Tổng số lượt xem trang

Thứ Tư, 20 tháng 8, 2014

Ba kịch bản cho tương lai Việt Nam

Ba kịch bản cho tương lai Việt Nam

“…Kịch bản này có thể mô tả một cách sơ lược là: ve vãn Mỹ, để không bị o ép mạnh trong quan hệ với Trung Quốc như trước đây, làm lắng dịu tình hình căng thẳng do dàn khoan gây ra. Được giới lãnh đạo Việt Nam vẫn luôn tự hào như là một « đường lối mềm dẻo, khôn khéo »…”.

sangtronghungdung01

« Có những thời điểm mà lịch sử chạy nhanh hơn bình thường. Tôi thậm chí dám khẳng định rằng có khả năng Việt Nam bước vào giai đoạn chính trị có tính quyết định nhất kể từ sau 1975 ». Đây là nhận định khá lý thú, đáng được quan tâm của Giáo sư Jonathan London, trường Đại học Hồng Công.

Tuy nhiên, tương lai Việt Nam sẽ đi về đâu, vẫn còn là câu hỏi rất khó với bất cứ ai quan tâm, lo lắng cho đất nước này. Nó khó như giải một phương trình gồm nhiều ẩn số. Trong đó, ẩn số quan trọng nhất, khó phán đoán nhất là các tính toán và cân nhắc của giới lãnh đạo đảng và nhà nước Việt Nam hiện nay.

Điều đó khẳng định rằng tương lai của đất nước phụ thuộc rất nhiều vào  quyết định của giới lãnh đạo.Cơ hội đã đến, mọi cánh cửa đã mở. Tiếp tục lối mòn xưa hay chuyển hướng đưa đất nước vào con đường phát triển theo văn minh của nhân loại. 

Dựa trên sự phán đoán các tính toán và cân nhắc của giới lãnh đạo, có thể phác thảo ra ba kịch bản chính cho tương lai Việt Nam, như sau:

1.  Trò chơi cân bằng trong quan hệ với Mỹ và Trung Quốc tiếp tục được áp dụng.

Đây là kịch bản dễ xảy ra nhất. Nó dựa trên sự suy luận rằng giữ chế độ là nhu cầu lớn nhất của giới lãnh đạo Việt Nam hiện nay.

Theo kịch bản này, quan hệ Việt - Trung không còn ở mức « 4 tốt, 16 chữ vàng » nữa, nhưng vẫn giữ ở mức « hai bên cùng có lợi ». Lãnh đạo Việt Nam không đặt vấn để thoát hẳn ra khỏi sự lệ thuộc vào Trung Quốc mà lợi dụng mối quan hệ này để củng cố chế độ. Đổi lại Trung Quốc không có thêm sự khiêu khích lộ liễu nào nữa ngoài Biển Đông, hoặc nếu có cũng dựa trên những thỏa thuận ngầm với lãnh đạo Việt Nam và được hai bên giữ kín. Trung Quốc không «làm xấu mặt» Việt Nam thêm nữa, để đổi lấy việc làm ngơ trước các kế hoạch xác định chủ quyền  ở những khu vực Trung Quốc đã chiếm. Đợi một thời gian im ắng, Trung Quốc lại tiếp tục xây phi trường và căn cứ quân sự ở Gạc Ma, xây các ngọn hải đăng tại quần đảo Hoàng Sa.

Hai bên Việt-Trung tiếp tục chủ trương « gác tranh chấp, cùng khai thác ». Việt Nam dựa vào ưu thế của Trung Quốc để gỡ gạc những lợi ích tối đa nhất, trong hành xử với các nước láng giềng tranh chấp. Hai bên tiếp tục giữ tuyên bố « các tranh chấp được giải quyết thông qua các cuộc đàm phán song phương giữ các bên liên quan trực tiếp ». Đề án kiện Trung Quốc ra tòa án trọng tài quốc tế được cất kỹ trong ngăn kéo.

Trong khi đó, những bước xích lại gần nhau giữa Mỹ và Việt Nam chỉ giữ ở mức « đủ để cân bằng với Trung Quốc ». Mỹ được đáp ứng để thỏa mãn là Trung Quốc không hung hăng thêm nữa. Tình hình « nguyên trạng » như trước giàn khoan được cam kết giữ, đủ để hài lòng cả ba bên Mỹ, Trung, Việt. Cả Mỹ và Trung Quốc đều ngầm hiểu « mi không đụng đến lợi ích của ta, thì ta không đụng đến lợi ích của mi » như phương châm đã hình thành từ thời Thượng Hải 1972.

Một số lĩnh vực trong quan hệ Mỹ-Việt có thể tiến bộ nhất định. Nhưng không đạt đến mức Mỹ mong đợi, do Việt Nam không đáp ứng được đầy đủ những  điều kiện mà phía Mỹ đưa ra. Những  tiến bộ được giữ ở mức đủ để Mỹ đừng buông tay. Nhịp điệu « bắt thả » rất nhịp nhàng để đổi lấy việc thực hiện cam kết của Mỹ.

Những tiến bộ về dân chủ và nhân quyền, nếu có thì chỉ là hình thức bề ngoài. Tư tưởng đi theo Mỹ là mất đảng, là mắc mưu « diễn biến hòa bình » ít nhiều vẫn đang còn tồn tại trong giới lãnh đạo Việt Nam hiện nay. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã vừa tuyên bố tại Bộ Công an: « Dứt khoát không để nhen nhóm hình thành tổ chức chống đối phá hoại đất nước ». Tuyên bố này đi ngược phát biểu dân chủ đầu năm, đã được ngài John Mc Cain « biểu dương » trong chuyến thăm vừa rồi tại Việt Nam.

Kịch bản này có thể mô tả một cách sơ lược là: ve vãn Mỹ, để không bị o ép mạnh trong quan hệ với Trung Quốc như trước đây, làm lắng dịu tình hình căng thẳng do dàn khoan gây ra. Được giới lãnh đạo Việt Nam vẫn luôn tự hào như là một « đường lối mềm dẻo, khôn khéo ». Kịch bản này có thể xảy ra từ nay đến Đại hội đảng XII, có thể kéo dài được thêm một vài năm sau đó, trước khi dẫn đến thất bại, đổ vỡ.

2.  « Đường lối mềm dẻo, khôn khéo » bị thất bại. Việt Nam bị kẹt trong xung đột về chủ trương của Mỹ và Trung Quốc. Quan hệ Việt-Trung dần trở nên căng thẳng. Quan hệ Việt-Mỹ được thúc đẩy nhưng không đủ để Mỹ can dự trực tiếp. Có khả năng đụng độ  trên Biển Đông, trong đó Việt Nam được hậu thuẫn bởi vũ khí của Mỹ.

Kịch bản này khả năng ít nhưng vẫn có thể xảy ra. Nó dựa trên suy luận là một nước nhỏ như Việt Nam hiện nay không đủ tài và lực để cùng lúc lèo lái hai cường quốc hòng trục lợi cho riêng mình.

Kịch bản này là hậu quả chính sách « mềm dẻo, khôn khéo », trong khi Mỹ và Trung Quốc đều có tính toán riêng của mình.

Với Trung Quốc, sự kiện đưa giàn khoan vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam là một phần của kế hoạch của Trung Quốc vươn ra biển khơi, độc chiếm Biển Đông, hợp pháp hóa đường lưỡi bò và kiểm soát các đường hàng hải huyết mạch.

Trước đó, Trung Quốc đã âm thầm, lặng lẽ, xây dựng các công trình như sân bay, đảo nhân tạo, đặt căn cứ quân sự ở Trường Sa. Trên đất liền, xây dựng các đặc khu kinh tế Vũng Áng - Hà tĩnh, dự án Bô xít Tân Rai và Nhân Cơ - Đắc Nông. Từ đó, hình thành tam giác với đảo Hải Nam và đảo Tam Sa (Hoàng Sa), chia cắt và dễ dàng khống chế Việt Nam khi tình huống xảy ra.

Những hành động mới đây của Việt Nam trong quan hệ với Mỹ làm Trung Quốc rất nóng mắt. Họ tiếp tục tiến hành đồng loạt các  biện pháp vừa hăm dọa, cưỡng ép và bắt chẹt đối với Việt Nam. Họ không muốn Việt Nam ngã quá nhiều với Mỹ để ngăn cản chủ trương trên của họ.

Thời gian tới, họ tiếp tục gây sức ép lên giới lãnh đạo để Việt Nam tiếp tục trấn áp các hoạt động chống Trung Quốc, gây rối làm bất ổn cả về kinh tế lẫn xã hội ở Việt Nam, làm các nhà đầu tư nước ngoài không dám tiếp tục đầu tư, dùng các biện pháp về tài chính và thương mại để khống chế Việt Nam chặt chẽ hơn.

Với Mỹ, các chuyến đi liên tiếp vừa rồi đến Việt Nam của Thượng nghị sĩ John Mc Cain và của Tướng George Martin Dempsey chứng tỏ Mỹ đã cảm thấy quá muộn trong những biện pháp ngăn chặn sự trỗi dậy hung hăng của Trung Quốc. Việc các quan chức Mỹ có những phát biểu đầy « khích lệ » cho quan hệ Mỹ- Việt chứng tỏ Mỹ thật sự mong muốn có hậu thuẫn cho Việt Nam là mắt xích yếu nhất, nhưng đồng thời cũng là đối tượng chống lại Trung Quốc hiệu quả nhất, nếu được tăng cường sức mạnh. Một quan chức ngoại giao cấp cao của Mỹ cho biết một trong những yếu tố « thú vị » trong quan hệ Mỹ - Việt là « tâm lý chống Trung Quốc sâu sắc » ở Việt Nam.

Người Mỹ có thể hào phóng nhưng rất thực dụng. Một mặt, họ ra sức ca ngợi và cổ vũ cho một « đối tác chiến lược » trong tương lai của quan hệ Mỹ-Việt, với những cam kết kế hoạch giúp đỡ khá rõ ràng. Nhưng mặt khác họ không quên đưa ra những điều kiện ràng buộc và giới hạn để  thực hiện theo một tiến trình nhất định. Hầu như người Mỹ đã rút ra bài học « No more Vietnam » của cố Tổng thống Richard Nixon. Họ có thể tiêu tốn tiền bạc và vũ khí trong tình huống này, nhưng để đổi lại họ có thể « dùng cộng sản chống lại cộng sản ở Biển Đông ».

Kịch bản hai xảy ra khi Việt Nam bị nằm ở thế, trên thì bị Trung Quốc o ép không thoát ra khỏi được vòng kiểm tỏa, ở dưới thì bị Mỹ thúc ép « có hành động thêm nữa về dân chủ và nhân quyền ». Kịch bản này có thể đi kèm với tình trạng giới lãnh đạo Việt Nam bị chia rẽ một cách sâu sắc bởi hai phe cải cách và bảo thủ, nhưng không bên nào giành thắng thế.

3.  Lãnh đạo Việt Nam buộc phải thay đổi với một kịch bản tương tự như đã diễn ra ở Miến Điện.

Ít có khả năng giới lãnh đạo Việt Nam tự nguyện thay đổi. Kịch bản này có thể xảy ra khi kịch bản đầu thất bại hoặc do một tác động bên ngoài như: sự nổi dậy của nhân dân, vỡ nợ hoặc sụp đổ về kinh tế, một biện pháp trừng phạt của các nước lớn (thí dụ như dự luật chế tài về nhân quyền Ed Royce HR4254).

Đây là kịch bản duy nhất có lợi cho nhân dân và dân tộc Việt Nam.

Kịch bản này cũng dựa trên suy luận rằng, có một nhân vật hoặc một nhóm lãnh đạo, có tư tưởng cải cách, tập hợp đủ lực lượng tạo ra một diễn biến như đã từng xảy ra ở Liên Xô và Đông Âu.

Tóm lại, phán đoán các kịch bản cho tương lai Việt Nam hầu tìm ra được mấu chốt quan trọng nhằm đẩy nhanh quá trình thay đổi, mau chóng đến với đất nước Việt Nam.

Là nhà lãnh đạo thì nhận cho mình trọng trách cao nhất đối với vận mệnh đất nước. Phải có đủ lòng dũng cảm và thành tâm chính trị, lãnh đạo quốc gia phải thực sự vì lợi ích của dân tộc, của đất nước, chứ không thể vì lợi ích của một đảng, một phe nhóm hoặc chỉ vì lợi ích cá nhân.

Là con dân Việt Nam, thì việc đòi hỏi để có được một cuộc sống tự do, ấm no, hanh phúc trong một quốc gia thịnh vượng, không thể chỉ còn là một lời thỉnh cầu mà phải ý thức tự đứng lên giành lấy nó. Xây dựng một xã hội dân sự mà trong đó mọi công dân Việt Nam quan tâm đến các tổ chức lãnh đạo đang điều hành đất  đất nước, hiểu được cơ chế mà nó đang hoạt động, nắm được những biện pháp, chính sách mà các cơ quan này đang tiến hành. Tương lai, vận mệnh của mình nằm trong đó.

Việt Nam đang có cơ hội tốt để hướng tới một tương lai thực sự độc lập, dân chủ và tự do.
Đặng Xương Hùng

Đường về nước cống hiến cứ…. xa vời vợi

Những ai vượt qua được rào cản này thì hướng đi khả dĩ nhất của họ là tiếp tục ở lại nước ngoài làm việc. Con đường trở về giúp ích cho đất nước cứ xa vời vợi.
Ai theo đuổi nghiệp nghiên cứu?

Với thực tế đang bày ra trước mắt của những thế hệ “đàn anh” đi trước, thì tương lai với những ai muốn theo đuổi nghề nghiệp nghiên cứu không mấy sáng sủa.

Cơ chế làm việc tệ hại, đồng lương quá thấp, chính sách về khoa học công nghệ chưa thuận lợi và rất nhiều rào cản khác là những điều họ có thể nhìn thấy khá rõ ràng. Họ cũng khó mà được khích lệ hay có cảm hứng khi nhìn vào các thế hệ trước, từ năng lực, sự say mê với công việc nghiên cứu cho đến điều kiện vật chất, tinh thần.

Chưa kể, việc lựa chọn nghề nghiệp hiện nay lại còn bị bủa vây trong tâm lý chung của xã hội Việt Nam là chỉ nhăm nhăm học ngành nào, làm cái gì để kiếm được nhiều tiền. Có thể tìm thấy vô số những lời phàn nàn về chuyện này, từ các hội thảo chuyên môn cho đến thông tin trên báo chí phổ thông.

Tất cả những điều đó làm cho nhiều người trong số các thành phần HSG không mấy mặn mà với việc đi theo con đường học thuật. Trong số khá nhiều đội tuyển HSG quốc gia thời phổ thông, hầu hết thành viên đều chọn đi theo những con đường khác. Một số người, tuy đi làm kiếm tiền (và kiếm được khá nhiều) nhưng trong thâm tâm họ vẫn luôn tiếc nuối về con đường học hành nghiên cứu dang dở. Rất đáng tiếc.
khoa học, giáo dục, nghiên cứu, học sinh giỏi, Việt Nam, Hàn Quốc, đường
Ảnh minh họa
Với những người vẫn còn chút yêu thích nghiên cứu và có ý định đi theo lĩnh vực này, sau khi học xong ĐH ở VN, con đường khả dĩ nhất của họ là du học. Tuy nhiên thực tế cho thấy nhiều người rất vất vả để theo kịp bạn bè, đồng nghiệp ở các trường ĐH phương Tây. Ngoài những vấn đề chung như khả năng chuyên môn, trình độ ngoại ngữ thì họ còn gặp phải vấn đề về kỹ năng làm việc. Lý do cơ bản là họ không được hướng dẫn làm việc nghiêm túc, đúng cách ngay từ đầu: trường ĐH không có đủ thầy giỏi để hướng dẫn họ. Sự thành công vượt bậc của những HSG có năng lực tương đương nhưng có cơ hội đi học ở các nước phát triển ngay sau phổ thông là một minh chứng cho điều này.

Rất khó để cải thiện trong ngày một ngày hai, không chỉ kiến thức, khả năng mà còn cả những thói quen làm việc thiếu chuyên nghiệp đã hình thành và bám rễ vững chắc trong suốt những năm học ĐH ở VN, trong khi thời gian thì không chờ đợi ai. Điều này rất dễ làm nản chí ngay cả những người có tố chất tốt.

Những ai vượt qua được rào cản này thì hướng đi khả dĩ nhất của họ là tiếp tục ở lại nước ngoài làm việc. Con đường trở về giúp ích cho đất nước cứ xa vời vợi.

Khả năng và bằng cấp: thiếu và thừa

Khác với nhiều lao động thông thường khác, nghiên cứu khoa học là lao động đặc thù, không thể đào tạo cấp tốc trong mấy tháng, mấy năm được. Cần phải có một chiến lược lâu dài, có tính hệ thống, đồng bộ và nhất quán. Hậu quả của những bất cập nói trên thì không cần sau này mới thấy.

Chẳng hạn hiện nay khi cần đào tạo hàng chục nghìn tiến sỹ (TS) cho các trường ĐH trong vòng 10-15 năm tới thì người ta mới quáng quàng đi tìm cho đủ số để đào tạo. Nhưng không chăm lo từ gốc, thì đào đâu ra đủ người? Có tìm đủ đi nữa, thì chất lượng cũng có vấn đề. Điều này có thể nhận ra từ những vấn đề về chuyên môn và ngoại ngữ nảy sinh trong quá trình  tuyển chọn người đi học TS ở các nước phát triển. Chúng ta đã lãng phí một số lượng không nhỏ người có nền tảng tốt từ bậc học phổ thông, đồng thời cũng là những người có tiềm năng làm khoa học tốt.

Trong tình trạng thiếu hụt nhân lực đó, hàng năm đất nước vẫn sản sinh ra hàng trăm, hàng nghìn "TS giấy". Họ có bằng TS nhưng không tham gia nghiên cứu khoa học một cách nghiêm túc, không theo đuổi nghiên cứu khoa học, không giảng dạy, nghiên cứu trong các trường ĐH hay làm nghiên cứu ở các cơ sở nghiên cứu. Họ lấy bằng TS vì mục đích khác, với sự tiếp tay của những cơ sở đào tạo dễ dãi, thậm chí còn mua bán bằng cấp từ bí mật tới công khai. Trong khi tình trạng này đã diễn ra đến mức báo động, thì chính sách để hạn chế nó vẫn chưa có cải thiện gì đáng kể. Thực tế này làm lòng tin của xã hội vào tấm bằng TS bị xói mòn nghiêm trọng, lòng tự hào của những người lấy bằng TS bằng con đường nghiên cứu nghiêm túc bị tổn thương, từ đó góp phần làm nản chí những ai có ý định lựa chọn nghề nghiệp rất đặc thù này.

Chọn công việc thời thượng... dễ hơn làm nghiên cứu?
Tất cả những điều trên dẫn đến một hệ lụy là số HSG ở bậc học PT muốn học chuyên sâu ngày càng ít dần đi.

Phần nhiều trong số họ chỉ học những gì cần cho kỳ thi đầu vào ĐH mà thôi, trong khi kỳ thi hiện nay, vì tính chất và đối tượng của nó, không có nhiều tác dụng khuyến khích HSG học chuyên sâu.

Ngoài ra nhiều người trong số họ cũng lựa chọn các các ngành thời thượng, dễ kiếm tiền, rời xa các ngành khoa học, kỹ thuật, đặc biệt là khoa học cơ bản vì thiếu chính sách khuyến khích thích hợp. Một số nữa thì lao vào rèn luyện những thứ cần cho việc đi học nước ngoài từ sớm mà trong nhiều trường hợp không cần học chuyên sâu. Tệ hơn, một số khác thì chỉ lao đầu vào học ngoại ngữ, kỹ năng sống... mà xem nhẹ việc học chuyên môn.

Điều đó có thể quan sát được qua vô số tin tức hàng ngày, từ việc tranh luận trên báo chí về kỳ thi ĐH cũng như điểm chuẩn vào các ngành, các trường, đến việc thảo luận trên các diễn đàn về con đường du học, các phát biểu của giới trẻ về định hướng tương lai của họ. Không thể nói rằng những định hướng trên là sai, ngược lại nó còn cần thiết để tạo ra một lớp người mới năng động, sáng tạo với tài năng đa dạng hơn cho đất nước.

Nhưng sự mất dần hứng thú, mục tiêu với việc học chuyên sâu của HSG qua thời gian là điều mà có lẽ chúng ta cần phải lưu ý trong việc đào tạo nguồn nhân lực khoa học cho nước nhà. Nếu không có biện pháp khắc phục, tài năng khoa học sẽ mai một dần, vì quá trình học tập chuyên sâu từ sớm là rất quan trọng trong việc tạo nền tảng tốt cho người làm khoa học nói chung.

Không rõ là trong thời gian tới, chúng ta sẽ có những biện pháp nào để cải thiện tình trạng nêu trên. Nếu cải thiện được thì với nền tảng đã có được, tôi tin rằng chỉ cần 20-30 năm là đủ để tạo dựng được một đội ngũ làm nghiên cứu mạnh, giúp cho nền khoa học - kỹ thuật của đất nước có thể bứt phá.

Sự thành công của Hàn Quốc và phần nào đó là Đài Loan từ một xuất phát điểm tương tự chúng ta là một bài học đáng suy ngẫm. Tuy nhiên khác với các nước này, điều kiện hiện nay của Việt Nam có những nét đặc thù, chưa thuận lợi cho những cải cách cần thiết. Do vậy để đạt được thành công như họ, chúng ta sẽ phải nỗ lực rất nhiều.
Tâm Trí
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, từng là HSG Toán quốc gia thời phổ thông, giảng viên ĐH và hiện đang làm nghiên cứu sinh tại Mỹ. Mời bạn đọc tranh luận.
(Tuần Việt Nam)

Tuấn Khanh - Của để dành của mỗi đời người

Chị N, kể rằng khi chị lấy chồng được một năm, thì cả hai bàn một kế hoạch hậu sự cho đời mình bằng cách: Chồng sẽ ở lại Quảng Ngãi để chăm sóc mảnh ruộng con, giữ nhà, vợ thì sẽ đi vào Nam làm thêm, dành dụm để gửi về.

 Đó là một trong những câu chuyện tôi được nghe ở vỉa hè, của những con người vô danh và lương thiện trên đất nước này. Mỗi đêm đi bán bánh tráng ở các quán nhậu trong Sài Gòn, chị kiếm được trung bình khoảng 50.000 đồng. Sau khi trừ tiền chỗ ở mỗi ngày 5.000 đồng và tiền ăn là 15.000 đồng, chị còn lại khoảng 30.000 đồng. Đó là khoản chị nịt chặt bên người, để cứ 2 hay 3 tháng thì gửi về cho chồng giữ, cũng được đâu đó khoảng 500.000 – 600.000 đồng. Phần còn lại, chị để mua quần áo, thuốc men khi đau yếu.
FormatFactoryP8130255

Chị N, đã trãi qua 15 năm như vậy trên đất Sài Gòn. Trong đó, có năm chị quay về nhà, đẻ con rồi lại quay vào Sài Gòn buôn bán tiếp. Khi có con, hai vợ chồng gia đình nghèo khó và thanh bạch đó lại càng nhọc nhằn hơn một chút vì muốn con đầy đủ. Cắp chiếc rỗ với những món quà vặt, mà vốn liếng không bằng một nửa bữa ăn nhậu ồn ào ở phố thị, chị N, nói sẽ ráng đi bán thêm chừng 5 năm nữa thì về nhà. Đôi chân có chút khuyết tật của chị đã mệt mỏi lắm rồi khi mang vác một ước mơ nhỏ nhoi là có chút tiền, để không để đói lúc già yếu.

 Chị N, chỉ là một trong hàng trăm ngàn những con người đang vật vã mưu sinh ở đất Sài Gòn, với ước mơ nhỏ, dành lại chút gì cho mình trong kiếp sống mịt mờ này. Nhưng không phải ai cũng có may mắn để hoàn thành được ước mơ nhỏ đó của mình. Rất nhiều cụ già cầm vé số, chỉ về nhà trọ lúc trời sắp sáng, chỉ mong có chút tiền độ thân. Những người công nhân rất trẻ mà tôi gặp, họ cũng luôn mệt mỏi lây lất khi bị công ty trừ lương mỗi tháng vì đủ các lý do, chỉ đủ để sống tạm, không thể có dư. Cuộc sống của rất nhiều con người Việt Nam đang đi qua thời kinh tế khó khăn, với vẻ hiện sinh trần trụi nhất. Niềm tin và thụ hưởng, chỉ còn mong đủ cho ngày hôm nay.

 Sẽ không có gì là đáng nói. Nếu chúng ta là chia nhau khốn khó này trong tình đồng bào, và cùng chung giấc mơ tương lai cho con cháu về sau. Chẳng có gì là xa lạ với ý nghĩa này, từ việc đối chiếu lịch sử với một nước Nhật kiệt quệ sau 1945 hay Hàn Quốc ở thập niên 1960 mà GDP chỉ bằng một nước Châu Phi nghèo. Từng con người cố gắng dành lại cho mình và dân tộc, một ngày mai sau – phần cao quý nhất từ những khổ đau mà mỗi con người tử tế còn nhận thức được.

 Tôi ước mình có thể chiếu lại những thước phim đời hiện thực ở đường phố mà tôi được thấy, cho những quan chức bị khám phá có những số tiền riêng hay cơ ngơi bí mật bị phát hiện, mà giá trị không khác gì như những kho báu của cướp biển Caribbe. Tất cả những quan chức đó vẫn luôn tuyên bố rằng đó chỉ là của dành dụm, từ đồng lương của mình. Nhưng chúng ta hãy cùng nhau tự hỏi, không cần những con toán phức tạp của một vị giáo sư, bất kỳ ai cũng có thể ngỡ ngàng việc Giám đốc Sở Tài nguyên Môi trường Đào Anh Kiệt mất 1,6 tỷ đồng dành dụm trong “hộc bàn” làn việc hay dinh thự trăm tỉ đồng mồ hôi nước mắt mà ngài Trần Văn Truyền, nguyên Tổng Thanh tra chính phủ có được. Những con số đơn giản tính toán, trừ các chi phí sang trọng mà con cái, gia đình của các quan chức như vậy vẫn thụ hưởng, họ sẽ để dành bằng cách nào theo chiều ước mơ của đồng bào, hay hiện thực của tổ quốc mình?

 Trong Hồi ký “Sống và chết ở Thượng Hải” nói về xã hội Trung Quốc những ngày điên loạn của Cách mạng văn hoá, tác giả Niệm Niệm có đề cập đến một khái niệm “Open Secret”, một sự thật – bí mật mở trong nhân dân. Tức, chuyện nghe là biết như thế nào, dù được có những vỏ bọc diễn ngôn rất hào nhoáng. Sự thật đôi khi không nằm ở lời giải thích cá nhân hay kết luận trên mặt báo, mà sự thật là sự chia sẻ im lặng – không cần nói thì ai cũng hiểu – đôi khi nằm trong nụ cười của nhân dân.

 Trong bài phát biểu về vấn nạn quốc gia của ông Lê Như Tiến, đại biểu Quốc Hội, có ghi rằng “Vì thực tế những kẻ tham nhũng thường có chức, quyền và lương không hề thấp, thậm chí ‘lương khủng’, nhưng họ vẫn tham nhũng do lòng tham vô đáy, không giới hạn. Lòng tham đã ngự trị thì không biết bao nhiêu là đủ”. Tài sản và “của để dành” của nhiều quan chức ngày nay đã tinh tế hơn, thông hiểu luật pháp hơn, như là “chuyển tài sản cho người thân, con trai, con gái vị thành niên, gồm ô tô, biệt thự, đất đai, cổ phiếu…” và còn có cả các khoản kê khai được tặng-cho một cách hồn nhiên như trúng số.

 Một đời người đôi khi không đủ dài để dành dụm cho mai sau, nhưng cũng quá ngắn vì hối hả trong sự tham lam vô độ. Có những con người dành dụm lặng lẽ và khó nhọc như nhịp giọt mồ hôi rơi xuống, toả sáng trong cần lao. Và cũng có những con người dành dụm bằng nhịp chạy của đôi giày được đánh bóng, giẫy đạp trên lưng đồng loại mình, với mưu tính và quyền lực.

Tất cả những của để dành lại trong mỗi đời người, đều là những cuốn sách, với những chương đọc lại, vẫn tạo nên nụ cười trân trọng hay khinh bỉ.
Tuấn Khanh
(Blog Tuấn Khanh)

Bùi Mai Hạnh - Nhạy cảm chính trị

Hình minh họa
Vừa rồi về Việt Nam, bất ngờ được chị bạn (làm công tác văn hóa văn nghệ) nhắc nhở: “Em chẳng nhạy cảm chính trị gì cả!”.

Thực ra “nhạy cảm chính trị Ngơ ngác một lúc, nhớ ra, ngay từ buổi đầu viết báo, mình từng được/bị nhắc như thế. Không chỉ một lần.

Lần thứ nhất cách đây cũng gần hai chục năm. Sau đợt đi thực tế theo chương trình thực tập của Trường Viết văn Nguyễn Du, mình nộp bài cho tờ X. Một tuần căng thẳng hồi hộp chờ đợi trôi qua, mình được bà Tổng biên tập tiếp bằng nụ cười tươi rói và thương cảm: “Đúng là nhà thơ nhà văn các bạn lơ mơ thật. Chẳng nhạy cảm chính trị tí nào!”.


Bài báo viết về nỗi đau chết hụt trong “căn nhà tình nghĩa” của một bà mẹ anh hùng ở Ninh Hòa, vùng đất có nhiều mẹ anh hùng nhất nước. Không nhạy cảm chính trị là sao?

Căn nhà đó có bảy bát hương xếp hàng trên ban thờ lặng ngắt u buồn. Vệt nước lụt vẫn còn thẫm đen đánh dấu trên nửa già cánh cửa gỗ sắp mục. Bức tường nứt đút lọt ngón tay út. Gian bếp lạnh tanh chỏng chơ cái nồi nhỏ… Thỉnh thoảng mẹ mới đến nhà mình để thắp hương cho những người chết trận (chồng và các con trai). Vì mẹ sợ. Ở căn nhà đó, mẹ sợ đủ thứ. Sợ trộm cắp, sợ lụt lội, sợ cái nhà ụp xuống đầu bất cứ lúc nào. Sợ hơn cả là nỗi cô đơn không hàng xóm láng giềng. Mới đấy, lũ lụt tràn qua bất ngờ trong đêm, mẹ suýt chết đuối. May có đứa cháu họ xa sực nhớ đến, chạy ra cõng mẹ về. Từ đó, mẹ về hẳn trong làng ở nhờ nhà người bà con.

Không hề ngần ngại, mẹ thổ lộ nỗi buồn, sự bất bình với chính quyền địa phương khi xây cho mẹ căn nhà không đảm bảo chất lượng vì đã “bị rút ruột một nửa” và nằm chơ vơ giữa cánh đồng hoang vắng. Từ xa, ngôi nhà nom giống mô hình “nhà cô đơn trên sa mạc”. Có lẽ, chức năng của căn nhà là làm nhân chứng cho “sự quan tâm của Đảng và nhà nước” thì đúng hơn là làm “nhà tình nghĩa”, mái ấm cho một bà mẹ anh hùng cô đơn.

Kết luận bài báo, mình nói về cảm giác buồn nôn khi chứng kiến ông quan chức Phòng Thương binh Xã hội, miệng cười hềnh hệch gào thét zô zô, tay thản nhiên thò vào khuấy đá trong vại bia đang sủi bọt ở quán ăn chiêu đãi các tân nhà báo. Chỉ mấy phút trước, trong buổi mít-tinh tưởng nhớ liệt sĩ, những ngón tay chuối mắn này còn vung lên hùng hồn phụ họa cho bài diễn văn “nghèn nghẹn xúc động”…

Tuy nhiên, bài viết nhiều thông tin thực tế và cảm xúc “lai láng” của một đứa thơ thẩn đã không được duyệt chỉ vì nó rất thiếu “nhạy cảm chính trị”.

Lần thứ hai khái niệm “nhạy cảm chính trị” do một sếp nữ giảng giải. Chẳng nhớ là mình đã phạm lỗi gì cụ thể (vì nhiều lỗi quá), chỉ nhớ hôm ấy, ở hành lang cơ quan, mình hút thuốc và sếp cũng… xin một điếu. Đấy là lần duy nhất mình thấy sếp hút thuốc (hình như sếp đang bức xúc gì đó). Sếp chân tình nói: “Này, chị bảo thật, người ta nói ăn cây nào rào cây ấy, nếu em định viết bài chê ngành văn hóa thì em chỉ có cách ra khỏi ngành, rồi muốn viết gì thì viết. Ngành văn hóa tham nhũng giỏi lắm được vài chục triệu, làm sao bằng ngành giao thông tham nhũng hàng chục tỉ hả em. Em cần phải nhạy cảm chính trị hơn chứ đừng có ngây thơ như thế…”.

Mình nghe sếp nói và… im lặng. Sếp nói quá chuẩn! Sau đó, mình đã thực hiện đúng lời khuyên của sếp, tình nguyện vĩnh biệt đời công chức, ra khỏi ngành và viết “Lê Vân yêu và sống”, một cuốn sách mình muốn viết. Cuốn sách bị cấm tái bản (theo lệnh miệng) sau một tháng phát hành. Đến giờ, lệnh cấm vẫn còn nguyên hiệu lực, mà chẳng ai cho mình biết lý do tại sao cấm để mình còn “rút kinh nghiệm”. Đoán mò, chắc tại mình kém “nhạy cảm chính trị” chăng?

Lần thứ ba mình được “thụ giáo” bởi một anh chàng dễ thương bên an ninh văn hóa. Khi đó, mình đang say sưa viết một loạt bài điều tra về ông hiệu trưởng một trường đại học tham nhũng, lạm quyền. Vì là chỗ quen biết, chàng đọc thấy bèn chân tình khuyên nhủ: “Em viết làm gì. Ông trưởng bảo đúng ông phó bảo sai. Đố em biết được ai đúng ai sai!!! Cơ chế là thế. Hôm nay đúng ngày mai sai ngày kia lại đúng. Chẳng có ai sai cả. Viết thế chứ viết nữa cũng chả giải quyết được gì!!! Em phải biết trên ông ấy là ai chứ! Em chả nhạy cảm chính trị tí nào”.

Quả thật, bốn số liền đăng bài tố cáo mà “ngài hiệu trưởng khả kính” không thèm ra lời. Thậm chí, không hiểu phù phép thế nào, ông ta lại được ca ngợi hết lời, cũng chính trên tờ báo đó. Thế mới đau chứ!

Nỗi đau này mãi gần chục năm sau mới… lên da non được. Tình cờ một hôm, cà phê vỉa hè, mình đọc được tin ngài hiệu trưởng phù thủy ấy sắp ra tòa. Vì tham nhũng hay gì gì đó, ở một phi vụ khác… Bỗng nhớ lời khuyên chân tình của chàng an ninh văn hóa về “căn bệnh” kém “nhạy cảm chính trị” của mình.

Và còn nhiều lần nữa, mỗi lần được nhắc nhở kém / thiếu “nhạy cảm chính trị”, mình chỉ ừ hữ hoặc im lặng mà không có thuốc nào chữa được. Vái tứ phương, được các “lang vườn” bạn bè kê đơn bắt uống loại thuốc cây nhà lá vườn rất hiệu nghiệm có tên tiếng Tây là “Mackeno” và tên tiếng Việt là “Vô cảm”.

Vô cảm. Ai đó đã dùng chữ này đầu tiên để miêu tả căn bệnh thờ ơ, chán nản, buông xuôi, trơ lì của toàn xã hội, từ dân đen tới cán bộ? Vô cảm trước sự đói nghèo, vô cảm trước áp bức bất công, vô cảm trước cường hào tham nhũng, vô cảm trước tội ác bạo hành, vô cảm khi an ninh quốc gia bị đe dọa, và đặc biệt vô cảm trước sự vô cảm. Cả một xã hội ù lì u mê không cảm xúc yêu ghét.

Giống y hệt lúc tắc đường, là khi gương mặt xã hội được phản ánh rõ nhất.

Đầu tiên cáu vì bỗng nhiên bị chặn đứng (như bị ngâm hồ sơ giấy tờ, bị sách nhiễu vòi vĩnh…). 15 phút đầu bực lắm. Bực ra mặt. Trán nhăn lại cau có, mắt láo liên nhìn quanh tìm lối thoát. 15 phút tiếp theo vẫn đứng im một chỗ, bắt đầu chửi đổng trong bụng. 15 phút nữa trôi đi trong cam chịu, nhẫn nhục. Ai cũng giống hệt mình. Cuối cùng, thêm 15 phút hay lâu hơn nữa cũng vậy. Chẳng còn trông đợi gì nữa… Sau một giờ đồng hồ, thậm chí hai giờ, chôn chân tại chỗ, nắng đổ lửa xuống hay mưa như xối trên đầu, khói xăng xe mù mịt ngộp thở, mọi cảm xúc bực bội, chán nản, lo lắng, đau khổ, oán than, nguyền rủa… lên tới đỉnh điểm rồi bất ngờ rơi về trạng thái trống rỗng.

Dù đã được nhích lên từng tí một thì cũng chẳng còn hơi sức đâu mà mỉm cười. Dù sẽ được giải thoát nhưng lại nhận thức ngay rằng ngày mai vẫn thế, ngày kia vẫn thế, tháng sau vẫn thế, năm sau vẫn thế… Chẳng cáu chẳng chửi thậm chí cũng chẳng mừng. Một lần, sau cú tắc đường gần hai tiếng (đoạn đường dọc sông Kim Ngưu về nhà ở Kim Giang), khi được giải thoát cũng là lúc mình tự nhiên ngã lăn quay vì kiệt sức. Và hoàn toàn tê liệt mọi giác quan. Hoàn toàn vô cảm.

Một thời gian dài, đọc đâu cũng thấy chữ “nhạy cảm”, muốn nói gì viết gì cũng được miễn đừng đụng đến “vùng nhạy cảm’, tức vùng cấm, sợ động chạm, sợ phạm húy… Chữ “nhạy cảm” được dùng nhiều quá, trở nên chai lỳ, báo chí chuyển qua phong trào dùng chữ “vô cảm”, báo hiệu căn bệnh các vùng nhạy cảm bị… vô cảm.

Phải chăng, cái đích cuối cùng của báo chí tiếng Việt là đi từ “nhạy cảm” đến “vô cảm”, một quá trình triệt tiêu mọi cảm xúc một cách hoàn hảo để chữa căn bệnh thiếu / kém “nhạy cảm chính trị”?
  Bùi Mai Hạnh
( Theo Văn Việt )

AFR Dân Nguyễn - Những thông điệp vui

 Dù quân đội Mỹ đã thua trong cuộc chiến VN-một cuộc chiến đã lùi vào quá khứ lâu lắm rồi, nhưng người ta vẫn phải thừa nhận quân đội Mỹ là một đội quân hùng mạnh bậc nhất TG hiện nay. Nó không chỉ hùng mạnh bởi được sinh ra trong một quốc gia giàu có, mà còn là một quân đội văn minh. Quân đội Mỹ không chỉ biết đánh nhau, mà họ còn có vai trò quan trọng trong các hoạt động nhân đạo, với tầm hoạt động bao trùm cả thế giới.

Không một nơi đâu, nhất là những nơi đang có xung đột, người dân luôn cảm thấy yên tâm khi có quân đội Mỹ hiện diện. Và người dân các xứ đó có cảm giác nỗi lo lắng bao trùm khi quân đội văn minh này rút đi… Những khoảng trống mà lính Mỹ để lại khi họ không còn được phép hiện diện tại những xứ sở đó, là bất ổn, là đói nghèo, là nguy cơ phiến quân hoành hành…

 Tuy nhiên, vai trò “quốc tế vô sản” không cho phép họ có mặt lâu dài ở bất cứ “điểm nóng” nào. VN từng được quân đội này hiện diện. Nhưng khi nó buộc phải rút đi bởi một hiệp định được ký kết tại Paris 41 năm về trước, thì vùng đất Nam VN, nơi quân đội Mỹ từng có mặt, đã rơi vào một “khoảng trống”. Khoảng trống muốn nói tới ở đây không phải là những cánh rừng bị rải chất độc khiến cỏ cây không thể mọc. (thực tế là do nạn phá rừng đã cạo trọc những cánh rừng thâm u của Dải Trường Sơn, chứ không phải do chất dioxin.), mà là khoảng trống khiến văn minh thịnh vượng không có cơ hội để sinh sôi nảy nở. Tuy nhiên, cái khoảng trống này do những kẻ khác, những kẻ dành chiến thắng và kiểm soát tạo ra.

Và phải chăng, vì cái khoảng trống đó làm cho người dân xứ sở này ngó về quân đội Mỹ với niềm nuối tiếc, giống như những gì người dân Iraq, Afganistan ngày nay đang phải đối mặt  khi quân đội Anh, Mỹ rút đi… Đặc biệt, khi vấn đề Biển Đông những năm tháng gần đây khiến người ta không nguôi nhớ về quân đội Mỹ- một quân đội từng là đồng minh tin cậy của ít ra là một nửa xứ sở này trong quá khứ xa xôi… Người ta có câu hỏi vương vấn mãi trong đầu, nếu quân đội Mỹ không “thua”, không buộc phải rút khỏi Nam VN năm 1973, thì  người Việt mất gì? Mất gì chưa biết, nhưng chắc chắn VN không bị mất Hoàng Sa về tay Trung Cộng, và cùng với đó, quân lực VNCH cũng đã có thể hùng mạnh như quân đội Hàn Quốc, đủ sức đối mặt trực diện với China khổng lồ, và Hòn ngọc viễn đông chắc không có gì phải hổ thẹn với láng giềng Bankok hay Singapore…

Dù sao những gì đã xảy ra giờ đã thành lịch sử. Nó có thể là những trang sử “hào hùng”, hay “vẻ vang” của một thiểu số nào đó, nhưng chắc chắn nó là trang sử buồn của Dân Tộc. (thậm chí nó cũng không thể là vẻ vang hay hào hùng cho một bộ phận làm nên nó, như người ta cố tình tuyên truyền…).

Nếu bánh xe lịch sử là việc quân đội Mỹ lại một lần nữa hiện diện nơi đây, thì chính đó, bánh xe lịch sử đang quay nhanh, và đem đến cho người ta niềm hy vọng. Nó đang lấp đi khoảng trống mà nó từng để lại mấy mươi năm về trước…Nhận thức là một quá trình; Nhưng quy luật dường như không phụ thuộc vào nhận thức của bất cứ ai, bất cứ thực thể nào. Hôm qua, một bộ phận, hay thậm chí là cả xứ sở này ngỡ rằng, tinh thần quốc tế vô sản” sẽ gắn kết những người “cùng chung chiến hào chống đế quốc” lại với nhau. Họ “vừa là đồng chí, vừa là anh em”, là “chung một Biển Đông mối tình hữu nghị…”. Nhưng thực tế không phải vậy. Và cho dù hôm nay, một số người, do nhận thức “chỉ đến thế”, hoặc do họ cố tình muốn người khác hiểu thế, thì cái khẩu hiệu 16 chữ vàng, hay bốn tốt, giống như cái mặt nạ của China, đang dần tuột xuống. Mọi thứ đang được phơi bày.

Nếu như việc mất Hoàng Sa vào tay Trung Quốc là nỗi đau buốt nhói cả Dân Tộc, thì mặt khác, nó lại có tác dụng cảnh tỉnh chúng ta về bạn thù. Đó cũng là yếu tố góp phần làm chúng ta nhận chân của nhiều vấn đề quan trọng khác…

Nhìn những bức ảnh tướng Mỹ chào, duyệt đội danh dự một đơn vị hải quân VN vào thời điểm này, đem đến cho rất nhiều người niềm vui. Dù những bộ quân phục mà những người lính VN đang mặc trên người còn là đặc trưng của những bộ đồng phục của quân giải phóng ND TQ, từ màu sắc đến kiểu cách.., nhưng nó cũng gợi lại cho người ta thấy hình ảnh của mối quan hệ đồng minh giữa quân đội Mỹ và quân đội VNCH một thuở. Dù không được thấy  những người lính VN đang giơ tay chào tướng Mỹ mặc những bộ quân phục gọn gàng toát lên vẻ kiêu hùng như người lính VNCH bận trên người khi xưa, nhưng cái chào đó đem đến niềm hy vọng. Niềm hy vọng cho người ta thấy được chúng ta đang dần tìm lại những gì đã đánh mất. Niềm hy vọng là nhiều người sẽ vỡ ra không chỉ về những vấn đề thời sự, thời đại, song còn là những vấn đề rất sâu xa của cuộc sống.
 Aug?19th/2014
AFR Dân Nguyễn  Tác giả gửi Quê Choa
Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm riêng của tác giả    ( Theo Quê Choa )   
 

Bậy bạ đầu vào và chuyện công chức bảo kê "xã hội đen"

“Được nhà nước giao để thực hiện một quyền nhất định, lẽ ra anh phải là người cầm cân nảy mực để giữ kỷ cương đất nước, thì anh lại bao che cho một lực lượng để làm bậy, đó là cái rất nguy hại”.

Ủy viên thường trực Ủy ban Pháp luật của Quốc Hội, nguyên Chánh Thanh tra Bộ Nội vụ - ĐBQH Nguyễn Sỹ Cương chia sẻ với phóng viên Báo điện tử Infonet khi đề cập đến những vấn đề nổi cộm từ chuyện thi tuyển đầu vào đến cách hành xử của một bộ phận công chức nhà nước thời gian qua.  
Một Phó Trưởng Ban tổ chức quận ủy Cầu Giấy liên quan đến vụ đâm chết người trong ô tô đang gây chú ý trong dự luận thời gian qua.

Những tiêu cực trong tuyển dụng công chức đã trở thành vấn đề nhức nhối trong dư luận. Hà Nội trước đây đã từng gây xôn xao với câu chuyện chạy công chức không dưới 100 triệu đồng, rồi vừa qua ở Bộ Công thương lại xảy ra câu chuyện tuồn đề cho "con ông cháu cha" trong thi tuyển công chức. Theo ông, những câu chuyện này nói lên điều gì về thực trạng tuyển dụng công chức hiện nay?

Điều này nói lên một thực tiễn mà bấy lâu nay người ta rất bức xúc về cái gọi là “chạy” việc, nhất là trong bối cảnh thiếu công ăn việc làm hiện nay. Đã có bao nhiêu cử nhân tốt nghiệp đang không có công ăn việc làm, mong muốn có được một việc làm, như cảnh phải xếp hàng thi vào Cục Thuế Hà Nội trong mấy ngày qua là rất rõ.

Điều đó chứng tỏ số lượng có nhu cầu về việc làm rất lớn. Trong bối cảnh đó, các cơ quan nhà nước đáng lẽ ra phải thực hiện quy định của pháp luật một cách nghiêm túc trong tuyển dụng, làm sao tuyển được người có trình độ, có năng lực đạo đức vào làm việc. Nhưng anh lại làm những việc trái quy định của pháp luật, tuyển dụng đối tượng toàn người nhà, người thân vào bộ máy nhà nước. Cái đó thể hiện công tác tuyển dụng không còn đúng với bản chất của nó nữa.

Liên quan đến câu chuyện bổ nhiệm, thời gian gầy đâu dư luận cũng đề cập đến câu chuyện "bố bổ nhiệm con". Điều này có phù hợp với quy định của pháp luật không, thưa ông?

Cái đó pháp luật không cấm. Vì có những trường hợp ông bố làm lãnh đạo cơ quan đó, rồi con cái họ thi vào một cách công khai, minh bạch, có đủ trình độ năng lực, tại sao lại không cất nhắc, bổ nhiệm? Cái chính là tập thể lãnh đạo ở đó đánh giá con người về điều kiện tiêu chuẩn, trình độ năng lực ra sao, rồi phải thực hiện theo đúng quy trình thủ tục và cần phải xem việc bổ nhiệm đó có đúng hay không?

Nhưng bấy lâu nay chuyện bổ nhiệm cứ làm một cách bậy bạ, không đúng quy trình bổ nhiệm nên dư luận mới bức xúc. Anh cứ nhăm nhăm cất nhắc, không chỉ là con cái, cháu chắt rồi cả người thân người quen thì không thể chấp nhận được.
Ủy viên thường trực Ủy ban Pháp luật của Quốc Hội, ĐBQH Nguyễn Sỹ Cương
Vậy theo ông cần phải làm gì để hạn chế, xóa bỏ những tiêu cực để có thể tuyển dụng và trọng dụng những người thực sự có năng lực trong bộ máy nhà nước?

Cái này Quốc hội đã thông qua Luật Cán bộ công chức, Chính phủ cũng có những quy định rất cụ thể đến vấn đề tuyển dụng, nhưng rất tiếc là các cơ quan lại không thực hiện việc đó nghiêm mà lại lợi dụng cái sơ hở của pháp luật để làm bậy, thậm chí còn cố tình làm trái các quy định của pháp luật.

Để làm được điều này, một câu trả lời rất dễ là phải thực hiện theo đúng quy định của pháp luật thì mới tuyển được người tài, đáp ứng đúng nhu cầu của bộ máy nhà nước. Nếu cứ làm sai trái quy định của pháp luật như thế, cốt để tuyển được người rồi cầm tiền của người ta thì làm sao mà tuyển được người tử tế vào bộ máy nhà nước? Mà nếu cứ như thế thì bộ máy nhà nước không bao giờ được tăng cường, không thể có được một bộ máy thực sự mạnh mẽ.

Từ chất lượng trong thi tuyển đầu vào dẫn đến chuyện tha hóa đạo đức, lối sống của cán bộ công chức hiện nay không còn là điều hiếm gặp. Điển hình như ở Hà Nội mới đây, một Phó Trưởng Ban tổ chức quận ủy Cầu Giấy liên quan đến cả "xã hội đen" đâm chết người. Ông đánh giá như thế nào về cách hành xử của một cán bộ công chức có vị trí trong bộ máy nhà nước như vậy?

Thực chất đó là một hiện tượng bảo kê cho "xã hội đen" của một bộ phận cán bộ công chức có quyền trong bộ máy nhà nước. Được nhà nước giao để thực hiện một quyền nhất định trong bộ máy nhà nước, lẽ ra anh phải là người cầm cân nảy mực để giữ kỷ cương của đất nước, thì anh lại vì một lý do nào đó, mà phần lớn vì vụ lợi để rồi bao che cho một lực lượng để làm bậy, đó là cái rất nguy hại. Điều này vừa làm mất trật tự xã hội, vừa không đáp ứng được yêu cầu kỷ cương của nhà nước và làm mất niềm tin của người dân vào bộ máy nhà nước.

Việc xử lý những trưởng hợp này như thế nào, để không những đảm bảo sự nghiêm minh của luật pháp mà còn đảm bảo tính răn đe, thưa ông?

Trước đây cũng có nhiều trường hợp như thế, ví dụ như vụ Năm Cam, hay gần đây nhất là vụ Dương Tự Trọng, rồi cho đến giờ là đến Phó Ban tổ chức quận ủy Cầu Giấy.

Đó là những đối tượng cụ thể, khi đã xác định đúng có hành vi bảo kê cho những hành vi bất hợp pháp thì phải xử lý một cách rất nghiêm khắc, với hình thức cao nhất là phải loại những đối tượng đó ra khỏi bộ máy nhà nước. Có như vậy mới có thể giữ được bộ máy nhà nước thực sự trong sạch!
Xin cảm ơn ông!
Nguyễn Dũng (thực hiện)
( Infonet )

Hiệu Minh - Chủ nghĩa Xã hội vs Chủ nghĩa Tư bản

Trồng giấc mơ bằng...tiền. Ảnh: Internet
Trồng giấc mơ bằng…tiền. Ảnh: Internet
Robin Hood là người rừng chuyên đi lấy của người giầu chia cho người nghèo. Đó cũng là cách mà CNXH tìm cách chia đều lợi nhuận xã hội cho mọi người nhằm tiến tới công bằng: cơ hội và thành quả.

Đó cũng là ý nghĩ của những người làm nên cuộc cách mạng tháng 8-1945.

Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam đều có “Robin Hood”. Liên Xô cải tạo và xử lý gulag, Trung Quốc cải cách ruộng đất. Việt Nam copy cả hai. Hòa bình vừa xong trên nửa nước đã tiến hành xử địa chủ bóc lột, bắt tù, giết cường hào gian ác. Hợp tác hóa toàn miền Bắc, tưởng rằng, bằng sức mạnh tập thể, rời non lấp biển, CNXH thành công sau 5 năm kế hoạch đầu tiên.

Đáng tiếc thay, tư duy cha chung không ai khóc đã ngự trị cả ngàn năm ở nền văn minh lúa nước sông Hồng, giấc mơ của cụ Lê Nin tại xứ Việt vẫn chỉ là giấc mơ. Robin Hood chưa chắc đã là người hùng như trong truyện cổ tích của người Việt.

Sống dưới chế độ XHCN tại Việt Nam 15 năm liền (1954-1970) từ thuở thiếu niên, sau đó 7 năm tại Ba Lan ở lứa tuổi thanh niên với XHCN nửa cộng sản, nửa quí tộc, nửa tin Liên Xô, nửa kia tin Mỹ, có 6 tháng bên tư bản Anh già cỗi, và 10 năm gần đây khi ở tuổi tri thiên mệnh tại sào huyệt đế quốc và tư bản Mỹ, thế mà tôi không tự tin để nói thế nào là tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa, chế độ nào tốt đẹp hơn. Mỗi chủ nghĩa có cái hay riêng.

Gọi điện hỏi tay chuyên gia kinh tế thế giới, hắn giải thích nôm na như sau.

Quốc gia nào có sở hữu Nhà nước nhiều hơn gọi là cộng sản, nơi nào sở hữu tư nhân nhiều hơn được gọi là tư bản. Hai mô hình này mà cãi nhau “ai hơn ai” đến thế kỷ sau chưa chắc đã ngã ngũ.

Nếu nhà máy do công nhân đóng góp tiền, làm chủ tập thể, tự bầu lãnh đạo. Sản xuất hàng hóa, có lợi nhuận cùng hưởng và chia đều, khi thua thiệt tất cả nhà máy cắn răng chia chung nỗi đau thất bát. Họ có một người là Nhà nước theo kiểu “sở hữu toàn dân mà đại diện là nhà nước”. Đây là CNXH.

Cũng nhà máy ấy lại do một số cổ đông lắm tiền, nhiều của, do bán bia hơi, buôn đất, phe phẩy, trúng mánh, rồi đóng góp và thuê công nhân. Có ban quản trị được thuê để giúp chiến lược, sản xuất và bán hàng. Khi có lời, mấy tay cổ đông chia nhau, lời nhiều, chia nhiều. Thua thiệt ngồi ôm nhau khóc hoặc tự tử vì phá sản. Vì đã nhận lương, công nhân “sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi” đã cao chạy xa bay. Đó là CNTB.

Có một sự thật là đầu thế kỷ 20, tư bản làm chủ thế giới, nhưng bóc lột thậm tệ, hành xử hoang dã, cá lớn nuốt cá bé, dân chúng nổi dậy đòi sự công bằng. Lúc đó, cụ Mác Lê vẽ ra một chế độ không còn cảnh người bóc lột người, sở hữu toàn dân, công bằng, làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu, nên cách mạng vô sản thế giới nổ ra khắp nơi. Tư bản bị thất thế, nổi lên là cộng sản với hàng tỷ tín đồ đi theo.

Hỏi về sự khác biệt trong kinh tế của hai chế độ, anh bạn cho đường link google ra cái bảng sau

Economic System – Hệ thống kinh tê

Capitalism – Tư bản CN

Socialism – CNXH

Equity – Công bằng Capitalism is unconcerned about equity. It is argued that inequality is essential to encourage innovation and economic development.
CNTB không quan tâm đến sự công bằng, vì sự không công bằng giúp cho sáng tạo và phát triển.
Socialism is concerned with redistributing resources from the rich to the poor. This is to ensure everyone has both equal opportunities and equal outcomes.
CNXH lại quan tâm đến chia đều tài nguyên, lấy của người giầu chia cho người nghèo. Mọi người cùng có cơ hội và thành quả ngang nhau
Ownership – Sở hữu Private businesses will be owned by private individuals
Sở hữu thuộc về tư nhân
The State will own and control the main means of production. In some models of socialism, ownership would not be by the government but worker cooperatives.
Nhà nước sở hữu và quản lý toàn bộ tiến trình sản xuất. Một vài nơi dựa vào công hữu kiểu hợp tác xã.
Efficiency – Tiện ích, hiệu quả It is argued that the profit incentive encourages firms to be more efficient, cut costs and innovate new products that people want -
Do lợi nhuận nên các công ty trở nên hiệu quả, giảm giá thành và sáng tạo những thứ người tiêu dùng cần.
It is argued that state ownership often leads to inefficiency because workers and managers lack any incentive to cut costs.
Nhà nước sở hữu dễ dẫn đến kém hiệu quả vì công nhân, cán bộ và quản lý không có nhu cầu về sáng tạo và giảm giá thành
Unemployment – Thất nghiệp In capitalist economic systems, the state doesn’t directly provide jobs. Therefore in times of recession, unemployment in capitalist economic systems can rise to very high levels.
Nhà nước không liên quan trực tiếp đến tìm công ăn việc làm. Khi kinh tế suy thoái, luợng người thất nghiệp rất cao.
Employment is often directed by the state. therefore, the state can provide full employment even if workers are not doing anything particularly essential.
Tuyển nhân viên, cán bộ do nhà nước quản lý vì thế nhà nước vẫn cung cấp đủ việc làm, dù việc làm đó chẳng đóng vai trò gì trong phát triển.
Price Controls – Kiểm soát giá cả Prices are determined by market forces. Firms with monopoly power may be able to exploit their position and charge much higher prices.
Giá cả được điều tiết bởi thị trường. Nhưng đôi khi, những công ty độc quyền có thế dùng sức mạnh của mình “cá lớn nuốt cá bé”, và đưa giá cao hơn nhiều vì lợi nhuận là trên hết.
In a state managed economy prices are usually set by the government this can lead to shortages and surpluses.
Trong cơ chế nhà nước quản lý, giá cả do trung ương quyết định vì thế khi thừa thì rất thừa, khi thiếu thì rất thiếu.


Trong cơ chế nhà nước quản lý, giá cả do trung ương quyết định vì thế khi thừa thì rất thừa, khi thiếu thì rất thiếu.

Lợi nhuận thế nào đây? Ảnh: Internet
Lợi nhuận thế nào đây? Ảnh: Internet

Anh bạn nói thêm, nếu CNTB không xấu xa đã không sinh ra CNXH. Nhờ có CNXH mà cánh tư bản sống tốt hơn. Nếu không trái đất vẫn trong đêm dài tăm tối của CNTB. Qua 70-80 năm, CNXH vẫn chưa mạnh như người ta tưởng là vì chưa biết điều chỉnh như các đồng chí bên tư bản. Các chế độ XHCN tha hóa dần sụp đổ, tư bản lại thắng, không như kịch bản mà các bậc tiền bối CM tháng 8 đã nổi lên giành chính quyền.

Nhưng ai mà biết được, sau thế kỷ nữa, nếu tư bản tiếp tục bóc lột người, cộng sản lại nổi lên. Chẳng có gì đảm bảo sự vĩnh cửu của một chế độ. Vì Robin Hood thời nào cũng có.

Trước khi chào tạm biệt, anh dẫn một câu của Winston Churchill “The inherent vice of capitalism is the unequal sharing of blessings; the inherent virtue of socialism is the equal sharing of miseries. – Thói xấu cố hữu của CNTB là sự phân chia may mắn không công bằng; CNXH có nền tảng đạo đức tốt đẹp là công bằng trong chia sẻ sự khốn cùng”

HM. 19-8-2014.

Ảnh đăng trên facebook nhưng sợ nhiều cụ không có “phây”. Các cụ xem cho biết tư bản giãy chết :)

Bờ Nam bãi biển Myrtle. South Carolina. Ảnh: HM
Bờ Nam bãi biển Myrtle. South Carolina. Ảnh: HM
Bờ Bắc. Ảnh: HM
Bờ Bắc. Ảnh: HM
Walkway - lối đi dạo. Ảnh: HM
Walkway – lối đi dạo. Ảnh: HM
Tổng hành dinh Cua Times :) Ảnh: HM
Tổng hành dinh Cua Times :) Ảnh: HM
Tia chớp Atlantic. Ảnh: HM
Tia chớp Atlantic. Ảnh: HM
( Blog Hiệu Minh )

Từ Hạo Tu phê phán vua An Nam

Với tư cách là một phần của cuộc đàm phán ngoại giao diễn ra sau khi nhà Thanh bị Tây Sơn đánh bại, hoàng đế Thanh Càn Long đồng ý công nhận Quang Trung là An Nam quốc vương (安南国王), nhưng ông vẫn đòi hỏi Quang Trung phải đích thân đến chầu tại cung đình nhà Thanh.


乾隆八旬萬壽慶典圖 1

乾隆八旬萬壽慶典圖 2

乾隆八旬萬壽慶典圖 3

Năm 1790, phái bộ Tây Sơn tới kinh đô triều đình Mãn Thanh, sau đó được đưa đến hành cung Nhiệt Hà (Di Hòa viên) và được tiếp đãi rất mĩ mãn.

Điều gì đã diễn ra ở đó ?

Tôi vẫn thường đọc được rằng nhà Tây Sơn đã cử một người khác cải trang Quang Trung, và lý do để được hoàng đế Càn Long tiếp đãi mĩ mãn là vì ông thực sự nghĩ rằng vua An Nam đã sang chầu. Tôi thấy có vài vấn đề với câu chuyện này.

• Trước hết tôi không tìm được nguồn gốc của tích truyện. Tuy không bảo điều đó là không thật, nhưng tôi vẫn không thể tìm được bất cứ bằng chứng nào cho thấy có người nào đó ở Việt Nam vào thời ấy biết được bất cứ điều gì về tích truyện. Vậy thì câu chuyện ấy bắt đầu được biết đến từ khi nào ? Như thế nào ? Ai đã kể đầu tiên ? Ở đâu ?

• Một vấn đề nữa làm tôi bối rối là khi phái bộ trở về, có một tập thơ [Tinh sai kỷ hành / 星差紀行] của một thành viên phái bộ là Phan Huy Ích đã được công bố. Đây là một sự kiện cực kỳ hiếm hoi, vì những tư liệu kiểu như vậy thường không được công bố. Trong thi tập của mình, Phan Huy Ích rất phởn chí về cách tiếp đón của hoàng đế Càn Long. Và ông không nói bất cứ điều gì về việc Quang Trung “giả”.

星差紀行


Vậy thì điều gì đã diễn ra ở đây ?

Theo tôi có lẽ có thể sự thật thì ai đó đã đóng giả Quang Trung, và điều đó đã được giữ kín đối với người Việt Nam, và khi nhà Thanh đối xử mĩ mãn với phái bộ thì vấn đề này đã được “công khai hóa” thông qua việc công bố thi tập của Phan Huy Ích để cho những thành viên tinh túy của phái bộ chưa ủng hộ nhà Tây Sơn biết rằng Tây Sơn đã được nhà Thanh vừa ý hơn nhiều so với nhà Lê đã từng được hưởng. Nói cách khác, đúng ra thì đây chính là cách “người Nam” chơi xỏ “người Thanh”, và cũng là ví dụ điển hình cho thấy Tây Sơn chơi xỏ người Nam nào không ủng hộ họ. Còn như lễ tân mĩ mãn mà nhà Tây Sơn được hưởng tại Nhiệt Hà liệu có phải chỉ đơn giản là vì hoàng đế Càn Long đã bị “chơi xỏ” khi nghĩ rằng Quang Trung đã sang chầu ?

Tôi đã đọc được một tư liệu của viên trưởng phái bộ Triều Tiên Từ Hạo Tu (徐浩修 / 서호수 / Seo Ho-su, 1736 – 1799) cũng có mặt thời gian đó và đã viết Yên Hành ký (燕行記 /Yeonhanggi). Từ cho rằng thực sự vua An Nam đã đến đó và Từ cực kỳ phê phán hành vi của ông ta. Từ mô tả cung cách ông này khúm núm quỳ trước viên Tổng đốc Lưỡng Quảng Phúc Khang An (福康安, 1753 – 1796) của nhà Thanh và cung cách vô sở bất vi (無所不爲 / không còn gì ông ta không làm) để xun xoe nịnh bợ Thanh triều.

Đây là một đoạn rất hấp dẫn, nhưng thật không may là nó vẫn chưa được nghiên cứu thấu đáo. Ngược lại, như tôi cũng đã chỉ rõ, một số người ra sức tẩy xóa các bằng chứng về những gì đã diễn ra trong thời gian đó. Bài ký của Từ Hạo Tu là một văn liệu giá trị mà các sử gia ngày nay, và đặc biệt là các sử gia nghiên cứu tình tiết này nên sử dụng.
燕行記 1
燕行記 2


(Tác giả : Lê Minh Khải ; dịch giả : Hà Hữu Nga)
( TTXVA )
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét