xác lập vị trí bên thứ ba, xem như cách để bảo toàn và thăng tiến nó. Nhưng kỳ thực, vai trò ngoài cuộc ảo đó lại là yếu tố phá hoại chính quyền lợi mà họ muốn bảo vệ.

Nhưng dù sao, đến đây, lại liên quan đến quyền lợi, hẳn có người vẫn chưa dứt được boăn khoăn về nó trong quan hệ đồng minh.

5. Quyến lợi trong quan hệ đồng minh ra sao? (2)

Quyền lợi của mỗi quốc gia và liên quốc gia không phải là cái bất biến và phi thời gian. Tùy theo giai đoạn lịch sử, bối cảnh địa-chính trị và vị thế của mỗi nước mà các quyền lợi ấy sẽ biến chuyển. Do vậy, đồng minh là quan hệ luôn tồn tại cùng lịch sử loài người, nhưng các quan hệ đồng minh cụ thể lại là cái luôn thay đổi, dù ít hay nhiều, dù mau hay chậm, tạo nên sự đa dạng của loại liên hệ này.

Xem quyền lợi của mình nằm ngoài tổng thể quyền lợi chung của đồng minh (đã định hình hay tiềm tàng) đã là sai lầm. Lấy quyền lợi ấy làm cái bất di bất dịch mà các quốc gia đồng minh phải đáp ứng đầy đủ và dưới mọi hoàn cảnh, thì càng sai lầm hơn. Bởi, vấn đề không phải ở việc cố định một lần về quyền lợi và đồng minh, mà là hòa hợp các quyền lợi đó trong thế linh hoạt của mình trước các tình thế chiến lược ở mỗi thời đoạn lịch sử, để phục vụ cho một quyền lợi tối thượng, là sự tồn vong của dân tộc.

Các trường hợp trong thế chiến thứ II, trường hợp Trung Quốc trong tương quan với Liên Xô và Mỹ, trường hợp Đài Loan trong quan hệ với Hoa Lục và Hoa Kỳ, chính là sự hòa hợp và linh hoạt đó. Các trường hợp gần gũi khác cũng vậy.

Ở thế kỷ trước, trong bối cảnh “bóng ma cộng sản” đang lan tràn, các nước Đông Nam Á đã lập tức liên kết với nhau và liên minh chặt chẽ với Hoa Kỳ để ngăn chặn. Đến khi cuộc chiến Việt Nam kết thúc, họ lại công khai hất cẳng Mỹ khỏi khu vực. Thậm chí, khi nổi lên bốn con rồng châu Á, trên khắp Đông Nam và Đông Bắc Á đã xuất hiện tâm lý bài phương Tây, đề cao các giá trị châu Á với xu hướng gắn kết với Trung Hoa.

Cùng thời kỳ, ngay cả đối với nước Nhật, cũng đã có ý kiến cho rằng sẽ hình thành một khối liên kết với Trung Quốc để đối trọng với Mỹ và châu Âu. Trên thực tế, đã có những xê dịch đầu tiên cho điều ấy khi quốc gia Tây phương Đông Bắc Á này khởi động tiến trình thoát khỏi các căn cứ quân sự Mỹ, mà cho đến chính phủ tiền nhiệm của Shinzo Abe vẫn còn loay hoay toan tính.

Ấy thế mà, vào lúc này, Singapore, quốc gia Đông Nam Á từng ồn ào nhất về giá trị của châu lục và hô hào nhiều nhất cho một tiểu vùng không có Mỹ, lại là nước sớm nhất và không ngớt lời, không nhỏ lời kêu gọi “đế quốc” quay lại, đồng thời chấp nhận những đợt lưu trú không thường xuyên và bán chính thức của lực lượng Hoa Kỳ, để ngăn ngừa từ xa và từ sớm người bạn ít nhiều cùng chủng tộc và mới ngày nào còn cùng chung giá trị.

Phải chăng họ kêu gọi Hoa Kỳ quay lại mà không biết rằng sẽ có những tác động chính trị, xã hội cho đất nước mình? Phải chăng Nước Mỹ quay lại mà không biết rằng họ đã từng hất mình đi khi xong việc?

Rồi thêm, giới nắm quyền ở Phnom Penh hiện nay quay lưng lại đồng minh mà họ hàm ơn việc thoát khỏi nạn diệt chủng, để đi với đồng minh mới – vốn là kẻ đầu trò từng đẩy đất nước vào cảnh gần như diệt vong – chẳng phải là kẻ xa lạ hay các thế hệ sau, mà cũng chính là những con người của cuối thập niên 1970 nặng tình với Việt Nam.

Xung quanh là thế. Chỉ có Việt Nam, đứng trước kẻ đe dọa “trực tiếp và nguy hiểm nhất” đối với chủ quyền biển, trong tình thế cấp bách, là cứ mãi tính toán cho trọn vẹn, tròn trịa mọi thứ quyền lợi, kể cả những cái hoàn toàn nằm ngoài phạm trù quốc gia-dân tộc.

Khi đặt quyền lợi trong quan hệ đồng minh, mấu chốt không phải là tiêu chí về một sự bảo đảm hoàn hảo cho nó suốt cả quá khứ, hiện tại, tương lai, và bất biến trong mọi tình huống, là điều chỉ có trong bối cảnh tương tự như điều kiện lý tưởng của môi trường thực nghiệm khoa học tự nhiên; mà cốt yếu là quyền lợi đó như thế nào và được xét ra sao, trong từng bối cảnh lịch sử-cụ thể. Theo đó, có hai vấn đề cần giải quyết:

- Đâu là quyền lợi quyết định trong số những quyền lợi có chung với các bên tương tác, để từ đó xác định đồng minh: có xác lập đồng minh hay không và những đồng minh nào là khả dĩ, loại đồng minh nào đi với đối tác nào…

- Theo diễn biến lịch sử và chiến lược, quyền lợi riêng và quyền lợi chung sẽ biến chuyển như thế nào, từ đó mà thẩm định (các) liên hệ đồng minh đã có và hướng xử trí tiếp theo: tách đồng minh cũ, tạo đồng minh mới (hoặc không), hay thay đổi nội dung, hình thức của liên kết đã có và sẽ có.

Như vậy, ở tầm chiến lược, đối diện với bất kỳ quốc gia nào cũng không thể nhận thức quan hệ đối tác hay đồng minh bằng câu chữ tuyên truyền hoặc khái niệm đạo đức[3]. Cũng không phải tạo lập đồng minh là thụ động, để đồng minh quyết định thu nhận và sắp đặt quan hệ cho mình, càng không phải là dựa dẫm một chiều để phải nơm nớp lo đến ngày mình sẽ bị bỏ rơi hay bỏ rơi người khác. Ngược lại, chính mình phải chủ động xác lập điều chỉnh các quan hệ đối tác và đồng minh trên cơ sở tương thích quyền lợi điều kiện lịch sử. Do sự tương thích và điều kiện đó, nên đồng thời, liên hệ đồng minh cũng không phải là cái chủ quan, muốn có hay muốn không mà được, không phải là cái muốn đeo bám thì đeo, muốn bỏ rơi thì bỏ.

Một đồng minh trên cơ sở địa lý hay dân tộc, thể chế hay quân sự, một khi đã không muốn giữ tương tác như giữa các đối tác bình đẳng, mà chuyển thành quan hệ giữa người khuất phục và kẻ bị khuất phục, thì phía yếu hơn chỉ có một con đường để tránh họa nô lệ, là từ vị thế của mình mà xác lập các quan hệ ngoại biên khác nhằm đương cự lại, chứ không thể viện dẫn tình nghĩa quá khứ hay chính nghĩa cao đẹp mà giữ được độc lập và chủ quyền. Lịch sử các dân tộc không hề thiếu dẫn chứng về sự xoay chuyển này.

Đồng thời, một bên của liên minh cơ hữu hay đồng minh giá trị, khi vẫn có chung quyền lợi, chung các giá trị thực chất, và vẫn giữ vị thế mà tương tác chung cần đến, thì đối tác của nó, dù lớn mạnh hơn cũng không thể rời bỏ. Trở lại các ví dụ gần gũi, ta sẽ thấy.

So với tiềm năng khổng lồ của Hoa Lục, Đài Loan không là gì, vậy sao Hoa Kỳ không buông hẳn để đổi lấy niềm tin chiến lược của đối tác lớn về sự chân thành đối với chính sách một nước Trung Hoa? Vào năm 1979, khi căng thẳng chiến tranh lạnh lên cao do sự can dự của Liên Xô vào nội tình Afghanistan, trong hoàn cảnh cần định hình một mặt trận thống nhất giữa Hoa Kỳ, Tây Âu, Nhật Bản và Trung Quốc để chống lại, nước Mỹ vẫn đi trước một bước để giữ vững cam kết đồng minh với Đài Loan. Tháng Tư 1979, Đạo luật Quan hệ với Đài Loan (Taiwan Relations Act) có hiệu lực, nhìn nhận quan hệ thực tế với Đài cùng với các điều khoản nhằm giúp nơi này tăng cường năng lực tự vệ, đồng thời cho phép can thiệp quân sự nếu hòn đảo bị tấn công.

So quan hệ tay ba Mỹ – Trung – Nhật trên bình diện chung hay trong tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư, cũng tương tự như thế.

Cái mà Hoa Kỳ không thể buông rơi quan hệ đồng minh với Đài Loan và Nhật Bản không phải chỉ là vị trí địa lý của họ. Nhìn sang Myanmar để so thì điều đấy quá rõ. Nước này có vị trí quan trọng với cả Trung Quốc, Ấn Độ và Hoa Kỳ, lẫn với các nước Đông Nam Á giáp giới, nhưng không vì thế mà Mỹ muốn có họ bằng mọi giá. Chỉ sau khi Naypyidaw có những bước đi vững chắc từ bỏ nền độc tài quân sự, quan hệ thân thiện hơn mới được xác lập.

Từ đó có thể thấy, dù là nước nhỏ và yếu hơn trong quan hệ đồng minh hay trong thế trận chiến lược, thì vấn đề là ở chỗ nước đó như thế nào và có gì để đồng minh hay đối tác phải giữ lấy, chứ không phải chỉ tìm kiếm sự an toàn (đối với mối đe dọa và với nguy cơ bị bỏ rơi) bằng cách cho rằng mình có thể nằm ngoài quan hệ và thế trận ấy mà “khai thác” nó cho lợi ích riêng.

6. Tránh né quan hệ đồng minh, được gì?

Dù không muốn tạo quan hệ đồng minh, có đúng là Hà Nội chủ trương “trung lập” bằng chính sách “ba không”?

Không kể lịch sử từ năm 1954 đến khi khối xã hội chủ nghĩa Đông Âu tan rã, không kể Hội nghị Thành Đô năm 1990 mở ra một giai đoạn đồng minh mới với phương Bắc, Việt Nam hiện nay cũng chưa bao giờ ngừng theo đuổi chính sách liên kết, ngấm ngầm và có chọn lọc.

Trước đe dọa ẩn tàng về một vùng biển bị xâu xé khi các thế lực dồn về Biển Đông để ngăn chặn Trung Quốc, Hà Nội đã chủ động, đi trước, nhằm xoay chuyển chính tình thế đó theo hướng có lợi. Đồng thời với việc đẩy mạnh giao lưu với hải quân các nước tại các hải cảng của mình, Việt Nam cũng tăng cường chia sẻ nguồn lực biển với các quốc gia thân hữu để họ hiện diện tại Biển Đông. Đây là đối sách sáng tạo và đúng đắn, chỉ có điều, với mặt thứ nhất, đó chỉ là những liên hệ phi quân sự và thuần túy về chiều rộng; với mặt thứ hai, đã nhầm lẫn đối tượng để hướng đến, bởi vẫn đứng trên sự lựa chọn cảm tính.

Trọng tâm đầu tiên của Hà Nội là New Delhi, vốn là người bạn luôn dành ủng hộ cho Việt Nam trong thời chiến cũng như thời bình, và cũng là một bên xung khắc trên bộ với Trung Quốc, nay lại bị đe dọa lấn sân ở Ấn Độ Dương. Trong tương lai, việc Ấn Độ khai triển đối ứng tại vùng biển phía nam của Hoa Lục là khả dĩ. Và chính Việt Nam đã thúc đẩy điều đó bằng việc liên tục đưa ra các đề nghị thăm dò, khai thác dầu khí. Hà Nội muốn đặt quyền lợi kinh tế vào tay New Delhi để họ phải bảo vệ nó, qua đó mà can dự sâu hơn vào vùng biển này. Xa hơn một bước, Việt Nam đã mời hải quân Ấn “ướm chân” tại vịnh Nha Trang[4], nơi mà cho đến gần đây, không một tàu quân sự của quốc gia nào khác được tiếp cận[5].

Dù vậy, ngoài những tuyên bố mang tính ngoại giao như các đối tác khác về tự do hàng hải và an ninh khu vực, phía Ấn cũng công khai rõ về giới hạn vai trò của mình. Tại Hội nghị Cấp cao kỷ niệm 20 năm Quan hệ Đối thoại ASEAN – Ấn Độ ở New Delhi (20-21/12/2012), Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng kêu gọi nước chủ nhà hậu thuẫn ASEAN trong vấn đề Biển Đông, nhưng Ngoại trưởng Ấn Salman Khurshid lại cho rằng chủ quyền phải được giải quyết giữa các nước tranh chấp. Trước đó, trong cuộc họp báo vào tháng Tám 2012, Tư lệnh hải quân Ấn, Đô đốc Nirmal Verma cho biết, dù có sự tái cân bằng chiến lược của Hoa Kỳ cùng với việc Trung Quốc tăng cường sức mạnh và quyết đoán hơn trên biển, lợi ích hải dương của Ấn Độ vẫn ở khu vực từ eo Malacca đến Vùng Vịnh, kéo dài xuống mũi Hảo Vọng. Ông nói thêm, Ấn sẽ không tích cực triển khai quân sự ở Biển Đông, đồng thời cho rằng dù có tranh cãi, các bên ở vùng biển này vẫn phải bảo đảm cho thông thương quốc tế.

Không phải New Delhi co thủ, mà là Hà Nội đã tính toán quá đà. Các nhà làm chiến lược của Việt Nam muốn “đi tắt đón đầu”, “đốt cháy giai đoạn” trong khi chưa phải lúc để Ấn Độ trực tiếp can thiệp ở vùng biển Đông Nam Á. Họ vẫn đang theo đúng “lịch trình” hữu dụng, là trước mắt, cần tập trung cho khu vực vịnh Bengal và biển Andaman như là chiến lược hữu hiệu để chốt chặn một đầu Biển Đông, ở nơi vừa cách không xa Malacca, vừa trực diện với kênh Kra dự phóng. Đối sách này còn là sự phân bố lực lượng hợp lý khi mà ngoài 60 phần trăm hải quân Mỹ sẽ tập trung cho châu Á-Thái Bình Dương, vùng biển Đông Bắc Á và Đông Nam Á lại có một trục liên hoàn Nhật – Phi – Úc, trong khi tại Ấn Độ Dương, ngoài lực lượng Mỹ có thể sẽ giảm bớt, chỉ có hải quân Ấn thường trực.

Đối với Nga, Việt Nam cũng có sai lầm tương tự. Con át chủ bài Cam Ranh luôn được bắn tin là rộng cửa mở cho Nga. Sau khi thông qua Luật Biển (21/06/2012) và tình hình căng thẳng quanh “Tam Sa”, trong chuyến thăm đồng minh khắng khít một thời (26-30/07/2012), Chủ tịch Trương Tấn Sang đã mở lời về Cam Ranh, cùng với khẳng định thuận lợi của Tổng tham mưu trưởng Hải quân Nga. Tuy nhiên, Bộ Quốc phòng Nga đã lập tức bác bỏ khả năng này.

Nga đã giữ im lặng trong lúc Biển Đông sôi động nhiều năm qua. Lần đầu lên tiếng của họ lại là quan điểm có lợi cho sự tự tung tự tác của Trung Quốc dưới chiêu bài quen thuộc của giới ủng hộ sự độc tài quốc gia và quốc tế: chống can thiệp. Khi tình hình Scarborough đang căng thẳng, ngày 20/05/2012, Đại sứ Nga tại Philippines, Nikolay Kudashev, nói rằng lập trường chính thức của nước ông là phản đối can thiệp của nước ngoài vào Biển Đông, vì đó là chuyện nội bộ của các nước có tranh chấp mà cả Mỹ và Nga đều không liên quan. Lần thứ hai lên tiếng của họ là mới đây, sau khi Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Ấn Độ, Philippines… đều ít nhiều chỉ trích Trung Quốc trong vụ đưa giàn khoan vào thềm lục địa Việt Nam, thì duy nhất một lần vào ngày 16/05/2014, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Nga mới cất tiếng, thể hiện thái độ tuyệt đối đứng ngoài, theo công thức ngắn gọn có sẵn, kêu gọi kiềm chế và hy vọng hai bên đàm phán hòa bình.

Khách quan mà nói, về mặt chiến lược và lợi ích quốc gia, Nga không sai, mà là Việt Nam đã lượng định không đúng. Trong khi điều tiên quyết đối với Moscow trước khi có thể chuyển hướng, là củng cố và giành lại không gian hậu Xô Viết trong chừng mực có thể, thì Hà Nội lại muốn họ quay về Đông Nam Á. Nước Nga thời Putin chỉ tận dụng thế mạnh dầu khí và vũ khí nhằm lấy lại vị thế về kinh tế và chính trị phục vụ cho mục tiêu vừa nói. Họ hiện là thế lực duy nhất trên thế giới vừa là “lái dầu” vừa là “lái súng” tầm cỡ. Với họ, Việt Nam cũng chỉ là một bên hợp tác về dầu khí và là khách hàng lớn về vũ khí, như mọi đối tác loại này của họ, kể cả Trung Quốc. Nên với hai bên tranh chấp, họ có thể hữu nghị và nhận tiền mua bán từ cả hai, mà không thể nào “thiên vị” cho một bên. Đó là chưa kể, Trung Quốc là đối tác có vị thế và tiềm lực mà họ cần đến, nhiều hơn là điều tương tự có ở đối tác nhỏ hơn[6]. Vậy mà nước Việt đương thời vẫn mãi lấy tiêu chí “thủy chung” để hy vọng vào một thế lực thân Việt Nam nhất hiện diện ở Biển Đông, vừa để kiềm chế Hoa Lục vừa để cân bằng với Hoa Kỳ[7].

Tất nhiên, về chiến thuật ngoại giao, Hà Nội nói rằng tàu của thân hữu vào Nha Trang hay Cam Ranh để thăm hữu nghị hay nhận dịch vụ hậu cần. Nhưng về toan tính chiến lược, khoảng cách giữa căn cứ sửa chữa quân sự và căn cứ quân sự chẳng có gì xa xôi, vấn đề chỉ là có đi đến nhất trí và đạt được thỏa thuận đằng sau những ngôn từ ngoại giao hay không. Với Ấn và Nga, lời đáp từ phía họ là không.

Việc nhắm đến Ấn và Nga không phải chỉ vì những tương đồng dễ thấy, mà còn bởi đây là những thay thế sáng giá nhất cho Nhật và Mỹ, là những đối tác sẵn lòng tạo thế liên minh hơn.

Đối với Nhật, truyền thống cương cường, sự hào phóng, nhanh nhạy, chủ động hỗ trợ nước nhỏ, cùng với vị trí địa lý rất thuận lợi khi cơ động vào vùng biển Đông Nam Á, chỉ thua Ấn ở mỗi nền quốc phòng còn bị ràng buộc bởi một hiến pháp thuần phòng vệ (mà thực tế đang tiến đến tháo gỡ), cũng không khiến Hà Nội đặt nặng hơn Ấn.

Khi so với Nga, Hoa Kỳ cũng tương tự vậy, trong khi đây là quốc gia duy nhất đủ sứcsẵn sàng đối trọng, điều phối các liên hệ đa quốc nhắm vào các thách thức quốc tế. Họ đương nhiên không phải là đối tác duy nhất trong chiến lược kiềm chế tham vọng lãnh thổ của Trung Quốc, nhưng là đối tác khả dụng nhấtquyết định nhất.

Lẩn tránh đồng minh khả thi để theo đuổi đồng minh bất khả thi là thực chất và đích đến của chiến lược phi liên kết của Việt Nam.

Chối bỏ quan hệ đồng minh trên lý thuyết nhưng thực tế lại huy động và trông chờ sự can dự rộng rãi, cũng như vận động sự hiện diện có chọn lọc của các thế lực khác, là đối sách mà Hà Nội cho là hữu hiệu nhất. Nó vừa tránh công khai liên kết để không kinh động đến Bắc Kinh, vừa bảo toàn được các quyền lợi “ý thức hệ”, vừa có được các liên hệ rộng cho sự ủng hộ ngoại giao, vừa tạo quan hệ thực chất với những đối tác đặc biệt riêng có để nhận sự hậu thuẫn chính trị và quân sự, vừa tranh thủ được thời gian để tăng cường thực lực.

Trong số đó, chỉ có mục tiêu về các quyền lợi phi quốc gia-dân tộc là đạt được. Ngoài ra, tất cả đều dừng lại ở mức chung chung (đối với bên ngoài) hoặc chưa thể đạt mức cần thiết (đối với thế và lực bên trong).

Mục tiêu kiềm chế Trung Quốc đã không đạt được, ngoài khoảng thời gian 2012-2013 có sự êm thắm tạm thời. Nhưng thật ra, đó cũng là hai năm mà Bắc Kinh triển khai thành công đối sách phân hóa ASEAN, và cũng thành công khi đẩy Hà Nội sâu vào thế tự tin, cả trong quan hệ với Trung Quốc[8] lẫn trong chính sách “phi liên kết”. Phần mình, họ không ngây thơ tin vào chủ trương “trung hòa” giữa các thế lực của Hà Nội.

Mục tiêu nhắm đến các quốc gia thân hữu đã không đạt được, ngoài sự lên tiếng hết sức chừng mực.

Mục tiêu đối với các đối tác chiến lược đủ loại khác cũng đã không đạt được, ngoài những tiếng nói ngoại giao đề cập đến khía cạnh có liên quan đến trật tự toàn cầu.

Kết quả:

- Đối với Việt Nam, khi vô sự là những giao dịch tiền bạc và ca tụng ngoại giao, khi hữu sự là sự cô độc về lực lượng và hành động.

- Các ngỏ quan trọng quanh rìa đông nam biển Đông Nam Á đã được “đón lỏng”, từ sự quyết đoán trong thế liên minh của các quốc gia. Ngoài Nhật Bản ở rìa cực bắc, quay mặt vào Biển Đông và dễ tiếp cận Hoàng Sa, Trường Sa là chuỗi các căn cứ hải quân và không quân tại Philippines, nay đã được trao quyền sử dụng cho Hoa Kỳ. Cực nam là các cơ sở quân sự tại Úc, đất nước đang ngày càng ra mặt ủng hộ đồng minh. Tây nam là eo Malacca mà cả Hoa Kỳ và Ấn Độ đều không bao giờ sao nhãng. Cực tây là chuỗi căn cứ của Ấn tại hai quần đảo Andaman và Nicobar.

- Không kể phần dọc theo Trung Quốc, rìa tây Biển Đông, đồng thời cũng là mạn đông kéo dài suốt Việt Nam, là vùng duy nhất hở sườn, mà Hải Dương 981 và Nam Hải 9 đang giúp phô bày.

- Mối liên kết đa quốc ở rìa đông nam Biển Đông vừa đủ khả năng tập hợp thêm lực lượng mà cũng đủ sức bảo vệ sự thông thương, khi cần. Sự phi liên kết ở rìa tây thì đang trực diện với nguy cơ bị cướp đoạt tài nguyên và ngư trường, mà chính quyền sở tại không thể bảo đảm điều tối thiểu là sự an toàn sinh kế của người dân nước mình.

Rõ ràng, trong đối sách với phương Bắc, thực tế đã hiển hiện: chần chừ chỉ có chết.

7. Chần chừ chỉ có chết: lời kết không cần đặt dấu hỏi

Tất nhiên, tới đây, Việt Nam vẫn cần thực hiện các đối sách một cách khôn khéo, nhưng điều đó không thể theo lối cũ được nữa.

Trong những ngày này, Hà Nội đã nhanh chóng thể hiện chiều hướng liên kết với Manila, cũng như có động thái mới với Washington. Nhưng định hướng ấy cần tiếp tục đi vào chiều sâu và thực tế, chứ không thể dừng lại ở mức dùng quan hệ với Hoa Kỳ và các quốc gia có thể liên minh khác như một phương tiện để giữ lấy quan hệ đồng chí với Hoa Lục.

Với nước lớn, không bao giờ muộn khi có thêm đồng minh. Nhưng với nước nhỏ, sẽ quá muộn khi các ưu thế tuột vào tay người khác, trong khi nó có thể đã là thế và lực mới của mình nếu không chần chừ.

Thời điểm mà Hà Nội không còn thể đi dây hữu hiệu nữa, nay đã đến.

Thời điểm của cục diện Philippines có thể sẽ đến khi họ nổi lên như tác nhân chính thay cho Việt Nam, bởi họ vừa là bên chủ động pháp lý kiện Trung Quốc, vừa là nhân tố quân sự tích cực trong kế hoạch cân bằng chiến lược, vừa là chủ thể chính trị đi đầu, dứt khoát và mạnh mẽ đấu tranh với các hành động thay đổi nguyên trạng Trường Sa từ phương Bắc. Với vai trò đó, sự hậu thuẫn của đồng minh và quốc tế sẽ tập trung cho họ.

Thời điểm mà Đài Loan xác quyết vị thế của mình trong tranh chấp có thể sẽ đến nếu họ được sự ủng hộ để trở thành một bên của tiến trình COC.

Thời điểm mà Hoàng Sa và Trường Sa, với tư cách yếu tố độc lập tương đối, chi phối lại các chủ thể tranh chấp cũng đang đến khi Trung Quốc đẩy mạnh phát triển “Tam Sa” và (có thể) hải đảo hóa những nơi đã cưỡng đoạt ở Trường Sa.

Trong viễn cảnh đó, nếu Việt Nam tiếp tục thụ động với những chủ trương như hiện nay, thì khả năng Biển Đông bị xâu xé cũng sẽ đến, vì thế giới sẽ không để Trung Quốc độc chiếm vùng biển này. Khi ấy, Hà Nội khó mà lại chuyển hung thành kiết được nữa. Một khi các liên minh trong vùng chính thức định hình và hiện diện đầy đủ ở những điểm xung yếu mà không có Việt Nam, với những trải nghiệm trong quan hệ với Hà Nội, có phần chắc các nước này cũng sẽ buông đầu dây phía họ, như Bắc Kinh đã vừa buông.

Trước việc Bắc Kinh dùng hệ thống giàn khoan làm công cụ xâm lược biển, duyên hải phía đông đang phơi ra như một khoảng trống quân sự mà Việt Nam sẽ không thể tự mình lấp đầy. Hà Nội không nên hy vọng rằng việc tập trung của các thế lực khác ở những nơi khác quanh Biển Đông sẽ khiến Hoa Lục quay sang đối phó, từ đó mà xuống thang với láng giềng phương Nam. Thực tế trước nay là, dù vẫn đối ứng với thế lực lớn, họ sẽ lấy những thế lực nhỏ, yếu làm mục tiêu hàng đầu.

Để hóa giải sự thất thế đó, kiện ra tòa án quốc tế, một khi Hoa Lục không thừa nhận, sẽ vô hiệu đối với họ. Nhưng cũng chính vì thế, giải pháp pháp lý này trở thành một giải pháp chính trị và ngoại giao hữu hiệu mà Hà Nội không nên chần chừ, thay vì việc chọn tâm điểm là sự vận độngngoại giaotràn lan, thiếu hiệu quả.

Giải pháp chính trị hàng đầu là bộ Quy tắc Ứng xử Biển Đông, thì đang bị Bắc Kinh hủy hoại ngay từ trong tiến trình ỳ ạch của nó, bằng cách trì hoãn và dùng sức mạnh tạo nên hiện trạng mới có lợi cho mình. Họ đang đi trước nhiều bước để một khi COC hình thành, sẽ phải ghi nhận sự xâm thực đó bằng tiêu chí giữ nguyên hiện trạng.

Cùng lúc, trung tâm chính trị hàng đầu cho việc xử lý tranh chấp, là ASEAN, cũng bị Hoa Lục phân hóa và tự phân hóa, bị trói tay và giảm hiệu năng bằng nguyên tắc đồng thuận cả khối.

Giải pháp kinh tế chống Trung Quốc, sẽ không ai tính đến chừng nào Hoa Lục còn chưa tấn công quân sự trên diện rộng nhắm vào đồng minh của các thế lực lớn.

Còn lại là giải pháp quân sự, cũng sẽ không ai tính đến với tư cách là hành động đối ứng cho sự xâm thực phi quân sự hoặc trấn áp cục bộ của Trung Quốc. Thế nhưng, nó luôn được tính đến với tư cách phòng vệ và răn đe từ xa, vừa để ngăn ngừa xung đột vừa tạo đủ lực cho xung đột, nếu buộc phải vậy. Sự răn đe đó, một nước nhỏ, yếu cả thế và lực không thể một mình mà làm được, không thể vài năm hay chục năm mà làm được, trong khi nguy cơ thì chực chờ ngay trước mắt.

Dù sao, với tất cả những điều trên, để giữ môi trường hòa bình của mỗi nước, của khu vực và thế giới, hướng chiến lược cần theo đuổi vẫn là ASEAN thực hiện vai trò trung tâm chính trị, kiên trì với COC, song hành cùng giải pháp pháp lý ở mỗi quốc gia và trong thế liên minh[9]. Đồng thời, tổ chức này cũng cần trở thành trung tâm quân sự của tiểu vùng để hoàn thiện vị thế của một bên đối tác, trực tiếp chịu trách nhiệm về an ninh của chính mình. Phần Hoa Kỳ, với vai trò của đồng minh trụ cột, là người điều phối về chính trị, ngoại giao, quân sự với các thế lực trong và ngoài vùng có can dự, và là lực lượng quân sự tối hậu làm rào chắn cuối cùng, mà các quốc gia có tranh chấp với Trung Quốc cần liên kết.

Việt Nam không thể nằm ngoài thế chiến lược chung đó mà nghĩ rằng vừa duy trì được mọi quan hệ tốt đẹp, vừa tự một mình bảo đảm được hòa bình, chủ quyền và an ninh, trong cái thế trọng sức mạnh mà Hoa Lục đã đặt mọi phía vào đó.

Ngoài nội lực cần một quyết tâm chính trị cao nhất mới có thể tạo đà phát triển trọn vẹn, không thể giữ được chủ quyền và nền độc lập bằng sự đơn thương độc mã của chính nghĩa suông và ngoại giao câu chữ. Nghĩ rằng có thể thắng Trung Quốc nhờ mặt trận lòng người mở ra bên trong nó và trong lòng nhân dân thế giới, như đã từng làm với nước Mỹ, là điều tuyệt đối không tưởng. Hoa Lục toàn trị của thế kỷ XXI không phải là Hoa Kỳ dân chủ của thế kỷ XX để mà phải chịu áp lực của công luận trong và ngoài nước và chịu sự phán xét trực tiếp của người dân nước mình.

Một khi nội lực chỉ là sự hô hào mà không được thực tế hóa bằng những chuyển biến triệt để và toàn diện, một khi chính nghĩa và ngoại giao còn chưa được vật chất hóa bằng sức mạnh của sự liên kết đúng đối tượng, thì chỉ là tự ta đang vô hiệu hóa mình bằng công cụ tuyên truyền.

15/05 – 30/06/2014

© 2014 Lê Tuấn Huy & pro&contra


[1] Sau khi không thống nhất giá mới với Việt Nam, Nga không tiếp tục thuê Cam Ranh. Nhưng hai bên đồng ý để lưu trú lại một tổ thu thập tín hiệu vô tuyến hướng ra Biển Đông, chủ yếu nhắm vào Trung Quốc, duy trì đến năm 2002.
[2] Hiện vẫn chưa có thông tin chính xác, nhưng qua đối chiếu, có thể đó là cuộc gặp được nhắc đến trong một bản tin của Viện Hải quân Hoa Kỳ vào tháng Hai 2008.
[3] Kiểu như “tình hữu nghị là tài sản quý báu”, “người bạn thủy chung”…
[4] Chuyến thăm Nha Trang và Hải Phòng của tàu INS Airavat (19-22/07/2011) là kết quả chuyến đi trước đó của Đô đốc hải quân Nguyễn Văn Hiến đến Ấn. Hải trình này đã khiến phương Bắc khó chịu và phản ứng theo kiểu của họ: trên đường về, ở Biển Đông, INS Airavat nhận được tín hiệu vô tuyến từ tàu không được nhận dạng của Trung Quốc, yêu cầu tàu Ấn xác định danh tính và lý do hiện diện trong vùng biển “của họ”.
[5] Cập nhật: Vừa mới đây, ngày 24/06/2014, tàu vận tải nặng USNS Cesar Chavez (T-AKE 14) của hải quân Hoa Kỳ đã từ Philippines vào neo tại vịnh Nha Trang trong 15 ngày, để Công ty TNHH một thành viên nhà máy đóng tàu Cam Ranh bảo dưỡng.
[6] Cách đặt vấn đề tại sao Nga không ủng hộ Trung Quốc ở Biển Đông, là nhầm chủ thể. Mức độ xung khắc và xung đột giữa họ với nhau trong quá khứ khiến Kremlin thừa biết Trung Quốc là như thế nào. Mà các chiến lược gia Trung Nam Hải hẳn cũng đủ tầm để lượng định về các thế lực trên thế giới, và biết rằng họ không trông chờ sự hậu thuẫn của Nga. Câu hỏi “tại sao” ấy nên được đặt ra với Việt Nam thì đúng hơn.
[7] Cập nhật: Sau hợp đồng dầu khí 400 tỷ dollar Tổng thống Putin đạt được tại Bắc Kinh vào hạ tuần tháng Năm 2014, chỉ với việc ba tàu của Hạm đội Thái Bình Dương Nga sau hải trình công vụ ở Ấn Độ Dương trở về, ghé vào Cam Ranh ba ngày (17-20/06/2014) để nhận dịch vụ hậu cần, mà Đại sứ Việt Nam tại Nga đã lại lập tức lên tiếng mời Nga ưu tiên sử dụng Cam Ranh. Và chỉ vài ngày sau, Đặc sứ của Chính phủ được gửi sang để hội đàm với đại diện Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Nga, mở lời ủng hộ họ trong vai trò tại châu Á-Thái Bình Dương. Câu trả lời của họ vẫn là công thức về “nguyên tắc không can thiệp” và đàm phán hòa bình giữa các bên tranh chấp.
[8] Sự tự tin về sự gần gũi này vừa được thể hiện, vừa là kết quả từ các chuyến thăm liên tục của lãnh đạo hai nước: Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm Trung Quốc, 11-15/10/2011. Tổng Bí thư Tập Cận Bình thăm Việt Nam, 20-22/12/2011. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang thăm Trung Quốc, 19-21/06/2013. Thủ tướng Lý Khắc Cường thăm Việt Nam, 13-15/10/2013.
[9] Ý kiến về một liên minh pháp lý Việt Nam – Nhật Bản – Philippines nên được chú ý thích đáng.

Đáp ứng yêu cầu của độc giả đối với người viết bài “Góp phần tìm hiểu sự thực về GS Nguyễn Lân”

Thưa quý vị độc giả kính mến,
 
http://farm.vtc.vn/media/vtcnews/2009/11/06/anh2.jpg.201.201.cache
 GS Nguyễn Lân
Ngày 05/6/2014, chúng tôi đã công bố bài Góp phần tìm hiểu sự thực về GS Nguyễn Lân trên blog Quê choa và đã được đông đảo độc giả hưởng ứng. Một số độc giả cho biết rằng, sự bàn tán, trao đổi sôi nổi xung quanh bài Góp phần tìm hiểu sự thật về GS Nguyễn Lân đã khiền nhiều người chưa đọc bài ấy muốn biết đó là những “sự thật” gì nhưng họ rất khó tìm đọc vì số bài trên blog Quê choa tăng lên vùn vụt từng ngày nên nhiều người tìm mãi mà không được. Không ít người mong tác giả giới thiệu tóm tắt những “sự thật” ấy cho họ đọc trước đã, sau đó, khi có điều kiện hoặc thấy cần kíp thì mới đọc kỹ toàn bài. Lại có độc giả nói rằng, bài Góp phần tìm hiểu sự thật về GS Nguyễn Lân tuy là một bài lược thuật nhưng vì phải khảo chứng cặn kẽ, với nhiều chứng liệu cụ thể nên không thể ngắn gọn, mà thực tế là một bài rất dài. Theo độc giả này, người viết bài cũng nên đúc kết phần khảo chứng của mình, nhằm giúp độc giả dễ nắm bắt những ý chính trong bài.

Mới đây, ngày 23/6/2014, chủ Blog Quê choa đã chuyển cho tác gỉả mấy dòng thư của độc giả Yên Duyên Hương (địa chỉ Email: yenduyen...@gmail.com) nêu vài thắc mắc, như sau:

Cảm ơn ông Nguyễn Quang Lập. Qua Quê choa, chúng tôi mới biết được nhiều sự thật về học thuật, về tên tuổi của nhiều học giả , những Nguyễn Lân, Lê Xuân Đức, Vũ Ngọc Khánh... Vừa qua có bài Góp phần tìm hiểu sự thật về GS Nguyễn Lân. Qua Quê choa, chúng tôi xin hỏi: trong bài viết có nói: đợt phong Giáo sư đầu tiên là năm 1956, nhưng theo từ điển mở Wikipedia thì đợt phong Giáo sư đầu tiên của Việt Nam là năm 1976 (trong đó có Trần Đức Thảo). Liệu có sự nhầm lẫn nào của ông Lê Mạnh Chiến, dẫn đến việc bỏ sót tên GS Nguyễn Lân không?

Chúng tôi được biết, sinh thời GS Nguyễn Lân đã có lời xin lỗi ông Trần Đức Thảo. Vậy, thực hư chuyện này là thế nào?

Rất mong ông Nguyễn Quang Lập liên hệ với tác giả giúp chúng tôi.

Xin trân trọng cảm ơn trước.

Tác giả thấy mình có nghĩa vụ đáp ứng các yêu cầu trên đây của quý vị độc giả nên phải viết bài giải đáp này và đưa lên mạng Internet để chuyển đến các độc giả đã gửi lời yêu cầu, cùng tất cả mọi người Việt Nam yêu chuộng sự thật và quan tâm đến hiện trạng văn hóa - giáo dục của đất nước.

I. Những ý chính trong bàiGóp phần tìm hiểu sự thật về GS Nguyễn Lân

Trong một cuộc gặp gỡ thân mật của một nhóm bạn học cũ nhân dịp tết Canh Ngọ, đã diễn ra một cuộc mạn đàm nghiêm túc để tìm hiểu sự thật về Nhà giáo Nguyễn Lân. Nội dung cuộc mạn đàm này đã được lược thuật kèm theo việc khảo chứng dựa trên những sách vở do Nhà giáo Nguyễn Lân biên soạn và những tài liệu viết về ông mà hiện nay đang lưu hành, cho nên độc giả rất dễ kiểm tra. Người lược thuật chịu trách nhiệm hoàn toàn trước công chúng. Sau đây là những kết quả của cuộc mạn đàm, được tóm tắt theo trình tự các phần trong bài gốc, với các tiểu mục ♦I, ♦II. ♦III.

♦I. Cuộc mạn đàm ngoài dự kiến: nêu những tiền đề của cuộc mạn đàm: Trong vài chục năm gần đây, trên các sách báo chính thống đã lưu hành hàng trăm bàì của nhiều người trong quần thể trí thức co danh phận ở nước ta ca tụng công lao và tài đức của NGND Nguyễn Lân. Họ chỉ nhìn thấy lớp trang sức bóng bảy mà không ai biết đến thực chất những thành tích ảo của ông nên đã viết những lời tán tụng sai sự thật, tạo nên nhiều điều ngộ nhận rất tai hại. Vì vậy, đã diễn ra một cuộc mạn đàm để tìm hiểu sự thật về Nhà giáo này, dựa trên những chứng liệu mà mọi người đều dễ dàng tìm thấy.

♦II. Trả lời một số câu hỏi thiết thực: giải đáp bốn câu hỏi, tìm ra bốn sự thật mà lâu nay hẩu như không ai nghĩ đến:

u Trong các bài viết về Nhà giáo Nguyễn Lân hiện đang lưu hành trên báo chí chính thống (hơn 100 bài) các tác giả (hầu hết là những người có cương vị cao trong giáo giới) đều nhằm một mục đích là ca ngợi hết lời, chỉ cốt để ca ngợi càng nhiều càng tốt, cho nên có nhiều bài trùng lặp với nhau cả ý lẫn lời, lại xen nhiều chi tiết khác với lời kể của chính Nhà giáo Nguyễn Lân, sai sự thật. Tính xác thực của loạt bài này rất thấp, nhiều dẫn liệu khng đáng tin cậy.

v Hầu hết mọi người lâu nay vẫn gọi ông Nguyễn Lân là Giáo sư, chính ông cũng tự xưng là Giáo sư. Một số tài liệu (ví dụ: từ điển Wikipedia tiếng Việt trước ngày24/6/2014, hoặc bài của PGS Lê Khánh Bằng trong Kỷ yếu Hội thảo Nhà giáo Nhân dân Giáo sư Nguyễn Lân – cuộc đời và sự nghiệp) đã khẳng định rằng, ông Nguyễn Lân thuộc lớp người đầu tiên được phong học hàm Giáo sư, năm 1956. Sự thực thì ông là Giáo sư tự phong, chưa bao giờ được Nhà nước phong Giáo sư.

w Ông Nguyễn Lân được gọi là một nhà văn, nhà thơ, nhà biên soạn từ điển mẫu mực, với 42 tác phẩm đồ sộ. Thực ra, trong số hơn 40 tác phẩm có dính tên ông, đa số là những tác phẩm rất nhỏ (dăm bảy chục trang) và nhỏ (dưới 200 trang), có những quyển mang tên nhiều tác giả, trong đó ông Nguyễn Lân chỉ có mươi trang, v.v. không có một tác phẩm nào ra hồn, đến nỗi năm ông tròn 90 tuổi, Nhà nước muốn trao giải thưởng cho ông nhưng không thể dựa vào một tác phẩm nào cả. Cuối cùng, ông cố cho ra một quyển khá dày là Từ điển từ và ngữ Việt Nam (2111 trang, xuất bản năm 2000), trông có vẻ to vì được in bằng giấy dày, chữ to hơn và thưa hơn so với mọi cuốn từ điển thông thường, nhưng cũng không thể gọi đó là đại từ điển. Hơn nữa, quyển từ điển này là nơi tập trung tất cả mọi sai lầm trong “sự nghiệp biên soạn từ điển” của ông, số lượng sai lẩm có thể lên đến hàng ngàn, ảnh hưởng rất xấu đến việc dạy và học tiếng Việt của các thế hệ người Việt hiện tại và mai sau.

❹ Mọi người chỉ nhìn thấy bề dày của cuốn Từ điển từ và ngữ Việt Nam mà không khảo sát nó, không nhận thấy vô số sai lầm rất đáng sợ trong đó nên ai nấy đều cho rằng, đó là thành quả vĩ đại, là công trình sáng tạo tuyệt vời của một bậc đại trí thức siêu đẳng chỉ biết quên mình vì dân vì nước, miệt mài làm việc năm này qua tháng khác. Trên thực tế, nó chỉ là sự lắp ráp thô thiển của ba cuốn từ điển đã có sẵn. Trước hết, soạn giả lấy quyển Từ điển tiếng Việt dày 1415 trang của nhóm Văn Tân (gồm 13 người, trong đó có Nguyễn Lân) làm “xương sống”, sau đó ghép thêm hai quyển khác chứa đựng rất nhiều sai lầm khủng khiếp, đều của Nguyễn Lân, đó là Từ điển từ và ngữ Hán Việt (866 trang) và Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam (323 trang), rồi cộng thêm một số từ lấy ở các từ điển khác nhưng được giảng lại theo cách đoán mò và nói liều vốn là thuộc tính của soạn giả. Vì vậy, việc “biên soạn” được thực hiện rất dễ dàng.

♦ III. Những sự thực đáng kinh ngạc về Nhà giáo Nguyễn Lân. Phần này cho thấy những phẩm chất và những hành vi phản sư phạm của Nhà giáo Nguyễn Lân, thể hiện qua bố sự thật, với những bằng chứng cụ thể rất dễ tìm thấy:

u NGND Nguyễn Lân – người đã dày công làm tổn hại tiếng Việt

NGND Nguyễn Lân được coi là người “suốt đời bảo vệ sự trong sáng của Việt”. Chính ông cũng tự khẳng định vai trò ấy của mình một cách đầy tự tin và tự hào. Để thể hiện vai trò ấy, ông dốc sức biên soạn các thứ từ điển về tiếng Việt. Việc “chú giải từ tố” và “giải thích từ nguyên” (của các từ có gốc Hán) được ông coi là nét đặc sắc nhất, hơn hẳn các từ điển đã có từ trước. Các Giáo sư Lê Trí Viễn, Vũ Khiêu, cùng vô số Giáo sư, tiến sĩ, nhà văn, nhà báo khác đều coi đây là cống hiến vô cùng to lớn và đặc sắc của ông, thể hiện tài năng, trí tuệ kiệt xuất và tâm huyết của một vị đại trí thức đối với đất nước, đối với tiếng Việt. Nhưng, qua vô số ví dụ cụ thể, chúng tôi đã chứng minh được rằng, ông phạm quá nhiều sai lầm nghiêm trọng nhất do thiếu kiến thức cơ bản, do không có năng lực tra cứu, do không đọc được chữ Hán, v.v. thậm chí, không phân biệt được từ tố với âm tố và cũng chưa hiểu thế nào là từ nguyên. Ông chỉ quen đoán mò và nói liều nên đã phạm hết dạng sai lầm này đến dạng sai lầm khác

v NGND Nguyễn Lân đề ra những yêu cầu rất khắt khe đối với người thầy giáo, nhưng chính ông lại chưa nắm vững những kiến thức ở bậc trung học

Được coi là một nhà sư phạm mẫu mực kiêm học giả thông kim bác cổ, NGND Nguyễn Lân đòi hỏi người thầy giáo xã hội chủ nghĩa phải học tập, rèn luyện, phấn đấu không ngừng về mọi phương diện. Theo ông, người thầy giáo xã hội chủ nghĩa, ngoài việc học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, kiên định lập trường cách mạng, quan điểm giai cấp, học tập tác phong, đạo đức của Hồ Chủ tịch, còn phải không ngừng nâng cao trình độ học vấn của mình. Trong quyển Người thầy giáo xã hội chủ nghĩa (Nxb Sự thật, Hà Nội, 1960), ông viết: “Nếu dạy một mà không biết mười thì ít nhất người thầy giáo cũng phải biết hai, ba chứ dạy bài nào mà chỉ biết bài ấy thì thực là nguy hiểm, vì không những chẳng giải đáp được thắc mắc của học sinh mà lại còn dễ dàng nói sai sự thật và phản lại khoa học. Ta nên nhớ rằng mỗi lời thầy giáo nói ra là bốn, năm chục học sinh chú ý nghe; thầy dạy một điều sai là bốn năm chục bộ óc bị đầu độc; như thế thì không những đã chẳng dạy được gì thêm, lại còn khiến học sinh có những khái niệm không đúng cần phải gột rửa đi nữa. Ngoài bộ môn mình phụ trách, người thầy giáo xã hội chủ nghĩa còn phải nắm được các bộ môn khác nữa: tối thiểu, trình độ văn hóa phổ thông của người thầy giáo, về mọi ngành tri thức, phải không được thấp hơn trình độ học sinh ở cấp mình giảng dạy. Thí dụ, một giáo viên về Việt văn ở lớp tám ít ra cũng phải nắm được những bộ môn khoa học tự nhiên của cấp III; có như thế thì khi giảng dạy Việt văn mới có thể đưa ra những dẫn chứng cụ thể”. Cứ theo lời ông thì ai cũng nghĩ rằng, kiến thức của ông sâu rộng lắm, cao siêu lắm. Khốn thay, ở quyển Từ điển từ và ngữ Việt Nam (công trình của ông được trao tặng Giải thưởng Nhà nước), người ta dễ dàng tìm thấy ngay vài chục từ ngữ thuộc các lĩnh vực toán học, vật lý học, hóa học, sinh vật học, địa lý, lịch sử, văn học được sử dụng trong chương trình trung học mà bị soạn giả Nguyễn Lân giải thích sai hết, tỏ ra không hiểu gì cả. Kiến thức của Nhà giáo Nguyễn Lân về mọi lĩnh vực khoa học thường thức chưa đạt đến trình độ trung học, vậy thì ông không thể dạy bất cứ môn nào ở bậc trung học.

w NGND Nguyễn Lân chỉquen dạy dỗ người khác nhưng không biết chỗ yếu kém của mình nên đã sa đà vào việc “biên soạn” từ điển, đầu độc tiếng Việt.

Nhà giáo Nguyễn Lân có những lời dạy về “đạo làm thầy” rất chí lý. Ông đã từng răn dạy con dâu: “Con làm cô giáo thì phải nhớ là dù một chữ chưa hiểu cũng phải đọc, phải hỏi cho thật hiểu mới được dạy cho học trò, óc trẻ con như trang giấy trắng, con vẽ sai lên đó làm sao tẩy sạch được. Con dâu của ông kể tiếp: “Rồi ba giảng giải, muốn tìm hiểu một vấn đề gì thì phải hiểu cả lịch sử, cả hoàn cảnh cụ thể của nó…. Một lần khác, ông đã căn dặn con trai (là một phó Giáo sư): “Cái khó nhất trong cách đối xử ở đời là biết mình đang ở vị trí nào. Con đừng quên rằng, một người giỏi lắm thì cũng đi sâu được một hai chuyên môn. Vì vậy, phải luôn coi người khác là thầy của mình về những chuyên ngành khác”. Trong sự nghiệp “trồng người”, hẳn là ông đã nhiều lần dạy học trò bằng những câu như thế, mà ta có thể quy thành nguyên tắc: Không được dạy những điều mà mình chưa hiểu rõ; muốn vậy thì phải biết rõ phạm vi kiến thức của mình. Tiếc thay, ông chỉ quen dạy người khác nhưng không biết răn mình, không hề biết mình đang ở vị trí nào. Bởi vậy, mặc dầu không đọc được chữ Hán, ông vẫn tin rằng, nhờ có kinh nghiệm lâu năm nên mình thừa sức hiểu hết các từ ngữ tiếng Việt có gốc Hán, thế là ông biên soạn cuốn Từ điển từ và ngữ Hán Việt (nhưng phải tránh việc thể hiện chữ Hán), xuất bản năm 1989. Tuy dung lượng của nó chỉ bằng một phần ba so với cuốn Hán Việt từ điển giản yếu của Đào Duy Anh (lưu hành từ năm 1932) nhưng lại chứa đựng nhiều trăm sai lầm, vậy mà được GS Lê Trí Viễn đánh giá là “một công cụ tra cứu rất quý không thể thiếu được đối với bất kỳ ai, trước hết là học sinh, sinh viên, các thầy cô giáo, các nhà nghiên cứu, biên soạn, khi muốn nắm được nghĩa chính xác của các từ ngữ Hán – Việt trong tiếng Việt hiện nay”. Lời ca tụng đó đã biến quyển từ điển tồi tệ này thành của quý, khiến soạn giả ngỡ rằng mình là người duy nhất đủ sức đảm đương sứ mạng “gìn giữ sự trong sáng của tiếng Việt”. Thế là, liên tiếp trong mấy năm sau đó, ông sản xuất thêm ba cuốn nữa là Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, Từ điển tục ngữ thành ngữ Pháp Việt, Từ điển tục ngữ thành ngữ Việt Pháp. Càng ngày, “uy tín học thuật” của ông càng lên cao trong đám người có bằng cấp và chức vị nhưng lười đọc và ít suy nghĩ. Người ta chỉ chú ý đến tên sách chứ chẳng mấy người đọc sách và hiểu sách nên không ai biết rằng, tác giả của chúng không những mù tịt về Hán ngữ mà vốn liếng tiếng Việt cũng rất nghèo, thậm chí, không phân biệt được đâu là thành ngữ, đâu là tục ngữ. Khi đã ngoài 90 tuổi, ông bèn tập hợp tất cả mọi từ ngữ tiếng Việt trong cả bốn cuốn, gộp thêm cuốn Từ điển tiếng Việt của nhóm Văn Tân (gồm 13 người, trong đó có ông) để tạo thành cuốn Từ điển từ và ngữ Việt Nam, với hàng ngàn sai lầm thuộc mọi chủng loại: về chú giải từ tố, về giải thích từ nguyên, về thành ngữ, tục ngữ, về tri thức khoa học, về lỗi chính tả, v.v.

Trong lĩnh vực biên soạn từ diển, NGND Nguyễn Lân thực sự là người yếu kém nhất, với những lỗ hổng kiến thức không thể khắc phục.

Ví dụ duy nhất về “tầm cao trí tuệ” của Nhà giáo Nguyễn Lân đã góp thêm chứng cứ để khẳng định điều ngược lại.

Trong hàng trăm bài viết để ca ngợi tài năng và trí tuệ hơn người của Nhà giáo Nguyễn Lân, chỉ có một bài duy nhất (của một vị PGS TS) nêu ra một ví dụ để làm bằng chứng về cái “trí tuệ siêu phàm” ấy. Xin kể tóm tắt câu chuyện sau đây:

Tại khu mộ của Nguyễn Trường Tộ, có hai câu (người ta cho là đôi câu đối) bằng chữ Hán khắc nổi, vốn là: Nhất thất túc thành thiên cổ hậnTái hồi đầu thị bách niên thân (Nghĩa là: Một lần sẩy chân, trở thành mối hận ngàn đờiQuay đầu nhìn lại, đã là cái thân trăm năm). Lâu ngày, chữ thân (nghĩa là thể xác, là thân thể) bị sứt mẻ hết nhưng nhiều người dân không biết chữ Hán vẫn còn nhớ đấy là chữ thân. Những người “có học” thì đoán đó là chữ cơ (nghĩa là cơ nghiệp, cơ đồ). Vị PGS TS nọ bèn thỉnh giáo Thầy Nguyễn Lân và đã được Thầy phán truyền: “Vế trên của câu đối là hận (ân hận) – một từ chỉ sự trừu tượng, thì vế dưới đối lại phải là một từ có tính chất cũng trừu tượng, cho nên dùng chữ (cơ đồ) là chuẩn xác và hợp lý hơn là chữ thân (thân thể)”. Rồi ông PGS TS bình luận: Rõ là đầy sức thuyết phục. Tôi nhớ mãi câu nói cảm ơn của tôi khi đó: Thưa thầy! Đúng là nhất tự thiên kim vậy.

Người viết bài Góp phần tìm hiểu sự thật về GS Nguyễn Lân cho rằng, lý lẽ của Thầy Nguyễn Lân rất khó chấp nhận. Cái chữ bị sứt kia phải là chữ thân mới hợp với ý than thân trách phận ở câu trước đó. Nhất thất túc thành thiên cổ hận Tái hồi đầu, thị bách niên thân. Nghĩa là: Một lần sẩy chân (= một lần cẩu thả, một lần hẫng hụt, một lần sa ngã) thì ôm hận ngàn đời.║ Ngoái đầu nhìn lại thì mình chỉ còn cái thân già yếu. Như thế mới đúng với tâm tư của người có hoài bão lớn nhưng “lỡ thời”.

Nếu thay chữ thân bằng chữ , nghĩa là cơ nghiệp, là sự nghiệp, thì sẽ sự thể sẽ là: Nhất thất túc thành thiên cổ hận. Tái hồi đầu, thị bách niên cơ. Nghĩa là: Một lần sẩy chân (= một lần cẩu thả, một lần hẫng hụt, một lần sa ngã) thì phải ôm hận mãi mãi. ║ Ngoái đầu nhìn lại thì mình đã có cơ nghiệp trăm năm. Như vậy thì cái sự “thất túc” kia không gây nên hậu quả gì ghê gớm, chẳng đáng phải mang hận ngàn đời.

Kết quả khảo cứu của chúng tôi đã xác nhận rằng, hai câu ấy phải là: Nhất thất túc thành thiên cổ hận Tái hồi đầu, thị bách niên thân. Đây là hai câu thơ cuối cùng trong một bài thơ thất ngôn bát cú có xuất xứ khá ly kỳ, liên quan đến một số học giả nổi tiếng thời nhà Minh và nhà Thanh.

Chúng ta lại có thêm một bằng chứng xác thực cho thấy trình đô học vấn non kém và thòi quen nói liều của NGND Nguyễn Lân.

¢ Trên đây là bản tóm lược 8 sự thật về NGND Nguyễn Lân mà tác giả đã khảo chứng khá kỹ càng trong bài Góp phần tìm hiểu sự thật về GS Nguyễn Lân. Hiện nay, bài này đã được đăng lại ở một số Blog khác ngoài Blog Quê choa. Quý vị độc giả nào có nhu cầu đọc toàn văn bài này, có thể tìm thấy một cách dễ dàng theo tiêu đề của bài hoặc theo các địa chỉ sau đây: lemanhchien41.blogspot.com Lê Mạnh Chiến – Blogger.

●♦●

II. Trả lời thư của độc giả Yên Duyên Hương

Trong bài Góp phần tìm hiểu sự thật về Giáo sư Nguyễn Lân, ở đoạn trả lời câu hỏi 2 (phần II. Trả lời một số câu hỏi thiết thực, hỏi về việc Nhà giáo Nguyễn Lân có được nhà nước Việt Nam phong học hàm Giáo sư hay không), tác giả đã chứng minh: NGND Nguyễn Lân chưa bao giờ được nhà nước phong chức danh Giáo sư như lâu nay mọi người vẫn nhầm lẫn. Mở đầu việc khảo chứng điều này, tác giả viết:

Trong Quyết định 162/CP do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký ngày 11 tháng 9 năm 1956 về việc phong chức danh Giáo sư cho 29 Nhà giáo, nhà khoa học tiêu biểu (trong đó có các ông Tạ quang Bửu, Trần Đại Nghĩa, v.v.), có tên những người sau đây:

Sử học (5): Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Huyên, Phạm Huy Thông, Nguyễn Khánh Toàn. ● Văn học (3): Đặng Thai Mai, Nguyễn Mạnh Tường, Trương Tửu. ●Triết học (1): Trần Đức Thảo. ● Toán học (2): Tạ Quang Bửu, Lê Văn Thiêm. ● Vật lý (1): Ngụy Như Kon Tum. ● Hóa học (1): Nguyễn Hoán. ● Y học (14): Đặng Văn Chung, Hồ Đắc Di, Vũ Công Hòe, Đỗ Xuân Hợp, Đặng Vũ Hỷ, Nguyễn Xuân Nguyên, Đặng Văn Ngữ, Đặng Văn Nội, Trương Công Quyền, Phạm Ngọc Thạch, Đinh Văn Thắng, Hoàng Tích Trí, Tôn Thất Tùng, Trần Hữu Tước. ● Nông học (1): Lương Định Của. ● Cơ khí (1): Trần Đại Nghĩa.

Quyết định 162/CP ra đời khi Nhà nước sắp xếp lại các cơ sở Đại học đã có từ trước và mở thêm một số trường Đại học mới, ban đầu, có 6 trường vào năm 1956 (gồm có: Đại học Sư phạm, Đại học Tổng hợp, Đại học Y - Dược, Đại học Nông Lâm, Đại học Bách khoa, Đại học Kinh tế - Tài chính). Để trao trọng trách cho các nhà khoa học hàng đầu trong công tác tổ chức và giảng dạy ở các trường Đại học mới được thành lập, Chính phủ đã phong học hàm Giáo sư cho 29 người kể trên. Quyết định này được ký và công bố trong tháng 9 năm 1956. Đây là lần phong Giáo sư đầu tiên của Nhà nước ta. Từ năm 1980 trở đi mới có những đợt phong học hàm Giáo sư tiếp theo.

Thế nhưng, một số độc giả tra cứu trên mạng Internet (ví dụ, theo Từ điển Wikipedia tiếng Việt, tại mục từ Giáo sư Việt Nam.) hoặc nguồn tài liệu nào đó, lại cho rằng, Quyết định này được ký ngày 11 tháng 9 năm 1976 (chứ không phải là năm 1956 như tác giả đã viết) và cho rằng, sự khảo chứng của tác giả là “thiếu chính xác”. Từ đó, họ coi sự “thiếu chính xác” ấy là cơ sở để đặt vần đề “nghi vấn” mọi kết quả khảo chứng khác của tác giả.

Về vấn đề này, tác giả khẳng định một lần nữa: Quyết định 162/CP về đợt phong học hàm Giáo sư đầu tiên ở Miền Bắc Việt Nam được ký ngày 11/9/1956, và chỉ có thể là năm 1956 chứ không thể là 1976. Tác giả cũng không hề bỏ sót tên NGND Nguyễn Lân trong danh sách những người được phong học hàm Giáo sư, vì ông chưa bao giờ được phong Giáo sư.

Về việc các ông Trần Đức Thảo và Trương Tửu đã được phong học hàm Giáo sư từ trước năm 1958 thì chính Nhà giáo Nguyễn Lân cũng đã nói đến nhiều lần.

Trong cao trào đấu tranh chống “bọn phản động Nhân văn - Giai phẩm” hồi giữa năm 1958, Nhà giáo Nguyễn Lân là một người rất hăng hái, kiên định lập trường của giai cấp vô sản, có thành tích rất nổi bật trong cuộc đấu tranh quyết liệt này. Lập trường cách mạng của ông đã thể hiện rõ trong bài Trường Đại học Sư phạm đã nhổ được hai cái gai: Trương Tửu và Trần Đức Thảo, đăng trên báo Nhân dân (trang 3) số ra ngày Chủ nhật, 18/5/1958. Trong bài báo này, ông Nguyễn Lân đã nhiều lần nhấn mạnh rằng, các ông Trần Đức Thảo, Trương Tửu lúc bấy giờ Giáo sư.

Nhà giáo Nguyễn Lân viết:

Chính vì Trương Tửu và Trần Đức Thảo có manh tâm chống Đảng, chống chế độ nên trong hai năm nay, họ đã gây nên ở trường Đại học sư phạm một không khí nặng nề, khó thở. Họ là Giáo sư, là chủ nhiệm khoa, nghĩa là những người có cương vị trong hội đồng lãnh đạo của nhà trường. Nhưng thực ra họ luôn luôn tìm cách biến những buổi họp hội đồng lãnh đạo thành những cuộc cãi vã, thành những dịp để họ công kích ban giám đốc, công kích các đảng viên. Cho nên trong các buổi họp hội đồng lãnh đạo, ít khi người ta đi đến đượcnhững kết quả cụ thể về xây dựng chuyên môn, xây dựng tổ chức, mà phần lớn thời gian chỉ là để giải quyết những vấn đề tủn mủn, vụn vặt do họ nêu lên hoặc là để họ gây thêm mâu thuẫn trong nội bộ nhà trường. Có người đã cho rằng Tửu và Thảo luôn luôn dùng cái thủ đoạn đảo nghị mà nghị sĩ Pác-nen đã dùng ở nghị viện nước Anh hồi cuối thế kỷ thứ 19, để hội đồng lãnh đạo nhà trường không làm trọn nhiệm vụ mà nhân dân giao phó cho.

Không những Tửu và Thảo chĩa mũi dùi vào các đảng viên mà họ thường mạt sát với những lời sống sượng, thô bạo, họ còn tìm cách dèm pha tất cả những người ngoài Đảng không ăn cánh với họ. Riêng đối với những kẻ nghe theo họ thì họ đề cao, tâng bốc, đòi cho được hưởng quyền lợi nọ kia. Với cái óc bè phái ấy, họ đã phá hoại tinh thần đoàn kết rất cần thiết cho việc xây dựng nhà trường.

Thái độ hung hăng, phá phách của Tửu và Thảo ở trường Đại học sư phạm có phải là do sự bất mãn hay không? Chúng tôi thiết nghĩ họ không có lý do gì bất mãn cả, vì Đảng và Chính phủ đối đãi với họ thật là đã quá hậu.

Nhiều người đã ngạc nhiên không hiểu vì sao Trương Tửu mà có thể là Giáo sư đại học được. Không những y có cái quá khứ chẳng hay ho gì, mà ngay đến cái vốn tri thức của y cũng rất là nông cạn, như người ta đã phân tích nhiều lần trên báo chí. Ấy thế mà Tửu vẫn được làm Giáo sư trường Đại học sư phạm thì còn bất mãn nỗi gì?

[...]

Phải chờ đến khi đã học tập, anh em các tổ được giác ngộ, yêu cầu Tửu và Thảo phải kiểm thảo, rồi anh em góp thêm nhiều hiện tượng, chúng tôi mới hiểu được rằng Trương Tửu và Trần Đức Thảo không phải chỉ là những người trí thức bất mãn mà rõ ràng là những kẻ có mưu đồ xấu xa về chính trị. Trước những hiện tượng cụ thể anh em nêu lên mà Tửu và Thảo không thể chối cãi được, chúng tôi mới thấy được những tư tưởng phản động có thể hạ phẩm giá con người đến mức độ nào. Một số sự việc đã khiến chúng tôi phải sửng sốt không ngờ những người vẫn mệnh danh là đại trí thức như Tửu và Thảo mà có thể ti tiện, đê hèn như thế.

Quả đợt học tập hai văn kiện là một cơn gió lành mạnh đã thổi bạt được những rác rưởi của chủ nghĩa xét lại, đã lật được mặt nạ một số người trước đây người ta vẫn cho là thượng lưu trí thức, và riêng đối với trường Đại học sư phạm, đã nhổ được hai cái gai gây ra bao nhiêu vướng víu trong việc xây dựng nhà trường.

Gai đã nhổ rồi, không khí trường Đại học sư phạm trở nên khác hẳn: mọi người, mọi thành phần, sau đợt học tập, đã cùng đứng trên một lập trường, cùng thống nhất một ý chí, nên tình đoàn kết càng ngày càng chặt chẽ. Trên cơ sở của mối đoàn kết đó, mọi công tác của nhà trường như tổ chức, giảng dạy, học tập, lao động... đều tiến hành được đều đặn, với một đà phấn khởi chưa từng có.

Từ nay nhà trường như một thân thể đã cắt được cái ung thư trở nên lành mạnh, khỏe khoắn. Nhất định trong một tương lai ngắn, trường Đại học sư phạm của chúng ta sẽ xứng đáng là một trường Đại học xã hội chủ nghĩa, xứng đáng với nhiệm vụ đào tạo những người giáo viên tốt cho nền giáo dục phổ thông đương một ngày một vươn lên mạnh mẽ.

Sau cuộc đấu tranh sôi sục, thực chất là những đợt đấu tố khốc liệt mà những ngưởi bị đấu tố không được mở miệng, kết cục là, các Giáo sư Trần Đức Thảo, Trương Tửu, Đào Duy Anh, Nguyễn Mạnh Tường đều phải vĩnh viễn rời khỏi bục giảng các trường Đại học và sống tiếp vài chục năm cho đến hết đời trong cảnh cùng quẫn và tủi nhục, luôn luôn bị theo dõi, rình rập.

Năm 1976, các ông Trần Đức Thảo và Trương Tửu vẫn còn bị theo dõi, giám sát nghiêm ngặt. Tình trạng đó còn kéo dài thêm hơn mười năm nữa mới chấm dứt. Câu chuyện sau đây do Giáo sư Trương Tửu (1913-1999) kể lại cho chúng tôi đã chứng tỏ điều đó.

Khi công cuộc “Đổi mới” diễn ra đi đôi với việc “cởi trói”, sự đối xử với các “phần tử Nhân văn Giai phẩm” bắt đầu bớt nghiệt ngã. Trước đó, đại đa số học trò cũ và những người quen biết đều không dám liên hệ với họ vì ai cũng sợ mang tai họa vào thân. Năm 1987, khi thấy việc tiếp xúc với các “thầy giáo Nhân văn Giai phẩm” không còn nguy hiểm như trước nữa, Giáo sư Nguyễn Đình Chú (là học trò cũ của các thầy Trương Tửu, Trần Đức Thảo) bèn đứng ra tổ chức cuộc họp đồng môn để kỷ niệm 30 năm ngày ra trường (1957-1987) và kính mời các thầy đến dự, trong số đó, không thể thiếu các Giáo sư từng mắc đại nạn trong cuộc “đấu tranh chống Nhân văn Giai phẩm”. Thế nhưng vẫn có một học trò cũ lúc bấy giờ (năm 1987) cũng là Giáo sư về Văn học Việt Nam hiện đại đã vội vã đi báo cáo với công an, đòi ngăn chặn cuộc gặp gỡ này. Tuy nhiên, tình hình bấy giờ không còn căng thẳng như trước, công an không để ý đến “nguồn tin” mật báo này nữa. Cuộc họp đã diễn ra một cách tốt đẹp, đầy xúc động. Đương nhiên là vắng mặt ông Giáo sư kia.

Việc các ông Trần Đức Thảo và Trương Tửu đã được Nhà nước phong chức danh Giáo sư đại học hẳn là không có gì phải nghi ngờ. Sau khi cả hai ông bị đuổi khỏi trường Đại học từ giữa năm 1958 cho đến ngày qua đời, chưa có một chỉ thị nào xóa bỏ bản án quá nghiệt ngã và oan trái đối với họ. Cả hai ông Trấn Đức Thảo và Trương Tửu bị coi là những tên tội phạm nguy hiểm. Cho đến những ngày diễn ra công cuộc “Đổi mới” kèm theo việc “cởi trói” ở nước ta, tình trạng đó mới được nới lỏng. Vậy, không có lý do gì để tin rằng các vị Trương Tửu, Trần Đức Thảo được Nhà nước Việt Nam phong học chức danh Giáo sư vào năm 1976. Quyển sách GIÁO SƯ VIỆT NAM của Hội đồng chức danh Giáo sư Nhà nước (Nxb Khoa học Xã hội ấn hành năm 2004) đã ghi nhận rằng, trước năm 1980 việc phong chức danh Giáo sư chỉ được thực hiện một lần duy nhất, có 29 người được phong Giáo sư trong lần này. Bởi vậy, nếu căn cứ theo Từ điển Wikipedia tiếng Việt hoặc một tài liệu nào đó để tin rằng đợt phong Giáo sư đầu tiên diễn ra năm 1976 là hoàn toàn sai lầm.

Đến đây, chúng tôi đã trả lời xong hai điều thắc mắc trong thư của độc giả Yên Duyên Hương, cụ thể là: uĐợt phong học hàm Giáo sư đầu tiên diễn ra năm 1956 chứ không phải năm 1976 như một số tài liệu đã viết sai. v Chúng tôi cũng không “bỏ sót tên ông Nguyễn Lân” khỏi danh sách những người được phong học hàm Giáo sư, vì ông chưa bao giờ được phong Giáo sư mà chỉ là Giáo sư tự phong.

Độc giả Yên Duyên Hương còn đặt cho chúng tôi một câu hỏi khác nữa: Chúng tôi được biết, sinh thời GS Nguyễn Lân đã có lời xin lỗi Trần Đức Thảo. Vậy, thực hư chuyện này là thế nào?

Tác giả xin phép mượn một bài của nhà báo Phú Cường, trong đó nói về điều “ân hận” của Nguyễn Lân đối với Trần Đức Thảo để trả lời câu hỏi này của quý vị.

Trong bài Chuyện giờ mới kể về GS NGND Nguyễn Lân (trên báo điện tử Vietnamnet, tại địa chỉ http://vnn.vietnamnet.vn/vanhoa/2003/9/30157/) của nhà báo Phú Cường viết nhân 49 ngày mất của GS NGND Nguyễn Lân, có đoạn cuối cùng mang tiêu đề là Tôi có hai điều ân hận, như sau:

Sống một cuộc đời trong sáng, không màng công danh, phú quý, dồn hết tâm trí vào việc trồng người, GS NGND Nguyễn Lân được Nhà nước trao tặng nhiều danh hiệu cao quý, hàng năm nhân dịp Tết cổ truyền, ngày Nhà giáo Việt Nam, các vị lãnh đạo cấp cao Đảng và Nhà nước đều đến thăm và tặng quà cụ. Cụ có lần tâm sự:

Cả đời tôi sống thanh bạch, không làm điều gì để trái với lương tâm, chỉ có hai điều tôi cứ ân hận mãi. Một là tôi được các vị lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước đến tận nhà thăm hỏi, nhưng do tuổi cao, đi lại không thuận tiện nên chưa lần nào đến nhà đáp lễ được. Điều thứ hai là, năm 1957, hồi tôi là Chủ tịch Công đoàn ngành giáo dục, được tổ chức phân công cuộc họp phê phán ông Trần Đức Thảo, một nhà triết học rất uyên bác. Là nhiệm vụ trên giao, tôi không thể không thực hiện, mà trong lòng thấy ân hận vô cùng. Rất mừng, năm 2000 các công trình nghiên cứu của GS Trần Đức Thảo được Đảng và Nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh.

Bây giờ hai cụ đều ở cõi vĩnh hằng, chắc rằng hai nhà trí thức lớn của nước nhà đều cười vui, thông cảm trong niềm kính trọng nhau.

Đọc những lời “gan ruột” của Nhà giáo Nguyễn Lân, thoạt tiên chúng ta tưởng như đó là biểu hiện tấm lòng trung thực của một người “trót vì tay đã nhúng chàm”, nay lương tâm cắn rứt nên đã dũng cảm, thẳng thắn thừa nhận những lỗi lầm mà trước đây mình đã phạm phải. Thế nhưng, tinh ý một chút thì sẽ thấy rằng, trong sự ân hận quá muộn màng này vẫn lấp ló sự thiếu chân thành nên ông vẫn cố đổ lỗi cho hoàn cảnh khách quan. Hơn nữa, trong hai điều “ân hận mãi ấy, điều “ân hận” thứ nhất là ở chỗ, do tuổi cao, đi lại không thuận tiện nên chưa lần nào đến nhà đáp lễ các vị lãnh đạo Nhà nước từng đến nhà thăm hỏi ông; rồi sau đó mới đến điều “ân hận” thứ hai, do phải hết lòng “phục tùng tổ chức” (phải dùng lời lẽ đao búa để xỉa xói, nhục mạ người bị đấu tố) nên phải lập thành tích xuất sắc trong việc kể tội và luận tội các ông bạn đồng nghiệp vốn có địa vị cao hơn mình. Điều “ân hận” thứ nhất thực ra chỉ nên gọi là sự áy náy, băn khoăn về tình cảm, nhưng đã được ông nâng lên thành điều “ân hận” cao hơn hẳn sự dày vò, cắn rứt và hổ thẹn mà mọi người có lương tâm đều không thể tránh khỏi khi nghĩ đến thành tích đổ dầu vào lửa trong cuộc hãm hại đày đọa những người lương thiện. Về thực chất và sức tác động, những lời buộc tội của chứng nhân kiêm quan tòa Nguyễn Lân chẳng khác gì những nhát gươm hay những mũi tên tẩm thuốc độc để hạ gục nạn nhân. Vậy mà trong hai đồng nghiệp vô tội từng bị ông coi là kẻ thù phải trừng trị đích đáng, sau khi họ đã mất hết tất cả mọi chỗ bấu víu về tinh thần và vật chất, phải nếm đủ mùi đắng cay, tủi hận suốt 30-40 năm rồi ngậm ngùi về nơi chín suối, chỉ có một người vừa được tuyên dương (coi như được minh oan) thì được ông nghĩ lại rồi lặng lẽ nói riêng với một nhà báo, tỏ ý “ân hận” sau khi người đó qua đời gần một chục năm. Còn đối với người đồng nghiệp vô tội nhưng không (hay chưa) được tuyên dương thì ông không hề “ân hận”.

Cũng không khó nhận ra trò ngụy biện của ông Nguyễn Lân. Bởi vì, với tư cách “Chủ tịch Công đoàn ngành giáo dục, được tổ chức phân công cuộc họp phê phán ông Trần Đức Thảo [...] Là nhiệm vụ trên giao, tôi không thể không thực hiện” nếu ông Nguyễn Lân thực sự là một con người nhân hậu và hiểu biết lẽ phải thì ông sẽ làm nhiệm vụ “trên giao” đó một cách “cầm chừng” chứ không thể hăng hái “toàn tâm toàn ý” đấu tố đồng nghiệp với những lời chửi rủa, nhục mạ nặng nề như vậy. Trên thực tế, hồi bấy giờ không phải chỉ có một mình ông Nguyễn Lân phê phán các ông Trương Tửu và Trần Đức Thảo. Nhưng có lẽ chỉ những lời lẽ đấu tố cay độc của Nguyễn Lân mới trở thành “áng văn bất hủ” mà đến đến tận bây giờ đọc lại, ai nấy đều rùng mình ghê rợn.

Nếu quả thật ông Nguyễn Lân thấy lương tâm cắn rứt, ân hận thì hẳn là ông phải viết bài công khai nói lên điều đó hoặc chính thức xin lỗi trước mặt Trần Đức Thảo chứ không phải đợi đến khi ông này qua đời gần muời năm và được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh. Cho nên chúng ta không lấy gì làm lạ khi Nhà giáo Nguyễn Lân không hề ‘ân hận’ về việc đấu tồ, nhục mạ ông Trương Tửu. Khi ông Trần Đức Thảo còn sống vả còn mang thân phận một công dân hạng bét thì NGND Nguyễn Lân không có gì ân hận về việc làm thất đức và tàn nhẫn của mình. Chỉ sau khi ông Trần Đức Thảo qua đời gần 10 năm và trở thành người có địa vị cao hơn hẳn (là Giáo sư thật, được trao giải thưởng cao nhất, còn ông Nguyễn Lân thì vẫn là Giáo sư tự phong và được trao giải thưởng thấp hơn) thì ông Nguyễn Lân mới “ân hận”. Còn ông Trương Tửu thì chỉ mới thoát khỏi thân phận công dân hạng bét để gia nhập đội ngũ “phó thường dân” nên ông Nguyễn Lân không cần phải bận tâm về việc làm độc ác năm xưa. Nếu cùng lúc, cả Trần Đức Thảo lẫn Trương Tửu đều được Nhà nước trao giải thưởng hoặc được tôn xưng thì cái điều “ân hận” thứ hai của Nhà giáo Nguyễn Lân hẳn sẽ khác hơn.

Ông Nguyễn Lân không “ân hận” đối với ông Trương Tửu mà chỉ “ân hận” đối với ông Trần Đức Thảo vì về sau ông Trần Đức Thảo trở lại địa vị cao hơn mình, chứ không phải vì kính trọng người tài cao học rộng. Mà địa vị hay “trọng lượng” của ông Trần Đức Thảo (nếu ông còn sống) thì chẳng thấm vào đâu so với các quan chức từ thứ trưởng trở lên. Bởi thế, đối với ông Nguyễn Lân, cái “lỗi” xúc phạm, chà đạp danh dự và nhân phẩm của ông Trần Đức Thảo còn nhẹ hơn nhiều so với cái “lỗi” chưa đi thăm đáp lễ các vị lãnh đạo cấp cao.

Trở lại câu hỏi của độc giả Yên Duyên Hương: Chúng tôi được biết, sinh thời GS Nguyễn Lân đã có lời xin lỗi ông Trần Đức Thảo. Vậy, thực hư chuyện này là thế nào?, tác giả coi việc lý giải hai điều “ân hận” của NGND Nguyễn Lân đã là lời giải đáp cho câu hỏi của quý vị: Ông Nguyễn Lân chỉ “ân hận” vì sự “thất lễ” đối với những người bề trên, những người có ngôi vị cao hơn mình. Bởi vậy, sinh thời, GS Nguyễn Lân không bao giờ có lời xin lỗi ông Trần Đức Thảo, cũng như ông đã không hề “ân hận” đối với ông Trương Tửu. Đó là một sự thật hiển nhiên.

●♦●

“Trải qua một cuộc bể dâu”, nhân cách và tài năng của các Giáo sư Trần Đức Thảo và Trương Tửu tuy bị chà đạp và vấy bẩn suốt ba chục năm nhưng đến nay vẫn được người đời trân trọng và biểu dương. Họ vẫn để lại hình ảnh đẹp trong lòng mọi người Việt Nam có hiểu biết, có lương tri. Còn NGND Nguyễn Lân – người luôn luôn hãnh diện với cái hư danh Giáo sư tiếm xưng và đắc ý tự hào về những cuốn từ điển từng làm lóa mắt hàng loạt trí thức lười học và ít suy nghĩ, nhưng lại đầy rẫy những sai sót “để đời”, làm méo mó tiếng Việt, rất độc hại đối với tiếng Việt – nay đã bắt đầu được người đời phán xét với đầy đủ tang chứng cụ thể để cảnh cáo và tẩy độc nhằm trả lại vẻ đẹp hồn nhiên cho tiếng Việt và ghi nhớ một giai đoạn suy đồi của nền văn hóa - giáo dục Việt Nam.

Lê Mạnh Chiến
Email: lemanhchien41@yahoo.com
Tác giả gửi BVN
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét