Tổng số lượt xem trang

Chủ Nhật, 29 tháng 6, 2014

Tinh thần phê phán trong Việt nam quốc sử khảo

TIN LÃNH THỔ


TIN XÃ HỘI


TIN KINH TẾ

TIN GIÁO DỤC

TIN ĐỜI SỐNG

TIN CÔNG NGHỆ

TIN VĂN HÓA GIẢI TRÍ


TIN THẾ GIỚI

Tinh thần phê phán trong Việt nam quốc sử khảo

Vương trí Nhàn

Qua việc vạch ra thói hư tật xấu của người mình
Phan Bội Châu cho thấy một quan niệm mới về cộng đồng về dân tộcTrong Tự phán ( Phan Bội Châu niên biểu ) có đoạn kể lúc mới đến Nhật (1905), Phan Bội Châu gặp một người phu xe Nhật tốt bụng. Người này thấy Phan là dân ngoại quốc, lần đầu đến xứ ngườI, đang lạ nước lạ cái, thì hết sức giúp đỡ, vui vẻ chở tới nơi đã định, tìm hộ người cần gặp, lại chỉ lấy giá xe đúng mức như mọi đám khác. Nói về người, nhưng Phan không quên nói về mình. Một nét tâm lý của chính Phan có liên quan trong dịp này được ông ghi nhận: Trong lúc chờ người phu xe lo việc, ông rất băn khoăn. Người phu ấy chạy xuôi chạy ngược suốt từ 2 giờ tới 5 giờ. Tốn công quá ! Và ông liên hệ tới cách sống bon chen vô cảm của những người phu xe trong nước. Sau những vụ này tương tự, họ ăn vạ bắt chẹt đủ đường. Ông nghĩ bụng, “ sợ nó cũng một nết như phu xe nước mình thì e cũng khốn nạn với vấn đề đòi tiền “.

Cách xử sự của người phu xe Nhật khiến Phan đi từ ngạc nhiên đến thán phục, ông tự nhủ “ Than ôi ! Trí thức trình độ dân nước ta xem với tên phu xe Nhật bản, chẳng dám chết thẹn lắm hay sao !” (1)
Đọc xong đoạn này, nhiều người hẳn giật mình.
Lâu nay nói tới Phan Bội Châu, ta nghĩ ngay tới một ngọn cờ vẫy gọi lôi cuốn quốc dân hành động chống Pháp. Con người ông là của những sự việc hoành tráng. Nói như Phan Châu Trinh, ông “ thích dùng quyền thuật, dám làm, nói lớn lối “ (2)
Gắn liền với tên tuổi ông là những lời hô hào thuyết phục kêu gọi khích lệ.Theo logic thông thường ta đoán cái chuyện thói hư tật xấu của dân Việt là một khái niệm xa lạ với Phan. Có biết thì ông cũng bỏ qua để khỏi cản trở công việc!
Hóa ra chúng ta nhầm.
Đọc lại tập Cao đẳng quốc dân (1928) tìm thấy trong đó những đoạn hết sức thống thiết Chứng bệnh hay giả dối là chứng bệnh chung của người nước ta mà ở trong lại có một chứng đặc biệt là chứng ái quốc giả …Nào đám truy điệu, nào tiệc hoan nghênh, nào là kỷ niệm anh hùng, nào là sùng bái chí sĩ, chuông dồn trống giục, nam hát bắc hò, xem ở trong một đám lúc nhúc lao nhao, cũng đã có mấy phần người biết quyền nước đã mất thì tính mạng không còn, hồn nước có về thì giang sơn mới sống. Nếu những tấm lòng ái quốc đó mà thật thà chắc chắn thì giống Tiên Rồng chẳng hạnh phúc lắm sao? Nhưng tội tình thay, khốn khổ thay, người ưu thời mẫn thế chẳng bao nhiêu mà người rao danh thì đầy đường đầy ngõ. Giọt nước mắt khóc nước vẫn ngày đêm chan chứa mà xem cho kỹ thì rặt nước mắt gừng; tiếng chuông trống kêu hồn vẫn trong ngoài gióng giả mà nghe cho tới nơi thì rặt là chuông trò trống hội; ngoài miệng thì ái quốc mà trong bụng vẫn là kim khánh mề đay; trước mặt người thì ái quốc mà đến lúc đêm khuya thanh vắng thì tính toán những chuyện chó săn chim mồi. Cha ôi! trời ôi! ái quốc gì? ái quốc thế ư? Đeo mặt nạ ái quốc để phỉnh chúng lừa đời, một mặt thời mua chuốc lấy tiếng chí sĩ chân nhân, một mặt thì ôm chặt lấy lốt ông tham bà đốc.(3)
Lúc này, tác giả đã về Huế an trí nên việc những đoạn trên xuất hiện dưới ngòi bút cuả Phan là dễ hiểu. Ông già bến Ngự thôi không còn là một nhà hoạt động sôi nổi mà trở lại vai trò một người trí thức. Và trong ký ức của chúng ta nó có vẻ là một cái gì lạc điệu, không phải một Phan Bội Châu chúng ta hằng nghĩ.
Tuy nhiên đọc kỹ cả những cuốn như Việt nam quốc sử khảo(1908) thì thấy cách nhìn cách suy nghĩ có tính cách phê phán đã đến với Phan ngay trong lúc hoạt động ở Nhật. Không thấy phương diện này trong tư tưởng Phan Bội Châu tức là làm nghèo ông đi rất nhiều.
Tinh thần chính trực “ nhìn thẳng vào sự thật”
Chương thứ năm trong Việt Nam quốc sử khảo mang tên Sự thịnh suy của dân quyền và dân trí của nước ta. Tiết thứ tư của chương bàn kỹ về dân trí mà Phan khái quát chung bằng một từ “đáng thương “
(…) Vì vậy, giờ đây tôi xin kể những điều tai nghe mắt thấy để quốc dân cùng biết: Hay nghi kỵ lẫn nhau, không làm nên việc gì cả, đó là điều rất ngu thứ nhất. Tôn sùng những điều xa hoa vô ích, bỏ bễ những sự nghiệp đáng làm, đó là điều rất ngu thứ hai. Chỉ biết lợi mình mà không biết hợp quần, đó là điều rất ngu thứ ba. Thương tiếc của riêng, không tưởng đến việc ích chung, đó là điều rất ngu thứ tư. Biết có thân mình nhà mình mà không biết có nước, đó là điều rất ngu thứ năm.
Dân được cường thịnh là nhờ có sự nghiệp công ích. Nay những việc đó, người nước ta đều không thể làm được. Hỏi vì sao không làm được, thì nói là vì không có tiền của. Sở dĩ không có tiền của là vì đã tiêu phí vào những việc vô ích xa hoa rồi. “ (5)
Nhìn chung cả tiết này, có thể thấy thói hư tật xấu mà Phan nêu ra chưa phải toàn diện. Trong phạm vi 15 trang ( Tr 222- 235) của một cuốn sách 140 trang (163- 305), ông chỉ tập trung vào những thói xấu có hại cho công cuộc vận động cách mạng. Đó là cách sống rời rẽ sự nghi kỵ lẫn nhau, người nào cũng chỉ biết lợi riêng, không ai tin ai, không ai đoàn kết ai.
Tuy nhiên, trên đà suy nghĩ tự phán ông đã rộng ra để nói rằng xã hội ta chưa được tổ chức lại một cách hợp lý, cũng như trong sự vụ lợi, ông thấy rõ chúng ta còn dừng lại ở một tầm nhìn tầm nghĩ hạn hẹp, không sử dụng hết năng lực làm người của mình.
Một thói xấu cũng được Phan sớm để ý tới là sự xa hoa. Tại sao ? Để hiểu điều này phải trở lại với hoàn cảnh của Phan lúc đó : Không có thực lực, không có tiền của
. Đọc Tự phán thấy ở Nhật có lúc các ông phải đi ăn mày. Trong khi đó thì trong nước nhiều người không biết dùng của cải vật chất vào việc gì.
Trong môt văn bản được viết chủ yếu để tuyên truyền ông không quên nói cả chuyện hôn nhân, chuyện tang ma. Nhìn vào những đám cưới phiền phức ông thấy ở đó chúng ta bị những lề tục tự phát trói buộc, rồi cứ bày đàn mà theo nhau “ nhà giàu thì hao phí tiền của, nhà nghèo thì phải cầm bán ruộng đất sản nghiệp” “ làm một việc hao tổn vô vị, thật quái gở thay’’. Hoặc nhìn vào những đám tang trong lúc người trong cuộc đau đớn thì chung quanh ăn uống linh đình, ông bảo “ sao mà nhẫn tâm thế, sao mà ngu ngốc thế “.
Đến như cái việc mà cho đến đầu thế kỷ XX này, dân ta vẫn coi là một cái gì thiêng liêng, không ai dám mang ra bàn, Phan Bội Châu cũng đề cập tới theo cách riêng của mình. Đó là câu chuyện thờ cúng tổ tiên. Ông thấy ở cách làm của dân ta một sự phô trương giả tạo. Cái lý của tác giả rất cụ thể
“ Chưa một ai chết rồi mà còn có thể ăn thịt uống rượu được …Bày biện cỗ bàn, giết thịt bò dê gà lợn để mời hàng xóm họ hàng khách khứa đến ăn uống no say mớI thôi, như thế có phải là mượn tiếng người chết để làm sướng mồm người sống hay không ? Thật là nhẫn tâm quá. Huống chi lúc cha mẹ đang sống, một chén cơm một bát canh cũng không cho ăn ; đến khi chết rồi thì lại làm lễ tam sinh tốn kém hàng vạn để báo hiếu ? Sao lại lừa dối người quá đến thế ?(6)
Tấm lòng và tầm vóc suy nghĩ
Cũng như khi hô hào kêu gọi, — khi nhắc lại những thói xấu nói trên, Phan Bội Châu có cái giọng rất thống thiết.Ông dùng đến những chữ rất nặng, những chữ mà người khác nói ra sẽ lập tức bị buộc tội là khinh rẻ dân tộc chẳng hạn như ngu, ngu muội. ( lắp lại tới 7 lần ). Nhiều đoạn sau khi kể thói xấu, lại thường kết bằng một câu hỏi “ Sao mà ngu thế ?” “ thật là ngu quá không thể hiểu được”.
Phan vốn người nói thẳng, nói hết. Ông xa lạ với thói mị dân. Lòng tin ở người và ở mình cho phép ông “ gọi sự vật đúng với tên của nó “.
Nên nhớ những đoạn đang nói ở đây là trích ra từ trong một cuốn sử. Chúng ta biết rằng nền sử học ở ta còn dừng lại ở một trình độ “khiêm tốn”, với nghĩa ít về số lượng mà đơn sơ về quan niệm, do đó chất lượng non yếu kém cỏi, không đáp ứng được nhu cầu tự nhận thức của dân tộc.
Cái chuyện sử ngày xưa toàn chép chuyện vua chúa thì ai cũng biết rồi. Vậy sử của ta hôm nay hoàn toàn sao ? Không hẳn. Chúng ta lại có một cái lệch khác. Chúng ta chưa có những bộ lịch sử của xã hội. Trong các công trình sử thời nay hoạt động của dân tộc trong quá khứ được quy tất cả vào việc chống ngoại xâm.
So với cả trước cả sau, trong cái vẻ còn luộm thuộm vụn vặt, thật ra Việt nam quốc sử khảo đã mở ra một quan niệm mới về cách viết sử.
Phải có cả sử phong tục tập quán. Phải sớm viết sử về tâm lý người dân thường. Phải có cả sử về những quan niệm mà chúng ta tiếp nhận của nước ngoài nhưng biến báo nó đi và làm theo cách của ta. Từ những việc Phan Bội Châu đã làm , người ta có thể rút ra những phương hướng làm sử như vậy.
Về việc sử dụng chuẩn mực khi phê phán, có đến mấy lần khi nêu ra thói hư tật xấu của người mình, Phan Bội Châu dùng đến những chữ như “ quái gở thay “ “ hoặc đặt câu hỏi “đạo làm người có nên như thế không ? “. Tức là khi xét thói hư tật xấu, ông xuất phát từ những nguyên lý nhân bản nói chung. Tiêu chuẩn để ông xem xét rồi từ đó bảo cái này tốt cái kia xấu không phải là những tiêu chuẩn riêng của Việt Nam mà là những chuẩn mực chung của nhân loại.
Với cách suy nghĩ như thế, phải nói Phan Bội Châu đã đạt tới cốt cách của một nhà trí thức theo nghĩa hiện đại.
Trong khi làm cái công việc mà nói theo ngôn ngữ ngày nay là xem xét những đặc tính của một cộng đồng, có một điều tối kỵ là mang so sánh dân xứ này với dân xứ khác. Ấy vậy mà Phan Bội Châu đã làm, dám làm và làm được. Để phê phán nghi lễ cổ hủ của người mình, ông kể khá kỹ ở Nhật người ta tiến hành tang ma hiếu hỷ đơn giản mà chân thành ra sao. Vấn đề không chỉ là Phan Bội Châu có một quan niệm thông thoáng đối với các vấn đề đời sống. Mà dường như ông còn muốn nói người ta không được phép sống theo thói quen, cứ xưa làm sao nay làm vậy rồi bảo rằng như thế mới là tự tôn tự trọng, là có bản sắc riêng. Trong khi không viện dẫn tính độc đáo để biện hộ cho cách sống phiền phức mang nặng hình thức của dân mình, ông giả thiết rằng tất cả các vấn đề của đời sống có thể làm khác như cái cách mà chúng ta vẫn làm. Và trình độ sống của cộng đồng luôn luôn phải được xem xét khảo sát đánh giá lại , có thế mới có cơ thoát khỏi những tình thế bế tắc mà chúng ta thường xuyên phải đối mặt .
V.T.N
—–
(1) Phan Bội Châu Tự phán bản của NXB Văn hóa thông tin Hà Nội, 2000, tr75-76
(2) Nguyễn Văn Dương biên soạn Tuyển tập Phan Châu Trinh, NXB Đà Nẵng 1995, tr 550
(3)Phan Bội Châu. Về một số vấn đề văn hóa xã hội chính trị NXB Thuận Hóa 2000
tr119-120
(4) Những tác phẩm của Phan Bội Châu, tập I Việt nam vong quốc sử. Việt nam quốc sử khảo NXB Khoa học xã hội Hà Nội, 1982
(5) Sách đã dẫn, tr .224
(6)Sách đã dẫn, tr227-228

Việt Nam quốc sử khảo ( 越南國史考 ) -Phan Bội Châu.(1867-1940)

Wikipedia

Chương thứ tám

Chương này có 4 tiết, giới thiệu tiết thứ ba: Những kỷ niệm lớn về đất đai của nước ta đã kinh lý mà bị mất mát.
Lược trích:
-Hồ Hán Thương cắt 59 thôn ở Cổ Lâu cho nhà Minh.
-Mạc Đăng Dung cắt hai châu và bốn động (nay là hai châu Thanh và châu Khâm).
-Lê Cảnh Hưng năm 41, cắt đất sáu châu ở An Tây, Hưng Hóa (Quảng Lăng, Khiêm Châu, Hoàng Nham, Tuy Phủ, Hợp Phì, Lệ Tuyền) nhập vào đất Vân Nam (nhà Thanh).
-Bản triều Tự Đức năm 15 (1862), sai Phan Thanh Giản phụng sứ tới Sài Gòn cắt sáu tỉnh Nam Kỳ nhượng cho Đại Pháp.

-Năm Tự Đức 36 (1883), ký hòa ước hòa thân Pháp – Việt (tức Hiệp ước Hácmăng) mất hết Bắc Kỳ, chủ quyền cũng hết.
-Năm đầu Hàm Nghi, kinh thành Thuận Hóa thất thủ, đai đai và chủ quyền của ta cũng mất hết…
Nhìn lại trước sau gần một ngàn năm lịch sử, khai thác nên vũ trụ này, một tấc đất, một người dân đều là do tâm huyết tổ tiên ta mà có. Thế mà chưa đầy 50 năm, núi sông gấm vóc đó đã sạch sành sanh không còn một tấc đất…Tục ngữ có câu: “Củi của cha đốn, con không mang gánh được”. Các tổ tiên có ngờ đâu rằng mấy trăm năm sau đã diễn ra cái cảnh thảm thương như thế này!?

Chương thứ chín

Chương này có 3 tiết.
  • Tiết thứ nhất: Sự nhục nhã trong việc thần phục Bắc triều.
Sau khi kể ra những việc nộp cống cho Bắc triều, tác giả viết:
Nói chung cốt là muốn lấy nước ta, nhưng không có cớ gì cho nên nghĩ ra lắm kiểu hạch sách để lập mưu mượn cớ hỏi tội…Tất cả những nỗi nhục nhã như thế, ngoài việc như ba năm nạp cống một lần và chúc mừng vua mới, điếu vua cũ; hằng năm còn phải qua lại cống hiến…mà sử sách không thể chép hết. Đây chỉ tạm chép một vài mẫu để thấy rằng một nước không biết tự cường thì thà chết quách đi còn sướng hơn!
  • Tiết thứ hai: Thần phụ Bắc triều bị nhục về lời lẽ giấy tờ.
Trích:..
Ôi! Làm đế ở nước mình mà vương hiệu còn phải đợi người ngoài đặt cho mới được. Lời lẽ giấy tờ như vậy, không hỏi cũng biết nhục nhã…Nhật Bản chỉ có ba hòn đảo trơ vơ, đất không rộng hơn nước ta, thế mà đối với Tùy, Đường đều xưng là “Thiên tử của xứ mặt trời mọc”. Tử Sản[3] nói “Nước không biết cạnh tranh thì (thế nào) cũng bị lăng nhục”. Nước ta lại không có một ngày nào thoát khỏi ách nô lệ hay sao?. Từ nay về sau, tôi xin người nước ta phải biết tự trọng.
  • Tiết thứ ba: Thần phục Bắc triều mà không giúp được gì cho nước.
Trích:
Quanh năm châu, có nước nào thần phục người ta mà được người ta yêu thương không? – Không có. Có nước nào thấy nước khác thần phục mình mà rủ lòng thương yêu đến không? – Cũng không có. Hai ý đó lấy chứng cớ ở đâu? Xin lấy chứng cớ ở nước Việt Nam ta.
Sau khi dẫn chứng, tác giả có lời bình:
Rõ ràng ỷ lại vào người ngoài không bằng tự cường lấy ta. Bởi vì tự cường thì khí thế của mình mạnh, khí thế mạnh thì chuyển yếu thành mạnh…Nếu như nước ta, 50 năm về trước mà bỏ hẳn được cái tư tưởng “thờ nước lớn”, biết bồi dưỡng cho cái cơ sở độc lập, biết phát triển cái căm uất thành sức mạnh, cùng với người khác tranh thắng, thì đâu đến nỗi như ngày hôm nay

Chương thứ mười

Chương này có 5 tiết, giới thiệu tiiết thứ năm: Thời kỳ cuối của người Tây đắc chí ở nước ta.
Trích:
Năm Tự Đức thứ 36, cách một năm sau khi Hà thành thất thủ lần thứ hai, Hoàng Diệu tử tiết, Bắc Kỳ hoàn toàn mất. Quân Pháp lại tiến đánh kinh đô Thuận Hóa, ta lại ký thêm một điều ước hòa thân…Từ đó, chủ quyền ngoại giao, nội chính, đất đai, nhân dân đều do người Pháp nắm hết.
Nhìn chung lại, nước ta bị diệt vong, do rất nhiều điều tệ, tội nhiều không thể kể hết, nhưng trong đó có bốn cái tội lớn:
-Một là ngoại giao hẹp hòi.
-Hai là nội trị hủ bại.
-Ba là dân trí bế tắc.
-Bốn là vua tôi trên dưới tự tư tự lợi.
(Suy ra) ngoại giao, nội trị, dân trí sở dĩ đồi bại như vậy là do trên dưới tự tư tự lợi mà ra cả. Cuối cùng nước bị mất. Vua bị tù, thần dân đều trở nên giống người mất nước…Cái tự tư tự lợi nguy hại là nhường nào!!…[4]
 
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét