Tổng số lượt xem trang

Thứ Hai, 21 tháng 10, 2013

Thứ Hai, 21-10-2013 - Nho Giáo và văn minh phương Đông cùng âm mưu Hán hóa

Tin thứ Hai, 21-10-2013

CHÍNH TRỊ-PHÁP LUẬT
NHỮNG COMMENT THẮT LÒNG (Văn Công Hùng).
KÍNH THƯA… NGÀY (Văn Công Hùng).
NHỮNG NGÀY BUỒN (Văn Công Hùng). - 3 NĂM TRƯỚC CŨNG NHƯ THẾ NÀY (Văn Công Hùng).
Ván cờ chiến lược Biển Đông của Việt Nam  (ĐV)   —-Philippines kiện Trung Quốc: Hai bên sẽ tuân thủ phán quyết  (ĐV)
Quốc hội VN sắp thông qua Hiến pháp  (BBC)  -Một số ý kiến từ giới quan sát từ trước cũng nói với BBC về việc một số nội dung như tòa bảo hiến, luật về đảng, cùng nhiều đạo luật khác liên quan tới bảo vệ các quyền cơ bản của người dân không được đảng và chính quyền đặt ra trong dịp này.
Khai mạc kỳ họp dài nhất, khó nhất  (VNN)  -Các đại biểu QH sẽ nhấn nút biểu quyết dự thảo Hiến pháp sửa đổi, luật Đất đai, phê chuẩn việc bổ nhiệm hai Phó Thủ tướng mới tại kỳ họp khai mạc hôm nay.
7 điểm nhấn quan trọng tại kỳ họp 6 Quốc hội khóa 13  (GDVN)   —–Kỳ họp 6 QH: Mong gỡ khó kinh tế, giám sát EVN…  (ĐV)   —-Người trẻ với ước vọng phát triển Xã hội Dân sự tại Việt Nam  (VOA)    ——Kỳ họp dài, chất lượng có mỹ mãn?  (VNN)   —–Không xin gì cho riêng mình  (TVN)
Những tâm tư trước kỳ họp lịch sử của Quốc hội (VnEc)    —–Thư gửi các đại biểu Quốc hội: Chống tham nhũng, chống tận gốc (ĐĐK) -
Xóa nghèo bằng tinh thần Điện Biên Phủ -(ĐĐK) -“Tôi đã từng nói như một lời thề, nếu ai tiêu sai một đồng của người nghèo cũng là có tội với dân. Xóa đói giảm nghèo là gian khổ, những việc ta làm được đã nhiều nhưng các đoàn thể, tổ chức xã hội phải quyết tâm hơn nữa”, ông PHẠM THẾ DUYỆT, nguyên Ủy viên Thường vụ Thường trực Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch UBTƯ MTTQ Việt Nam đã nói như vậy trong cuộc trao đổi với PV Báo ĐĐK.
Đúng, một đồng thì có tội , nhưng một ngàn tỉ thì không sao- Cũng như cái dzụ “Không tơ hào cây kim sợi chỉ của Dân”, ngu mới “tơ hào cây kim sợi chỉ” , vậy lấy gì có biệt thự xe hơi….đất đai hàng trăm mẫu…. – Chống tận gốc coi chừng nó “trốc gốc” là tự sát đấy.
Bức bối về khoảng cách  (TN)  -Quốc hội đã đi được nửa đường của nhiệm kỳ 13. Nhiều cử tri, và những đại biểu có ý thức trách nhiệm dân cử, đã và đang đặt câu hỏi: các đại biểu đã làm được gì để xứng với tiền thuế của dân, và phải làm gì để rút ngắn những khoảng cách còn lại đáng lo, đáng buồn, thậm chí đáng phẫn nộ…
Thân phận nàng dâu có được ra ở riêng?  (TVN) – Trong quá khứ, để đáp ứng nhiệm vụ cách mạng cấp bách, chúng ta đã tiến hành Cải cách ruộng đất, Đổi mới mà không cần chờ hiến pháp và đã hình thành nên tập quán xé rào hiến pháp. Cơ chế đặc thù cũng là một dạng xé rào hiến pháp.

Cương lĩnh đảng quan trọng hơn Hiến Pháp  (RFA)   —-Tổng bí thư: ‘Đề phòng thế lực muốn xoá bỏ điều 4 Hiến pháp’  (VnEx) -
http://aotrangoi.files.wordpress.com/2011/12/danlambao2.jpg?w=512&h=174
Thì Ông Trọng đã bảo :  “Hiến pháp là văn kiện chính trị pháp lý quan trọng vào bậc nhất sau Cương lĩnh của Đảng”“  ,Nhưng Ông Triết thì “thật thà ” hơn : “Bỏ Điều 4 là tự sát”  -Cho nên đề nghị vứt HP vào sọt rác , bàn tới bàn lui họp hành lê thê, ý kiến ý cò…tốn của tốn công Nhân dân quá- Cứ lấy cương lính của đảng mà xài là phẻ re .
Còn Ông Nhuận “so sánh ” như thế là đâu được – Quốc hội SG là của ” Ngụy quyền bán nước , tôn thờ chủ nghĩa ngoại lai vong bản ,ôm chân ĐQ Mỹ ,đàn áp bóc lột Nhân dân ta , làm bang thứ 51 của Mỹ…”  – Còn dảng ta là “hy sinh tất cả vì giai cấp ,vì Nhân dân …hưởng cái sướng sau Dân (như đi xe bạc tỉ, ở biệt thự…) chịu cái khổ trước Dân ….-Ông Hồ Ngọc Nhuận :  “Bây giờ đây tôi cũng hỏi tại làm sao quốc hội Sài gòn của chúng tôi ngày xưa, các đảng phái được vô, tôn giáo được vô còn bây giờ mấy anh bít hết chỉ có đảng của mấy anh thôi. Đó là đảng hội chứ quốc hội gì?”
Còn Ông Phạm đình Trọng nói “lú lẫn” à- sai bét, khôn hơn ông cố nội người ta đó chớ – Lú mà biết xài đô la , lú mà biết chưởi “Trí thứ , nhân sĩ 72″ là vô đạo đức… Lú cha người ta thì có :  Đại tá Phạm Đình Trọng cựu đảng viên :   “Điều ông ấy nói là vô cùng thảm hại, vô cùng nguy hại cho đất nước. Đưa cương lĩnh của đảng lên trên Hiến Pháp, lên trên Pháp luật là một điều lú lẫn, một điều xằng bậy không thể chấp nhận được”

Rủi ro nhất của khủng hoảng kinh tế là để xã hội bất ổn  -(ĐĐK) -  Cũng chưa bằng thứ tham lam và bóc lột Nhân dân tận cùng đâu. Làm cho xã hội nghèo đói mới sinh ra bất ổn , hiếp đáp Dân đen , đánh đập giết chóc…mới sinh ra bất ổn-

Trung Quốc cũng bàn: Hiến Pháp đứng trên hay dưới Đảng Cương  (Viettan)
Đại tướng Võ Nguyên Giáp ‘vắng mặt’ trong sách giáo khoa - Kỳ 1: Sách giáo khoa ‘bỏ quên’ Đại tướng!(TNO)   —-Cần đề nghị UNESCO vinh danh Tướng Giáp   (NLĐ)   —-Những lát cắt buồn  (SGGP)
Dân Sài Gòn khốn đốn, loi ngoi chạy lũ  (TT)  >>>>Sài Gòn năm sau ngập cao hơn năm trước  >>>Người dân “khóc ròng” vì thủy triều vượt đỉnh
Triều cường làm ngập cả… UBND TP.Cần Thơ  (TN)    —-Vụ ngập bất ngờ ở Bình Dương: Do hồ Từ Vân xả lũ bất thường  (TN)
Bấp bênh mái ấm tự phát  (NLĐ) -  “Chấm dứt” 5 cơ sở  mái ấm với 900 con người  già yếu và con nít thì vứt họ ra đường à? Phải có cách tổ chức lại , nhà nước  “quản lý -lãnh đạo ” chớ -Hàng ngàn tỉ còn mất toi được mà -
“Ấn định mức thu nhập cho người nghèo là sai” (KT)   —– Thầy Đỗ Việt Khoa: “Đừng để vụ “tráo thủy tinh thể” chìm xuồng!” (Infonet)
Không nộp tiền thì không đóng dấu (ANTĐ)   —– Cuộc sống khốn đốn của vợ con Dương Chí Dũng (NĐT)
__________________________________________________________________________________________________________
Chủ nghĩa tư bản nhà nước ở Việt Nam   -Một thỏa thuận thương mại do Mỹ dẫn dắt có giúp gì cho các nhà cải cách Việt Nam hay không?  -The Economist, Oct 19th 2013  -Phạm Nguyên Trường dịch  -(Boxitvn)
Sức mạnh chính trường từ đâu?  -TS Nguyễn Sỹ Phương, CHLB Đức  -* Phần 1: Người nước ngoài và một Quốc hội đa sắc tộc --(Boxitvn)
SO SÁNH BIÊN GIỚI MỚI Ở KHU VỰC NAM QUAN VỚI BẢN ĐỒ CỦA QUÂN ĐỘI MỸ  -Phạm Quang TuấnPhan Văn Song --(Boxitvn)
Michael Ardaiolo – Các Viện Khổng học là công cụ ngoại giao của Trung Quốc hay những con ngựa thành Troia?  _(Danluan)
Nguyễn Văn Tuấn – Đạo văn – vấn đề của đạo đức khoa học  -(Danluan)
Rạp REX, khánh thành năm 1962 và là rạp chiếu phim hiện đại nhất Đông Nam Á vào thời điểm đó.
Sếp Việt Cộng chỉ uống rượu Cognac thôi (phần 1)  -(Phan Ba)
Rạp REX, khánh thành năm 1962 và là rạp chiếu phim hiện đại nhất Đông Nam Á vào thời điểm đó.  ====>>>>
Con đường không vui (phần 1)  -(Phan Ba)  >>>(phần 2) >>> (phần 3) >>>Con đường không vui (hết)
Sấm Trạng Trình tiên đoán chuyện biển Đông  -(Ngô Minh) -
Quan hệ Tàu Cộng – Việt Cộng: con đường lệ thuộc. -(Phi Vũ)
Lãnh đạo ở đâu hèn mạt nhất thế giới?  : Hãy dọ giá đất thì biết…  -(Đinh tấn Lực )
Thầy của những bậc Thầy…:  Hết cả lãnh đạo xứ này có công kênh nhau lên cũng chưa cao quá gối người phụ nữ trong ảnh:-(Đinh tấn Lực )

KINH TẾ
- David Thiên Ngọc: Gam màu u ám của bức tranh Kinh Tế Việt Nam (Chính luận).
- Thị trường đầu thu truyền hình kỹ thuật số mặt đất chuẩn DVB-T2: Không có cửa cho doanh nghiệp Việt! (SGTT).
Kinh tế Trung Quốc có đà tăng trưởng mới ? (RFI)    —–2% dân giàu Trung Quốc xài 1/3 hàng hiệu thế giới  (VEF)
Ôtô Indonesia dưới 200 triệu, Việt Nam 500 triệu đừng mơ  (VEF)
Giữ tiền đồng hay ngoại tệ ?  (TN)  -Sau khi có thông tin Chính phủ có thể tiếp tục điều chỉnh tỷ giá VND/USD trong năm nay với mức tối đa 2%, nhiều doanh nghiệp và nhà đầu tư cá nhân đã chuẩn bị kế hoạch riêng để phù hợp tình hình mới.

VĂN HÓA-THỂ THAO
Lai rai world cup 4 (Quê choa).
- Phim truyền hình ngắn tập: Trở lại và sẽ đi đường dài? (SGTT).
GIÁO DỤC-KHOA HỌC
- Tuyển sinh đại học, cao đẳng 2013: Ngoài công lập, liên thông đều khủng hoảng (LĐ).
Thầy giáo đem tiền nhà ‘nuôi’ học trực tuyến (VNN)
Mờ mịt ngày trở lại trường  (TN)

XÃ HỘI-MÔI TRƯỜNG
Giáo viên dâm ô 7 học trò nữ ngay trong lớp học  (ĐV)  -Ngày 19/10, nhà chức trách Trung Quốc cho biết một giáo viên tiểu học ở tỉnh Giang Tô vừa bị kết án 14 năm tù giam vì đã có hành vi dâm ô với 7 học sinh nữ của mình.
Thực phẩm nguy hại vào căngtin trường học? (TT)   —-Một người Trung Quốc vận chuyển 2,2kg ma túy đá vào Việt Nam  (TT)

QUỐC TẾ 
Tổng thống Mỹ chuẩn bị dự án cải cách hệ thống nhập cư  (RFI)
Cuba giải thể các HTX nông nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ (RFI)
Trung Quốc lấy lòng các đối tác Đông Nam Á (RFI)    —Một giáo sư đại học Trung Quốc bị sa thải vì chỉ trích đảng  (RFI)   —-Trung Quốc tái cân bằng chiến lược vào Indonesia, Malaysia và Thái Lan  (GDVN)    —-Thủ tướng Ấn Độ công du Nga, Trung Quốc  (VOA)
Một giáo sư tố cáo Đại học Bắc Kinh sa thải ông vì lý do chính trị  (VOA)   —–“50 năm nữa, TQ sẽ đánh Nhật, chiếm Mông Cổ, chinh phạt Nga”  (Soha)
Đường ống khí đốt Miến-Trung chính thức hoạt động đầy đủ (VOA)    —-Tổng tham mưu trưởng Myanmar từ TQ trở về, 2 bên bàn chuyện Biển  (GDVN)
Syria trì hoãn cuộc đàm phán tại Geneve?  (RFA)   —-Chưa rõ ngày diễn ra hội nghị quốc tế về Syria  (VOA)
Hàn Quốc và Malaysia ký thỏa thuận hoán đổi tiền tệ   (RFI)    —-Nam Triều Tiên, Malaysia đồng ý hoán đổi 4,7 tỉ đôla (VOA)
Nhân chứng: 19 người bị giết tại một trạm kiểm soát giả ở Nigeria (VOA)   —–Iraq: Các vụ tấn công tự sát giết chết 41 người (VOA)   —–Lào tìm được thi hài 39 nạn nhân trên máy bay lâm nạn (VOA)   —–Bỉ: 11 người nhảy dù thể thao chết trong tai nạn máy bay (VOA)

Quan hệ Tàu Cộng – Việt Cộng: con đường lệ thuộc

Trong thông báo chung sau chuyến viếng thăm Việt Nam Cộng Sản của thủ tướng Tàu cộng là Lý Khắc Cường, cả hai nước Cộng Sản này cùng ký một bản thông báo chung là sẽ thiết lập quan hệ chiến lược toàn diện trong đó có điều khoản là Tàu Cộng sẽ lập một viện Khổng Tử tại Hà Nội, Việt Nam. Vậy thì viện Khổng Tử là gì?

Học viện Khổng Tử là một học viện của Tàu Cộng lập nên và trong thời điểm hiện nay, số học viện Khổng Tử trên toàn thế giới đã có rất nhiều và là một con số đáng quan ngại. Học viện Khổng Tử mà Tàu Cộng lập nên với mục đích là sử dụng một “quyền lực mềm” nhằm làm khuynh đảo thế giới, công khai rao giảng học thuyết của Khổng Tử mà thực chất là được “pha trộn” thêm về chủ nghĩa Cộng Sản, chủ nghĩa Mao ít và thực chất khi Tàu Cộng thành lập học viện Khổng Tử này là nhằm vào việc khống chế thế giới.


Từ thuở xa xưa, người Tàu đã có giấc mộng muốn làm bá chủ cả thế giứi này, do đó mà chúng đặt tên nước là Trung Hoa mang ý nghĩa đất nước mà người Hoa đang sinh sống là trung tâm của thế giới. Cho nên khởi thủy thì nước Tàu chỉ là một vùng đất nhỏ bé, thế nhưng càng ngày chúng càng bành trướng rộng thêm lên. Tưởng cũng cần nhắc lại là tổ tiên người Việt của chúng ta là dòng giống Bách Việt. Địa bàn cư trú của tổ tiên ta là từ vùng Động Đình Hồ phía nam sông Dương Tử kéo dài đến tận vùng Hà Tĩnh ngày nay. Thế nhưng người Hoa đã thôn tính dần dần 99 tộc Việt chỉ còn duy nhất tộc Lạc Việt tức là người Việt Nam của chúng ta ngày nay. Tộc Lạc Việt đã bao phen bị dòng giống nhà Hán thôn tính và đô hộ, thế nhưng Lạc Việt là một tộc mạnh và quật cường nhất trong Bách Việt nên vẫn hiên ngang tồn tại mãi đến tận ngày hôm nay. Cho nên chúng ta có thể nói rằng trong huyết thống của những người Triều Châu, Phúc Kiến, Quiảng Đông, Quảng Tây và Vân Nam vẫn có dòng máu Việt của chúng ta luân lưu trong huyết quản.

Trở lại vấn đề, Tàu Cộng thiết lập gần 100 học viện KhổngTử trên toàn thế giới nhưng riêng tại Việt Nam thì chúng chưa lập. Lần này, trong chuyến viếng thăm Việt Nam của tên Lý Khắc Cường, hắn cùng với đám Cộng Sản Việt Nam ký kết văn bản thành lập viện Khổng Tử tại Hà Nội. Việc này đã làm cho một số nhân sĩ trí thức người Việt ở trong nước tỏ ý quan ngại. Họ lo lắng rằng đây chính là một chỉ dấu của Trung Cộng muốn thôn tính văn hóa Việt Nam và được sự tiếp tay của Cộng Sản Việt Nam. Người Việt của chúng ta có bản chất vốn luôn luôn chống lại sự cưỡng chiếm văn hóa và tư tưởng của người Tàu và tồn lưu truyền từ đời này sang đời khác. Lần này, Tàu Cộng ký kết cùng với Cộng Sản Việt Nam thành lập viện Khổng Tử là một thành công lớn của Tàu Cộng mà ông cha nhà Hán của chúng chỉ có ước mơ chứ chưa bao giờ đạt đến. Được sự tiếp tay của Cộng Sản Việt Nam, ước mơ nghìn đời của người Tàu đã bắt đầu chớm nở sự thành công.

Ngẩm nghĩ mà thấy thương cha ông tổ tiên của chúng ta làm sao!

Phi Vũ

Ngày 20 tháng 10 năm 2013.

QUYỀN DÂN SỰ CHÍNH TRỊ VẪN XA LẠ VỚI XÃ HỘI TA

 
 
 
 
 
 
Rate This

HÀ HUY TOÀN
(Trả lời bài của Vĩnh An: “Quyền dân sự chính trị không xa lạ với xã hội ta trên Báo Quân đội Nhân dân điện tử).
Công ước Quốc tế Về các Quyền Dân sự Và Chính trị (Anh văn: International Covenant on Civil and Political Rights, viết tắt: ICCPR) đã được thông qua vào năm 1966 bởi Đại Hội đồng Liên hiệp Quốc khẳng định mỗi cá nhân phải có đầy đủ tất cả các quyền dân sự và chính trị, trong đó bao gồm các quyền: tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin, tự do lập hội, tự do hội họp, tự do bầu cử, tự do ứng cử, biểu tình ôn hòa, v. v.. Công ước này đòi hỏi phải có pháp luật cùng với cơ chế tương ứng mới có thể được thực thi nghiêm túc.

Pháp luật là những quy tắc xử sự mang tính chất bắt buộc chung đối với mọi cá nhân cấu thành xã hội được quy định đồng thời được bảo đảm thực hiện bởi nhà nước pháp quyền.
Nhà nước pháp quyền là nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật làm cho nó cũng chỉ có thể tồn tại được bằng pháp luật.
Như trên đã nói, pháp luật đòi hỏi phải có cơ chế tương ứng mới có thể tồn tại được. Cơ chế đó chính là nhà nước pháp quyền. Nhà nước này phải làm điều kiện cho pháp luật tồn tại.
Pháp luật đòi hỏi nhà nước pháp quyền phải dựa trên ba thiết chế cơ bản:
1/ Quy chế phân lập tam quyền, theo đó nhà nước pháp quyền phải được phân chia độc lập về nhân sự thành ba cơ quan khác nhau để thực hiện ba loại quyền lực tương ứng: cơ quan lập pháp thực hiện quyền lực lập pháp, cơ quan hành pháp thực hiện quyền lực hành pháp và cơ quan tư pháp thực hiện quyền lực tư pháp; sự phân chia quyền lực như vậy làm cho các nhà cầm quyền không thể lạm dụng được quyền lực nhà nước.
2/ Nguyên tắc đa nguyên bình đẳng, theo đó nhà nước pháp quyền phải bị kiểm sát chặt chẽ bởi nhiều tổ chức độc lập để ngăn ngừa các điều luật bất công dẫn đến tai hoạ cho dân chúng, cũng như phương tiện giao thông phải có phanh hãm thật tốt để phòng tránh tai nạn giao thông.
3/ Chế độ bầu cử tự do, theo đó mọi cá nhân đều phải được tham gia lựa chọn những người có cả tài năng lẫn đức hạnh làm người lãnh đạo đồng thời cũng đều phải được ứng cử làm người lãnh đạo, nhưng chỉ được ứng cử vào một trong ba cơ quan khác nhau: lập pháphành pháp và tư pháp, nếu ứng cử vào cơ quan này thì không được ứng cử vào hai cơ quan kia hoặc nếu đắc cử vào cơ quan này thì phải từ bỏ chức vụ ở hai cơ quan kia để người đắc cử chỉ nắm được một trong ba loại quyền lực khác nhau: lập pháphành pháp và tư pháp.
Quy chế phân lập tam quyền ngăn ngừa được các nhà cầm quyền lạm dụng quyền lực nhà nước. Nguyên tắc đa nguyên bình đẳng bảo đảm cho nhân dân làm chủ được các nhà cầm quyền. Chế độ bầu cử tự do làm cho nhà nước pháp quyền phải phụ thuộc vào nhân dân mà phục vụ nhân dân.
Ba thiết chế đó bổ sung cho nhau đồng thời cùng nhau bảo tồn pháp luật làm cho nhà nước pháp quyền trở thành nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Với ba thiết chế đó, nhà nước pháp quyền bảo đảm cho Công ước Quốc tế Về các Quyền Dân sự Và Chính trị được thực thi nghiêm túc.
Nhiều quốc gia khác nhau trên khắp thế giới đã ký kết tham gia Công ước Quốc tế Về các Quyền Dân sự Và Chính trị. Tuy nhiên chỉ những quốc gia nào đã có nhà nước pháp quyền mới có thể thực thi nghiêm túc công ước này. Còn lại các quốc gia khác cho dù cũng đã ký kết tham gia với thái độ trân trọng khi trân trọng ghi nhận công ước này, nhưng vì chưa có nhà nước pháp quyền nên sẽ khó hoặc thậm chí không thể thực thi nghiêm túc công ước này. Cần nhớ rằng trân trọng ghi nhận khác hẳn với nghiêm túc thực thi. Đối với các quốc gia đó, trân trọng ghi nhận là một chuyện, nhưng nghiêm túc thực thi lại là chuyện khác. Trân trọng ghi nhận có thể không bao hàm nghiêm túc thực thi nhưng nghiêm túc thực thi nhất định phải bao hàm cả trân trọng ghi nhận.
Việt Nam đã ký kết tham gia Công ước Quốc tế Về các Quyền Dân sự Và Chính trị vào năm 1982 nhưng thật đáng tiếc, vì vẫn chưa có nhà nước pháp quyền mà mới chỉ đang phấn đấu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nên Việt nam mới chỉ trân trọng ghi nhận mà chưa thể nghiêm túc thực thi công ước này.
Cái vẫn được gọi là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về thực chất chỉ là nhà nước toàn trị, trong đó Đảng Cộng sản lãnh đạo toàn diện đối với xã hội về mọi mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa – tư tưởng, v. v.. Trong một thời gian dài, nhà nước này đã được gọi đích danh là nền Chuyên chính Vô sản, trong đó “Chuyên chính” được chuyển dịch lắt léo từ “Dictatorship”, có nghĩa là Độc tài.  Chỉ đến khi thấy nền Chuyên chính Vô sản tan rã hàng loạt tại Đông Âu châu,  Đảng Cộng sản Việt Nam mới thay đổi tên gọi cho nhà nước toàn trị tại Việt Nam để che giấu bản chất thật sự cho nhà nước này.
Ở nước Đức từ năm 1933 đến năm 1945 cũng có nhà nước toàn trị, trong đó Đảng Quốc gia Xã hội (Đảng Quốc – Xã) lãnh đạo toàn diện đối với nước Đức về mọi mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa – tư tưởng, v. v.. Mặt trận Lao động Đức làm cánh tay nối dài cho Đảng Quốc gia Xã hội, tương tự Mặt trận Tổ quốc Việt nam làm cánh tay nối dài cho Đảng Cộng sản ở Việt nam hiện nay cũng như Hội nghị Chính trị Hiệp thương Nhân dân làm cánh tay nối dài cho Đảng Cộng sản ở Trung quốc hiện nay. Tên gọi cũng như ý thức hệ có thể khác nhau nhưng hệ quả tất yếu lại không khác nhau bao nhiêu. Chính Friedrich August von Hayek (1899 – 1992), một trong các nhà tư tưởng lớn nhất thế giới trong thế kỷ XX, đã chứng minh được rõ ràng như vậy bằng lập luận khoa học (1).
Tương tự như nước Đức Fascist (1933 – 1945), nước Việt nam Cộng sản (từ năm 1954 đến nay) cũng có Hiến pháp nhưng Hiến pháp được làm ra bởi nhà nước toàn trị, tức là Hiến pháp Chuyên chế, lại chứa đầy mâu thuẫn loại trừ làm cho Hiến pháp đó trở thành Hiến pháp Giả ngụy mà không trở thành Hiến pháp Chân chính. Trong Hiến pháp Giả ngụy luôn luôn có sự xung đột giữa các điều luật công bằng với các điều luật bất công: nếu các điều luật này mà có hiệu lực thì các điều luật kia nhất định phải vô hiệu lực, hoặc ngược lại.
Ví dụ Hiến pháp 1992 có nhiều điều luật công bằng (Điều 2, Điều 52, Điều 69, v. v.) đã bị loại trừ hoặc đã bị vô hiệu hóa bởi các điều luật không công bằng hoặc các điều luật chưa công bằng mà điển hình nhất phải thuộc về Điều 4. Điều luật này có nghĩa là chỉ những người nào làm thành viên của Đảng Cộng sản Việt nam mới có thể được đảm nhiệm các chức vụ lãnh đạo trong bộ máy nhà nước, làm cho cả ba quyền lực khác nhau: lập pháphành pháp và tư pháp, đều được tập trung cả vào một số ít người nào đó có chung cả quyền lợi lẫn ý đồ.
Vào thế kỷ XVIII, triết gia chính trị người Pháp: Charles de Secondat Montesquieu (1689 – 1755) đã chứng minh được rằng: “Nếu một người hoặc một tổ chức của quan chức hoặc của quý tộc hoặc của dân chúng mà nắm luôn cả ba quyền lực khác nhau (lập pháp, hành pháp và tư pháp) thì tất cả sẽ mất hết” (2). Chính vì tập trung quyền lực như vậy nên Điều 4 không công bằng, đã loại trừ hoặc đã vô hiệu hóa tất cả các điều luật công bằng trong Hiến pháp 1992, như Điều 2, Điều 52, Điều 69, v. v.. Chính vì chỉ có nhà nước toàn trị được xác nhận rõ ràng bởi Hiến pháp 1992 quy định công khai tại Điều 4 nên xã hội ta vẫn xa lạ với các quyền dân sự chính trị. Chính vì vẫn xa lạ với các quyền dân sự chính trị nên xã hội ta chưa có xã hội dân sự theo đúng ý nghĩa đích thực cho khái niệm đó. Đây không phải là lỗi của riêng Đảng Cộng sản Việt nam, mà là lỗi của Văn hóa Chính trị tại Việt nam. Đảng Cộng sản Việt nam có thể chỉ khai thác lỗi của Văn hóa Chính trị tại Việt nam để kiểm soát đất nước Việt nam mà thôi.
Theo cách hiểu đúng đắn, xã hội dân sự là tập hợp các tổ chức tự nguyện hoạt động độc lập với chính quyền để vừa hợp tác với chính quyền vừa đấu tranh với chính quyền nhằm thăng tiến lợi ích chung: hợp tác với chính quyền để thực hiện các chính sách đúng đắn nhưng đấu tranh với chính quyền để ngăn chặn hoặc vô hiệu hóa các chính sách sai lầm. Các tổ chức này có đặc tính quan trọng nhất là độc lập với chính quyền. Phải độc lập với chính quyền mới có thể hợp tác với chính quyền; cũng như vậy, phải độc lập với chính quyền mới có thể đấu tranh với chính quyền. Tất nhiên, vì nhằm thăng tiến lợi ích chung (cả lợi ích của chính quyền lẫn lợi ích của dân chúng) nên khi đấu tranh nhất thiết phải không dùng bạo lực (bất bạo động) mà phải dùng các phương tiện nhân đạo theo các phương pháp nhân đạo, vì ai cũng có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc, nên khi đấu tranh nhất thiết phải không dùng bạo lực (bất bạo động) mà phải dùng các phương tiện hữu ích theo các phương pháp hữu ích, vì cá nhân nào cũng muốn bảo tồn sự sống cho mình nên khi đấu tranh nhất thiết phải không dùng bạo lực (bất bạo động) mà cần phải tôn trọng đối thủ để sao cho tất cả các bên tranh chấp cùng thắng mà không bên nào bị thua (cả người đấu tranh lẫn người bị đấu tranh đều thắng mà không người nào bị thua). Đó chính là nguyên tắc cùng thắng. Nguyên tắc này cho phép tất cả các bên tranh chấp đều có thể biến kẻ thù thành bạn hữu hoặc biến đối thủ thành đối tác. Nguyên tắc cùng thắng cần phải được lấy làm nguyên tắc nền tảng cho chính trị hiện đại, trong đó bao gồm cả xã hội dân sự.
Một tổ chức xã hội phải có cả hai mặt thống nhất với nhau như vậy (vừa hợp tác với chính quyền để thực hiện các chính sách đúng đắn vừa đấu tranh với chính quyền để ngăn chặn hoặc vô hiệu hóa các chính sách sai lầm) mới có thể được coi là một tổ chức dân sự để có thể tham gia cấu thành xã hội dân sự. Để tránh mọi hiểu lầm, cần phải xác quyết rõ ràng rằng xã hội dân sự chỉ có thể độc lập với chính quyền mà tuyệt đối không thể đối lập với chính quyền. Chính quyền không có bất cứ lý do gì để lo sợ xã hội dân sự. Theo ý nghĩa đó, Việt nam hiện nay vẫn chưa có xã hội dân sự theo đúng nghĩa mà mới chỉ có một cái gì đó có cái vẻ bề ngoài giống xã hội dân sự mà thôi.
Trong một bài viết được đăng tải trên Báo Quân đội Nhân dân – phiên bản điện tử: Quyền dân sự chính trị không xa lạ với xã hội ta, nhằm dè bỉu Diễn đàn Xã hội Dân sự, tác giả Vĩnh An cho rằng tính tự nguyện và tự quản là tiêu chí chủ yếu của các tổ chức dân sự. Tại sao chỉ nói đến tiêu chí chủ yếu của các tổ chức dân sự mà không đề cập đặc tính quan trọng nhất của các tổ chức đó ? Thật ra, tự nguyện cũng như tự quản đều có hai kiểu đối lập nhau: tự nguyện theo kiểu lệ thuộc đối lập với tự nguyện theo kiểu độc lập, cũng như tự quản theo kiểu lệ thuộc đối lập với tự quản theo kiểu độc lập. Tại một đất nước được lãnh đạo toàn diện bởi nhà nước toàn trị như Việt Nam hiện nay, mọi tổ chức xã hội đều có thể tự nguyện và tự quản nhưng chỉ có thể tự nguyện và tự quản theo kiểu lệ thuộc mà thôi. Nhà nước toàn trị sẽ “bắt phong trầnphải phong trầncho phong lưumới được phần phong lưu”. Nếu tổ chức nào tự nguyện làm cánh tay nối dài cho nhà nước toàn trị kiểm soát xã hội thì tổ chức đó sẽ được tự quản để “được phong lưu” làm cho sự tự quản chỉ làm cái hình thức biểu hiện trái ngược cho sự lệ thuộc mà thôi.
Chính tác giả Vĩnh An đã cho độc giả biết Việt nam hiện nay có rất nhiều tổ chức xã hội thuộc loại này: “Số lượng các tổ chức này đăng ký ở Trung ương và các tỉnhthành phố cho đến nay là rất lớncó thể lên đến hàng nghìn”. Nhưng vì chỉ có thể hợp tác với chính quyền nhằm thực hiện các chính sách đúng đắn mà không thể đấu tranh với chính quyền nhằm ngăn chặn hoặc vô hiệu hóa các chính sách sai lầm nên các tổ chức đó chưa đạt được những tiêu chuẩn vốn có cho xã hội dân sự. Nếu dựa vào “số lượng các tổ chức này đăng ký ở Trung ương và các tỉnhthành phố cho đến nay là rất lớncó thể lên đến hàng nghìn” để khẳng định rằng “quyền dân sự chính trị không xa lạ với xã hội ta” thì thật mơ hồ hoặc chỉ thể hiện nhận thức sai lạc về xã hội dân sự mà thôi. Ngược lại, nếu tổ chức nào không chịu tự nguyện làm cánh tay nối dài cho nhà nước toàn trị kiểm soát xã hội thì tổ chức đó sẽ khó tránh khỏi bị phong trần (bị theo dõi, bị sách nhiễu, bị đe dọa, v. v.) để rồi phải tự nguyện giải thể như IDS chẳng hạn.
Việt nam hiện nay có thể cũng đã có một số ít tổ chức xã hội tương đối độc lập với chính quyền mà điển hình nhất có lẽ thuộc về Giáo hội Công giáo, nhưng thử hỏi rằng tổ chức đó đã phải chịu đựng bao nhiêu phong trần từ trước đến nay? Chưa kể những tai họa bất ngờ có thể giáng xuống bất cứ ai dám lên tiếng chỉ trích chính quyền về những chính sách sai lầm. Hiện thực này đã cho thấy rõ ràng quyền dân sự chính trị vẫn xa lạ với xã hội ta. Chính tác giả Vĩnh An đã tự phát xác nhận rõ ràng như vậy khi cho độc giả biết rằng: “Cho đến naychúng ta có 5 tổ chức chính trị – xã hộihoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Namđó là:Tổng Liên đoàn Lao động Việt namHội Nông dân Việt NamĐoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí MinhHội Liên hiệp Phụ nữ Việt NamHội Cựu Chiến binh Việt NamCác tổ chức chính trị – xã hội này là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt NamTuy những tổ chức này nằm trong hệ thống chính trịnhưng không phải là cơ quan chính quyềnmà là đại diện cho quyền lợi,tiếng nói của các giai tầng xã hộiKhác với những tổ chức Xã hội Dân sự nói trênnhững tổ chức này được sự giúp đỡ của Nhà nướcThiết nghĩ đây là một ưu việt của các tổ chức xã hội trong chế độ ta”!? 
Tác giả Vĩnh An quên rằng hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đương nhiên phải tuân thủ Đảng Cộng sản Việt nam; tuân thủ Đảng Cộng sản Việt nam chỉ chứng tỏ mình lệ thuộc vào Đảng Cộng sản Việt Nam; lệ thuộc vào Đảng Cộng sản Việt Nam ắt không thể trở thành xã hội dân sự. Nhất là lại được sự giúp đỡ của nhà nước sẽ lại càng dễ dàng bị lệ thuộc vào nhà nước. Thiết nghĩ, đây chính là khuyết nhược của cái có thể được gọi là “xã hội dân sự” tại Việt Nam hiện nay.
Phải thừa nhận rằng nhà nước toàn trị theo kiểu cộng sản tại Việt nam đã ghi nhận trân trọng các quyền dân sự chính trị cho nhân dân Việt Nam, nhưng vì ý thức hệ cùng với cơ cấu tổ chức đầy bất cập thể hiện rõ ràng ở việc tập trung quyền lực bằng Hiến pháp 1992 quy định công khai tại Điều 4 nên dù có thực tâm mong muốn cũng không thể thực thi nghiêm túc các quyền đó. Xin nhắc lại: ghi nhận trân trọng là một việc nhưng thực thi nghiêm túc lại là việc khác. Thành quả của cuộc cách mạng được lãnh đạo bởi Đảng Cộng sản Việt Nam mới chỉ là ghi nhận trân trọng các quyền đó thôi.
Hiện nay nhân dân Việt Nam được tiếp cận với nhiều thông tin khác nhau không phải nhờ xã hội dân sự, lại càng không phải nhờ Đảng Cộng sản Việt Nam, mà chủ yếu chỉ nhờ Cách mạng Công nghệ ở bên ngoài Việt Nam. Hiến pháp 1992 có điều 69 bị vô hiệu hóa bởi “quy định của pháp luật”, theo đó nếu không có một đạo luật cụ thể để thi hành điều luật đó thì điều luật đó sẽ chỉ có hiệu lực trên giấy tờ mà thôi.
Chính vì những điều luật đúng đắn trong Hiến pháp 1992 chưa được bảo đảm thi hành nghiêm túc nên xã hội ta đang đi nhanh đến sự bế tắc toàn diện, như Tuyên bố Về Thực thi Quyền Dân sự Và Chính trị đã chỉ ra: “Thể chế này đã tạo nên một bộ máy cầm quyền có nhiều quyết sách sai trái và quan liêu, tham nhũng nặng;…”, rằng: “Không ít người trong giới cầm quyền các cấp cùng với các nhóm lợi ích và sự hậu thuẫn của thế lực bên ngoài đang dựa vào bạo lực cùng nhiều thủ đoạn không chính đáng để duy trì quyền thống trị đất nước theo thể chế toàn trị, …”. Nhận định như vậy rất khách quan, rất công bằng, rất ngay thẳng, đầy thiện chí và có trách nhiệm.
Tình trạng bế tắc ở nước ta hiện nay đang cần có lối thoát để thoát khỏi tình trạng đó. Một trong những lối thoát quan trọng nhất đã xuất hiện chính là Diễn đàn Xã hội Dân sự. Diễn đàn này ra đời hợp quy luật, lại hoạt động hợp pháp theo đúng Hiến pháp 1992 quy định rõ ràng tại Điều 69. Nhưng vì Điều 69 bị vô hiệu hóa bởi “quy định của pháp luật” đồng thời lại bị vô hiệu hóa bởi Điều 4 nên diễn đàn này sẽ không tránh khỏi bị dè bỉu hoặc thậm chí còn có thể bị cản phá bởi việc “vận dụng” cả Điều 4 lẫn “quy định của pháp luật” mà tác giả Vĩnh An mới chỉ thể hiện được một phần nhỏ lẻ quá khiêm tốn.
Tuy nhiên thời tiết sẽ tốt hơn sau bão tố, dân trí đang lên sẽ phát huy hiệu lực thực tế cho các điều luật đúng đắn trong Hiến pháp 1992, trong đó có Điều 69. Vì ra đời theo đúng quy luật đó nên nếu được định hướng tốt thì diễn đàn này sẽ đóng góp tích cực cho sự ổn định và phát triển của xã hội ta để trong tương lai gần, các quyền dân sự chính trị sẽ không còn xa lạ với xã hội ta nữa: tình tạng bế tắc có thể sẽ được khai thông bởi lối thoát này. Cũng cần phải khẳng định thêm rằng: nếu Diễn đàn Xã hội Dân sự mà hoạt động tốt thì chỉ những người nào có dã tâm chống phá đối với nước ta mới có thể tuyên truyền xuyên tạc nhằm bôi bẩn hoặc kích động chống phá diễn đàn này. Việc ngăn chặn lối thoát này sẽ chỉ làm cho tình trạng bế tắc càng trầm trọng thêm mà thôi. Các lực lượng tiến bộ cần phải cảnh giác cao độ với bất cứ người nào có dã tâm đó.
Thiết nghĩ nếu ai thật sự mong muốn góp phần giải thoát xã hội ta khỏi tình trạng bế tắc đang ngày càng trầm trọng thì hãy nên tham gia Diễn đàn Xã hội Dân sự “nhằm góp phần chuyển đổi thể chế chính trị của nước ta từ toàn trị sang dân chủ một cách ôn hòa” như Tuyên bố trên đã tuyên bố công khai như vậy.
Cá nhân tôi chỉ muốn nói thêm rằng khi tham gia Diễn đàn Xã hội Dân sự, cần phải biết Đối thoại – Tương kính – Khoan dung. Chỉ đối thoại mà không đối đầu, không đối đầu mà chỉ đối thoại, chỉ đối thoại để tìm kiếm bằng được giải pháp đúng đắn cho tình trạng bế tắc ở nước ta hiện nay. Tương kính để xây dựng một quốc gia nhân bản trong đó mọi người tôn trọng lẫn nhau. Khoan dung cũng để xây dựng một quốc gia nhân bản trong đó mọi người yêu thương nhau như yêu thương chính mình. Vì ai cũng có thể sai lầm nên cần phải biết tương kính để tránh xung đột. Vì ai cũng có thể sai lầm nên cần phải biết khoan dung để xây dựng một xã hội nhân bản cho dân tộc ta. Với tinh thần đó, tôi nhiệt liệt hưởng ứng Diễn đàn Xã hội Dân sự. Nếu có thể được thì tôi sẽ tham gia diễn đàn này bằng cả lòng trắc ẩn lẫn tình yêu thương nhằm góp phần thay đổi Văn hóa Chính trị ở nước ta theo chiều hướng dân chủ hóa.
Chúc Diễn đàn Xã hội Dân sự thành công rực rỡ!
Viết bài này, tôi chợt nhớ Cố Nhạc sỹ Phạm Duy nhắc nhở:
“… Việt nam không đòi xương máu
Việt nam kêu gọi thương nhau
Việt nam đi xây đắp yên vui dài lâu
Việt nam trên đường tương lai,
Lửa thiêng soi toàn thế giới
Việt nam ta nguyện tranh đấu cho đời
Tình yêu đây là khí giới
Tình thương đem về muôn nơi
Việt nam đây tiếng nói đi xây tình người … ”
Kính mời Quý Độc giả thưởng thức tác phẩm trứ danh: “Việt namViệt nam” được sáng tác bởi thiên tài âm nhạc Phạm Duy để con tim cùng với khối óc luôn luôn hướng về Tổ quốc Việt nam !
HÀ HUY TOÀN

(1) Friedrich August von Hayek: Đường về Nô lệ. Nhà xuất bản Tri thức. Hà nội 2008 – 2009. Tác phẩm này đã trình bày chân thực sự tương đồng đến kinh ngạc về bản chất giữa chế độ cộng sản với chế độ fascist mặc dù chế độ fascist xung khắc kịch liệt với chế độ cộng sản về ý thức hệ như đã xảy ra trong Chiến tranh 1939 – 1945.
(2) Charles de Secondat Montesquieu: Tinh thần Pháp luật. Nhà xuất bản Lý luận Chính trị. Hà nội 2006, trang 106.

Michael Ardaiolo - Các Viện Khổng học là công cụ ngoại giao của Trung Quốc hay những con ngựa thành Troia?

Diên Vỹ chuyển ngữ

Vào ngày 21 tháng Mười một 2004, Viện Khổng học đầu tiên đã mở cửa tại Seoul, Hàn Quốc. Sự thành lập này đã được sắp xếp, cũng như mọi khía cạnh của quá trình ngoại giao công chúng của một chính phủ Trung Quốc ngày càng tự tin. Ví dụ như vùng bán đảo Triều Tiên, từng có một lịch sử lâu dài gắn bó vớ hệ tư tưởng, xã hội và quan lại của Khổng giáo. Ý nghĩa hơn nữa là trước cuộc chiến tranh Trung - Nhật 1894-5, Triều Tiên là một phần của đế chế phong tục văn hoá Trung Hoa. Trên thực tế, nó là bộ phận cuối cùng bị tan rã. Như thường vẫn làm, chính quyền Trung Quốc nhìn lại đấy như là một cách thức để thể hiện đà đi lên mới có của mình. Họ xem Viện Khổng học Seoul như là một bước quay lại, như Don Starr (Học giả nghiên cứu về Trung Quốc thuộc Đại học Durham - ND) “câu lạc bộ các nước thuộc thế giới thứ nhất sau một thế kỷ nằm ở vị thế bán thuộc địa và 50 năm thành viên của khối thế giới thứ ba.” Trung Quốc đang gửi một thông điệp đến thế giới rằng nó đã quay lại trong tư thế một cường quốc quan trọng.
Từ những năm sau đấy, kinh tế Trung Quốc đã tăng từ vị trí thứ năm trên thế giới đến hiện tại chỉ đứng sau Hoa Kỳ, một vị trí tạm thời nếu ta tin vào dự đoán. Sự tăng trưởng mau chóng này đã được xem như là một đe doạ đối với thế giới mặc dù giới lãnh đạo Trung Quốc, trong đó có Chủ tịch Hồ Cẩm Đào, vẫn thường kêu gọi “hoà bình và phát triển” và “một thế giới hài hoà”. Trong việc theo đuổi những vai trò đầy tham vọng trong vị thế lãnh đạo khu vực và xây dựng cơ chế quốc tế cũng như tăng cường quá trình hiện đại hoá và hoà nhập vào cộng đồng toàn cầu, chính quyền Trung Quốc đã xoay sang việc khai thác văn hoá chiến lược truyền thống như là biện pháp để đạt được quyền lực mềm. Viện Khổng học, được thiết kế theo khuôn mẫu của những học viện tương tự như Alliance Française của Pháp hoặc Viện Goethe của Đức, là phương tiện để truyền tải thông điệp này.
Theo trang mạng chính thức của nó, khuôn mẫu Viện Khổng học - khởi đầu được thiết kế, quản lý và tài trợ bởi chính quyền Trung Quốc - được thành lập để phục vụ một số mục tiêu: để phát triển các lớp dạy ngôn ngữ Trung Quốc cho những thành phần khác nhau trong xã hội; để đào tạo các giáo viên dạy tiếng Trung cho các học viện địa phương và cung cấp cho họ những nguồn tham khảo về tiếng Trung; để thiết lập các cơ sở nhằm phục vụ việc tổ chức các kỳ thi HSK (khảo thí trình độ tiếng Trung ) và để quản lý những thủ tục cấp chứng chỉ giáo viên tiếng Trung; để cung cấp các dịch vụ thông tin và tham vấn liên quan đến các lĩnh vực giáo dục, văn hoá, kinh tế và xã hội Trung Quốc; và để quảng bá những nghiên cứu về Trung Quốc hiện đại.
Việc mở rộng các Viện Khổng học đi song song với sự tăng trưởng kinh tế và vị thế toàn cầu của Trung Quốc. Cho đến tháng Bảy 2013, đã có 327 Viện Khổng học ở hơn 90 quốc gia và khu vực. Quản lý các Viện Khổng học là Văn phòng Uỷ ban Quốc tế về Tiếng Trung Quốc, gọi tắt là Hán Ban. Đây là một tổ chức quần chúng phi lợi nhuận được quản lý bởi một nhóm người xuất thân từ các bộ của chính phủ, bao gồm Hội đồng Nhà nước, Bộ Giáo dục, Bộ Ngoại giao và Bộ Văn hoá. Sự liên hệ với chính quyền Trung Quốc khiến cho các Viện Khổng học bị chỉ trích. Các Viện Khổng học được thiết lập với khuôn mẫu đối tác - một mối hợp tác giữa Hán Ban, một trường Đại học Trung Quốc và một trường Đại học nước ngoài - đặc biệt là tâm điểm của những quan ngại về quyền tự do giáo dục. Ví dụ như nếu các chủ đề mang tính nhạy cảm đối với chính phủ Trung Quốc - Tây Tạng, Đài Loan, quân đội Trung Quốc, Pháp Luân Công - được đưa ra tại Viện Khổng học nằm trong khuôn viên Đại học Kentucky thì liệu các học sinh và giáo sư được phép thảo luận không?
Những quan ngại này đã được đề cập đầy đủ trong điều trần của Steven Mosher, chủ tịch Học viện Nghiên cứu Dân số, tại phân ban Theo dõi và Điều tra thuộc tiểu ban Ngoại vụ Hạ viện Hoa Kỳ vào năm 2012:
Các Viện Khổng học được giải thích là những học viện phi lợi nhuận cùng hướng với chính quyền Cộng hoà Nhân dân Trung Quốc với mục đích là khuếch trương ngôn ngữ và văn hoá Trung Quốc, cũng như tạo điều kiện cho những trao đổi văn hoá. Mục đích có vẻ là vô hại này đã không đề cập đến một số những mục đích hiểm độc và nổi bật khác, cụ thể là làm trong sạch hình ảnh Trung Quốc ở nước ngoài, nâng cao “quyền lực mềm” của mình trên thế giới và tạo ra một thế hệ những người theo dõi tình hình Trung Quốc mới gần gũi với chế độ Cộng sản độc tài.
Tôi tin rằng bất chấp những lời lẽ của những người ưa cảnh báo như trên, thì hệ thống Viện Khổng học có tiềm năng để trở thành một nỗ lực ngoại giao công chúng hữu hiệu của Trung Quốc. Tuy nhiên, Hán Ban cần phải thực hiện những bước sau để bảo đảm các Viện Khổng học được xem là có uy tín trên toàn thế giới. Trước tiên, Hán Ban cần tách mình và tổ chức các Viện Khổng học xa hơn nữa khỏi chính quyền Trung Quốc, ngay cả khi nó đã tự nhận mình là “một tổ chức phi chính phủ và phi lợi nhuận có liên hệ với Bộ Giáo dục Trung Quốc.” Cơ chế mới này có thể được tài trợ bởi các đại học Trung Quốc, từ lệ phí thu từ thành viên, từ lợi nhuận có được từ việc bán các sách vở và tài liệu, cũng như khoản cung cấp dành cho giáo dục của chính quyền được xin một cách chính thức và không thiên vị. Hán Ban nên tách xa ra khỏi chính quyền càng nhiều càng tốt. Dù mọi tai tiếng sẽ không hoàn toàn bị xóa hết, nó cũng giúp dẹp bỏ quan điểm rằng nhà nước Trung Quốc đang sử dụng các khuôn viên Viện Khổng học như một phương tiện để phát triển điều mà phương tây lên án là tuyên truyền, để thực hiện những hoạt động tình báo, và để kiểm duyệt những chủ đề nhạy cảm. Các trường đại học không phải của Trung Quốc sẽ bớt ngần ngại trong việc hợp tác trực tiếp với các đại học Trung Quốc, qua đó làm tăng vị trí của các trường Trung Quốc trong hệ thống giáo dục toàn cầu, trong khi đo tiếng Quan Thoại và văn hoá Trung Quốc có thể được quảng bá và phát tán mà không bị trói buộc vào những hành động của chính quyền trong quá khứ.
Ví dụ như ngành dạy Tiếng Anh như một Ngôn ngữ thứ Hai (English as a Second Language - ESL) tại Đông Á. Có hàng chục nghìn trường ESL rải rác khắp khu vực. Đại đa số là không phụ thuộc vào bất kỳ chính phủ nào và tạo lợi nhuận rất đáng kể. Khi cha mẹ ghi danh cho con học các lớp ESL, họ không xem đấy như là một hoạt động tuyên truyền của Mỹ mà là những phương tiện dể chuẩn bị cho con cái mình bước vào thế giới toàn cầu hoá. Tuy nhiên, một số lớn các giáo viên ESL tại Đông Á đến từ Hoa Kỳ. Thêm vào đấy, tiếng Anh ngày nay gắn liền với những hình ảnh của Hoa Kỳ và giấc mơ Mỹ. Vì thế, hệ quả là trẻ em theo học các lớp ESL thường được tiếp cận nhiều với tư tưởng và văn hoá Mỹ cũng như cách phát âm kiểu Mỹ. Đây là một hoạt động ngoại giao công chúng không tốn kém của chính quyền Hoa Kỳ. (Thay thế các giáo viên Mỹ với giáo viên Anh Quốc hoặc Úc hoặc Ấn Độ, và hiệu quả vẫn tương tự cho các quốc gia ấy.)
Một tổ chức các Viện Khổng học độc lập có thể hoạt động để thiết lập nền tản cho một chương trình Tiếng Trung như một Ngôn ngữ thứ Hai (CSL). Chính quyền Trung Quốc không được quyền điều khiển tư tưởng của ngành này - rõ ràng là một viên thuốc đắng khó nuốt - nhưng nó sẽ có hiệu quả hơn cho ngoại giao công chúng của Trung Quốc hơn bất kỳ chương trình nào do nhà nước Trung Quốc bảo trợ. Nhiều người sẽ trở nên quan tâm hơn vào tiếng Quan Thoại và văn hoá Trung Quốc, từ đó sẽ làm họ hào hứng để thăm viếng và du học ở Trung Quốc hơn.
Có thêm các Viện Khổng học tại nước ngoài, vừa độc lập lẫn hợp tác với các trường đại học cũng sẽ tạo lợi ích cho các quốc gia chủ nhà. Các nhân viên điều hành và giáo viên sẽ có được những kinh nghiệm trực tiếp khi làm việc và sinh sống tại quốc gia chủ nhà. Từ đó họ sẽ chia sẻ những kỷ niệm tích cực với mạng lưới bạn bè của mình tại Trung Quốc. Các Viện Khổng học, nếu được độc lập về quản lý và nội dung, sẽ có thể trở thành một phương tiện trao đổi thông tin song phương đối xứng, đấy cũng là mục tiêu tối thượng của chính sách ngoại giao công chúng.

Nguyễn Văn Tuấn - Đạo văn – vấn đề của đạo đức khoa học


Báo Người đưa tin có hẳn một chuyên mục về những tranh cãi chung quanh cáo buộc đạo văn trong luận án tiến sĩ của ông Hoàng Xuân Quế. Theo dõi những diễn biến trong vụ này tôi thấy hình như người ta nhầm lẫn giữa đạo đức khoa học và pháp lí. Để biết đầu đuôi câu chuyện tôi tóm lược câu chuyện như sau (trước là để tôi hiểu, sau là lưu làm tư liệu và chia sẻ cùng các bạn đọc):
http://www.nguoiduatin.vn/ev65/tranh-cai-xung-quanh-luan-an-cua-tien-sy-hoang-xuan-que.html
Ông Hoàng Xuân Quế tốt nghiệp tiến sĩ từ Đại học Kinh tế Quốc dân (nghe nói là một “trường lớn” của Việt Nam) từ năm 2003, nay đã được phong hàm phó giáo sư. Đột nhiên, năm nay có người (Gs Nguyễn Văn Nam) cáo buộc rằng một phần luận án tiến sĩ của ông là cóp từ luận án của ông Mai Thanh Quế (bảo vệ trước ông HXQ 1 năm). Thanh tra Bộ Giáo dục và Đào tạo kết luận rằng quả thật có đạo văn, và Bộ ra quyết định tước bằng tiến sĩ của ông HXQ.
Nhiều người phản ứng quyết định của Bộ một cách dữ dội. Những người hướng dẫn luận án của ông HXQ và Mai Thanh Quế đều cho rằng Bộ GDĐT làm sai, rằng không có dấu hiệu đạo văn, rằng luận án được hội đồng chấm 7/7 (xuất sắc), hội đồng gồm những chuyên gia “đầu ngành” thì làm sao sai được, v.v. Nhưng những người phản đối đều không chịu nhìn vào sự thật: khoảng 34% nội dung luận án của ông HXQ trùng hợp với luận án của ông MXQ trước đó! Đã có người làm thống kê so sánh hai luận án một cách công phu và con số phần trăm trùng hợp rất gần với kết luận của Bộ GDĐT.
Nhưng nay câu chuyện có một cái “twist” mới về pháp lí. Báo Người đưa tin phỏng vấn một luật sư ở Hà Nội về vấn đề này, và ông luật sư nói rằng “Kết luận của Bộ Giáo dục vi phạm nghiêm trọng pháp luật”. Thật ngạc nhiên! Tôi phải cố công đọc hết bài phỏng vấn để biết Bộ GDĐT vi phạm luật gì. Đọc xong bài này tôi phải nói là tình trạng học thuật ở bên nhà quả là một câu chuyện buồn. Những người có học như thế mà còn không biết đạo văn là gì thì làm sao giảng dạy cho ai. Là người quan tâm đến vấn đề này nhiều năm qua, và đã từng viết nhiều bài, nên tôi muốn nhân bài phỏng vấn để bàn qua 3 điểm liên quan đến thế nào là đạo văn, dung lượng luận án, và vai trò của người bình duyệt luận án.
Nhưng trước hết tôi muốn nhấn mạnh rằng đạo văn (và vài hành vi khác) trong học thuật là thuộc về đạo đức khoa học chứ không phải luật pháp. Chuẩn mực đạo đức không phải là luật pháp, mà là những qui ước hay điều lệ về hành xử được các thành viên trong ngành nghề chuyên môn chấp nhận như là những kim chỉ nam cho việc hành nghề. Trong hoạt động khoa học, hai chữ “hành xử” ở đây bao gồm các lĩnh vực chuyên biệt như thí nghiệm, xét nghiệm, giảng dạy và huấn luyện, phân tích dữ liệu, quản lí dữ liệu, chia sẻ dữ liệu, xuất bản ấn phẩm, trình bày công trình nghiên cứu trước công chúng, và quản lí tài chính. Nếu thành viên trong ngành nghề vi phạm những chuẩn mực đạo đức khoa học thì sẽ bị trừng phạt (chứ không đi tù). Chẳng hạn như ông cựu Bộ trưởng Quốc phòng Đức Karl-Theodor zu Guttenberg đạo văn trong luận án tiến sĩ của ông, và hệ quả là ông bị trường rút lại bằng tiến sĩ. Cũng có lẽ vì xấu hổ nên ông tự xin từ chức bộ trưởng. Do đó, nói rằng không có qui định pháp luật về đạo văn nên không thể kết luận gì về đạo văn là … nguỵ biện.
Thế thì câu hỏi đặt ra: đạo văn là gì? Câu hỏi này cần bàn ở đây vì khi bàn về luận án của ông Hoàng Xuân Quế, ông luật sư viết: “Đặc biệt là về bản chất vụ việc, nếu ông Hoàng Xuân Quế có ‘chép’ tài liệu của người khác, thì cũng là hành vi trích dẫn. Không có quy định của pháp luật về việc thế nào là ‘đạo văn’ và phải trích dẫn thế nào trong Luận án, nên không có cơ sở kết luận ông Hoàng Xuân Quế trích dẫn hay sao chép ‘không hợp pháp’.” Tôi thấy câu này có vài điều cần bàn thêm. Theo tôi biết chẳng có luật pháp nước nào qui định thế nào là đạo văn cả, vì như đề cập trên, đây là vấn đề đạo đức học thuật. Nhưng bất cứ ai làm trong khoa học đều biết thế nào là đạo văn hay có vài ý niệm căn bản về đạo văn.
Một luận án, luận văn, hay bài báo khoa học là một tác phẩm / công trình học thuật. Đứng tên tác giả công trình đó có nghĩa là chịu trách nhiệm về nội dung trong công trình, và nội dung bao gồm những dữ liệu hay diễn giải của tác giả. Luận án không chỉ đơn thuần là sao chép từ nguồn khác được.
Đạo văn được định nghĩa là sử dụng ý tưởng hay câu văn của người khác một cách không thích hợp (tức không ghi rõ nguồn gốc), đặc biệt là việc trình bày những ý tưởng và từ ngữ của người khác trước các diễn đàn khoa học và công cộng như là ý tưởng và từ ngữ của chính mình. Ở đây, “Ý tưởng và từ ngữ của người khác” có nghĩa là: sử dụng công trình hay tác phẩm của người khác, lấy ý tưởng của người khác, sao chép nguyên bản từ ngữ của người khác mà không ghi nguồn, sử dụng cấu trúc và cách lí giải của người khác mà không ghi nhận họ, và lấy những thông tin chuyên ngành mà không đề rõ nguồn gốc.
Có thể lấy thêm một ví dụ để hiểu rõ vấn đề trích dẫn và đạo văn. Giả dụ rằng chị Thanh Hương phát hiện gen ABC có liên quan đến bệnh còi xương, và nghiên cứu sinh muốn trích dẫn công trình này. Nếu nghiên cứu sinh viết rằng “Nghiên cứu trên 150 bệnh nhân gốc Việt cho thấy gen ABC là một trong những yếu tố tăng nguy cơ bệnh còi xương” thì được xem là vi phạm đạo đức học thuật. Nhưng nếu nghiên cứu đó viết “Nghiên cứu trên 150 bệnh nhân gốc Việt cho thấy gen ABC là một trong những yếu tố tăng nguy cơ bệnh còi xương (Thanh Hương 2007)” thì không vi phạm đạo đức học thuật. Cái khác biệt giữa 2 câu văn là trích dẫn nguồn. Dùng ý tưởng hay thông tin của người khác thì phải trích dẫn nguồn; không trích dẫn là vi phạm đạo đức khoa học và được xem là đạo văn vì nó cho người đọc cảm nhận [sai] rằng người viết là tác giả của thông tin đó.
Có thể xem qua vài đoạn trong luận án của hai ông Hoàng Xuân Quế (HXQ) và Mai Thanh Quế (MTQ) rất giống nhau về cấu trúc:
Tên tiêu đề:
HXQ: Học thuyết Karl Marx về tiền tệ.
MTQ: Học thuyết Karl Marx về tiền tệ.
Thống kê: 19/24 câu trong luận án của ông HXQ trùng hợp với luận án của ông MTQ.
HXQ: Học thuyết số lượng tiền tệ cổ điển.
MTQ: Học thuyết số lượng tiền tệ cổ điển.
Thống kê: 16/18 câu trong luận án của ông HXQ trùng hợp với MTQ.
Có thể xem thêm ở đây: https://docs.google.com/file/d/0B_5Y8N3xZy_LNm1hOEFicUhHMEk/edit
Và rất nhiều đoạn như thế. Chú ý là ngay cả tiêu đề mà cũng trùng hợp nhau!
Các bạn quan tâm có thể tham khảo luận án của ông Mai Thanh Quế:
https://docs.google.com/file/d/0B_5Y8N3xZy_LN1AzTDJPSXZfUlE/edit
và luận án của ông Hoàng Xuân Quế ở đây:
https://docs.google.com/file/d/0B_5Y8N3xZy_LOHRwTnl5ZEYwMXc/edit
Trích dẫn mà không ghi nguồn là một hình thức đạo văn. Người đi sau đứng trên vai của người đi trước. Một luận án dĩ nhiên phải có trích dẫn từ nhiều nguồn đã được lưu trữ trước đây. Nhưng trích dẫn phải tuân thủ theo những qui ước khoa học. Qui ước này bao gồm cách trích dẫn tài liệu, cách viết hay diễn giải, cách ghi nguồn, v.v. Ở nước ngoài, học trò trung học và sinh viên đại học đều phải biết những qui ước rất cơ bản này. Ở Việt Nam cũng có sách vở và tài liệu về những qui ước trích dẫn tài liệu khoa học. Chẳng hạn như có một qui ước đơn giản là khi dùng hay sao chép hơn 3 hay 4 từ liên tục từ một nguồn thì cần phải để trong ngoặc kép hoặc đề nguồn. Trích dẫn mà không ghi nguồn là đạo văn. Ở đây, có đến 34% câu chữ trong luận án của ông HXQ trùng hợp với luận án của ông MTQ thì tôi nghĩ rất khó thuyết phục rằng sự trùng hợp đó không phải là đạo văn.
Thứ hai là vấn đề đạo văn có liên quan gì đến dung lượng luận án? Ông luật sư còn lí giải rằng Bộ GDĐT có qui định “Luận án tiến sĩ có khối lượng khoảng 100 trang A4, trong đó trên 50% là trình bày các kết quả nghiên cứu và biện luận của riêng nghiên cứu sinh. Như vậy, thì đương nhiên phải hiểu rằng, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cho phép nghiên cứu sinh được đưa vào Luận án dưới 50% nội dung không phải là của mình?” Trước hết, tôi rất ngạc nhiên là Bộ GDĐT lại đề ra những qui định thuộc về học thuật như thế này! Đáng lẽ đây là việc làm của đại học, chứ không phải của Bộ.
Nhưng vấn đề ở đây là “nội dung” gì. Nội dung là thông tin hay từ ngữ? Dùng thông tin của người khác mà không trích dẫn là phạm tội đạo văn. Dùng từ ngữ của người khác mà không để trong ngoặc kép cũng là đạo văn. Do đó, không thể biện minh rằng nghiên cứu sinh có thể dùng 50% thông tin hay câu văn của người khác là chấp nhận được. Dùng thông tin của người khác nhưng được viết lại bằng từ ngữ của mình và có trích dẫn thì mới đúng qui ước khoa học.
Dù gì đi nữa thì tôi e rằng lí giải này cũng là một nguỵ biện. Một luận án, cho dù 100 hay 500 trang, thì vẫn phải có 4 phần chính: dẫn nhập, phương pháp, kết quả, và định hướng tương lai. Phần dẫn nhập, tác giả làm một tổng quan về đề tài nghiên cứu, và dĩ nhiên phải trích dẫn từ nguồn khác. Phần này thường chiếm 1/5 luận án (về số trang). Tổng quan xong, tác giả phải nhận ra khoảng trống tri thức và đề ra mục tiêu nghiên cứu để lấp vào những khoảng trống tri thức đó. Phần này chẳng có dữ liệu nào là của tác giả, nhưng chữ nghĩa PHẢI LÀ của tác giả. Phần kết quả thì bắt buộc 100% phải là của tác giả. Phần kết quả là “trái tim” của luận án, nên nếu trái tim này của người khác thì làm sao chấp nhận được. Phần định hướng tương lai có thể trích dẫn từ nguồn khác, nhưng chữ nghĩa PHẢI LÀ của tác giả. Do đó, không nên có những qui định kì quặc với những con số lạ lùng và phi khoa học như 50%.

Thứ ba là vai trò của người duyệt luận án và đạo văn
. Ông luật sư biện minh rằng luận án của ông Hoàng Xuân Quế đã được hội đồng chấm Luận án cấp nhà nước thông qua và cho điểm 7/7. Ông lí giải rằng nếu luận án có đạo văn thì “sai phạm của ông Quế chỉ là phụ, mà sai phạm chính phải là của những người phản biện và các thành viên Hội đồng vì đã vi phạm các quy định tại Điều 26 Quy chế.” Ở đây, vấn đề bị đánh tráo sang hội đồng chấm luận án! Đúng là Hội đồng cũng có trách nhiệm một phần về chất lượng luận án, nhưng Hội đồng không có nhiệm vụ thẩm định đạo văn.
Tôi nghĩ có lẽ ông luật sư vì chưa am hiểu hoạt động nghiên cứu khoa học nên phát biểu hơi lệch. Chuyên gia bình duyệt có nhiệm vụ chính là thẩm định luận án về mặt ý tưởng và phương pháp, chứ họ không có nhiệm vụ kiểm tra đạo văn. Rất hiếm ai có thể phát hiện đạo văn trong một luận án dài cả vài trăm trang. Mỗi chuyên gia tập trung vào vài khía cạnh trong luận án mà họ quan tâm, và do đó, không thể kì vọng họ phát hiện đạo văn trong các phần khác của luận án. Trong thực tế có người phát hiện đạo văn một cách tình cờ (và tôi có kinh nghiệm cá nhân về phát hiện đạo văn) chứ rất khó làm một cách có hệ thống.
Nói cho công bằng, khi sự việc tiêu cực xảy ra thì 2 người chịu trách nhiệm chính là nghiên cứu sinh và người thầy/cô hướng dẫn. Nếu thầy cô hướng dẫn tốt thì nạn đạo văn rất khó xảy ra. Ở nước ngoài, thầy trò gặp nhau hàng tháng, thậm chí hàng tuần. Hết họp nhóm, họp lab, đến họp toàn khoa, và mỗi lần kết quả được trình bày thì ai cũng soi mói kĩ, rất khó có chuyện nguỵ tạo dữ liệu. Thầy cô khi sửa bài cho nghiên cứu sinh cũng phải đọc kĩ, sửa từng bước, thì rất khó có nạn đạo văn xảy ra. Nhưng tôi thấy rất nhiều thầy cô hướng dẫn ở Việt Nam chưa làm đúng vai trò của người hướng dẫn, họ để cho nghiên cứu sinh “tự bơi” là chính. Đó cũng là một trong những lí do tại sao nạn đạo văn ở VN khá phổ biến so với nước ngoài.
Nhưng tôi cũng nghĩ không nên qui kết "tội" cho ông Hoàng Xuân Quế, vì đây là vấn đề hệ thống và "hệ thống" phải chịu trách nhiệm một phần. Hệ thống ở đây là các đại học chưa có những qui chế, hướng dẫn cụ thể thế nào là đạo văn, và chưa có cơ chế xử lí vấn đề. Ở nước ngoài, khi nghiên cứu bắt đầu nghiên cứu, họ được trang bị những kiến thức về đạo đức khoa học (kể cả đạo văn), và cảnh báo rằng "luật chơi" học thuật là nếu nghiên cứu sinh vi phạm thì sẽ bị tước bằng. Trong thực tế ở nước ngoài cũng xảy ra vài vụ đạo văn, và việc tước bằng rất hiếm khi xảy ra vì người ta cho nghiên cứu sinh cơ hội để chỉnh sửa. Tôi nghĩ trong trường hợp này (ông Hoàng Xuân Quế), cách giải quyết tốt nhất là cho ông cơ hội viết lại luận án, và nếu cần, cho một hội đồng độc lập đánh giá. Quyết định tước lấy bằng cấp của một cá nhân trong khi các thầy cô hướng dẫn phản đối là một quyết định cần phải xem xét lại.
Trường hợp này không phải là đầu tiên, và chắc chắn không phải là lần sau cùng. Trong môi trường học thuật còn nhiều bất cập như hiện nay (và trong quá khứ), tôi đoán rằng có nhiều luận án nếu soi xét kĩ thế nào cũng phát hiện đạo văn. Có lẽ cái khác biệt là bị phát hiện và chưa phát hiện mà thôi.
Cá nhân tôi rất ngạc nhiên là luận án tiến sĩ kinh tế ở Việt Nam sao quá đơn giản! Nhìn chung, cả hai luận án đều khá đơn giản và giống như luận án cử nhân hay masters (cao học) ở nước ngoài hơn là một luận án tiến sĩ. Cả hai luận án chỉ có 3 chương, và dài độ 180 trang (tính luôn cả phần tài liệu tham khảo và phụ lục). Một luận án cao học hay cử nhân hạng danh dự ngoài này cũng cỡ 150-200 trang. Cách viết tài liệu tham khảo của hai luận án vừa đề cập cũng chẳng đâu vào đâu, và chẳng tuân thủ theo qui ước viết tài liệu tham khảo của các tập san quốc tế. Tôi nghĩ nếu chỉ nhìn qua hai luận án này thì tiêu chuẩn học thuật cho một tiến sĩ ở VN còn rất khác xa so với chuẩn mực của các đại học nước ngoài.
Tôi nghĩ sự việc xảy ra một lần nữa nhấn mạnh đến ý nghĩa của công bố quốc tế. Thông thường, một luận án tiến sĩ bao gồm 2-3 bài báo đã công bố trên các tập san chuyên ngành có bình duyệt (peer reviewed journals). Vì có bình duyệt và công bố quốc tế, mức độ exposure rất lớn, nên nếu có đạo văn hay có vấn đề gì thì đồng nghiệp quốc tế sẽ phát hiện. Thỉnh thoảng, một số bài báo được phát hiện đạo văn và phải rút lại ngay. Một số tập san ngày nay có công cụ để dò xét bài báo có đạo văn hay không. Công bố quốc tế do đó là một hình thức “thử acid” và tối thiểu hoá vấn nạn đạo văn.
Ở VN qui định công bố quốc tế chưa được áp dụng nghiêm chỉnh hay chưa áp dụng nên rất khó biết luận án có xứng đáng luận án tiến sĩ hay không hay có đạo văn hay không. Để đến khi phát hiện thì sự việc xem như “đã rồi”, làm phiền phức cho đương sự và gây “ô nhiễm” học thuật cho cả một cộng đồng. Tôi nghĩ qua vụ việc này, các đại học Việt Nam nên có qui chế về đạo đức khoa học, và đưa công bố quốc tế thành một trong những tiêu chuẩn để cấp bằng tiến sĩ.


Hạ Nghiệp Lương: Cải cách của Đại lục đã chết


Đọc tin Đại học Bắc Kinh sa thải GS Hạ Nghiệp Lương (Xia Yeliang), tôi tìm được một bài tường thuật buổi nói chuyện của ông ở Đài Loan tháng 12-2011 trong bản dịch tiếng Việt trên Thời báo Đại Kỷ nguyên (The Epoch Times) do Pháp Luân Công chủ trương. Bản dịch có nhiều lỗi chính tả, diễn đạt và văn phạm. Tôi đã biên tập lại một số lỗi này. Ngôn ngữ và phong cách đưa tin thường thấy trên Đại Kỷ nguyên có những đặc thù có thể làm một số người đọc dị ứng, và tôi cũng không tìm được bản gốc bài nói chuyện nêu trên để đánh giá bài tường thuật, nên chỉ có thể giới thiệu bản dịch này như một tham khảo.
Phạm Thị Hoài
___________
Giáo sư Học viện Kinh tế Đại học Bắc Kinh, giáo sư phỏng vấn Học khu Los Angeles tiểu bang California nước Mỹ là Hạ Nghiệp Lương đã phát biểu bài diễn văn chuyên đề ở Học viện Khoa học Xã hội của Đại học Đài Loan. Ông Hạ cho rằng, gần đây rất nhiều phần tử trí thức đều đạt được một nhận thức chung, nhận thấy sự cải cách của Đại lục đã chết rồi, không còn cách gì để mà cầu mong chính phủ Trung cộng có sự thay đổi nhắm vào việc dân chủ hóa nữa, bởi vì những sự cải cách tương đối dễ như việc mở cửa kinh tế chẳng hạn, ‘Trong 30 năm qua, những gì có thể sửa đổi đều đã sửa đổi rồi,’ tiếp theo đó là sự cải cách về chính trị thì lại càng khó khăn hơn, Trung cộng sẽ không chủ động mà làm việc này. Đại lục nếu muốn đi đến dân chủ thì phải nhờ vào áp lực mà xã hội và dân chúng đã tạo ra cho chính quyền cộng sản.
Một đảng chuyên chính thì rất dễ xảy ra bạo lực chính trị
Nhận lời mời của Thư viện Dân chủ người Hoa, trong bài diễn văn của Hạ Nghiệp Lương ngày 18 có nhắc đến, một đảng mà chuyên chính thì rất dễ xảy ra bạo lực chính trị, bởi vì không có năng lực để quản lí và giám sát nó. Trong quá khứ, học sinh trung và đại học của Đại lục hình như muốn cầu sự tiến bộ đều muốn gia nhập Đảng, nhưng chưa từng suy nghĩ chín chắn ‘Đảng là cái gì? Công năng và bản chất của Đảng là gì?’. Ông nói, thành ngữ cổ đại của Trung Quốc ‘Đảng đồng phạt dị’ ‘Kết đảng dinh tư’ trải qua mấy trăm năm, trên ngàn năm mà lắng đọng ra, nói rõ việc kết đảng không phải là việc tốt.
Trung cộng tuyên truyền lợi ích quốc gia là cao hơn mọi thứ
Ông Hạ nói: “Đảng Cộng sản bỏ hết tâm tư để chế tạo cách tuyên truyền cho chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hội, bắt đầu từ trẻ con, bảo chúng phải tham gia vào đội tiên phong thiếu niên, mỗi ngày đều chỉ thị chúng hãy chuẩn bị thời khắc để hiến thân cho chủ nghĩa xã hội.” Ông nhấn mạnh, Đảng Cộng sản không có nhân tính, mấy năm trước ở Tân Cương, một ngôi trường tiểu học từng xảy ra một đám cháy, lúc đó ban lãnh đạo nhà trường nói, học sinh tiểu học tuổi trẻ đều đứng yên một chỗ và bất động, kết quả chỉ để ban lãnh đạo chạy thoát, rất nhiều học sinh bị chết cháy. Ông chỉ ra rằng, Trung cộng thường tuyên truyền rằng lợi ích của quốc gia là cao hơn mọi thứ, nghe ra thì đều là vì một mục tiêu thật lớn lao, nhưng chúng ta không thể thấy cái lợi ích quốc gia đó đã đi về đâu? Có lẽ có một số người nào đó đã hưởng được nó, nhưng nhân dân thì không thể hưởng được.
Đảng Cộng sản nắm trọn guồng máy quốc gia
Đối với guồng máy quốc gia khổng lồ của Đảng Cộng sản thì ông Hạ chỉ ra rằng, Đảng Cộng sản một mực chuyên chính một đảng, định hướng dư luận mà Đảng bỏ hết tâm tư để chế tạo ra thì chúng ta có thể thấy ở mọi mặt, chính phủ lũng đoạn hết giới truyền thông đại chúng, tất cả đài truyền hình, đài phát thanh, báo chí và nhà xuất bản của Trung Quốc, toàn bộ đều nằm dưới sự khống chế của Đảng để tiến hành tuyên truyền, lại còn phát triển ra bên ngoài và muốn khống chế giới truyền thông của Hồng Kông và Đài Loan vân vân. Hơn nữa tất cả trường đại học của Trung Quốc đều là đại học công lập, trực tiếp do Đảng khống chế, cho nên có người nói đại học cũng có thể gọi là trường đảng. Ngoài ra, còn có những cơ quan đặc công chuyên môn bắt bớ các nhân sĩ có ý kiến khác với Đảng và giám sát những nhân sĩ ở hải ngoại, và khi cần thiết thì sẽ chấp hành nhiệm vụ ám sát.
Ngoài ra, Trung cộng dùng những thủ đoạn của chủ nghĩa khủng bố quốc gia để duy trì quyền lực của mình và cái gọi là ‘ổn định xã hội’, kinh phí bỏ ra thậm chí còn vượt quá ngân sách quân sự, năm ngoái đã bỏ ra trên 570 tỉ nhân dân tệ, năm nay có thể đạt đến trên 600 tỉ. Chính phủ còn lũng đoạn cả thông tin và giao thông; và thông qua kế hoạch quốc gia để thực thi nguyên tắc chỉ đạo trung ương đối với kinh tế, hơn nữa cơ quan chủ quản tối cao nghiên cứu học thuật Trung Quốc lại thiết lập phòng qui hoạch khoa học xã hội toàn quốc ở dưới Bộ Tuyên truyền Trung ương Trung cộng, để họ công bố chủ đề nghiên cứu quan trọng nhất mỗi năm, vì thế mà ở Trung Quốc hiện nay hình như là không có một loại nghiên cứu nào là ra dáng cả, còn những thứ đáng để thật sự nghiên cứu thì lại không nhận được kinh phí.
Đảng Cộng sản tước đoạt quyền tự do của nhân dân
Ông nói rằng, ở Đại lục Trung Quốc, quyền ngôn luận, quyền kinh tế, quyền chính trị của rất nhiều người có thể bị tước đoạt ở bất cứ lúc nào, những quyền như tự do lập hội, tự do xuất bản tin tức, tự do ngôn luận vân vân, được qui định trong Hiến pháp, thì trong thực tế đều không tồn tại. Gần đây trên trang mạng vừa mới công bố điều lệ mới, là sẽ tiến hành quản chế đối với Microsoft, họ thường nói là có một số người hay tổ chức đã phát tán những nội dung phi pháp, càng khủng bố hơn nữa là họ nói có một số nội dung có thể dính líu đến việc lật đổ chính quyền quốc gia, nếu mà quí vị nghe theo những luận điệu đó thì quí vị cách chuyện ngồi tù không xa lắm, mà hình phạt tối đa có thể là tội chết.
Ông Hạ nói, người dân cũng thường bị tước đoạt quyền biện hộ. Ông cho rằng, trong quá khứ chúng tôi có một số khái niệm cũng không dám tranh luận cho rõ ràng, không dám tiến hành tranh luận, cho dù là trên lý thuyết về học vấn cũng không được, nhưng nếu mà đại đa số người dân đều nhận thấy là chính quyền đã thối nát, sa sút, hơn nữa lại đi ngược với lợi ích của dân chúng, thì dân chúng cần phải lật đổ, thay đổi chính quyền, đây là việc hợp với lẽ trời.
Dùng chủ nghĩa tập thể để tiêu diệt những tư tưởng khác
Ông Hạ nêu ra rằng, Đại lục Trung Quốc tuyên dương chủ nghĩa tập thể và phản đối chủ nghĩa cá nhân, Trung cộng dùng danh nghĩa tập thể để tiêu diệt những tư tưởng khác. Nếu quí vị không nghe theo, thì cuối cùng có thể thân thể của quí vị bị tiêu diệt và tư tưởng của quí vị cũng theo đó mà tiêu tan. ‘Trong nhiều năm nay chúng tôi luôn suy nghĩ về những lỗi lầm mà Đảng Cộng sản đã phạm phải, thật ra đó không chỉ là sự sai lầm, rất nhiều việc mà họ làm đều là những tội lỗi mà nhân loại khó mà chấp nhận được, bao gồm những người đã tham gia vào trong đó, thì thật ra cũng đã tham dự vào việc hành hung làm ác.’
Cấp cao của Trung cộng không còn ai tin vào chủ nghĩa cộng sản
Ông Hạ cho rằng, chính phủ cực quyền chủ nghĩa cộng sản hành sử quyền lực tuyệt đối và tập trung, để khống chế tất cả mọi mặt của cuộc sống nhân dân. Trong quá khứ nếu quí vị nói một câu chống lại Đảng, thì đó là một tội danh tầy trời; Nhưng bây giờ số người chống lại Đảng, chống lại chủ nghĩa xã hội càng ngày càng đông thêm, điều này là không thể đè ép được nữa. Bởi vì khi quí vị hiểu biết về thế giới bên ngoài, và một số lý luận về chính trị, kinh tế, cũng như có càng nhiều sự liên hệ giao tiếp với hải ngoại, thì quí vị sẽ phát hiện cái trào lưu đó là không thể chống đỡ được.
‘Bây giờ kể cả tầng lớp cao cấp cũng phản lại Đảng, phản lại chủ nghĩa xã hội, quí vị thử hỏi những người lãnh đạo cấp cao, còn có mấy người là còn tin tưởng vào chủ nghĩa cộng sản nữa chăng, còn muốn vì chủ nghĩa cộng sản mà dâng hiếu mọi thứ hay không, hay chỉ là dùng nó để lừa phỉnh con người. Hôm nay thì từ 9 vị thường vụ ủy viên lớn cho đến những cán bộ tầng lớp phổ thông, còn có ai nói là việc này có liên hệ với chủ nghĩa cộng sản nữa không? Không còn ai còn nghĩ như vậy nữa.’
Nói chung bây giờ Trung Quốc là đang thực thi chủ nghĩa tư bản hay là chế độ xã hội chủ nghĩa đây? Ông Hạ phân tích, cho dù Trung Quốc muốn thi hành chủ nghĩa tư bản, cũng là chủ nghĩa tư bản do nhà nước lũng đoạn, chủ nghĩa tư bản của quyền quí, chủ nghĩa tư bản của bè phái, chứ không phải là chủ nghĩa tư bản cạnh tranh thị trường. Còn nếu muốn thực thi chủ nghĩa xã hội, thì cũng là cái được gọi là chủ nghĩa xã hội đặc sắc của Trung Quốc. Ông  nói, thật ra trong đầu óc của những người lãnh đạo cấp cao là chủ nghĩa cơ hội, triết lý chủ nghĩa thực dụng, ‘Lúc nào có lợi đối với tôi thì tôi áp dụng nó, đã không có tín ngưỡng về tôn giáo cũng không có lý tưởng về chính trị, chỉ là chủ nghĩa (sùng) bái vật (chất) và sùng bái đồng tiền, là thứ tôn giáo bái vật.’
Đảng Cộng sản muốn lợi dụng 100 năm Tân Hợi để hợp pháp hóa chính quyền
Ông Hạ nói, trong bài diễn văn kỷ niệm 100 năm cách mạng Tân Hợi, Hồ Cẩm Đào nói, phải dùng sức mạnh nhiều hơn, và tiếp thu rộng rãi hơn so với lúc trước về một số cách nói của Tôn Trung Sơn, nhưng ông ta chỉ muốn mượn cái danh nghĩa đó để hợp pháp hóa chính quyền mà thôi; Bởi vì cái lý luận quá khứ của Đảng Cộng sản đã không còn sức nữa, không còn cách nào để mà thuyết phục được dân chúng nữa. Từ ngày Hồ Cẩm Đào lên chấp chính cho đến nay, đều là nói về ‘Dân sinh’, nhưng hiếm khi nhắc đến ‘Dân quyền’, cũng không dám nhắc đến ‘Dân tộc’, bởi vì những thứ đó, rất nhiều đều là điều cấm kỵ thảo luận của Đảng Cộng sản, ông ta không dám thật sự nghiên cứu sâu rộng về chúng; nếu như ông ta thật sự thích cái chủ trương của Tôn Văn thì ông ta nên để cho học giả của Trung Quốc và giới truyền thông nghiên cứu toàn diện về Tôn Trung Sơn, cho nên ông ta chỉ là lấy những gì mà ông ta cần, dùng một ít danh nghĩa để làm dáng mà thôi.
Hâm mộ bài tranh luận tranh cử của Tổng thống Đài Loan
Hạ Nghiệp Lương ở Đài Loan thấy được bài tranh luận tranh cử Tổng thống, ông nói rất là hâm mộ, cho dù biểu hiện như thế nào, nhưng dù sao thì cũng đem cái chủ trương thật sự hay là cách nghĩ từ trong lòng mình, trong một giây lát, chưa kịp che đậy mà bày tỏ ra. Ông nói, chúng ta nếu có cơ hội thì phải hỏi người lãnh đạo Trung cộng là Hồ Cẩm Đào, ‘Ông có thật sự tín ngưỡng chủ nghĩa cộng sản không? Ông có thật sự muốn vì chủ nghĩa cộng sản, mà hiến dâng toàn bộ tài sản của ông không? Nếu như ông và cái lý lẽ giá trị quốc gia của Tây phương là khác nhau, thì tất cả người nhà của ông, đời sau của ông, có đều từ chối mà không đến định cư ở quốc gia Tây phương và đem tài sản chuyển đến những quốc gia Tây phương hay không?’
Ông chỉ ra rằng, mọi người đều biết trong giới cấp cao của Trung cộng, rất nhiều người nhà, con cái đều chuyển dời ra hải ngoại, tài sản cũng chuyển dời với số lượng lớn ra hải ngoại, họ chỉ là đang kéo dài, làm điều có lợi cho sự thống trị của họ, và không muốn phân chia quyền lực cho dân chúng, càng không muốn chủ động mà giao quyền lực ra. Một khi họ đã hưởng thụ được những điều lợi từ cực quyền, đặc quyền rồi thì rất khó mà nhả nó ra, rất nhiều người dù đã là 70, 80 tuổi rồi, đều còn chưa muốn rút lui.
Nền dân chủ ở Đài Loan được nâng làm gương cho Đại lục
Người lên mạng ở Đại lục có thể thông qua trang mạng mà xem cuộc tranh luận tranh cử Tổng thống của Đài Loan. Ông Hạ nhận định, số người vượt rào để xem sẽ từ từ tăng lên, những vẫn còn là số ít, giai cấp quyền lực thì thường không muốn xem hay không có thời gian để lên mạng. Ảnh hưởng nhiều hơn có thể là số thanh niên hay là một số người nằm ngoài lợi ích của tập thể, vì họ đang đóng vai những người tuyên truyền cổ động, và dần dần sẽ xẩy ra sự ảnh hưởng càng lớn hơn. Ông mong rằng các vị lãnh đạo các đảng phái ở Đài Loan, có thể rộng lượng hơn một ít nữa, có thể đưa ra những cuộc tranh biện càng có ý nghĩa hơn. Nếu như nền dân chủ ở Đài Loan có thể nâng cao thêm một chút nữa thì có thể gây được cái tác dụng làm gương càng tích cực hơn cho Đại lục.
Cải cách dân chủ ở Trung Quốc phải nhờ vào sức ép của dân chúng
Đối với viễn cảnh dân chủ hóa ở Đại lục, ông phê bình cuộc tuyển cử đại biểu nhân dân cơ sở ở Thượng Hải và Bắc Kinh rằng, Trung cộng đã áp dụng những thủ đoạn đàn áp và kiếm chuyện đối với những ứng viên tranh cử độc lập, những người có bối cảnh về thương nghiệp thì bị xét thuế, có bối cảnh văn nghệ thì bị xét về đời tư, có bối cảnh học giả thì bị xét về việc sao chép trộm, thậm chí còn phao tin đồn nhảm là người tranh cử có quan hệ mật thiết với những thế lực chống lại Trung Quốc ở Tây phương, dùng các loại thủ đoạn uy hiếp dụ dỗ để đánh phá từng người một. Ông nhấn mạnh, tự do thì xưa nay đều phải do sự tranh đấu mới có được, muốn đòi tự do từ Trung cộng là điều không thể có được, càng không thể có được nền dân chủ lập hiến. Ở Đại lục cần phải hình thành một áp lực lớn lao từ công dân và xã hội, để cưỡng bức chính quyền phải nhượng bộ.
Trí thức phải dẫn dắt quần chúng xã hội tiến lên phía trước
Ông Hạ chỉ ra rằng, ở Trung Quốc có nhiều hành động duy quyền (bảo vệ quyền lợi), mỗi người dân đều phải bảo vệ quyền lợi của chính mình, đó là cái cống hiến lớn nhất đối với tự do, đối với tương lai của Trung Quốc. Là một trí thức, phải có thể cổ động được sự tiến bộ của xã hội, phải dẫn dắt được quần chúng xã hội tiến lên phía trước. Mỗi người đều là xác thịt, cũng sẽ bị đau, bị chết, then chốt là phải làm người của chính mình, đừng nên chờ mong mọi người khác đều là anh hùng mà xông pha lên phía trước; nếu như mọi người đều lo sợ, thì sự lo sợ sẽ kéo dài ra, Trung Quốc sẽ bị kéo về phía sau; nếu như mọi người đều không sợ, thì sự lo sợ sẽ chấm dứt. Đây là một vấn đề thực tiễn, chỉ cần mình đã làm rồi thì sẽ có người khác thấy được.
Ngải Vị Vị tranh đấu và cổ động cuộc duy quyền đa dạng hóa
Ông khen ngợi nhà nghệ thuật Ngải Vị Vị, dùng thái độ đùa giỡn với đời để đối kháng với chính quyền cực quyền, ‘Thường dùng những cách thức không ngờ để mà chọc ghẹo bạn, làm khó bạn, để bạn không biết phải làm gì, không có cách gì để đối phó lại.’ Ví như Ngải Vị Vị tổ chức ‘vạn người ăn cua’ hay chụp hình lõa thể, những cách thức kháng nghị đa dạng, và được sự ủng hộ rộng rãi của dân chúng. Ông chỉ ra rằng, ý nghĩa hành động của Ngải Vị Vị có nghĩa là ở Đại lục Trung Quốc có thể dùng cách thức đấu tranh đa dạng, không nhất định là phải dùng hành động duy quyền, dùng giá trị của máu để mà đấu tranh, có thể dùng các loại nghệ thuật, nhẹ nhàng, khôi hài đen, những cách thức đó để đấu tranh.
Cực quyền Trung cộng sẽ có ngày bị diệt vong
Ông Hạ nêu ra rằng, năm tới Trung cộng sẽ tiến hành thay đổi 18 loại quyền lực lớn, và bây giờ đang tiến hành phong tỏa càng nghiêm ngặt hơn đối với Microsoft là vì chuyện ‘bịt miệng’, nhưng biện pháp phong tỏa lối thoát bực tức của dân chúng này cũng giống như cái nồi cao áp đã bị mất van giảm áp, khiến các nơi lại xẩy ra những cuộc tranh đấu tập thể, từ lúc xưa chỉ vài chục người, trên ngàn người, bây giờ đã đạt đến trên 10.000 người, hơn nữa lại từ thôn này chuyển sang thôn khác mà dùng cái chết để mà đấu tranh, kết quả cuối cùng sẽ khiến cho xung đột xã hội càng trở nên lan rộng hơn, kịch liệt hơn, và cũng sẽ đẩy nhanh việc diệt vong của chính quyền hơn. Ông nhận định rằng, sự thống trị bằng cực quyền cũng sẽ có một ngày bị diệt vong. Có lẽ cái sẽ lật đổ sự chuyên chính không phải là một chính đảng hay tổ chức nào, mà là kết quả của sự qui tụ mọi lực lượng với nhau. Bức tường Berlin cuối cùng bị phá sập không phải là do một người nào, mà do sự nỗ lực liên tục nhiều năm của mọi người.
Nguồn: Đại Kỉ nguyên Việt ngữ ngày 19-1-2012

Nho Giáo và văn minh phương Đông cùng âm mưu Hán hóa (Phần 2)

Xem lại: Phần 1

C. Mặc học với sự phê bình về Nho học
Mặc học do Mặc Tử sáng lập, ông là người phê bình học thuyết của Khổng Tử một cách gay gắt, từ quan niệm về đạo đức đến vấn đề xã hội. Đối với Nho học, Mặc Tử chống quan niệm về “Nhân”, phê phán về  “Lễ”, chê bai “Nhạc”,  phê bình thuyết “Thiên mệnh”, bài bác thuyết “Chính Danh”.

Ngược lại Mạnh Tử cũng chê bai Mặc Tử thậm tệ: “Nay thuyết của Dương Chu cùng Mặc Địch lan tràn thiên hạ... Họ Dương chủ trương vị kỷ, ấy là không có chúa; họ Mặc chủ trương kiêm ái, đó là không có cha; kẻ không chúa không cha, là loài cầm thú vậy”. Rồi Mạnh Tử cũng đã nói: “Đạo của Dương, Mặc mà không dứt, thì đạo của Khổng Tử không sáng tỏ được”.
Đối với vấn đề mưu sinh, ai cũng phải có ăn để mà sống, Mặc Tử và các môn sinh của ông chủ trương phải ra công sức lao động, để tự tạo lấy nhu cầu và phương tiện cho đời sống, cho mình và cho người, sống cần kiệm; nếu không muốn nói là khổ hạnh để mưu cầu hạnh phúc cho mình và tha nhân, thể hiện tinh thần vị tha (vì tha nhân). Trong khi đó các nhà Nho theo Khổng học thì không lao động để có thể tự mưu sinh, nhưng sống bằng bổng lộc được cung cấp bởi những kẻ lao động (nông, công, thương), gián tiếp qua các vua chúa (từ thuế). Họ dùng sản phẩm và phương tiện của kẻ lao động để cung phụng mình, nhiều khi còn đi đến sự bóc lột. Đây là sự xung khắc ngấm ngầm giữa hai học phái.
Về vấn đề xã hội, đã có nhiều học giả từ đông sang tây đã so sánh học thuyết “kiêm ái”, quan niệm “bình đẳng”, chống đối những sự gây hấn và chiến tranh, hy sinh cho người của Mặc Tử giống như tinh thần “bác ái”, “yêu người như mình” của Ki-tô giáo.
Tiểu sử:
Mặc Tử tên là Mặc Địch, người nước Lỗ (có thuyết nói ông là người nước Tống). Ông sinh cuối thời Xuân Thu, sau khi Khổng Tử mất khoảng 10 năm  (~490 - ~397 TCN)  và lớn lên thời Chiến Quốc. Mặc Địch xuất thân bần hàn, rất có năng khiếu về kỹ thuật, kiếm sống bằng nghề thủ công. Tương truyền ông là nhà phát minh ra cánh diều (kite). Lúc thiếu thời ông theo Nho học, nhưng không đồng ý với Nho học, ông chuyển qua tự học bằng cách đọc sách để nhận định và tìm hiểu về tư tưởng, học hỏi thêm kiến thức. Sự học của ông qua sử sách là sự chọn lọc những điều tinh túy, để có thể phân biệt được đâu là điều đúng, đâu là điều sai. Ước mong của ông là “làm lợi cho người và cho đời”. Với hoài bão này, ông đã cố truyền bá tư tưởng của mình. Học trò của ông cũng là những người lao động. Mặc Tử là người cổ võ hoà bình và chống đối chiến tranh một cách kịch liệt, ông đã đi qua các nước như Tống, Tề, Ngụy, Việt, Sở truyền bá tư tưởng “phi công” để củng cố hòa bình. Thời Chiến Quốc, chiến tranh càng dồn dập hơn thời Xuân Thu. Nước Tề chuẩn bị mang quân đánh chiếm nước Lỗ, Mặc Tử sang Tề và đã thuyết phục được vua Tề bỏ ý định này.
Một việc nổi tiếng về Mặc Tử được ghi lại qua sử sách là việc ông đã ngăn cản được một cuộc chiến giữa Sở và Tống.  Sở chuẩn bị đánh Tống, vì nghĩ là có Công Thâu Ban (Gongshu Ban 公輸班, cũng gọi là Lỗ Ban) đã chế được “thang mây” (vân thê) - một chiến cụ để tấn công thành. Mặc Tử từ nước Lỗ đi liên tục mười ngày đêm tới Ảnh Đô là kinh đô của Sở gặp Công Thâu Ban (CTB); để khuyên ông này bỏ ý định chế thang mây. CTB nói là ông đã nhận lời của Sở vương. Mặc Tử nhờ CTB dẫn ông tới gặp vua Sở là Sở Huệ vương để trình bày hơn thiệt. Mặc Tử nói với vua Sở với đại ý là Sở đất rộng, giàu có sao lại cố đánh chiếm Tống là nước nhỏ và nghèo, vua Sở vẫn không đổi ý, hơn nữa CTB cho là với thang mây thì nhất định sẽ hạ được thành dễ dàng. Mặc Tử nói với CTB: “Ông có cách đánh thành thì tôi có cách giữ thành”. Sau đó Mặc Tử cởi thắt lưng quây trên sàn giả làm thành, cùng với các vật dụng nhỏ bằng gỗ giả làm chiến cụ thủ thành. CTB công thành, Mặc Tử thủ thành. Sau 9 phương thức công thành của CTB, Mặc Tử đều có cách phòng thủ. CTB nói là còn một cách nữa để công thành nhưng không nói ra. Mặc Tử trả lời là cũng còn cách thủ thành nhưng không nói. Sở vương thấy lạ nên hỏi hai người đang nói gì? Mặc Tử trả lời là ý của CTB định giết mình thì Tống không còn cách thủ thành, rồi ông nói là trước khi sang Sở ông đã sai Cầm Hoạt Ly cùng với 300 đệ tử khác; mang các chiến cụ sang Tống để đề phòng khi quân Sở tấn công. Sở Huệ vương chứng kiến bản lĩnh phòng thủ của Mặc Tử và thấy là khó có thể thắng Tống nếu cuộc chiến xảy ra, nên bỏ ý định đánh Tống.
Mặc Tử đã ngăn chặn được cuộc chiến tranh Tống - Sở , hàng trăm ngàn sinh linh cũng như tài sản đã không bị tiêu tan. Chủ trương “phi công” đã được Mặc Tử mang chính mạng sống mình ra để thi hành.   
Chủ thuyết của Mặc Tử
Mặc Tử là người sáng lập ra Mặc học. Ông đưa ra học thuyết “kiêm ái và phi công” (兼 愛 非 攻, Kiêm : bao gồm, ái: yêu, phi: không, công: đánh, tấn công), không chiến tranh, chủ trương yêu thương hoà bình, mọi người đều bình đẳng, sống cần kiệm và phải làm việc để được no đủ. Ông chủ trương chủ nghĩa “thực nghiệm” để tạo phúc lợi cho người và cho đời.
Những tài liệu còn lại đến ngày nay cho hậu thế biết là đã có 71 thiên trong 15 quyển sách. Số phận của những thiên bị thất thoát có lẽ cũng do việc đốt sách của Tần Thủy Hoàng và kinh điển của Mặc học gần như bị đi vào quên lãng kể từ thời Tiền Hán, kho Nho giáo đi vào vị thế độc tôn. Ngày nay còn 53 thiên được lưu truyền.  
Mặc Tử tin vào thần linh, “ông rất tin Trời, tin quỷ thần (có lẽ cũng do ảnh hưởng của (nước) Tống), với ông Trời là đấng chúa tể, quản lãnh mọi việc trên thế gian, ai thuận ý Trời thì được thưởng, trái ý Trời thì bị phạt, mà muốn thuận ý Trời thì phải yêu khắp mọi người vì Trời muốn cho loài người được sung sướng”.
Mặc Tử chủ trương sống theo ý Trời, vì “ngã dĩ thử tri kỳ kiêm ái thiên hạ chi nhân dã” (vì biết là Trời thương yêu mọi người trong thiên hạ) và “khiết vi tư thịnh tửu lễ, dĩ kính tế tự Thượng Đế” (sửa soạn bánh rượu tinh khiết để hiến tế Thượng Đế) vì “Thả thiên chi ái bách tính dã” (Trời thương yêu mọi người). Ông cho là các kẻ sĩ  hay quân tử là là những người ước mong làm điều nghĩa hợp với lẽ Trời (“Kim thiên hạ chi sĩ quân tử dục vi nghĩa giả, tắc bất khả bất thuận thiên chi ý hỹ”).
Những câu được ghi lại từ môn sinh của Mặc Tử, từ 53 thiên trong sách của Mặc học, thấy có 25 lần đề cập đến chữ “Thượng Đế” (“上帝”), đặc biệt là trong thiên 26, 27, 28: “Thiên Chí” thượng, trung, hạ . Qua những điều đã viết trong ba thiên này, có lẽ ông tin có một đấng “Thượng Đế”, và Đấng này là nguồn của yêu thương, quyền năng và sự hiểu biết, mặc dù đây là cách diễn tả có vẻ khó hiểu của những người  trong “Mặc gia” 24 thế kỷ trước!
Về phương diện luận lý về quan niệm đạo đức cũng như chính trị, Mặc Tử đề ra phương pháp “tam biểu”: thứ nhất xét “gốc” của sự việc, sau đó xem cái “nguyên” có hợp với quyền lợi của mọi người, nếu thấy đúng thì “ứng dụng” vào việc cai trị.
   
Từ sự lý luận này, Mặc Tử chủ trương làm gì cũng phải nghĩ đến điều lợi lâu dài cho mọi người. Người dân phải cùng nhau nhận biết điều gì tốt cho họ, rồi ứng dụng, không cần phải theo những truyền thống cũ (ngược với quan điểm “hưng Chu” của Khổng học)
Phê bình Nho học
Sách của Mặc học dành riêng hai thiên 38 là “Phi Nho thượng” (thất lạc) và thiên 39 “Phi Nho hạ” để đả kích Nho học, dù các thiên khác cũng có nhiều sự bài bác.
Quan niệm về “Nhân”
Một cách đại cương thì chữ “nhân” của Khổng Tử là thương người. Khổng học chủ trương “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (đừng làm những gì mà mình không muốn điều người khác làm cho mình), tuy nhiên sự thương yêu này có tính cách giới hạn và giai cấp: “Khổng Tử khích lệ mối quan tâm cá biệt cho gia đình, thân tộc của mỗi người, gây nhiều thương tổn cho cảm giác phổ quát của loài người về thiện chí. Mặc Tử tuyên bố rằng lòng trung thành ưu tiên cho gia tộc - thân nhân: thân yêu người thân - là cội rễ của cái ác. Ông tìm cách thay thế nó bằng quan điểm xã hội hòa hợp dựa trên “kiêm ái: yêu hết thảy mọi người”, một học thuyết làm nảy sinh cảm giác thiết thực về phúc lợi của toàn thể xã hội” .
Quan điểm về “nhân” của Mặc học là “Ái nhân nhược ái kỳ thân” (yêu người như yêu mình), không kỳ thị, không phân biệt giai cấp hay phe nhóm. Ông còn đi xa hơn nữa “Vi bỉ giả , do vi kỷ dã” (vì người cũng như vì mình).
Quan niệm về “Lễ”
Quan niệm về “lễ” của Mặc Tử khác với Khổng Tử. Khổng Tử trọng “lễ”, ông rất chú trọng đến nghi thức trong các cuộc tế lễ. Tâm lý con người nói chung thì hầu hết ai cũng cho là mình quan trọng. Những nghi thức để chứng tỏ uy quyền của “thiên tử” đã được các Nho gia tận dụng. Điển hình là Thúc Tôn Thông và đám đệ tử. Họ đã làm Hán Cao Tổ thỏa mãn và Nho gia được trọng dụng. Trong khi đó Mặc học lại chống đối. Kẻ theo tâm lý chung của người đời đã thắng, “kẻ lội ngược dòng” sẽ bị đào thải, dù có thể đây là chân lý, nhưng những tư tưởng này đã  không được sự hỗ trợ của những kẻ có quyền hành, vì đụng chạm đến quyền lợi của họ. Mặc học đã suy tàn từ thời Tiền Hán.
Mặc Tử cho là Khổng Tử rườm rà về “lễ” chỉ gây nên sự tốn kém: “chư gia phí bất gia dân lợi giả , thánh vương phất vi”  (điều gì làm tốn kém cho dân, các bậc thánh vương không làm).
Về nghi lễ, Mặc Tử cho là Trời chẳng cần những lễ vật, mà Trời nhận sự hiến tế là tình thương yêu đồng loại “phù hề duyệt thuyết dĩ bất dục nhân chi tương ái tương lợi dã? Cố viết: “ái nhân lợi nhân giả, thiên tất phúc chi , ác nhân tặc nhân giả , thiên tất hoạ chi
   
Vấn đề tang lễ, Mặc Tử đồng ý tang lễ là điều nên làm “táng tuy hữu lễ, nhi ai vi bản yên” (an táng phải có lễ để khóc thương người qúa cố) nhưng giản dị. Ông cho là các Nho gia lười làm lụng chỉ lợi dụng tang lễ để kiếm ăn, trục lợi, nên ông đã mạt sát vấn đề này một cách thậm tệ: “Thả phu phồn sức lễ  nhạc dĩ dâm nhân, cửu táng ngụy ai dĩ mạn thân, lập mệnh hoãn bần nhi cảo hạo cư, bội bản khí sự nhi an đãi ngạo, tham vu ẩm thực, noạ vu tác vụ, hãm vu cơ hàn, nguy vu đống nỗi, vô dĩ vi chi..  phú nhân hữu táng, nãi đại thuyết, hỷ viết: “thử y thực chi đoan dã”.”
Quan niệm về “Nhạc”
Mặc học có nguyên ba thiên 32, 33, 34 là “Phi nhạc thượng, trung, hạ”, thiên 33, 34 đã thất lạc. Trong thiên 32, Mặc Tử nêu một số lý do là không nên có “nhạc”:
Các thánh vương không dùng nhạc, vì: “Nhạc” không làm lợi cho người dù “nhạc” làm con người thoải mái, nếu vậy dùng “nhạc” là không đúng: “Tuy thân tri kỳ an dã, khẩu tri kỳ cam dã, mục tri kỳ mỹ dã, nhĩ tri kỳ nhạc dã, nhiên thượng khảo chi bất trung thánh vương chi sự; hạ độ chi, bất trung vạn dân chi lợi. Thị cố tử Mặc Tử viết: “vi nhạc , phi dã!”.
Rồi “nhạc” làm tốn kém vì phải chế nhạc cụ, người dân lo về “nhạc” mà không sản xuất nhu yếu phẩm, ăn uống vui chơi quá độ v.v...
“Nhạc” theo quan niệm của Nho gia là cần phải có “nhạc” để dùng cho “lễ”. Mặc Tử theo chủ thuyết “thiết thực”, những điều gì không cần thiết cho con người mà cố gắng thi hành là sai trái. Có thể là khởi đầu thời Chiến Quốc, chiến tranh xảy ra liên miên, người chết nhiều, không đủ nhân sự để sản xuất các nhu yếu phẩm, đói kém thường xuyên, nên vấn đề này đã ảnh hưởng đến tư tưởng của Mặc học?
Vì thế Mặc Tử cố loại bỏ những điều gì không có tính cách thực nghiệm, “Tuân Tử chê ông là bị cái “dụng” che lấp mà không biết cái “văn vẻ”, không biết đến mỹ thuật. Nhưng theo Lưu Hướng trong sách Thuyết uyển, thì ông có nói với Cầm Tử đại ý rằng trong năm đói kém, lúa gạo quý hơn châu báu; “phải được thường ăn cho no rồi mới cầu cái ngon, phải được thường mặc ấm rồi mới cầu cái đẹp, phải được thường ở yên rồi mới cầu cái vui, như vậy mới lâu bền được, tóm lại là phải trong cái chất trước hết rồi mới đến cái văn, việc của thánh nhân là thế. Nếu lời đó đúng thì Mặc Tử không phải là chê hẳn mỹ thuật, mà chỉ cho nó là phụ thôi.
Quan niệm về “Thiên mệnh”
Khổng Tử cho rằng “Thiên mệnh” là số phận đã định đoạt sẵn và hướng dẫn hành động của từng cá nhân.
Mặc Tử không tán đồng quan niệm này, ông cho là nếu tin vào thiên mệnh thì còn nỗ lực để cải thiện cuộc sống làm gì? Niềm tin này chỉ làm con người lười biếng không chịu tìm kiếm những điều tốt hơn!
Mặc học có 3 thiên 35, 36, 37 là “Phi mệnh thượng, trung, hạ” để bài bác quan niệm về “mệnh” của Khổng học, những thiên này vẫn còn được lưu truyền.
Khổng học quan niệm là con người có số mạng
Luận Ngữ “Nghiêu viết đệ nhị thập chi tam”: “Tử viết:  bất tri mệnh, vô dĩ vi quân Tử dã” (Không biết mệnh không phải là kẻ quân tử).
Luận Ngữ  “Nhan Uyên đệ thập nhị”:  "tử sinh hữu mệnh, phú quí tại thiên" (Sống chết do mệnh, giàu sang do mệnh).
Luận ngữ “Hiến vấn đệ thập tứ - chi tam bát”: "Đạo chi tương hành dã dự, mệnh dã, đạo chi tương phế dự dã, mệnh dã,…”  (Cũng là hành đạo, nhưng đạo của ông (Tử Lộ) nếu như đem ra thi hành thì chính là trong mệnh đã định, đạo nếu như thất bại, thì trong mệnh đã vốn có sẵn. "
Một cách đại cương là Khổng học rất tin tưởng vào số mệnh.
Mặc Tử phản đối quan niệm về “mệnh”
Ông cho rằng quan niệm này không tốt lành gì, vì không thể biện minh là có “mệnh” hay không? “Cố đương chấp hữu mệnh giả chi ngôn , bất khả bất minh biện
Vì thế Mặc Tử đưa ra cách để khảo sát:
“ Cố ngôn tất hữu tam biểu. Hà vị tam biểu? Tử  Mặc Tử  ngôn viết: “hữu bản chi giả , hữu nguyên chi giả , hữu dụng chi giả . Ư hà bản chi?
Đây là cách lý luận “tam biểu” (đã nêu lên trong phần trước) là tìm hiểu về cái “gốc”, rồi cái “nguyên” sau đó là “ứng dụng”
Sau khi áp dụng nguyên tắc “tam biểu” để biện luận, Mặc Tử cho là nếu con người tin vào “mệnh” thì sẽ sinh ra lười biếng, không đủ ăn đủ mặc, rồi tới cảnh nước mất nhà tan cũng đều cho đó là số mạng của họ.
Mặc Tử đi đến kết luận : “Thị cố tử Mặc Tử ngôn viết: “kim thiên hạ chi sĩ quân tử, trung thực dục thiên hạ chi phú nhi ác kỳ bần , dục thiên hạ chi trị nhi ác kỳ loạn , chấp hữu mệnh giả chi ngôn, bất khả bất phi, thử thiên hạ chi đại hại dã.” (Mặc Tử nói: nay người quân tử trong thiên hạ muốn mọi người giàu có, không muốn họ nghèo, muốn thiên hạ như thế (tin vào “mệnh”) thì sẽ sinh loạn, quan niệm về “mệnh” nên loại bỏ, vì quan niệm này là tai họa cho thiên hạ).
Tại sao Mặc Tử cho rằng sự tin vào số mệnh là tai họa của thiên hạ? Vì ông cho rằng nó là nguyên nhân gây ra sự nghèo túng:
Quần lại tín chi, tắc đãi ư phận chức; thứ nhân tín chi, tắc đãi ư tòng sự. Lại bất trị tắc loạn, nông sự hoãn tắc bần, bần thả loạn chính chi bản, nhi Nho giả dĩ Đạo giáo, thị tặc thiên hạ chi nhân giả dã”. (Quan lại tin vào điều này (“mệnh”) sẽ không thi hành nhiệm vụ, thứ dân tin vào điều này sẽ bỏ bê công việc. Quan lại không lo trị an sẽ sinh loạn, nhà nông biếng trễ sẽ sinh nghèo, chính cái nghèo sinh ra loạn lạc, các Nho gia dạy điều này như Đạo học thì loạn là phải rồi!).
Tóm lại Mặc học bài bác Nho học cực kỳ gay gắt, đã vạch ra từng điểm để phê bình trong 53 thiên của sách Mặc học. Hai quan niệm Nho học và Mặc học không thể đứng chung! Lịch sử đã nói lên điều này. Nho học có quan niệm hợp với quyền lợi, sự tự tôn của những kẻ có quyền hành - các vua chúa, nên Nho học đã được họ cổ võ triệt để. Mặc học có quan niệm ngược với đặc quyền của họ, nên bị trôi vào quên lãng gần như hoàn toàn thời Hán Vũ Đế, có chăng chỉ là những lưu trữ trong các sách được cất dấu.
D. Nhận xét về Khổng Tử qua “Khổng Tử Thế Gia” (Sử Ký)
Sử gia thời Tiền Hán là Tư Mã Thiên (145 TCN - 86 TCN) đã dành riêng một thiên khá dài so với các thiên khác trong sách Sử Ký để viết về Khổng Tử.
Đoạn cuối cùng của “Khổng Tử Thế Gia” (bản dịch của Phan Ngọc) viết như sau:
 “Thái Sử Công (Thái Sử Công là danh xưng về chức vụ của Tư Mã Thiên) nói: Trong thiên hạ các vua chúa và người tài giỏi rất nhiều, khi sống thì vinh hiển, nhưng lúc chết là hết. Khổng Tử là một người áo vải thế mà truyền hơn mười đời, các học giả đều tôn làm thầy, từ thiên tử tới vương hầu ở Trung Quốc hễ nói đến lục nghệ đều lấy Khổng Tử làm tiêu chuẩn. Có thể gọi là bậc chí Thánh vậy.  
Kết luận là như thế, tuy nhiên phần nội dung ông đã viết về Khổng Tử như thế nào? Hậu thế xin tìm hiểu:
1- Lời của tể tướng Án Anh nước Tề:
 “Bọn nhà nho chỉ là kẻ ba hoa mà không thể noi gương theo họ được. Họ  kiêu ngạo, tự cho mình là phải nên không thể để cho họ làm tôi. Họ chú trọng việc chôn cất, thương xót, làm mất gia sản  để chôn cất cho được đầy đủ, không thể cho điều đó thành phong tục. Họ đi du thuyết hết nơi này đến nơi khác  để kiếm ăn , không thể cho họ trị nước được.”  
Dù đây là lời của Án Anh (cùng thời với Khổng Tử), nhưng được ghi lại trong “Khổng Tử Thế Gia”, hậu thế sẽ nghĩ sao về Khổng Tử với sự phê bình của người nổi tiếng về sự đứng đắn và  sống cùng thời.
2-Sự phán đoán của Khổng Tử:
Khổng Tử nổi tiếng là người hiểu biết khi còn sống, tuy nhiên sự phán đoán của ông như sau:

Khi nước Ngô đánh nước Việt, phá hủy Cối Kê, có lấy được  một cái xương, chở đầy một xe. Vua Ngô sai sứ giả hỏi Trọng Ni: Tại sao xương lại lớn như vậy?

Trọng Ni nói: Vua Hạ Vũ triệu tập những người làm chủ núi sông ở núi Cối Kê. Phòng Phong đến sau bị vua Vũ giết phơi thây, mỗi cái xương của ông ta chở đầy một xe. Xương này là của Phòng Phong cho nên lớn như vậy.”  
Luận Ngữ  “Vi chính đệ nhị - chi thập thất”: “...Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã”  . (Biết thì nhận là biết, không biết thì nhận là không biết, đó là biết vậy).
Mỗi cái xương người đầy một xe!? Có lẽ tình cờ khai quật được xương khủng long mới lớn đến như vậy! Khổng Tử không biết về vấn đề này và nói bừa đây là xương ông Phòng Phong. Qua câu nói  của Khổng Tử từ đoạn văn trên , chúng ta thấy có những vấn đề nên bàn luận:
Câu hỏi được đặt ra:  
- Khổng Tử không biết gì nguốn gốc, xuất xứ của hiện vật tìm thấy và  nói bừa?
- Chứng tỏ sự hiểu biết của mình, dù biết rằng mình hoàn toàn không biết gì về hiện vật =>  Kiêu căng?
- Không biết mà nói biết là  lừa dối?
-  “Nói một đàng, làm một nẻo!”? Không biết nói là biết (Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã)?
3- Khi Khổng Tử làm tướng quốc tại Lỗ:
“Năm thứ 14 đời Định công, Khổng Tử 56 tuổi, rời chức tư khấu,  quyền giữ chức tướng quốc . Thấy  Khổng Tử có vẻ mừng rỡ,   một người học trò nói: Tôi nghe thầy nói: "Người quân tử khi tai họa đến thì không sợ, khi phúc đến thì không mừng".

Khổng Tử nói: Câu nói ấy cũng có đấy. Nhưng chẳng có câu: "Vui vì ở địa vị cao quý mà khiêm tốn đối với mọi người" hay sao?”  
Câu hỏi được đặt ra:  
- Ở địa vị “cao quý?”, coi thường người khác, cao ngạo và không khiêm tốn với địa vị của mình? 
- Kiêu căng và kỳ thị về giai cấp?
- Khổng tử mê công danh? Vui mừng khi được trọng dụng? Học trò ông đã đặt câu hỏi về việc này!
- Khổng Tử  ngụy biện  cho sự kiêu căng  và kỳ thị giai cấp?
- Khổng Tử lừa dối mình và lừa dối học trò?
4- Khổng Tử từ quan
 “Vua Tề bèn sai chọn tám mươi người con gái đẹp ở trong nước Tề... Vua Lỗ bỏ chính sự... Cuối cùng, Quý Hoàn Tử nhận nữ nhạc của Tề, ba ngày không nghe việc chính sự. Khi làm lễ tế giao cũng không đưa thịt tế đến cho các quan đại phu. Khổng Tử bèn ra đi.”.  
Khổng Tử từ quan vì không được vua cho thịt tế?
Hay vì việc vua Lỗ và Quý Hoàn Tử   “không nghe việc chính sự” ?
Đã có ý kiến khác nhau về vấn đề này. Nho gia thì cho là Khổng Tử bỏ đi vì vua Lỗ mê nữ sắc, không màng đế chính sự nên ông từ quan và bỏ đi. Người phê phán Khổng Tử thì cho rằng ông bỏ đi vì không được chia thịt nên xấu hổ, vì miếng thịt mà từ quan thì đây là cách hành xử không ra gì.
Khi làm tướng quốc, Khổng Tử đã giúp nước Lỗ cũng như dân chúng có được cảnh an cư lạc nghiệp:
 “Sau khi tham dự chính quyền trong nước ba tháng, những người bán cừu bán lợn không dám bán thách, con trai con gái ở trên đường đi theo hai phía khác nhau, trên đường không nhặt của rơi. Những người khách ở bốn phương đến thành ấp không cần phải nhờ đến các quan, bởi vì người ta đều xem họ như người trong nhà.”  
Nếu vua Lỗ và Quý Hoàn Tử bỏ bê chính sự thì dân Lỗ càng cần ông hơn nữa. Khổng Tử lại bỏ đi! Hai lý do đã nêu đều khó được chấp nhận!
Câu hỏi được đặt ra:  
- Có phải Khổng Tử  vị kỷ, chỉ nghĩ về mình mà không nghĩ đến người dân?
- Đây có phải là hành động của “thánh nhân”?
5- Khổng Tử  là “văn” và “đức”?
 “Khổng Tử nói: Sau khi Văn vương chết đi cái "văn" không phải ở ta hay sao? Nếu trời muốn làm mất cái "văn" ấy đi thì ta là người sinh sau đã không được biết đến nó. Vì trời chưa muốn mất cái "văn" ấy thì người đất Khuông làm gì đựoc ta?
Khổng Tử nói: Trời sinh đức ở ta, Hoàn Khôi làm gì được ta?”
“Văn” cũng ở Khổng Tử, “đức” cũng ở Khổng Tử. “Văn” mà mất thì đời sau không có văn?
Câu hỏi được đặt ra:  
Khổng tử có kiêu ngạo quá hay không?
6-Khổng Tử bội thề!
 “Khổng Tử bèn rời khỏi đất Trần, đi qua đất Bồ. Vừa lúc ấy họ Công Thúc cầm đầu người đất Bồ nổi loạn. Người đất Bồ giữ Khổng Tử lại. Trong số học trò của Khổng Tử có Công Lương Nhụ đem năm cỗ xe của mình đi theo Khổng Tử. Ông ta là người đứng tuổi, tài giỏi, có sức mạnh. Ông ta nói: Xưa kia con theo thầy gặp nạn ở đất Khuông, nay gặp nạn ở đây, đó là mệnh! Con lại cùng thầy gặp nạn, con quyết chiến đấu mà chết.
Ông chiến đấu rất hăng. Người đất Bồ sợ hãi, bảo Khổng Tử: Nếu ông không đến nước Vệ thì chúng tôi sẽ cho ông đi.
Khổng tử cùng họ ăn thề. Họ cho Khổng Tử đi ra phía cửa đông. Khổng Tử liền đến đất Vệ.
Tử Cống hỏi: Có thể phụ lời thề được sao?   
Khổng Tử nói: Đó là vì ta  bắt buộc phải thề cho nên quỷ thần không nghe”  
Phần đầu trong thiên này cũng đã viết: “Khổng Tử dạy bốn điều: văn học, đức hạnh, trung thành,  tín nghĩa”.
Sách Luận Ngữ, “Vi chính đệ nhị (2-21): “Tử viết: Nhân nhi vô tín, bất tri kỳ khả dã,...” (Khổng tử nói: Kẻ mà không đáng tin, không biết có làm được điều gì tốt...?)
Qua đoạn văn này chúng ta thấy Khổng Tử mới vừa thề thốt xong đã nuốt lời thề. Đến độ học trò của ông là Tử  Cống phải hỏi: “Có thể phụ lời thề được sao?”. Rồi để biện luận cho hành động của mình, Khổng Tử nói là bị bắt buộc nên làm thế!
Câu hỏi được đặt ra:  
- Khổng Tử là kẻ bất tín? Tệ hơn nữa là bội lời thề?
- Lừa dối?
- Ngụy biện?
- Khổng Tử là một kẻ không đáng tin: “Nói một đàng làm một nẻo?”
7- Mặc Tử chê bai Khổng Tử
Sách Mặc học cũng viết về hành động này của Khổng Tử với sự chê bai thậm tệ , so sánh với những gì ông làm khi ông được Lỗ Ai Công đón tiếp:
Mặc Tử, thiên 39 “Phi Nho hạ đệ tam thập cửu” (tạm phiên dịch):
Khổng Tử bị khốn cùng ở biên giới hai nước Thái - Trần, sau 10 ngày chỉ ăn cháo rau không có gạo, Tử Lộ dâng cho ông thịt heo, Khổng Tử không hỏi thịt từ đâu mà có để ăn, Tử Lộ đổi áo lấy rượu, Khổng Tử cũng không hỏi ở đâu có rượu mà uống. Khi (Lỗ) Ai Công đón Khổng Tử thì chiếu trải không ngay ngắn ông không ngồi, thức ăn cắt không đúng khuôn phép thì không ăn. Tử Lộ đến hỏi: “Sao thày lại làm ngược với những gì thầy đã làm ở (biên giới) nước Trần - Thái?” Khổng Tử trả lời: “Này, ta nói cho anh biết, trước đó làm thế vì phải sống, nay làm là vì nghĩa”. Thật là nói càn thế nào cũng được, đúng là kẻ lật lọng, khi đầy đủ thì cứ thả cửa mà xuyên tạc, còn trò gian trá thấp hèn nào lớn bằng!”  
------
Sau khi đọc qua nội dung của “Khổng Tử Thế Gia”, dưới ngòi bút của Tư Mã Thiên chúng ta thấy ông đã diễn tả cuộc sống của Khổng Tử một cách rất linh động. Khổng Tử có tài, đặc biệt là về giáo dục, ông đã có công đưa vị trí của sự giáo dục lên cao, khi làm quan cũng đã thành công. Trong nội dung; Tư Mã Thiên đã nêu ra những cách hành xử của Khổng Tử, nhưng không đưa ra những phán đoán.  Có lẽ  ông muốn để cho hậu thế xét đoán? Tuy nhiên có một điều là qua những diễn tả của ông, Khổng Tử có phải là một người có nhân cách đáng phục hay không? Chưa dám nói đến “bậc thánh” hay cao hơn nữa là “bậc chí thánh”.  
Câu hỏi đặt ra là gần như có sự  mâu thuẫn trong phần kết luận với câu nói của Thái Sử Công. Để trả lời cho câu hỏi này, người viết chỉ có thể  phỏng đoán là Tư Mã Thiên muốn “qua mặt” Hán Vũ Đế, để lưu lại cho hậu thế biết Khổng Tử như thế nào! Hán Vũ Đế vì tình cảm riêng nên đã xử cung hình Tư Mã Thiên (trích trong “Lời giới thiệu”cuả sách Sử Ký của dịch giả Nhữ Thành):
“Năm 99 trước Công Nguyên, Vũ Đế sai Lý Quảng Lợi cầm ba vạn quân đánh Hung Nô. Bấy giờ Lý Lăng, cháu của danh tướng Lý Quảng, cầm năm ngàn quân vào biên giới Hung Nô. Bị tám vạn quân Hung Nô bao vây. Lăng chỉ huy cuộc chiến đấu suốt mười ngày liền, giết hơn vạn quân địch. Nhưng cuối cùng vì cách xa biên giới, bị chặn mất đường về, quân sĩ chết hầu hết, mệt mỏi không còn sức chiến đấu, Lăng phải đầu hàng. Vũ Đế nổi giận muốn giết cả nhà Lăng, quần thần đều hùa theo ý nhà vua.”  
Tư Mã Thiên biện hộ cho Lý Lăng, “không ngờ Vũ Đế càng giận, cho ông cố ý đề cao Lăng để chê Lý Quảng Lợi nhút nhát không lập nên công lao gì, mà Quảng Lợi lại là anh của Lý phu nhân rất được nhà vua yêu quý. Vũ Đế bèn sai bắt giam Tư Mã Thiên giao cho Đỗ Chu xét xử... cuối cùng bị khép vào tội “coi thường nhà vua”, và bị thiến! Đã mấy lần uất ức quá, ông nghĩ đến việc tự vẫn. 
Cái ấn tượng nhục nhã, cô độc theo dõi ông cho đến khi chết. Mỗi khi nghĩ đến cái nhục bị hình phạt, mồ hôi vẫn cứ đầm lưng ướt áo! Nhưng ông không vì thế mà chán nản. Trái lại, ông càng tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống. Ông thấy rõ hình phạt đó là một thử thách đối với những “người trác việc phi thường”. Ông càng thấy cần phải viết “cho hả điều căm giận”. Và chính cái hình phạt nhục nhã ấy đã làm cho ông hiểu rõ cái mặt trái của xã hội phong kiến và dũng cảm đứng về phía nhân dân.”  
Thúc Tôn Thông đã lợi dụng “lễ” của Nho học để đưa các Nho gia vào hệ thống cai trị. Đổng Trọng Thư đã dâng kiến nghị để Hán Vũ Đế nâng Nho học lên hàng “Quốc giáo”. Tư Mã Thiên là kẻ ngay thẳng đã trở thành nạn nhân của nền phong kiến với tư tưởng thống trị của Nho giáo. Vì thế người viết  phỏng đoán  là ông đã nêu lên vấn đề một cách ngấm ngầm, nâng Khổng Tử lên hàng “chí thánh” một cách “vu vơ” để chiều lòng và “qua mặt” Hán Vũ Đế, hầu mong những gì ông viết được được phổ biến cho hậu thế biết để tránh hay thay đổi. 

E- Ảnh hưởng của Nho học tới văn hoá và văn minh phương Đông
Ghi chú: Mặc dù dùng chữ  “phương Đông”; tuy nhiên chỉ xin nhấn mạnh đến hai nước Trung Hoa và Việt Nam.
Học thuyết nào cũng có điều hay, điều dở, tuy nhiên dù sao đi nữa một học thuyết có thể được phát triển hay không còn tùy thuộc vào thời đại, dân trí, hoàn cảnh và nền văn minh, nhưng yếu tố quan trọng nhất là thể chế chính trị của xã hội đó. Chủ thuyết Cộng Sản là một thí dụ điển hình, nổi lên ở Âu châu, lan truyền sang Á châu rồi bắt đầu tàn lụi Âu châu, trong khi Á châu vẫn còn vướng víu.
Thời Xuân Thu rồi Chiến Quốc là thời đại loạn trong xã hội vùng trung nguyên. Một xã hội ổn định là điều ước mơ của người dân. Đã có những người nêu lên tư tưởng phản ảnh với tình trạng này, kẻ thì chủ trương rút lui, né tránh, người thì cố tìm đường hướng để giải quyết và mang lại trật tự. Nhiều trường phái tư tưởng bộc phát, Nho học của Khồng Tử khởi đầu cho hiện tượng “Bách gia chư tử” ra đời. Tuy nhiên Nho học cũng không ngoại lệ, muốn truyền bá thì phải được thể chế chính trị làm hậu thuẫn. Nho học đã ở vị trí độc tôn khi Trung Hoa có một thể chế chính trị vững vàng và trải dài đến cận đại. Tìm hiểu về ảnh hưởng của Nho học, chúng ta có thể thấy được nền văn hóa đó như thế nào. Từ đây, ta có thể suy ra được nền văn minh của xã hội đó. Tuy nhiên, văn minh góp phần thay đổi văn hóa và có tính cách hỗ tương lẫn nhau. Nho học ảnh hưởng như thế nào đến văn hóa Trung Hoa và Việt Nam?
Người viết không phải là người tìm hiểu hay nghiên cứu về Nho học, chỉ tham khảo những nhận định từ lời bình phẩm của những nhà Nho thời cận đại và các tác giả đương thời, để có một cái nhìn tổng quát liên quan đến Nho Giáo và văn minh phương đông, hầu có thể đưa ra một kết luận hợp lý cho đề tài này.
Sự phê bình Nho học của cựu Nho gia Phan Khôi
Trong sách “Cái ảnh hưởng của Khổng giáo ở nước ta” của học giả Phan Khôi (PK), một người từ “Cửa Khổng sân Trình” đã thấy “Cái học nhà Nho đã hỏng rồi. Mười người đi học, chín người thôi” đưa ra những nhận định như sau:
“Cái đạo của ngài chẳng những không hợp thời, không dụng được trong thời nay, mà lại, những chỗ không hợp thời ấy, những chỗ không dụng được ấy, nếu còn vướng víu trong óc chúng ta, là kẻ cần phải kiếm cách “sanh hoạt mới” ở đời này, thì cũng còn là không lợi cho ta vậy.” (PK)
“Tam cương” (Quân thần, phụ tử, phu phụ): được đặt ra trong thời Hán do chủ trương của Đổng Trọng Thư, vì “nhà nho cũng nhờ quân quyền mà được mạnh. Nghề thế, chén tạc phải có chén thù, nhà nho mới càng bợ đỡ quân quyền cho mạnh thêm lên... tam cang là cái thuyết của Hán nho nịnh nhà vua mà đặt ra vậy.” (PK). Tại miền nam Việt Nam; “Tam cương” còn đi xa hơn nữa với câu truyền tụng là “Quân sử thần tử, thần bất tử, bất trung; phụ sử tử vong, tử bất vong, bất hiếu”, tuy nhiên cụ Phan Khôi đã giải thích như sau: “Nhiều người đem hỏi tôi, tôi phải lấy làm lạ. Hoặc giả có, mà tôi lâu nay ít hay ôn nhuần lại sách cũ rồi quên đi chăng, chớ theo như cái trí nhớ trong đầu tôi, thì câu nầy chẳng có trong sách nào hết, chẳng ông thánh nào nói hết, mà chừng như là lời của Lê Tử Trình nói trong tuồng Sơn hậu hồi thứ ba !”.(PK)
Khổng học theo như cụ Phan Khôi đã “không hợp thời”, Tống Nho thì càng xa hơn nữa với chữ “Tam Cương”: “Tống nho về luân lý là trái nhau với Khổng Tử, họ không thèm ké né chút nào hết, cứ trợn mắt phùng mang mà đè nén kẻ bề dưới (tôi, con, vợ) và ra mặt bợ đỡ kẻ bề trên (vua, cha, chồng).
Ông cũng cho rằng  cho rằng nền Nho học ảnh hưởng tới Việt Nam là Tống nho và “các học thuyết của họ dễ làm cho người ta trở nên hiền lành yếu đuối, lợi cho sự cai trị, nên từ đó về sau, Tàu cũng vậy, ta cũng vậy, các nhà vua đều tôn chuộng Tống nho và bắt thần dân mình phải học theo sách vở của họ đã làm ra hoặc đã chú thích”.
Từ khi giành lại được độc lập, Phật giáo ảnh hưởng đến Việt Nam đến hết đời Trần. Sau đó Việt Nam bị dưới ách Minh thuộc 20 năm (1407-1427). Nhà Minh lúc này vẫn bị ảnh hưởng bởi Tống Nho, dù thời gian bị trị ngắn ngủi nhưng tàn bạo, Tống Nho đã gây ảnh hưởng nặng đến dân Việt qua hệ thống cai trị. Ông Lê Lợi và những người cùng chí hướng đã đánh đuổi quân Minh dựng nên nhà Hậu Lê, triều đại này “bắt kẻ học trong nước phải học theo sách họ Khổng mà Tống nho đã dọn lại và chú thích... thế lực của Tống nho trở lại mạnh hơn Khổng Tử; và người An Nam mình, tiếng rằng theo đạo Khổng, chớ kỳ thật là theo đạo Tống nho vậy!” (PK). Mà Tống Nho là cái học từ chương, học chỉ để làm quan, không tăng trưởng về kiến thức, không phát triển óc sáng tạo, “ở trong vòng học vấn nô lệ thì khó mà kiếm ra được cái óc tự chủ !” (PK). PK đã viết lại câu của Tây Hồ Phan Chu Trinh: “Cái học thuyết của Tống nho là học thuyết vong quốc” .
Nho học đã gây ảnh hưởng ra sao đến nền văn hóa phương Đông?
Có phải Nho giáo đã tạo ra nền:
1. Văn hóa lừa dối

Khổng Tử là “giáo chủ” Nho giáo đã dạy chữ “tín”, nhưng ông là người đã làm ngược lại điều ông dạy: phản bội lời thề ở đất Bồ và những điều đã nêu trong phần trước. Từ  những hành vi này; kẻ hậu thế này thấy ông là kẻ bất tín đã thế còn ngụy biện cho hành vi của mình, và “nói một đàng làm một nẻo”,  đây là một sự lừa dối rõ ràng của “vạn thế sư biểu” về gian trá.
Khổng Tử đã có công làm cho nền giáo dục phát triển, nhưng sự phát triển này ẩn tàng một sự dối trá, một nền giáo dục gian trá đưa đến một nền văn hóa lừa đảo. Kết quả là một đám nhà Nho nịnh hót để kiếm địa vị và bổng lộc ra đời, được nở rộ từ thời Tiền Hán và kéo dài đến hơn hai ngàn năm sau. Chữ “lễ” đã được tận dụng để vẽ ra những chuyện không có thật để tâng bốc, chữ “nhân, nghĩa” làm bình phong cho những âm mưu lừa dối hiểm độc, để mang lợi cho cá nhân hay dòng họ.
Những mưu mô lừa đảo được tôn vinh, càng lừa hay càng được thán phục. Trần Thắng với trò lừa viết chữ “Trần Thắng vương” vào lụa, nhét vào bụng cá vừa mới bắt được; khi mổ bụng thấy “điềm trời”, để hô hào dân chúng nổi dậy chống Tần, rồi trò lừa “người đá một mắt” thời Nguyên đã là một yếu tố dựng nên nhà Minh. Cũng trò lừa đảo tương tự, Nguyễn Trãi với mật hay mỡ viết vào là câu “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần” để kiến ăn thả xuống sông suối. Dùng sự lừa đảo cho một mục đích cao thượng là điều tốt, nhưng từ từ sự lừa đảo trở thành quán tính và nằm trong tâm tưởng của con người như một mục đích để noi theo. Khổng Minh trong “Tam Quốc Chí diễn nghĩa” với những trò lừa đi lừa lại; đã được nâng lên thành biểu tượng về sự trí tuệ của Trung Hoa. Ngày nay những trò gian trá đưa đến sự lợi lộc là “đỉnh cao trí tuệ”.
Nhân loại ở đâu cũng có sự gian trá, tuy nhiên lừa dối trở thành một kế sách cho hành động để đạt mục đích thì Trung Hoa và Việt Nam ngày nay đã “vượt chỉ tiêu” so với các dân tộc khác. Sự gian dối đi vào máu và óc, đã tạo nên một nền “văn hóa đểu”. Văn hoá lừa dối này ảnh hưởng đến văn minh, văn minh đã tạo nên những sản phẩm “đểu” cho đời sống trên rất nhiều bình diện. Chúng ta có thể kiểm chứng rất dễ dàng qua mạng lưới toàn cầu ngày nay; qua những việc tẩy chay các sản phẩm giả và độc hại từ Trung Quốc.  
Chữ “tín” trong Nho học đã được “vạn thế sư biểu” viết thành chữ “trá”  ngay từ đầu! Gian trá đã là một yếu tố truyền kiếp của văn hóa phương Đông???
2. Văn hóa của “đàn cừu”
Khởi đầu, nền giáo dục của Nho giáo đã tạo nên giai cấp kẽ sĩ, những kẻ làm quan, xưng danh là “quân tử”, vâng lệnh vua chúa để cai trị, đám dân đen bị kẻ sĩ đặt là “tiểu nhân” (những người không có địa vị trong xã hội). Dần dà chữ “tiểu nhân”  được dùng để chỉ người hèn hạ, “quân tử” chỉ những kẻ có đức hạnh cao thượng.
Người làm quan -  Kẻ sĩ  - phải là những người thông hiểu về Nho học, tuy nhiên học “thuật” này có chủ yếu ngầm là “tôn quân”. Kẻ sĩ dùng Nho học để biện hộ cho cái gọi là “chính nghĩa” của nền quân chủ chuyên chế, cũng như cái gọi là “đạo đức” của kẻ sĩ là phải “trung quân” một cách tuyệt đối, “Thần sự quân dĩ trung” (Bề tôi phải phục vụ vua hết lòng - Sách Luận Ngữ, “Bát dật đệ tam (3-19) ). Họ đã tự chế chiếc gông “tam cương” với ổ khoá “quân thần” khó mở để đeo vào cổ, ngoại trừ nổi loạn.  Kẻ sĩ đã tự tạo cho mình một kiếp nô lệ cho vua chúa, làm quan thì phải tập quì cho hai đầu gối chai cứng, cái lưng phải mềm dễ cong, để có được bổng lộc. Vua bảo sao cũng phải tuân hành, họ đã trở thành những con cừu ngoan, và khi nhà vua muốn làm thịt con nàothì con đó phải chịu. Đã như  thế  mà Nho gia còn tự vinh danh “sĩ, nông, công, thương”, nâng địa vị “sĩ” lên hàng đầu. Học để thi đậu rồi được làm quan là mục đích của sĩ tử.
Cựu Nho gia Phan Khôi có nhận xét như sau: “Khổng giáo đã thiệt tình lấy sự làm quan làm một cái chủ nghĩa. Mà hình như chính đức Khổng Tử cũng đã đem cả đời mình hy sanh cho cái chủ nghĩa đó,... cả đời đức Khổng Tử chỉ châu du các nước chư hầu để kiếm một cái địa vị làm quan.”.  Khổng Tử đã phải chạy đi chạy lại “long tóc gáy” để kiếm một “chỗ để quì” với chiêu bài “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, không tìm được chỗ nào, đành về lại nước Lỗ dạy học viết sách nuôi thân và gia đình, một cách đi ẩn. Thầy như thế thì môn sinh học theo, đời này kế tiếp đời kia. Một nền giáo dục vị kỷ, sự học không phải để làm cho dân giàu nước mạnh, mà chỉ để kiếm bổng lộc, để “vinh thân phì gia”, để kiếm một chỗ đứng của con cừu trong bầy cừu.  Rồi khi đạt được địa vị, “bề trên” bảo sao nghe vậy thì làm gì có được đầu óc sáng tạo! Cả hai xã hội Trung Hoa và Việt Nam qua các thời đại không thấy có được một tổ chức nào gọi là “viện nghiên cứu”; có khả năng làm cho cuộc sống của người dân tốt hơn, có chăng chỉ một vài cá nhân đếm trên đầu ngón tay. Tuy nhiên những sáng kiến hay những tư tưởng mới này được áp dụng hay không lại là chuyện khác, tùy “kẻ chăn cừu”. Sáng kiến, đường hướng mới để  làm tốt hơn không có; thì văn minh sẽ đứng tại chỗ hay tệ hơn nữa là lụn bại! Đến khi phải đối diện với một nền văn hóa xa xôi kèm theo cái văn minh trấn áp của những “đàn sói” mới biết sáng mắt ra thì đã muộn: mất nước!
3. Văn hóa kỳ thị
Nho học dạy môn sinh trở  thành một kẻ trung quân tuyệt đối, đó là đối với “bề trên”, các bậc vua chúa, những kẻ ban bổng lộc. Nho gia tự biến họ thành những kẻ thừa hành ngoan ngoãn , tệ hơn nữa là trở thành những công cụ để vua chúa xử dụng, muốn thì dùng, không thì vất bỏ. Nhưng đối với “kẻ dưới” - đám thường dân trong xã hội, hay “tiểu nhân” theo nghĩa nguyên thủy – thì kẻ sĩ lại ra vẻ ta đây “quân tử”, coi thường người dân, khinh thường nữ giới, người không cùng Hán tộc thì gọi là Man, Di, Địch và tìm trăm phương ngàn kế để tiêu diệt, với chủ trương “Hưng Chu diệt di”!
a-Kỳ thị đẳng cấp.
Về đẳng cấp xã hội, Khổng Tử  đã nói nhiều về “quân tử” và “tiểu nhân” trong sách Luận Ngữ, mạt sát “tiểu nhân” không tiếc lời, đề cao “quân tử” không mỏi miệng.
Ông Trần Trọng Kim (TTK) trong bài viết “QUÂN TỬ-TIỂU NHÂN" THEO KHỔNG GIÁO” đã nêu lên những trích dẫn, điển hình như:
Quân tử học đạo tắc ái nhân, tiểu nhân học đạo tắc di sử giã” (Quân tử học đạo thì yêu người, tiểu nhân học đạo thì dễ khiến). (Luận Ngữ: Dương Hóa XVII).
Nếu “tiểu nhân” học đạo chỉ để dễ sai khiến thì học làm gì, học để trở thành người đạo đức, biết phân biệt phải trái. Sự thật qua lịch sử đã chứng minh ngược lại, “quân tử” hay kẻ sĩ cũng là Nho gia; học “đạo” để làm công cụ cho vua chúa sai khiến. Để cho hợp với lịch sử, câu này nên đổi chữ “ái nhân” thành “tôn quân”.
Quân tử nghĩa dĩ vi thượng, Quân tử hữu dũng nhi vô nghĩa vi loạn, tiểu nhân hữu dũng nhi vô nghĩa vi đạo”. (Quân tử chuộng nghĩa, quân tử có dũng mà không có nghĩa thì làm loạn. Tiểu nhân có dũng mà không có nghĩa thì làm đứa ăn trộm). (Luận Ngữ: Dương Hóa XVII).
Qua lịch sử chúng ta thấy những kẻ thường dân, hay “tiểu nhân” như Lưu Bang bên Tàu, Lê Lợi bên Việt Nam đâu có là kẻ ăn trộm, họ có dũng và nổi dậy để diệt bạo tàn,  thành công làm hoàng đế  và “quân tử” phải quỳ lạy, trong khi quân tử như Trương Lương, Nguyễn Trãi, có dũng nhưng nào dám tự mình “làm loạn”!  
Quân tử thượng giao bất siểm, hạ giao bất độc”. (Quân tử giao với người trên thì không nịnh, giao với người dưới thì không nhàm). (Dịch: Hệ Từ Hạ).
Xảo ngôn! Gối chai vì quì, lưng cong bởi cúi mà nói không nịnh. Thái độ của một nịnh thần mắng chửi và khinh thường những người ra công sức phục dịch; để vua chúa và “quân tử” có cuộc sống hơn họ. Kỳ thị một cách gian dối?    
Chỉ qua ba thí dụ nêu trên, theo quan niệm thời nay; chúng ta thấy Nho giáo đã hoàn toàn đi ngược với sự bình đẳng của con người, kỳ thị đẳng cấp một cách lầm lẫn và chủ quan. Một điều tệ hại hơn nữa, so sánh những hành vi của Nho gia qua các thời đại; thì hành động đã không đi đôi với việc làm, hoàn toàn ngược với câu “tri hành hợp nhất” (hiểu biết và việc làm phải đi đôi với nhau). Một kẻ ăn cướp, giết người cũng có thể nói những câu đạo đức để làm bung xung che dấu những hành động tàn ác! Lịch sử năm ngàn năm của Trung Hoa đã chứng minh điều này.
Trong Lễ Ký, Khúc Lễ thượng: “Lễ bất hạ thứ dân, hình bất thượng đại phu” (Lễ nghi không được dùng đối với đám thứ dân, hình phạt không áp dụng cho bậc đại phu). Đây là sự kỳ thị đẳng cấp thô bỉ, cổ võ sự bất lương của đám quan lại mà giai cấp này là “quân tử” hay kẻ sĩ có đặc quyền, đã thế lại khinh thường người dân quá đáng.    
Luận Ngữ  “Vi chính đệ nhị 2-3”: “Tử viết: đạo chi dĩ chính , tề chi dĩ hình, dân miễn nhi vô sỉ” (kẻ cầm quyền phải dùng hình pháp để trị cho dân sợ mà không phạm luật, chứ người dân tự họ không biết xấu hổ).
Luận Ngữ  “Thái bá đệ bát 8-9”: “Tử viết: Dân khả sử do chi, bất khả sử tri chi”, (Người dân có thể sai khiến, chứ không thể dạy cho họ hiểu).
Khinh thường người dân quá sức, con người tự họ ai cũng biết hổ thẹn khi biết việc làm của mình không đúng, kể cả với lương tâm.  Ai cũng có khả năng học hỏi. “Quân tử” là người biết “đạo” phải biết xấu hổ khi nói lên tính cách kỳ thị này, chính họ đã quên câu của Mạnh Tử: “Dân vi quí,...”.
Một xã hội mà chỉ có một bọn kẻ sĩ nịnh hót, học hỏi từ những điều được gọi là đạo đức từ sự tưởng tượng và gian dối, vua chúa mà hầu hết là những hôn quân   bảo sao kẻ sĩ nghe vậy, chỉ biết vị kỷ, vơ về cho mình và dòng họ, không cố tìm ra những phương thức để cải thiện cuộc sống của mọi người; thì nền văn minh của xã hội này đi tới đâu, lịch sử đã nói lên điều này!   
Trong bài viết “QUÂN TỬ-TIỂU NHÂN" THEO KHỔNG GIÁO”, không thấy cụ TTK đề cập đến một câu trong Luận Ngữ  mà câu này đã mạt sát cả “tiểu nhân” lẫn nữ giới một cách rất gọn: “Duy nữ tử dữ tiểu nhân vi nan dưỡng dã! Cận chi tắc bất tôn , viễn chi tắc oán” (Đàn bà và tiểu nhân thật khó nuôi dạy, gần họ thì khinh nhờn, xa họ thì oán thán) (Luận Ngữ, Dương hoá đệ thập thất, chi nhị ngũ, 17-25).
Nho giáo đã tạo nên quan niệm kỳ thị và khinh thường người dân, “quân tiểu nhân” (theo nghĩa nguyên thủy) như thế nào, người viết cảm thấy đã tạm đủ qua sự  trình bày sơ lược, mặc dù còn nhiều chỗ trong Nho học qua tứ thư và ngũ kinh chưa được biết đến! Qua câu viết trong Luận ngữ vừa nêu, Nho giáo đã xếp hạng nữ giới ngang hàng với “tiểu nhân (theo nghĩa sau này l à kẻ hèn mọn). Điều này đã ảnh hưởng đến văn hóa, gây ra không biết bao nhiêu sự đau khổ cho phụ nữ trong xã hội phương Đông qua nhiều ngàn năm. Nền văn hóa này đã biến người phụ nữ thành nô lệ thực sự. Văn hóa được cấu tạo bởi Nho giáo đã ảnh hưởng đến người phụ nữ ra sao, người viết sẽ lạm bàn trong phần kế tiếp.
b-Kỳ thị phụ nữ
Khi nói về phụ nữ trong xã hội ảnh hưởng bởi Nho giáo, chúng ta thấy có những câu như  “tam tòng, tứ đức”, “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”,  “trinh tiết”, v.v... áp đặt lên người nữ. Xã hội Việt Nam trước khi bị ảnh hưởng bởi Nho giáo, người phụ nữ Việt đã không bị những ràng buộc và kỳ thị, hơn nữa họ còn giữ vai trò chủ động, bằng chứng là sự khởi nghĩa của hai bà Trưng, bà Triệu. Ngôn ngữ của Việt Nam cũng nói đã nói lên điều này: những gì “chính” thì được gọi là “cái” (nghĩa là mẹ) như sông “cái”, đường “cái” quan, ngón tay “cái”, cái cò,  cái vạc cái nông”, v.v..., hay chữ “con” (chỉ phái nữ, khác với phái nam là “thằng”) như “con” sông, “con” cọp, v.v... Tuy nhiên từ khi Nho học thâm nhập vào nền giáo dục, vai trò quan trọng của người phụ nữ trong xã hội đã bị suy giảm một cách đáng kể.
“Đàn bà và tiểu nhân thật khó nuôi dạy...
Trung Hoa từ lúc khởi đầu là văn hóa du mục, có lẽ vì thể lực nam nữ khác nhau nên hình thái phụ hệ thịnh hành và biến thành một tập tục.  Khi Trung Hoa bước vào xã hội phong kiến, kể từ thời nhà Tây Chu, vị trí của phái nữ đã trở nên thấp hèn hơn so với phái nam một cách rõ ràng. Cuối thời Xuân Thu (Đông Chu), Khổng giáo được phổ biến, vai trò của phái nữ trong xã hội được qui định để dìm vai trò của họ xuống bùn. Khởi đầu là Khổng Tử với quan niệm khinh thường phụ nữ: “Đàn bà và tiểu nhân thật khó nuôi dạy...”. Chẳng lẽ Khổng Tử quên mẹ mình, người đã nuôi dạy ông cũng là đàn bà hay sao? Dạy người khác phải có hiếu với cha mẹ, còn mình thì “vơ đũa cả nắm”, vì khinh thường phái nữ nên ông chửi toáng lên, không cần biết là trong số đó có cả mẹ mình! Đây là hành động của “Thánh nhân”?
“Tam tòng, tứ đức”
Rồi  “Tam tòng” là “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”  (ở nhà thì theo cha, xuất giá thì theo chồng, chồng chết theo con). Câu “Tam tòng” từ sách Lễ Ký, thiên Tang Phục, Tử hạ truyện, nguyên văn: “vị giá tòng phụ , ký giá tòng phu, phu tử tòng tử”, chủ trương “nam tôn nữ ti” (trọng nam khinh nữ). “Tam tòng” là cái cùm để cùm chân nữ giới không cho ra ngoài xã hội, chỉ ở trong nhà để phục vụ cha, chồng rồi con, người phụ nữ không có quyền hạn gì trong gia đình. Thật là một sự ích kỷ được bày vẽ ra bởi Khổng Tử và đám môn sinh của ông, với mục đích biến người phụ nữ trong gia đình thành nô tì!
Sau “Tam tòng” lại có “Tứ đức” (công, dung, ngôn, hạnh) để giáo huấn người phụ nữ. Chữ “Tứ đức” từ  sách Lễ Ký, thiên Quan, cửu tần, nguyên văn: “phụ đức, phụ ngôn, phụ dung, phụ công”. Đưa ra chữ “tòng” thì phải có những hành động đi theo để cung phụng “tam tòng”, “tứ đức” là nguyên tắc thành văn cho hành động của sự nô lệ?
Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô
Mạnh Tử nói về chữ “hiếu”: trong sách Mạnh Tử, Ly Lâu thượng có câu “bất hiếu hữu tam vô hậu vi đại” (có ba điều bất hiếu, không có nỗi dõi là điều lớn nhất).  Xã hội phụ hệ, thì con trai mang họ cha, có con trai thì hy vọng có kẻ nối dòng. Vì vậy phải có con trai mới được coi là có hiếu, còn nếu sinh con gái thì coi như “vất đi”, coi như không sanh, hơn nữa không có con trai thì coi như đại bất hiếu. Thật là một quan niệm vô nhân đạo và kỳ thị một cách vô nhân tính! Có lẽ từ câu này nên các Nho gia Việt Nam mới bịa ra câu “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” (sinh một trai là “có con”, sinh mười gái cũng coi như “không con ”) lại càng có vẻ kỳ thị hơn nữa. Con gái còn bị coi là “nữ nhi ngoại tộc” (con gái là họ ngoài, họ người ta), câu này có lẽ đã được thu gọn thành câu chữ Hán từ câu tục ngữ “con gái là con người ta, con dâu mới thiệt mẹ cha mua về”, coi phụ nữ như món đồ có thể mua bán!  Vì con gái bị coi như ngoại tộc; nên bên Trung Hoa nhiều gia đình đã không truyền lại những bí mật nghề nghiệp cho con gái!
“Kẻ thù riêng của phụ nữ”
Lưu Bang, một kẻ một kẻ thô lỗ, “người khách nào đội mũi nhà Nho đến Bái Công liền giật mũ đái vào trong” (Sử ký)nhưng có chí lớn nên đã dựng nên nhà Hán. Đám Nho gia này muốn kiếm địa vị, đứng đầu là Thúc Tôn Thông đã bày ra trò lễ nghi để tôn vinh Hán Cao Tổ Lưu Bang; nên được ông này trọng dụng cùng với cả trăm tên đệ tử. Sau đó qua sự “đạo diễn” của Đổng Trọng Thư, Hán Vũ  Đế Lưu Triệt thấy có lợi cho nền quân chủ chuyên chế; nên đặt Nho học làm quốc giáo.  Để nịnh hót hơn nữa, đám Nho gia lại dùng “lễ” bày thêm trò mới, để thỏa mãn tính tham lam độc ác về tính dục của phái nam là hoàng đế với trò “tam cung lục viện”.
Trong bài viết “Hoàng đế với phụ nữ” của cựu Nho gia Phan Khôi, năm 1930:
“… Nghĩ cho kỹ mà xem, đế vương thật như là kẻ thù riêng của phụ nữ;... Nói về chế độ quân chủ nước Tàu. Theo Kinh Lễ, thiên Hôn nghĩa, thiên tử thì đặt ba bà phu nhân, chín bà tân, 27 người thế phụ, 81 người ngự thê. Mà lễ ấy, nói rằng thánh nhơn đặt ra đó. Không biết ông thánh nào mà có cái óc kỳ quái như vậy? Một người đàn ông mà cho đến 120 người đàn bà lận...
Cái số chánh là 120, còn ngoài ra, những cung nữ, thị tỳ, không biết bao nhiêu mà kể, gấp mươi lăm, hai mươi lần số ấy nữa... Những con gái dân gian đã bị chọn vào đó thì phí cả một đời người, chỉ có chết là hết, chớ không có ngày ra được….Nội một sự vì hầu hạ một người mà chứa vào trong cung đến năm bảy ngàn người đàn bà, đã đủ giày vò phụ nữ đến đâu rồi;...”.
Cụ Phan Khôi hỏi là “ông thánh nào” dù rằng cụ đã biết rõ đây là “Thánh Khổng”, ông viết “đế vương thật như là kẻ thù riêng của phụ nữ” , chẳng lẽ cựu Nho gia lại viết rằng “Thánh Khổng” và Nho giáo là kẻ thù chung của phụ nữ! dù rằng có lẽ ý ông muốn nói như thế?
Độc giả nào nếu có dịp đến Tử Cấm thành tại Bắc Kinh, hay tham khảo cũng đều biết là cung cấm này có gần một chục ngàn phòng ốc. Khi tối đến, trong số cả hàng ngàn người ở đây, chỉ có một người phái nam duy nhất là ông hoàng đế, ngoài ra chỉ có phái nữ và một số hoạn quan; nam không ra nam nữ không ra nữ. Ngoài một số cực nhỏ được hoàng đế yêu thích, còn lại là những “nữ tù nhân” bị “án” chung thân không có ngày ra!
Cấm quả phụ tái giá
Người phụ nữ đến “cửa Khổng” thì bị mang cùm, qua thời Tống đến “sân Trình” lại bị đeo thêm gông, “sân Trình” chỉ Trình Tử  (Trình Di hay Trình Y Xuyên , 1033 -  ~1107).
Trình Tử đề ra quan niệm về tiết hạnh của phụ nữ là cấm quả phụ tái giá. Trong bài viết “Tống Nho với phụ nữ” của cựu Nho gia Phan Khôi đăng báo năm 1931:
Lại ông Trình Hy cấm đàn bà góa lấy chồng, nói rằng: “Chết đói là sự nhỏ, thất tiết là sự lớn” (nhiên ngã tử sự cự tiểu, thất tiết lễ sự cự đại).
Cái nầy Trình tử không thèm hỏi đến kẻ goá bụa đó ở vào cái địa vị nào, gặp cái cảnh ngộ ra sao, mà nhứt luật không cho cải giá, thì thật là bất cận nhân tình quá thể. Người lập ra cái luật ấy chẳng có gì khác hơn là muốn thỏa cái lòng ích kỷ của đàn ông, cố ý mà bóc lột hết thảy quyền lợi đàn bà”.
Cấm góa phụ tái giá đã là một sự đàn áp khủng khiếp, đến cả người phụ nữ bị chồng bỏ (hay chồng “để”) cũng không được lập lại cuộc sống mới thì thật là tàn ác!
Theo lẽ công bình, nếu đàn bà bị chồng để, không được cải giá thì đàn ông cũng đừng nên để vợ. Vậy mà Trình tử lại cho phép đàn ông để vợ. Trong sách Tánh lý đại toàn chép rằng: “Có kẻ hỏi: Vợ, có thể để không? Trình tử đáp rằng: Vợ chẳng hiền, thì để đi có hại gì đâu?...
Đã thế lại còn có câu “trai năm thê bẩy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một chồng” thì công bằng ở đâu? Nho giáo đã đạp người phụ nữ xuống bùn đen, luật lệ này chẳng khác gì câu nói “tao là luật, luật là tao”.
Quan niệm kỳ thị phái nữ của Nho giáo đã ảnh hưởng như thế nào đến văn hóa phương Đông qua các thời đại?
-Đã hạ phẩm giá của người phụ nữ xuống quá thấp
-Không cho phụ nữ đi học
-Không cho phụ nữ thi cử
-Không thể làm quan
-Nửa tài sản trí tuệ bị mai một
-Biến phụ nữ thành món đồ sở hữu của phái nam, đặc biệt là các vua chúa
-Hủ tục bó chân ghê rợn tại Trung Hoa là hệ quả việc biến phụ nữ thành món đồ chơi .
-Hủ tục tảo hôn tàn ác biến phụ nữ thành “con ở” không công!
-Ngày nay với chế độ “một” con tại Trung Quốc, các bé sơ sinh nữ bị giết một cách vô nhân đạo, sau đó với cảnh trai thừa gái thiếu làm xã hội bất ổn.
Một nền văn hóa mà nửa tài sản trí tuệ bị lãng phí, thì phát triển về văn minh sẽ bị chậm lại! Một xã hội đặt trên quan niệm bất bình đẳng và kỳ thị thì  “Ở đâu có bất công , ở đó có chống đối”, xã hội rối loạn thì văn minh khó phát triển.
c-Kỳ thị chủng tộc
Cuối thời Xuân Thu, quyền lực của nhà Chu (Đông Chu) chỉ còn tập trung tại Lạc Ấp (gần Lạc Dương ngày nay), vua Chu gần như chỉ là bù nhìn, cần quân đội của các chư hầu bảo vệ khi có sự tấn công hay cướp bóc từ các bộ tộc khác. Thời gian này có khoảng 14 nước tương đối lớn, trong số đó qua các diễn biến theo năm tháng có “thất hùng”  là 7 nước mạnh nhất và luôn tìm cách thôn tính lẫn nhau. Các chư hầu tranh nhau làm bá chủ, chiến tranh xảy ra thường xuyên, vùng trung nguyên (lưu vực sông Hoàng Hà) hỗn loạn.
Khổng Tử có hoài bão khôi phục lại quyền lực như thời nhà Tây Chu, ông muốn làm như Chu Công (hay Chu Công Đán, tên thật là Cơ Đán), định lại quy chế “phân phong chư hầu”:  “Nay Khổng Khâu theo phép tắc của Tam vương, làm sáng cả cơ nghiệp của Chu công, Thiện Công.” (KTTG,  Sử Ký). Khổng Tử  “nghiện” lễ nghi nhà Tây Chu: “Nhà Chu noi gương hai triều đại trước, lễ nghi nhà Chu rực rỡ làm sao! Ta theo nhà Chu.” (KTTG,  Sử Ký). Ông rất thán phục và thường nằm mơ thấy Chu Công, khi gần chết ông than: “Ta suy nhược lắm rồi! Đã từ lâu ta chẳng mơ thấy Chu Công” (Luận Ngữ , Thuật nhi đệ thất, chi ngũ: “Tử viết: “thậm hỹ ngô suy dã! Cửu hỹ , ngô bất phục mộng kiến Chu Công!”).
Theo như quan niệm thời nhà Tây Chu, vua là “thiên tử” là con Trời.Vì đất đai rộng lớn (cái nhìn cổ thời) nên chia cho các chư hầu cai trị từng vùng, chư hầu phải thần phục nhà vua, vùng đất ở giữa và các chư hầu chung quanh xưng là Trung Hoa, thay Trời để cai trị. Đây là chế độ phong kiến do Chu Công thiết lập. Nhà Chu -Trung Hoa- tự thấy là mình văn minh hơn các dân tộc chung quanh; nên phải “giáo hóa” họ, thực chất để dùng vũ lực xâm chiếm và ép buộc các dân tộc này phải theo văn hóa của họ, nếu không theo sẽ tiêu diệt. Nạn Hoa hóa cho các dân tộc chung quanh ngoài Trung Hoa bắt đầu từ đây. Qua diễn tiến lịch sử, chúng ta đã thấy kết cuộc rất rõ ràng, khởi đầu Trung Hoa chỉ là vùng lưu vực sông Hoàng Hà, ngày nay Trung Quốc với diện tích lớn thứ ba trên thế giới, 9.6 triệu km2, gồm 55 chủng tộc.
Khổng Tử muốn làm như Chu Công thì đương nhiên ông phải cổ võ cho sự “giáo hóa” các dân tộc man di, là phải theo ta nếu không thì bị tiêu diệt, chủ trương “hưng Hoa diệt di” đã được thi hành nhiều lần qua lịch sử, một sự kỳ thị về chủng tộc rất tàn bạo! Nếu một người thường có quan niệm tự hào dân tộc mình là nhất (kiêu ngạo) thì cũng chỉ có tính cách cá nhân, sẽ ít gây thiệt hại. Tuy nhiên “thánh nhân” mà có chủ trương này và phổ biến hay truyền dạy tư tưởng này cho hậu thế  thì kinh khủng quá! “Thánh nhân” đã không nghĩ đến hậu quả của chiến tranh diệt chủng! Để rồi tư tưởng này trở thành tai họa truyền kiếp đến ngày nay cho nhân loại!
Khổng Tử kỳ thị man di?
Luận ngữ, “Hiến vấn đệ thập tứ”: “Tử viết: “Quản Trọng tướng Hoàn Công, bá chư hầu, nhất khuông thiên hạ, dân đáo vu kim thụ kỳ tứ. Vi Quản Trọng, ngô kỳ phi phát tả nhậm hĩ...” (Quản Trọng làm tướng quốc cho (Tề) Hoàn Công, nước Tề làm bá chủ chư hầu, làm thiên hạ vào một khuông phép. Không có Quản Trọng thì chúng ta đã phải búi tóc và cài nút áo phía trái), các dân tộc thuộc Bách Việt có phong tục “phi phát, tả nhậm”, câu này Khổng Tử đề cao Quản Trọng là ông này đã “nhất khuông thiên hạ”, nhờ có Quản Trọng dẹp yên dân man di nên Khổng Tử đã không phải theo tục lệ của Man Di. Câu này nói lên quan niệm của Khổng Tử  về man di với sự khinh thường, quan niệm này đã trở thành truyền kiếp.
Chúng ta thử tìm hiểu xem Khổng Tử đã làm gì liên quan đến vấn đề này qua Sử Ký (KTTG):
Tề Cảnh Công bèn sai sứ giả mời vua Lỗ lại họp ở Giáp Cốc. Lỗ Định công sắp sửa lên xe đến họp thân mật. Khổng Tử bấy giờ quyền giữ chức tướng quốc... Bèn mang theo tả tư mã và hữu tư mã, họp mặt với Tề Cảnh công ở Giáp Cốc... Ở đấy dựng lên một cái đàn có ba bậc tam cấp bằng đất và hai người gặp nhau theo nghi lễ... Và ngay đó, một người cầm cờ lông thú và lông chim mang lông chim sáo, giáo, kích, kiếm và khiên bước ra trong tiếng trống và tiếng hò la và bước lên đài. Khổng Tử rảo bước tiến ra, bước lên các bậc tam cấp, nhưng không qua bậc trên cùng, giơ ống tay áo lên nói:
- Vua hai nước chúng ta hội họp nhau than mật, chơi thứ nhạc Di, Địch làm gì? Xin ra lệnh cho quan đương sự để họ đuổi những người kia đi.
Vì thế Trung Hoa luôn có ý định “áp đặt” văn minh của họ đến cho các dân tộc chung quanh bằng võ lực. Đến ngày nay, ngoại trừ dân Lạc Việt, toàn thể Bách Việt đã bị Hoa hóa hay Hán hóa. Man ở phía nam, Di ở phía đông, Địch ở phía bắc, Nhung ở phía tây cũng đã bị Hán hóa.
4-Văn hóa kiêu ngạo và bành trướng
Từ thời Tây Chu, ý niệm vua là “thiên tử”, là con Trời đã có. Quan niệm về “thiên mệnh” của Khổng Tử lại được các Nho gia cổ võ, do đó vai trò của thiên tử càng tỏ rõ khi hoàng đế nhà Hán lên ngôi và trọng dụng Nho học cho mục đích chính trị. Quyền lợi của hai bên đều được nâng cao, uy quyền của hoàng đế được tung hô, Nho gia có được bổng lộc, và dân chúng thêm ách nặng.
Óc kiêu ngạo và tự tôn
Để nâng cao uy thế cũng như ảnh hưởng, Nho gia đã đề cao sự góp phần cho nền văn hóa Trung Hoa kiểu mẫu của họ mà “lũ man di” phải noi theo! Hoàng đế hay Thiên tử được tôn là con Trời, thay Trời “giáo hóa” mọi dân tộc. Đây là một sự tự tôn của một thể chế quân chủ toàn trị, muốn các dân tộc chung quanh phải hội nhập với mình. So với các dân tộc chung quanh, gồm những bộ tộc du mục phía bắc, các dân tộc nông nghiệp phía nam, chế độ quân chủ của Trung Hoa đã có qui củ hơn. Tuy nhiên tự cho là mình văn minh hơn các dân tộc khác, rồi vênh váo lên mặt giáo huấn họ thì cả là một sự kiêu ngạo quá đáng. Hậu Hán thư của Phạm Việp đã sỉ vả dân Giao Chỉ: “Người như cầm thú, không phân biệt trưởng ấu (tức không có tôn ti trật tự), búi tóc ở gáy, đi chân không, lấy vải quấn qua đầu làm áo”.
Phong hóa của mỗi dân tộc mỗi khác, nhưng các Nho gia đã theo tư tưởng của Khổng Tử là khinh thường các văn hóa khác và tìm cách áp đặt. Gốc du mục là dùng vũ lực để đánh chiếm, những gì dùng được thì cướp, còn lại là thiêu hủy. Thành Cát Tư Hãn và quân Mông Cổ đã làm như vậy từ Á sang Âu. Gốc gác du mục còn lưu lại đến ngày nay tại Trung Hoa qua cách ẩm thực (thịt chiên xào được dùng nhiều hơn từ phía bắc Trường Giang, thời cổ dùng thịt và mỡ thú vật, so với rau luộc hấp phổ thông hơn ở phía nam). Thời Khổng Tử vùng trung nguyên chưa biết dùng thực phẩm chính là gạo mà dùng hột kê. Gạo là sản phẩm của văn minh lúa nước Bách Việt nói chung, Lạc Việt nói riêng. Nhà Tần xâm chiếm vùng này năm 221 TCN (ngoại trừ Lạc Việt), thế mà thời cuối thời Tiền Hán, sử sách Trung Hoa lại nói là thái thú Hán: “(Nhâm) Diên mới dạy dân khai khẩn ruộng đất, hàng năm cày trồng, trăm họ no đủ” (ĐVSKTT). Đây là trò kiêu ngạo và tự tôn một cách gian trá của đám Nho gia viết sử. Tuy nhiên, các thế hệ kế tiếp tại Trung Hoa lại tin, rồi nghĩ họ là cái nôi của nền văn minh nhân loại, nên đã phải khai hóa lũ Nam Man, cũng như các dân tộc khác. Thế là niềm tự hào về dân tộc được ve vuốt và tư tưởng “đại Hán” được truyền bá dễ dàng đến ngày nay, mặc dù đây là sự kiêu ngạo, tự tôn một cách gian trá và lố bịch (ngụy tạo trong Olympic 2008, ăn cắp hình ảnh trong phim “Top Gun”). Việt Nam đã bao lần (bị xâm lăng rồi phải triều cống), cũng như đang khốn khổ (bị uy hiếp) vì cái trò kiêu ngạo và tự tôn kệch cỡm này.
Chủ nghĩa bành trướng
Từ cổ thời các dân tộc có những nền văn hóa khác nhau, nếu muốn các dân tộc này theo mình, thì cách nhanh nhất là dùng võ lực để đánh chiếm (tư tưởng du mục?), sau đó đặt ách cai trị (quan niệm của Nho gia?) để bắt các dân tộc này phải theo, đây là chủ nghĩa bành trướng của Trung Hoa, cách thức này hiện tại vẫn còn đang được áp dụng. Điển hình là vùng Tân Cương, Tây Tạng trong thế kỷ 20. Cổ thời, từ một khoảng đất tại lưu vực sông Hoàng Hà, ngày nay Trung Hoa đã có diện tích lớn thứ  ba trên thế giới. Đất đã là mục tiêu của tư tưởng “đại Hán”, ngày nay lại thêm mục tiêu về biển, một mối đe doạ cho các nước quanh Trung Hoa! Tất cả chỉ là sự canh tân của “tư tưởng Đại Hán” cho hợp với tình thế hiện tại và tương lai!   
5-Văn hoá chống hòa bình?
Qua kinh nghiệm lịch sử của nhân loại, những gì bất công dễ đưa đến chống đối hoặc tranh chấp. Trong một xã hội mà một giai cấp bị đàn áp và bóc lột thì sẽ có những sự vùng dậy; để con người đòi quyền được sống, nội chiến có thể xảy ra. Tới một bình diện lớn hơn là dân tộc, những sự đối xử bất bình đẳng sẽ đưa đến chiến tranh giữa các dân tộc.
Nhà Tần chủ trương chiến tranh xâm lăng, có tính cách du mục là cướp, nếu dùng được thì giữ, không thì thiêu hủy. Khi đã chiếm được thì áp dụng chủ thuyết của Pháp gia trong việc cai trị tàn bạo nên suy tàn rất nhanh (15 năm). Nhà Tây Hán với chủ trương chiến tranh xâm lăng, ngụy trang dưới chiêu bài “giáo hóa”, bề mặt là “nhân trị”, nhưng bên trong là “pháp trị” gay gắt , bàn tay sắt bọc nhung, đánh chiếm rồi cai trị và bóc lột thật là phi nhân bản. Phương pháp này đã được các Nho gia góp ý cho những hoàng đế Trung Hoa đầy tham vọng qua các đời; với mục đích được chia phần lợi lộc.  Đây là một trò giả hình về đạo đức để đàn áp các dân tộc khác.
a-Kỳ thị đẳng cấp gây nội loạn?
Như đã được trình bày trong phần trước, Nho Giáo đã tạo nên một sự kỳ thị về đẳng cấp ngay trong xã hội Trung Hoa, đám cai trị gồm vua chúa, kế đó là đám “kẻ sĩ” Nho gia làm quan, sau đó là đám dân bị trị gồm đa số quần chúng. Thời Hán, Nho giáo trở thành quốc giáo, thi cử để tuyển chọn người ra làm quan đặt trên căn bản Nho học, điều hành việc cai trị do các Nho gia đảm trách, ngay cả hoàng đế cũng được huấn luyện từ tư tưởng Nho học. Hậu quả của sự phản hòa bình, dù trực tiếp hay gian tiếp, gây ra bởi Nho giáo như thế nào?
Để kiểm chứng, chúng ta có thể nhìn sơ qua lịch sử Trung Hoa kể từ thời nhà Hán, hầu hết những cuộc nổi dậy đều do giai cấp bị trị, họ đã bị phỉnh gạt bởi cái “đạo” của đám Nho gia với chữ “nhân” mờ ảo (“nhân” với ai, với mọi người hay chỉ trong gia tộc và thân thuộc hay một đẳng cấp nào đó?)! Khởi đầu thì dân chúng theo, vì mong muốn có sự bình đẳng của con người và được no đủ. Khởi nghĩa thành công, đám Nho gia vẫn được dùng làm quan lại, vẫn tiếp tục bóc lột, rồi lại khởi nghĩa. Vòng luẩn quẩn này có tính cách truyền kiếp. Không có tư tưởng nào được nêu ra để thay đổi hẳn tư tưởng Nho giáo, thấy sai rồi sửa sai, lại thấy sai! Chu Hy rồi Vương Dương Minh có cố gắng để chỉnh đốn, nhưng cũng vẫn chỉ là não trạng của Nho gia, đâu lại hoàn đấy! Không một ai có được tư tưởng bình đẳng của Mặc gia, có lẽ cũng chỉ vì sự tự tôn và vị kỷ của đám Nho gia đầy kiêu ngạo, cho quan niệm của mình là nhất!
Cuối thời nhà Thanh, Hồng Tú Toàn khởi nghĩa dựng nên Thái Bình Thiên Quốc, ông này bị ảnh hưởng phần nào bởi tinh thần của Thiên Chúa giáo (thi hỏng nhiều lần, sau đó học về Kinh Thánh, xưng là em của Jesus!?), đề cao sự bình đẳng, dân chúng vùng Quảng Tây rồi các tỉnh khác theo, thắng lợi liên tiếp, đã từng mang quân tới Thiên Tân (gần Bắc Kinh), lập quốc đóng đô ở Nam Kinh. Tuy nhiên đầu óc của ông này vẫn mang nặng tính cách của Nho gia, đến khi làm vua lại theo đường lối cũ rồi bị tiêu diệt. Đây là mộc cuộc nổi loạn có số thương vong nhiều nhất trong lịch sử Trung  Hoa và có lẽ nhất trên thế giới từ trước đến nay  (trực tiếp khoảng 25 triệu, gián tiếp có thể lên tới 100 triệu, theo như  tài liệu trong sách "Sử Trung Quốc" của học giả Nguyễn Hiến Lê).
Bất bình đẳng dễ đưa đến nội loạn; bất kể nơi nào trên thế giới, Hoa Kỳ cũng đã xảy ra nội chiến, tuy nhiên một nền văn hóa truyền kiếp; có sự bất bình đẳng truyền kiếp; thì nội chiến sẽ xảy ra hết đời này đến đời khác. Nho Giáo từ Khổng Tử trở đi đã tạo nên sự kỳ thị về đẳng cấp, từ đó sẽ có nội loạn và chiến tranh cho đến khi con người có sự bình đẳng. Mới đây (2009), người Hồi ở Tân Cương đã gây phản ứng nhưng bị dẹp yên, tuy nhiên còn bất bình đẳng thì sẽ còn Tây Tạng, còn dân tộc Tráng, còn Nội Mông, còn v.v... và v.v... 
b-Kỳ thị chủng tộc gây chiến tranh?
Chiến tranh là hiện tượng lịch sử của nhân loại. Chiến tranh là dùng vũ lực để giải quyết sự xung đột. Giữa các dân tộc trên thế giới thì sự tham lam, kiêu ngạo, kỳ thị, lừa dối thường là do tính vị kỷ của con người, sự vị kỷ dễ đưa đến xung đột vì phía nào cũng muốn điều lợi cho phần mình, phe phái của mình.      
Tính du mục hiếu chiến
Văn hóa du mục có tính cách hiếu chiến, trọng võ hơn văn. Từ khi chiếm được vùng lưu vực sông Hoàng hà, một bộ tộc mạnh (truyền thuyết về nhà Hạ) chuyển qua  phương cách định cư và thôn tính các bộ tộc chung quanh. Sau đó xã hội gồm có nhiều bộ tộc, một thể chế chính trị được thành lập; đó là nhà Thương, rồi đến chế độ phong kiến nhà Chu, văn hóa được thành hình, tuy nhiên vẫn còn nặng tính cách hiếu chiến của dân du mục. Chiến tranh xảy ra liên miên qua các thời Xuân Thu và Chiến Quốc. Trung Hoa thống nhất, Tần vương Doanh Chính làm hoàng đế, tuy nhiên vì muốn bành trướng nên chiến tranh vẫn tiếp tục (Mông Điềm đánh Hung Nô phía bắc, Đồ Thư chinh phục Bách Việt phía nam). Nhà Tần suy thoái, Trung Hoa lại lâm vào cảnh nội chiến giữa các thế lực. Hai thế lực còn lại là Lưu Bang và Hạng Vũ tranh nhau, chiến tranh vẫn tiếp diễn. Lưu Bang thắng dựng nên nhà Hán. Tuy nhiên vì muốn mở rộng về phía bắc, Trung Hoa luôn có chiến tranh với Hung Nô. Nếu không có chiến tranh với các dân tộc chung quanh, Trung Hoa lại chia phe ra đánh lẫn nhau, lập thành nhiều nước như thời Tam Quốc, Ngũ Hồ thập lục quốc, Nam Bắc Triều, Ngũ Đại thập quốc. Tuy nhiên khi nàoTrung Hoa thống nhất thì tai họa chiến tranh lại xảy ra cho các lân bang.
Tính cách hiếu chiến của du mục tàn bạo nhưng nhất thời. Sự hiếu chiến cộng thêm với sự cai trị để bóc lột và chủ trương đồng hóa, ngụy trang dưới chữ  “nhân” để “khai hóa”; thì hậu quả cho các dân tộc láng giềng sẽ kinh khủng hơn rất nhiều! Đây là một chính sách tàn độc (tàn bạo và thâm độc) có tính cách lâu dài và đưa đến sự diệt chủng một cách êm thắm. Việt Nam đã là nạn nhân của chính sách này qua nhiều lần bị Bắc thuộc, cũng như vùng Bách Việt đã bị Hán hóa hầu hết, ngoại trừ Lạc Việt.
Tự kiêu về văn hóa và chủng tộc: tư tưởng Hán hóa
Chủ trương mang “văn hóa” đi truyền bá kèm theo vũ lực vẫn tiếp tục, qua hàng ngàn năm cũng vẫn chỉ là bành trướng: tư tưởng Hán hóa. Như đã trình bày trong phần trước, Nho giáo đã di truyền lại cái tư tưởng tự kiêu tự đại, cảm thấy mình là nước lớn, nước “có văn hóa” nên luôn tự kiêu. Hoàng đế luôn luôn cho mình là chủ của các lân bang, “ai cũng là thần dân”, không đánh chiếm được thì tạm “tha làm phúc”, bắt triều cống rồi chờ cơ hội khác. Chỉ khi nào Trung Hoa có nội loạn, hoặc chia năm xẻ bẩy, hay bị các bộ tộc du mục phía bắc (Kim, Mông, Mãn) uy hiếp hay chiếm đóng; thì các nước phía nam và phía tây mới được tạm thời yên ổn!
Trung Quốc có phải là cái họa của lân bang?

(còn tiếp)


Trần Việt Bắc
danlambaovn.blogspot.com

"50 năm nữa, TQ sẽ đánh Nhật, chiếm Mông Cổ, chinh phạt Nga"

Trung Phạm - theo Trí Thức Trẻ

(Soha.vn) - Theo "kịch bản", đến 2045, Hoa Đông sẽ trở thành “ao nhà” của Trung Quốc và đến 2060 Nga sẽ phải trả lại những phần lãnh thổ "xâm chiếm của Trung Quốc”.

Trong phần 1 bài viết với tựa đề gốc “6 cuộc chiến tranh Trung Quốc chắc chắn sẽ phát động trong vòng 50 năm tới”, báo Wenweipo (Trung Quốc) "vẽ" ra viễn cảnh từ năm 2020 đến 2040, Trung Quốc sẽ tiến hành 3 cuộc chiến nhằm "thống nhất Đài Loan", "đánh chiếm Trường Sa", "thu hồi Nam Tây Tạng".
Trong phần 2 của bài báo này, những kẻ có đầu óc bá quyền, theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan mù quáng tiếp tục bày mưu tính kế cho 3 cuộc chiến khác với thời điểm kết thúc là năm 2060.
4. Cuộc chiến tranh thứ tư: Thu hồi Điếu Ngư và Ryukyu (2040 - 2045)
Theo đánh giá của bài báo, vào giữa thế kỷ 21, Trung Quốc sẽ nổi lên là một cường quốc thực sự của thế giới, kèm theo đó là sự suy yếu của Nhật Bản và Nga, sự trì trệ của Mỹ và Ấn Độ và sự nổi lên của Trung Âu. Đó sẽ là thời điểm tốt nhất để Trung Quốc lấy lại Quần đảo Điếu Ngư/Senkaku và Ryukyu.
Bài báo cho rằng, xét về mặt lịch sử, hai quần đảo này thuộc chủ quyền của Trung Quốc nhưng đã bị Nhật Bản chiếm giữ. Nhật Bản đã “lấy đi của cải và tài nguyên ở Hoa Đông của Trung Quốc và chiếm đóng bất hợp pháp Điếu Ngư/Senkaku và Ryukyu suốt nhiều năm”. Do vậy, đã đến lúc Nhật Bản phải trả lại cho Trung Quốc.
Đến thời điểm đó, Trung Quốc hy vọng, nếu Mỹ có can thiệp thì cũng đã suy yếu, châu Âu sẽ giữ im lặng còn Nga sẽ chỉ ngồi yên và theo dõi cuộc chiến. Cuộc chiến tranh có thể kết thúc trong nửa năm với chiến thắng áp đảo thuộc về phía Trung Quốc. Nhật Bản sẽ không có sự lựa chọn nào khác mà phải trả Senkaku/Điếu Ngư và Ryukyu về tay Trung Quốc. Bài báo còn huênh hoang nói rằng: “Hoa Đông giờ đây đã trở thành ao nhà của Trung Quốc, ai dám đụng tay vào đó?”.
  Tàu chiến Trung Quốc
Tàu chiến Trung Quốc
5. Cuộc chiến tranh thứ năm: Thống nhất Ngoại Mông (2045 - 2050)
Bài báo thừa nhận, mặc dù ở thời điểm hiện tại có không ít người Trung Quốc ủng hộ thống nhất Ngoại Mông nhưng cho đây là ý tưởng chưa thực tế. (Ngoại Mông từng là một tỉnh của nhà Thanh. Lãnh thổ của tỉnh này gần tương ứng với nước Mông Cổ hiện nay. Khái niệm "Ngoại Mông" hiện vẫn còn được một số kẻ mang tư tưởng Đại Hán ở Trung Quốc dùng để chỉ Mông Cổ).
Tuy nhiên, sau khi “thu hồi” Nam Tây Tạng vào khoảng năm 2040, lúc đó Trung Quốc sẽ đặt ra vấn đề thống nhất Ngoại Mông, phát động các chiến dịch tuyên truyền bên trong Ngoại Mông.
Bài bào còn khuyên Trung Quốc nên chọn ra các nhóm hậu thuẫn cho việc thống nhất đất nước, giúp họ nắm giữ các chức vụ chủ chốt trong chính phủ và tuyên bố Ngoại Mông là lợi ích cốt lõi của Trung Quốc.
Nếu Ngoại Mông có thể quay trở lại Trung Quốc một cách hòa bình, đó là kết quả tốt nhất. Nhưng nếu Trung Quốc vấp phải sự can thiệp hoặc chống đối từ bên ngoài, Trung Quốc sẽ sẵn sàng áp dụng hành động quân sự. Trong trường hợp này, mô hình Đài Loan có thể hữu ích: đưa ra một tối hậu thư cho Ngoại Mông với thời hạn là năm 2045. Hãy để Ngoại Mông cân nhắc trong vài năm. Nếu họ từ chối đề nghị này, Trung Quốc sẽ ra tay hành động quân sự.
Lúc đó, 4 cuộc chiến tranh trước đây đã được giải quyết xong. Trung Quốc hoàn toàn có đủ quyền lực chính trị, quân sự và ngoại giao để thống nhất Ngoại Mông. Mỹ suy yếu và Nga thì không dám tham, cùng lắm cũng chỉ phản đối ngoại giao. Châu Âu sẽ giữ một vai trò không rõ ràng, còn Ấn Độ, châu Phi và các nước Trung Á sẽ chỉ lặng yên đứng nhìn. Trung Quốc có thể thôn tính Ngoại Mông trong thời gian 3 năm và sau khi thống nhất, sẽ bố trí dày đặc quân đội nặng dọc biên giới để kiểm soát Nga. Trung Quốc sẽ mất khoảng 10 năm để xây dựng cơ sở hạ tầng quân sự cần thiết chuẩn bị lấy lại phần lãnh thổ đã mất từ tay Nga.
  Một địa danh thuộc Ngoại Mông
Một địa danh thuộc phần lãnh thổ mà Trung Quốc gọi là Ngoại Mông
6. Cuộc chiến tranh thứ sáu: Thu hồi lãnh thổ bị Nga xâm chiếm (từ 2050 đến 2060)
Hiện tại, Trung Quốc và Nga dường như đang có mối quan hệ tốt đẹp nhưng trên thực tế, hai nước lại theo dõi nhau rất chặt chẽ. Nga lo ngại sự nổi lên của Trung Quốc đe dọa quyền lực của mình trong khi Trung Quốc không bao giờ quên các vùng đất bị mất vào tay Nga. Khi cơ hội đến, Trung Quốc sẽ lấy lại phần lãnh thổ này.
Sau khi giành chiến thắng trong 5 cuộc chiến tranh trước đó, vào năm 2050, Trung Quốc sẽ tuyên bố chủ quyền với Nga dựa trên chứng cứ lịch sử từ đời nhà Thanh và tiến hành các chiến dịch tuyên truyền ủng hộ tuyên bố này. Như với Ấn Độ, cách tốt nhất là tăng cường nỗ lực làm cho Nga tan rã.
Bài báo lập luận, ở thời kỳ “Trung Quốc cũ”, Nga đã chiếm khoảng 160.000.000 km2 đất, tương đương với 1/6 tổng diện tích hiện nay của Trung Quốc. Do đó, Nga là kẻ thù cay đắng nhất của Trung Quốc. Sau 5 chiến thắng trước, giờ là thời điểm người Nga phải trả giá.
Đến thời điểm đó, mặc dù Trung Quốc đã trở thành một nước hùng cường về hải quân, lục quân, không quân và vũ trụ nhưng lại sẽ là cuộc chiến đầu tiên chống lại một cường quốc hạt nhân. Vì vậy, Trung Quốc cần chuẩn bị tốt về vũ khí hạt nhân, đủ sức mạnh tấn công Nga từ giai đoạn đầu đến giai đoạn kết thúc. Khi bị tước đi khả năng chống trả, Nga sẽ phải nhận ra rằng họ không còn cách nào sánh được với Trung Quốc trên chiến trường. Nga có thể làm gì khác ngoài việc “bàn giao đất đã chiếm của mình cho Trung Quốc và phải trả một giá đắt cho cuộc xâm lược của họ”.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét