Tổng số lượt xem trang

Thứ Tư, 20 tháng 8, 2014

Chúng ta lựa chọn gì cho tổ quốc?

Nguyễn Trung - Chúng ta lựa chọn gì cho tổ quốc?

Lời nói đầu
          “Nước Việt Nam là của người Việt Nam!”
          Đấy là khẩu hiệu quyết định nhất làm nên Cách mạng Tháng Tám 1945.
Người viết bài này mong khái nhiệm “chúng ta” ở đây được hiểu với nghĩa như vậy.
Đất nước 40 năm độc lập thống nhất rồi, tôi thấy rất đau lòng hôm nay vẫn phải mở đầu bài viết của mình với đôi lời định nghĩa như vậy về khái niệm “chúng ta”. Đơn giản vì đã 69 năm trôi qua, thế nhưng hôm nay vẫn còn không ít những rạn nứt chia rẽ cộng đồng dân tộc Việt Nam ta, đang làm mờ đi hay làm thiếu vắng khái niệm “chúng ta” khi bàn đến đại sự của đất nước. 
Sự thể là qua các bài viết của mình, tôi vấp phải không ít phản ứng gay gắt từ phía người đọc: “Chúng ta” là ai trong toàn thể cộng đồng dân tộc đất nước này?  Là người cai trị hay người bị cai trị? Là người nắm quyền hay là dân đen? Là ông chủ hay người đi làm thuê? Là đảng viên (ĐCSVN) hay không phải đảng viên? Là người chiến thắng hay kẻ lưu vong? Là bên thắng cuộc (Huy Đức) hay kẻ phải đi cải tạo?.. Câu chuyện còn đau lòng hơn nữa khi có người đọc nổi đoá với tôi: Khái niệm đảng ta là đảng của ai? Đấy là đảng của các ông chứ đâu phải là đảng của chúng tôi! Đến nông nỗi này mà ông vẫn còn "ngu trung" đặt vấn đề đảng viên muốn cứu nước thì phải cứu đảng trước!.. Ngôn ngữ làm nát lòng người này khiến tôi nhớ lại những ngày tháng lặn lội đi sửa sai cải cách ruộng đất tại các xã ở Trực Ninh – Nam Định cách đây hơn nửa thế kỷ…
Vâng, đã 69 năm gian truân rồi kể từ Cách mạng Tháng Tám, nhưng hình như khái niệm “chúng ta” vẫn chưa tìm được chỗ đứng phải có trong ngôn ngữ chính trị bàn về vận mệnh đất nước, nhất là hôm nay! Tại sao đất nước chúng ta cứ bị chia vụn mãi ra như vậy hả trời!?..
Song đất nước không phải là của riêng một ai. Những thách thức hôm nay đang đặt ra cho số phận đất nước cũng không đặt ra cho riêng một ai. Vì thế xin cho phép tôi trong bài này được dùng khái niệm “chúng ta” với hàm nghĩa phải có của ngôn ngữ cuộc thảo luận này: “Chúng ta” ở đây là những người chủ của đất nước, không phân biệt một ai.  
Người viết cũng xin phép áp đặt sự không phân biệt như thế để kêu gọi mỗi người Việt chúng ta cùng suy nghĩ và cùng lựa chọn cho đất nước con đường phải đi và những việc phải làm. Vì đất nước này là của mỗi chúng ta! Tìm ra sự đồng thuận cao nhất để thực hiện sự không phân biệt này.
I.   Sự lựa chọn của địa lý
Trước khi bàn đến chủ đề “chúng ta lựa chọn gì cho tổ quốc?”, xin lưu ý các điều kiện địa lý của nước ta trong bối cảnh địa chính trị và địa kinh tế hôm nay của thế giới và của khu vực tự nó đã định ra những hướng đi tất yếu và khách quan đất nước phải lựa chọn, trong khi đó chúng ta bây giờ mới bắt đầu bàn đến lựa chọn gì. Từ cổ chí kim luôn là như vậy, bất chấp khả năng nhận thức của chúng ta. Cho nên câu chuyện còn lại của chúng ta hôm nay thật ra chỉ là: chấp nhận sự lựa chọn nào, thuận hay nghịch với tất yếu khách quan của sự vật... 
Trong bài 2 “Hiểm hoạ đen”, phần I “Thế giới đã sang trang”[1], tôi đã trình bầy khái quát cục diện thế giới đa cực hôm nay với nhiều biến động sâu sắc khó lường, nhạy cảm với mọi quốc gia; nhiều khu vực trên thế giới mất ổn định hơn trước hoặc đang có chiến tranh ác liệt (Trung Đông, thánh chiến ISIS, Ukraina, dịch bệnh ebola…)… Trong đó, những vấn đề nổi bật liên quan đến Việt Nam là:
        ·   quan hệ và mâu thuẫn Mỹ - Trung trở thành yếu tố chi phối thế giới trong thế kỷ 21,
        ·   Châu Á – Thái Bình Dương trở thành trận địa chính của những mối quan hệ song phương Mỹ - Trung,
        ·   siêu cường Trung Quốc đang lên với sức mạnh áp đảo tại chỗ trực tiếp uy hiếp nghiêm trọng Việt Nam, đồng thời trở thành vấn đề của khu vực Đông Nam Á và cả thế giới.
Trong phần I này tôi đặc biệt lưu ý Trung Quốc đang khai thác cục diện quốc tế mới rất phức tạp, nhằm dấn thêm những bước đi mới trên con đường trở thành siêu cường, đấy là: (a) đối nội nhấn mạnh nước giầu quân mạnh để thực hiện giấc mơ Trung Hoa, (b) đối ngoại một mặt xây dựng liên kết Trung – Nga, mặt khác đưa chiến lược bá chiếm Biển Đông bước vào giai đoạn mới, trong đó Việt Nam được coi là đột phá khẩu cần khuất phục. 
Tính chất quyết liệt của vấn đề là ở chỗ siêu cường đang lên Trung Quốc bắt đầu đi vào thời kỳ đẩy mạnh bành trướng ảnh hưởng quyền lực để tự khẳng định chính nó, bên trong lấy chủ nghĩa dân tộc (Đại Hán) nuôi dưỡng giấc mộng Trung Hoa làm động lực[2], đối với bên ngoài thì khẳng định chủ quyền theo đường lưỡi bò 9 vạch và lợi ích cốt lõi không thể nhân nhượng của Trung Quốc ở Biển Đông (tuyên bố của bộ trưởng quốc phòng Thường Vạn Toàn tại Shangri La, Singapore 30-05-2014, điện đàm Tập Cận Bình – Obama 15-07-2014). 
Tuy nhiên việc giàn khoan HD 981 phải di dời đi chỗ khác sớm hơn 30 ngày so với dự kiến do cho thấy Trung Quốc không phải muốn làm gì cũng được. Nguyên nhân thất bại này là   vấp phải sự phản đối kiên quyết của Việt Nam và sự lên án hầu như của cả thế giới. 
Trong giai đoạn mới hiện nay lúc tiến lúc thoái, “…song trọng tâm lấn tới của Trung Quốc bây giờ nhằm vào vùng biển đảo của Việt Nam. Về lâu dài Trung Quốc sẽ dùng các thủ đoạn và mọi hình thức can thiệp mềm hoặc rắn, quyết biến Việt Nam thành chư hầu, coi đây là một khâu chiến lược quyết định nhằm khống chế khu vực Đông Nam Á và ngoi lên siêu cường tranh giành ảnh hưởng với Mỹ…” – như tôi đã trình bầy trong thư ngày 24-07-2014 gửi các thành viên chủ chốt Bộ Chính trị. 
Cục diện quốc tế và khu vực nêu trên khách quan đặt ra cho Việt Nam 3 kịch bản để lựa chọn, không ý thức hệ hay chủ nghĩa nào có thể xoay chuyển được, đó là:
Kịch bản 1: Chịu khuất phục làm chư hầu để Trung Quốc sử dụng làm bàn đạp bành trướng trong khu vực Đông Nam Á.
Kịch bản 2: Làm lá chắn hay khu đệm trung lập giữa một bên là Trung Quốc và một bên là các nước Đông Nam Á.
Kịch bản 3: Tự vươn lên giữ vững độc lập chủ quyền trong mọi biến động của khu vực và thế giới, cùng đi với cả thế giới để trở thành một đối tác dấn thân cho lợi ích của hoà bình và hợp tác mà Trung Quốc và cả thế giới đều chấp nhận.
Cũng có thể có một kịch bản thứ tư nữa là đi hẳn với một bên chống một bên. Song  đấy sẽ chỉ là một dạng khác của kịch bản 1 mà thôi, ta sẽ không thoát được thân phận chư hầu và làm lính đánh thuê không cho bên này thì cho bên kia, đất nước sẽ trở thành trận địa tranh chấp của các bên. Vì lẽ này không bàn đến kịch bản thứ tư.  
Xin lưu ý: Liên minh Việt – Mỹ để chống Trung Quốc là chuyện không thể, vì Mỹ không lựa chọn đối đầu với Trung Quốc ngoại trừ hoàn cảnh bất khả kháng, phía ta cũng không lựa chọn chống Trung Quốc trừ phi bị Trung Quốc xâm lược. Vả lại Việt Nam như hiện tại không có đủ những giá trị chung với Mỹ để tạo ra một liên minh với nghĩa là đồng minh (như Nhật, Hàn Quốc, Philippines…). 
Nhưng liên minh Việt – Mỹ để tăng cường khả năng bảo vệ đất nước là đòi hỏi sống còn, song liên minh này chỉ trở thành hiện thực một khi Việt Nam lựa chọn sự phát triển của mình phù hợp với lợi ích chung của Mỹ cũng như của cộng đồng khu vực và thế giới. 
Nói cụ thể: Về danh nghĩa chính thức, Mỹ đã trở thành đối tác toàn diện của Việt Nam, nhưng nội dung còn chưa qua thời kỳ sơ khởi và chưa thể có thực chất, vì các lẽ: 
(a) Còn chế độ toàn trị như hiện nay thì không thể tạo ra một liên minh với Mỹ, vì Mỹ không thể tin cậy ta, và nội bộ Mỹ cũng không chấp nhận; hơn nữa cũng không thể ảo tưởng chờ đợi Mỹ sẽ bỏ công sức để bảo vệ chế độ toàn trị ở Việt Nam.
(b) Một Việt Nam của chế độ toàn trị như hiện nay tất yếu có những yếu kém đối nội mang tính chất quyết định, vì thế phía Việt Nam không thể nào đoạn tuyệt được với chính sách đối ngoại “leo dây”. Chính vì lý do này Mỹ chỉ có thể có mối quan hệ với phía Việt Nam ở mức chiến thuật, chứ không thể ở mức liên minh chiến lược.
(c)  Hơn nữa  tự thân phía Việt Nam vì bản chất toàn trị của chế độ cũng không dám tạo ra một liên minh như thế để bảo vệ tổ quốc, vì nỗi lo mất chế độ[3]. Giữ chế độ toàn trị như hiện nay, không có đủ điều kiện đối nội và đối ngoại tạo ra một liên minh đúng đắn với Mỹ mà lợi ích quốc gia đang đòi hỏi.
(d) Mỹ hiện nay chủ động để mở cánh cửa cho hình thành một liên minh Việt – Mỹ với mục đích củng cố hoà bình và hợp tác trong khu vực, đồng thời kiềm chế những bước đi bá quyền của Trung Quốc. Hiện nay Mỹ đang nỗ lực khuyến khích hình thành một liên minh có thể với Việt Nam với điều kiện Việt Nam phải tự thay đổi. Quan điểm này nằm trong chiến lược trục xoay Châu Á – Thái Bình Dương và khách quan phù hợp với lợi ích quốc gia của Việt Nam.
        Một đặc điểm vô cùng quan trọng trong cục diện quốc tế thời đại chúng ta đang sống là Mỹ, cộng đồng đa số các nước trên thế giới và Việt Nam cùng nhau chia sẻ nhiều lợi ích chung hơn bao giờ hết so với mọi thời đại trước đây. Trong xu thế mới này, riêng Việt Nam và Mỹ lần đầu tiên khách quan - do địa kinh tế và địa chính trị quyết định - cùng nhau chia sẻ nhiều lợi ích chiến lược chưa từng có. Nói riêng về Việt Nam: Lần đầu tiên trong lịch sử của mình Việt Nam có cơ hội với tính cách là một quốc gia độc lập có thể mở cửa cùng đi với cả thế giới để phát triển chính mình và để trở thành một thành viên có ý thức trách nhiệm chung trong cộng đồng quốc tế, và đây là con đường duy nhất để nước ta với tính cách là một quốc gia độc lập thực hiện được chung sống hoà bình và hữu nghị hợp tác bên cạnh Trung Quốc.
 Tôi muốn quỳ xuống nói với từng người Việt Nam, hoặc muốn đứng thẳng quát to vào mặt từng người: Bỏ lỡ cơ hội này sẽ đời đời mang tội với tổ quốc! 
Cuối thập kỷ 1980s khi các nước Liên Xô Đông Âu cũ sụp đổ, Việt Nam đã một lần có một cơ hội tương tự như thế nhưng đã bị bỏ lỡ. Song cơ hội hồi cuối thập kỷ 1980s không lớn và không thật hoàn toàn rõ ràng, và đồng thời cũng không thôi thúc bức thiết “sống hay chết!?” như cơ hội hôm nay. 
Lợi ích quốc gia Việt Nam trong cục diện quốc tế mới hiện nay đòi hỏi phải sớm tiến hành triệt để cải cách chính trị để có những điều kiện tiên quyết từ đối nội cho phép (1) phát huy nội lực của một quốc gia độc lập tự chủ, (2) tiến tới tạo ra được một liên minh với Mỹ với nội dung và tinh thần nêu trên. Đòi hỏi này ngày nay trở thành một trong những điều kiện tiên quyết của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc và đưa nước ta vào một thời kỳ phát triển mới. Xin đừng bao giờ quên: Không có một đất nước tự do của con người tự do để có được nội lực và bản lĩnh phải có, Việt Nam chỉ có thể là một đối tác què quặt, ăn xin, và vì thế không thể liên minh với bất kỳ ai dù ta muốn, kể cả với Mỹ.
-      Tìm kiếm liên minh với Mỹ là hút đối kháng của Trung Quốc vào Việt Nam! Có nên không?
-      Trung Quốc đã không dưới một lần “đối kháng” với Việt Nam ngay từ lúc Việt Nam còn đang chống Mỹ. Vậy lý do này không xác đáng. Sự kiện giàn khoan HD 981 chắc sẽ có diễn tiến khác nếu không có thái độ quyết liệt của Mỹ.
-      Nhưng Mỹ đã bỏ rơi Cộng Hoà Việt Nam, làm ngơ lúc Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa. Như vậy làm sao mà liên minh được?
-      Đúng vậy, nhưng thế giới bây giờ khác với cách đây 40 năm. Việt Nam cũng khác cách đây 40 năm, Mỹ cũng vậy. Đừng lúc nào quên, ngày nay đi được với Mỹ đồng nghĩa có khả năng đi được với cả thế giới.
-      …
-      …

II.  Bàn về các kịch bản
Chắc chắn toàn thể cộng đồng dân tộc Việt Nam chúng ta không bao giờ có thể chấp nhận kịch bản 1, do đó không phải bàn đến nữa. 
Tuy nhiên, điều đáng lo ở đây là quá trình phát triển của nước ta – đặc biệt là từ bước ngoặt Hội nghị Thành Đô 1990 – đã tích tụ những yếu kém và sai lầm đã và đang từng bước biến nước ta trên thực tế và trên những phương diện nhất định trở thành một dạng chư hầu kiểu mới của Trung Quốc (như đã phân tích trong bài 2). Tạm gọi đấy là hiện tượng (đang) trở thành chư hầu kiểu mới một cách gần như là vô ý thức hay là không ý thức được. Nghĩa là trên thực tế kịch bản 1 đã và đang trở thành hiện thực từng phần rồi, nhưng ĐCSVN không nhận biết được và cho đến nay chưa một lần báo động cho cả nước! Điều đáng lo nhất là sự kiện giàn khoan HD 981 hình như vẫn chưa đủ nghiêm trọng để có thể loại bỏ hẳn sự vô thức này đang còn tồn đọng ở mức độ nhất định trong không ít những người nắm vận mệnh đất nước. Đây là vấn đề cần phải được giải quyết dứt điểm tại đại hội XII sắp tới của ĐCSVN.
Kịch bản 2: Vừa không thể chấp nhận, vừa không khả thi.
(a) Không thể chấp nhận, vì Việt Nam như hiện nay quá yếu kém về nhiều mặt và do đó không thể đảm đương nổi một vai trò lá chắn cho bất kỳ ai hay là một khu đệm trung lập; cũng chẳng có một bên hữu quan nào chấp nhận hoặc tin tưởng giao cho Việt Nam như hiện nay một vai trò như thế.
(b) Kịch bản này dù ta muốn cũng không khả thi, đơn giản vì nước ta như hiện nay không thể là một Thuỵ Sỹ Việt Nam ở Đông Nam Á. Không biết đến bao giờ mới có thể có một Thuỵ Sỹ Việt Nam như thế để đảm đương vai trò này, hay là không bao giờ. Hơn nữa vì yêu cầu bành trướng quyền lực của một nước rất đông dân, siêu cường đang lên Trung Quốc không chấp nhận một quốc gia láng giềng nào là trung lập, dù có xin cũng không được, kể cả nước lớn như Ấn Độ. Láng giềng với Trung Quốc chỉ có thân phận: hoặc là đối tượng của bành trướng, nếu không thì phải đi với Trung Quốc như là Nga hiện nay. Chỉ trừ trường hơp TQ không ăn thịt nổi thì mới tha làm phúc – nghĩa là chấp nhận là đối tác. Quan điểm "Việt Nam không đi với bất kỳ một bên nào để chống lại một bên thứ ba" thực ra là lỗi thời (xem Thế giới đã sang trang) và vô nghĩa đối với Trung Quốc; quan điểm này trên thực tế che giấu sự nhu nhược và đầu hàng trá hình; trong khi đó sự thật là Việt Nam đã bị cột chặt vào Trung Quốc trên nhều phương diện.
Kịch bản 3: Là đáng bàn nhất.
Cũng có thể gọi đấy là kịch bản tự đứng vững trên đôi chân của mình trong mọi tình huống, không chống lại bất kỳ ai trên thế giới này, nhưng đi với cả thế giới để phát triển chính mình và để dấn thân cho lợi ích chung của cộng đồng quốc tế, gắn lợi ích phát triển của chính mình với lợi ích phát triển chung của cộng đồng quốc tế, đi với cả thế giới để huy động sự hậu thuẫn và ủng hộ của cả thế giới cho sự nghiệp bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia trước mọi nguy cơ bị xâm lấn. Nói nôm na, đây là sự lựa chọn trở thành một người có nhân cách và tư thế không ai bắt nạt được, sống được với tất cả mọi người, làm bạn được với tất cả mọi người, có ích cũng như được sự tôn trọng và tin cậy của tất cả mọi người. Một trong những cái đích sâu xa của kịch bản này là tạo ra tình thế: Một khi siêu cường bá quyền Trung Quốc xâm phạm độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, thì sự việc này đồng nghĩa với xâm phạm những giá trị và lợi ích chung của cộng đồng thế giới và không thể được cộng đồng thế giới chấp nhận.
Đây là kịch bản duy nhất đúng cho nước ta, song đặt ra cho nước ta những đòi hỏi phấn đấu vô cùng gắt gao.
Sự thật là trên thế giới hiện có không ít quốc gia nhỏ sát nách các nước lớn hoặc ở trong tình thế nằm lọt thỏm vào thế giới đối nghịch mình mà vẫn đứng vững và tự khẳng định được mình, đơn giản vì họ phấn đấu có trí tuệ và kiên cường hơn nước ta rất nhiều. Có thể nêu ra một vài so sánh khác nữa để suy nghĩ: 
Người Singapore học hỏi và lao động với một cường độ cao hơn hẳn so với người dân nước ta. Tinh thần trách nhiệm và tính khoa học trong công việc cũng cao hơn. 
Nhìn vào  Nhật: Thảm hoạ động đất và tsunami ngày 11-03-2011 vô cùng khốc liệt càng làm rõ thêm những giá trị và phẩm chất Nhật Bản, có thể nói cả thế giới phải kính phục... 
Nếu bạn đã đọc cuốn Quốc gia khởi nghiệp của Dan Senor, bạn có thể hình dung trí tuệ và nghị lực nào của dân tộc Do Thái đầy trầm luân đã xây dựng nên nước Israel có nền kinh tế phát triển cao vào hàng đầu thế giới ngày nay giữa sa mạc và trong lòng thế giới đạo Hồi. 
Bạn cũng nên chịu khó tìm đọc cuốn "Swiss Made" của R. James Breiding để hiểu những thành công phi thường của quốc gia này, tạo ra một Thuỵ Sỹ tồn tại  phồn vinh giữa các hùm sói châu Âu suốt 3 thế kỷ vừa qua, và bây giờ Thuỵ Sỹ còn trở thành một trung tâm của Liên Hiệp Quốc. 
Công cuộc cải cách ở Myanmar (bắt đầu từ 2011) dưới thời tổng thống Thein Sein đã hoá giải thành công trong hoà bình chế độ quân phiệt đẫm máu kéo dài nhiều thập kỷ, đưa Myanmar bước đi những bước đầu tiên vô cùng gian truân trên con đường phát triển của dân chủ, bất chấp sự lũng đoạn khủng khiếp của Trung Quốc. Mọi hiểm nguy đối với Myanmar vẫn ở phía trước. Cả thế giới tiến bộ đang hồi hộp theo dõi và đứng bên Myanmar trên con đường mới khai phá này. 
Lãnh tụ Nam Phi Nelson Mandela huyền thoại (1918 - 2013) sau khi lãnh đạo cách mạng Nam Phi xoá bỏ chế độ apartheid để xây dựng thành công nước  Cộng Hoà Nam Phi đã trao lại mọi quyền lực cho nhân dân...
Cuộc chiến tranh Iraq 8 năm ròng (203 -2010), Mỹ ném vào đây khoảng hai nghìn tỷ USD (thật ra có thể hơn, tuỳ cách tính) và mất khoảng 7000 sinh mạng quân nhân Mỹ. Một trong những mục tiêu chiến lược là nhằm dựng lên ở đây một chế độ dân chủ, song Mỹ đã thất bại cay đắng, đơn giản vì văn hoá đạo Hồi và nội tình các sắc tộc và bộ tộc ở Iraq lại chỉ quan tâm đến tranh giành quyền lực; thậm chí chiến tranh tôn giáo mới (nguy cơ nhà nước thánh chiến Hồi giáo ISIS) hiện nay đang có nguy cơ biến dạng quốc gia Iraq và toàn vùng. 
Mùa xuân Ả-rập dù ở Ai Cập hay Lybia…sau khúc dạo đầu đầy hứa hẹn, chiến tranh giữa các sắc tộc và giữa các bộ tộc cư dân khác nhau lại đang đẩy những quốc gia này vào nội chiến mới. 
Ukraina trên con đường tìm sự phát triển của dân chủ đã mất Krym và rơi vào nội chiến quyết liệt, nguy cơ đất nước bị chia cắt do sự can thiệp trực tiếp của Nga rất lớn. Song Ukraina cũng đang cho thấy họ dám chiến đấu cho con đường mình lựa chọn.
Ngay cạnh nước ta, Thái Lan từ năm 1932 bắt đầu tìm kiếm con đường trở thành nước phát triển, đến hôm nay đã chìm ngập trong 18 cuộc đảo chính, song đất nước bị giam hãm tiếp trong cái bẫy quốc gia có thu nhập trung bình, nguyên nhân chủ yếu là gần 9 thập kỷ rồi mà Thái Lan vẫn chưa sao xây dựng nổi cho mình một thể chế chính trị nhất thiết phải có của một nước công nghiệp. Trong khi đó Hàn Quốc, Đài Loan và Singapore khởi sự sau Thái Lan nhiều thập kỷ nhưng đã thành công ngoạn mục, chủ yếu vì họ đã xây dựng được thể chế chính trị phù hợp… Càng rõ, thể chế chính trị mới là yếu tố quyết định cuối cùng của phát triển.
Có lẽ ở đây cũng phải nhắc đến “sự phấn đấu tự đổi đời” một cách triệt để và đáng là tấm gương cho cả thế giới suy nghĩ – đó là sự đổi thay và trỗi dậy từ đống tro tàn của chủ nghĩa phát xít và chiến tranh, để hình thành nên nước Đức và nước Nhật hôm nay, với vị thế được tôn trọng trong cộng đồng thế giới – nguyên nhân thành công chủ yếu của họ là trung thực với bài học của lịch sử và sự thật. 
Trong khi đó nỗ lực đổi đời của Liên Xô cũ chỉ tạo nên một nước Nga Putin đang đặt một chân lên con đường tạo dựng đế chế Nga mới, còn lâu mới được như Liên Xô cũ, thậm chí có thể là không thể…
Vân vân…
Nghĩa là thế giới hôm nay có đủ mọi điều hay và cái dở cho nước ta là nước đi sau học tập và phấn đấu thành công, không còn phải mò mẫm gì nữa. Phải nói thế này: Đất nước phải trả giá tổn thất bao nhiêu thế hệ, cái duy nhất Việt Nam hôm nay được hưởng là lợi thế của nước đi sau. Xin ngẫm nghĩ kỹ điều này. Trong khi đó động lực quyết định làm nên mọi thay đổi trong thời đại chúng ta đang sống là thông tin và ý chí. Chúng ta hoàn toàn không thiếu những gương tốt và những kinh nghiệm xương máu trong thế giới hôm nay để học và để thay đổi triệt để chính bản thân mỗi chúng ta mà đất nước đang đòi hỏi. Không có một lý do nào có thể biện minh sống trong thời đại này mà chúng ta không thể tự thay đổi triệt để được chính bản thân mình, ngoại trừ sự biếng nhác và hèn kém của mỗi chúng ta. Mỗi chúng ta thay đổi, sẽ cùng nhau thay đổi được đất nước.
Nhìn vào những tấm gương và kho tàng kinh nghiệm của nhân loại hôm nay, tôi thành thực muốn nói chúng ta còn kém cỏi quá, ươn hèn quá, có nhiều thói hư tật xấu quá, thậm chí còn lười biếng quá, còn quá nhiều chuyện làm giả ăn thật, chưa nói đến đầu óc còn quá chật hẹp, và con mắt chưa hẳn đã  muốn có tầm nhìn vươn ra bên ngoài luỹ tre làng ngàn xưa, dân trí và quan trí đều còn thấp lắm so với thiên hạ xa gần; so ngay với Thái Lan kinh tế, xã hội và thể chế chính trị nước ta lạc hậu vài chục năm... Cho phép tôi nói đến mức thế này: Một trong những cái ngu dốt lớn nhất của chúng ta là chưa thấy hết được cái ngu dốt của chính mình, hơi một tý là tưng tưng Việt Nam có cái này cái nọ nhất thế giới, nhất châu Á..! Chiến tranh đã lùi xa mấy chục năm, có những chiến trận lùi xa cả nửa thế kỷ hoặc hơn nữa, mà mà niềm tự hào vẫn oang oang không ngớt như để cố át đi những yếu kém trong cuộc sống hôm nay, bất chấp cả cái lẽ tối thiểu trên đời trong giao tiếp là ăn trông nồi, ngồi trong hướng… …
Vì quyền lực tha hoá nặng nề, nơi chứa đựng nhiều điều u mê nhất trong cả nước lại là ĐCSVN. Ví dụ: Đến ngày hôm nay trong giới nghiên cứu cao cấp của ĐCSVN vẫn có người đặt câu hỏi: Xã hội dân sự là cái gì? Nó có phù hợp với nước ta đang xây dựng chủ nghĩa xã hội không? Chấp nhận xã hội dân sự thì mất chế độ! Làm thế nào xây dựng đảng cầm quyền ở nước ta mà vẫn giữ được chế độ chính trị một đảng?...  “Chưa nên cho phép tự vận động bầu cử tại Việt Nam vì có nhiều đặc thù…” …nghĩa là chỉ nên duy trì hệ  thống nhà nước được tổ chức theo kiều “đảng cử dân bầu”, cái gì không quản đươc thì nên cấm... Vân vân…  Trong khi đó cuộc sống của đất nước chúng ta hôm nay bên cạnh siêu cường Trung Quốc đang lên đòi hỏi quyết liệt mỗi người dân và cả nước ta phải có một phẩm chất mới hoàn toàn khác – đến mức  “tồn tại hay không tồn tại!” (“to be or not to be!”)… 
Nói thẳng thắn với nhau, có lẽ chưa có thời nào trong lịch sử đất nước mà nhân dân chúng ta lại hèn kém như hiện tại so với thiên hạ toàn thế giới trong hoàn cảnh nước ta có độc lập, hèn kém so với những thách thức đất nước đang phải đối mặt. Có lẽ chưa có thời nào chúng ta hèn kém như hiện nay dưới ách cai trị do chính tay mình dựng nên. Chưa có thời nào chúng ta lại nhu nhược, tự làm tổn thương trầm trọng phẩm giá của chính quốc gia mình, và chịu để cho danh dự, độc lập chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia bị Trung Quốc uy hiếp, xâm phạm như hiện nay. Đất nước thật sự bị dắt mũi từ Hội nghị Thành Đô. Không biết làm sao nuốt được nỗi nhục này!
Chịu trách nhiệm toàn diện và tuyệt đối về tình trạng hèn kém nói trên của đất nước và của dân tộc là Đảng Cộng Sản Việt Nam tha hoá hôm nay. Không thể nói khác. 
Chế độ chính trị đảng trị và chính sách ngu dân nhân danh thực hiện sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của ĐCSVN tha hoá hôm nay là tác nhân chính mang lại sự hèn kém này cho đất nước, đến mức mỗi chúng ta – kể cả các đảng viên ĐCSVN – hầu như không đủ năng lực và ý chí nhìn nhận ra sự hèn kém của chính bản thân mình nữa, đến mức hầu như mỗi chúng ta cam chịu hai tay buông xuôi. Đối với bên ngoài thì cam chịu nhắm mắt trước từng bước lấn tới của quyền lực mềm và quyền lực rắn Trung Quốc. Đối với bên trong, đành ngậm miệng oán trách thầm những điều ngang trái, hoặc thụ động bó tay chờ đợi, nước chảy bèo trôi được đến đâu hay tới đó – đấu tranh tránh đâu?.., hoặc có cơ hội thì bỏ nước đi tìm đường kiếm sống…  Trong khi đó hàng ngày nhan nhản những cái giả - diễn – hão thay nhau hiếp đáp cuộc sống mọi mặt của đất nước... Phải nói đây là hiện tượng xã hội xuống cấp cùng cực nhất kể từ Cách mạng Tháng Tám 1945. Đại hội XII sắp tới của ĐCSVN cần mổ xẻ thấu đáo trách nhiệm này của đảng.
Trong tôi canh cánh câu hỏi phải chăng đây là thời kỳ mạt vận của khí phách và tinh hoa Việt Nam? Đau lòng lắm, xấu hổ lắm, nhưng không thể không tự cật vấn mình như thế được.
Song mỗi công dân chúng ta – dù đảng viên hay không đảng viên – cũng phải gánh chịu phần trách nhiệm riêng của chính mình về thực trạng đất nước hôm nay, không thể đổ thừa hết mọi chuyện cho chế độ. Chỉ riêng sự cam chịu một bề như vậy của mỗi chúng ta cũng đủ kết án chúng ta là tòng phạm, là đồng loã trước toà án lịch sử của đất nước, không thể nói khác được… Dân  nào thì chế độ nấy – đây cũng là một quy luật của phát triển.
Tôi xin phép nói đến mức thế này: Nếu những chuyện đàn áp và làm nhục dân đang xẩy ra hàng ngày ở nước ta mà lại xảy ra ở các nước của mùa xuân Ả-rập năm nào, thì có lẽ chế độ chính trị hiện nay của Việt Nam đáng phải sụp đổ 3 hay 4 lần rồi! Nếu luận rằng “cái ỳ” này của Việt Nam là biểu hiện cao độ của sự ổn định chính trị, tôi e rằng đấy là nguỵ biện đáng xấu hổ - cho người giải thích và cho cả người chấp nhận sự giải thích này. 
Đất nước này có đủ tủi nhục để không cần phải chủ động có thêm hay xúi giục gây thêm một thảm hoạ mới bổ sung nào nữa. Ở vào hoàn cảnh nước ta hiện nay, điều tai ác là sụp đổ của hiện trạng đồng nghĩa với thảm hoạ, chắc chắn sẽ thê thảm hơn nhiều lần và sẽ đẫm máu so với sụp đổ trong hoà bình của Liên Xô. Nhưng không thể vì thế nhắm mắt làm ngơ trước cái hèn kém của chính mình. Thậm chí sự ngơ điếc này chính là mầm mống chắc chắn của thảm hoạ sẽ tới mai sau. Điều cần nói rành rọt ở đây: Nhờ những nỗ lực của cả nước, nhất là trong kinh tế, (đương nhiên phần quan trọng không kém là còn nhờ cả “sức ỳ” nữa) đất nước mới thoát được mấy phen sụp đổ như thế của hệ thống chính trị – chứ không phải là nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của đảng và tính ưu việt của chế độ. Song chính kết quả những nỗ lực này đặt ra đòi hỏi quyết liệt: Không thể kéo dài mãi tình trạng èo uột đến ngắc ngoải như hiện nay! Phải cải cách triệt để hệ thống chính trị hiện tại để mở đường sống cho đất nước.
Cái hèn kém đáng phê phán nhất của mỗi người chúng ta trước hết là sự giác ngộ chưa đầy đủ về quyền và trách nhiệm phải có của công dân với tư cách là người chủ đất nước của một quốc gia độc lập, là không thắng được nỗi sợ của chính mình để ý thức được và làm được quyền và trách nhiệm công dân phải có ấy của mình. Nói riêng trong hàng ngũ ăn lương từ ngân sách nhà nước – dù là ngạch đảng, ngạch chính quyền, hay ngạch đoàn thể, cái gọi là “phường giá áo túi cơm” đông quá, ăn hết nhuệ khí của đất nước và cố níu kéo sự tồn tại của chế độ toàn trị. Tôi trầm ngâm ước ao, giá mà mỗi chúng ta – trước hết là các đảng viên – dám dấn thân sống theo lương tri mình một chút, chắc chắn đất nước này đã khác hẳn rồi! Cái thấp hèn của mỗi chúng ta góp phần không ít vào việc huỷ hoại đất nước này!..
Cái sợ và sự phản ứng bầy đàn là sản phẩm tồi tệ nhất của hiểu biết thiếu hụt, là đồng minh lợi hại của mọi thế lực đen tối ngay trong lòng đất nước chứ không phải ở đâu xa, là trở lực hoặc thậm chí bị lạm dụng làm phản lực chống lại cái tiến bộ và cải cách[4]. Chẳng có sự diễn biến hoà bình hay biến chất đạo đức chính trị tư tưởng nào đáng sợ cả, mà chỉ có cái việc lấy cái được gọi là diễn biến và biến chất này để hăm doạ sự bất bình trong lòng nhân dân và xí xoá đi cái tha hoá của quyền lực mà thôi. Phụ hoạ một cách vô ý thức vào tình trạng này chính là cái sợ của mỗi chúng ta.
-      Nhưng mà, cứ làm khác là bị đàn áp! Vừa không có cái mồm để nói, trong tay vừa không có quyền!..
-      Chỉ còn cách phải tự mở mồm, chấp nhận mọi đàn áp để mở mồm. Phải giành lấy quyền! Một người không làm nổi thì hè nhau cùng làm! Phải học để làm đúng.
-      Nhưng mà sợ lắm. Sợ nhiều thứ.
-      Chịu bó tay vì sợ thì ngày xưa đứng lên chiến đấu cứu nước để làm gì? Hãy cùng vượt lên nỗi sợ để cùng làm![5]
-      …
-      …
 Sống há miệng chờ sung rụng đã là không ổn, nói chi đến khoanh tay chờ được ban phát quyền và trách nhiệm như thế - những thứ này phải học và phải đấu tranh mà giành lấy.
Sống cạnh Trung quốc trong thế giới hôm nay, nước ta không thể lựa chọn cách sống nước chảy bèo trôi thế nào cũng được. Tự do của chúng ta mà trời đất và tự nhiên ban tặng chỉ là sự tự do được phép tuỳ ý lựa chọn cho đất nước một trong 3 kịch bản như đã nêu trên mà thôi. Và vì tự do của chính mình, mỗi chúng ta chỉ có con đường lựa chọn kịch bản 3 cho đất nước.
Nhất thiết không thể để đất nước như thế này sống qua ngày đoạn tháng bên cạnh Trung Quốc. Để thực hiện kịch bản 3, mỗi chúng ta hãy bắt đầu từ học và quyết thực hiện quyền và trách nhiệm công dân của mình, trước tiên là để triệt để thay đổi chính mình, rồi vượt lên mọi nỗi sợ thực hiện quyền và trách nhiệm của mình góp phần vào cải cách thể chế chính trị của đất nước, đưa đất nước sang trang mới. Muốn đất nước tiến hành cải cách triệt để thể chế chính trị hiện hành trong hoà bình và phát triển, mỗi chúng ta phải quyết học như vậy. "...Đời đời sống cạnh Trung Quốc mà mỗi chúng ta không có trí tuệ, ý chí và nghị lực luôn luôn thắng được ý đồ của Trung Quốc đầy bản chất bá quyền, nước ta chỉ đáng sống trong kiếp chư hầu, nô lệ. Đã đến lúc cả nước và toàn Đảng cần hiểu rõ đòi hỏi bắt buộc này, để tiến hành bằng được cuộc cải cách chính trị sâu rộng hiện nay đã chín muồi nhằm thay đổi hẳn đất nước..." [6] 
Sự sống còn của đất nước đặt ra những đòi hỏi nghiệt ngã như vậy. Song đồng thời cũng phải thấy hết tinh hình nguy hiểm: Thực trạng mọi mặt của đất nước ta hiện nay nhạy cảm đến mức cứ đụng vào sửa chữa mà ngu dốt là có thể đẫn đến sụp đổ, có lẽ còn nguy khốn hơn so với Liên Xô năm nào! Không một ai được ngoảnh mặt trước sự thật phũ phàng này vì bất kỳ lý do gì. 
Quyền lực cai trị đất nước đang vin vào thực tế nhạy cảm này để chống lại cải cách, nhân danh duy trì sự ổn định. Đây là sự ngoan cố duy trì cái sống tạm thời cho quyền lực bằng cách đi sâu thêm nữa vào con đường chết của đất nước, không thể chấp nhận. 
Để vượt qua sự nhạy cảm có thể gây ra sụp đổ bất cứ lúc nào như thế,  chỉ có một con đường là trung thực với sự thật, mở ra đối thoại xây dựng với tất cả tinh thần trách nhiệm theo tinh thần Diên Hồng trong cả nước, từ đó tìm ra sự đồng thuận cao nhất để có khả năng tiến hành cải cách thể chế chính trị trong hoà bình và phát triển. Đấy là con đường sống. Đối thoại trung thực với sự thật như thế trong nội bộ đảng, giữa đảng và nhân dân, và giữa cả nước với nhau theo tinh thần Diên Hồng như vậy, sẽ chẳng có nguy hiểm nào có thể tước bỏ hay lấy cắp được con đường cải cách nước ta nhất quyết phải lựa chọn. Trong dân nhiều năm nay đã có không ít tiếng nói phát đi theo hướng tâm huyết này, đảng cần lắng nghe và đủ can đảm đối thoại chứ không được trấn áp tệ hại như đang làm. Hơn nữa, duy nhất nắm quyền lực trong tay, ĐCSVN có trách nhiệm ràng buộc phải chủ động và làm tất cả mọi việc có thể để tổ chức thành công đối thoại Diên Hồng như vậy.   
III. Đại hội XII lựa chọn gì?
III.1. Bàn về cái không thể và cái có thể
 Trước hết xin chia sẻ, 10 bạn đọc các bài viết của tôi thì có đến 9 bạn không thích phần tôi viết về ĐCSVN, càng không thích hoặc thậm chí rất ghét phần tôi khuyến nghị ĐCSVN nên thay đổi như thế nào. Thái độ như vậy không phải là vấn đề cảm tính hoặc là hệ quả của những bức xúc từ cuộc sống. Phản ứng tiêu cực này chủ yếu dựa trên những kinh nghiệm dẫn tới sự khẳng định: ĐCS nói chung là không thể thay đổi được, ĐCSVN không phải là ngoại lệ. Một số trong những bạn đọc này còn viện dẫn ý kiến của Yeltsin: ĐCSLX không thể thay đổi được, chỉ còn mỗi cách đập tan nó! Những người có trách nhiệm trong đảng, trước hết là Bộ Chính trị, cần phân tích thấu đáo phản ứng này của dư luận nước ta. Bản thân tôi cũng cho sự khẳng định này có căn cứ xác đáng. Bởi sự thật là không có một ĐCS nào trong các nước Liên Xô Đông Âu cũ chịu chấp thuận cải cách. Tất cả các đảng này chỉ kết thúc bằng quá trình sụp đổ hoặc bị xoá sổ. Sự ngoan cố của ĐCSVN trước những đề nghị cải cách cũng rất rõ.
 Tuy nhiên, có một khía cạnh cần xem xét dưới đây.
 Trong nhiều bài viết của mình, tôi cho rằng ĐCSVN từ nhiều thập kỷ nay không còn là đảng lãnh đạo nữa, mà chỉ là lực lượng chính trị lớn nhất đang nắm lọn quyền cai trị đất nước.  Vấn đề đặt ra là câu hỏi: Xử sự như thế nào với cái lực lượng chính trị lớn nhất nước này?
-    Giải tán bằng luật pháp hay xoá bỏ bằng bạo lực? Cách làm này là không thể và sẽ tiếp tục không thể như thế một thời gian khá dài nữa. Lại càng không thể “bói” được là bao giờ ĐCSVN sẽ tự sụp đổ, dù rằng đây sẽ là kết cục tất yếu của tha hoá. Xoá bỏ bằng bạo lực dù muốn làm và làm được, cũng không phải là phương án tối ưu cho đất nước trong hiện tại, bởi vì sẽ gây ra binh đao nồi da xáo thịt vô cùng thảm khốc, chưa ai có thể nói trước kết cục sau đó sẽ là gì. Và kể cả một khi đã xảy ra một cuộc bể dâu như thế, trước sau cải cách vẫn là nhiệm vụ không thể trốn tránh.
-    Tôi mong mỏi mỗi chúng ta  hãy tự học để tự thay đổi chính mình trước tiên trước khi bắt tay vào cải cách thay đổi thể chế chính trị của đất nước, và điều này là khả thi trong thế giới hôm nay. Vậy hà cớ gì tôi lại không đồng thời cùng đặt vấn đề như thế đối với từng đảng viên và toàn thể ĐCSVN? Vả lại, như chúng ta đã thấy ở Myanmar, cải cách thể chế chính trị từ trên xuống và từ trong ra của hệ thống quyền lực là hứa hẹn thành công nhất và đỡ tốn kém xương máu nhất. ĐCSVN hiện nay có mọi điều kiện cần và đủ để cải cách thành công như thế, chỉ còn thiếu ý chí đặt lợi ích quốc gia lên trên hết[7]. Cũng có ý kiến cho rằng ĐCSVN không thể làm được cải cách này, vì bị nô lệ ý thức hệ và vì đang thiếu một minh quân giương cờ…
-    Giả thiết rằng mọi nỗ lực của cả nước tìm đường cải cách bắt đầu từ trên xuống và từ trong ra trong hệ thống quyền lực của ĐCSVN đã được thực thi hết mức mà vẫn thất bại, thì phương án xoá bỏ bằng bạo lực chẳng những sẽ là không tránh khỏi sau đó, mà còn là bước phát triển tất yếu tiếp theo, tự phát từ nhân dân, và sẽ chẳng có gì ngăn nổi như đã từng xảy ra ơ nhiều nước khác, sự cáo chung của ĐCSVN sẽ trở thành đương nhiên, thảm hoạ cũng là đương nhiên. Tôi đã cảnh báo rõ ràng như vậy trong nhiều bài viết của mình.
-    Cải cách ở nước ta để chuyển sang thể chế chính trị của nhà nước pháp quyền dân chủ hầu như chắc chắn sẽ là một cái gai phải nhổ trong con mắt siêu cường đang lên Trung Quốc. Bởi vì ảnh hưởng lan toả của cải cách này có thể nguy hiểm đối với Trung Quốc. Song chúng ta phải làm việc phải làm của mình, không thể chờ đợi Trung Quốc cho phép hay không cho phép. Một khi Trung Quốc học tập kinh nghiệm đã xảy ra ở Krym và Đông Ukraina quyết xóa bỏ cuộc cải cách này của nước ta, nhân dân ta sẽ lại một lần nữa phải chấp nhận hy sinh xương máu, nhưng sự nghiệp cải cách này sẽ trở thành bất khả kháng và rất triệt để, cái thòng lọng ý thức hệ và “4 tốt và 16 chữ” đang siết lên cổ đất nước sẽ bị loại bỏ dứt khoát và vĩnh viễn.
Những lý do tại sao tôi lựa chọn con đường vận động cả nước không loại trừ một ai tiến hành cải cách như thế có lẽ đã rõ.
(1) Đất nước đang đòi hỏi gay gắt phải có một thể chế chính trị mới để ra khỏi bế tắc hiện nay và để trở thành một nước công nghiệp, (2) cục diện thế giới đặt ra nhiều thách thức mới nghiêm trọng, đồng thời cũng đang mở ra vận hội mới chưa từng có đổi đời đất nước dứt khoát phải nắm lấy (3) thách thức của siêu cường đang lên Trung Quốc trực tiếp uy hiếp nước ta với ý đồ chiến lược biến nước ta thành chư hầu để đẩy mạnh bá chiếm Biển Đông – đấy là 3 yếu tố quyết định buộc chúng ta phải lựa chọn kịch bản 3 cho Tổ quốc. Sự lựa chọn này là có thể, và không được thoái thác.
III.2. Những vấn đề đặt ra cho Đại hội XII
          Trong bài “Hiểm hoạ đen” (bài 2), tôi đã trình bầy khái quát ý kiến của tôi về tình hình đất nước sau 40 năm độc lập thống nhất đầu tiên, với nhận xét tổng quát: Về cơ bản đây là một giai đoạn phát triển thất bại.
          Nhận xét này này dựa trên các đánh giá sau đây:
(1) Thành tựu đạt được không cân xứng với nguồn lực và công sức đã huy động được, nhiều cơ hội lớn có tính bước ngoặt đã bị bỏ lỡ[8]; sự phát triển kinh tế theo chiều rộng đã tới ngưỡng không thể vượt qua, tích tụ cho đất nước hôm nay nhiều ách tắc lớn của cái bẫy quốc gia có thu nhập trung bình thấp, không thể đạt được mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020[9]. Xin nhấn mạnh: trong 3 thập kỷ công nghiệp hoá nước ta huy động được nguồn lực nhiều gấp đôi Hàn Quốc trong thời kỳ này, Hàn Quốc trở thành NIC (nước mới công nghiệp hoá), nhưng Việt Nam trở thành một nền kinh tế của người đi làm thuê và của đất nước cho thuê.
(2) Chế độ chính trị hiện hành xuống cấp nghiêm trọng vì tệ nạn quan liêu tham nhũng, ngày càng trở thành nhân tố trực tiếp kìm hãm sự phát triển của đất nước; xã hội nước ta từ hơn một thập kỷ nay bị khủng hoảng sâu sắc về nhiều mặt - tiêu biểu nhất là nhân dân mất lòng tin vào chế độ chính trị và đảng nắm quyền; bất công xã hội ngày càng lớn; tự do dân chủ và quyền con người bị xâm phạm nghiêm trọng; đặc trưng của chế độ toàn trị hiện nay là: nhân dân không phải là người làm chủ đất nước, đảng đứng trên Hiến pháp.
(3) Độc lập chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và nhiều lợi ích chính đáng khác của đất nước bị Trung Quốc xâm phạm và uy hiếp nghiêm trọng (hơn cả thời kỳ có chiến tranh biên giới 17-02-1979 do Trung Quốc tiến hành); đường lối đối nội và đối ngoại sai lầm đã dẫn đến tình trạng Việt Nam rơi vào vị thế quốc tế của nước phải “leo dây” (song trên thực tế là bị cột chặt vào Trung Quốc) và hầu như không có bạn hoặc liên minh với đúng nghĩa để tạo thanh thế, mặc dù Việt Nam đã thiết lập được quan hệ đầy đủ với hầu hết mọi quốc gia trên thế giới và có quan hệ đối tác chiến lược hay đối tác toàn diện với tất cả các nước có vị thế quốc tế quan trọng. Mặt nào đó mà xét, Việt Nam lâm vào một thế cô lập trên thực tế (de facto) khá nguy hiểm: Chung quanh là các nước láng giềng nhỏ yếu dễ bị Trung Quốc chi phối, ngoài biển là cái đường lưỡi bò đang hình thành, ngoài ra rất dễ bị chấn thương trên các phương diện kinh tế, chính trị, quân sự.
Có thể kết luận: Sau 40 năm độc lập, trong đó có 30 năm đổi mới, Việt Nam hiện nay là một nước yếu về đối nội và đối ngoại so với những thách thức phải đối mặt, con đường phát triển đang bế tắc với cơ cấu kinh tế và thể chế chính trị toàn trị hiện tại, đất nước chịu sự lệ thuộc và lũng đoạn nghiêm trọng từ phía Trung Quốc mà chưa có cách gì thoát ra được, khoảng cách tụt hậu ngày càng rộng. Nguồn gốc của tình hình này là những yếu kém và sai lầm của ĐCSVN trong suốt thời kỳ này.  
Xin nhắc lại, khoảng trên 10 năm qua trong các quá trình chuẩn bị các đại hội đảng, liên tục kể từ đại hội IX, X và XI của ĐCSVN, các ý kiến đóng góp của dư luận trong nước – đặc biệt là của các trí thức, trong đó có nhiều đảng viên lão thành – tập trung vào 3 vấn đề quan trọng:
1.     Đường lối phát triển kinh tế sai lầm, chưa có một chiến lược kinh tế nào đã đề ra có thể thực hiện được (chiến lược công nghiệp hoá, chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn, chiến lược kinh tế biển, chiến lược kinh tế vùng, chiến lược sản phẩm…), chỉ dựng lên được một nền kinh tế gia công với cơ cấu lạc hậu.
2.     Thể chế chính trị bất cập, trở thành một hệ thống quan liêu ăn bám nặng nề. Các nhóm lợi ích chi phối nặng nề (a) tập đoàn kinh tế nhà nước, (b) nền kinh tế GDP tỉnh, và (c) sự vận hành theo tư duy nhiệm kỳ của quyền lực, qua đó biến dạng luật pháp và toàn bộ kỷ cương đất nước. Đây là nguyên nhân gốc kìm hãm sự phát triển của đất nước. Đất nước độc lập 40 năm, nhưng quyền làm chủ đất nước của nhân dân vẫn chưa được thực hiện, khả năng thực thi luật pháp rất thấp. Thể chế chính trị như đang tồn tại là nguyên nhân  trực tiếp và chủ yếu làm thất bại chiến lược công nghiệp hoá.
3.     Đường lối đối ngoại nói chung không đáp ứng thoả đáng những đòi hỏi của nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đặc biệt là thất bại nghiêm trọng trong chính sách đối ngoại của nước ta kể từ Hội nghị Thành Đô đã giúp quyền lực mềm và quyền lực rắn Trung Quốc lũng đoạn toàn diện và sâu sắc nhiều mặt cuộc sống của đất nước, tạo ra cho nước ta sự lệ thuộc nguy hiểm, uy hiếp trực tiếp và ngày càng nghiêm trọng độc lập chủ quyền quốc gia của ta. Quan hệ Việt – Trung như đang diễn ra có nguy cơ chặn đứng tương lai phát triển của đất nước.
Cho đến nay cả 3 vấn đề cốt lõi nêu trên tiếp tục là 3 vấn đề nóng bỏng của đất nước. Bộ Chính trị và BCHTƯ cả 3 khoá IX, X và XI cho đến nay không thèm đếm xĩa đến và vẫn giữ thái độ im lặng đối với sự đóng góp xây dựng này.
Thư ngỏ ngày 28-07-2014 của 61 đảng viên gửi Bộ Chính trị và BCHTƯ ĐCSVN đặt vấn đề:
-      Trước tình thế hiểm nghèo của đất nước, ĐCSVN cần thay đổi cương lĩnh để chuyển hẳn sang đường lối phát triển dân tộc và dân chủ, chuyển đổi thể chế toàn trị hiện nay sang thể chế của nhà nước pháp quyền dân chủ; chấm dứt ngay các hành động sách nhiễu, trấn áp, quy kết tùy tiện đối với người dân biểu tình yêu nước, đối với các tổ chức xã hội dân sự mới thành lập, trả tự do cho những người đã và đang bị kết án hình sự chỉ vì công khai bày tỏ quan điểm chính trị của mình.
-      Bạch hoá những vấn đề nghiêm trọng trong quan hệ Việt – Trung kể từ Hội nghị Thành Đô; thảo luận thẳng thắn và dân chủ trong toàn Đảng và trong cả nước về tình hình mọi mặt của đất nước và những thách thức trước những bước đi mới rất trắng trợn của Trung Quốc muốn bá chiếm Biển Đông; vạch ra con đường phát triển để thoát khỏi cơ cấu kinh tế lạc hậu và lệ thuộc nghiêm trọng vào Trung Quốc hiện nay; tạo ra hợp tác, liên kết, liên minh có hiệu quả với các nước ASEAN và trong cộng đồng quốc tế - nhất là với các cường quốc – có khả năng làm thất bại mưu đồ Trung Quốc bá chiếm Biển Đông và hậu thuẫn đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc của nước ta.
-      Thư ngỏ yêu cầu phải có sự lựa chọn dân chủ các đại biểu thực sự có năng lực đáp ứng nhiệm vụ quan trọng của đại hội đảng toàn quốc lần thứ XII; đồng thời phải thật sự dân chủ bầu ra một Quốc hội chuyên nghiệp, xứng đáng đại diện cho dân, đáp ứng yêu cầu lập pháp để chuyển đổi thể chế chính trị.
Thiết nghĩ những vấn đề trong thư ngỏ này liên quan đến vận mệnh sống còn của đất nước, đại hội XII sắp tới cần đánh giá thấu đáo và phải đi tới những quyết sách đáp ứng.
Điều quan trọng số một đối với đại hội XII là ĐCSVN là đảng độc quyền trong hệ thống chính trị đứng trên hiến pháp, tha hoá trong 4 thập kỷ vừa qua đã lấy đi mất khả năng lãnh đạo của đảng. Sự tha hoá này một mặt trực tiếp phản bội lại lý tưởng và truyền thống cách mạng vì dân vì nước đã từng lập nên ĐCSVN, mặt khác biến cái đảng tha hoá này thành nhân tố trực tiếp nhất và quyết định nhất giam hãm sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, để xảy ra ngày càng nhiều hiện tượng đối kháng với lợi ích của quốc gia và của dân tộc. Đảng đứng trước sự thật lạnh lùng chết người là: Nếu tiếp tục giữ ĐCSVN như hiện nay, đất nước sẽ lún sâu thêm nữa vào khủng hoảng mọi mặt; đảng sẽ càng tha hoá và bất lực tiếp, khiến cho đất nước phải chuốc thêm nhiều tổn thất mới. Dẫn tới hệ quả đảng sẽ buộc phải chấp nhận những thất bại mới hoặc phải lao vào những sai lầm và tội lỗi mới để bảo vệ chế độ của mình. Tình hình này sẽ đẩy mạnh hơn nữa sự phản kháng của nhân dân, chế độ sẽ phải đàn áp dân tàn bạo hơn..,  và cuối cùng sẽ dẫn tới con đường chế độ công khai chống lại nhân dân, chống lại  đất nước. Diễn tiến này từ nhiều năm nay đã manh nha qua các vụ đàn áp những bất bình của nhân dân và các vụ bắt bớ, xử án những người bất đồng chính kiến… Phải nói thẳng là sự uy hiếp của Trung Quốc dù nguy hiểm với nước ta đến mức nào chăng nữa cũng không đáng sợ bằng sự tha hoá trầm trọng hiện nay của đảng và toàn bộ hệ thống chính trị đất nước. Ta thua hay thắng ý đồ bành trướng của Trung Quốc trước hết là tuỳ thuộc ở điểm đối nội mấu chốt này.
Nếu muốn đi với đất nước tại bước ngoặt định mệnh này, ĐCSVN hôm nay không có cách nào khác là phải tự lột xác để không còn là mình như hôm nay nữa và qua đó phấn đấu trở thành một đảng mới, đồng thời đảng phải thực hiện trách nhiệm ràng buộc là chủ động tiến hành cải cách để thay đổi cái chế độ chính trị toàn trị hiện hành là con đẻ của đảng. Không ý thức hệ hay chủ nghĩa nào có thể cứu đảng hay giúp đảng trốn tránh được hai nhiệm vụ phải làm này.
Chọn đất nước, có nghĩa đảng phải lột xác đến mức như vừa nói trên. Còn muốn giữ đảng như hiện tại, đảng phải chống lại đất nước. Vì lẽ này đảng đang đứng trước bước ngoặt định mệnh, không cách gì lẩn tránh được. 
Song lột xác cái đảng tha hoá ngày càng trầm trọng này như thế nào? có làm được không? 
Trong buổi tiếp Dương Khiết Trì ngày 18-06-2014, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: lập trường về chủ quyền của Việt Nam đối với các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và trên Biển Đông là không thay đổi và không thể thay đổi. 
Tổng bí thư khẳng định như vậy là đúng đắn. Nhưng điều kiện tiên quyết để thực hiện khẳng định này là phải có một Việt Nam mạnh và có bản lĩnh. Đặt vấn đề như thế, sẽ chỉ có một con đường là ĐCSVN hôm nay  trước tiên phải tự thay đổi chính mình theo con đường dân tộc và dân chủ để trở thành một đảng mới, qua đó cùng với cả nước tạo ra một quá trình hình thành một Việt Nam mới như thế. Có làm được không? Nói được như thế mà không đi đến cùng được như thế, sẽ làm sao lay chuyển được Trung Quốc?   
Cho đến hôm nay, tôi không thấy, hoặc chưa có điều kiện được thấy việc chuẩn bị đại hội XII đang tiến hành theo hướng tiếp cận những vấn đề như đã xới ra trên đây! Vậy đại hội XII sẽ lựa chọn gì cho đất nước, cho chính bản thân đảng của mình? Những gì thấy được trên phương tiện truyền thông “lề phải” hình như vẫn là ngựa quen đường cũ: Từ khâu chuẩn bị nhân sự và khâu bầu chọn các cấp chủ yếu vẫn theo cách làm cũ; lời căn dặn của những người lãnh đạo: tổng kết tình hình đất nước chuẩn bị cho đại hội phải dựa vào cương lĩnh và hiến pháp… Nếu đúng là như vậy thì nguy hiểm quá, vì cách làm đại hội theo kiểu này hình như báo hiệu khả năng ĐCSVN thay đổi và việc cải cách xoá bỏ chế độ toàn trị có lẽ đến 99% là không hiện thực. 
Tôi xin lưu ý: Đại hội XII hoặc là sẽ mở ra được một bước ngoặt cho ĐCSVN và cho đất nước, hoặc là báo hiệu một thời kỳ đen tối mới của đất nước và gia tăng những yếu tố trước sau sẽ dẫn đến sụp đổ của chế độ, tất cả tuỳ thuộc vào sự lựa chọn của từng đảng viên và toàn đảng ở ngay đại hội XII này, không thể đổ lỗi cho bất kỳ ai khác hay cho lý do nào khác. Ngay từ bây giờ, từng đảng viên cần có tiếng nói của mình cho việc tiến hành một đại hội đúng đắn và nghiêm túc tình hình đất nước đang đòi hỏi.
IV.   Kiến nghị
          Khoản 2 điều 4 của Hiến pháp ghi: “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình.”  Chiểu theo tinh thần và lời văn của khoản này tôi kiến nghị: Công khai hoá tới mức tối đa toàn bộ quá trình chuẩn bị và tiến hành đại hội XII. Đơn giản vì mọi việc của đại hội đều liên quan trực tiếp đến vận mệnh quốc gia, nhân dân cần được biết, cần có tiếng nói của mình với đại hội, cần được giám sát những việc đại hội làm... Tại các nước văn minh, các đảng chính trị đều phải làm như thế khi họp đại hội để tranh cử, chương trình hành động của đại hội phải được dân tán thưởng mới hy vọng thắng cử. Hơn nữa, gắn bó mật thiết với dân như viết trong khoản 2 điều 4 của Hiến pháp trước hết có nghĩa đại hội XII phải quyết định những vấn đề đặt ra đúng với lợi ích quốc gia và nguyện vọng của nhân dân.
Đặt vấn đề như vậy, tôi xin có một số đề nghị sau đây.

IV.1. Bàn về nội dung cốt lõi của đại hội XII
Đứng trước bước ngoặt hiện nay của đất nước, trung thực với các bài học của lịch sử và sự thật là đòi hỏi tất yếu để nhận thức đầy đủ lợi ích sống còn của tổ quốc, từ đó có được ý chí thoát khỏi tình trạng lũng đoạn của Trung Quốc, xoá bỏ sự cai trị mang tính chất ngu dân và nô dịch đang kìm hãm đất nước do chế độ toàn trị hiện nay của đảng vô ý thức hay có ý thức đã tạo dựng nên, quyết mở đường cho đất nước chuyển sang một giai đoạn phát triển mới, nhằm thực hiện khát vọng đời đời của nhân dân về độc lập - tự do - hạnh phúc[10], tranh thủ sự hậu thuẫn của cộng đồng khu vực và quốc tế cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, dấn thân đóng góp vào nỗ lực chung của cả thế giới vì hoà bình, hữu nghị và hợp tác. Đã đến lúc ĐCSVN phải đặt ra cho mình nhiệm vụ như vậy. Nhiệm vụ này đồng nghĩa là sự khai sinh mới của ĐCSVN hiện nay: sự ra đời của một đảng vì dân tộc và dân chủ, chỉ có lý tưởng và mục tiêu duy nhất là phụng sự tổ quốc và nhân dân, mang lại cho tổ quốc vị thế xứng đáng trong cộng đồng thế giới. (vấn đề 1)
          Xuất phát từ kết luận nêu trong phần III.2. bên trên: “Sau 40 năm độc lập, trong đó có 30 năm đổi mới, Việt Nam hiện nay là một nước yếu về đối nội và đối ngoại so với những thách thức phải đối mặt, con đường phát triển đang bế tắc với cơ cấu kinh tế và thể chế chính trị toàn trị hiện tại, đất nước chịu sự lệ thuộc và lũng đoạn nghiêm trọng từ phía Trung Quốc mà chưa có cách gì thoát ra được, khoảng cách tụt hậu ngày càng rộng…”, đứng trước bước ngoặt hiện nay của đất nước, hãy coi 40 năm qua là sự mày mò tìm kiếm gian khổ con đường phát triển của một quốc gia mới giành được độc lập thống nhất. Hãy coi những gì đã thành đạt được trên chặng đường 40 năm này là vốn liếng khiêm tốn đầu tiên cho khởi sự sự nghiệp mới này. Hãy coi những thất bại trên chặng đường 40 năm này là các bài học nhớ đời và rút ra từ đó những kinh nghiệm để khởi sự và thực hiện thành công sự nghiệp mới. Đã đến lúc cả nước phải đứng lên mở ra một thời kỳ phát triển mới cho tổ quốc! ĐCSVN hiện nay với tính cách là một đảng mới của dân tộc và dân chủ coi thúc đẩy nhiệm vụ này là lẽ sống và lý tưởng phấn đấu của mình  (vấn đề 2).
          Sống trong thế giới thế kỷ 21 đầy những thách thức sống còn và biến động khó lường của một trật tự quốc tế mới khác hẳn với 5 – 10 năm trước, lại đúng vào thời điểm siêu cường đang lên Trung Quốc coi Việt Nam là đột phá khẩu cần khuất phục trong đẩy mạnh mưu đồ bá chiếm Biển Đông, Việt Nam nhất thiết phải trụ vững với tính cách là một quốc gia có sức mạnh và bản lĩnh bảo vệ được độc lập chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của mình, đồng thời phải là một thành viên dấn thân trong cộng đồng ASEAN để cùng nhau gìn giữ hoà bình và ổn định trong khu vực, cùng nhau phấn đấu cho sự phát triển thịnh vượng của mọi quốc gia. Phát huy sức mạnh của chính mình và tranh thủ sự hậu thuẫn của toàn thế giới trở thành đòi hỏi sống còn để thực hiện được những mục tiêu này. Để có được trí tuệ, ý chí, nghị lực và sự quyết đoán đúng đắn cho mọi vấn đề đặt ra, nhất thiết phải lấy các giá trị của dân tộc và những tinh hoa tinh thần của nhân loại làm nội dung, làm chuẩn mực xây dựng con người và xây dựng chiến lược phát triển đất nước trong thời kỳ mới này. Thừa nhận đòi hỏi này, phải nói đất nước ta sẽ có nhiều cái phải học lại từ đầu, phải làm lại từ đầu, thậm chí có nhiều cái phải thay đổi hẳn cách nghĩ và cách làm vì 40 năm qua và 70 năm qua có không ít tác động tạo nên trong đời sống của chúng ta những nếp nghĩ và thói quen lạc hậu, sai trái khó sửa. Nghĩa là cuộc sống trong thế giới hiện tại đặt ra cho cả nước phải tiến hành một cuộc cải cách toàn diện và triệt để chưa từng có nhằm đổi đời chính bản thân dân tộc ta và đất nước ta. Chẳng có tư tưởng, chủ nghĩa hay ý thức hệ nào có thể giúp dân tộc ta tạo ra được sự thay đổi đến mức đổi đời như thế này. Ta trở thành chính ta như thế, ta mới là người tự do và có cả thế giới là bạn bè bình đẳng. Để ta trở thành ta như thế, học hỏi trở thành đòi hỏi sống còn như con người cần không khí để thở vậy. Nói rốt ráo, chính dân tộc ta cũng phải lột xác vứt bỏ quá khứ nghèo nàn và lạc hậu của mình, phải tỉnh ngộ để thoát khỏi cái cái thân phận suốt chiều dài lịch sử nếu không bị ngoại bang ăn hiếp thì lại luôn luôn là cái bóng của ngoại bang. Chúng ta phải học hỏi và phấn đấu trở thành một dân tộc mới của một quốc gia mới để có một Việt Nam giữ được độc lập tự chủ của mình đồng thời có thể cùng với cả cộng đồng thế giới dấn thân cho hoà bình, hợp tác và phát triển[11]. (vấn đề 3).
          Nhìn về mọi phương diện, nhiệm vụ mở ra một thời kỳ mới cho đất nước đã chín muồi.
Câu hỏi đặt ra là Bộ Chính trị, BCHTƯ và toàn thể đảng viên ĐCSVN có đặt mọi vấn đề phải thảo luận và phải quyết định tại đại hội XII này theo hướng và xứng tầm với 3 vấn đề trọng đại nêu trên đang đặt ra cho đất nước hay không? 
Với cách nhìn đại hội XII coi như là bước đi đầu tiên của ĐCSVN trong nhiệm vụ cùng với cả nước mở ra một thời kỳ mới của đất nước, đại hội nên tập trung vào 3 nội dung chính:   
(1) Cải cách xoá bỏ thể chế chính trị toàn trị hiện nay mang tính chất cai trị áp bức dân và kìm hãm đất nước, chuyển sang chế độ chính trị pháp quyền dân chủ mang lại tự do và sức mạnh toàn diện cho đất nước để phát triển trên con đường dân tộc và dân chủ.
(2) Hoàn thiện kinh tế thị trường nhằm đưa kinh tế ra khỏi tình trạng bế tắc hiện nay và mở ra một giai đoạn phát triển mới để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
(3) Đổi mới xây dựng ĐCSVN trở thành đảng của dân tộc và dân chủ để phấn đấu trở thành đảng cầm quyền trong chế độ nhà nước pháp quyền dân chủ.
Xin được bàn đến 3 nội dung quan trọng này trong một bài sau.
VI.2. Kiến nghị thay đổi cách tiến hành đại hội
Song song với việc chuẩn bị đại hội như các tiểu ban trù bị (nay gọi dưới cái tên chung là ban trù bị) đang tiến hành, đề nghị lập một nhóm ad hoc do một số đảng viên có năng lực trực tiếp xây dựng một báo cáo độc lập tổng kết những vấn đề lớn trong tình hình đất nước và nêu lên những vấn đề lớn tìm lối ra cho đất nước hiện nay; soạn thảo trình đại hội một số dự án cần thiết, ví dụ: (1) dự án cải cách thể chế chính trị, (2) dự án hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, và (3) dự án cải tổ ĐCSVN thành đảng của dân tộc và dân chủ đáp ứng đòi hỏi của việc mở ra một thời kỳ mới cho phát triển đất nước, vân vân…
Báo cáo tổng kết độc lập này của nhóm ad hoc chủ yếu cần nêu lên những nhận định và phương hướng chính của nhiệm vụ phát triển đất nước, không cần đi sâu vào các chi tiết (vì có thể sử dụng những số liệu và dữ liệu cụ thể trong các dự thảo các báo cáo và trong dự thảo báo cáo chính trị do ban trù bị đại hội đảng soạn thảo); các dự án của nhóm ad hoc cần đặc biệt chú ý (a) xác đinh những mục tiêu chiến lược cần đạt được cho cả giai đoạn cải cách và mở đường thay đổi đất nước, (b) thiết kế các tổng lộ trình tiến hành,  (c) trình bầy các dự án thực hiện những bước đi đầu tiên của nhiệm kỳ khoá XII… Báo  tổng kết và các dự án của nhóm ad hoc sẽ được trình bầy và thảo luận trong đại hội, phản biện và so sánh với các văn bản do ban trù bị đại hội soạn thảo, để đại hội tranh luận và đi tới những kết luận, những quyết định đúng đắn và tối ưu.  
Trong quá trình thảo luận tại đại hội, nên dựa trên quá trình tranh luận các vấn đề lớn của đất nước và của đảng làm xuất hiện những quan điểm hay tư duy xuất chúng, như vậy sẽ thuận lợi cho việc tìm người (nhân tài) để đại hội trực tiếp đề cử, tranh cử và bầu cử riêng cho các chức vụ tổng bí thư và các uỷ viên bộ chính trị.
Báo cáo và các văn kiện của nhóm ad hoc cũng như của ban trù bị đại hội cần tranh thủ tối đa những ý kiến xác đáng chắt lọc trong cả nước trong suốt quá trình chuẩn bị trước khi đưa ra thảo luận tại đại hội.
 Nhóm ad hoc có toàn quyền dự thảo các báo cáo và các dự án cho những vấn đề lớn, đề xuất những ý kiến về những vấn đề lớn theo nhận thức và quan điểm của mình, không câu nệ vào bất cứ điều gì – kể cả hiến pháp, cương lĩnh, điều lệ đảng… Nhóm ad hoc có quyền đề nghị với đại hội thảo luận và quyết định những vấn đề lớn khác của quốc gia và của đảng chưa được ban trù bị đại hội đưa vào chương trình nghị sự, trực tiếp phản biện những vấn đề hay quan điểm trong các văn kiện do ban trù bị đưa ra đại hội, vân vân... Nhóm ad hoc có quyền và nên lấy ý kiến rộng rãi, công khai trong cả nước về những vấn đề trọng đại trước khi đưa ra đại hội thảo luận. Toàn bộ sản phẩm của nhóm ad hoc mang tính khuyến nghị, đề xuất và phản biện, phục vụ cho tranh luận trong đại hội, do đó ngoài việc chịu trách nhiệm trước toàn đảng và cả nước về tinh thần trách nhiệm và tính trung thực của mình, nhóm ad hoc có tính độc lập hoàn toàn. Đại hội kết thúc, nhóm ad hoc coi như làm xong việc được giao và tự giải thể.
Tóm lại, nên có hai luồng chuẩn bị song song độc lập với nhau như vậy cho việc tiến hành đại hội, một bên là luồng của ban trù bị đại hội như hiện nay, một bên là luồng của nhóm ad hoc, với mục đích làm sáng tỏ các vấn đề, chứ không một chiều đơn thuần lĩnh hội mọi thứ từ ban trù bị (thực chất là của khoá đương thời) đưa ra để tiếp thu và quán triệt như xưa nay thường làm, thực hiện tranh luận dân chủ và đi tới những quyết định xác đáng, công khai hoá trong cả nước hai luồng chuẩn bị này. Tạo mọi điều kiện cho cả nước theo dõi và tham gia ở mức tối đa có thể vào quá trình thảo luận các vấn đề tại đại hội, qua đó tạo ra một tiền lệ quan trọng cho việc thực hiện công khai minh bạch trong đời sống chính trị của đất nước. 
Trừ một số vấn đề đảng vụ, mọi việc đại hội bàn là việc của quốc gia, đều liên quan mật thiết đến vận mệnh quốc gia, do đó cả nước phải biết và có quyền có ý kiến của mình; đảng cần tìm ra cách thức để thực hiện được đầy đủ quyền này của cả nước tại đại hội. Xin lưu ý: Nhân dân là người chủ đích thực của đất nước, vì vậy đại hội chỉ nên bàn những vấn đề lớn mở ra phương hướng phát triển của đất nước để sau này kiến nghị với quốc hội. Theo Hiến pháp, đại hội không có bất kỳ sự uỷ nhiệm hay uỷ quyền nào của đất nước cho phép quyết định công việc của nhà nước. Vì vậy đại hội không nên bàn lấn sân sang các nhiệm vụ nhà nước của quốc hội khoá tới. Nên như vậy để tránh tình trạng quốc hội khoá tới sẽ chỉ làm cái việc nhắc lại và cụ thể hoá để thực hiện những quyết định của đại hội XII, qua đó quốc hội khoá tới vô hình trung trở thành cấp dưới của Bộ Chính trị, đảng mặc nhiên đứng trên Hiến pháp.  Xin lưu ý cách làm đại hội kiểu này vi phạm điều 2 khoản 2 trong Hiến pháp “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”, vi phạm điều 4 khoản 3 “Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.”
Báo chí được phép đưa tin trung thực quá trình diễn tiến của đại hội, không chịu bất kỳ sự chỉ đạo đạo của cá nhân hay tổ chức nào; đưa tin sai lệch có dụng ý sẽ bị truy cứu trách nhiệm. Như vậy đại biểu đi dự đại hội và toàn bộ hoạt động của đại hội nói chung sẽ phải chịu áp lực và thách thức rất lớn của ống kính báo chí, song điều này là cần thiết và phải chấp nhận.
Cách tiến hành đại hội  như trình bầy trên đòi hỏi phải chọn lọc các đại biểu có chất lượng đi dư đại hội. Chứ không phải lựa chọn đại biểu theo cơ cấu, đi dự đại hội chỉ để quán triệt các thứ khoá đương thời bầy ra và để thực hiện bầu cử theo xắp xếp của khoá đương thời như xưa nay thường làm.
Tôi xin kiến nghị nhóm ad hoc chỉ có 3 thành viên. Tôi xin tiến cử Phó thủ tướng Vũ Đức Đam, Phó thủ tướng Phạm Bình Minh và Bộ trưởng Bộ Kế hoạch & Đầu tư Bùi Quang Vinh là 3 thành viên nhóm này, xin tuỳ Bộ Chính trị hay BCHTƯ quyết định và lựa chọn theo thẩm quyền.
Nhóm ad hoc chỉ nên nhỏ gọn như vậy để làm việc có hiệu quả và dễ quyết đoán. Theo yêu cầu công việc đòi hỏi, nhóm ad hoc có quyền trực tiếp huy động nhân lực, mọi nguồn lực vật chất kỹ thuật khác và tài chính trong cả nước giúp làm mọi việc, để nhóm thực hiện được nhiệm vụ của mình.  
Lý do tôi kiến nghị nhóm ad hoc gồm 3 thành viên này là vì theo hiểu biết của mình, tôi đánh giá đấy là 3 người có bề dầy kiến thức và kinh nghiệm thực tế cần thiết cho nhiệm vụ của nhóm ad hoc, có nhiệt huyết thay đổi đất nước. Cả 3 người này đều là uỷ viên BCHTƯ đảng, không có mảy may bất kể cái gì để có thể nghi ngờ tiếng nói của họ là của các thế lực thù địch theo tiêu chuẩn đo lường của đội ngũ dư luận viên và của báo chí “lề phải”. Chỉ có vấn đề 3 người này dám hay không dám trung thực với sự thật mà thôi, việc này cả nước và đại hội sẽ đánh giá khi vào cuộc. Hiểu biết như vậy, tôi xin tiến cử như vậy, có thể đảng sẽ tiến cử được những người giỏi hơn.
Trong công khai minh bạch đối với cả nước, nếu nhóm ad hoc thành công ở đại hội XII, hầu như chắc chắn dù mạnh yếu thế nào đấy sẽ là một cú hích đầu tiên của quá trình đổi đời đảng này và đất nước này. Nếu thất bại – giả thử vì năng lực và phẩm chất nhóm ad hoc không như mong đợi, hay vì phản ứng bác bỏ quyết liệt của đại hội…, cả nước sẽ thấy rõ đảng đang ở đâu, đất nước này đang làm sao, từng người của đất nước sẽ rút ra được kết luận cho riêng mình.  
Việc chấp nhận phương án có một nhóm ad hoc như thế sẽ báo hiệu đại hội làm việc trên cơ sở thực sự cầu thị và có tranh luận dân chủ, có dũng khí đổi mới đảng, tạo ra không khí cởi mở trong cả nước, rất có lợi cho đảng và cho đất nước. Nếu đề xuất về lập nhóm ad hoc bị bác bỏ và không có một phương án cải tiến tương tự nào thay thế, nghĩa là nếu vẫn tiến hành đại hội theo đường mòn lâu nay, có lẽ con số “99%” nêu bên trên (phần III.2., tr 17) sẽ có xác suất rất cao!..
Thay lời kết:  Hãy cùng nhau nỗ lực khai phá những bước đi đầu tiên!
Trong âm hưởng của mùa thu Cách Mạng Tháng Tám năm nào, giữa những ngày này chúng tôi gặp nhau hàn huyên và trò chuyện về nước non. Khi bàn về tình hình đất nước hôm nay, nhà thơ Nguyễn Duy bật đứng lên như bị dồn nén từ bên trong, anh đọc cho chúng tôi nghe bài thơ “Nhìn từ xa… Tổ quốc!”[12]. 
Thơ viết năm 1988, ngồi nghe mà nhiều chuyện vẫn cứ ngỡ đang là hôm nay… Trong lòng đau đớn tự hỏi: Tổ quốc chúng ta về nhiều mặt vẫn đang đứng im một chỗ, hay là đang đi giật lùi so với thời gian? Cái đang đi giật lùi hiển hiện này phải chăng đang ngoan cố kéo lùi tất cả?!.. …
“Ai?”… Nỗi đau về sự trì trệ của đất nước và sự lộng hành của tha hoá hôm nay quặn lên câu hỏi truy tìm thủ phạm. Hành trình truy tìm xuyên thế kỷ này hôm nay vẫn tiếp tục. Nguyễn Duy đã đưa ra nhiều cái “Ai?" để mổ xẻ. Nguyễn Duy đã tìm được tới cái “Ai?” cuối cùng đang góp phần quyết định kéo lùi tất cả: Nỗi sợ trong mỗi chúng ta!
Dù có sao đừng khoanh tay khủng khiếp thay ngoảnh mặt bó gối
Vâng, để đổi đời chính chúng ta và cả đất nước, việc đầu tiên là mỗi người phải vượt lên nỗi sợ của chính mình. Hãy bắt đầu từ nói thật và đòi chỉ nói thật!.. Đây là bước đi đầu tiên của mọi bước đi đầu tiên. Có gan làm được như thế, cuộc sống sẽ mách bảo chúng ta những bước đi tiếp. Bản thân tôi cũng đang cố gắng như vậy. Đơn giản vì không thể há miệng chờ sung rụng, càng không thể chờ được quyền lực bố thí!
Sự thật là đất nước đang lâm nguy chưa từng có – trước hết từ bên trong, hoạ bành trướng tôi không sợ bằng. Đụng vào sửa chữa bất cứ vấn đề gì cho đến nơi đến chốn cũng có thể dẫn đến sụp đổ tất cả, còn hơn cả kiếm củi ba năm thiêu một giờ!.. Hàng thập kỷ nay sự tha hoá của quyền lực đã lên tới đỉnh điểm: Sẵn sàng mất tất cả nhưng giữ đến cùng chế độ! Nhưng nếu duy trì nguyên trạng, thì èo uột và không thể tồn tại bên cạnh Trung Quốc. Cái ngu dốt và cái sợ đang làm phức tạp thêm tình trạng tiến thoái lưỡng nan này.
Đất nước, và tất cả mỗi chúng ta – kẻ cai trị cũng như người bị cai trị - chỉ có một lối thoát: Mỗi người hãy vượt lên nỗi sợ của chính mình! Kẻ cai trị hãy vượt lên nỗi sợ mất quyền lực và lo bị trừng trị. Người bị cai trị hãy vượt lên nỗi sợ bị đàn áp![13] Bởi vì không phải kẻ thù từ bên ngoài, mà chính cái sợ này sâu thẳm bên trong mỗi chúng ta đang bịt mắt chúng ta, tước vũ khí chúng ta, sui khiến chúng ta hành động theo bản năng mù quáng và bầy đàn.
Chính nỗi sợ trong mỗi chúng ta như thế giờ đây là thứ cỏ khô, có thể bất cứ lúc nào bất giác bắt lửa đốt rụi đất nước, thiêu sống người tốt cũng như kẻ xấu! Chính vì có nỗi sợ trong mỗi chúng ta như thế, tất cả chúng ta đang bị giam hãm trong sự thấp hèn riêng, và qua đó kéo dài mãi cái thấp hèn chung đang giam hãm cả nước. Mỗi người chúng ta phải vượt lên nỗi sợ này trong chính mình như thế, để tất cả cùng nhau không phân biệt một ai lựa chọn sự đổi đời cho tổ quốc có chỗ đứng cho mỗi chúng ta, với tính cách là con người tự do! Một tổ quốc như thế, chính là tổ quốc trong tim mỗi chúng ta! Đó thực sự là tổ quốc của chúng ta! Có một tổ quốc như thế, mỗi chúng ta sẽ có cái quý giá nhất và đáng sống nhất trên đời này: Tự do! 
Đất nước của con người tự do như thế, sẽ là bất khả xâm phạm đối với bất kỳ kẻ thù nào. Đất nước của con người tự do như thế, sẽ có chỗ đứng xứng đáng trong hàng ngũ văn minh nhân loại. 
Đoàn kết, hoà giải, tổ quốc trên hết, để cùng nhau đổi đời chính mình và đổi đời đất nước. Đấy phải là sự lựa chọn của tất cả chúng ta hôm nay cho tổ quốc! Đã đến lúc phải trả lại hai chữ “chúng ta” cho tổ quốc trong tim mình!
Hà Nội, Tháng Tám 2014.
Nguyễn Trung
-----------------------------------
 [1] Nguyễn Trung, “Hiểm hoạ đen”, http://www.vietstudies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_HiemHoaDen.htm         
[2] Xin lưu ý: Hai nước Đức và Nhật thời kỳ đi vào chủ nghĩa phát xít nhằm khẳng định vị thế đế chế của mình đều lấy chủ nghĩa dân tộc làm động lực bên trong và đã dẫn tới chiến tranh thế giới II. Điều đang lo ngại là hiện tượng này ngày nay lại đang xảy ra ở Trung Quốc và nước Nga của Putin.
[3] Nguyễn Trung, “Còn cay đắng hơn cả câu chuyện Mỵ Châu – Trọng Thuỷ”, http://www.viet-studies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_CayDangHonMyChauTrongThuy.htm
[4] Ví dụ: Hiểu biết thiếu hụt và phản ứng bầy đàn đã giúp cho quyền lực mềm Trung Quốc tạo ra bạo loạn trong 2 ngày 13 và 14-05-2014 vừa qua tàn phá khoảng 800 xí nghiệp FDI nhân sự kiện giàn khoan HD 981 – chỉ riêng  một vụ việc này thôi đủ nói lên những điều phải nói…
[5] Tìm xem Nguyễn Trung,  “Vượt lên nỗi sợ”, http://www.viet-studies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_VuotLenNoiSo.htm.
[6] Nguyễn Trung, thư ngày 24-07-2014 gửi các thành viên chủ chốt Bộ Chính trị về đại hội XII sắp tới của ĐCSVN.
[7] Nguyễn Trung, thư ngày 24-07-2014 gửi các thành viên chủ chốt trong Bộ Chính trị.
[8]Riêng lãng phí và tham nhũng hàng năm ước tính có thể lên tới khoảng 5 - 10% GDP hoặc hơn nữa, tổn thất do lãng phí hay đánh mất cơ hội tuy không lượng hoá được nhưng vô cùng nghiêm trọng – trước hết vì kìm hãm hay cướp đi khả năng chuyển đổi nền kinh tế sang bước phát triển mới. Chuyên  gia USAID, Olin McGill ngạc nhiên với “chỉ số xếp hạng môi trường kinh doanh” đã đạt được, thu nhập bình quân đầu người ở VN tại sao chỉ là 1.400 USD/năm, lẽ ra nó phải là ở mức trên 7.000 USD/người. Sự thật là thế nào? Ý kiến của McGill đúng hay sai? V… V… (nguồn thanh niên -  12-08-2014 - http://www.thanhnien.com.vn/pages/20140722/viet-nam-le-ra-phai-co-muc-thu-nhap-tren-7000-usdnguoi.aspx).
[9] (trong các văn kiện chính thức của đảng mục tiêu công nghiệp hoá này được diễn đạt loanh quanh theo ngôn ngữ cao su là "phấn đấu cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020")
[10]Khát vọng này ra đời từ Cách mạng Tháng Tám và trở thành tiêu chí quốc gia.
[11] Trong bài II của loạt bài “Viễn tưởng” bàn về sự nghiệp duy tân đất nước, tôi đã đề cập đến nhiệm vụ cải cách toàn diện này, (tìm xem: http://www.viet-studies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_VienTuong_2.htm, 20-10-2011). Song nhìn vào bối cảnh quốc tế hôm nay trong tình hình đang nổi lên vấn đề “siêu cường Trung Quốc”, tôi nghĩ rằng dân tộc Việt Nam ta đã đến lúc phải thay đổi hoàn toàn chính mình mới có thể tự khẳng định được mình trong thế giới nhiều vấn đề nóng bỏng này.
[13] Tham khảo: Aung San Suu Kyji “Tự do khỏi nỗi khiếp sợ”,  http://www.procontra.asia/?p=662.

    Tác giả gửi cho viet-studies ngày 20-8-2014
(Viet-studies)

Bạo động ở Ferguson khiến cộng đồng người Việt lân cận lo ngại

Người biểu tình xuống đường phản đối vụ bắn chết Michael Brown tại Ferguson, Missouri.
Người biểu tình xuống đường phản đối vụ bắn chết Michael Brown tại Ferguson, Missouri.
Tình trạng bạo động kéo dài ở thành phố Ferguson, bang Missouri, Hoa Kỳ khiến cộng đồng người Việt sinh sống ở những khu vực kế cận lo ngại và đề cao cảnh giác.

Trong nhiều ngày qua, những người biểu tình đã xung đột với lực lượng an ninh, yêu cầu công lý trong vụ một cảnh sát da trắng bắn chết một thanh niên da đen không vũ trang hôm 9/8.

Nhiều người cho rằng vụ án này liên quan đến phân biệt sắc tộc, một vấn đề nghiêm trọng chưa được giải quyết ở nước Mỹ.

Một cư dân gốc Việt làm việc và sinh sống cách trung tâm vụ bạo động chừng 15 phút lái xe cho hay nạn hôi của, đập phá, bạo loạn ở Ferguson đã gây ảnh hưởng đến sinh hoạt của các vùng lân cận cũng như tạo ra tâm lý bất an cho mọi người. 

Anh Randy Nguyễn, nhân viên của Kim Son Vietnamese Bistro, một nhà hàng Việt Nam ở thành phố St. Louis bên cạnh thành phố Ferguson, thuật lại với VOA Việt ngữ:

Randy Nguyễn: Ảnh hưởng cũng nhiều lắm vì gần đây Mỹ đen đi vòng vòng hôi của nhiều lắm. Họ phá các cửa tiệm kinh doanh, cướp đồ quá chừng luôn.
VOA: Kể từ vụ bạo động, công việc làm ăn buôn bán của anh có bị ảnh hưởng thế nào không?

Randy Nguyễn: Cũng chậm lại nhiều lắm vì người ta sợ ra đường. Mọi lần buôn bán khá lắm nhưng hổm rày chậm lại chút.

VOA: Tình hình an ninh tại khu vực anh sinh sống và làm ăn như thế nào?

Randy Nguyễn: Ban đêm thấy khách Mỹ đen vô cũng lo sợ, sợ cướp. Thấy lo lắng dữ lắm, thấy sợ lắm, làm gì cũng hấp tấp làm cho lẹ để mau về nhà.VOA: Xung quanh chỗ anh có hàng quán hay cửa tiệm nào bị cướp hay bị ảnh hưởng gì không?

Randy Nguyễn: Mới tuần rồi có một cây xăng bị mười mấy người xông vô cướp luôn.

VOA: Người Việt sinh sống ở đó có đông không?

Randy Nguyễn: Dạ cũng đông. Khách hàng của tiệm tôi cứ 10 người thì có 8 người Việt Nam.

VOA: Còn khu vực anh sinh sống có nhiều người Việt không?

Randy Nguyễn: Dạ không, Mỹ đen nhiều lắm.

VOA: Kể từ vụ bạo động tới nay, anh có đi đến gần khu đó không?

Randy Nguyễn: Khu đó trước nay mình không dám tới nữa vì đa số dân ở thành phố đó là Mỹ đen. Người Mỹ trắng và Á Đông dọn đi hết rồi. Bây giờ ở đó cảnh sát chặn đường, chỉ cho ra vô từ mấy giờ tới mấy giờ thôi. Tối thì họ chặn hết lại.
VOA: Chợ, trường học, công sở tại khu vực anh ở cách đó 15 phút lái xe có hoạt động bình thường không?

Randy Nguyễn: Trường học cho học sinh trễ học một, hai ngày. Chợ Mỹ thì vẫn mở bình thường.
VOA: Tinh thần của cư dân ở đó thế nào, đặc biệt là người gốc Việt?

Randy Nguyễn: Bây giờ lo lắng, sợ Mỹ đen làm gì mình, không được an toàn.  Lúc trước không lo lắm. Bây giờ tại vì cảnh sát và dân Mỹ đen ở đây phẫn nộ quá. Dân nói là muốn công lý cho vụ án mạng. Trong vụ này, thanh niên da đen bị cảnh sát bắn sau khi anh ta cướp, nhưng cảnh sát bắn anh ta thì cũng sai. Lúc trước thì mình không sợ gì mấy. Bây giờ thì cũng sợ lắm.

VOA: Sinh sống ở Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, một xứ sở nhiều màu da, bạo động sắc tộc và kỳ thị màu da là một trong những vấn đề mà mọi người cùng quan tâm. Vụ bạo động ở Ferguson lần này cho anh suy nghĩ thế nào về vấn đề màu da và sự kỳ thị ở nước Mỹ?

Randy Nguyễn: Mình cũng không kỳ thị ai hết. Mình chỉ an phận, lo đi làm việc rồi đi về. Mình không kỳ thị da màu. Ai mình cũng đối xử như nhau vì mình làm nhà hàng, mình sinh sống cũng nhờ khách hàng đủ sắc tộc.

VOA: Lúc nãy anh nói vùng có nhiều người Mỹ da đen anh cũng sợ tới. Có phải đó là một sự phân biệt?

Randy Nguyễn:  Cái đó là ai dùng bạo lực thì mình cũng sợ thôi, không phải vì da màu. Ai cũng có thể bạo lực hết chứ không phải Mỹ đen không, nhưng vì từ vụ Ferguson này thấy họ cướp đồ ghê hồn quá.
Người biểu tình và cảnh sát đổ lỗi cho nhau về việc khơi mào làm cho các cuộc biểu tình ôn hòa ban đầu trở nên bạo động. Ferguson là vùng có đa số cư dân da đen sinh sống nhưng giới lãnh đạo chính trị hầu hết là da trắng.

Cơ quan Điều tra Liên bang Mỹ cùng các cơ quan chức năng của tiểu bang và địa phương đang tiến hành điều tra về các cáo buộc vi phạm dân quyền liên quan tới vụ án mạng ở Ferguson.
Trà Mi
(VOA)

Vai trò truyền thông Hoa Kỳ trong sự sụp đổ chính quyền Ngô Đình Diệm

ngo-diemx-large
Cố Tổng Thống  Ngô Đình Diệm
Năm 1963 là năm mà các tín đồ Phật giáo ở miền Nam Việt Nam được cả thế giới chú ý đến. Thông qua các cuộc biểu tình, văn chương phản kháng, các vụ tuyệt thực và tự thiêu, các tín đồ Phật giáo đã phản đối sự phân biệt đối xử nhằm vào họ kể từ thời thực dân Pháp, và sau đó là dưới thời chính quyền Công giáo của Ngô Đình Diệm do Hoa Kỳ hậu thuẫn. Diễn ra trong bối cảnh thời kỳ Chiến tranh Lạnh của chủ nghĩa toàn cầu, các tín đồ Phật giáo này nhận thức rằng sự xuất hiện của các cố vấn Mỹ – và quan trọng hơn cả là báo chí quốc tế – tại miền Nam Việt Nam như một phần của nỗ lực chiến tranh chống lại Chủ nghĩa cộng sản, đã cho họ cơ hội công khai sự đấu tranh của mình trước thế giới và thúc đẩy phong trào của họ. Trong khoảng thời gian từ tháng 5 đến khi chính quyền Diệm sụp đổ vào tháng 11 năm 1963, các cuộc biểu tình Phật giáo ngày một căng thẳng vốn bị đàn áp càng lúc càng mạnh tay bởi Chính quyền Nam Việt Nam đều mang lại sự đồng cảm quốc tế dành cho phong trào Phật giáo và khiến chính quyền Diệm độc đoán bị chỉ trích trên toàn thế giới.

Với việc thế giới theo dõi sát cuộc chiến do Hoa Kỳ dẫn đầu chống lại Chủ nghĩa cộng sản, Chính quyền Hoa Kỳ còn phải gánh chịu sự phản đối quốc tế đối với vấn đề hỗ trợ quân sự và tài chính cho chế độ đàn áp của Diệm. Đồng tình với công chúng và quốc hội Hoa Kỳ, các chính phủ trên khắp thế giới bắt đầu chất vấn về các biện pháp do chính quyền Kennedy vận dụng vào cuộc chiến chống lại Chủ nghĩa cộng sản. Lập trường không thỏa hiệp của Diệm đối với các tín đồ Phật giáo được truyền thông quốc tế ghi nhận tỉ mỉ như là một tình huống đã chuyển biến thành một cuộc khủng hoảng chính trị toàn diện. Ngoài ra, việc Diệm không được lòng dân còn trở nên tồi tệ hơn bởi những tuyên bố bài Phật giáo công khai và thường xuyên của người em dâu – bà Ngô Đình Nhu – trước truyền thông Mỹ, cho dù tất cả những tuyên bố này Diệm đều không phản đối. Sau nhiều nỗ lực thất bại nhằm thúc đẩy Diệm hướng đến những hành động hòa giải đối với các tín đồ Phật giáo, các tin tức truyền thông mang tính tiêu cực quá mức và sau đó là công luận quốc tế về Diệm và cuộc khủng hoảng Phật giáo đã đóng vai trò trung tâm trong việc Washington quyết định ủng hộ một cuộc đảo chính lật đổ Diệm.

Cuộc lật đổ Diệm gây tranh cãi đã được nhiều sử gia tìm hiểu rộng rãi bởi nó được xem như một trong những bước ngoặt trọng yếu của Chiến tranh Việt Nam. Tranh cãi tồn tại xung quanh những lý do giải thích tại sao chính quyền Kennedy lại đi đến quyết định ủng hộ một cuộc đảo chính. Vài sử gia lập luận rằng các cuộc đàm phán của Diệm với miền Bắc Việt Nam đã khiến Washington ủng hộ cuộc đảo chính. Tuy nhiên, những tìm hiểu của tôi, dựa trên việc phân tích các tư liệu chính phủ và tin tức truyền thông, lại ủng hộ quan điểm cho rằng chính sự phản đối của công luận quốc tế dành cho Diệm là yếu tố chủ chốt.

Trong cuộc tranh luận xung quanh việc lật đổ Diệm, vài sử gia tập trung vào Cuộc khủng hoảng Phật giáo. Các sử gia này tán thành chắc chắn rằng việc xử lý tình thế của Diệm đã góp phần lớn vào việc ông ta trở thành gánh nặng đối với chính quyền Kennedy. Bài phân tích này cho rằng dư luận giữ một vai trò nhất định, vì trở thành gánh nặng tức là không được lòng dư luận, nhưng các tranh luận thường giảm bớt vai trò trung tâm của truyền thông. Các sử gia như Philip E. Catton, Seth Jacobs và Howard Jones tập trung vào ảnh hưởng của cuộc lật đổ Diệm lên sự can dự sau đó của Hoa Kỳ vào miền Nam Việt Nam.[1] Các sử gia khác – chẳng hạn Ross A. Fisher, William Conrad Gibbons và Francis X. Winters – đã cố gắng xác định những ai bên trong chính quyền Kennedy chịu trách nhiệm cho quyết định sau cùng nhằm ủng hộ một cuộc đảo chính chống lại Diệm.[2] Mặt khác, các sử gia John Prado và Ellen J. Hammer thuật lại chi tiết cuộc khủng hoảng Phật giáo đã dẫn đến cuộc đảo chính ra sao.[3]

Bài luận này gia tăng sức nặng đáng kể cũng như bổ sung chi tiết mới vào quan điểm cho rằng Diệm đã trở thành một gánh nặng gây trở ngại trong dư luận. Sự tập trung của tôi vào vai trò truyền thông trong cuộc lật đổ Diệm cũng cho thấy truyền thông là một yếu tố quan trọng định hình nên cuộc Chiến tranh Việt Nam trước cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân năm 1968 – sự kiện vốn được biết đến rộng rãi như một bước ngoặt trong chiến tranh nhờ vào vai trò của báo chí.

Cuộc khủng hoảng Phật giáo bắt đầu vào ngày 8 tháng 5 năm 1963, khi truyền thông quốc tế ghi nhận tin tức về các vụ tấn công vô cớ của binh lính chính quyền Việt Nam Cộng hòa (Việt Nam CH) nhằm vào những Phật tử biểu tình hòa bình tại Huế.[4] Một ngày trước đó, các tín đồ Phật giáo đã treo cờ tại nhà và chùa trên khắp địa phận Huế để kỷ niệm lễ Phật đản lần thứ 2507. Theo luật Nam Việt Nam (Nghị định số 189), chỉ có cờ quốc gia Việt Nam được phép treo công khai.[5] Tuy nhiên, luật này hiếm khi có hiệu lực, điển hình là việc các tín đồ Công giáo treo cờ giáo hoàng tràn lan một tuần trước cuộc khủng hoảng Phật giáo nhân lễ kỷ niệm thụ phong chức tổng giám mục cho Ngô Đình Thục – anh trai Diệm.[6] Vì vậy vào ngày Phật đản, các nỗ lực thi hành Nghị định 189 của cảnh sát đã gặp phải sự phản kháng. Sau đó cảnh sát tiến hành giật đổ các lá cờ tôn giáo. Ngày tiếp theo, các tín đồ Phật giáo tức tối tập hợp tại đài phát thanh ở Huế, nơi bài diễn văn từ người lãnh đạo của họ là hòa thượng Thích Trí Quang phản đối sự đàn áp thấy rõ của chính quyền Việt Nam CH đối với tự do tôn giáo và sự thiên vị dành cho các tín đồ Công giáo bị khước từ không cho phát sóng.[7] Khi những lời hô hào của Tỉnh trưởng không giải tán được đám đông, quân đội chính quyền Việt Nam CH đã nổ súng và ném ít nhất mười lăm quả lựu đạn vào đoàn biểu tình hòa bình, làm 9 người chết.[8]

Phản ứng của Diệm trước cuộc đổ máu ngày 8 tháng 5 về cơ bản đã định hình những nỗ lực hòa giải đối với các tín đồ Phật giáo xuyên suốt cuộc khủng hoảng. Trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh, ông ta có cớ để đổ lỗi cho những người Cộng sản, quả quyết rằng một Việt Cộng đã ném lựu đạn vào đám đông, và rằng quân đội chính quyền Việt Nam CH chỉ nổ súng nhằm bảo vệ những người biểu tình. Tuy nhiên, lập luận này chỉ làm mất uy tín của chính quyền Việt Nam CH và khiến các tín đồ Phật giáo tức giận bởi không ai tin vào điều đó. Các nhân chứng đã tận mắt chứng kiến quân đội chính quyền Việt Nam CH mở đầu các vụ tấn công vào đám đông dù không có bất cứ khiêu khích nào.[9] Vì Washington lập tức nhận ra khả năng gây kích động của cuộc tranh cãi về Phật giáo này và dự đoán trước về ‘một vài phản ứng quốc tế đối với sự kiện’ nên họ đã hối thúc Diệm áp dụng các biện pháp phù hợp nhằm hòa giải với các tín đồ Phật giáo.[10] Tuy nhiên, thay vì có những nỗ lực tức thời nhằm khắc phục tình hình, Diệm chỉ gặp mặt các lãnh đạo Phật giáo vào ngày 15 tháng 5, tạo thời gian cho họ gia tăng bất bình.

Cuộc tranh cãi về chuyện treo cờ nhanh chóng chuyển biến thành một cuộc khủng hoảng chính trị. Các tín đồ Phật giáo thảo ra một tuyên ngôn năm điểm, trong đó đề ra các mục tiêu chính trị của các cuộc biểu tình diễn ra sau đó, đồng thời yêu cầu chính quyền Diệm:

1. Cho phép treo cờ Phật giáo;

2. Trao cho tín đồ Phật giáo các quyền bình đẳng như tín đồ Công giáo;

3. Dừng các cuộc bắt bớ và khủng bố những người theo Phật giáo;

4. Trao quyền tự do thuyết giáo và cử hành lễ nghi tôn giáo cho các tín đồ Phật giáo;

5. Bồi thường cho những người bị giết hại vào ngày 8 tháng 5, đồng thời trừng phạt những kẻ phải chịu trách nhiệm về tội danh “giết người”.[11]

Trong cuộc họp giữa chính quyền Việt Nam CH với giới Phật giáo, Diệm vẫn duy trì lập trường cứng rắn đối với các tín đồ Phật giáo. Ông ta khẳng định rằng không có sự đàn áp tôn giáo tại miền Nam Việt Nam và những bất công mà các tín đồ Phật giáo gánh chịu cần phải quy cho nhà cầm quyền địa phương.[12] Trong khi Diệm hứa hỗ trợ tài chính – một khoản khiêm tốn chỉ 500.000 đồng (7.000 USD) – cho các gia đình nạn nhân, ông ta nhấn mạnh rằng chính quyền Việt Nam CH sẽ không chịu trách nhiệm về các sự kiện diễn ra vào ngày mồng 8.[13] Chẳng có gì ngạc nhiên khi cuộc họp này không thể xoa dịu các yêu cầu của các tín đồ Phật giáo. Cách xử lý hời hợt tình trạng phân biệt đối xử tôn giáo của Diệm khó lòng được các tín đồ Phật giáo đón nhận. Họ đã dùng đến các cuộc mít-tinh và biểu tình quần chúng, tuyệt thực, và phổ biến văn chương phản kháng trên khắp Việt Nam.[14] Các tín đồ Phật giáo sau đó trở thành một nhóm được xem là phe đối lập chính trị.[15]

Vào những ngày đầu của cuộc khủng hoảng Phật giáo, công chúng Mỹ và chính quyền Kennedy ít chú ý đến Việt Nam. Truyền thông Mỹ tràn ngập hình ảnh các cuộc đấu tranh về quyền công dân tại quê nhà. Vì vậy, Kennedy phải tập trung đối phó với các cuộc biểu tình chống lại chính quyền của ông ta.[16] Tuy nhiên, từ buổi đầu của cuộc khủng hoảng Phật giáo, các tín đồ Phật giáo đã thể hiện rõ ý định tranh thủ báo chí phương Tây; họ mang theo những biểu ngữ bằng cả tiếng Việt và tiếng Anh, đồng thời chọn một trong số ít những hòa thượng biết nói tiếng Anh làm người phát ngôn nhằm cho phép những thông điệp của họ có thể tiếp cận độc giả quốc tế.[17] Ở giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng, trong khi tính hiệu quả truyền thông còn chưa rõ rệt, các biểu ngữ này rõ ràng là một nỗ lực nhằm gửi đi thông điệp về sự phản kháng của Phật giáo đến các bộ phận dân cư trên khắp thế giới. Những nỗ lực này chắc chắn đã góp phần khiến cho Cuộc khủng hoảng Phật giáo lan rộng ra quốc tế.

Khi tháng 6 đến gần, Cuộc khủng hoảng Phật giáo đã vượt ra ngoài tầm kiểm soát. Diệm áp dụng vũ lực ngày một mạnh tay nhằm đàn áp các cuộc biểu tình chống chính quyền của ông ta, vốn đang lan rộng khắp miền Nam Việt Nam. Vào ngày 2 và 3 tháng 6, quân đội chính quyền Việt Nam CH đã trấn áp các cuộc biểu tình Phật giáo tại thị xã Quảng Trị và thành phố Huế bằng hơi cay, chất khí vốn gây khó thở và bỏng da.[18] Riêng ngày mồng 3, báo cáo cho hay 67 thanh niên phải nhập viện và 3 người chết vì lý do này.[19] Ngày tiếp theo chứng kiến gần 200 thanh niên tuyệt thực tại chùa Từ Đàm nhằm phản đối sự dã man và phân biệt đối xử của chính quyền.[20] William Trueheart, đại biện lâm thời của Hoa Kỳ tại Việt Nam, khăng khăng rằng Diệm đã đưa ra những nhượng bộ rộng rãi trước các tín đồ Phật giáo nhằm giảm bớt căng thẳng. Điều đó khiến chính quyền Kennedy thất vọng bởi

    Cách xử lý thiếu khéo léo của chính phủ đã cho phép một sự kiện cục bộ tại Huế phát triển thành một cuộc khủng hoảng chính trị tiềm tàng. Vấn đề có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho sự ổn định của chính quyền trừ khi Diệm có khả năng đạt được một sự hòa giải nhanh chóng với các tín đồ Phật giáo.[21]

Một lần nữa, chịu sức ép từ Washington, Diệm đã đàm phán với các lãnh đạo Phật giáo vào ngày 5 tháng 6. Lần này, ông ta đã chấp nhận thêm các yêu cầu của các tín đồ Phật giáo và đưa ra một tuyên bố trên đài phát thanh về các điều khoản của thỏa hiệp.[22]

Ngay khi cuộc khủng hoảng dường như gần đi đến hồi kết thì các nỗ lực nhằm tạo dựng một thỏa hiệp của Diệm đã bị bà Nhu phá vỡ. Bà đã phá hoại các cố gắng của chính quyền Việt Nam CH trong việc nhượng bộ các Phật tử bằng những tuyên bố công khai bài Phật giáo. Một ngày sau thỏa hiệp, thông qua Phong trào Phụ nữ Liên đới của mình, bà Nhu đã đưa ra một nghị quyết đi ngược lại chính sách hòa giải của chính quyền trước báo chí.[23] Nghị quyết chỉ trích những người biểu tình Phật giáo là những người theo chủ nghĩa phản dân tộc ‘bị cộng sản lợi dụng và kiểm soát’.[24] Trueheart nhấn mạnh rằng Diệm ‘đã bác bỏ nó’ bởi nghị quyết gây tổn hại cao độ đến thỏa thuận hòa hoãn.[25] Quan trọng hơn, điều mà Trueheart bận tâm là

    Tuyên bố [của bà Nhu] sẽ phá vỡ sự ủng hộ của công chúng và Quốc hội Mỹ dành cho chính quyền Việt Nam CH. Chính quyền Việt Nam CH không thể mong đợi chính phủ Hoa Kỳ tiếp tục viện trợ và hỗ trợ chi phí đắt đỏ về nhân lực và vật lực trừ khi chính sách này [được] người dân Hoa Kỳ hoàn toàn ủng hộ.[26]

Cuối cùng, điều này trở thành lý do để chính quyền Kennedy quyết định ủng hộ một cuộc đảo chính lật đổ Diệm. Tuy nhiên, Diệm từng tuyên bố rằng bà Nhu được tự do thể hiện quan điểm của mình.[27] Với hành động này, Diệm đã đặt ra một tiền lệ khuyến khích bà Nhu về sau trực tiếp đưa ra những tuyên bố công khai trước truyền thông phương Tây, điều càng khiến độc giả quốc tế chắc chắn rằng chính quyền Việt Nam CH là một nền độc tài tàn bạo.

Trong khi các tờ báo lớn dõi theo tình hình ngày một xấu đi ở Việt Nam, Cuộc khủng hoảng Phật giáo vẫn chưa chiếm vị trí trung tâm của tin tức thế giới cho đến ngày 11 tháng 6 năm 1963. Việc đưa tin về đề tài Phật giáo của tờ tạp chí Time phát hành hàng tuần đã thể hiện điều này (tham khảo Hình 1 – Vui lòng download file để xem). Trên thực tế, các bài báo nói về cuộc khủng hoảng chỉ được xuất bản vào tuần thứ ba của tháng 6, tuần lễ ngay sau sự kiện vốn thu hút sự tập trung của quốc tế vào chính quyền Việt Nam CH và buộc độc giả quốc tế phải chất vấn về sự dính líu của Hoa Kỳ tại Việt Nam.

Sáng ngày 11 tháng 6 năm 1963, lão hòa thượng Thích Quảng Đức 73 tuổi ngồi tại một ngã tư nối hai con phố chính của Sài Gòn. Trước sự chứng kiến của khoảng 350 người biểu tình cùng những người đi đường hiếu kỳ, ông đã tự thiêu đến chết.[28] Phía sau là biểu ngữ bằng tiếng Anh và tiếng Việt với dòng chữ ‘Một tăng lữ Phật giáo tự thiêu vì năm nguyện vọng của chúng tôi’.[29] Cảnh tượng này được duy nhất hai phóng viên Hoa Kỳ ghi lại, những người đã không bỏ qua lời mách nước từ một đại diện Phật giáo rằng sẽ có “điều quan trọng” xảy ra ngày hôm đó.[30] Phóng viên tờ New York Times David Halberstam đã miêu tả rõ cảnh tượng mà ông chứng kiến ‘Lúc tự thiêu, ông ấy không ngồi bất động, không thốt ra một âm thanh nào, vẻ điềm tĩnh bên ngoài của ông trái ngược hẳn với những người đang rền rĩ kêu khóc xung quanh ông’.[31]

Ngay cả những người không có mặt tại hiện trường cũng bị lay động bởi bài tường thuật của Halberstam và sự hy sinh của vị hòa thượng. Malcolm Browne, một phóng viên của hãng Associated Press cũng hiện diện và giữ đủ bình tĩnh để chụp ảnh. Khi các bức ảnh của ông lên trang nhất báo chí ở khắp mọi nơi, những chỉ trích dành cho chính quyền Diệm tăng lên nhanh chóng. Kennedy sau đó bình luận rằng ‘chưa có tin tức nào trong lịch sử lại tạo ra quá nhiều xúc cảm trên khắp thế giới như tin tức ấy’.[32] Sự hy sinh của Thích Quảng Đức đã khiến dư luận quay sang phản đối chế độ Diệm; ngay cả Marguerite Higgins, một trong số ít những người ủng hộ Diệm trong báo giới Sài Gòn cũng buộc phải ghi nhận tội lỗi của Diệm:

    Tổng thống Ngô Đình Diệm đang làm gì mà khiến các Phật tử này phải chọn một cái chết khủng khiếp là tự thiêu như vậy?… Thực tế rằng [câu hỏi này] quy trước tội lỗi cho Diệm cũng không khiến tôi băn khoăn chút nào… đó cũng là giả định của tôi.[33]

Tác động truyền thông của các vụ tự thiêu là không thể phủ nhận. Hành động tự sát của Thích Quảng Đức đã thành công trong việc hướng sự chú ý vào hoàn cảnh tuyệt vọng của các Phật tử ở miền Nam Việt Nam. Các cuộc biểu tình của họ đã đánh vào một giá trị mà người Mỹ nâng niu nhiều nhất: quyền tự do tôn giáo.[34]

Nếu hành động tự sát của Thích Quảng Đức không khiến dư luận quốc tế chú ý thì cuộc phỏng vấn của CBS với bà Nhu chắc chắn làm được điều đó. Bình luận về vụ tự thiêu của Thích Quảng Đức, bà ta đã nhẫn tâm nói (bằng tiếng Anh – NBT) rằng “Các lãnh đạo Phật giáo đã làm gì thế này?… Họ đã nướng barbecue một trong những hòa thượng của họ, người đã bị họ đầu độc…’[35]
Bà Trần Lệ Xuân

Đúng như dự đoán, Diệm khước từ lên án tuyên bố của bà Nhu.[36] Cho tới lúc này, ngay cả những người Mỹ từng có thiện cảm với chế độ của Diệm bằng cách tỏ thái độ ngờ vực (với sự việc) cũng cảm thấy kinh sợ trước việc chính quyền coi vụ tự thiêu của Thích Quảng Đức như không có gì và việc Diệm khước từ lên án thái độ ấy.[37] Theo như nhận định của Jacobs,

    Bà Nhu… là em dâu của tổng thống, bà sống trong dinh và giữ một ghế trong Quốc hội. Cũng là lẽ tự nhiên khi cho rằng khi tổng thống không bác bỏ bà ta đã phát ngôn thay mặt chính phủ.[38]

Download phần còn lại của văn bản tại đây: Truyen thong Hoa Ky trong su sup do chinh quyen Diem.pdf - See more at: http://nghiencuuquocte.net/2014/08/20/truyen-thong-hoa-ky-ngo-dinh-diem/#sthash.VCk1zExj.dpuf
Download phần còn lại của văn bản tại đây: Truyen thong Hoa Ky trong su sup do chinh quyen Diem.pdf - See more at: http://nghiencuuquocte.net/2014/08/20/truyen-thong-hoa-ky-ngo-dinh-diem/#sthash.VCk1zExj.dpuf

—————-

[1] Catton lập luận rằng việc lật đổ Diệm đã củng cố cam kết của Mỹ với Nam Việt Nam, bởi ‘tình trạng lộn xộn về chính trị [kết quả của việc lật đổ Diệm] đã phá hoại nỗ lực chiến tranh, vì thế dọn đường cho quá trình Mỹ hóa cuộc xung đột đầy rủi ro’. Mở rộng tranh luận này, Howard Jones – như tựa đề cuốn sách của ông cho thấy – đã nghiên cứu việc lật đổ Diệm, cùng với vụ ám sát Kennedy, đã làm kéo dài cuộc Chiến tranh Việt Nam ra sao. Xem Philip E. Catton, Diem’s Final Failure: Prelude to America’s War in Vietnam, Đại học Kansas, Kansas, 2002, trang 205; Seth Jacobs, Cold War Mandarin: Ngo Dinh Diem and the origins of America’s war in Vietnam, 1950-1963, Rowman & Littlefield, Lanham, Md., 2006, trang 185-189; Howard Jones, Death of a Generation: How the Assassinations of Diem & JFK Prolonged the War, OUP, New York, 2003.

[2] Fisher lập luận rằng ‘Diệm có một nhóm lớn những người ngưỡng mộ cũng như những người chỉ trích bên trong chính quyền Kennedy, biến vai trò của người Mỹ trong việc lật đổ ông ta thành một giai đoạn mà trong đó như Robert Kennedy đã nói là  ‘chính phủ chia làm hai’’. Ross A. Fisher, ‘The Kennedy Administration and the Overthrow of Ngo Dinh Diem: What Happened, Why Did It Happen, and Was It a Good Idea?’, trong Ross A. Fisher, John Norton Moore và Robert F. Turner (eds.), To Oppose Any Foe: The Legacy of U.S. Intervention in Vietnam, Carolina Academic Press, Durham, Bắc Carolina, 2006, trang 4; William Conrad Gibbons, The U.S. Government and the Vietnam War: Executive and Legislative Roles and Relationships, Part II: 1961-1964, Princeton University Press, Princeton, NJ., 1986; Francis X. Winters, The Year of the Hare: America in Vietnam, January 25, 1963 – February 15, 1964, University of Georgia Press, Athens and London, 1997.

[3] John Prados, The Hidden History of the Vietnam War (Chicago: Ivan R. Dee, 1995); Ellen J. Hammer, A Death in November: America in Vietnam, 1963 (New York: E.P. Dutton, 1987); Howard Jones, Death of a Generation: How the Assassinations of Diem & JFK Prolonged the War, OUP, New York, 2003.

[4] Năm 1963 là một năm thích hợp để các tín đồ Phật giáo quyết định bắt đầu chủ động gây sức ép lên chính quyền vì quyền tự do tôn giáo của họ. Đấu tranh Phật giáo bắt đầu từ thời thực dân Pháp cai trị vào thế kỷ thứ 19 với sự thiên vị công khai dành cho người Việt theo Công giáo; do đó, xuất hiện một tỷ lệ tập trung bất cân xứng về giáo dục và của cải dành cho nhóm tôn giáo được thiên vị này. Tuy nhiên, Phật giáo Việt Nam phát triển vào thời kỳ từ năm 1956 đến 1962, với số thành viên trong các hiệp hội Phật giáo gia tăng đột ngột. Năm 1962, Tổng hội Phật giáo, đại diện bởi sáu trong số mười sáu giáo phái Đại thừa ở miền Nam Việt Nam, xác nhận có khoảng 3.000 hòa thượng, 600 ni sư và 3 triệu Phật tử, bao gồm 70.000 đến 90.000 người thuộc các nhóm thanh niên. Vì vậy, năm 1963, các tín đồ Phật giáo chiếm một tỷ lệ đáng kể trong dân số Việt Nam. Tuy nhiên, sự tan rã của nền cai trị thực dân vào thập niên 1950 đã không đồng hành với việc hủy bỏ các đạo luật bài Phật giáo do Pháp áp đặt, chẳng hạn như Sắc lệnh số 10, vốn là trung tâm cho Cuộc khủng hoảng Phật giáo. Đó là đỉnh cao của thứ mà Topmiller gọi là ‘thời kỳ Phục hưng của Phật giáo Việt Nam’, thời kỳ mà các tín đồ Phật giáo giải tỏa cơn thịnh nộ sục sôi của mình trước sự phân biệt đối xử của chính quyền. – Prados, The Hidden History of the Vietnam War, trang 89-90.

[5] FRUS of the United States, 1961-1963, Volume III, Vietnam, January-August 1963, dẫn nguồn từ: http://www.state.gov/r/pa/ho/frus/kennedyjf/iii/8163.htm, truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007 [sau đây gọi là FRUS]

[6] Như trên; Robert J. Topmiller, The Lotus Unleashed: The Buddhist Peace Movement in South Vietnam, 1964-1966, University Press of  Kentucky, Kentucky, 2002, trang 2.

[7] John Helble, ‘Telegram From the Consulate at Hue to the Department of State’ (9 tháng 5 năm 1963), FRUS, 1961-1963, Volume III, Vietnam, January-August 1963, dẫn nguồn từ: http://www.state.gov/r/pa/ho/frus/kennedyjf/iii/8163.htm, truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007.

[8] Hai trong số những người chết là trẻ em. – Như trên

[9] Sự mất uy tín của chính quyền Việt Nam CH được minh họa bằng thất bại của một cuộc biểu tình do chính quyền bảo trợ – nhằm lên án ‘hành động khủng bố của Việt Cộng tối ngày 8 tháng 5’ – nhằm lôi kéo sự chú ý. Trong khi đó, một cuộc biểu tình do các lãnh đạo Phật giáo ở chùa Từ Đàm, Huế tổ chức vào ngày 10 tháng 5 đã thu hút được năm đến sáu ngàn Phật tử tham gia. – John Helble, ‘Telegram From the Consulate at Hue to the Department of State’ (2a.m., 10 tháng 5 năm 1963), FRUS, 1961-1963, Volume III, Vietnam, January-August 1963, dẫn nguồn từ: http://www.state.gov/r/pa/ho/frus/kennedyjf/iii/8163.htm, truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007; Frederick Nolting, ‘Telegram From the Embassy in Vietnam to the Department of State’ (18 tháng 5 năm 1963), FRUS, 1961-1963, Volume III, Vietnam, January-August 1963, dẫn nguồn từ: http://www.state.gov/r/pa/ho/frus/kennedyjf/iii/8163.htm, truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007.

[10] John Helble, ‘Telegram From the Consulate at Hue to the Department of State’ (3p.m., 10 tháng 5 năm 1963), FRUS, 1961-1963, Volume III, Vietnam, January-August 1963, dẫn nguồn từ: http://www.state.gov/r/pa/ho/frus/kennedyjf/iii/8163.htm, truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007; Dean Rusk, ‘Telegram From the Department of State to the Embassy in Vietnam’ (9 tháng 5 năm 1963), FRUS, 1961-1963, Volume III, Vietnam, January-August 1963, dẫn nguồn từ: http://www.state.gov/r/pa/ho/frus/kennedyjf/iii/8163.htm, truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007.

[11] Các tín đồ Phật giáo cũng đề xuất Diệm bãi bỏ một đạo luật do Pháp áp đặt, Sắc lệnh số 10, vốn gán cho Phật giáo cái tên “hiệp hội” thay vì tôn giáo, và vì vậy để thực hiện bất kỳ hoạt động công khai nào, Phật tử phải được chính quyền cho phép. Mang tính phân biệt đối xử một cách rõ rệt, Sắc lệnh số 10 còn quy định rằng ‘một địa vị đặc biệt sẽ được giành…cho các hội truyền giáo Tin lành và Công giáo’. ‘Manifesto of Vietnamese Buddhist Clergy and Faithful’ (10 tháng 5 năm 1963), FRUS, 1961-1963, Volume III, Vietnam, January-August 1963, dẫn nguồn từ: http://www.state.gov/r/pa/ho/frus/kennedyjf/iii/8163.htm, truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007; FRUS, 1961-1963, Volume III, Vietnam, January-August 1963.

[12] Đáp lại bản tuyên ngôn, Diệm tuyên bố cả dân Công giáo và Phật giáo đều có lỗi trong việc ‘sử dụng bừa bãi’ cờ tôn giáo và lá cờ quốc gia phải giữ vị trí tối cao. William Trueheart, ‘Telegram From the Embassy in Vietnam to the Department of State’ (30 tháng 5 năm 1963), FRUS, 1961-1963, Volume III, Vietnam, January-August 1963, dẫn nguồn từ: http://www.state.gov/r/pa/ho/frus/kennedyjf/iii/8163.htm, truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007; Nolting, ‘Telegram From the Embassy in Vietnam to the Department of State’ (18 tháng 5 năm 1963).

[13] Nolting, ‘Telegram From the Embassy in Vietnam to the Department of State’ (18 tháng 5 năm 1963); Jacobs, Cold War Mandarin, trang 144.

[14] Nolting, ‘Telegram From the Embassy in Vietnam to the Department of State’ (18 tháng 5 năm 1963).

[15] William Trueheart, ‘Telegram From the Embassy in Vietnam to the Department of State’ (31 tháng 5 năm 1963), FRUS, 1961-1963, Volume III, Vietnam, January-August 1963, dẫn nguồn từ: http://www.state.gov/r/pa/ho/frus/kennedyjf/iii/8163.htm, truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007.

[16] Khi nhân viên Hội đồng An ninh Quốc gia Michael V. Forrestal đưa ra bản báo cáo về các cuộc biểu tình Phật giáo ở Huế, Kennedy thực sự đã hỏi ‘Những người này là ai?’ John F. Kennedy được Seth Jacobs dẫn lời trong Cold War Mandarin: Ngo Dinh Diem and the origins of America’s war in Vietnam, 1950-1963, Rowman & Littlefield, Lanham, Md., 2006, trang 144.

[17] Cụ thể là, vào ngày 10 tháng 5, một đoàn người gồm năm đến sáu ngàn Phật tử có mặt tại chùa Từ Đàm, giơ cao biểu ngữ viết bằng tiếng Anh: ‘hãy giết chúng tôi đi, sẵn sàng đổ máu, các tín đồ Phật giáo và Công giáo đều bình đẳng. Bãi bỏ Sắc lệnh số 10, yêu cầu ngừng bắt bớ và bắt cóc; ngọn cờ Phật giáo sẽ không bao giờ hạ xuống’. Helble, ‘Telegram From the Consulate at Hue to the Department of State’ (3p.m., 10 tháng 5 năm 1963).

[18] William Trueheart, ‘Telegram From the Embassy in Vietnam to the Department of State’ (3 tháng 6 năm 1963), FRUS, 1961-1963, Volume III, Vietnam, January-August 1963, dẫn nguồn từ: http://www.state.gov/r/pa/ho/frus/kennedyjf/iii/8163.htm, truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007; William Trueheart, ‘Telegram From the Embassy in Vietnam to the Department of State’ (4 tháng 6 năm 1963), FRUS, 1961-1963, Volume III, Vietnam, January-August 1963, dẫn nguồn từ: http://www.state.gov/r/pa/ho/frus/kennedyjf/iii/8163.htm, truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007.

[19] John Helble, ‘Telegram From the Embassy in Vietnam to the Department of State’ (2p.m., 3 tháng 6 năm 1963), FRUS, 1961-1963, Volume III, Vietnam, January-August 1963, dẫn nguồn từ: http://www.state.gov/r/pa/ho/frus/kennedyjf/iii/8163.htm, truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007.

[20] Trueheart, ‘Telegram From the Embassy in Vietnam to the Department of State’ (4 tháng 6 năm 1963).

[21] ‘Current Intelligence Memorandum Prepared in the Office of Current Intelligence, Central Intelligence Agency’ (3 tháng 6 năm 1963), FRUS, 1961-1963, Volume III, Vietnam, January-August 1963, dẫn nguồn từ: http://www.state.gov/r/pa/ho/frus/kennedyjf/iii/8163.htm, truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007.

[22] William Trueheart, ‘Telegram From the Embassy in Vietnam to the Department of State’ (1p.m., 6 tháng 6 năm 1963), FRUS, 1961-1963, Volume III, Vietnam, January-August 1963, dẫn nguồn từ: http://www.state.gov/r/pa/ho/frus/kennedyjf/iii/8163.htm, truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007.

[23] William Trueheart, ‘Telegram From the Embassy in Vietnam (Trueheart) to the Department of State (Hilsman)’ (1a.m., 9 tháng 6 năm 1963), FRUS, 1961-1963, Volume III, Vietnam, January-August 1963, dẫn nguồn từ: http://www.state.gov/r/pa/ho/frus/kennedyjf/iii/8163.htm, truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007.

[24] ‘Resolution issued by the Central Committee of the Women’s Solidarity Movement of Vietnam’ trích trong ‘Telegram From the Embassy in Vietnam to the Department of State’ (8 tháng 6 năm 1963), FRUS, 1961-1963, Volume III, Vietnam, January-August 1963, dẫn nguồn từ: http://www.state.gov/r/pa/ho/frus/kennedyjf/iii/8163.htm, truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007.

[25] Trueheart, ‘Telegram From the Embassy in Vietnam (Trueheart) to the Department of State (Hilsman)’ (1a.m., 9 tháng 6 năm 1963).

[26] Dean Rusk, ‘Telegram from the Department of State to the Embassy in Vietnam’ (12.55p.m., 8 tháng 6 năm 1963), FRUS, 1961-1963, Volume III, Vietnam, January-August 1963, dẫn nguồn từ: http://www.state.gov/r/pa/ho/frus/kennedyjf/iii/8163.htm, truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007.

[27] Trueheart, ‘Telegram From the Embassy in Vietnam (Trueheart) to the Department of State (Hilsman)’ (1a.m., 9 tháng 6 năm 1963).

[28] David Halberstam, The Making of a Quagmire (New York: Random House), trang 211; Jacobs, Cold War Mandarin, trang 147-149.

[29] William Trueheart, ‘Telegram From the Embassy in Vietnam to the Department of State’ (trưa, 11 tháng 6 năm 1963), FRUS, 1961-1963, Volume III, Vietnam, January-August 1963, dẫn nguồn từ: http://www.state.gov/r/pa/ho/frus/kennedyjf/iii/8163.htm, truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007.

[30] Jacobs, Cold War Mandarin, trang 147.

[31] Halberstam, The Making of a Quagmire, trang 211.

[32] Henry Cabot Lodge trích lời John F. Kennedy, ‘Oral history interview with Henry Cabot Lodge, 4 tháng 8 năm 1965’, FRUS, 1961-1963, Volume III, Vietnam, January-August 1963, dẫn nguồn từ: http://www.state.gov/r/pa/ho/frus/kennedyjf/iii/8163.htm, truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007.

[33] Marguerite Higgins, Our Vietnam Nightmare, Harper and Row, New York, 1965, trang 2-3.

[34] George Ball, ‘Telegram from the Department of State to the Embassy in Vietnam’ (8.52p.m., 1 tháng 7 năm 1963), FRUS, 1961-1963, Volume III, Vietnam, January-August 1963, dẫn nguồn từ: http://www.state.gov/r/pa/ho/frus/kennedyjf/iii/8163.htm, truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007; Topmiller, The Lotus Unleashed, 3.

[35]Bà Ngô Đình Nhu, ‘Madame Nhu’s Response to Thich Quang Duc’ (video), dẫn nguồn từ http://youtube.com/watch?v=d_PWM9gWR5E truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2007.

[36] Diệm thậm chí tán thành điều này trên một kênh phát thanh, cho rằng ‘một số người đã mê muội và gây ra cái chết không đáng, khiến tôi rất lấy làm tiếc’. David Halberstam trích lời Ngô Đình Diệm, ‘Diem Asks Peace in Religion Crisis’, New York Times, 12 tháng 7 năm 1963, trang 3; “Trial by Fire”, Time, 21 tháng 6 năm 1963, dẫn nguồn từ http://www.time.com/magazine/article/0,9171,874895,00.html truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2007.

[37] Ngay cả Higgins cũng thừa nhận rằng tuyên bố “nướng barbecue” là “man rợ”, đồng thời nêu rõ những ý kiến phản đối của người Mỹ trước sự vô cảm của bà Nhu:

Bất cứ ai có thể đưa ra nhận xét quá sức vô cảm và nhẫn tâm thì chắc chắn có đủ khả năng trở thành phạm nhân trong một vụ tra tấn, ngược đãi và các vụ việc trầm trọng hơn thế.

Higgins, Our Vietnam Nightmare, trang 59-60.

[38] Jacobs, Cold War Mandarin, trang 149.
- See more at: http://nghiencuuquocte.net/2014/08/20/truyen-thong-hoa-ky-ngo-dinh-diem/#sthash.VCk1zExj.dpuf

          
Nguồn: Zi Jun Toong (2008). “Overthrown by the Press: The US Media’s Role in the Fall of Diem”, Australian Journal of American Studies, Vol.27, No.1, pp. 56-72.>>PDF
Biên dịch: Đỗ Hải Yến| Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
- See more at: http://nghiencuuquocte.net/2014/08/20/truyen-thong-hoa-ky-ngo-dinh-diem/#sthash.VCk1zExj.dpuf
Nguồn: Zi Jun Toong (2008). “Overthrown by the Press: The US Media’s Role in the Fall of Diem”, Australian Journal of American Studies, Vol.27, No.1, pp. 56-72.>>PDF

Biên dịch: Đỗ Hải Yến| Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp ( Nghiên Cứu Quốc Tế )

Romania những ngày cuối năm 1989

Trong thế kỷ XX, Romania là một trong số những quốc gia bị cai trị bởi một thể chế độc tài hà khắc nhất. Ngay cả trong hệ thống XHCN cũng chỉ có vài ba nước mà mọi người dân từng giây từng phút phải thể hiện sự tôn sùng lãnh tụ như ở nước này. Không những “lãnh tụ” Nicolae Ceauşescu mà cả vợ ông ta là Elena Ceauşescu cũng là đối tượng của sự tôn sùng đến mức lố lăng (bà ta được phong viện sỹ hàn lâm và có quyền sinh quyền sát không kém gì chồng).
Nicolae Ceauşescu
Vì trong xã hội Romania trước cuối năm 1989, những biểu hiện bất mãn với chế độ là không đáng kể, và một số ít ỏi những kẻ thể hiện thái độ như vậy bao giờ cũng nhanh chóng bị loại trừ, nên ngay đến đầu tháng 12 năm 1989 cũng không ai ngờ rằng chỉ mấy ngày sau đó chế độ Ceauşescu đã sụp đổ, và vợ chồng ông ta bị xử tử. Trước ngày đó, có lẽ trong xã hội mọi người đều tin rằng đại đa số cũng chán ghét vợ chồng Ceauşescu như mình, nhưng không ai dám thổ lộ với người khác, vì nhỡ ra…
Rất giống Mao ở Trung Quốc, họ Kim ở Triều Tiên và ở một vài nước khác, tại Romania Ceauşescu cũng đã được gọi là Người Dẫn Đường và Thiên Tài vùng Carpat. Ông ta sống và xử sự với dân chúng như một ông vua. Ngày kỷ niệm lớn nhất hàng năm của dân tộc là ngày sinh ông ta. Trong ngày đó, ai có vẻ mặt không vui sẽ dễ gặp nguy hiểm. Ceauşescu không thể ngờ… (Và không chỉ ông ta. Mọi loại độc tài đều nghĩ toàn dân tuyệt đối trung thành với mình, mình sẽ cai trị suốt đời và truyền ngôi cho con cháu hoặc những kẻ tâm phúc.)
Tháng 11 năm 1989, đại hội XIV ĐCS Romania bầu lại Ceauşescu 71 tuổi làm đảng trưởng. Trong đại hội, ông ta lên án “bọn phản động” đã lật đổ chế độ XHCN ở các nước Đông Âu khác, và cũng phê phán “sai lầm” của các đảng cầm quyền ở những nước này. Cố nhiên, ông ta cho rằng đường lối của mình là tuyệt đối đúng.
Trong thời gian đó, ở Romania nổi lên một nhân vật tên là László Tőkés, người bị chính quyền buộc tội kích động hận thù dân tộc. Để phát động quần chúng chống lại nhân vật này, chính quyền Ceauşescu tổ chức những cuộc diễu hành quần chúng để uy hiếp nhóm người theo László. Tuy nhiên, sang tháng 12 thì, với sự tham gia của hàng vạn sinh viên, các cuộc diễu hành đã đảo ngược mục tiêu ban đầu, biến thành biểu tình chống chế độ, do sự bất mãn sâu sắc của người dân về đời sống và quá nhiều vấn đề xã hội bức bối.
Ngày 18 tháng 12, Ceauşescu đi thăm Iran, trao nhiệm vụ xử lý biểu tình lại cho vợ và thuộc hạ. Tối 20, ngay sau khi trở về từ Iran, ông ta lên truyền hình tuyên bố: Trong những sự kiện tại Timişoara có bàn tay các thế lực thù địch nước ngoài, phối hợp với nội gián trong bộ nội vụ. Điều này làm đa số dân chúng hoàn toàn bất ngờ, trừ những người lén nghe đài phương Tây hoặc truyền tin bằng miệng.
Ngày 21, đích thân Ceauşescu trực tiếp ra lệnh tổ chức meeting ở Bucharest để xốc lại tình hình. Cuộc meeting được mở đầu giống như hàng chục cuộc khác, trong đó người dân chỉ có nhiệm vụ tỏ ra lắng nghe từng lời và tung hô lãnh tụ. Lần này Ceauşescu cũng nói về những thành tựu của CNXH ở Romania, và thêm phần lên án bọn phiến loạn Timişoara. Nhưng thật bất ngờ, khoảng 10 phút sau bỗng có tiếng huýt sáo, rồi cả đám đông trở nên hỗn loạn, với những tiếng gào thét đầy phẫn nộ. Ai đó xướng lên, và tất cả đồng thanh hát vang: Ti-mi-şoa-ra! Ti-mi-şoa-ra! Ceauşescu giơ tay yêu cầu trật tự, rồi vội đưa ra lời hứa tăng lương cho người lao động.
Đánh hơi thấy mối nguy chết người, Ceauşescu cùng vợ vội rời diễn đàn, lủi vào tòa nhà của ban chấp hành trung ương ĐCS. Bên ngoài, cảnh sát và quân đội được điều đến đã dựng nên những rào chắn, cố ngăn cản đám đông dân chúng đang cuồng nộ hơn bao giờ hết. Bất chấp việc hàng trăm người bị bắt, dân chúng vẫn tiếp tục bao vây và chống trả lực lượng vũ trang một cách ngoan cường.
Ngày 22, truyền thông loan tin bộ trưởng quốc phòng Vasile Milea chết đột ngột. Liền sau đó, Ceauşescu tuyên bố nắm quyền trực tiếp chỉ huy quân đội. Tuy nhiên, cái chết của Vasile Milea đã làm binh lính bỏ ngũ hàng loạt và đứng sang phía nhân dân.
Để trấn an quần chúng và cứu vãn tình hình, Ceauşescu đã xuất hiện ở cửa sổ tầng trên, kêu gọi dân chúng bình tĩnh. Nhưng khi thấy mặt ông ta, đám đông càng giận giữ. Họ ném đá và đủ thứ lên chỗ ông ta đứng, làm ông ta lại phải trốn vào bên trong. Tuy nhiên, khi đó cửa trước của tòa nhà đã bị lính gác cố tình bỏ ngỏ; dân chúng liền ùa vào nhà và leo lên ban công. Khi đó, Ceauşescu cùng vợ và 4 người nữa lên thang máy, thoát ra ngoài qua mái nhà và trốn thoát bằng trực thăng.
Ngay lập tức, ĐCS Romania chấm dứt vĩnh viễn mọi hoạt động!
Vợ chồng Ceauşescu bay tới nhà riêng ở Snagov, sau đó định bay tiếp đến Târgovişte. Nhưng đến gần Târgovişte, họ buộc phải đáp xuống theo lệnh của quân đội không cho phép bất kỳ chuyến bay nào ra khỏi vùng trời Romania.
Ngày 25, vợ chồng Ceauşescu bị đưa ra trước tòa án của Mặt Trận Cứu Quốc vừa được thành lập. Họ bị khép tội làm giàu bất chính và diệt chủng. Đương nhiên, Ceauşescu tuyên bố vô tội và nói ông vẫn đang là người đứng đầu nhà nước Romania, và việc bắt ông là phi pháp. Nicolae và Elena Ceauşescu bị xử bắn ngay sau đó. Những người chứng kiến cho biết có hàng trăm người xung phong được tự tay thi hành bản án này. Trước khi chết, lãnh tụ thiên tài Nicolae Ceauşescu đã ngẩng cao đầu hát “Vùng lên, hỡi các nô lệ ở thế gian,…!”
Những ngày sau đó, trên các phương tiện truyền thông phương Tây, nhiều người tỏ thái độ bất bình về cách xét xử và hành quyết nhà độc tài. Tuy nhiên, tổng thống lâm thời khi đó là Ion Iliescu đã khẳng định đó là cách duy nhất khi đó. Còn theo cựu bộ trưởng quốc phòng Victor Stănculescu thì nếu không dùng cách đó, vợ chồng Ceauşescu sẽ bị quần chúng giong đi ngoài đường và hành hạ đến chết theo kiểu trung cổ, bởi sự uất hận của quần chúng kéo dài hàng chục năm không thể đem đến cho nhà độc tài một kết cục khác.
Đúng một phần tư thế kỷ đã trôi qua từ ngày vợ chồng Ceauşescu bị hành hình và chính quyền độc đảng hà khắc tại Rumania sụp đổ, nhưng sự kiện này vẫn đáng được ôn lại để rút ra những bài học cần thiết. Những điều được khẳng định lại một cách sinh động trong những sự kiện như vậy gồm:
Một: Chế độ độc tài nào cũng đến hồi cáo chung một cách thê thảm, và ngày cáo chung càng muộn màng thì sự cáo chung càng thê thảm.
Hai: Nhà độc tài nào cũng tin rằng mình được quần chúng tin tưởng và trung thành tuyệt đối, và ở nước khác thì nhà độc tài khác có thể bị lật đổ vì sai lầm, chứ ở nước mình thì không, và mình không bao giờ sai lầm. Trên thực tế, sự trung thành nói ra miệng của quần chúng không hề là thực; họ nói chỉ vì bị buộc phải nói như vậy.
Ba: Chế độ độc tài luôn sụp đổ sớm hơn nhiều so với người ta tưởng. Nhiều khi trong xã hội, đảng cầm quyền không hề có đối thủ ngang tầm nào, nhưng khi vận nước đến, tự nhiên quần chúng sẽ nhất tề nổi dậy.
Trầm Dương
(Blog Đào Hiếu)

Thái Lan: Tướng Prayut Chan-O-Cha chuẩn bị làm thủ tướng

BANGKOK, Thái Lan (AFP) - Nhân vật lãnh đạo cuộc đảo chánh của quân đội tại Thái Lan vừa qua hiện đang chuẩn bị để lên giữ chức thủ tướng, qua sự đề cử của Quốc Hội lâm thời với đa số thành viên là những người được quân đội chọn lựa, theo nguồn tin thông thạo hôm Thứ Tư.
Tướng Prayut Chan-O-Cha, người chỉ huy vụ đảo chính hồi Tháng Năm, 2014. (Hình: Getty Images)
Tham mưu trưởng Lục Quân Thái Lan, Tướng Prayut Chan-O-Cha, nhiều phần sẽ là ứng viên duy nhất cho chức vụ thủ tướng khi Quốc Hội gồm 197 thành viên được bổ nhiệm bỏ phiếu ngày Thứ Năm để chọn thủ tướng Thái Lan, theo nguồn tin trên.

“Rất khó để tìm một người khác lên làm thủ tướng thay vì Tướng Prayut. Nếu ông ta không làm thủ tướng thì còn có ai khác?” theo một thành viên Hội Ðồng Quân Nhân lãnh đạo Thái Lan cho báo chí hay.

“Ông ta chỉ huy cuộc đảo chánh. Ông phải chịu trách nhiệm tự mình giải quyết các vấn đề. Khi trở thành thủ tướng, ông sẽ có toàn quyền hành động,” viên chức này cho biết thêm.

Một thành viên khác của Hội Ðồng Quân Nhân, có tên gọi chính thức là Hội Ðồng Hòa Bình và Ổn Ðịnh Quốc Gia (NCPO), cho hay Tướng Prayut sẽ được chọn vì ông “xứng đáng với chức vụ này.”

Tướng Prayut đảo chánh cướp chính quyền hôm 22 Tháng Năm sau khi nữ Thủ Tướng Yingluck Shinawatra bị giải nhiệm theo một phán quyết gây nhiều tranh cãi của tòa án.

Thành phần chống đảo chánh nói rằng đây là một âm mưu của quân đội và thành phần bảo hoàng muốn triệt phá ảnh hưởng chính trị của gia đình Shinawatra, vốn được sự ủng hộ mạnh mẽ của cử tri ở các tỉnh bên ngoài thủ đô Bangkok, đặc biệt là dân nghèo ở thôn quê.
V.Giang
(Người Việt)

Nghi vấn: Dinh thự hoành tráng, vườn cao su khủng của Chủ tịch Bình Dương?

Dư luận thắc mắc, không biết tài sản của ông Cung và tài sản của ông Truyền khác nhau ở điểm nào, mà đến nay đã hơn 7 tháng, việc xác minh, kiểm tra tài sản của ông Chủ tịch tỉnh BD vẫn chưa thấy sáng tỏ ?
Vụ dinh thự lớn và các bất động sản khác của ông Trần Văn Truyền - nguyên Tổng Thanh tra Chính phủ, ở tỉnh Bến Tre bị công luận phanh phui vào cuối tháng 7.2014 vừa qua, Ủy ban kiểm tra Trung ương Đảng đã vào cuộc đang rốt ráo xác minh.
Tuy nhiên, dinh thự nguy nga và vườn cao su "khủng" của Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương (BD) Lê Thanh Cung (Chín Cung), được báo Kinh doanh & Pháp luật phản ánh vào đầu tháng 12.2013, đến nay vẫn còn là một dấu hỏi. Dư luận thắc mắc, không biết tài sản của ông Cung và tài sản của ông Truyền khác nhau ở điểm nào, mà đến nay đã hơn 7 tháng, việc xác minh, kiểm tra tài sản của ông Chủ tịch tỉnh BD vẫn chưa thấy sáng tỏ ?
Từ dinh thự nguy nga...
Rất dễ dàng tìm thấy và nhận biết dinh thự hết sức lộng lẫy của gia đình ông Chủ tịch tỉnh BD tại đường ĐX81, phường Định Hòa, TP. Thủ Dầu Một, tỉnh BD. Nằm gọn trong khuôn viên đất khoảng 1.000 m2, dinh thự này nổi bật giữa xung quanh là những căn nhà nhỏ bé của người dân. Tư gia của ông Chín Cung được xây dựng hiện đại, tráng lệ, nhiều phòng ốc, với tường rào kiên cố xây rất đẹp, bao bọc cẩn mật tứ phía... Bên trong sân nhà có rất nhiều loại cây kiểng đắt tiền được trưng bày.
{keywords}
Dinh thự nguy nga của Chủ tịch tỉnh BD ở phường Định Hòa, TP Thủ Dầu Một, tỉnh BD.
Một số người cho biết, có không ít cặp cây kiểng quý hiểm giá tiền tỷ. Trước mặt tiền dinh thự là cổng rào sang trọng, được điều khiển tự động khép vào, mở ra bằng remote điều khiển từ xa. Trong dinh thự, là 3 - 4 con chó rất dữ tợn, hú sủa inh ỏi mỗi khi có bóng người lai vãng sát tường rào. Có không ít hộ dân sống xung quanh cho chúng tôi biết: "Dinh thự ông Chính thuộc vào hàng nhất nhì tỉnh BD. Riêng ở phường Định Hòa này, thì dinh thự ông Chín, kèm cây kiểng và vô số giò phong lan đắt tiền, thuộc hàng ... vô địch, duy nhất, không hộ dân hay đại gia có máu mặt nào sánh bằng". Có người ngắm nghía dinh thự Chủ tịch tỉnh từ xa, rồi tặc lưỡi phỏng đoán "không dưới giá ... 20 tỷ đồng" .
... Đến vườn cao su "khủng" đẹp nhất vùng !
Về ấp 8, xã Long Nguyên, huyện Bến Cát hỏi người dân nào, họ cũng rành rọt về vườn caosu của gia đình ông Chín Cung; bởi đây là vườn caosu lớn nhất, đẹp nhất, giá trị nhất ở đây. Con đường nhựa dài 2 km ngang vườn ông Chín Cung cũng thật đẹp, trải bằng nhựa nóng chất lượng. Hàng trăm ngàn cây caosu 5 - 7 năm tuổi, tán xanh mướt, trài dài 2 bên đường...Bao giáp vòng vườn caosu "trăm tỷ" là hàng rào kẽm gai, cột bê tông , khép kín ... Hết 2 km đường nhựa đẹp xuyên qua vườn caosu ông Chín, sang "lãnh địa" caosu của dân, thì caosu 2 bên đường cũng... xơ xác, cỏ dại um tùm, phủ cả ra đường... Tệ hại hơn, đường đi bỗng trở nên xấu tệ, dày đặc hố hang, ổ voi, ổ gà, bụi mù mịt... và đá xanh lổn ngổn.
Ông Nguyễn Văn Như - trưởng ấp kiêm Bí thư chi bộ ấp 8 - cho biết: "Vườn caosu ông Chín Cung có nguồn gốc từ Lâm trường Long Nguyên. Tôi làm trưởng ấp ở đây lâu năm, tôi biết rõ nguồn gốc này mà. Tuy nhiên, người ta cứ phỏng chừng diện tích caosu của ổng là trên dưới 100 ha; nhưng trên thực tế, ông Chín không đứng tên hết đâu".
Tuy nhiên, theo ông Như, trên thực tế, tổng thể vườn caosu của nhà ông Chín Cung, liền khoảnh, liền thửa, không hề phân chia ranh giới, dù không phải một mình ông Chín đứng tên trên sổ đỏ... "Từ ngày có đường nhựa ấy, giá trị vườn caosu ông Chín phải... nhất vùng, có giá từ 1,2 - 1,3 tỷ đồng/ha; còn giá cao su ở khu vực khác chỉ 700 - 800 triệu đồng/ha là hết mức" - ông Như nói. Ông Võ Văn Trường - Chủ tịch UBND xã Long Nguyên - thì phản ánh: "Có nghe nói, có vườn caosu của ông Chín Cung trên địa bàn xã Long Nguyên. Nhưng nguồn gốc, chi tiết vườn caosu ấy như thế nào, tôi mới về công tác sau này, nên không nắm rõ". Riêng con đường, vì sao vừa qua hết đất caosu ông Chín Cung lại trở nên xấu tệ, ông Trường cho rằng, "thi công tới đó cũng vừa... hết vốn", Vì vậy, đường ngang nhà dân mới trong cảnh hố voi, hố gà, bầy hầy, nham nhở... như hiện nay.
Tiếp xúc ông Huỳnh Văn Thu (Bảy Thu) - nguyên Tỉnh ủy viên, nguyên Bí thư huyện Bến Cát, chúng tôi được biết: Chính ông Thu là người thành lập ra Lâm trường Long Nguyên. Sau khi ông Thu nghỉ hưu, ông Chín Cung lúc đó là trưởng phòng kế hoạch huyện, rồi phó Chủ tịch UBND huyện Bến Cát, Lâm trường được giao về cho Cty Sobexco. Từ đây, đất đai lâm trường bị "xẻ thịt" cho nhiều quan chức...
{keywords}
Hàng rào bao quanh kín kẽ rừng cao su rộng hơn 100 ha
Trong đó, ông Chín Cung được chia nhiều nhất, hơn 100 ha. Sau đó, chính ông Nguyễn Thanh Hải - GĐ Sobexco trồng caosu trên đất đã chia cho ông Cung và một số cán bộ khác.v.v... Tương tự, theo ông N.T.T - nguyên Chủ tịch UBND xã Long Nguyên: "Thời điểm ông Cung làm cán bộ ở phòng kế hoạch, Lâm trường Long Nguyên giải thể, sáp nhập với Sobexco... Đất lâm trường được chia cho nhiều cán bộ, nhưng riêng ông Chín Cung, không biết cách nào được "cấp" tới... 130 ha (?)".
Vì sao lại giao đất công cho... cán bộ lãnh đạo?
Trong một văn bản viết tay của một phó Chủ tịch tỉnh BD trước đây, đã cho biết ở giai đoạn 1 thanh lý vườn caosu tại Cty Sobexco, ít nhất có 3 cán bộ lãnh đạo có đất trong diện tích 320 ha đất Lâm trường Long Nguyên là "9 Cung - PCT huyện, Út Đoàn - PCT và Út Tuyền - Ban TC" (trích nguyên văn).
Tại "Báo cáo kết quả thanh tra về việc cấp giấy chứng nhận QSDĐ tại các đơn vị trên địa bàn huyện Bến Cát"(số 22/BC.TTr , ngày 28.12.2006) của Đoàn thanh tra 3438/QĐ.UB - Thanh tra tỉnh Bình Dương - thể hiện rất rõ: Cty Sobexco (100% vốn nhà nước) được thành lập năm 1992. Quá trình hoạt động, vào tháng 9.1993, có việc sát nhập 345 ha đất lâm nghiệp của Lâm trường Long Nguyên vào Sobexco. Năm 1996, Sobexco làm ăn thua lỗ nên thanh lý 345 ha rừng trồng để giao khoán cho các hộ gia đình trồng caosu.
Ngày 9.9.2003, UBND tỉnh BD có văn bản cho phép giao hơn 320 ha đất, (thuộc ấp 8, Lâm trường Long Nguyên trước đây) từ Sobexco về UBND huyện Bến Cát quản lý và xem xét giao đất sản xuất nông nghiệp cho dân có nhu cầu. Sau đó, UBND huyện Bến Cát đã giao đất, cấp sổ đỏ 320 ha đất cho 112 hộ dân. Điều bất ngờ ở đây, trong số 112 hộ dân được giao đất trên, không hiểu vì sao, có gia đình ông Chín Cung hiện nay được giao diện tích đất "khủng" - hình thành nên vườn caosu, mà theo phản ánh của công luận rộng tới khoảng 100 ha, trị giá... trăm tỷ đồng ? Việc giao đất có nguồn gốc đất công từ DN nhà nước (được giao đất không thu tiền sử dụng đất), cho các hộ gia đình, cá nhân, liệu có đúng quy định luật pháp?
Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Đất đai 1998 quy định rất rõ: Nhà nước chỉ cho thuê đất đối với trường hợp "Nhà nước thu hồi đất đã cho DN Nhà nước sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp..., nhưng sử dụng không có hiệu quả để giao hoặc cho người khác thuê ...".
Hơn nữa, tại điều 8, Nghị định 85/NĐ.CP, ngày 28.8.1999 của Chính phủ còn quy định: "Đối với cán bộ, công nhân, viên chức nhà nước ..., nếu có khả năng sản xuất, có nhu cầu sử dụng đất, thì UBND xã,... cho họ được thuê có thời hạn một số đất để sản xuất". Như vậy, đối chiếu trường hợp vườn caosu "khủng" (100 ha) của Chủ tịch tỉnh BD, được chính quyền huyện Bến Cát giao đất, mà không phải thuê đất, liệu có dấu hiệu vi phạm luật pháp hay không ?
Tại Cổng thông tin điện tử Chính phủ đã thông tin rất rõ, ông Lê Thanh Cung - Chủ tịch UBND tỉnh BD, sinh ngày 30.12.1954. Như vậy, theo quy định của nhà nước, chỉ vỏn vẹn 4 tháng nữa ông Chín Cung đã đến tuổi phải nghỉ hưu. Điều 44 - Luật phòng - chống tham nhũng có yêu cầu bắt buộc những cán bộ lãnh đạo như ông Chín Cung phải kê khai, minh bạch tài sản trước cơ quan và nhân dân.
Ông Chín Cung đã kê khai, minh bạch nguồn gốc, giá trị của dinh thự và vườn cao su "khủng" nêu trên trên, theo đúng quy định của Luật phòng - chống tham nhũng đối với cán bộ lãnh đạo nhà nước hay chưa ? Hơn bao giờ hết, dư luận người dân tỉnh BD đang trông chờ các cơ quan chức năng sớm công bố kết quả xác minh, kiểm tra khối tài sản "khủng" trên của Chủ tịch tỉnh BD.
Việc sớm công bố này cũng sẽ góp phần an dân, xử lý nghiêm minh theo đúng quy định luật pháp, một khi khối tài sản "khủng" của ông Chín là bất minh, có vấn đề... Trái lại, sẽ giải tỏa mọi nghi ngờ, đồn đoán gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, danh dự của Chủ tịch tỉnh BD, khi những quy chụp trong dư luận là không có căn cứ. Trong khi, thời gian nghỉ hưu của ông Chín Cung, như luật định lại đang rất gần...
(VNN)

UPI: Hồ Chí Minh bị yêu cầu phải ngưng ngay chuyện ôm hôn con gái…

“Có thể Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bị tuyên truyền của Cộng sản ảnh hưởng sâu đậm đến nỗi ông đã nghĩ rằng đạo đức của người Indonesia tương tự như đạo đức Cộng sản.” - A. N. Firdaus
Hồ Chí Minh lên báo vì chuyện ôm hôn con gái vị thành niên... Nguồn: The Straits Times (SG)
Hồ Chí Minh lên báo vì chuyện ôm hôn con gái vị thành niên… Nguồn: The Straits Times (SG), 8 March, 1959.

JAKARTA, Thứ Bảy (8 tháng Ba, 1959) – Ông Chủ tịch Bắc Việt Hồ Chí Minh bị nói phải ngưng ngay việc ôm hôn nữ thiếu nhi Indonesia và phải tôn trọng đạo lý Hồi giáo.

Báo giới Indonesia đã chỉ trích ông Hồ về chuyejn ông thường ôm hôn (các em gái) trong chuyến viếng thăm chính thức 10 ngày tại đảo Java và hòn đảo du lịch Bali.

Hôm nay, ông A. N. Firdaus, Tổng thư ký của Đại Hội đồng Hồi giáo Indonesia tuyên bố:
“Những cái ôm hôn kiểu đó là một vi phạm đôi với luật Hồi giáo, niềm tin của 90% người Indonesia. Ôm hôn con gái nơi công cộng cũng là một vi phạm thuần phong mỹ tục của  Indonesia.”
Ông Firdaus nói thêm, “Có thể Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bị tuyên truyền của Cộng sản ảnh hưởng sâu đậm đến nỗi ông đã nghĩ rằng đạo đức của người Indonesia tương tự như đạo đức Cộng sản.”

Tờ Pedoman, một nhật báo Xã hội hàng đầu của Jakarta, mới đây đã dựa trên bài xã luận trên tờ báo Harian Rakjat của đảng Cộng sản, chỉ trích trò “hula-hoop” là “sản phẩm mới nhất của văn hóa Mỹ”, và cho rằng kiểu ôm hôn của ông Hồ là “sản phẩm mới nhất của văn hóa Sô Viết.”

Đoàn Kết

Tờ báo của Cộng sản tưng lên biện hộ cho người lãnh đạo Bắc Việt và gọi kiểu ôm hôn của Hồ là “một hành động tỏ tình đoàn kết và thương cảm do Tổng thống Soekarno gợi ý.”

Một tờ báo khác, Harian Abadi, viết “Trưởng ban nghi lễ của Bộ Ngoại giao (Indonesis) nên ghé tai nói nhỏ cho quốc khách biết cách ứng xử cho phải phép.”

Tờ báo viết tiếp, “Chúng tôi không thể hiểu tại sao những người khách nước ngoài lại tưởng rằng chuyện hôn hít vợ, con của chủ nhà lại là một mỹ tục. Cũng may, Bac Hồ là một ông già.”

Một dân biểu Indonesia, bà Mawardi Noor, nói chuyện ôm hôn của ông Hồ là điều đáng tiếc. “Tôi hy vọng rằng hành vi của ông Hồ không trở thành một thói quen ở đây.”

Hồ Chí Minh sẽ đi Medan, Sumatra, ở qua đêm trước khi về lại Hà Nội.
© 2014 DCVOnline

Nguồn: President Ho Is told to stop kissing girls… The Straits Times, 8 March, 1959. UPI.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét