Tổng số lượt xem trang

Thứ Sáu, 8 tháng 8, 2014

Cuộc phiêu lưu của Trung Quốc ở Biển Đông đã thất bại

Nghị Sĩ John McCain tới Hà Nội: Vũ khí hay nhân quyền?

HÀ NỘI (NV) - Hai nghị sĩ Mỹ John Mc Cain và Sheldon Whitehouse vừa tới Hà Nội trong chuyến thăm Việt Nam kéo dài 3 ngày bắt đầu từ 8 tháng 8, 2014 “để trao đổi về hợp tác song phương.”

Phái đoàn của ông John McCain và Sheldon Whitehouse đến thì phái đoàn của Nghị Sĩ Robert Corker (thành viên cao cấp của Ủy Ban Ðối Ngoại Thượng Viện Mỹ) cũng vừa rời Hà Nội. Theo truyền thông Việt Nam, một phần lớn các cuộc trao đổi có liên quan đến vấn đề nhân quyền, đàm phán Hiệp định Hợp Tác Thương Mại Xuyên Thái Bình Dương (TPP), và bãi bỏ cấm vận võ khí đối với Việt Nam.
Nghị Sĩ John McCain phát biểu tại cuộc họp báo ở Hà Nội trong chuyến thăm Việt Nam hồi tháng 1 năm 2012. (Hình: Getty Images)
“Ðoàn hai thượng nghị sĩ cùng trợ lý và các cố vấn thăm và làm việc tại Việt Nam nhằm mục đích trao đổi các vấn đề song phương và các vấn đề khu vực hai bên cùng quan tâm.” Phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao CSVN Lê Hải Bình cho biết như vậy trên VietNamNet về phái đoàn McCain và Whitehouse.

Nguồn tin này cho hay, “Thông tin chính thức từ phía Mỹ cũng cho hay, TNS John McCain và TNS Sheldon Whitehouse sẽ gặp gỡ các nhà lãnh đạo VN nhằm trao đổi các vấn đề song phương, khu vực, bao gồm vấn đề an ninh, thương mại và nhân quyền.”

Ðề tài “bãi bỏ cấm vận võ khí sát thương” cho Việt Nam là đề tài được nhắc nhở khá nhiều thời gian gần đây. Trong chiều hướng này, chuyến thăm viếng kéo dài 3 ngày của phái đoàn mà hai nghị sĩ John McCain (Cộng Hòa-Arizona) và Sheldon Whitehouse (Dân Chủ-Rhode Island) cầm đầu nhiều phần cũng liên quan.

Nhất là ông McCain lại là một nghị sĩ thuộc Ủy Ban Quốc Phòng có nhiều ảnh hưởng và cũng có cảm tình đối với Việt Nam, giới lãnh đạo Hà Nội luôn luôn tìm dịp vận động với ông, nhờ uy thế của ông để thúc hối Hoa Thịnh Ðốn bỏ lệnh cấm vận võ khí sát thương.

Trong một chuyến đến Hà Nội mấy năm trước khi ông đi cùng Nghị Sĩ Joseph Lieberman, các ông từng cho hay các lãnh đạo CSVN trao cho các ông một danh sách võ khí các loại rất dài muốn mua. Tuy nhiên, các ông cũng đã nói thẳng là vấn đề bãi bỏ cấm vận võ khí tùy thuộc vào sự cải thiện nhân quyền.

Hôm 4 tháng 8, 2014, Nghị Sĩ Bob Corker (Cộng Hòa-Tennessee), thành viên cao cấp Ủy Ban Ðối Ngoại Thượng Viện Mỹ, đã gặp Phó Thủ Tướng kiêm Ngoại Trưởng Phạm Bình Minh và Thượng Tướng Trương Quang Khánh, thứ trưởng Bộ Quốc Phòng vào buổi sáng. Chiều cùng ngày ông đã gặp Chủ Tịch Quốc Hội CSVN Nguyễn Sinh Hùng.

Qua sự tường thuật của Thông Tấn Xã Việt Nam (TTXVN) thì ông Corker nói với ông Trương Quang Khánh là, “Hai bên đang xúc tiến đàm phán để đi đến ký kết Hiệp Ðịnh Ðối Tác Xuyên Thái Bình Dương; Mỹ đang nghiên cứu, tiến tới việc dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương với Việt Nam.”

Tuần lễ vừa qua, Dân Biểu Randy Forbes - chủ tịch Tiểu Ban Hải Lực và Triển Khai Lực Lượng thuộc Ðảng Cộng Hòa và Dân Biểu Colleen Hanabusa - thành viên Ủy Ban Quân Lực Hạ Viện Mỹ thuộc Ðảng Dân Chủ đưa nghị quyết ủng hộ Mỹ tập trung nhiều hơn vào Châu Á-Thái Bình Dương, chỉ trích các âm mưu cưỡng ép nhằm định đoạt tranh chấp hàng hải, tái khẳng định cam kết đối với liên minh Mỹ-Nhật và các vấn đề khác.

Trong đó, có khuyến cáo chính phủ Hoa Kỳ cho phép bán hoặc chuyển giao trang bị quốc phòng Mỹ, thích hợp với sự phát triển và duy trì năng lực phòng thủ của Việt Nam trước các mối đe dọa từ bên ngoài.

Trên báo tài chính Wall Street Journal hôm 15 tháng 7, 2014, hai tác giả Richard Fontaine và Patrick M. Cronin viết một bài phân tích cho rằng Việt Nam và Hoa Kỳ đã có những hợp tác nhỏ bé về phương diện an ninh quốc phòng mấy năm qua, nay tới lúc “Hoa Kỳ nên có những bước kế tiếp để giúp Việt Nam gia tăng khả năng tự vệ” hầu chống lại sự áp bức của Trung Quốc.

Theo hai ông, “Ðiều quan trọng nhất là Hoa Kỳ nên gỡ bỏ bệnh cấm vận bán vũ khí sát thương cho Việt Nam.”

Sau đó hai ngày, Ted Osius, người được đề cử làm tân đại sứ Mỹ tại Việt Nam, khi trả lời chất vấn trong phiên điều trần ở Thượng Viện Hoa Kỳ ngày 17 tháng 6, 2014 đã nêu ý kiến rằng có thể đã đến lúc Washington xem xét dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam.

Tuy nhiên, dịp này, ông Ted Osius nói Hoa Kỳ đã nói rõ với chính quyền đảng trị ở Việt Nam nhiều lần rằng lệnh cấm này sẽ không được dỡ bỏ nếu Việt Nam không có những tiến triển đáng kể về nhân quyền.

Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược và Quốc Tế (CSIS) gần đây đã tổ chức hội thảo 2 ngày về Biển Ðông và ra báo cáo dài 22 trang hối thúc chính phủ Mỹ có các biện pháp nhằm ngăn chặn sự lộng hành của Trung Quốc ở Biển Ðông. Trong đó, họ cũng cho rằng nên giải tỏa lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam. (TN)
(Người Việt)

Bill Hayton - Cuộc phiêu lưu của Trung Quốc ở Biển Đông đã thất bại

Theo mọi thước đo, cuộc phiêu lưu giàn khoan gần đây của Trung Quốc trên Biển Đông là một thất bại. Không có một giọt dầu nào được tới tay người tiêu dùng Trung Quốc ; không một tấc biển nào được chinh phục; và người Mỹ đã hưởng lợi trong khu vực; tình đoàn kết trong khối ASEAN được củng cố; và vị trí của các phe phái “thân Bắc Kinh” tại các quốc gia quan trọng, nhất là tại Việt Nam, đã bị yếu hẳn đi. Những người xây dựng chính sách ngoại giao của Bắc Kinh đã cho thấy rõ sự bất tài. Làm sao tình hình chuyển biến xấu như vậy ?
Chúng ta không thể biết lãnh đạo Trung Quốc muốn đạt mục tiêu gì khi họ cho phép triển khai giàn khoan lớn nhất nước, và cả một đạo hải thuyền nhỏ để bảo vệ, xâm nhập vào vùng biển mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền. Có vẻ như chiến dịch này không phải là để tìm dầu lửa, vì còn có nhiều chỗ khác tốt hơn để thăm dò. Ngày 19-3-2014, công ty Dầu hỏa Ngoài khơi của Trung Quốc (China National Offshore Oil Company / CNOOC) tuyên bố là họ kiếm được một ít khí đốt hạng trung bình tại một vùng biển không tranh chấp ở gần đảo Hải Nam. Nhưng việc khai thác vùng này bị hoãn lại. Trong khi đó, họ mạo hiểm xuống phía nam (quần đảo Hoàng Sa).

Hai vùng đáy biển mà giàn khoan HS 981 thăm dò không có nhiều triển vọng về hydrocarbon. Một báo cáo vào năm 2013 của Cục Quản lý Năng lượng Mỹ cho rằng tiềm năng về năng lượng ở Hoàng Sa rất thấp. Điều đáng để ý là công ty CNOOC có nhiều kinh nghiệm thăm dò dầu khí ngoài khơi lại không tham gia vào cuộc thăm dò này ; tuy nhiên, một công ty con của CNOOC là COSL lại tham gia vận hành giàn khoan; và toàn bộ chương trình nằm đưới sự chỉ huy của Công ty CNPC (China National Petroleum Company), không có kinh nghiệm tìm dầu ngoài khơi bằng CNOOC.
Giàn khoan HS 981 1 chấm dứt hoạt động 1 tháng sớm hơn dự kiến, trước khi cơn siêu bão Rammasun ập tới. CNPC tuyên bố giàn khoan đã kiếm được hydrocarbon, nhưng không cho biết rõ chi tiết và số lượng. Hầu như chắc chắn là nguồn dầu khí này không đủ lớn để khai thác vì những lý do chính trị và kỹ thuật. Cuộc thăm dò này thực ra không phải để tìm dầu hỏa, người ta chắc chẳn đã bỏ qua một lý do khác. Chúng ta biết là cuộc viễn trình này không phải là để nâng cao tinh thần dân tộc ở Trung Quốc, như Andrew Chubb 2 đã nói, các tin tức về sự chạm trán giữa đạo hải thuyền bảo vệ giàn khoan và lính bảo vệ bờ biển của Việt Nam đã bị báo chí Trung Quốc bưng bít trong một tuần lễ.
Tuy nhiên, có thể có nhiều mục đích chính trị khác. Một hoạt động to tát như vậy cần phải được lên kế hoạch rất lâu trước đó, và được cấp lãnh đạo cao nhất thông qua. Chính quyền Trung Quốc đã tuyên bố giàn khoan tới vị trí hoạt động từ 3-5-2014, chính xác một tuần lễ trước ngày khai mạc Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN ở Myanmar. Có lẽ Bắc Kinh hy vọng lập lại sự thành công mà họ đã gặt hái trong buổi họp Ngoại trưởng ASEAN ở Phnom Penh vào tháng 7 năm 2012. Lúc đó ASEAN chia rẽ: Campuchia bác bỏ một Tuyên bố chung, làm cho Philippines và Việt Nam bị cô lập trong cuộc tranh chấp về biển với Trung Quốc.
Nếu Trung Quốc hy vọng tình hình sẽ được tốt như vậy trong cuộc chạm trán ở Hoàng Sa, thực tế đã xảy ra hoàn toàn trái ngược. ASEAN đã đoàn kết hơn bao giờ hết, và ra một Tuyên bố chung, kêu gọi Bắc Kinh lùi một bước. Đó là lần đầu tiên Tổ chức này lấy lập trường về vụ HS 981. Vụ này là vụ tranh chấp hoàn toàn song phương giữa Việt Nam và Trung Quốc, không giống như vụ tranh chấp về Trường Sa trước kia, liên quan tới 5 quốc gia, kể cả Indonesia. Andrew Chubb đã lý luận là sự bày tỏ tình đoàn kết một cách lặng lẽ này có tác động lên Bắc Kinh nhiều hơn là những lời tuyên bố rầm rộ của Washington.
Một số bình luận viên cho rằng hoạt động này của Trung Quốc là một thí dụ điển hình của chính sách “cắt xúc xích salami” thành từng miếng mỏng. Một quy trình chiếm đóng Biển Đông được chia thành nhiều giai đoạn, để không ai chú ý tới. Nhưng nếu mục tiêu của Trung Quốc như thế, thì cũng là một thất bại, vì sau khi giàn khoan kéo đi, mặt biển trở lại tình trạng không ai chiếm đóng. Miếng xúc xich cắt ra lại dính trở lại cây xúc xích salami. Bộ Chính trị Trung Quốc có thể nghĩ rằng một tuyên bố mạnh mẽ về kiểm soát mặt biển sẽ củng cố vị thế của Trung Quốc đòi hỏi chủ quyền trên các hòn đảo. Nhưng cách đáp trả cũa Việt Nam cũng rất hữu hiệu, chứng tỏ rõ là họ phản đối sự đòi hỏi chủ quyền này.
Nhà bình luận người Úc, Hugh White, cho rằng mục tiêu của Trung Quốc khi gây ra cuộc chạm trán này vì họ cố tình muốn làm dãn ra và yếu đi sợi dây an ninh gắn bó Mỹ với Đông Nam Á. Ông nói: “Bằng cách sử dụng vũ lực chạm trán với bạn bè của Mỹ, Trung Quốc làm cho Mỹ phải chọn lựa giữa việc bỏ bạn bè hay là tranh chấp với Trung Quốc”. Bắc Kinh cho rằng trước sự chọn lựa này, Mỹ sẽ rút lui, bỏ mặc kệ các quốc gia bạn bè, đồng minh .Điều này sẽ làm suy yếu liên minh và đối tác của Mỹ, giảm sức mạnh của Mỹ ở châu Á, và tăng cường sức mạnh của Trung Quốc.
Nhưng Việt Nam không phải là đồng minh của Mỹ. Cho nên hành động này chỉ phản ánh những vấn đề của riêng Trung Quốc. Tuy nhiên, khi tạo ra cuộc chạm trán này, Bắc Kinh đã gặt hái được kết quả hoàn toàn trái ngược với suy luận của White : đẩy Hà Nội đi gần với Mỹ hơn. Như quyển sách mới đây của David Elliott đã nói rõ: “Chiều hướng đối ngoại bình thường của Việt Nam là thân Bắc Kinh, từ hồi họ chấm dứt thân Liên Xô. Trong hai thập kỷ vừa qua, chỉ khi nào tiếng nói của phe thân Trung Quốc bị yếu đi, vì va chạm với Trung Quốc, phe tự do ở Việt Nam mới có thể xoay hướng chính sách đối ngoại.”
Nhà phân tích Zachary Abuza 3 đã cắt nghĩa rõ cho chúng ta hiểu tương quan lực lượng trong giới lãnh đạo cao cấp ở Việt Nam đã thay đổi như thế nào sau cuộc chạm trán giàn khoan. “Hội nghị Tháng 6-2014 của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã đồng thanh kết án sự xâm lấn và chiếm đóng của Trung Quốc.” Vào cuối tháng 7, Ủy viên Bộ Chính trị Phạm Quang Nghị đã qua thăm Mỹ, với nội dung hấp dẫn, theo lời mời của Bộ Ngoại giao Mỹ.
Tóm lại, dù Trung Quốc muốn gì đi nữa trong việc điều động giàn khoan HS 981 – ví dụ tìm dầu hỏa, chiếm đất đai hay có mục đích chiến lược dài hạn – họ đã không thành công. Làm thế nào để cắt nghĩa sự thất bại ngoại giao này ? Theo tôi nghĩ, vụ việc này cho thấy chính sách Biển Đông của Trung Quốc phản ánh những ưu tiên nội bộ hơn là chính sách ngoại giao. Tóm gọn lại, Biển Đông là thùng thịt lợn khổng lồ 4 cho một số tỉnh ở Trung Quốc, một số ban ngành của nhà nước, và một số công ty quốc doanh.
Hai thập kỷ trước, John Garver đã lý luận là Hải quân Trung Quốc tiến mạnh vào Biển Đông là biểu hiện của “sự liên kết giữa quyền lợi quốc gia và quyền lợi của giới quan liêu”. Ngày nay, sự liên kết này vẫn còn đó. Hải quân đã trở nên lớn hơn vì có ngân sách lớn hơn. Theo sau đó, là những phần thưởng về uy tín, chức tước và tiền bạc.
Điều này cũng đúng cho cả Lực lượng Bảo vệ Bờ biển mới được thành lập – một năm sau khi nhiều cơ quan hải giám được sáp nhập làm một.
Sau khi việc sáp nhập hoàn tất, Cơ quan bảo vệ Bờ biển cần tập trung vào một mục tiêu khác lớn hơn là chuyện cãi lộn nội bộ. Nó và Hải quân đều tìm kiếm một công vụ để chứng tỏ là họ có vai trò nào đó, và để biện minh cho ngân sách chi tiêu của họ.
Và điều này cũng đúng cho các tỉnh phía nam Trung Quốc. Hải Nam là một tỉnh nhỏ nhất Trung Quốc , và tương đối nghèo với nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Trong những năm gần đây, nó đã cố gắng phát triển nghề cá, và trở thành chuyên gia trong việc xin trợ cấp nhà nước cho những con tầu đánh cá của họ. Tháng trước, hãng tin Reuter đã cho biết hàng trăm, và có lẽ hàng ngàn tàu đánh cá đã được hỗ trợ từ 300 USD đến 500 USD mỗi ngày để đi đánh bắt trên vùng biển có tranh chấp. Có một thuyền trưởng thổ lộ: “Chính phủ hỗ trợ việc đánh cá ở Biển Đông để bảo vệ chủ quyền của Trung Quốc”. Có lẽ khá chính xác khi nói rằng chính quyền sử dụng việc đòi chủ quyền Biển Đông để hỗ trợ cho việc đánh cá. Reuters đã khám phá ra tám tầu kéo được hạ thủy ở cảng Dongfang ở Hải Nam, mỗi tầu đã nhận được 322 500 USD hỗ trợ từ nhà nước.
Các công ty dầu khí cũng có thể chơi lá bài chủ quyền bằng những cuộc phiêu lưu bán-tài-chính ở Biển Đông. Vào tháng 5-2002, Khi NCOOC hạ thủy giàn khoan biển sâu ở vùng Hoàng Sa HS-981, Chủ tịch công ty này đã nói : “ Đây là lãnh thổ di động của Tổ quốc, và là vũ khí chiến lược”.
Từ đó, có vẻ lạ lùng, là CNOOC không được lãnh đạo cuộc viễn trình ở Hoàng Sa. Tại sao vậy ? Chúng tôi không rõ chi tiết nội bộ của công ty, nhưng có vài cắt nghĩa như sau: CNPC có lẽ sẵn sàng chấp nhận rủi ro hơn là CNOOC, cả về kỹ thuật lẫn chính trị 5. Đây là lần đầu tiên HS 981 được sử dụng ở vùng nước sâu, và lần đầu tiên ở vùng biển đang có tranh chấp. Hay có lẽ là ban quản trị cao cấp của CNPC muốn nhờ vụ này, thoát được những khó khăn chính trị họ đang mắc phải 6. Những lời tố cáo tham nhũng đang đè nặng lên công ty, và đang trở thành xì-căng-đan chính trị. Có lẽ ban quản trị CNPC cho rằng việc giơ cao ngọn cờ quốc gia ở vùng biển đang tranh chấp là một cách để tranh thủ cảm tình của Bộ Chính trị Trung Quốc và cứu được mạng mình.
Tất cả những điều này không có nghĩa là phủ nhận những người Trung Quốc tham gia cuộc chạm trán này không toàn tâm tin tưởng vào sự đòi hỏi chủ quyền của Tổ quốc họ ở Biển Đông. Câu chuyện huyền hoặc về “chủ quyền không chối cãi được” của Trung Quốc đã được nhồi nhét vào đầu óc bao nhiêu thế hệ Trung Quốc. Tôi đã lý luận trong một bài khác là, lòng tin này phụ thuộc vào cách cắt nghĩa sai lạc lịch sử Biển Đông của những người dân tộc chủ nghĩa ở Trung Quốc từ đầu thế kỉ 20. Nhưng tôi không nghi ngờ gì về việc giới lãnh đạo Trung Quốc thành thật tin vào điều này.
Tuy thế, cho những lợi ích nhóm trong hệ thống quan liêu Trung Quốc, Biển Đông đã trở thành cái bánh piñata khổng lồ 7, họ chỉ cần lâu lâu nêu lên vài vấn đề để được hái trợ cấp từ lãnh đạo cấp trên. Chính sách của Trung Quốc về Biển Đông không có vẻ là kết luận của một chuỗi lý luận duy lý, mà là kết quả bất ngờ của một chiến dịch lobby của các nhóm lợi ích 8. Khi các nhóm này hợp tác với nhau, sức mạnh của chúng rất lớn: Chúng có thể lái chính sách của Đảng Cộng sản Trung Quốc theo hướng có lợi cho chúng. Một điều mà chúng có thể đồng ý – hoặc là vì lý tính, hay vì tinh thần dân tộc, an ninh, lợi nhuận... – là Trung Quốc phải tiếp cận các nguồn tài nguyên ở Biển Đông.
Tuyên truyền của Trung Quốc đã chinh phục được nhiều nhà bình luận. Huyền thoại về tính bất khả chiến bại của Bắc Kinh đã xuất hiện trên nhiều trang báo. Kết quả là ngay cả khi Trung Quốc phạm phải những lỗi lầm ngớ ngẩn, người ta cũng nghĩ đó là cái vỏ giả vờ, che đậy cho một âm mưu thâm độc hơn. Bây giờ là lúc cần đánh tan huyền thoại này, và nhìn nhận sự ngớ ngẩn của Bắc Kinh như thế đấy. Bây giờ, nên coi hành động giàn khoan của Trung Quốc tại Biển Đông chỉ là một việc làm vụng về, hơn là một âm mưu thâm độc.
Bill Hayton

(*) Bill Hayton là tác giả cuốn sách The South China Sea: the struggle for power in Asia sắp được Yale University Press xuất bản
NGUỒN : China’s Epic Fail in the South China Sea, tạp chí The National Interest, Aug 5-2014
Bản dịch của Nguyễn Văn Nhã
--------------------------------
CHÚ THÍCH của người dịch :
1 HS-981: HS= Haiyang Shiyou (Hải dương Thạch du : Dầu ngoài khơi).
2 Andrew Chubb: Nghiên cứu gia ở Đại học Western Australia, Úc. Tác giả bài China’s Information Management in the Sino-Vietnamese Confrontation: Caution and Sophistication in the Internet Era
3 Zachary Abuza, Giáo sư Simmons College, Boston. Tác giả bài bình luận Vietnam buckles under Chinese pressure về vụ Giàn khoan HS-981 trên Asia Times tháng 7-2014 :
4 Thùng thịt lợn (Porc Barrel): Nguồn gốc từ Mỹ: Ngày xưa, sau mỗi ngày làm việc mệt nhọc ở trang trại, công nhân được chủ trại thưởng cho thùng thịt lợn. Tại Quốc hội Mỹ, mỗi khi một nghị sĩ trúng cử, họ đều đưa ra một dự án xây dựng cho địa phương đã bầu họ, để thưởng công cho địa phương đó. Người Mỹ gọi đó là thùng thịt lợn.
5 CNPC: China National Petroleum Company: Công ty quốc gia dầu khí của Trung Quốc, quản lý dầu hỏa cả nước. CNOOC: China National Offshore Oil Company: Công ty Quốc gia Dầu Ngoài khơi của Trung Quốc, chỉ lo các nguồn dầu mỏ ngoài khơi.
6 Từ năm 2013, nhiều lãnh đạo của CNPC đã bị chính phủ bắt vì tội tham nhũng. Vì dụ như Tưởng Khiết Mẫn, Chủ tịch CNPC. Họ bị kết tội là vây cánh của Chu Vĩnh Khang, Cựu Ủy viên Thường trực Bộ Chính trị, trách nhiệm về toàn bộ hệ thống an ninh của Trung Quốc, tham nhũng 14 tỷ USD. Do đó, có khả năng là những người chưa bị bắt, đã đưa ra đề án lấn chiếm Biển Đông bằng giàn khoan HS 981, để mong được nhẹ tội tham nhũng. Trong khi đó, bản thân CNOOC không tham gia hoạt động này.
7 Piñata: một cái hộp bánh lớn, ở Mehico, cho những ngày lễ hội. Trong bánh có nhiều kẹo. Người ta chỉ cần dùng một cái gậy, đánh vào cái hộp, là kẹo sẽ vung ra cho mọi người lượm.
8 Chiến dịch lobby: Vận động hành lang ở Mỹ, cho những chính sách nào đó, có lợi cho những nhóm lợi ích ..
(Diễn đàn)

Song Chi - Yên tĩnh tạm thời và nguy cơ thì càng nặng nề thêm


Khi giàn khoan HD-981 còn đang sừng sững cắm sâu trong vùng biển thuộc lãnh hải của VN, nhà văn lão thành Nguyên Ngọc có nói một câu đại ý: Sợ nhất là giàn khoan lẳng lặng rút đi và mọi chuyện chìm, lại rơi trở lại trạng thái cũ.
Và bây giờ, quả thật, khi giàn khoan của Tàu Cộng tạm thời rút đi, từ nhà cầm quyền cho đến báo chí, người dân… “xẹp” hẳn xuống, tưởng như không hề có sự cố Trung Cộng công khai xâm phạm chủ quyền VN nghiêm trọng vừa qua, tưởng như “biển Đông lại trở vể yên tĩnh, không có gì mới”. Và tất nhiên, chuyện của ta mà ta còn cố quên đi thì thế giới, với bao nhiêu sự kiện nóng hơn đang xảy ra, lại càng quên.
Trong khi đó thì Trung Cộng vẫn tiếp tục lẳng lặng thực hiện chiến lược của họ, tiếp tục xây cất các công trình dân sự và quân sự trên những quần đảo đã chiếm được của VN, đặc biệt là Hoàng Sa, theo chủ thuyết “chủ quyền thực tế”, đặt các bên liên quan trước “sự đã rồi”, tiếp tục xua hàng ngàn hàng vạn tàu cá ra chiếm lấy biển Đông, đầu tư càng ngày càng lớn vào quốc phòng, nhất là hải quân, đóng thêm các giàn khoan khủng khác… Mặt khác, tiếp tục mua chuộc lẫn khống chế nhà cầm quyền VN bằng kinh tế và những đe dọa về quân sự để VN không dám thoát ra khỏi quỹ đạo của họ và hướng về phương Tây…
Chưa bao giở và sẽ không bao giờ từ bỏ giấc mộng chiếm hữu biển Đông, bành trướng sức mạnh ra bên ngoài, việc rút giàn khoan vừa rồi của Trung Cộng chỉ là tạm lùi một bước để rồi sẽ quay trở lại bất cứ khi nào có thể. Còn VN, nếu vẫn không tự cải cách thể chế, không thể hùng mạnh hơn về kinh tế, không thể so sánh với Trung Cộng về sức mạnh quốc phòng, cũng vẫn không có những thay đổi trong đường lối ngoại giao để có thêm đồng minh thì sự yên tĩnh trên biển chỉ là tạm thời, mối nguy cơ mất biển, mất nước vẫn còn nguyên. Và khi Trung Cộng trở lại với những giàn khoan khủng mới, những chiến lược mới, nhà cầm quyền VN chỉ còn nước bó tay đầu hàng. Mà thực tế qua vụ HD-981 vừa rồi thì họ đã đầu hàng rồi đó thôi!
Song Chi
(FB. Song Chi)

Giải mã những cột mốc chủ quyền – nhà giàn DK1

Kỳ 1: “Không làm sẽ mang tội với con cháu”

(TNO) Những ngày này, ký ức về thời gian đầu tiên xây dựng nhà giàn DK1 chợt ùa về trong ông Đặng Hữu Quý – nguyên Chủ nhiệm Thiết kế công trình nhà giàn DK1. Thời điểm năm 1989, ông Quý là Phó chánh kỹ sư Viện Nghiên cứu và thiết kế khoa học dầu khí biển (NIPI).
Các nhà giàn DK1 có vị trí quan trọng trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam - Ảnh: Kiên Trung
Các nhà giàn DK1 có vị trí quan trọng trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam – Ảnh: Kiên Trung
“Những ngày tháng 5, tháng 6 rực lửa, cờ đỏ sao vàng tung bay khắp nơi trên thế giới nhằm phản đối Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương-981 trong vùng lãnh hải Việt Nam. Những ký ức về biển đảo và khí thế hào hùng của những ngày xây dựng các công trình DK1 đầu tiên cắm mốc chủ quyền tại quần đảo Trường Sa vẫn còn in đậm trong tâm trí chúng tôi, như mới xảy ra ngày hôm qua”, ông Quý lý giải về những hồi ức của mình.

Hậu sự kiện Gạc Ma

Ông Quý bồi hồi nhớ lại: Tháng 12.1988, ông được Phó tổng giám đốc Xí nghiệp liên doanh Việt – Nga Vietsovpetro Ngô Thường San (hiện ông San là Chủ tịch Hội Dầu khí Việt Nam – PV) gọi lên văn phòng.

Khi ông Quý có mặt, ông San đang tiếp hai vị khách mặc quân phục, mang hàm thượng tướng và thiếu tướng. Hai vị khách này chính là Thứ tưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam Đào Đình Luyện và Chính ủy Bộ Tư lệnh công binh Nguyễn Bình.

Ông Quý cùng lãnh đạo Vietsovpetro rất bàng hoàng và xúc động khi nghe thượng tướng Đào Đình Luyện kể lại tinh thần chiến đấu hết sức dũng cảm và sự hy sinh anh dũng của các cán bộ chiến sĩ hải quân trong trận chiến Gạc Ma năm 1988.

Vào ngày 14.3.1988, ba tàu chiến lớn của Trung Quốc kéo đến lấn chiếm các đảo thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam.

Ban đầu tàu Trung Quốc chủ động đâm va nhằm tiến vào chiếm đảo nhưng vấp phải sự truy cản của các chiến sĩ hải quân kiên định bảo vệ chủ quyền biển đảo. Trung Quốc đã điên cuồng nã đạn vào các tàu HQ 604, HQ 605 và HQ 505 nhưng các chiến sĩ hải quân Việt Nam không hề lùi bước.

Chủ quyền các đảo Cô Lin, Len Đao được giữ vững nhưng quân xâm lược Trung Quốc đã chiếm đảo Gạc ma, bắn chìm các tàu HQ 604, bắn hỏng hoàn toàn tàu HQ 505 và 64 chiến sĩ hải quân đã anh dũng hy sinh.

Sự bành trướng của Trung Quốc ở biển Đông là lý do khiến Bộ Quốc phòng quyết tâm xây dựng nhà giàn DK1 để giữ vững chủ quyền biển đảo.

Theo ông Quý, việc Bộ Quốc phòng đề nghị Vietsovpetro tham gia xây dựng nhà giàn DK1 là bởi từ năm 1981 – 1988, Vietsovpetro đã thăm dò, khai thác, xây dựng nhiều công trình giàn khoan dầu khí qui mô lớn ngoài biển, tiêu biểu là mỏ Bạch Hổ với các giàn MSP1, BK2, MSP 3,4,5,6, CPP2…

Vietsovpetro cũng là đơn vị đầu tiên tại miền Nam có cơ sở vật chất kỹ thuật có thể xây dựng các giàn khoan dầu khí lớn ngoài biển tới độ sâu 100 m nước.

“Giữ chủ quyền cho con cháu mai sau”

Sau cuộc gặp với thượng tướng Đào Đình Luyện, lãnh đạo Vietsovpetro ý thức được nhiệm vụ quan trọng là Vietsovpetro phải phối hợp với Bộ tư lệnh Công binh xây dựng các giàn DK1 trên các bãi ngầm san hô thuộc quần đảo Trường Sa để khẳng định và bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo này.

“Anh San sau khi gặp tướng Luyện đã gọi tôi lên đặt câu hỏi: Liệu có làm được nhà giàn DK1 ở Trường Sa không? Tôi nêu rõ chính kiến là việc xây dựng nhà giàn DK1 góp phần bảo vệ chủ quyền đất nước nên anh cứ tin tưởng anh em. Chắc chắn sẽ xây dựng được”, ông Quý khẳng định.

Tuy nhiên lúc này tướng Đào Đình Luyện trình bày Bộ Quốc phòng không có ngân sách và ngoại tệ để mua sắt thép, cũng như kinh phí cho việc thi công các công trình này.

Để giải quyết bài toán này, Phó tổng giám đốc Vietsovpetro Ngô Thường San đã đặt vấn đề với phía Nga xin được sử dụng các ống thép đường kính lớn còn thừa trong kho vật tư của Vietsovpetro để xây dựng nhà giàn DK1.

Ông San cũng đề nghị sử dụng tàu cẩu NPK với hai tàu dịch vụ Sao Mai và Phú Quý trong thời gian 10 ngày để thi công công trình. Đề nghị này được phía Nga trong Vietsovpetro đồng tình.

Nhà giàn DK1 còn giúp các tàu cá của ngư dân neo đậu khi có gió bão hay sự cố - Ảnh: Tư liệu nhà giàn DK1
Nhà giàn DK1 còn giúp các tàu cá của ngư dân neo đậu khi có gió bão hay sự cố – Ảnh: Tư liệu nhà giàn DK1
Lúc bấy giờ việc đề nghị Vietsovpetro tham gia xây dựng nhà giàn DK1 là khá nhạy cảm. Bởi Vietsovpetro là liên doanh của hai nước Việt Nam và Nga. Ở liên doanh này, các vị trí đứng đầu thường do người Nga nắm giữ.

“Người Việt Nam chỉ làm phó ở liên doanh thôi và không phải cái gì cũng quyết được. Để tham gia xây dựng nhà giàn DK1, phía Việt Nam phải đấu tranh rất quyết liệt nhưng cũng rất tế nhị”, ông San bày tỏ.

Rất may mắn là ở Vietsovpetro, các phòng ban, xí nghiệp đều do người Nga đứng đầu, chỉ riêng giám đốc xí nghiệp xây lắp dầu khí lại là người Việt. Vị trí lãnh đạo xí nghiệp xây lắp do ông Nguyễn Trọng Nhưng đảm nhận. Lúc này ông Nhưng là giám đốc đầu tiên và duy nhất ở liên doanh Vietsovpetro.

“Tôi nói với anh San là anh cứ quyết chủ trương với lãnh đạo Vietsovpetro. Nếu lãnh đạo đồng ý, em sẽ điều thiết bị và nhân lực ra xây dựng nhà giàn DK1 vì cái này liên quan đến chủ quyền đất nước. Chúng ta cần phải làm sớm, làm nhanh để giữ biển”, ông Nhưng kể lại.

Việc nắm giữ vị trí lãnh đạo xí nghiệp xây lắp đưa lại thuận lợi cho Việt Nam là chủ động tính toán trong sản xuất của Vietsovpetro cũng như việc sắp sếp nhân sự, phương tiện phục vụ cho việc xây dựng nhà giàn.

Tháng 2.1989, Vietsovpetro thành lập Ban Dự án DK1 gồm 8 thành viên giữ vị trí chủ chốt ở Vietsovpetro, do ông Ngô Thường San làm trưởng ban chỉ đạo. Đồng thời một “đội đặc nhiệm” xây dựng nhà giàn DK1 được lập ra sẵn sàng trực chỉ biển Đông trong những ngày gian khó.

“Việc xây dựng nhà giàn DK1 là để bảo vệ chủ quyền của đất nước. Lúc này trong tâm trí của chúng tôi, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa dù rất xa xôi nhưng rất đỗi thiêng liêng. Nếu chúng ta không bảo vệ, gìn giữ sẽ mang tội với con cháu mai sau”, ông Quý nói.

Ghi chú:

DK1 là cụm dịch vụ kinh tế – khoa học – kỹ thuật được xây dựng dưới dạng các nhà giàn, trên thềm lục địa phía Nam của Việt Nam, cách đất liền khoảng 250-350 hải lý. DK là chữ cái đầu viết tắt của cụm từ Dịch vụ – Khoa học kỹ thuật, được hiểu như một công trình phục vụ mục đích dân sự trên biển. Số 1 chỉ những nhà giàn ở vòng ngoài cùng, xa nhất, so với phía gần đất liền hơn là hệ thống DK2.

Ngày 5.7.1989, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ra chỉ thị số 180UT về việc xây dựng cụm dịch vụ kinh tế – khoa học – kỹ thuật thuộc Đặc khu Vũng Tàu – Côn Đảo, nhằm nghiên cứu điều kiện hải văn, đồng thời xác định chủ quyền Việt Nam đối với khu vực thềm lục địa gần khu vực quần đảo Trường Sa. Đến nay sau 25 năm, đã có 20 nhà giàn được xây dựng trên thềm lục địa phía nam Việt Nam. Hiện có 15 nhà giàn đang sử dụng, trong đó có tám nhà giàn có bãi đỗ trực thăng trên nóc, bốn nhà giàn có hải đăng, một nhà giàn có trạm quan sát khí tượng. Có 14 nhà giàn ở khu vực giáp với vùng biển Trường Sa và một nhà giàn (DK1.10) ở bãi cạn Cà Mau trên vùng biển Tây Nam.

Loạt bài hoàn thành với sự giúp đỡ về tư liệu của ông Ngô Thường San – Chủ tịch Hội Dầu khí Việt Nam, ông Nguyễn Trọng Nhưng – nguyên Giám đốc Xí nghiệp xây lắp dầu khí, hiện là Phó chủ tịch thường trực Hội đồng Khoa học và công nghệ của Công ty cổ phần chế tạo giàn khoan dầu khí (PVShipyard) và ông Đặng Hữu Quý – nguyên Chủ nhiệm thiết kế công trình nhà giàn DK1, hiện công tác tại Tổng công ty tư vấn thiết kế dầu khí (PVE).
  (Thanh niên)

Lê Thu Trà - Gửi bạn tớ, người chiến sĩ an ninh

Bạn thân mến của tớ,

Không biết bao nhiêu lần tớ đắn đo, và cũng ngần ấy lần tớ ngồi trước màn hình máy tính, lọc cọc gõ đôi ba dòng viết gửi bạn, nhưng rồi tớ lại xóa đi, rồi viết lại, rồi lại xóa đi... Mãi cho đến bây giờ, tớ vẫn tâm niệm trong lòng một điều rằng nhất định sẽ có một ngày tớ có thể viết ra hết tất cả những trăn trở, suy tư mà tớ cất giấu bấy lâu tận sâu thẳm trong lòng; về bạn, về tớ, về chúng ta, về quá khứ, về hiện tại, về tương lai, về mối quan hệ giữa những người bạn đồng niên thời phổ thông, cũng như mối quan hệ giữa một người chiến sĩ an ninh là bạn, và một kẻ có dấu hiệu "phản động", là tớ; kể từ sau dạo ấy, cái hôm mà bạn, với tư cách là cán bộ phòng An ninh - Chính trị nội bộ đã mời tớ đi cafe để nói về những bài viết có "nội dung xấu" mà tớ đăng tải trên facebook.

Ngày hôm đó, bạn còn nhớ không? Đúng cái hôm Noel trời lạnh giá, chúng ta đã gặp nhau sau gần 15 năm bẵng đi kể từ ngày tốt nghiệp ra trường. Cuộc sống, dòng thời gian và số phận đã đẩy đưa chúng ta mỗi người vào một lối rẽ. Và trớ trêu làm sao, internet với vai trò như một công cụ kết nối hữu hiệu giúp chúng ta tìm lại những mối quan hệ cũ xưa, vậy mà khi bạn và tớ tìm thấy nhau, gặp nhau và ngồi đối diện với nhau, ngay tại thời điểm đó, tớ biết tụi mình đã không còn đơn thuần là những người bạn cũ của một thời học trò hoa mộng nữa, mà chúng ta, theo cách nói ví von bóng bẩy, lại là những kẻ mang tâm thế của những-người-bên-kia-chiến-tuyến. Cái cảm giác sắp sửa gặp lại một người bạn cũ nhưng trong lòng ngổn ngang tâm trạng khiến tớ nặng trĩu lòng.

Sau hôm gặp nhau, tớ đã suy nghĩ nhiều lắm. Giá như đối diện với tớ là một chiến sĩ an ninh hoàn toàn xa lạ, thì tớ sẽ cảm thấy dễ thở và nhẹ lòng biết mấy. Tớ luôn băn khoăn tự hỏi, có bao giờ bạn nghĩ suy, bạn trăn trở về những lý do khiến chúng ta lại gặp nhau trong hoàn cảnh nghịch lý như thế không?

Khi trao đổi, chuyện trò với bạn, tớ hiểu rằng bạn không chỉ đơn thuần là một người đang thi hành nhiệm vụ, mà bạn còn mang tâm thế của một người thực lòng muốn tớ thay đổi, muốn cho tớ thấy tớ đang lạc lối sai đường. Bạn bảo tớ, bạn đọc hết từng bài tớ đăng, từng câu chữ tớ viết, cả những comments trên đó, và chúng đôi khi khiến bạn đau lòng. Tuy vậy, cho đến bây giờ điều tớ nhớ mãi về bạn là ánh mắt và tia nhìn ấm áp mà bạn giành cho tớ. Cả những tin nhắn khi bạn khen tớ làm thơ hay, tớ biết bạn khen bằng thứ tình cảm mến phục, trân trọng tự đáy lòng. Và tớ vẫn nhớ hôm tớ sắp đi nước ngoài, Hộ chiếu của tớ bị sai số CMND, và hồ sơ của tớ chẳng may bị kẹt lại vì lý do trục trặc kỹ thuật nào đấy mà nó không lưu trên hệ thống, còn tớ thì nôn nóng vì đã lên kế hoạch để bay ra Hà Nội tối hôm đó rồi. Điều làm tớ ngạc nhiên là trong lúc nóng lòng chờ đợi tại Phòng xuất nhập cảnh, bạn gọi điện và rồi xuất hiện, nở nụ cười tươi mời tớ ra hàng cafe ngay bên cạnh và cho tớ biết bạn đã cố gắng tác động để tớ có thể lấy Hộ chiếu kịp thời gian. Mặc dù lúc đó tớ bận việc nhà gấp và tranh thủ để cho kịp chuyến bay, nhưng vẫn cố nán lại trò chuyện với bạn. Bạn bảo rằng Sếp của bạn rất nể phục tớ, khen tớ là người có trình độ và rất muốn gặp tớ. Nhưng tớ phải về cho kịp việc, và đành khất hẹn với bạn một cuộc gặp gỡ. Lúc ra về, điều khiến tớ ray rứt lại chính là nụ cười hiền hậu và ấm áp của bạn.

Bạn thân mến ơi! Tớ không tính kể lể lại những chuyện xưa cũ dài dòng đâu, nhưng cứ mỗi lần nghĩ về bạn, tim tớ lại dấy lên một nỗi xót xa vô bờ bến. Bao nhiêu câu chữ, ý tứ cứ thế lại ngổn ngang, tắc tị trong đầu tớ. Quả thật tớ không biết phải bắt đầu từ đâu, như thế nào? Vì tớ biết, bạn vẫn vì nhiệm vụ mà phải theo dõi facebook tớ hàng ngày. Còn tớ, lúc này đây muốn trải hết tất cả nỗi lòng mà tớ muốn chia sẻ cùng bạn, về những điều mà tớ đã trằn trọc, những gì tớ cảm nhận, nhưng tớ thật không biết cách phải làm sao để tiếp cận bạn, để chạm đến được trái tim bạn, để chúng ta có thể cởi bỏ tấm áo choàng của ý thức hệ, của những quan điểm, suy nghĩ trái chiều, mà chân tình chia sẻ với nhau với tư cách của những người hoàn toàn, đơn thuần là bạn? Thôi thì có lẽ, tớ sẽ bắt đầu với những việc mà tớ đã trải nghiệm trong những năm tháng xa Việt Nam, bạn nhé?

Bạn biết không! Những nơi tớ đi qua, tớ đã có rất nhiều trải nghiệm mà khi quay đầu nhìn lại đất nước thân yêu của chúng ta, tớ không thể nào kìm nén được nước mắt xót xa lẫn tiếng thở dài. Có lẽ tớ sẽ kể cho bạn nghe, chuyện đầu tiên đó là cảm nhận của những đứa con gốc Việt lớn lên ở nước ngoài khi tiếp cận thông tin về Việt Nam. Tớ nhớ có lần cùng ngồi xem chung với những cô gái Mỹ gốc Việt một đoạn video nói về thân phận của những cô gái Việt lấy chồng và làm dâu xứ người, tim tớ như bị ai bóp nghẹt khi thấy những cô gái Mỹ ấy lấy tay đặt lên lồng ngực, khuôn mặt sững sờ ngạc nhiên đầy biểu cảm thương xót và mắt thì ngân ngấn lệ. Tớ đã khóc, không phải vì xúc động trước những hoàn cảnh éo le kia bởi với đất nước mình, có lẽ chuyện này nó thường như cơm bữa đến nỗi ta cho đó là chuyện bình thường, mà bởi vì tớ hiểu rằng thân phận người Việt quá đỗi thấp kém và gây ra nỗi ngạc nhiên sửng sốt cho chính những đứa con Việt không lớn lên trong lòng đất nước. Rồi một lần khác, tớ chứng kiến cảnh một bé gái 11 tuổi, cũng con một gia đình Việt nhưng sinh ra và lớn lên ở hải ngoại, đã òa khóc nức nở thành tiếng khi xem một video chiếu cảnh những em bé bị bạo hành, đánh đập và ngược đãi khi đi nhà trẻ. Khi tớ kể những câu chuyện trên, liệu chúng có gợi lên cho bạn những suy nghĩ nào không?

Còn giờ, tớ xin kể qua một chút về những câu chuyện của tớ. Bạn có biết không? Khi tớ làm hồ sơ xin visa đi các nước thứ 3 là Âu, Mỹ; mặc dù đã đọc, biết nhiều về những chuyện người Việt bị kỳ thị, coi khinh ở nước ngoài, nhưng chỉ đơn giản là qua tài liệu, sự xót xa, tủi hổ không thể nào sánh bằng như chính khi bản thân mình trải nghiệm. Tớ nhớ lúc mang hồ sơ xin visa đi châu Âu, mặc dù tớ có thư mời từ Bộ ngoại giao của một nước trong khối EU này, nhưng khi phỏng vấn, nhân viên của Lãnh sứ quán đã ái ngại nhìn tớ và nói: "Tôi rất hiểu trường hợp của bạn, hồ sơ của bạn rất tốt nhưng vì bạn mang quốc tịch Việt Nam nên chúng tôi sẽ mất thời gian để xét duyệt hồ sơ lâu hơn, kỹ càng hơn". Đấy là lần thứ 3, khi ở xứ người, tớ cảm nhận được nỗi tủi nhục khi làm một công dân Việt. Và lần thứ tư đó là khi tuần trước tớ xin visa đi Đài Loan, lúc phỏng vấn, lần này thì tớ chết đứng và bẽ bàng hơn khi nhân viên sứ quán hỏi tớ rằng người Việt thường hay sang Đài để bán dâm, bạn không có ý định sang để làm gái chứ? Một nỗi sỉ nhục lớn mà nếu ở vào trường hợp một công dân nước khác, chắc chắn vị nhân viên kia sẽ gặp rắc rối, sẽ bị thưa kiện vì hành vi xúc phạm công dân nước khác. Nhưng tớ biết làm gì hơn khi thực tế, đó là sự thật đau lòng không thể chối cãi của người Việt?

Bạn thân mến ơi, bạn biết không? Tớ đã đôi lần trộm nghĩ, ước gì mình ngủ một giấc thật sâu và thật say, rồi sớm mai thức dậy, tớ không còn nhớ mình là ai nữa, không biết mình đến từ đâu, hoặc mình có thể gột rửa đi cho kỳ hết những dấu ấn đã in hằn vào võ não, tư duy của một người Việt, hoặc trở thành một người mang trong mình một dòng máu khác, nói tiếng nói khác, tư duy theo một cách khác, hoặc trở thành một công dân nước khác. Uh thì tớ có nhiều cách để chạy trốn lắm, dễ dàng thôi, đó là tớ sẽ cố kiếm cho mình một ông chồng ngoại quốc, rồi đổi quốc tịch, thế là tớ nghiễm nhiên trở thành công dân của một nước văn minh, tiến bộ nào đấy, tớ không còn phải e dè, tự ti khi mang tấm Hộ chiếu Việt Nam.

Nhưng bạn ạ! Tớ đã chứng kiến biết bao nhiêu người Việt ở nước ngoài, tuy họ đã không còn là công dân Việt Nam nữa, tuy họ có thể ở cách nước Việt đến cả nửa vòng trái đất, thừa hưởng những giá trị văn minh, nhân bản, tự do nhưng họ vẫn ngày đêm canh cánh, trăn trở về một đất nước Việt Nam trù phú nhưng nghèo nàn và lạc hậu, ở đó mọi giá trị của cuộc sống, của con người đều thấp kém, bị chà đạp. Và cũng như tớ, vẫn không sao vứt bỏ nỗi niềm canh cánh ấy, vì đơn giản, trong cơ thể tớ, trong từng tế bào của tớ là dòng máu Việt đang cuồn cuộn chảy. Tớ còn muốn chia sẻ với bạn thêm nhiều điều nữa, tớ còn muốn nói về những vấn đề như nhân quyền cho người Việt Nam, dân chủ cho người Việt Nam, tự do, bình đẳng, bác ái thực sự cho người Việt Nam v.v... Và vô vàn những điều khác mà khi có điều kiện đi ra thế giới văn minh, tớ đã hiểu hơn về những thiệt thòi của người Việt, cũng như thấm thía hơn, cảm nhận rõ nét hơn những lý do vì sao dân Việt mình lại ra nông nỗi như hôm nay.

Bạn của tớ ạ! Có lẽ bạn đã không hề biết rằng, mỗi lần viết về một chủ đề nào đó, khi đăng lên facebook này, điều đầu tiên tớ nghĩ đến lại là bạn. Tớ nghĩ về bạn nhiều đến nỗi, nó ám ảnh ngay cả trong giấc mơ của tớ. Rất nhiều lần tớ mơ cùng một giấc mơ, đó là khi tớ trở về, và rồi có một ngày, tớ bị đẩy lên một chiếc xe bịt bùng, và trớ trêu thay, người còng tay tớ lại chính là bạn. Bạn ngồi cạnh bên tháp tùng mình trên chiếc xe đó, khuôn mặt lúc thì ưu tư, lúc thì ái ngại, lúc lại nhìn mình đầy vẻ cảm thông pha lẫn trách móc, rồi chúng ta im lặng, không ai nói với ai một lời nào nữa, và cứ thế gương mặt bạn cứ nhòa dần đi. Rồi tớ không còn có thể biết, liệu bạn có thể hiểu được gì không về những điều mà tớ đã làm khi tớ bị bắt?

Nhưng đấy chỉ là giấc mơ. Tớ vẫn có thể lựa chọn cho mình một bến đỗ bình yên khác. rồi quên hẳn Việt Nam đi. Nhưng tớ sẽ trở về, tớ muốn nhìn thấy quê hương mình thay đổi. Rồi chúng ta sẽ quên đi những tháng năm buồn của dĩ vãng, sẽ lại ngồi hàn huyên tâm sự thoải mái cùng nhau, sẽ không còn phải cảnh giác nhau hoặc canh cánh những nỗi niềm của những kẻ thuộc bên-kia-chiến-tuyến nữa. Bạn nhé???!!!!
Lê Thu Trà
(Dân Luận)

Phong trào đầu tranh ở Dương Nội đang được đẩy lên rất cao

Những người nông dân tuyệt vời

Đã 3 tháng nay, sau trận cưỡng chế tàn bạo ở Dương Nội ngày 25/4/2014, người dân Dương Nội- TP Hà Nội đã xuống đường đi đấu tranh quyền con người, họ đi khăp nơi đến các cơ quan của chính quyền,công an, báo chí,…để đấu tranh đòi quyền con người.... nhưng chưa có cơ quan nào trả lời, đối thoại với Dương Nội về quyền con người

Bắt đầu từ sáng ngày 5/8/2014, người dân Dương Nội tổ chức đi đến Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội để bày tỏ ý kiến về vấn đề nhân quyền, họ đang tìm kiếm tiếng nói ủng hộ từ các nước dân chủ về việc nhân quyền của người dân Dương Nội phải được tôn trọng.

Họ biết nước Mỹ là một quốc gia dân chủ, nước Mỹ luôn lấy tiêu chí sự cải thiện về nhân quyền của chính phủ các nước độc tài như Việt Nam để làm căn bản cho việc phát triển quan hệ hai chính phủ Việt Mỹ để phát triển kinh tế.

Chính phủ các nước dân chủ là chính phủ do dân bầu còn chính phủ của VN là chính phủ của đảng CS, do vậy cam kết về bảo vệ nhân quyền của họ khó có thể trở thành hiện thực khi mà đại sứ quán của họ không nhận được sự phản hồi từ phía nhân dân Việt Nam, nhất là những người dân Dương Nội đã xuống đường biểu tình ròng rã hơn 3 tháng nay về quyền con người.

Công an ngăn cản không cho nhân dân tiếp cận Đại sứ quán Mỹ vì họ cho rằng người dân hành xử đúng luật pháp và dọa sẽ bị xử lý nếu người dân cố ý...

Luật pháp nào? chính công an quận Hà Đông đã đánh người và bắt giam người thân của họ để khủng bố, hủy hoại cuộc sống của họ,...công an bắt người dân phải qui phục chủ đầu tư, phải đi lĩnh tiền đền bù, để cướp đất.Hiện tại đất Dương Nội vẫn là của Dương Nội, họ chưa nhận tiền đền bù nên đất đó chưa đã phải là của chủ đầu tư, chưa thể ra quyết định cưỡng chế để giải phóng mặt bằng?

Cưỡng chế là gì, là khi đất đó phải là của chủ đầu tư theo đúng trình tự pháp luật, nhưng vì một lí do nào đó người dân không chịu kí vào biên bản bàn giao đất thực địa cho chủ đầu tư, lí do này không thuyêt phục, khi đó mới cưỡng chế

Sáng nay, ngày 7/8/2014 họ đi đến Đại sứ quán Đức nhưng cũng bị công an ngăn cấm, công an còn cho đầu gấu chui vào đoàn đấu tranh nói năng lộn xộn nhằm gây sự và đánh Trịnh Bá Phương, công an đang bao vây, đứng ngó… chỉ cần một tín hiệu là đánh và hốt tất cả về đồn

Nhân quyền của chúng ta đang bị bọn độc tài tước đoạt, chúng nó vừa tước đoạt vừa trang bị những từ ngữ mỹ miều để che đậy bản chất chế độ đàn áp quyền con người, đến nay thì nhân dân không chịu được nữa…cha ông ta đã trải qua những biến cố đau thương vì bị cộng sản đàn áp quyền con người như CCRĐ, Nhân văn giai phẩm,… nhưng bất ngờ thay, những bước chân đầu tiên xuống đường với khẩu hiệu bảo vệ quyền con người đầu tiên ở Việt Nam lại thuộc về người nông dân, những người nông dân của TP Hà Nội, thủ phủ của cộng sản.

Sơ lược đặc điểm của phong trào đấu tranh Dương Nội

Những người nông dân Dương Nội không thuộc bất cứ hội đoàn XHDS nào đang được thành lập trong những ngày qua tại Việt Nam, Dương Nội cũng không thuộc hiệp hội dân oan do Bà Lê Hiền Đức làm chủ tịch danh dự, tự họ đã là một phong trào với khoảng 1750 nhân khẩu đoàn kết với nhau như một bó đũa mang tên Dương Nội.

Phong trào này được hình thành từ 6 năm về trước do chị Cấn Thị Thiêu kêu gọi người dân đoàn kết để thể hiện chính kiến một cách ôn hòa, đoàn kết để đấu tranh quyền làm chủ đất đai của mình, quyền làm chủ của họ đang được chính chế độc tài thừa nhận (sổ đỏ hợp pháp sở hữu đất đai), họ yêu cầu nhà nước và chủ đầu tư tôn trọng quyền làm chủ của người dân Dương Nội đối với tài sản đất đai của họ, họ có quyền và nhà nước, chủ đầu tư phải thỏa thuận với họ trong việc mua bán, đền bù với giá hợp lý.

Phương thức đấu tranh của chị Cấn Thị Thêu là đã dựa trên những giá trị căn bản là dân chủ và nhân quyền, những giá trị mà chị cho rằng người dân đáng được được hưởng, nhưng những giá trị đó là khắc tinh của chế độ độc tài, bởi thế họ đã đánh đập và bắt giam vợ chồng chị để phá tan phong trào đấu tranh ở Dương Nội

Nhưng những giá trị mà chị Thiêu và người dân Dương Nội theo đuổi là khát vọng của họ, là những giá trị căn bản của con người, bắt người tùy tiện lại thể hiện sự vi phạm nhân quyền nghiêm trọng tại Việt Nam, Dương Nội đã biến đau thương thành hành động, và cuộc biểu tình đòi quyền con người xuất phát từ chính nhận thức của họ đã diễn ra và như chúng ta đã thấy, trên đường phố Hà Nội đã xuất hiện đoàn biểu tình đòi quyền con người.

Thông điệp đòi quyền con người là thông điệp đối kháng với cộng sản, hành vi biểu tình đòi quyền con người là hành vi đối kháng trực diện với công an - công cụ của chế độ độc tài, vậy nhưng chính quyền không thể chụp cho họ cái mũ là phản động, là đánh phá nhà nước bởi đây là sự thật, chính quyền đã để cho công an quận Hà Đông dồn người dân Dương Nội bước chân ra đường đấu tranh cho quyền con người.

Những người nông dân tuyệt vời này đã đưa địa danh Dương Nội - Hà Nội vào lịch sử, nếu như vài tháng trước người dân phải dựa vào vai trò chính trị của Ls Lê Quốc Quân để xuống đường bày tỏ chính kiến thì hôm nay những người nông dân Dương Nội đã nhẹ nhàng biến giấc mơ của nhiều người thành sự thật, đó là cuộc biểu tình đòi quyền con người đã diễn ra ở Hà Nội- Việt Nam.

Những hình ảnh biểu tình đòi quyền con người giữa vòng vây của công an

Không như các phong trào đấu tranh khác, chỉ đấu tranh nhàn nhạt và ngồi chờ tình hình nhân quyền tại Việt Nam được cải thiện hơn, người nông dân Dương Nội đã can đảm bước chân xuống đường biểu tình đòi quyền con người, họ mong muốn các đoàn dân oan khác cùng nhập cuộc, bởi vì quyền con người không được tôn trọng thì dân oan không được chế độ gọi là dân oan, chế độ gọi dân oan là những kẻ quấy rồi trật tự công cộng và dân oan có thể khởi tổ bất cứ lức nào theo điều 245 của Bộ luật hình sự.

Đặc biệt ngày 7/8/2014 đã xuất hiện việc bố trí đầu gấu chen vào đoàn Dương Nội để hành hung gây sự với Trịnh Bá Phương, đó là dấu hiệu cho thấy khả năng sắp tới việc công an hoặc chủ đầu tư có ý đồ bố trí đầu gấu hành hung Trịnh Bá Phương để dập tắt Dương Nội. (xem một sốvideo)
https://www.facebook.com/photo.php?v=1456014744684972&set=vb.100008293810472&type=2&theater
https://www.facebook.com/photo.php?v=1458731467721885&set=vb.100007551371198&type=2&theater
https://www.facebook.com/photo.php?v=1457985037796528&set=vb.100007551371198&type=2&theater
Thao khảo hình ảnh và video tại fb sau:
https://www.facebook.com/trinhbaphuong.trinhba
https://www.facebook.com/thanhthien.nguyenvan
Cẩm Thanh
(FB. Cẩm Thanh) 

Nguyễn Chí Thiện (1939-2012) và Hoa địa ngục

Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện và trang bìa tập thơ Hoa Địa Ngục
Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện và trang bìa tập thơ Hoa Địa Ngục

Hoa địa ngục là một hành trình thơ, là một hành trình sống. Hoa địa ngục là tác phẩm sớm nhất mô tả đầy đủ hai khía cạnh: chế độ tù ngục và cuộc sống con người trong chế độ toàn trị, ngay từ năm 1960, ở miền Bắc. Văn bản xuất hiện năm 1979, cũng là sớm nhất, khi những hồi ký của tù nhân cải tạo miền Nam chưa ra đời và hai mươi năm sau, ở miền Bắc mới có tiểu thuyết Truyện kể năm 2000 củaBùi Ngọc Tấn.

Năm 1979, một tập thơ từ Hà Nội được chuyển ra nước ngoài. 1980, được in ra. Những ấn bản đầu tiên không đề tên tác giả, chỉ biết đó là một người tù, một kẻ mạo hiểm đã đem tác phẩm của mình "ném vào" toà đại sứ Anh. Tác giả lập tức bị bắt. Bị tù. Đó là Hoa địa ngục của Nguyễn Chí Thiện.

Hoa địa ngục, khi mới in, mang những tên như Tiếng vọng từ đáy vực[1], Quê hương tù ngục[2], v.v... Nhiều năm sau mới trở lại với tên Hoa địa ngục do tác giả chọn.

Hoa địa ngục hay những đoá hoa nẩy sinh từ địa ngục -chắc hẳn đã cảm hứng từ Fleurs du mal (Ác hoa), những đoá hoa nảy sinh từ nỗi đau, từ cõi ác của Baudelaire- chiếu vào cuộc đời tù ngục và con người dưới chế độ toàn trị, theo truyền thống Đỗ Phủ.

Nguyễn Chí Thiện nổi tiếng ngay, được nhiều giải thưởng quốc tế của các cơ quan tranh đấu cho nhân quyền, song thơ ông có lẽ chưa bao giờ được đánh giá đúng mức khi ông còn sống.

Bởi nhiều lý do, nhưng có lẽ đáng chú ý nhất là điểm cộng đồng người Việt hải ngoại chia nhiều phe phái: Phái tả thiên cộng không chấp nhận những câu thơ chạm đến "bác" trong bất cứ hoàn cảnh nào. Phái hữu, phần đông không chú ý tới thi ca và tranh đấu; phần nhỏ cực hữu, sử dụng ông như một vũ khí, một viên đạn trực tuyến chống cộng. Phái "văn học" xếp thơ ông vào loại chính trị "phi nghệ thuật". Cuối cùng chỉ còn lại một số ít người trung thành với thi ca và tự do, đã bảo vệ ông trong suốt hành trình lâm nạn và số đông quần chúng vô danh, vô nhãn, đọc thơ ông trong im lặng.

Những thành kiến cả yêu lẫn ghét, thường dựa vào mấy câu thơ ông kịch kiệt chửi cộng sản làm nền. Chính những câu thơ này đã tạo ra cliché một Nguyễn Chí Thiện chống cộng cực đoan, quá khích, đi ra ngoài thế giới thi ca Nguyễn Chí Thiện.

Nguyễn Chí Thiện, trong sâu thẳm của thi ca, hình hài, và ngôn ngữ, trong tác phong, trong cách diễn đạt, là một nhân cách thật, một con ngườithật. Chỉ vì nói thật mà mắc vòng tù tội. Một con người ngây thơ, thành thật, ngơ ngác, vấp ngã trước bao giả trá, tàn ác của chế độ độc tài. Tính thật ấy toát ra trong lời nói, trong câu văn, không hoa mỹ, không vòng vo. Chất thật ấy bao trùm không gian, bọc lấy người nghe, như một điệu buồn, như một hồn ma không đất đậu trên quê hương mà gian dốiđã thở thànhsự thật.

Năm 1960, ở tuổi 21, vì trót giảng cho học trò đúng sự thật về một đoạn lịch sử thế chiến thứ hai, Nguyễn Chí Thiện phạm tội "phản tuyên truyền", bị kết án hai năm, nhưng phải tù 3 năm rưỡi, cho đến 1964.

Năm 1966, bị tình nghi làm thơ chống chế độ, lại bị bắt, bị tù 11 năm, 1977 được thả.

Năm 1979 đến toà đại sứ Anh gửi hay "ném" tập thơ Hoa địa ngục, bị bắt tức khắc. Bị tù 12 năm, đến 1991.

Trước sau tổng cộng 27 năm.

Ngày 28/10/1991, Nguyễn Chí Thiện được thả. Tháng 1/1995, được sang Hoa Kỳ.

Nguyễn Chí Thiện, trong sâu thẳm của lời nói, lời thơ, chính là sự thành thật đã qua đời dưới một thế quyền mà sự giả trá đã trở thành quốc sách.

Sự thành thật nguyên thuỷ toát ra từ giọng nói và thi ca của ông, làm cho người nghe, người đọc trong các xã hội "tân tiến" phải ngạc nhiên vì chất men "quê mùa" còn sót lại trong con "người rừng" đã trải gần ba mươi năm tù hãm, đói khát, bệnh tật. Đối với thế giới "văn minh", Nguyễn Chí Thiện là người tiền sử.

Làm thơ khi bắt gặp một cảnh huống, một ý nghĩ, một tâm sự, một chạnh lòng,... Ông là nhà thơ trần thuật, một người kể chuyện bằng thơ. Thơ ông gần với lời, thơ ông chính là lời nói vội chưa kịp tu từ thành thi ca, còn nguyên chất ròng khổ đau tù ngục.

Hoa địa ngục là thiên hồi ký về cuộc đời tù tội trong những căn ngục riêng, dưới mái giam chung là cuộc đời trong xã hội cộng sản.

Người ta trách thơ ông thiếu nghệ thuật, cũng phải. Ở địa vị ông, có nhà thơ nào còn kịp nghĩ đến nghệ thuật làm thơ? Còn kịp nghĩ đến việc gọt giũa một chữ đẹp cho thơ? Hay tất cả cũng sẽ như ông: chớp nhoáng, ghi lại những đớn đau gào thét trong thịt da tâm não.

Bản thảo Hoa địa ngục tập hợp những bài thơ viết tay, dưới đề năm, chắc là những trang giấy rời, cho nên khi in ra, mỗi người sắp xếp theo một lối, hầu như vô trật tự, không theo thời gian, mà cũng không theo chủ đề, các bản in thường có rất nhiều chữ đánh máy sai, nhưng tạm gọi là đầy đủ, chỉ hơn kém nhau một vài bài.

Lối in vội này, in tất cả này, chỉ có ích lợi nhất thời; nhưng về lâu về dài, sẽ gây rối loạn cho độc giả: những bài thơ dở làm giảm giá trị những bài thơ hay, nhụt chí người đọc. Bởi thơ cần hay không cần nhiều. Biết bao nhà thơ đã làm giảm giá trị của mình bằng những bài thơ dở hoặc những lời thơ lập đi lập lại nhiều lần. Nguyễn Chí Thiện cũng không ngoại lệ.

Vậy điểm đầu tiên, khi in hoặc in lại thơ Nguyễn Chí Thiện, có lẽ nhà xuất bản nên tuyển, lược những bài dở hoặc lập lại; rồi xếp theo chủ đề, hoặc theo thứ tự thời gian, để làm sáng tỏ vũ trụ thơ Nguyễn Chí Thiện: Thân phận con người trong xã hội toàn trị.

Nguyễn Chí Thiện là nhân chứng không thể loại trừ về một guồng máy kiểm soát con người từ trí óc đến hành động, từ tay chân đến tư tưởng. Hoa địa ngục vừa là một hành trình thơ, vừa là một hành trình sống.Hoa địa ngục là tác phẩm sớm nhất mô tả đầy đủ hai khía cạnh: chế độ tù ngục và cuộc sống con người trong chế độ toàn trị, ngay từ năm 1960, ở miền Bắc.

Văn bản xuất hiện năm 1979, cũng là sớm nhất, khi những hồi ký của tù nhân cải tạo miền Nam chưa ra đời và hai mươi năm sau, ở miền Bắc mới có tiểu thuyết Truyện kể năm 2000 củaBùi Ngọc Tấn.

Hoa địa ngục là câu chuyện một thanh niên bước vào đời tràn đầy hy vọng: 1954, miền Bắc bắt đầu cuộc sống hoà bình, độc lập, sau chín năm chiến tranh. Ba năm sau, 1957, chàng sáng tác bài Mắt em, thơ tình, có lẽ là bài thơ đầu tiên được lưu lại, mang nét lãng mạn của cái "thủa ban đầu lưu luyến ấy", lần đầu rung động trước đôi mắt thuyền[3]. Mắt em thời chưa đi tù, là một hợp âm ca dao, Lưu Trọng Lư và TTKH trong tình yêu thứ nhất:

Mắt em mềm mại con đò

Anh nhìn chẳng thấy hẹn hò một câu

Mắt em trong mát giòng sâu

Anh nhìn chẳng thấy nhịp cầu bắc qua

Mắt em là một vườn hoa

Vắng anh, thắm nở chói loà sắc hương

Vườn hoa ấy, cảnh thiên đường

Anh nhìn chỉ thấy cửa thường đóng nghiêm (Mắt em, 1957)

Người thanh niên 18 tuổi của một Hà Thành đã tiếp thu cách mạng được ba năm, nhưng chưa "lột xác": vẫn còn mộng đôi mắt thuyền của Lưu Trong Lư, vẫn còn mơ giai nhân đài các "đóng nghiêm" trong khung cửa của Thâm Tâm TTKH.

Một năm sau, 1958, thơ đã buồn hơn, đã nhuốm màu hoang sơ Hà Nội sau bốn năm "giải phóng". Thơ luyến nhớ dĩ vãng. Hà Nội bây giờ nằm im, lo sợ, chờ đợi bản án Nhân Văn:

Quanh hồ liễu rủ

Giữa hồ tháp đứng âm u

Đền Ngọc Sơn không hương khói lạnh lùng

Cầu Thê Húc nằm nghe lá rụng...

Đâu những bác thầy tầu, thầy cúng

Những bà già đi lễ năm xưa?

Cảnh hồ gươm mưa nắng bốn mùa

Lẩn quất bóng rùa, lặng lẽ... (Quanh hồ liễu rủ, 1958)

Lại một năm nữa trôi qua, 1959, lịch sử miền Bắc xuyên dần vào thơ. Cái sợ của người dân thấm dần vào không gian, cỏ lá. Không khí âm u vượt biên Hà Nội, trải rộng, trải dài, lan tới núi rừng, tới thượng du, tới những bản xa nơi địa đầu hoang dã:

Vài cánh dơi chập chờn quanh cổ miếu

Rừng ngả dần mầu hiểm bí, âm u

Gió đìu hiu thoang thoảng lạnh hơi chiều

Sương ẩm ướt bắt đầu rơi phủ

Trong lặng vắng vút ngân dài tiếng hú

Vài cánh chim lạc lõng vội bay về

Lời tối tăm vang dậy bốn bề

Tiếng ếch nhái côn trùng trong cỏ nước

Người lữ khách giật mình chân rảo bước

Bàn mường xa có kịp tới qua đêm? (Vài cánh dơi, 1959)

Nhưng 1959 cũng là năm người thanh niên hai mươi tuổi ngước mắt nhìn xã hội, nhìn con người và cuộc sống. Niềm vui đánh đuổi được thực dân Pháp đã qua lâu rồi, chỉ còn lại mầu đỏ búa liềm, liệm dần cuộc đời thực tại trong bốn bức tường độc tài của một người, một đảng.

Nguyễn Chí Thiện bắt đầu vẽ chân dung. Bức tranh đầu, ông vẽ một người mù, một xẩm tân thời sống trong chế độ mới; đồng thời cũng là ý thức của chính mình, lần đầu tiên tỉnh dậy, nhìn thấy sự thực nằm sau những bức bình phong giả, bài trí ánh sáng, ấm no tân tạo:

Tôi thường đi qua phố

Có anh chàng mù, mắt như hai cái lỗ

Kính chẳng đeo, mồm thời xệch méo

Ngậm vào tiêu, cổ nổi gân lên

Dốc hơi tàn thổi đứt đoạn như rên

Mấy bài hát lăng nhăng ca ngợi Đảng

Đã mang lại ấm no và ánh sáng!

Một buổi sớm anh như choáng váng

Gục xuống đường, tiêu rớt sang bên

Tôi vội vàng chạy lại đỡ anh lên

Anh chỉ khẽ rên: Trời, đói quá! (Tôi thường đi qua, 1959)

Năm 1959 đối với Nguyễn Chí Thiện đánh dấu ngõ quặt của nhận thức. Ngày Thiện đỡ người mù dậy, cũng là ngày anh đỡ chính anh, mang tâm thức anh từ vùng tối ra vùng sáng. Nhưng đó cũng là ngày đại hoạ cho anh: từ nay, anh sẽ thay người mù bước vào bóng tối của lao tù cho đến hết tuổi trẻ.

Năm 1960, lại một bước nữa dấn thân vào định mệnh: Nguyễn Chí Thiện nhận dạy thay một người bạn ốm vài giờ lịch sử cho lớp học bổ túc văn hóa ở Hải Phòng. Bài giảng về đại chiến thứ hai, thấy sách giáo khoa viết Nhật đầu hàng là do Hồng Quân Liên Xô đánh bại quân Nhật ở Mãn Châu, Thiện bèn đính chính: Nhật đầu hàng vì Mỹ bỏ hai quả bom nguyên tử. Chuyện vu vơ, chẳng dính líu gì đến chính trị Việt Nam, thế mà anh bị đưa ra toà, lãnh án 2 năm tù vì tội "phản tuyên truyền". Người con trai 20 tuổi, bị giam vì trót dậy học trò sự thực, chưa tiên đoán được những gì sẽ đến trong tương lai:

Nửa đời thân thế long đong

Nhà thương tù ngục xoay vòng tuổi xuân

Một năm thổ huyết hai lần

Mười năm cấm cố tiêu dần thịt da

Rừng hoang biên giới mưa sa

Hoẵng kêu nấc gịong xa xa trên ngàn

Chăn đơn khôn ấm nỗi hàn

Co lên đất tấm thân tàn bỏ đi... (Đêm nằm nghe, 1974)

1961, nẩy sinh một Nguyễn Chí Thiện khác, một nhà thơ lột xác, đã thôi lãng mạn, đã từ yêu đương, miễn tiếc nhớ, để bước vào thực chất lao tù, bước vào định mệnh:

Có những chiều mưa buồn lạnh cóng

Giữa bùn trơn tê tím xương da

Chống cuốc nhìn rừng núi bao la

Trong bụi nước mờ mờ lẩn bóng...

Có những chiều mặt trời như lửa bỏng

Giọt mồ hôi mờ xót con ngươi

Đặt gánh phân nhìn bốn phía đất trời

Rừng núi đứng im lìm trong nắng loá

Có những chiều thịt gân rời rã

... (Có những chiều, 1961)

Nguyễn Chí Thiện, nhà thơ nhân chứng

Từ đây, Nguyễn Chí Thiện trở thành nhà thơ nhân chứng, trở thành Đỗ Phủ của địa ngục trần gian, của thiên đường cộng sản. Tia mắt ánh xanh lạ lùng ở một người châu Á ấy đã quắc lên.

Ở tuổi 23, ông viết bài thơ đầu tiên mô tả thực chất đời tù. Ở người thanh niên lãng mạn mơ mộng hiền lành mấy năm về trước, nay đã có sự đổi thay toàn diện từ lực tâm đến lực bút, những chữ dữ dội, khốc liệt, vung lên:

Chúng tôi sống giữa lòng thung lũng

Bốn bên là rừng núi bọc vây quanh

Ở rúc chui trong mấy dẫy nhà tranh

Đầy rệp muỗi, đầy mồ hôi, bóng tối

Bệnh tật cho nhau, đời ôi hết lối

Tuyệt vọng ngấm dần, hồn xác tả tơi

Bảo đây là kiếp sống của con người

Của trâu, chó? So làm sao, quá khó!

Làm kiệt lực, nếu không giây trói đó

Ốm ngồi rên, báng súng thúc vào lưng

Bướng lại ư? Hãy cứ coi chừng

Xà lim tối, chân cùm dập nát!

Lũ chúng tôi triền miên đói khát

Đánh liều xơi tất cả củ cây rừng

Bữa cơm xong mà cứ tưởng chừng

Chưa có một thứ gì trong ruột cả!

Đêm nằm mơ, mơ toàn mơ thịt cá

Ngày lắm người vơ cả vỏ khoai lang

Có ai ngờ thăm thẳm chốn rừng hoang

Đảng cất giấu dân lành hàng chục vạn

Và sát hại bằng muôn ngàn thủ đoạn

Vừa bạo tàn vừa khốn nạn, gian ngoa

Biết bao người chết thảm chết oan

Chết kiết lỵ, chết thương hàn, sốt rét

Chết vì nuốt cả những loài bọ rết

Vì thuốc men, trò bịp khôi hài

Chế độ tù bóc lột một không hai

Biết bao cảnh, bao tình quằn quại

Có những kẻ thân hình thảm hại

Phổi ho lao thổ huyết vẫn đi làm

Lời kêu xin phân giải chỉ thêm nhàm

Phòng y tế dữ hơn phòng mật thám!

Những con bệnh bủng vàng hay nhợt xám

Bước khật khừ như bóng quỷ hồn ma

...

Có những buổi mưa rơi tầm tã

Vác áo quần ra đứng cả ngoài sân

Lũ công an lục soát toàn thân

Thu đốt cả vật tối cần- miếng dẻ!

Cụ Mác ơi, cụ là đồ chó đẻ

Thiên đường cụ hứa như thế kia a?

... (Chúng tôi sống, 1962)

Chúng tôi sống, 1962, là một bản cáo trạng, một bản hùng văn, một bức tranh cô đọng và chi tiết về cuộc sống hàng ngày của những tù nhân chính trị trên đất Bắc, chưa bao giờ được viết, chưa bao giờ được công bố.

Chúng tôi sống làbức tranh hiện thực rỏ máu. Sự thật này, năm 1962 không ai tin được, bởi mọi người còn chưa hết say chiến thắng Điện Biên, còn đang hướng về một thiên đường tuyệt đối sau khi dẹp xong bọn "phản động" Nhân Văn Giai Phẩm.

Phải 40 năm sau, Bùi Ngọc Tấn mới viết những sự thật này thành tiểu thuyết.

Nguyễn Chí Thiện đi sớm hơn thế hệ ông bốn mươi năm, vì vậy mà ông đã không được đánh giá đúng mức, bởi trong số những người ca tụng Bùi Ngọc Tấn sau này, rất nhiều đã từng đào thải Nguyễn Chí Thiện.

Chúng tôi sống nói lên sức sống mãnh liệt của người thanh niên tên Chí Thiện, hiểu tại sao có sự trở mình của một ngòi bút bẩm sinh vốn nhu mì, nay đã lột xác trở thành đanh thép; giải thích tại sao một thanh niên ốm o ho lao, có thể sống còn và tồn tại sau 27 năm tù.

Trong số những chàng trai bị tù vì tư tưởng, Chí Thiện hiện rõ nét, bởi anh là một nhà thơ,  dám nghĩ, dám ghi lại ngoại cảnh và tâm cảnh của mình. Anh bắt đầu đầu đặt câu hỏi, về trời, về đất, về nước, về thân phận. Nguyễn Chí Thiện suy nghĩ lao lung: 

Trời u ám, cây hay là xương xám?

Mây đục mờ, hay vải liệm mầu tang?

Gió đìu hiu lạnh buốt can tràng

Hay hơi thở nơi dương tàn âm thịnh?

Lòng thung vắng mịt mù hoang lạnh

Hay mồ ma huyệt địa rấp xương khô?

Từng đoàn đi thiểu não toán tội đồ

Hay quỷ đói nơi trần gian địa ngục?

Những chàng trai mặt gầy đen nhẫn nhục

Mắt lạnh lùng, ngời sáng lửa âm u

Họ ngước trông non nước mịt mù

Và cúi xuống, nặng nề suy nghĩ... (Trời u ám, 1962)

Kể từ đêm trừ tịch 1961, Chí Thiện nhận thức được vai trò nhân chứng của mình. Kể từ nay, anh quyết tâm ghi lại trong đầu từng cảnh sắc, từng hình ảnh, từng chi tiết nhỏ nhoi:

Đêm rừng, rả rích mưa, phòng dột

Ôm gối ngồi run lạnh nhìn nhau

Chấm lửa mờ xanh một ngọn đèn dầu

Thùng nước giải, thùng phân, sàn rệp đốt

Đêm trừ tịch tù năm sáu mốt. (Đêm rừng rả rích, 1962)

Mỗi trạng huống, mỗi âm thanh, có thể trở thành một bài thơ khủng khiếp. Chưa nơi nào, chưa thơ nào mà kiếp người kinh hoàng đến thế:

Trời mưa tầm tã đêm qua

Sáng nay lạc rỡ còn pha trộn bùn

Sá gì bệnh sán, bệnh giun!

Dịp may hiếm có, tùn tùn nuốt nhai

Tôi nghe rào rạo bên tai

Một nhân lạc phải trộn hai nhân bùn (Trời mưa tầm tã, 1962)

Cái đói ở đây không còn nguyên chất sinh học nữa nữa, không còn trọn khối nữa, mà nó đã hoá thân, hóa chất, nhập vào mỗi âm thanh: tùn tùn nuốt nhai, rào rạo bên tai, một nhân lạc trộn hai nhânbùn. Nó đánh động lương thức người đọc như một thứ bom nổ chậm mà chắc.

Vẫn chuyện rỡ lạc, năm sau, cái đói mở ra một trận tuyến khác: nó dẫn đến sự trừng trị, nó là cái cớ để cái ác có cơ hội ra tay, như nhân với quả:

Toán tôi rỡ lạc ngoài đồng

Có ông quản giáo ngồi trông đàng hoàng

Thừa cơ quản giáo trông ngang

Một anh tranh thủ vội vàng nuốt nhai

Vài nhân lạc cả vỏ ngoài

Quả tang! Báng súng nện hoài không thôi!

Mồm anh toé máu, vều môi. (Toán tôi rỡ lạc, 1963)

Chưa có một thế giới nào dã man đến thế: vừa chết đói vừa bị đánh.

Nhưng sự kinh hoàng đến từ chỗ khác: Sự thản nhiên của người kể, nhẹ nhàng như thuật một chuyện vui hàng ngày. Những chữ thừa cơ, tranh thủ hàm ý khôi hài, càng làm tăng tốc ác, làm dầy cái bạo tàn, làm tê liệt hệ thần kinh người đọc.

Thơ Nguyễn Chí Thiện không gọt giũa mỗi chữ mỗi lời, cũng không cao siêu tư tưởng, mà chỉ là những lời lẽ bình thường, thậm chí tầm thường nữa, nhưng chúng làm ta giật mình bởi chất dã man, tàn bạo ẩn trong những con chữ nhu mì hiền hậu, lừa ta vào ổ phục kích bất ngờ.

Cũng năm 1963 này, Nguyễn Chí Thiện sáng tạo những câu thơ lãng mạn pha máu và nước mắt. Sự tuyệt vọng lên ngôi, người thanh niên 24 tuổi, sau ba năm tù tội, đã nghiền tan cái lãng mạng của thời mình trong những dòng thơ tuyệt vọng, những câu thơ tím bầm mình mẩy, những vần thơ run sợ thất thần trên đường lên máy chém:

Khi ta tới mặt trời đã nguội

Gió mùa thu trở gió may cào

Những mầm non khô cứng tế bào

Mau thay sắc mang mầu xanh rớt

Và mặt đất hoá thành mặt thớt

Và con người con cá thiu ươn

Khắp nơi nơi nhung nhúc loài lươn

Loài giun đất không quằn khi dẫm

Tình mộng đã vùi chôn một nấm

Hận thù trơ trọi sống mồ côi

Những vần thơ lãng mạn câm rồi

Còn rỏ xuống một dòng đỏ sẫm (Khi ta tới, 1963) 

Những vần thơ lãng mạn câm rồi -chính là thơ bị trảm tấu, thơ bị tử hình- là đỉnh cao của tuyệt vọng. Sự tuyệt vọng trở thành độc dược, ngấm dần vào cơ thể thanh niên, hủy hoại hệ thần kinh, rút dần xương tuỷ:

Mầu thời gian đã chuyển về sắc xám

Vị thời gian đã ngả tới mùi thiu

Nửa trang đời dập, xoá, tẩy còn lưu

Và còn đó nửa trang dài lạnh trắng...

Tim trúng độc hóa ra bầu mật đắng

Hệ thần kinh một mớ chỉ xù lông

Nửa trang đời không một chữ nào trông

Thành nét chữ, nửa trang đời lạnh trắng...

...

Dông gió hết bơ phờ trong quạnh vắng

Cảnh hoang tàn cây đổ mái nhà xiêu

Nửa trang đời thâm tím với bầm biêu

Lòng dột nát, nửa trang đành bỏ trắng? (Mầu thời gian, 1963)

Đã xa rồi cái buổi "mầu thời gian xanh xanh" của Đoàn Phú Tứ. Mầu thời gian, ở Nguyễn Chí Thiện, nó sắc xám, nó đã ngả mùi thiu, nó là trái tim trúng đạn, nó là hệ thần kinh rối bét như mớ chỉ xù, nó là nửa trang đời bỏ trắng, nó là chưa sống mà đã chết... nó là mầu tuyệt vọng của thời gian. Bên cạnh sự tuyệt vọng của thời gian, là sự hấp hối của một người em tập kết:

Những manh áo vải

Tả tơi

Vật vã

Vào thịt da...

Em có lạnh lắm không?

Mưa gió mênh mông

Thung lũng sũng nước bùn

Bệnh xá mối đùn, ẩm mốc

Những khuôn mặt xanh vàng gầy rộc

Nhìn nhau, đờ đẫn không lời

Nhát nhát em ho

Từng miếng phổi tung rời

Bọt sùi, đỏ thắm!

Em chắc oán đời em nhiều lắm

Oán con tầu tập kết Ba Lan

Trên sóng năm nào

Đảo chao

Đưa em rời miền Nam chói nắng...

...

Sáng nay em không trống không kèn

Giã từ cuộc sống

Xác em rấp trên đồi cao gió lộng (Anh gặp em, 1965)

Toàn bộ thời gian, không gian, người, vật, đều sống trong mùi tử khí, đều là những chân dung xác chết, nối tiếp nhau trong vườn hoa địa ngục. Người đọc lạc vào cửa tử trong trận đồ bát quái không tìm được lối ra. Bên cạnh xác người em tập kết là xác chết một thân trâu:

Trông trâu mà khiếp cho trâu

Lở loang, tanh loét, sắc mầu nhở nham

Lệnh ban giám thị nhà giam

Mừng ngày quốc khánh cho làm thịt ăn

Tù nhân tính toán băn khoăn

Bốn mươi cân thịt, người ăn một nghìn! (Trông trâu mà, 1967)

Trong bữa tiệc mừng quốc khánh, mỗi người tù được hưởng 40g thịt trâu chết bệnh. Chưa có cao lương nào đạt vị khôi hài chua chát cay độc đến vậy. Nhưng chưa hết, bên cạnh xác trâu lở loang, tanh loét; bên cạnh một nghìn xác tù hom hem; bên cạnh bữa tiệc quốc khánh quái đản, lại là một chân dung người:

Bác nằm liền sát cầu tiêu

Mùi phân nước giải sớm chiều nồng hôi

Bác ơi, bác sắp chết rồi

Bác không còn sức để ngồi được lên

Bác nằm thoi thóp khẽ rên

Bát cơm ngô, bát rau dền đặt bên

Bác thèm một miếng đường phèn

Nhà giam Cộng sản bác quên bác tù

Trưa nay cái chết lù lù

Tới khiêng bác - Khối hận thù ngàn thu! (Ốm đau không thuốc, 1968)

Cuối cùng, sống chết giao lưu trong một cuộc gặp gỡ lạ lùng. Người hấp hối và thần chết trò chuyện với nhau trong không gian âm dương giao kết, buốt lạnh:

Nhìn thần chết hiện lên dần từng bước

Thân tù cao không có lực xô lùi

Anh chết oan, chết thảm, chết dập vùi

Hồn khổ não không thể nào siêu thoát

Đêm đêm hiện về đây lạnh toát

Bộ đồ đen, bụng phù trướng, bước đi

Anh ngước nhìn tôi, ra hiệu, chẳng nói gì

Mặt bủng xám, mắt ngời lên sáng quắc

...

Thế đủ rồi, tôi hiểu, hãy nên lui

Thể xác anh chuột khoét đã chôn vùi

Hồn anh hãy về vui nơi cực lạc

Lưu luyến chi đời tù lao đói rạc

Sống đọa đầy thoi thóp, sống ngựa trâu

Chết như anh, hết khổ có chi sầu

... (Nhìn thần chết, 1968)

Trong nhiều năm, Nguyễn Chí Thiện ngồi vẽ chân dung như thế, bức nọ để cạnh bức kia, thành cuộc triển lãm một quần hội nửa người, nửa thú, đang sống mà đã chết. Một thế giới người, vật, âm, dương, không phân chia giai cấp, không phân liệt đấu tranh. Một vùng ngoại biên, trên sông lú, người và vật cùng bị giam trong một không gian kín, chết sống giao thoa. Cái đói là bát cháo lú khiến người tù quên mình khi trước đã từng là một con người:

Suất cơm tôi một hôm đánh đổ

Tôi còn đương đau khổ nhìn theo

Thì nhanh như một đàn heo

Bốn, năm đầu bạc dẫm trèo lên nhau

Bốc ăn một lúc sạch làu

Miếng cơm, miếng đất, lầu bầu chửi nhau! (Suất cơm tôi, 1966)

Trên bờ sông nghĩa địa ấy, người thanh niên Chí Thiện tồn tại như một vong hồn:

Tôi đương sống, nhưng từ lâu đã chết

Chết trong tim, trong óc, chết tâm hồn

Cố đào lên bao thứ sớm vùi chôn

Song chúng đã xông mùi, tan rữa hết (Đoản thơ, 2)

Kẻ nhận định thơ mình đúng nhất cũng lại là tác giả. Mười năm sau khi vào tù lần thứ nhất, Nguyễn Chí Thiện "nhận định" thơ mình: 

Thơ của tôi không phải là thơ

Mà là tiếng cuộc đời nức nở

Tiếng của nhà giam ngòm đen khép mở

Tiếng khò khè hai lá phổi hang sơ

Tiếng đất vùi đổ xuống lấp niềm mơ

Tiếng khai quật cuốc đào lên nỗi nhớ

Tiếng răng lạnh đập vào nhau khổ sở

Tiếng dạ dầy đói lả bóp bâng quơ

Tiếng tim buồn thoi thóp đập bơ vơ

Tiếng bất lực trước muôn ngàn xụp lở

Toàn tiếng của cuộc đời sống dở

Và chết thời cũng dở, phải đâu thơ! (Thơ của tôi, 1970) 

Năm năm sau, 1975, ông làm bài thơ thứ nhì định nghiã thơ mình, khốc liệt hơn:

Thơ của tôi không có gì là đẹp

Như cướp vồ, cùm kẹp, máu ho lao

Thơ của tôi không có gì cao

Như chết chóc, mồ hôi, báng súng

Thơ của tôi là những gì kinh khủng

Như Đảng, Đoàn, như lãnh tụ, như trung ương

Thơ của tôi kém phần tưởng tượng

Nó thực như tù, như đói, như đau thương

Thơ của tôi chỉ để đám dân thường

Nhìn thấu suốt tim đen phường quỷ đỏ (Thơ của tôi, 1975)

Không còn gì để bàn trước những lời thơ như thế. Quá khích ư? Đúng là quá khích. Nhưng có gì quá khích hơn bị tù vì tội nói thực? Có gì quá khích hơn sự đọa đầy đến chết vì tư tưởng? Không có gì để khen chê trước những lời thơ như thế. Không có gì liên quan tới nghệ thuật trước những lời thơ như thế. Không có gì hàm súc, không có gì ngụ ẩn trong những lời thơ như thế. Phê bình đành chịu. Phê bình đành gác bút. Có lần J.P. Sartre nói: Trước một em bé chết đói, cuốn Buồn nôn của tôi không có nghiã lý gì. Chúng ta bảo: trước những dòng thơ tù như thế, mọi khen chê, mọi nghệ thuật, đều trở nên vô nghiã. Phê bình đành á khẩu.

Trước mắt tôi, mặt trời hấp hối

Sau lưng tôi, bóng tối mịt mùng

Bên phải tôi, tù ngục chập chùng

Còn bên trái, súng nhằm tim chắn lối! (Đoản thơ, 152)

Nguyễn Chí Thiện, nhà thơ trào phúng

Nhưng thơ Nguyễn Chí Thiện không chỉ có ngục tù, không chỉ có đớn đau và xác chết, ông còn có những bài thơ trào phúng vẽ chân dung lãnh tụ rất có duyên:

- Về bác Mao:

Bác Mao cân nặng tạ hai

Thịt ùn lên mặt, mặt hai ba cằm

Người dân Trung Quốc thì thầm:

"Nó là Đổng Trác nhưng dâm hơn nhiều!" (Đoản thơ, 126)

- Về bác Hồ:

 Bác Hồ rồi lại bác Tôn!

Cả hai đều thích ôm hôn nhi đồng

Nước da hai bác mầu hồng

Nước da các cháu nhi đồng mầu xanh... (Bác Hồ rồi lại)

- Lại về bác Hồ:

Bác Hồ tới thăm thiếu nhi

Bác cười bác hỏi chi li ngọn ngành

Việc ăn ở, việc học hành

Lao động bác dặn chấp hành tốt, nhanh

Kẹo bánh bác hứa để dành

Chủ nghiã xã hội hoàn thành sẽ cho!

Thiếu nhi khăn đỏ cổ cò

Vỗ tay suông chúc bác Hồ sống lâu... (Bác Hồ tới thăm, 1967)

- Về học thuyết Mác:

Học thuyết Mác, này đây sọt rác

Xét lại làm gì, tốt nhất vất nó đi

Sử sách sau này đỡ mất công ghi

Thêm quá nhiều trang xám xì tội ác (Đoản thơ, 169)

- Về thiên đường Mác:

Thiên đường cụ Mác dân mơ

Tỉnh ra tài sản bị vơ nhẵn rồi

Chỉ còn lại chút mồ hôi

Đổ ra vì sợ, vì nuôi Đảng rồ! (Đoản thơ, 180)

Vẽ chân dung các đại lãnh tụ như thế không phải dễ. Đó là lối thơ dân gian, lối thơ bút tre của những cụ đồ hóm hỉnh. Tính chất hóm này những ai đã từng nghe Nguyễn Chí Thiện nói chuyện thường bắt gặp: trong cái bi thảm tột đỉnh, tâm hồn ông bao giờ cũng hướng về một lối thoát, dù rất bé, về phiá mặt trời: ông là người của niềm vui, của lạc quan. Ông thích cười nhưng cuộc đời đã làm môi ông chụm lại che kín hàm răng. Nhưng mắt ông thường lộ một ánh lửa trêu ngươi, nhạo báng, thách thức, chơi khăm, những thế quyền, những bạo lực.

Bị tuyệt vọng đè nát cuộc đời, nhưng ông không chết vì tuyệt vọng.

Bên cạnh tiếng cười, thơ ông là một cõi mênh mông lệ, cõi nước mắt trong vắt như thủy tinh:

Trong muôn dòng trái đất tuôn đi

Dòng trong nhất là dòng nước mắt (Lệ, 1971)

Nguyễn Chí Thiện, nhà thơ thời thế

Trong tù, không gian chật lại, bốn mùa co lại, thời gian không gian cùng chui chung một kiếp với tù nhân. Và mùa xuân, mùa hy vọng cũng chịu cực hình như người tù phạm:

Bốn bức rào nứa

Cứa vào mùa xuân

Một cách bất nhân

Mùa xuân máu ứa! (Đoản thơ, 48)

Không gian và thời tiết trong tù cũng là không gian và thời tiết của đất nước. Nhưng người tù không được biết gì về thời thế, về chiến tranh, về tình cảnh dân tộc. Người tù cũng giống như người nhà nông xưa, phải xem trời để biết nắng, xem mây đoán mưa. Người tù cảm nhận thời thế gián tiếp qua thiên nhiên, vũ trụ. Khi đất nước bị suy vong, khi con người bị trấn áp, cơn thịnh nộ của đất trời giáng xuống núi rừng như một lời cảnh giác:

Đêm bão giật, lửa loè muôn tiếng sét

Nổ đùng đùng như đánh phá sơn lâm

Nước từ trời cao đổ xuống ầm ầm

Cả rừng núi lồng lên gầm quát thét (Đoản thơ, 95)

Trước cơn thịnh nộ của đất trời, người tù Nguyễn Chí Thiện đã hiểu tất cả. Ông phẫn nộ và hờn oán chính mình, người mình, về chuyện nước non tan tác:

Giận thân rồi lại giận đời

Giận thời chuyên chính, giận người hèn ngu

Giận trời, giận đất âm u

Giận sông, giận núi quân thù dọc ngang (Đoản thơ, 140)

Nguyễn Chí Thiện sống trong tù trong suốt thời gian chiến tranh, nhưng chắc ông đã hy vọng miền Nam sẽ thắng. Những câu thơ sau đây đánh dấu sự tuyệt vọng của nhà thơ khi miền Nam thua trận, cả nước quy về một mối cộng sản:

Miền Nam ơi, từ buổi tiêu tan

Ta sống trọn vạn ngàn cơn thác loạn (Vì ấu trĩ, 1975)

Và trong con người ốm o, tù tội ấy, luôn luôn có sẵn ý định lật đổ định mệnh của mình và của dân tộc. Ý chí sắt đá ấy toát thành những lời thơ vũ bão, đặc dị, khác thường:

Trong bóng đêm đè nghẹt

Phục sẵn một mặt trời

Trong đau khổ không lời

Phục sẵn toàn sấm sét

Trong lớp người đói rét

Phục sẵn những đoàn quân

Khi vận nước xoay vần

Tất cả thành nguyên tử (Trong bóng đêm, 1976)

Sau này, khi chế độ toàn trị chỉ còn là quá khứ, những Nguyễn Hữu Đang, Phùng Cung, Hoàng Cầm, Kiều Duy Vĩnh, Nguyễn Chí Thiện, Bùi Ngọc Tấn... sẽ trở thành chứng nhân của lịch sử; một lịch sử sống động, trực tiếp, thành thực về vùng đồng lầy, viết bằng những từ trần trụi, không khoan nhượng, mô tả chính sách triệt hạ nhân quyền ở Việt Nam, trong hậu bán thế kỷ XX:

Đạo lý tối cao ở xứ đồng lầy

Là lừa thầy, phản bạn

Và tuyệt đối trung thành vô hạn

Với Đảng, với Đoàn, với lãnh tụ thiêng liêng

Hạt thóc, hạt ngô phút hoá xích xiềng

Hoạ, phúc toàn quyền của đảng (Đồng lầy, 1972) 

Không ai kêu nổi một lời

Mồm dân Đảng khoá đã mười mấy năm (Gửi Bertrand Russell, 1968)

Lời thơ tuy như nói, nhưng có tác dụng bằng trăm lời nói thường, bởi nó có cấu trúc nội tâm là sự thật.

Bài Đồng lầy là một bản trường ca về thời đại Nguyễn Chí Thiện đã sống, một cõi đồng lầy với những kiếp người như những con giun, với bọn ếch nhái lên làm chủ và lũ sậy lau co đầu cúi rạp. Cõi mộng chỉ đến trong giây lát, rồi nhà thơ lại phải quay về với thực tại, của đêm đen, của dân tộc đẫm trong ám khí đồng lầy:

Trời cao biển rộng có cũng như không!

Một tiếng quạ đêm ảo não rỏ xuống đồng

Tôi tỉnh hẳn, trở về cơn ác mộng

Muỗi nhơn nhơn từng đàn vang động

Những con cưng của ngừng đọng tối tăm

Chúng trưởng sinh trong đêm tối nhiều năm

Nên chúng tưởng màn đen là ánh sáng!

Ếch nhái vẫn đồng thanh đểu cáng

Chửi bới mặt trời, ca ngợi đêm đen

Lũ sậy lau còm cõi đứng chen

Hơi có gió là cúi đầu rạp hết

Bát ngát xung quanh một mầu khô chết (Đồng lầy)

Cả đoạn thơ trên bị một tiếng quạ đêm rỏ xuống đồng làm tan nát. Đúng ra, chỉ một chữ rỏ thần tình, chua xót, một chữ rỏ xác định phong cách thơ.

Đồng lầy làm năm 1972, tóm tắt cuộc đời Nguyễn Chí Thiện, từ tuổi hai mươi, đầy tin tưởng vào tương lai, vào ánh sáng cách mạng mùa thu:

"Mơ ước

Đợi chờ

Vĩ đại...

Nhưng rồi một sớm đầu thu mùa thu trở lại

Tuổi hai mươi mắt nhìn đời trẻ dại

Ngỡ cờ sao rực rỡ,

Tô thắm mầu xứ sở yêu thương

Có ngờ đâu giáo giở đã lên đường

Hung bạo phá bờ kim cổ

Tiếng mối giường rung đổ chuyển non sông

Mặt trời sự sống

Thổ ra từng vũng máu hồng (Đồng lầy) 

Lời thơ cổ điển theo lối kể các truyện nôm xưa: Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh, lại mang sắc hiện đại của Một mùa thu năm qua cách mạng tiến ra đất Việt. Nhưng cơn mộng cách mạng của Nguyễn Chí Thiện -chậm hơn các bậc đàn anh, vì ông ra đời sau, và cũng chấm dứt sớm hơn nhiều người khác, bởi ông đã nhìn thấy trước sự thật: Có ngờ đâu giáo giở đã lên đường-  kéo theo một chuỗi dài rùng rợn: 

Hung bạo phá bờ kim cổ

Tiếng mối giường rung đổ chuyển non sông

Mặt trời sự sống

Thổ ra từng vũng máu hồng

Lời thơ mạnh mẽ. Chí khí vẫy vùng.

Thơ mang bạo lực như cách mạng, nhưng một bạo lực phản cách mạng.

Phùng Cung và Nguyễn Chí Thiện là hai nhà thơ miền Bắc chối bỏ rất sớm Cách mạng mùa thu. Ông đã nhận ra trách nhiệm lớn nhất của cuộc cách mạng này là du nhập chính sách đấu tranh giai cấp (của Mác, qua lăng kính Mao, vào đất Việt) là một dòng lũ, bùn, cuốn trôi tổ quốc:

Một mùa thu nước lũ

Trở thành bùn nước mênh mông

Lớp lớp sóng hồng man dại

Chìm trôi quá khứ tương lai

Máu, lệ, mồ hôi, rớt rãi

Đi về ai nhận ra ai!

Khiếp sợ, sững sờ, tê dại!

Lịch sử quay tít vòng ngược lại

Thời hùm beo rắn rết công khai

Ngàn vạn đấu trường mọc dậy giữa ban mai (Đồng lầy)

Chỉ có Phùng Cung và Nguyễn Chí Thiện dám mô tả cách mạng mùa thu như thế. Nguyễn Chí Thiện bị bắt năm 1960. Phùng Cung, 1961. Nguyễn kể năm 1970 gặp Phùng trong trại tù Phong Quang, Yên Bái. Tình cờ chăng? Phùng và Nguyễn cùng tố cáo chiến tranh Nam Bắc?

Súng ống từng đoàn run run, nhớn nhác

Đảng lùa đi, tan tác, thương vong

Mái ngói, mái gianh, lệ thảm ròng ròng

Nhỏ xuống bốc hơi trong lòng vạc bỏng

Đảng dữ thét gào, hóc xương ngang họng

Giọng thều thào, gượng gạo hung hăng

Lưới thép nền chuyên chính tung quăng

Khốc liệt, bậy xằng, ức oan, cay đắng

Dân đen tay trắng cam đành

Từ núi rừng hoang vu tới phố xá thị thành

Từ hải đảo xa xôi tới ruộng đồng bát ngát

Mầu áo vàng cảnh sát

Tràn lan, nhợt nhạt cả mầu xanh!

Cuộc sống đồng lầy rộp rát, nhoét tanh

Bom đạn chiến tranh còn giật giành chút xương da thảm hại

Cái cảnh mười đi, hai ba trở lại. (Đồng lầy, 1972)

Đồng lầy là một bài thơ thời thế, bài thơ dấn thân, bài thơ tranh đấu, luận tội cộng sản và kết án chiến tranh. Đồng lầy cũng là một bài diễn ca trong phong cách Hà Thành chính khí ca, Đại Nam quốc sử diễn ca... Sau này, khi mọi chuyện lắng xuống, người ta mới có thể đánh giá bản trường ca này một cách công bình hơn. Nhưng chắc chắn nó sẽ là một bài thơ cần phải đọc để tìm hiểu thời đại này.

Bài Con tầu rêu, là một thành công khác, một giá trị nghệ thuật và tư tưởng.

Dùng Con tầu rêu Nguyễn Chí Thiện muốn mượn hình ảnh con tầu say (bateau ivre) của Rimbaud, để chỉ những con tầu tự do, hay sự tự do của chính mình. Thơ buồn bã như một lời tâm sự:

Con tầu say như ních chật không gian

Giữa mùa điên không biết lực điêu tàn

Xô vỡ vụn nơi ngời băng tuyết loá

Trong trắng xoá những ngày mưa tầm tã

Con tầu đau vật vã trước bờ xanh

Phiá mờ xa thôn xóm đứng yên lành

Thân tầu đã tan tành trên mũi đá.

Cay đắng quá những bến nghèo tàn tạ

Đón trông tầu lui tới, đứng buồn thiu

Khi tầu tôi men đến cũng dập dìu

Gây sóng gió đắm dìm cho nhục nhã

Ôi tiếp tới nước triều dâng vật vã

Con tầu run chưa tiến đã chờn lui

Đành một mai nơi đáy nước rêu vùi

Làm chỗ ở cho tôm, sò, ốc, cá

Tôi đã biết những đêm dài dòng dã

Con tầu câm trôi giữa đám trăng sao

Biết dừng đâu, không bóng hải cảng nào

Ra tín hiệu đón con tầu buồn bã

Tôi đã biết những bình minh đói lả

Biến sang mầu loang tím của chiều hoang

Con tầu đi, sức kiệt, lệ dòng hàng

Thương xót những mảnh tầu trôi vạn ngả... (Con tầu rêu, 1965)

Niềm tuyệt vọng của Nguyễn Chí Thiện về tự do đã dấy lên rất sớm, từ thời thanh niên, tù tội, Từ năm 1965.

Con tầu tự do trong tim người tù trẻ phóng đi tìm một bến bờ, tìm sự đồng thanh tương ứng. Nhưng con tầu của chàng đơn độc một mình. Nó đã mắc nạn. Không ai cứu giúp. Không ai cho cập bến, đến cả các bến nghèo, họ cũng đuổi tầu đi. Họ cũng dìm cho tầu chìm, dường như trên mảnh đất này, tự do là yếu tố đã bị yểm, bị mọi người bỏ qua, bị sa thải như một vật phù phiếm, người ta không cần dùng đến.

Tất cả những đắng cay của con tầu rêu, chìm dưới đáy biển, vận vào thơ, làm nên linh hồn tập Hoa địa ngục.

Không ai hiểu hơn tác giả, không ai có thể định nghiã đúng thơ ông bằng vài đoản thơ sau đây mà chúng tôi chép lại như lời kết của chính tác giả về đời mình, về tự do và về thân phận dân tộc:

Hoa địa ngục tưới bằng xương máu thịt

Trộn mồ hôi chó ngựa, lệ ly tan

Hoa trưởng sinh trong tù, bệnh, cơ hàn

Hương ẩm mốc, mầu nhở nham, xám xịt.



Toàn bộ thơ tôi nặng nề cay cực

Không một sắc mầu mang khí lực xanh tươi

Vần điệu nghe như quỷ khóc ma cười

Do sáng tạo tận cùng sâu đáy vực (Đoản thơ, 112, 113)

Nguyễn Chí Thiện đã chết. Một cái chết đột ngột, không ai ngờ, trừ "tác giả". Một cái chết nhanh, trần trụi, phanh phui sự thực như thơ ông: Cái chết đứng của Từ Hải trước trận tiền, bằng những cơn ho xé phổi, bằng lục phủ ngũ tạng tan tành như trái phá, trong một ngoại hình gần như vô bệnh.

Cái chết làm câm đi những lời ngụy biện trong các chiến dịch "Nguyễn Chí Thiện thật giả, giả thật" nối tiếp nhau bôi nhọ ông trong vòng nhiều năm, dường muốn chôn ông lần nữa, bắn ông bằng thứ ám khí tàn ác không kém gì 27 năm tù cộng sản, của những kẻ sống dưới xã hội tự do, những kẻ tạm gọi là "đồng hội, đồng thuyền".

Khi Hồ Thích bị các đồng chí trong Quốc Dân Đảng Trung Hoa đánh, Phan Khôi viết: "Thà chịu cái độc thủ của kẻ cường quyền, của bọn tiểu nhân; không thà chịu cái chó má của bạn đồng chí, của người quân tử".

Đấy là Phan Khôi nói về cái chó má của người quân tử, còn trường hợp Nguyễn Chí Thiện, lại là cái chó má của bọn tiểu nhân, phỏng có đáng nhắc đến chăng?

Sự lựa chọn, luôn luôn sự lựa chọn làm nên con người. Trong muôn vàn lời tiếng ném ra, con người có khả năng lựa chọn tiếng nào hữu tình, hữu lý; tiếng nào phản, ngụy, trắc, gian.

Trong muôn ngàn tiếng muốn tìm ra

Tiếng nào thiết tha

Tiếng nào trung thực

Hãy lắng nghe tiếng vọng từ đáy vực (Đoản thơ, 114)

Chúc thư Nguyễn Chí Thiện để lại là chúc thư ngôn ngữ và tư tưởng: Mặc kệ ngục tù, mặc kệ xác thân rữa nát, tư tưởng và ngôn ngữ vẫn sống, sống lâu, sống dài, sống mãi:

Song ngôn ngữ ngày đêm vẫn sống

Âm thầm đưa tư tưởng sang sông

Qua muôn trùng hệ thống xiềng gông

Đang ra sức dựng thay cầu cống

Thoát khỏi đầu là tư tưởng sống (Từ tư tưởng, 1971) 

Thụy Khuê
Paris tháng 6-8/2013


[1] DoỦy Ban Tranh Đấu Cho Tù Nhân Chính Trị Tại Việt Nam, nhóm Nguyễn Hữu Hiệu, Viên Linh in tại Washington DC, 1980.
[2] Do Phong trào thanh niên hành động, in ronéo tại Pháp, không đề năm.
[3] Mắt thuyền: chữ của Lưu Trọng Lư.

(RFI) 

Lê Ngọc Thống - Việt Nam mua gì đầu tiên khi Mỹ bỏ cấm vận?

(Bình luận quân sự) - Hiệp định 123 về hạt nhân dân sự Việt Nam-Hoa Kỳ được ký thì vấn đề dở bỏ lệnh cấm vận vũ khí sát thương cho Việt Nam là không thể khác.
Tuy nhiên, khi đó, Mỹ không thể cho không mà Việt Nam phải trả bằng USD. Vấn đề là, muốn, cần thì nhiều, nhưng có tiền để mua hay không mới quan trọng, đặc biệt mua loại vũ khí nào cho phòng thủ hữu hiệu mới là quyết định.

Có lẽ, có 2 thứ mà Việt Nam cần nhất mà có nó Việt Nam sẽ khiến Trung Quốc cực kỳ khó chịu và bi quan.

Vũ khí âm thanh chính hiệu Hoa Kỳ

Mùa thu 2005, ngoài khơi bờ biển Somalia, hải tặc trên các tàu cao tốc bao vây tàu chở khách viễn dương “Seabourn Spirit”. Bọn hải tặc hoàn toàn tin tưởng vào sự vượt trội của chúng và yêu cầu thủy thủ đoàn thả thang dây, song chỉ vài phút sau, chúng buộc phải vứt lựu đạn và súng để ôm lấy đôi tai đau đớn. Hải tặc đã bị Thiết bị phát âm thanh tầm xa (Long Range Acoustic Device – LRAD) của Mỹ nện cho một đòn  nhớ đời.

Trong thông cáo được phát đi vào ngày 16/12/2013, Bộ Ngoại giao Mỹ cho biết,  trong Biên bản chung về Hợp tác Hàng hải-Cảnh vệ Duyên hải giữa Việt Nam và Hoa Kỳ ký ngày 1/10/2013 giữa Thiếu tướng Cảnh sát Biển Việt Nam (VCG) Nguyễn Quang Đạm và Đô đốc Tư lệnh Cảnh vệ Duyên hải Hoa Kỳ (USCG) Robert J. Papp, để nâng cao năng lực của các đơn vị tuần tra biển nhằm triển khai nhanh các hoạt động tìm kiếm và cứu nạn, ứng phó thảm hoạ, và các hoạt động khác, bao gồm cả việc cung cấp 5 tàu tuần tra cao tốc vào năm 2014 cho lực luợng Cảnh sát Biển Việt Nam.
Vũ khí âm thanh LRAD 1000 Xi của tàu CSB Việt Nam 8001
Vũ khí âm thanh LRAD 1000 Xi của tàu CSB Việt Nam 8001
Viện trợ cho Việt Nam 5 con tàu tuần tra cao tốc cho lực lượng CSB Việt Nam này chắc chắn không thể thiếu LRAD chính hiệu.

Điều ngạc nhiên thú vị là không hiểu tại sao trên các tàu hiện đại của CSB Việt Nam đều trang bị LRAD của Mỹ, thiết bị có thể tạo ra âm hưởng tối đa 146 dB, cao hơn giới hạn gây đau đớn cho con người (120-130 dB) và gây thủng màng nhĩ.

Đây là vũ khí “phi sát thương” được dùng trên biển để chống hải tặc hữu hiệu nhất. Vì vậy, với Việt Nam, dùng để đối phó với “50.000 vũ khí công nghệ cao” của Trung Quốc trên Biển Đông khi chúng cậy đông, ồ ạt xông vào vùng EEZ đánh bắt trái phép là một sự răn đe khủng khiếp sắp tới.

Trong sự kiện giàn khoan Hải Dương 981, có lẽ CSB Việt Nam giấu bài, hoặc LRAD chỉ có ở tàu lớn như 8001, nhưng dẫu sao CSB đã có loại vũ khí này.

Như vậy, vũ khí đầu tiên mà Việt Nam cần ở Mỹ với số lượng nhiều là đây, với chất lượng chính hãng và phạm vi tác chiến lớn hơn. Tất nhiên, Việt Nam vẫn có thể mua vũ khí này từ Pháp, nhưng độ tin cậy không cao vì chưa qua “trận mạc” so với LRAD của Mỹ như đã từng (nêu ở trên).

Mua 6 chiếc P-3C4 Orion đời mới của Mỹ

Sự xuất hiện của P-3C4 trên Biển Đông sẽ đe dọa nghiêm trọng đến sự sống còn của lực lượng tàu ngầm của Trung Quốc còn hơn cả hạm đội tàu ngầm Việt Nam sắp triển khai. Rõ ràng, kế hoạch tác chiến của Hạm đội Nam Hải trên Biển Đông buộc phải hoàn toàn thay đổi.

Đây là điều Trung Quốc không bao giờ muốn, rất lo ngại, bởi lẽ, khi lực lượng tàu ngầm của Trung Quốc trên Biển Đông bị “phơi lưng” thì không những có lợi cho Việt Nam (đương nhiên) mà Mỹ vẫn được lợi khi không có lực lượng săn ngầm của Mỹ có điều kiện hoạt động tại đây.
Máy bay tuần tra trinh sát, tác chiến chống ngầm P-3C Orion mà sự xuất hiện của nó trên Biển Đông có thể tạo nên một sự thay đổi địa chính tri, địa quân sự khu vực.
Máy bay tuần tra trinh sát, tác chiến chống ngầm P-3C Orion mà sự xuất hiện của nó trên Biển Đông có thể tạo nên một sự thay đổi địa chính tri, địa quân sự khu vực
Trong khi đó, chống ngầm trong phòng thủ biển của Việt Nam cực kỳ quan trọng, mang tầm chiến lược. Phải xây dựng 4 lực lượng gồm: mìn, thủy lôi chống ngầm; tàu mặt nước săn ngầm; tàu ngầm chống ngầm và máy bay chống ngầm là then chốt.

Do vậy, không có gì là ngạc nhiên khi Việt Nam có ý định mua của Mỹ hay Nhật Bản loại máy bay này từ trước và nếu thành công thì chắc chắn đây là cuộc mua bán mà đôi bên cùng có lợi. Mỹ lợi nhiều hơn khi không những thu được tiền mà quan trọng hơn họ còn biết được thông tin về tàu ngầm Trung Quốc.

Hải quân Việt Nam có 6 chiếc tàu ngầm và cần có thêm 6 chiếc P-3C4 Orion đời mới do Mỹ sản xuất là bảo đảm có một “vùng biển sạch” cần thiết nếu muốn cho nhu cầu tác chiến khác trên Biển Đông.

Thế là đủ. Trong tay Việt Nam có thêm 2 loại này nữa thì chẳng khác nào Rồng lửa Việt Nam có móng vuốt của Nga và lửa của Mỹ.
Lê Ngọc Thống
(Đất Việt) 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét