Tổng số lượt xem trang

Thứ Năm, 27 tháng 11, 2014

Trung Quốc phản công, Mỹ sẵn sàng chưa?

Trung Quốc phản công, Mỹ sẵn sàng chưa?

Phía nam, chỉ xâm lấn Việt Nam, vì sao?
Hôm thứ ba Philippines bất chấp  lời kêu gọi của Trung Quốc, đã đưa ra toà xét xử 9 ngư dân Trung Quốc đánh bắt rùa biển trong hải phận tranh chấp, tuyên phạt mỗi người 102 ngàn đô la hoặc phải chịu 6 tháng tù.  Hình như Việt Nam chưa làm như vậy bao giờ, trong khi Trung Quốc vẫn bắt giữ tàu cá và ngư dân Việt Nam để đòi tiền chuộc. Lý do vì sao?
Có thể là vì giữa Việt Nam với Trung Quốc còn có mối quan hệ giữa hai đảng Cộng sản cầm quyền. Hai nước đã nỗ lực giải quyết vấn đề tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải dựa trên mối quan hệ đó hơn là trên căn bản mối quan hệ ngoại giao thông thường. Khi đã giải quyết một cách khác thường như vậy thì cũng có thể có những cam kết khác thường mà ngoài hai đảng Cộng sản ra không ai được biết.
fiery-cross-reef
Không ảnh chụp hoạt động tân tạo của Trung Quốc ở Đá Chữ Thập
Nhưng giả sử có sự cam kết như vậy thì vì sao phía Trung Quốc vẫn bắt giữ tàu cá và ngư dân Việt Nam để đòi tiền chuộc mà không cần một phán quyết tư pháp nào, và Việt Nam phải đóng tiền mới chuộc được dân của mình về?
Thực ra, không thể đoan chắc hai bên có cam kết điều gì và cam kết ra sao; nhưng hành động độc đoán như vậy của Trung Quốc mới cho thấy rõ bản chất hiếp bức nước nhỏ của một xứ chuyên hành xử theo kiểu bá quyền nước lớn. Và qua đó người ta cũng thấy cái thế khó xử của Việt Nam, ở vị thế một nước nhỏ yếu hơn nhiều mà lại nằm vào vị trí “môi hở răng lạnh”, luôn luôn hứng chịu mọi sự áp chế từ hằng ngàn năm nay.
Tuy nhiên, nhìn lại, Miến Điện cũng ở vào vị trí sát cạnh nước lớn Trung Quốc không khác gì Việt Nam, nhưng tại sao Bắc Kinh không hiếp bức được như đối với Việt Nam?
Vị trí địa lý và mối quan hệ giữa Miến Điện với Trung Quốc, so ra có những điểm khác biệt rất căn bản. Trước hết về yếu tố địa chính trị,
Miến Điện không nằm ở vị trí chắn đường thuỷ lộ và vùng biển phía nam của Trung Quốc.  Địa thế biên giới Miến-Hoa rất hiểm trở, không dễ tiến quân xâm chiếm. Miến Điện vốn là một vương quốc hùng mạnh, nhiều lần có chiến tranh với Thái Lan. Cho đến thế kỷ trước Trung Quốc cũng chưa phát triển được như ngày nay, nên mãi đến nay Trung Quốc mới nhắm vào Miến Điện vì cần đầu tư vào những đập thủy điện ở Miến, và muốn có những căn cứ nhìn ra Ấn Độ Dương.
Trong khi đó giữa Việt Nam với Trung Quốc, ngày nay thì mang nặng mối quan hệ giữa hai đảng Cộng sản, và từ xưa đã có những đặc tính văn hoá, xã hội, văn minh, chủng tộc gần gũi. Dân tộc Lạc Việt vốn thuộc giòng Bách Việt, là chủng tộc phát xuất từ chủng Nam Á từng chiếm hữu từ Indonesia đến  bờ nam sông Dương tử. Chủng Nam Á hình thành từ sự hoà nhập cách nay 5 ngàn năm giữa chủng Cổ Mã Lai và Đại chủng Á từ phía bắc sông Dương Tử tràn xuống. Vì thế dân tộc Việt và dân tộc Nam Trung Hoa có nguồn gốc chủng tộc rất gần gũi, cho nên  người Trung Hoa luôn luôn muốn thu phục chủng tộc Việt mà họ coi là cùng nguồn gốc với họ. Ngược lại, người Việt, vào những thời kỳ hưng thịnh và chiến thắng như trong triều đại ngắn ngủi của vua Quang Trung, nhà vua cũng từng ngỏ ý muốn chiếm lại lãnh thổ cổ xưa của Việt tộc từ Lưỡng Quảng rồi lấn dần tới bắc Hồ Nam, vì cổ sử của Việt Nam ghi rõ Động Đình Hồ trên sông Dương tử là nơi phát xuât truyền thuyết Lạc Long Quân.
Như vậy ta mới thấy mối quan hệ Việt Nam-Trung Quốc rất tế nhị và cũng rất phức tạp, vừa thân thiết như cùng huyết thống vừa hận thù nhau truyền kiếp, khiến Việt Nam luôn luôn phải chịu cái ách và phải giải cái ách bành trướng xâm lấn của Trung Quốc từ ngày lập nước Văn Lang cách nay mấy ngàn năm.

Không thể chung đường
Dù sao chăng nữa, đó cũng không phải lý do Trung Quốc đòi cưỡng chiếm cả biển Đông, và không phải chỉ biển Đông mà còn cả thị trường châu Á và xa hơn nữa, theo con đường tơ lụa thế kỷ 21 mà Bắc Kinh đang quảng bá.
Muốn thế, Trung Quốc phải tìm mọi cách không chế Nhật Bản và đẩy bật ảnh hưởng kinh tế và quân sự của Hoa Kỳ ra khỏi châu Á. Có phải nhân lúc Hoa Kỳ vướng bận ở Trung Đông và Ukraine, mà Chủ tịch Tập Cận Bình vừa khai mào cuộc phản công ở hai hội nghị thượng đỉnh APEC và G-20?  Trong khi Hoa Kỳ còn “mắc cạn” với Hiệp định TPP cho thị trường tự do châu Á Thái Bình Dương thì ông Tập Cận Bình tung ra đề nghị về FTAAP tạo thị trường tự do cho cả 21 quốc gia APEC. Sau đó ở Brisbane, Australia, hai nhà lãnh đạo Úc-Hoa hân hoan công bố hiệp ước thị trường tự do song phương, trong ý đồ rõ ràng của Bắc Kinh nhằm lôi kéo châu Đại dương ra khỏi mối quan hệ với Hoa Kỳ cùng liên minh quân sự Mỹ-Nhật-Úc-Ấn được cho là đang manh nha hình thành.
Tử những hành động của Trung Quốc, khung cảnh thế giới ngày nay tựa như tình hình thế giới hồi gần giữa thế kỷ 20  khi các thế lực quân sự kinh tế hùng mạnh đi đến chỗ đối đầu nhau, tranh giành thuộc địa, giành thị trường, nguồn nguyên liệu, khởi phát chiến tranh...
Nhưng vẫn còn mối hy vọng rằng ngày nay thế giới đã học được nhiều bài học lớn về chiến tranh trong thế kỷ 20, con người cũng lãnh hội được bài học về tinh thần thực tế, không đặt nặng lý tưởng về chủ nghĩa, hay quốc gia, chủng tộc, tôn giáo. Tinh thần thực tế là ý hướng theo đuổi cuộc sống hoà bình, thịnh vượng, hạnh phúc bằng mọi cách, mọi giá, không đặt nặng tự ái dân tộc, quốc gia, chỉ nhắm tới phúc lợi kinh tế và cuộc sống hưng vượng. Ngoại trừ những khu vực ở Trung Đông và Phi châu còn bị kích động và ép buộc bởi những kẻ hoạt đầu chính trị, tôn giáo cực đoan, còn hầu hết Âu Á Mỹ chỉ nhắm đến cạnh tranh kinh tế trong hoà bình như mục tiêu hàng đầu.
Tuy vậy, trở lại vấn đề biển Đông, người ta thấy có nhiều điều kém lạc quan vì chính sách bành trướng ngang nhiên của Trung Quốc.
Tuần qua Philippines đã hành động rất tế nhị và khôn khéo. Khi đưa ngư dân Trung Quốc ra tòa xử, Philippines đã giữ được thể diện quốc gia và cho Trung Quốc thấy rõ lập trường bảo vệ chủ quyền, đồng thời khi tuyên phán một bản án để có thể thả ngay các bị cáo, Manila vẫn tỏ ra chấp thuận và thi hành yêu cầu của Bắc Kinh đòi trả tự do vô điều kiện cho ngư dân của họ.
Tuy nhiên, nói đến cạnh tranh hoà bình, người ta thấy những hành động nhằm giải quyết hoà bình của Philippines và Việt Nam không hề ngăn được Trung Quốc trong sách lược vươn cánh tay dài ra tới Trường Sa, nằm trong chiến lược bành trướng xa hơn nữa để thực hiện con đường tơ lụa thế kỷ 21. Trung Quốc đang bồi đắp đá Chữ Thập mà họ chiếm của Việt Nam ở Trường Sa thành căn cứ có sân bay và hải cảng, cùng lúc cũng tân tạo nhiều cồn đá thành đảo lớn và những căn cứ kiên cố ở giữa Trường Sa, sau khi Đài Loan tái tạo đảo Ba Bình thành căn cứ quân sự có đường băng cho máy bay lên xuống.
Cùng lúc, tại Diễn đàn Hương Sơn ở Bắc Kinh, Trung Quốc cao giọng quảng bá cho cái gọi là cấu trúc an ninh mới dựa trên quan niệm "người châu Á lo việc an ninh cho châu Á".
Mùi khói súng?
Song song với màn khai pháo kinh tế thương mại ở thượng đỉnh APEC và G-20, có phải Bắc Kinh đang mở màn trận phản công chiến lược và quyết đẩy Hoa Kỳ ra khỏi châu Á?
Hoa Kỳ dường như đã dự phòng tình huống nay từ khi thực thi chiến lược chuyển trục sang châu Á. Nhưng Bộ trưởng quốc phòng Chuck Hagel lại vừa từ chức sau những trì trệ về an ninh quốc phòng ở Iraq, Afghanistan, giữa lúc Liên Bang Nga quyết tâm giành chiếm Crimea và đông Ukraine. Bộ trưởng Hagel là người thay mặt cho Hoa Kỳ khẳng định chính sách chuyển trục sang châu Á trong những lúc hành pháp Mỹ không rảnh tay để khẳng định lập trường ở những hội nghị liên quan đến an ninh quốc phòng châu Á. Sự ra đi của ông khiến dậy lên mối lo ngại Hoa Kỳ lơ là vói châu Á vì tình hình Trung Đông và Ukraine.
Tuy nhiên, xét lại, chính sách chuyển trục ấy đã được hình thành từ trước nhiệm kỳ của Tổng thống Obama, nhưng chỉ được chính thức công bố cách nay ba năm. Bộ trưởng Hagel từng thay mặt hành pháp Mỹ khẳng định chính sách chuyển trục, chính điều đó đã nói lên rằng Hoa Kỳ không lúc nào lơ là với châu Á.
Vậy phải chăng nay là lúc Hoa Kỳ điều chỉnh, củng cố chiến lược an ninh quốc phòng để hỗ trợ chính sách kinh tế thương mại nhằm giành thị trường ở châu Á, đối đầu với Trung Quốc, đồng thời củng cố phòng thủ châu Âu?
Mùi khói súng dường như phảng phất đâu đây. Trung Quốc phát triển hùng mạnh và nhanh chóng không khác Đức, Nhật thời xưa, gợi lại ký ức rất mới của loài người về những cuộc chiến tranh giành chiếm thuộc địa và thị trường từ cuối thập niên 1930.  Đức vươn nhanh như Phù Đổng chỉ trong hơn hai thập niên sau thể chiến thứ nhất, rồi khai chiến ở châu Âu, sau đó Nhật tung quân chiếm các thuộc địa của Anh-Pháp-Mỹ ở Đông Nam Á, các hạm đội hàng không mẫu hạm dưới bóng cờ Mặt Trời tung hoành khắp Thái Bình Dương... Cho đến năm 1945 thì khởi đầu cuộc chiến tranh lạnh, mà Việt Nam là một xứ sở nạn nhân, mãi đến 1975 mới tắt đi mồi lửa nồi da xáo thịt. Nhưng người Việt lại tiếp tục đổ máu vì Trung Quốc, do hậu quả của những sai lầm tồn tại từ thời chiến tranh lạnh, trong khi mối thương đau của dân tộc chưa hề có dấu hiệu ngưng lành.
(RFA)

Đưa quan hệ Việt – Mỹ bước vào kỷ nguyên mới

Năm 2015 sắp tới sẽ đánh dấu một cột mốc quan trọng trong tiến trình quan hệ Việt – Mỹ, đó là kỷ niệm 20 năm ngày bình thường hóa quan hệ song phương (11/7/1995). Trong suốt gần 20 năm qua, quan hệ giữa hai “cựu thù” đã đạt được những tiến triển nhanh chóng khiến nhiều nhà quan sát ngạc nhiên, và giờ hai bên đã là “đối tác toàn diện” của nhau. Tuy nhiên, quan hệ song phương nhìn chung vẫn còn mới ở giai đoạn sơ khởi, đã xây dựng được những nền tảng căn bản nhưng vẫn còn nhiều dư địa, tiềm năng chưa được khai phá. Trong năm 2015 cũng như những năm sau đó, hai nước cần phải cùng nhau tiếp tục nỗ lực để quan hệ song phương đạt được những phát triển thực chất và sâu sắc hơn.
8B47E884-D6E4-4CEC-BD24-7A9F5B0EBA62_mw1024_s_nTrước hết, về quan hệ chính trị, việc xây dựng lòng tin chiến lược giữa hai nước, đặc biệt là giới lãnh đạo và hoạch định chính sách cấp cao cần phải được tăng cường hơn nữa. Lòng tin giữa hai bên trong suốt những năm qua còn những rào cản chủ yếu xuất phát từ việc hai bên có thể chế chính trị, điều kiện phát triển kinh tế – xã hội và khung giá trị khác nhau. Tuy nhiên, những khác biệt này cần được hạ thấp, đồng thời những điểm đồng về lợi ích chiến lược cần phải được đề cao.
Thực tế, trong bối cảnh Trung Quốc trỗi dậy thách thức trật tự, hòa bình cũng như vị thế của Mỹ ở khu vực, nhiều người trong giới học giả cũng như hoạch định chính sách Mỹ đã lập luận rằng bản thân Mỹ cần đưa các lợi ích chiến lược trong quan hệ với Việt Nam lên trên các cân nhắc khác. Đương nhiên, chính giới Mỹ, đặc biệt là các nghị sĩ trong quốc hội, sẽ không từ bỏ việc gây áp lực đối với Việt Nam về các vấn đề như dân chủ – nhân quyền. Nhưng chúng ta cần hiểu rằng đây phần lớn là do áp lực từ các cử tri đã bầu họ lên. Vì vậy chừng nào nền chính trị Mỹ còn tiếp tục vận hành theo các nguyên tắc  và thể chế như hiện nay, các áp lực như vậy, đặc biệt là từ Quốc hội Mỹ, sẽ còn tiếp tục tồn tại. Tuy nhiên, về phía chính quyền hành pháp cũng như một bộ phận các nghị sĩ, những người có xu hướng thực dụng hơn, họ đề cao ý nghĩa chiến lược trong quan hệ với Việt Nam, và những tiến triển gần đây trong quan hệ song phương một phần lớn bắt nguồn từ thực tế này.
Về phía mình, Việt Nam cũng đã đáp lại bằng những hành động tích cực, tiêu biểu như việc sửa đổi Hiến pháp hay có những cải thiện về tình hình dân chủ – nhân quyền phù hợp với các khuyến nghị của cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, đây sẽ là một tiến trình lâu dài, tiệm tiến. Điều quan trọng là Việt Nam đã có thiện chí và đạt được các tiến triển nhất định. Bản thân người Việt Nam ở trong cũng như ngoài nước nên cùng chia sẻ nhận thức rằng trước các mối đe dọa ngày càng gia tăng trên Biển Đông, chúng ta cần có sự đoàn kết và đồng thuận vì các lợi ích tối thượng của quốc gia.
Trong bối cảnh đó, trong năm 2015, hai nước Việt – Mỹ cần tăng cường các cuộc đối thoại, tiếp xúc, can dự lẫn nhau tại tất cả các cấp độ và các kênh quan hệ, bao gồm không chỉ kênh chính quyền mà còn cả kênh đảng. Theo đó, một chuyến thăm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tới Mỹ và một chuyến thăm của Tổng thống Obama tới Việt Nam trong năm 2015 sẽ không chỉ là những sự kiện mang tính biểu tượng đánh dấu 20 năm bình thường hóa quan hệ, mà còn là một bước đi mang lại sự hiểu biết và niềm tin chiến lược cao hơn giữa hai nước. Ngoài ra, có thể vẫn còn hơi sớm để nâng cấp quan hệ song phương lên mức “đối tác chiến lược” ngay trong năm 2015, nhưng hai bên hoàn toàn có thể tính tới điều này trong năm 2018 khi hai bên kỷ niệm 5 năm ngày thiết lập quan hệ đối tác toàn diện.
Thứ hai, về kinh tế, hai nước đã đạt được những tiến triển mạnh mẽ trong suốt 20 năm qua, và hiện Mỹ là đối tác thương mại hàng đầu, là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Trong năm tới, nếu hai nước cùng các quốc gia liên quan có thể hoàn tất được Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) thì đây sẽ là một sự kiện ý nghĩa góp phần đánh dấu 20 năm quan hệ. Sau khi Đảng Cộng hòa nắm quyền kiểm soát lưỡng viện quốc hội trong cuộc bầu cử giữa kỳ vừa qua, nhiều khả năng Mỹ sẽ thúc đẩy đàm phán TPP vì theo truyền thống Đảng Cộng hòa có xu hướng ủng hộ giới doanh nghiệp cũng như tự do thương mại. Ngoài ra, do TPP không chỉ mang ý nghĩa kinh tế mà còn mang tính chiến lược, nên bản thân Mỹ cũng như các đồng minh, đặc biệt là Nhật, sẽ có thể sớm giải quyết được các bất đồng để kết thúc đàm phán, ít nhất là trước khi nhiệm kỳ của Tổng thống Obama kết thúc.
Thứ ba, về quốc phòng – chiến lược, hai bên cần có những bước đi mạnh mẽ và thực chất hơn nữa để cụ thể hóa mối quan hệ “đối tác toàn diện” giữa hai nước. Hai bên cần tăng cường các trao đổi và hợp tác, như tiếp xúc cấp cao giữa giới hoạch định chính sách chiến lược, trao đổi thông tin tình báo, các cuộc diễn tập hải quân, cứu hộ cứu nạn và hỗ trợ nhân đạo song phương và đa phương… Việt Nam có thể cho phép Mỹ có quyền tiếp cận lớn hơn đối với các cơ sở dịch vụ hậu cần hải quân, nhất là cảng Cam Ranh. Trong khi đó, Mỹ nên cân nhắc việc dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vũ khí sát thương đối với Việt Nam. Ngoài ra, Mỹ cũng nên tiếp tục hỗ trợ Việt Nam nâng cao năng lực giám sát hàng hải. Tuyên bố của Mỹ về cung cấp cho Việt Nam 18 triệu đô-la để nâng cao năng lực hàng hải cần sớm được thực hiện.
Hiện tại có thể còn quá sớm để nói về một mối quan hệ liên minh chiến lược toàn diện giữa hai nước, nhưng hai bên có thể tách biệt các điểm đồng về lợi ích chiến lược khỏi các khác biệt khác để hình thành nên một liên minh bán chính thức trong lĩnh vực hàng hải, có thể cùng với các quốc gia đối tác và bạn bè khác có cùng nhận thức về lợi ích và các mối đe dọa tại Biển Đông, như Nhật Bản, Philippines, Ấn Độ và Australia. Việc thực hiện các bước đi đã nêu trên sẽ góp phần hiện thực hóa khả năng này. Ngoài ra, do nội bộ chính giới Mỹ đã đạt được đồng thuận về chiến lược “tái cân bằng” nên nếu Việt Nam và Mỹ cùng quyết tâm thì điều này hoàn toàn khả thi, bất chấp ứng cử viên của đảng nào sẽ lên cầm quyền trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ vào năm 2016 sắp tới.
Thứ tư, về ngoại giao, hai bên cần tiếp tục hỗ trợ nhau trực tiếp cũng như gián tiếp, đặc biệt là qua các kênh đa phương cũng như trên mặt trận công luận toàn cầu. Trong cuộc khủng hoảng giàn khoan Hải Dương 981 vừa qua, việc Mỹ là quốc gia ủng hộ Việt Nam mạnh mẽ và hiệu quả nhất về ngoại giao đã không những góp phần gây sức ép lên Trung Quốc mà còn tạo nên một sự thiện cảm rất lớn đối với nước Mỹ trong lòng công chúng Việt Nam, điều sẽ có lợi cho tương lai quan hệ song phương. Những sự hợp tác và hỗ trợ như vậy cần được tiếp tục trong thời gian tới. Chúng ta có thể không biết chắc chắn được Trung Quốc sẽ hành xử như thế nào trên Biển Đông trong tương lai, nhưng dù điều gì xảy ra, việc Mỹ và các nước bạn bè hỗ trợ Việt Nam về ngoại giao cũng như các mặt khác đều sẽ là thiết yếu để Việt Nam có thể đối phó tốt hơn với sự hung hăng ngày càng tăng của Trung Quốc, một xu hướng chắc chắn sẽ còn tiếp diễn trong tương lai.
Cuối cùng, các giao lưu, tiếp xúc giữa người dân hai nước, nhất là thế hệ trẻ, cần được thúc đẩy để tạo nên sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau cao hơn, bởi thế hệ trẻ chính là những người sẽ dẫn dắt quan hệ giữa hai nước trong tương lai. Các chương trình trao đổi học giả, sinh viên, văn nghệ sĩ… có thể là những ưu tiên cần thực hiện.
Ngoài ra, đề nghị của Mỹ để Đội Hòa bình (Peace Corps) – một tổ chức tình nguyện chuyên về các hoạt động giáo dục và ngoại giao nhân dân – vào hoạt động tại Việt Nam nên được xem xét tích cực. Các cơ quan chức năng Việt Nam với bề dày kinh nghiệm của mình hoàn toàn có thể giúp đảm bảo hoạt động của Đội Hòa Bình vừa tuân thủ đúng pháp luật, vừa đáp ứng được mục tiêu thể hiện thiện chí của chính phủ Việt Nam, đồng thời giúp nâng cao sự hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân hai nước. Bản thân các tình nguyện viên sau khi về Mỹ cũng có tiềm năng trở thành những người hoạt động tích cực giúp thúc đẩy quan hệ song phương như trường hợp của các cựu binh Mỹ ở Việt Nam, trong đó tiêu biểu là Thượng Nghị sĩ John McCain.
Tóm lại, quan hệ Việt Mỹ đã phát triển mạnh mẽ trong gần 2 thập niên qua. Nhưng nếu hình dung quan hệ song phương như một thiếu nữ thì với gần 20 năm, cô gái đó mới chỉ bước qua giai đoạn vị thành niên, và những năm tháng sung sức, tươi đẹp nhưng mặn mà, chín chắn nhất đang ở phía trước. Tương tự như vậy, đã đến lúc Việt Nam và Mỹ cùng hợp tác để đưa quan hệ song phương bước vào một kỷ nguyên mới vững vàng và sâu sắc hơn, phục vụ những lợi ích chiến lược lâu dài của hai nước. Dịp kỷ niệm 20 năm bình thường hóa quan hệ vào năm tới sẽ là một cơ hội phù hợp để khởi động một tiến trình như vậy.
Lê Hồng Hiệp
Lê Hồng Hiệp là giảng viên tại Khoa Quan hệ Quốc tế, trường Đại học KHXH&NV TPHCM, và là người sáng lập trang Nghiencuuquocte.net chuyên biên dịch và phát triển học liệu chuyên ngành nghiên cứu quốc tế tại Việt Nam.
(Nghiên Cứu Quốc Tế)

Đông La - Cần tặng huân chương cho ông Trần Văn Truyền

Hồi đầu tháng 7/2014, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói với cử tri Hà Nội rằng tham nhũng chính là “giặc nội xâm” của đất nước, liên quan đến người có chức có quyền, đến lợi ích nhóm. Ông cũng từng nói số người tham nhũng đã thành một bộ phận không nhỏ, phân hóa trong đảng thành lớp giầu lớp nghèo, đưa đất nước đến nguy cơ tồn vong. Với Chủ tịch Trương Tấn Sang thì nói bọn tham nhũng như một bầy sâu.
Như vậy đã coi là giặc thì tham nhũng trở thành vấn đề xấu xa nguy hiểm nhất cho đất nước. Nhưng theo Tổng Bí thư NPT, nạn tham nhũng đã tồn tại và ăn sâu trong guồng máy nên không thể giải quyết dễ dàng. Chủ tịch nước TTS cũng nói đụng đâu vướng đó và không biết “bộ phận không nhỏ ở đâu”.
Như vậy toàn bộ hệ thống phòng chống tham nhũng của ta là có vấn đề. Từ những biện pháp ngăn chặn từ đầu đến việc giám sát, thanh tra việc tham nhũng quá kém. Nhớ lại vụ Vinashin, Bộ Chính trị đã kết luận từ năm 2006 - 2009 tuy đã qua 11 lần thanh tra nhưng vẫn không phát hiện được khuyết điểm nghiêm trọng của Tập đoàn. Khi bà Lê Thị Nga, Phó chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp, chất vấn về trách nhiệm để ông Dương Chí Dũng chuyển công tác trong khi đang tranh tra, ông Huỳnh Phong Tranh, Tổng Thanh tra, trả lời là chưa phát hiện sai thì cứ chuyển, đã làm bà Nga thở dài: “Như vậy thanh tra cứ thanh tra, bổ nhiệm cứ bổ nhiệm, điều tra cứ điều tra và cuối cùng là ông Dũng trốn thoát”!
Nhớ lại chuyện Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng mới lên làm thủ tướng đã đối thoại trực tuyến với người dân, về quốc nạn tham nhũng, với câu hỏi “Thưa Thủ tướng, Thủ tướng sẽ thể hiện quan điểm Sắt và Sạch như thế nào trong việc chống tham nhũng?”, ông đã trả lời:
“… theo tôi, người lãnh đạo muốn chống được tham nhũng thì phải có được mấy điều kiện: Thứ nhất là, phải có quyết tâm chống tham nhũng… phải dám chống tham nhũng dù bất cứ kẻ tham nhũng là ai, ở vị trí nào, không sợ phức tạp, không sợ bị trù úm, trả thù, mất ghế… Thứ hai, bản thân anh phải không tham nhũng, không dính đến tham nhũng, không bao che tham nhũng mới kiên quyết được… Đương nhiên, tham nhũng là có tội, nhưng không dám chống tham nhũng hay chống tham nhũng mà không đúng luật pháp cũng là có tội”.
Tôi đã viết những vị tiền nhiệm của ông thủ tướng cũng quyết tâm không kém, nhưng tại sao tham nhũng vẫn mãi là quốc nạn. Như vậy, không thể chống tham nhũng chỉ bằng tinh thần và tình cảm mà phải bằng biện pháp được thể chế hóa. Không hiểu sao cái công cụ hữu dụng nhất là minh bạch hóa mà các nước tiên tiến đã sử dụng như: công khai tài sản, công khai thu nhập, công khai chi tiêu thông qua thẻ tín dụng, nhưng chúng ta không làm triệt để mà chỉ tiến hành nửa vời hình thức. Chúng ta có đầy đủ lực lượng thực thi pháp luật lại còn được đặt dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng. Có điều sự lãnh đạo toàn diện này không khéo lại tạo điều kiện cho sự liên minh liên kết thành những “vương quốc” riêng để toàn quyền móc ngoặc tham ô, tham nhũng.
Với vụ nhà đất của ông Trần Văn Truyền, cựu Tổng Thanh tra CP, theo ông Huỳnh Phong Tranh, đương kim Tổng Thanh tra CP, ông Truyền mới chỉ có dấu hiệu vi phạm về tài sản, về chế độ chính sách của Nhà nước thôi.  Mới có “dấu hiệu” vi phạm mà đã “ăn” tới 6 căn nhà, có căn trị giá cả chục tỷ đồng nếu vi phạm thật thì sẽ thế nào? Theo Điều 278 Bộ luật Hình sự, Tội tham ô tài sản: Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên thì bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.
Theo từ hán Việt, chữ tham (貪) chỉ sự tham lam, ăn của đút; chữ ô (汙) chỉ sự ô uế, dơ bẩn; không liêm khiết, có hành vi bất chính, gian tà.
Vậy việc ông Truyền lợi dụng quyền chức, gian dối, xin nhà vượt quá rất nhiều lần tiêu chuẩn của mình thì không phải tham ô, tham nhũng thì là cái gì?
Có điều chống tham ô tham nhũng là việc quá khó khăn như trên, việc ông Truyền bị phát hiện lại chính là do ông tiền nhiều quá không thụ hưởng không chịu được nên gia đình ông mới làm cái nhà to tổ bố đến Vua Bảo Đại sống dậy cũng phải chết khiếp. Như vậy công đầu trong việc phát hiện ông tham nhũng lại chính là ông. 
Vì vậy để công bằng cần tặng huân chương  chiến công cho ông bên cạnh việc thực thi pháp luật nghiêm minh, thu hồi hết tài sản bất chính của ông.
     
 28-11-2014
         Đông La
(Blog Đông La)

Các nghị sĩ Canada: Thay đổi chế độ ở Trung Quốc sẽ đến sớm

Từ khi “Chín bài bình luận về Đảng Cộng Sản Trung Quốc” (còn gọi là “Cửu Bình”) công bố đã tạo nên làn sóng những người dân Trung Quốc người thoái Đảng. Hiện có hơn 184 triệu người Trung Quốc thoái Đảng. (Ảnh: Dai Bing/Epoch Times)
Một số nghị sỹ Canada tin rằng, thay đổi chế độ tại Trung Quốc sẽ đến sớm khi nhiều người dân Đại lục thoái Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ).
Tính đến hiện nay đã có hơn 184 triệu người từ bỏ tất cả các mối liên hệ với Đảng Cộng Sản và các tổ chức liên đới của nó kể từ năm 2004, như một phần cốt lõi của phong trào “Thoái Đảng”.
“Trong tương lai gần, người Trung Quốc sẽ có một chính phủ mới, một chính phủ dân chủ, tôn trọng luật pháp và nhân quyền”, dự đoán của Thượng nghị sĩ Ngô Thanh Hải, người đã chạy trốn khỏi Việt Nam sau khi cộng sản chiếm miền Nam từ năm 1975.
“Bây giờ đã có hơn 100 triệu người thoái ĐCSTQ, chế độ cộng sản sẽ phải ra đi và Trung Quốc sẽ thay đổi”, ông nhận định.
Phong trào thoái Đảng được bắt đầu cách đây đúng 10 năm khi Đại Kỷ Nguyên phiên bản tiếng Hoa ngữ đã xuất bản cuốn “Chín bài bình luận về Đảng Cộng Sản Trung Quốc”. (xem bản tiếng Việt tại đây)
Cuốn sách nêu bật những tội ác dưới chế độ cộng sản và giải thích tại sao văn hóa truyền thống Trung Hoa bị thay đổi khi Cộng sản lên cai trị đất nước vào năm 1949.
“Tôi rất lạc quan về sự thay đổi lớn sắp xảy ra ở Trung Quốc. Nó sẽ đến sớm hơn so với mọi người mong đợi”, theo dự đoán của một thành viên Nghị viện, ông Wladyslaw Lizon từ thành phố Mississauga.
Ông Lizon đến từ Ba Lan. Ông cho biết, khi ông lớn lên, hầu hết không còn ai tin vào độc tài Cộng sản, nó sẽ kết thúc. Sau đó, vào năm 1989, chế độ ấy đã sụp đổ ở Ba Lan. Các nước ở Trung và Đông Âu, cũng như Nga, bắt đầu chuyển đổi chủ nghĩa Cộng sản cũng vào khoảng thời gian đó.
“Thông qua chuyển đổi hòa bình, thay đổi lớn không chỉ xảy ra đối với cuộc đời chúng tôi, nó đã được 25 năm rồi”, ông Lizon chia sẻ.
Ông Rob Anders, thành viên nghị viện từ Calgary, trích dẫn nghiên cứu của ông Erica Chenoweth, phó giáo sư Trường Nghiên cứu Quốc tế Josel Korbel thuộc Đại học Denver: Khi có khoảng 3,5% hoặc nhiều hơn người dân tham gia phản kháng ôn hòa, nó thường gây ra sự thay đổi về chính trị.
“Đó là tương lai của Trung Quốc. Khi có sự thay đổi trọng tâm của lãnh đạo Trung Quốc hiện tại, ở đó sẽ có chuyển đổi hòa bình từ chế độ Cộng sản sang chế độ khác”, ông Anders nói.
Vài năm trở lại đây, ông Anders tham dự một hội nghị về nhân quyền ở Hồng Kông, và ông đã nói với mọi người tại đó hãy xé bỏ thẻ Đảng viên và lên án ĐCSTQ.
“Đó là thời khắc đáng tự hào nhất của tôi”, ông Anders chia sẻ.
Ông Anders tin rằng, các nước Phương Tây sẽ có vai trò hỗ trợ trong vấn đề này. Có thể bắt đầu bằng việc gọi thẳng tên của Đảng Cộng Sản, như cách Tổng thống Mỹ là Ronald Reagan gọi Liên Xô cũ là “đế quốc ma quỷ”.
“Chế độ Cộng sản Trung Quốc đã bắt giam, tra tấn, giết hại nhiều người hơn bất kỳ chế độ nào khác trên thế giới cộng lại. Điều quan trọng là chúng ta không nhắm mắt làm ngơ”, ông nhận định.
  Limin Zhou
(Đại Kỷ Nguyên)
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét