Tổng số lượt xem trang

Thứ Sáu, 12 tháng 9, 2014

Tin thứ Sáu, 12-09-2014 - Sự thật về một ông Đại biểu Quốc hội “câm”

CHÍNH TRỊ-PHÁP LUẬT
- Trung Quốc chối bỏ việc tấn công tàu cá Việt Nam (VNE).  – TQ bác bỏ chỉ trích của VN về tàu cá (BBC).
H1- Trung Quốc gọi thầu khai thác dầu khí trên Biển Đông (Tin Nóng).  – Trung Quốc lại mời thầu các lô dầu khí ở Biển Đông (RFI). – Trung Quốc mời thầu 25 lô dầu khí ở Biển Đông (VOA).  – Kiểm tra thông tin các lô dầu khí TQ mời thầu (VNN).  – Sẽ có phản ứng phù hợp với hành động đơn phương của Trung Quốc ở biển Đông (ANTĐ). “Phản ứng” cái gì? Đặc phái viên Lê Hồng Anh qua Bắc Kinh, đã đồng ý ‘Nguyên tắc ba điểm’ quan hệ Việt – Trung rồi, “thúc đẩy quan hệ Trung-Việt trước sau như một“, đã chấp nhận “giữ gìn đại cục của quan hệ Trung-Việt” với người “đồng chí, anh em, bạn vàng, bạn tốt” rồi còn “phản ứng” gì nữa? Có lẽ “phản ứng” chỉ nhằm mục đích đối phó với dư luận trong nước thôi.
- Trung Quốc âm mưu gì ở Trường Sa (RFA). “Theo tờ Hoàn Cầu Thời Báo thì Gạc Ma cách Sài Gòn 830 km, cách Manila 890 km, cách eo biển Malacca khoảng 1500km. Như thế với đường băng 2km trên Gạc Ma, các loại máy bay Su-30, J-10, J-11 của Trung Quốc có khả năng tác chiến đến tận Malacca“. – Một bản đồ phác thảo lộ trình Trung Quốc mở rộng tuần tra trên Biển Đông, dựa theo CCTV (FB Tin Việt/ TCBĐ).
- Phạm Trần: Tại sao Việt Nam không dám kiện Trung Cộng ra tòa? (DLB). Tại vì không nỡ làm đau lòng “bạn vàng, bạn tốt”. Đất đai, lãnh thổ của Tổ Tiên để lại chỉ là chuyện nhỏ, làm sứt mẻ “tình hữu nghị” giữa 2 đảng Việt – Trung, không giữ gìn “đại cục” giữa 2 đảng, bị đảng anh quở trách mới là chuyện lớn!
- Philippines công bố hàng chục bản đồ cổ “dằn mặt” Trung Quốc (NLĐ).  – Philippines trưng bày bản đồ phản đối tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc (VOA).
- Châu Á hối hả mua vũ khí để đối phó với Trung Quốc (RFI). “Nếu Trung Quốc tỏ ra hiếu chiến hơn, đó là vì họ thấy có cơ hội. Điều này có thể gây ra tình trạng bạo lực dữ dội hơn“.
- GS Nguyễn Văn Tuấn: Cải cách ruộng đất và hàng trăm ngàn cái chết oan ức (Ba Sàm). – Ảnh: Một phương pháp tử hình thời “Cải cách ruộng đất”: chôn sống cho thò đầu lên, rồi kéo cày cho cày nát đầu (FB Nam Nguyen-Dinh).  – Ảnh: Triển lãm về cải cách ruộng đất (BBC).
H1<- Thư của Hồ Chí Minh gửi “đồng chí Stalin” ngày 31-10-1952, xin chỉ thị về Cải cách Ruộng đất (FB Bách Xuân Bùi). “Tôi xin gửi tới đồng chí bản dự thảo Cương lĩnh Cải cách ruộng đất của Đảng Lao động Việt Nam. Bản dự thảo Cương lĩnh này do tôi soạn với sự giúp đỡ của các đồng chí Lưu Thiếu Kỳ và Vương Giá Tường. Xin đồng chí xem xét và cho chỉ thị về vấn đề này”.
- JB Nguyễn Hữu Vinh: Triển lãm CCRĐ: Khoét thêm vết thương để bao che tội ác? Phần II (Blog RFA). “Nếu những vật dụng như đang trưng bày kia đã nung nấu căm thù của người dân? Vậy thì ngày nay người dân sẽ xử lý thế nào với những cán bộ cộng sản đi những chiếc xe trị giá 3.000 con trâu? Những ngôi biệt thự giá hàng ngàn cây vàng mà cán bộ cộng sản “mượn” của dân nhưng không trả trong khi dân còn phải tự tử để lấy tiền phúng viếng cho con đi học?“.
- Cõi Người của Trần Huy Liệu kể về Cuộc đấu tố thí điểm địa chủ Nguyễn Văn Bính, tức Tổng Bính tại xã Dân Chủ ngày 18-5-1953 (FB Tin Bùi). “Có người tố B. đã quyên tiền của mình để đóng cho Việt Minh trước cuộc Cách mạng tháng Tám mà không nói rõ B. đe dọa nếu không quyên thì sẽ bị giết. Có người tố B. đã làm chết hai du kích chỉ vì B. đã phái đi bố trí trong khi quân Pháp tiến lên Thái Nguyên năm 1947. Có người còn tố B. đã làm thịt lợn đãi du kích mà con lợn đó là lợn nhà của B. Một anh tự xưng là bộ đội Anh Bắc trước cuộc cách mạng trong khi tố B. đã không quên ‘quảng cáo’ cho B. là B. đã đốt bằng sắc của thời Pháp thuộc“.
- Mời xem lại: MẠ TÔI VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI (Ngô Minh). “Năm 1956, ba tôi bị CCRĐ quy là địa chủ và bị giết. Mạ tôi khóc hết nước mắt. Bà bị bất ngờ vì mạ tôi từng nuôi cả trung đội bộ đội hàng tháng trong nhà, mua súng cối, súng trung liên cho dân quân xã Hưng Đạo đánh Pháp, từng bỏ lựu đạn dưới gánh cá, gánh vào chợ Chè ở Hồng Thủy giả đi bán cá, để dân quân diệt đồn Hòa, lại bị “cách mạng” phản bội, chồng bị giết“. – Minh Diện: Kỷ vật của người bị chết oan (Bùi Văn Bồng).  – Những bà con của Xa-tăng (Quê Choa).
- Thảm sử Cải Cách Ruộng Đất, của chiến tranh Nam Bắc và hành động của chúng ta (FB Nguyễn Quang Thạch). “Bà nội của nhà văn Nguyễn Quang Thân thắt cổ tự tử. Mẹ của nhà văn Nguyễn Quang Thân là người lấy vàng bạc của mình và đi quyên góp trong dòng họ tôi và dòng họ của bà để góp tiền cho cách mạng trong những năm 1940 đã bị vào tù CCRĐ“.
- Trần Mạnh Hảo: Cải cách ruộng đất: tội ác vượt chỉ tiêu trên giao (DLB).  “Kính thưa các bác đội, con xin đấu tố bố con là bố Hiền ạ! – Không được gọi bố, vì nó là giai cấp bóc lột, em phải gọi nó bằng thằng! – Dạ em đấu tố thằng bố em ạ! - Không, nó không còn là bố em nữa, em là con của đảng, nó là thằng đối kháng giai cấp, đả đảo tên địa chủ Hiền… – Tội nó ác hơn nhiều, em không đấu tố nó thì nó sẽ bị xử bắn. – Thằng địa chủ Hiền gian ác đã giết cả làng ta, đả đảo! - Thôi, câm ngay, đấu tố, chửi bố mình vượt chỉ tiêu trên giao!
- Lịch sử không phải để thù hận (VNE). Dường như tác giả đang nói với những người CS? Bởi chính họ đã phát động “đấu tranh giai cấp”, dạy người dân căm thù lẫn nhau, con cái đấu tố cha mẹ, trút căm thù vào những người thân sinh ra mình.
- Bài của LS Nguyễn Mạnh Tường: Qua Những Sai Lầm Trong cải Cách Ruộng Đất – XÂY DỰNG QUAN ĐIỂM LÃNH ĐẠO (BS). “Khi đưa ra khẩu hiệu ‘thà chết 10 người oan còn hơn để sót một địch‘ thì khẩu hiệu này không những quá tả một cách vô lý mà phản lại cách mạng là đằng khác nữa. Muốn chứng minh điều này ta chỉ cần nhìn thực tế: kết quả sai lầm ta đã phạm khi thực hiện khẩu hiệu này rất tổn thiệt cho uy tín của cách mạng và cho bản thân bao nhiêu chiến sĩ cách mạng. Nếu không phải đó là phản lại cách mạng thì là gì?
 – NGHĨ VỀ “TRIỂN LÃM CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT” (Nguyễn Trọng Tạo).  – Ký ức mờ nhạt CCRĐ sống dậy nhờ cuộc triển lãm ở Hà Nội 2014 (GNLT). – Đóng triển lãm ‘Cải cách Ruộng đất’? (BBC). “Lúc đó đã 11h trưa, bảo vệ nói đã hết giờ xem, hẹn bà con đến vào lúc 2h chiều. Bà con Dương Nội tản ra vườn hoa Cổ Tân gần đó để ăn và nghỉ trưa đợi đến giờ vào xem. Đến hai giờ chiều, bà con vào thăm triển lãm thì lực lượng bảo vệ triển lãm bắt dân cởi áo mới cho vào bảo tàng. Khi bà con cởi áo xong để vào thì họ nói với bà con: Triển lãm Cải cách gặp sự cố về ánh sáng nên tạm đóng cửa“. - TIN HOT: ĐÓNG CỬA TRIỂN LÃM CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT (CẬP NHẬT LÚC NỬA ĐÊM) (Tễu).
- Nhật ký mở lần thứ 113: CÁI GÌ LÀM CHO CÁC CƠ QUAN TUYÊN RÁO PHẢN PHÁO LẠI CHÍNH MÌNH THẾ NHẨY? (Tô Hải). “Đó là tội ác muôn đời không ai có thể quên: ‘Cải cách ruộng đất, long trời lở đất’ bỗng dưng được triển lãm như một công ơn trời bể của đoảng-boác với nông dân Việt Nam! Một thắng lợi chưa từng có của kiểu tuyên truyền équivoque!“. Cuộc triển lãm của loài “lừa” (DLB).- Cải cách ruộng đất, bất nhân và sai lầm (DLB).
- Một tài liệu quan trọng của GS Lâm Thanh Liêm về Chính sách Cải cách Ruộng đất ở Việt Nam (1954-1994): Chính sách cải cách Điền địa của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu  —   Chính sách tập thể hoá ruộng đất sau khi Việt Nam được tái thống nhất  —  Áp dụng tân chính sách “đổi mới” nông nghiệp   —   Một nước điêu tàn vì đảng Cộng Sản Việt Nam dốt nát, quản lý kém   —   Triển vọng tương lai của nền kinh tế nông thôn Việt Nam   —   Thư tịch và Chú thích   — CÁC GIAI ĐOẠN «CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT» MIỀN BẮC VÀ «CẢI CÁCH ĐIỀN ĐỊA» MIỀN NAM   —   CHÍNH SÁCH CẢI CÁCH ĐIỀN ĐỊA CỦA TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM (ĐHSP Saigon).
H1- Cải cách điền địa ở miền Nam – Việt Nam Cộng hòa (VOER). Nguyễn Tiến Hưng: “‘Nhiều quan sát viên quốc tế đã cho chương trình ‘Người Cày Có Ruộng’ là một trong những chương trình cải cách điền địa thành công nhất ở các nước hậu tiến. Nó là điểm vàng son của nền Đệ nhị Cộng hòa’. Chương trình này đã tạo ra một tầng lớp tiểu nông đông đảo, thúc đẩy kinh tế hàng hóa trong nông nghiệp phát triển. Nông dân hăng hái sản xuất và năng suất lao động trong sản xuất lúa gạo tăng lên nhanh chóng. Đời sống của nông dân được cải thiện“.  – Tạ Phong Tần: Phải Trả Lại Quyền Tư Hữu Đất Đai Của Người Dân (TT Berlin).
- Đọc Đèn Cù thế nào? (Blog 5xu). – ĐÈN CÙ (FB Thái Bá Tân). “Đọc và rồi ngẫm nghĩ./ Không ai bắt phải tin./ Vì mình có đầu óc,/ Tai nghe và mắt nhìn./  Chưa đọc “Bên thắng cuộc”,/ Và “Đêm giữa ban ngày”,/ “Hồi ký” Cụ Tô Hải,/ Và “Đèn Cù” mới đây…/  Thì đừng vội qui chụp/ Hay chửi mắng người ta./ Sự đời phức tạp lắm./ Phức tạp sử nước nhà“.
- Báo động: Nhà báo Trương Minh Đức bị CA Bình Dương bắt cóc giữa đêm (DLB). “Lúc 22:45’, nhà báo Trương Minh Đức gửi thông báo trên facebook cho biết 14 viên công an đã kéo đến bao vây, xông vào nhà kiểm tra hộ khẩu… Lúc 23:40’, khuya ngày 11/9/2014, nhà báo tự do Trương Minh Đức đã bị hàng chục công an, dân phòng ập vào nhà riêng bắt đi một cách thô bạo“.
H1- Nhà văn đấu tranh Nguyễn Xuân Nghĩa mãn hạn tù (RFI). – Nhà hoạt động Nguyễn Xuân Nghĩa ra tù (BBC).  - Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa: Không ai ‘quản chế’ được tự do (DLB).   – Tôi biết ơn họ (DLB).
- Video: TNLT Nguyễn Đình Cương bị biệt giam và cùm chân (Đức Mẹ TV).
- Suy tư về Phong Trào Chúng Tôi Muốn Biết (DLB).
- Đặng Chí Hùng đến bến Tự Do (DLB).
- Trần Vinh Dự: Mờ nhạt Aung San Suu Kyi? (Blog VOA). “Với tư cách là một nhà bất đồng chính kiến, một người đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền, Suu Kyi có thể nói nhiều về các ý tưởng lãng mạn của cuộc tranh đấu. Với tư cách là một chính trị gia, bà phải chọn lựa và có những quyết định chính trị chắc chắn không thể làm hài lòng tất cả mọi người“.
- Mặt Trái Của Một Bức Tranh Thêu (Blog RFA). “… một vị Ủy Viên Trung Ương Đảng ‘kiêm’ Dân Biểu Quốc Hội như bà Võ Thị Thắng mà còn bị ‘rình rập truy sát,’ và cả ‘Bộ chính trị cũng biết nhưng không làm gì được…’ cơ mà. Phen này mẹ con bà Nga chắc chết, chết chắc, là chuyện đã đành. Điều không đành là chả hiểu liệu có người dân Việt nào thoát khỏi cảnh bị ‘rình rập’ hay ‘truy sát’ dưới chế độ hiện hành không?
- Hợp Tác: VOV Sẽ Nhuộm Đỏ VOA Hay Sẽ Bị Diễn Biến Hòa Bình? (Việt Báo).
- Làm Sao Bảo Vệ nổi Chủ Nghĩa Mác Lê? (Việt Báo). – Mời xem lại bài của Đại tá, Thạc sĩ NGUYỄN ĐỨC THẮNG trong mục Làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình”: Chủ nghĩa Mác – Lê-nin cần tiếp tục được bảo vệ và phát triển (QĐND).
- CÔNG DÂN HẠNG NHẤT VÀ HẠNG HAI (TNM).
- Từ Đại Học Tới Tàu Bệnh Viện: Đức Quốc Giúp Người Dân Việt (Việt Báo). “Không ai có thể ngờ và đoán trước được là chưa tới 10 năm sau ngày tàu bệnh viện Helgoland (1972) về nước thì một đoàn tàu khác Cap Anamur (1979) lại ra khơi lần này không cặp bến song ở ngoài khơi của Việt Nam để vớt đồng bào vượt biên sau biến cố 30 tháng tư năm 1975. Hai con tàu định mệnh đều xuất phát từ Bắc Hải (Hamburg) và người dân Đức Quốc lại thêm một lần mở rộng vòng tay cứu giúp người dân ty nạn đến từ Việt Nam; cứu giúp khoảng trên 10,000 người đang lênh đênh trên biển Đông, giúp họ được định cư trên lãnh thổ của Đức Quốc, sau đó được xum họp với các thân nhân trong chương trình đoàn tụ gia đình“.
- Việt Nam trong mắt Lý Quang Diệu (Blog VOA). “Lý Quang Diệu từng nói rằng lẽ ra vị trí số một ở châu Á phải là của Việt Nam. Theo ông, vị trí địa lý chiến lược, tài nguyên thiên nhiên phong phú là hai yếu tố hàng đầu có thể đưa Việt Nam trở thành người khổng lồ ở châu Á… Lý Quang Diệu tiếc vì Việt Nam không biết trọng dụng người tài, ông nói rằng người tài ở Việt Nam đã định cư ở nước ngoài hết rồi“.
- Sự thật về một ông Đại biểu Quốc hội “câm” (BĐX). “Một người ‘câm’ như thế, nay lại được đặt lên ngồi xổm trên cái tổ chức có nhiệm vụ phản biện chính sách, chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước, chả hóa ra giễu cợt cả cái tổ chức này? Hay là Đảng lựa chọn ông ấy để khỏi phải có phản biện gì hết, hoặc phản biện giả vờ cho ra vẻ dân chủ?“.   – Xem lại: Dấu ấn đại biểu Đặng Vũ Minh (VNN).
- Một đại biểu HĐND TP HCM bị bắt (BBC). – Một đại biểu HĐND TP.HCM bị bắt vì lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (TN).  – Vì sao ông Kiến bị bắt? (NLĐ). “Ông Kiến từng được tặng thưởng Huân chương Lao động hạng ba, bằng khen của Thủ tướng, UBND TP HCM và các bộ ngành trung ương“. Ngày càng có nhiều kẻ lừa đảo, lưu manh được khen thưởng, vinh danh, được tặng huân chương. Mời xem lại: – Đại biểu HĐND bị bắt từng được tặng thưởng nhiều danh hiệu cao quý (MTG).
- Bị tố nhận “lại quả”, 10 sếp đều phủ nhận (NLĐ). Không sếp nào nhận đã được “lại quả”, có lẽ phải nhờ những kẻ trộm giúp khám phá khối tài sản của mấy sếp để tìm ra số tiền “lại quả” kia. Lúc đó biết đâu lại có “một cô em” đứng ra nhận là đã cho, tặng, biếu số tài sản nọ cho mấy sếp?
- Phó Chủ tịch Nam Định lên facebook “báo cáo” dân (VnMedia). Bạch Ngọc Chiến, PCT Nam Định: “Chí ít, nếu không có người có tâm và có tầm thì làm sao hàng năm Nam Định có thể cống hiến cho đất nước 15.000 thanh niên ưu tú vào các trường đại học. Nếu nói đó là công lao của đội ngũ giáo viên và các nhà làm giáo dục thì không sai nhưng nếu lãnh đạo và các gia đình NĐ không tâm huyết và đầu tư thì không thể có kết quả đó được“.
Tưởng lãnh đạo Nam Định lên mạng “báo cáo” cái gì, hóa ra chỉ để nhận công và khoe thành tích. Một người lãnh đạo đúng nghĩa phải là người biết nghĩ đến người khác trước khi nghĩ tới bản thân mình. Lãnh đạo luôn vinh danh các cộng sự của mình khi có được thành quả, thay vì cho rằng nhờ tài lãnh đạo của mình mới gặt hái được những thành quả đó. Khi thất bại, lãnh đạo phải là người đầu tiên đứng ra nhận lỗi trước công chúng, thay vì đổ lỗi cho “cậu đánh máy” hay nhân viên dưới quyền của mình. Bao giờ Việt Nam xuất hiện những người lãnh đạo có được những tố chất của một người lãnh đạo phải có, thì may ra đất nước này mới ngóc đầu lên nhìn các nước láng giềng.
- Bí thư tỉnh ủy chơi golf giỏi là chuyện bình thường (GDVN). Bí thư tỉnh ủy mà lo cho dân đủ ăn, đủ mặc, đưa tỉnh nhà đi lên mới là bất thường…
- Bức cung, nhục hình làm suy yếu chế độ (TN). “Oan sai, nhục hình, bức cung chính là làm suy yếu chế độ, đời con đời cháu của họ có thù hằn với mình; gấp 2 – 3 lần chứ không phải chỉ với riêng cá nhân ông Nguyễn Thanh Chấn đâu. Qua vụ án ở Sóc Trăng, vụ Nguyễn Thanh Chấn cho thấy hậu quả hết sức khủng khiếp“.  – Bức xúc với án oan (NLĐ).
- Ông Nguyễn Thiện Nhân: Giải quyết tốt khiếu nại để an lòng dân (ĐSPL) (chứ không phải để thượng tôn pháp luật....?).
- Cấm cơ quan thuế mở lớp ôn thi tuyển công chức (ANTĐ).
- Đà Nẵng chi ngân sách khắc phục “sai lầm” của Bộ Y tế (KP).
- Phó Thủ tướng yêu cầu chấn chỉnh văn hóa công vụ (KP).
- Tiếp tục xử phạt một loạt báo điện tử, trang tin điện tử (MTG). – Bài 5 – Chất lượng chung cư Mường Thanh xuống cấp đến cỡ nào?   —  Bài 6 – Mường Thanh: Chung cư “siêu” rẻ, có rẻ thật không?    —  Bài 7 – Tự ý mở chợ tạm, BQL dự án Đại Thanh thông đồng thu về bạc tỷ?    —  Bài 8 – Mường Thanh không xuất hoá đơn, khách hàng “không biết đường nào mà lần”!   —  Bài 9: Cận cảnh cuộc sống “khổ sở trăm bề” của cư dân Đại Thanh   —   Bài 11: Có hay không việc Mường Thanh tiếp tay cho trốn thuế?   —   Bài 12: Dự án của “đại gia” Lê Thanh Thản bất chấp lệnh đình chỉ thi công   —  Bài 13: 47 ki ốt chợ tạm tại KĐT Đại Thanh sẽ bị tháo dỡ (KDPL).
- Vatican muốn thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam (RFI).
- Đàm phán TPP tiến bộ nhưng nhân quyền vẫn là trở ngại lớn với Việt Nam (VOA).  – Đàm phán TPP tại Việt Nam: rút ngắn nhiều khoảng cách (TBKTSG).
- Trung Quốc và Nga xây hải cảng tại Biển Nhật Bản (RFI).  – Nga và Trung Quốc bắt tay xây cảng biển cực lớn ở Đông Bắc Á (TN).
- Từ bỏ định chế hóa thân Tây Tạng: Bắc Kinh lên án Đạt Lai Lạt Ma (RFI).
- Trung Quốc tiết lộ hệ thống hỏa tiễn địa- không Hồng Kỳ mới (RFI).

- Liên Sơn: Thanh gươm và cây thốt nốt (VNTB). “Chúng ta không có xu hướng trách móc Trung Quốc về cách họ nhìn về đất nước chúng ta, họ cho ta là một nước nhỏ và là phiên thuộc (là đứa con hoang)…  Nhưng với tư thế là một người Việt, một bộ phận không nhỏ lại nhìn Campuchia bằng chính con mắt của Trung Quốc nhìn chúng ta. Một cái gì đó của kẻ bề trên“.
- Triển lãm CCRĐ – không trung thực hay quá sơ sài? (RFA). “Cái ảnh ông bố cởi trần kéo cày- hoàn toàn là những diễn viên diễn. Không đúng với nguyên lý, vật lý. Không đúng với bối cảnh. Cái cày đó gọi là cày 71 của nông cụ sản xuất, không phải là cày chìa vôi của thời cải cách. Cải cách làm gì có áo may-o, những tấm áo dài của địa chủ có thêu hoa văn chữ thọ“.
- Ba tôi và cải cách ruộng đất (VNTB). “Cố vấn Trung Quốc đi tới tận từng đội, hướng dẫn từng đường đi nước bước. Họ phán thôn này có bao nhiêu phần trăm địa chủ là phải moi ra đủ chừng ấy, chưa đủ thì đôn lên cho đủ, gọi là “kích thành phần” đấy. Xã ta có ông Đinh Cẩn giàu nhất, thì cũng chỉ sáu mẫu ruộng với dăm con trâu. Những nhà khác như ông nội con thì nhiều, cũng coi là xã giàu. Lập tức họ đòi quy cho bằng được 7% địa chủ“.
- GS Nguyễn Văn Tuấn: Cải cách ruộng đất: Lệ thuộc Nga – Tàu?Hai lá thư của cụ Hồ thêm những chứng từ về sự lệ thuộc vào Tàu và Liên Xô của chính quyền ngoài Bắc. Không ai ngạc nhiên về sự lệ thuộc ngoại bang thời đó. Nhưng vấn đề là chính quyền ngoài Bắc tuyên truyền rằng chính quyền miền Nam lệ thuộc vào Mĩ. Nói theo cách nói của Tây là vườn nhà mình không sạch mà chõ miệng sang chê vườn nhà người ta dơ“.
- Nhà nước Cộng Sản và nhà nước Hồi Giáo IS (DLB). “Có điều IS đã và đang giết những kẻ thù của họ. Trong khi đó CS thế giới nói chung Việt Cộng nói riêng đã và đang giết không những kẻ thù của họ mà còn giết cả đồng chí và những người từng cưu mang che chở cho họ…
- Báo cáo láo như bịt mắt đi trong đêm (RFA). “Cả cái đất nước như thế này, hàng trăm nghìn doanh nghiệp bị phá sản trong mấy năm vừa rồi thì làm sao tỷ lệ lao động thất nghiệp chỉ 1,84% được. Các nước như Mỹ, Nhật, Châu Âu nó ở cái số nào chứ làm gì có cái phẩy bao nhiêu. Mình nói như vậy là không biết xấu hổ trong vấn đề báo cáo“.
- Tô Văn Trường: LỜI NGUYỀN (BVN).
- Philippines truy quét nhập cư trái phép, một nửa bị bắt là người TQ (GDVN). Nếu VN ra tay truy quét nhập cư trái phái, có thể trên 90% là người Trung Quốc.
KINH TẾ
- Vì sao năng suất lao động Việt thấp nhất khu vực? (RFA). “Ví dụ mấy chuyên gia Trung Quốc ở trên la mắng mấy người chủ quản, giám đốc xưởng người VN thì mấy người này chửi xuống. Nhiều khi hàng do trời mưa ẩm bị lên sơn, xớ lông còn thì không làm sao chà sạch được. Mà chà không sạch thì bị chửi. Nhiều lúc công nhân bị oan ức cho nên công nhân chán nản“.
- Nhận định thị trường ngày 12/9: Hồi hộp lượng hàng khủng về tài khoản (ĐTCK).  – Cổ phiếu cần quan tâm ngày 12/9 (ĐTCK). – Đua nhau gom cổ phiếu dầu khí (KP).
- Bài học “cay đắng” từ vụ lỗ gần 200 tỷ đồng tại khách sạn Hà Nội Fortuna (Báo XD).
- Nhà máy Samsung tại Việt Nam đang khiến người dân “sống trong mơ” (VN Review).
- Tập đoàn dầu mỏ hàng đầu thế giới đầu tư vào Việt Nam (StockBiz).
- VN hoan nghênh Mỹ nhập nhãn, vải (TN).  – Hoan nghênh Hoa Kỳ cấp giấy phép nhập khẩu một số hàng nông sản Việt Nam (TTXVN/ QĐND). Báo QĐND không chống “Diễn biến hòa bình” à?
- Viện Khoa học Lao động: ‘Thất nghiệp từ xưa đến nay chỉ có giảm’ (VNE). Thất nghiệp luôn giảm, GDP luôn tăng, mà đất nước thì ngày càng tụt hậu.

VĂN HÓA-THỂ THAO
- Mùa chết/ phần 91-81 (Da Màu).
- Chẳng có gì hơn những cái lỗ buồn ♦ Chiếc bóng (Da Màu).
- Hà Nội hay Sài Gòn, ở đâu ‘dễ sống’ hơn? (BBC). “Và cho đến ngày hôm nay, như tôi nói chừng 10 năm nữa, có lẽ không phân biệt được giữa Sài Gòn với Hà Nội. Sài Gòn lúc nào cũng ảnh hưởng Âu – Mỹ nhiều. Hà Nội rất ảnh hưởng từ Trung Quốc, nhưng hai cái đấy đang trở thành một hỗn hợp…”
- Công tử Bạc Liêu tổ chức đại tiệc đều mời gái nhảy? (GĐVN).
- Vay mượn một cách sáng tạo (Nguyễn Đình Đăng).
- Từ định lý Viet, nhìn lại những scandal “Ai là triệu phú?” (PNTP).
- Hé lộ nhiều bí ẩn chưa từng biết đến về di tích Stonehenge (TTXVN).
- Dứt nợ Myanmar, U19 Việt Nam lần thứ hai vào chung kết (VnMedia).

GIÁO DỤC-KHOA HỌC
- Đầu năm sau, Bộ GD&ĐT sẽ công bố quy chế kỳ thi quốc gia (Tiin).  – Bộ GD ‘bật mí’ thêm tin mới về kỳ thi quốc gia (VNN).  – Giải đáp những thắc mắc của bạn đọc về kỳ thi quốc gia (HNM).
- GS Hoàng Tụy: Kiến nghị cuả Hội thảo về Chấn hưng, Cải cách, Hiện đại hoá Giáo dục cuả các giáo sư đã có nhiều đóng góp trong việc giáo dục và đào tạo (Văn Việt).
- Phải chấm cả triệu bài thi văn! (NLĐ).
- “Muốn được điểm 10 thì phải làm gì?” (GDVN).
- Điều giáo viên dạy giỏi làm cán bộ thư viện (TT).
- Tạm biệt câu hỏi ‘Hôm nay con được mấy điểm’ (VNN).
- Giáo viên THCS sẽ tham gia đánh giá học sinh lớp 5 kỳ thi cuối cấp (ANTĐ).
- Một trường tiểu học bị yêu cầu trả lại tiền lạm thu cho phụ huynh (GDVN).
- Nhà sáng chế khoa học “chân đất” khiến thế giới phải sửng sốt (ĐSPL).
- Tài khoản thư điện tử của các ĐH lớn trên thế giới bị rao bán tại Trung Quốc (GDTĐ).

XÃ HỘI-MÔI TRƯỜNG
- Cựu sĩ quan hải quân thiệt mạng vì lỡ ngồi uống rượu với kẻ côn đồ (GDVN).
- Bà lão giúp việc chết bất thường: Bị ngã hay bị đánh chết? (KT).
- Hàng trăm người đòi “xử” kẻ đánh tàn bạo nam sinh vào chỗ hiểm (ĐSPL).
- Đổ bồn chứa nước ở sân trường, 2 học sinh tử vong tại chỗ (NLĐ).
- Chuyện “lạ” về những người lái xe ôm ở bến xe Miền Đông (ĐSPL).
- Bị cáo lao đầu vào tường tự sát tại tòa (GDVN).
- Colgate có Triclosan gây ung thư: Nghe viện dẫn, thêm hoang mang (KT).
- 50.000 tài khoản Gmail của Việt Nam bị lộ mật khẩu (KT).

QUỐC TẾ
- TT Obama nới rộng chiến dịch chống nhóm Nhà nước Hồi giáo (VOA). – Ngoại trưởng Mỹ hội đàm với lãnh đạo Ả Rập Xê-út về liên minh chống IS (VOA).  – Phản ứng của giới lập pháp Mỹ về chiến lược của TT Obama (VOA). – Các nước vùng Vịnh họp bàn tham gia liên minh chống Nhà nước Hồi giáo (RFI).  – Can thiệp quân sự không đánh bại một hệ tư tưởng (Blog RFA).  – Lời kể của thiếu nữ bị bắt làm “quà tặng” cho IS (KP).
- Nga cảnh báo Mỹ ‘vi phạm luật quốc tế’ (BBC).  – Nga: Mỹ không kích Syria là “hành động xâm lược” (NLĐ).  – Phiến quân Syria phóng thích 45 binh sĩ gìn giữ hòa bình LHQ (NLĐ).
- “Quân ly khai mở rộng kiểm soát khu vực miền Đông Ukraine” (TTXVN).  – Kiev thừa nhận phe thân Nga kiểm soát một vùng rộng lớn (RFI). – Ukraine cho miền Đông thêm quyền tự trị (BBC).  – Thiết giáp tối tân nhất Ukraine tan tành ở miền đông (KT).
- Nguyễn Hưng Quốc: Chiến tranh lạnh lần thứ hai (Blog VOA). “Cuộc Chiến tranh lạnh hiện nay hoặc sắp tới sẽ là cuộc chạy đua giữa Mỹ và NATO với Nga ở vùng Đông Âu và giữa Mỹ và các đồng minh của Mỹ ở châu Á Thái Bình Dương với Trung Quốc“.
- Tổng thống Nga lệnh cho quân đội tại Viễn Đông sẵn sàng chiến tranh (RFI).
- Hoa Kỳ, Nga thảo luận về những cáo buộc vi phạm hiệp ước hạt nhân (VOA).
- Tổ chức Hợp tác Thượng Hải : Ấn Độ và Pakistan thành viên mới ? (RFI).
- Anh đứng ngồi không yên trong lúc Scotland sắp bỏ phiếu về độc lập (VOA).
- Tổng thống Hollande, tứ bề thọ địch (RFI).
- Lãnh tụ biểu tình Miến Điện vẫn bi quan về việc cởi mở chính trị (VOA).
- Thái Lan phủ nhận việc tra tấn sau khi ban hành thiết quân luật (VOA).
* RFA: + Sáng 11-09-2014; + Tối 11-09-2014

* RFI: 11-09-2014

* Video RFA: + Bản tin video sáng 11-09-2014

2951. Cải cách ruộng đất và hàng trăm ngàn cái chết oan ức

GS Nguyễn Văn Tuấn
11-09-2014
Sự kiện mang tên “Cải cách ruộng đất” (CCRĐ) xảy ra ở ngoài Bắc và lúc tôi mới sinh, nên tôi cũng như phần lớn các bạn chỉ biết về sự kiện qua báo chí, văn học, phim ảnh. Sự thật kinh hoàng và đau thương là hàng vạn, thậm chí hàng trăm ngàn người bị giết oan. Con số đó chắc chẳng làm ai xúc động, nhưng hãy thử tưởng tượng 120,000 xác người! Bẵng đi một thời gian dài, bây giờ người ta đem ra triển lãm về sự kiện kinh hoàng đó! Thật chẳng khác gì triển lãm thành tích … giết người. Trong bài này, tôi chỉ muốn chia sẻ cùng các bạn vài suy nghĩ cá nhân liên quan đến mục tiêu, con số tử vong, và những câu chuyện tan thương trong vụ CCRĐ.
Cuộc CCRĐ không chỉ xảy ra trong một thời điểm ngắn, mà kéo dài từ 1953 đến 1956, tức khoảng 4 năm qua 5 giai đoạn. Những người chủ trương CCRĐ làm có vẻ rất bài bản và có hệ thống. Khởi đầu là vận động và chuẩn bị hậu thuẫn của quần chúng, sau đó là ra sắc lệnh, rồi làm thí điểm, và vào cuộc ồ ạt. Có vài nguồn nói rằng lúc đó Chủ tịch Hồ Chí Minh không muốn làm CCRĐ, nhưng vì Tàu cộng gây áp lực lớn quá nên đành phải làm. Tôi không biết luận điểm này khả tín ra sao, nhưng cảm thấy rất khó chấp nhận, vì nó cho thấy rõ ràng là miền Bắc VN lúc đó chịu lệ thuộc Tàu quá lớn.


Mục đích
CCRĐ để làm gì? Một văn bản có tên là “Luật cải cách ruộng đất” do Chủ tịch Quốc hội Hồ Chí Minh kí (1) ghi rõ:
“Điều 1. – Mục đích và ý nghĩa cải cách ruộng đất là:
Thủ tiêu quyền chiếm hữu ruộng đất của thực dân Pháp và của đế quốc xâm lược khác ở Việt Nam, xoá bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ,
Để thực hiện chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân,
Để giải phóng sức sản xuất ở nông thôn, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và mở đường cho công thương nghiệp phát triển,
Để cải thiện đời sống của nông dân, bồi dưỡng lực lượng của nhân dân, lực lượng của kháng chiến,
Để đẩy mạnh kháng chiến, hoàn thành giải phòng dân tộc, củng cố chế độ dân chủ nhân dân, phát triển công cuộc kiến quốc.”
Dĩ nhiên, đó là “bề nổi” của mục đích, còn “bề chìm” thì có lẽ hiểu một cách khác. Có thể mục tiêu chính là xoá bỏ sự ảnh hưởng của giới giàu có và có học ở nông thôn. Thời đó, đại đa số nông dân không biết chữ, và giới có học thường là người nhà giàu, và những người này có thể nói là “proxy” lãnh đạo ở nông thôn. Người cộng sản muốn độc quyền lãnh đạo nên phải xoá bỏ thành phần giàu và có học này. Theo tôi nghĩ đó mới là lí do chính họ phát động cuộc CCRĐ.
Một lí do quan trọng nữa theo tôi nghĩ là họ muốn làm cho nông dân phải biết sợ sức mạnh của người cộng sản. Nên nhớ rằng phần lớn các cuộc khởi nghĩa hay nổi dậy đều xuất phát từ nông dân. Nông dân tuy không có học nhiều nhưng một khi họ đoàn kết lại thì trở thành một lực lượng rất khó khống chế. Do đó, người cộng sản phải thị uy quyền lực của họ qua CCRĐ. Rất có thể mục đích này giải thích tại sao họ xử bắn nạn nhân ngay trước mặt công chúng và người thân của nạn nhân. Có thể lúc đó những người hành xử như thế không thấy họ là dã man hay thú tính, mà họ thấy họ đã thị uy để khuất phục đám đông.
Một lí do khác là hệ quả của hai lí do trên có thể là họ muốn xoá bỏ nền tảng đạo lí vốn đã tồn tại qua hàng ngàn thế hệ của nông thôn VN. Họ muốn thay vào đó cái nền tảng đạo đức xã hội chủ nghĩa mà họ mới du nhập từ Nga và Tàu vào. Đó chính là lí do tại sao rất nhiều di tích lịch sử, đền đài, chùa chiềng bị đập phá một cách không thương tiếc. Họ muốn đoạn tuyệt với lịch sử và văn hoá VN.
Một cách trớ trêu, tôi nghĩ người cộng sản đã đạt được cả 3 mục tiêu chìm trên. Họ đã xoá sạch ảnh hưởng của giai cấp giàu và có học ở nông thôn và biến họ thành những phế nhân của xã hội. Họ đã thành công làm cho nông dân và cả xã hội nói chung phải sợ trước họng súng, đúng như Mao từng nói “chính quyền sinh ra từ họng súng”. Và sau cùng họ đã thành công một phần nào đó đoạn tuyệt với quá khứ và xoá bỏ ảnh hưởng của tôn giáo. Nhưng thành công nào cũng đi kèm theo những hệ quả khôn lường. Cái hệ quả lớn nhất, đau thương nhất, và kinh khủng nhất là giết chết hàng vạn người vô tội.
Bao nhiêu người chết?
Hậu quả kinh khủng nhất của CCRĐ là cái chết. Không ai có một con số thống kê chính xác về số người bị xử và số người bị giết, chỉ có ước tính. Những ước tính từ các chuyên gia trong và ngoài nước chênh lệch nhau rất lớn. Nhưng dù chênh lệch, họ đều nhất quán một điều là số người bị giết cao hơn 50,000. Tính trung bình mỗi ngày có gần 70 người bị các đội CCRĐ giết chết. Đó là một con số rất lớn, một vết thương dân tộc mang tính lịch sử mà tất cả chúng ta đều không được quên.
Trước hết, chúng ta hãy thử đọc thống kê chính thức của Nhà nước. GS Đặng Phong, một sử gia về kinh tế VN, đã dày công làm thống kê về CCRĐ và trong một cuốn sách “Lịch sử kinh tế Việt Nam” ông đưa ra con số người bị giết trong thời kì CCRĐ là 172,008. Đó là những người bị kết tội là kẻ thù của nhân dân, kẻ thù của giai cấp (2).
Nhưng chưa hết! Trong số 172,008 người bị kết án và giết chết đó, sau khi tổng kết thì Nhà nước kết luận rằng có đến 123,266 bị kết án oan. Nói cách khác, cứ 10 người bị kết án, thì có 7 người bị oan. Thật ra, “oan” ở đây có nghĩa là theo quan điểm của họ (người cộng sản) chứ trong thực tế có lẽ 100% đều là oan.
Nhưng giả dụ như 7/10 là oan, thử hỏi trên thế giới này có nơi nào mà án oan nhiều đến như thế. Điều này không ngạc nhiên, bởi vì những người gọi là “chánh án” hay ngồi ghế xử tử hình người khác toàn là loại “cóc nhái”. Sau đây là lời nói của một người từng chứng kiến CCRĐ: “Ôi! Tôi còn nhớ như thế này, tôi chưa bao giờ thấy lịch sử con người lại ngược đời như thế, đến nỗi phải nói là thời đại trâu bò đi “bí tất”, cóc nhái nhẩy lên làm người, mõ sãi ngày xưa nhẩy lên làm chánh án, làm thẩm phán. Thậm chí ngồi trên toà đấu bố mình.” (3)
Các chuyên gia nghiên cứu ở nước ngoài cũng đưa ra những con số nạn nhân bị giết chết trong CCRĐ. Các chuyên gia này dựa vào nguồn từ Việt Nam và suy luận, và kết luận rằng khoảng 50,000 đến 172,000 người bị giết chết (4-6) vì bị kết án là kẻ thù của nhân dân.
Theo wikipedia, một nguồn từ Bộ chính trị đảng CSVN thì chỉ tiêu tối thiểu là giết 1/1000 người Việt (miền Bắc) trong giai đoạn “giảm tô”. Con số này có nghĩa là tối thiểu 14,000 người bị giết trong thời giảm tô. Dĩ nhiên, con số bị giết chết trong các đợt CCRĐ kế tiếp phải cao hơn con số đó nhiều lần.
Một chuyên gia về đất đai của VN là Lâm Thanh Liêm (miền Nam) người đã phỏng vấn nhiều cán bộ miền Bắc đã hồi chánh cũng đưa ra một ước tính khác. Ông ước tính rằng số người bị giết dao động trong khoảng 120,000 đến 200,000. Con số này có vẻ phù hợp với số nhà và chòi của “địa chủ” được giao cho những người nông dân (những ông chủ mới). Lúc đó, người ta (ai đó?) đặt ra một chỉ tiêu là 5.68% dân số phải là “địa chủ”.
Nói tóm lại, các ước tính trên đây rất chênh lệch nhau, nhưng tất cả đều nhất quán rằng có ít nhất 50,000 người bị giết trong thời kì CCRĐ. Con số “trung bình” có lẽ là 120,000 người. Dân số miền Bắc lúc đó là khoảng 12 triệu. Như vậy, có thể ước tính rằng cuộc CCRĐ giết chết 1% dân số. Nếu tính trung bình trong 3 năm “cải cách” thì mỗi ngày các đội CCRĐ giết chết gần 110 người. Nên nhớ là MỖI NGÀY có đến ~110 người bị hành quyết. Thật kinh khủng!
Những câu chuyện thương tâm
Có rất nhiều câu chuyện đau thương về hậu quả của CCRĐ. Đã có nhiều người viết thành sách, tiểu thuyết. Ngay cả một người sắc máu như Tố Hữu mà còn phát biểu rằng “Không thể tả hết được những cảnh tượng bi thảm mà những người bị quy oan là địa chủ, ác bá (mà trong thực tế là trung nông) phải chịu đựng ở những nơi được phát động.”
Người bị xử bắn đầu tiên trong vụ CCRĐ là bà Nguyễn Thị Năm. Bà là một ân nhân lớn của các ông như Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Lê Thanh Nghị, Lê Giản, Hoàng Hữu Nhân (Bí thư Thành uỷ Hải Phòng), Hoàng Tùng, Vũ Quốc Uy, Hoàng Thế Thiện, v.v. Bà từng đóng góp cho Cácn mạng Tháng 8 20,000 đồng bạc Đông Dương (tương đương 700 lượng vàng). Con trai của bà có người làm đến chức trung đoàn trưởng trong quân đội Việt Minh.
Vậy mà khi CCRĐ xảy ra, người ta đem bà ra xử và bắn chết! Các ông như Trường Chinh (lúc đó là trưởng ban CCRĐ) và Chủ tịch Hồ Chí Minh ở đâu mà không can thiệp? Họ trả nghĩa bà Năm như thế chăng? Thứ tình nghĩa gì mà quái gở như thế? Trong cuốn “Trần Huy Liệu – Cõi đời”, tác giả Trần Chiến kể lại buổi đấu tố bà Năm như sau:
“Hôm ấy là ngày 22/5/1953, trời nắng chói chang. Để tránh cái nắng nóng nhiều người đã lấy cành cây che đầu, nhưng vì làm như thế thì người ngồi sau sẽ bị che khuất nên Chủ tịch đoàn đã yêu cầu mọi người vứt lá đi. Phiên tòa hôm ấy khoảng 1 vạn người. Cũng như ngày trước, Chủ tịch đoàn lại ra lệnh cho quần chúng hễ thấy địa chủ vào là đả đảo kịch liệt. Khi bà Nguyễn Thị Năm và hai con Hanh, Công (2) cùng đầy tớ là đội Hàm, Chính, Chiêu được Đội dân quân dẫn vào các bần cố nông đã bật dậy hô đả đảo vang trời. Có người còn đòi “bọn địa chủ gian ác” phải đứng lên cao và quay mặt tứ phía cho ai nấy đều trông thấy mặt để đả đảo.
Chủ tịch đoàn giới thiệu từng tên “địa chủ ác ôn” và ngắc ngứ đọc lý lịch, nhưng không nêu tội ác cụ thể. Cứ sau mỗi lần như vậy những người tham dự phiên tòa lại hô vang 3 lần: “Đã đảo, đã đảo, đã đảo!”.
Đám đông đã tỏ ra hết sức phẩn nộ trước thái độ của đội Hàm. Đôi mắt anh này cứ gườm gườm đầy thách thức. Nhiều người đã hét lên yêu cầu lính gác phiên tòa “tát cho nó nảy đom đóm mắt ra để nó cúi gằm mặt xuống mà nhận tội”. Rút kinh nghiệm lần trước, Chủ tịch đoàn tuyên bố đề nghị quần chúng phải giữ vững trật tự và không cần đánh đập tội nhân hay bắt quỳ, bò”.

Cũng có những người lên tố, nhưng do trình độ, học vấn không có nên nói không đạt ý, không rõ việc. Không ai hiểu họ nói gì. Một bà tên là Minh nói việc chẩn bần tại đồn điền Đồng Bẩm năm 1945 đã làm bao nhiêu người chết đói, rồi kết luận bằng những câu: “Mày đừng nhận là chủ đồn điền có được không?”, “Mày chỉ có hình thức thôi” và “Mày nói nhân nghĩa mà mày không nhân nghĩa gì cả” khiến người nghe không hiểu tội bà Năm ở đâu.
Còn một ông tên là Giồng tố cáo bà Năm đã cướp gánh cỏ của ông ta để cho ngựa của bà ăn và cướp cả giỏ củ mài làm cho cả nhà ông ta phải nhịn đói.
Hài hước hơn cả là trường hợp của một chị có tên là Lý. Chị Lý tố cáo rằng, chị ta là con nuôi của bà Năm, được bà Năm trang điểm cho để định gả cho một võ quan Nhật. Nhưng sau khi biết chị chỉ là thân phận tôi đòi, không có tiền của gì thì tên Nhật lại không lấy và chị lại bị bà Năm bắt lột trả lại quần áo, trở lại thân tàn ma dại như trước. Nội dung tố cáo chỉ là thế, nhưng vì chị ta vừa nói vừa khóc nên không ai rõ chị ta nói gì.”
Sau khi bà Năm bị tử hình, một bài báo xuất hiện trên tờ “Nhân dân” có tựa đề là “Địa chủ ác ghê” của tác giả kí tên là C.B. Bút danh này đã được ông Hồ Chí Minh dùng rất nhiều lần trong thời gian đó. Do đó, người ta nghi ngờ rằng chính ông Hồ là tác giả bài viết mang tính đấu tố này.
Đài RFA có hẳn một mục dành cho những câu chuyện mang tính cá nhân về CCRĐ. Sau đây là vài câu chuyện thật mà đọc lên chúng ta thấy không biết tại sao con người lúc đó quá tàn ác với nhau.
Về những người tố cáo, qua lời kể của Nhà văn Nguyễn Chí Thiện:
“Họ bị kích động nhiều, bị kích động hơn là bị ép buộc anh ạ. Nhưng số người mà sau này họ hăng say lao theo thì đông, chứ còn số người miễn cưỡng lên thì ít thôi. Nhưng phải nhớ một điều là từ đầu đã có một sự cưỡng bức rồi. Những người hăng say thì không phải là tự họ họ lên đâu, mà họ không lên cũng không được. Qua quá trình kể khổ rồi khơi sâu lòng hận thù thì nhiều người trở thành hận thù thật. Họ lên họ làm việc đó.
Chỉ riêng trong gia đình thôi thì là một sự miễn cưỡng rõ rệt anh ạ. Thí dụ như con dâu mà lên tố bố chẳng hạn, tố là ông ấy hiếp mình thế nọ thế kia thì ăn nói nó có vẻ gượng gạo, không có tinh thần hăng say như những người khác.
Có một điều đặc biệt là, ông ta đã ngoài 60 rồi, mà ông ta vẫn cứ phải xưng cháu hoặc xưng con với bất cứ một người nào lên đấu tố, dù người lên đấu tố chỉ đáng tuổi con ông thôi. Thâm chí tôi còn nhớ một cô con gái lên tố ông ta thì ông ta cũng phải xưng con với người con gái đó – con gái mình đẻ ra đấy ạ.”
Còn người ngồi ghế xử án:
“Bây giờ nói đến tòa án nhân dân mà ngồi xử thì toàn là nông dân thôi, toàn là nông dân họ sắp xếp lên ngồi thôi. Chị làm “chánh án”, tôi còn nhớ chị ấy còn mù chữ nữa anh ạ, không biết viết a,b,c thế mà lại lên làm chánh án.
Sau một ngày đấu tố nhục nhã như thế rồi thì họ bắt đầu họ tuyên án. Họ tuyên án với tất cả những tội ác mà địa chủ đã phạm phải, mà toàn bộ là bịa đặt thôi. Người ta tuyên án ông ấy tử hình. Đặc biệt là trong quá trình đấu tố thì ông địa chủ này không có quyền cãi mà chỉ có quyền bất cứ ai đấu tố thế nào đều chỉ có quyền “nhận tội” – nhận tội lỗi của mình chớ không hề có một lời cãi nào được phép cả.”
Họ làm gì với nạn nhân đã bi tử hình?
“Buổi hôm đó, tôi còn nhớ là sau khi đấu tố xong thì lập tức có 6 anh du kích. 6 anh du kích này đứng cách khoảng độ 2 mét… thế là bắn chết ông ta ngay. Sau khi bắn chết xong thì chặt dây thừng – không phải là cởi nữa mà là chặt dây thừng, lấy con dao chặt dây thừng ra và lôi ông ta ra chỗ cái hố đó. Xin nhớ một điều, không có áo quan anh nhá. Thế là họ vất tụt xuống hố đó là lấp đất ngay lập tức thôi. Lấp đất xong thì đất ấy cũng không được đấp thành mộ mà đấp bằng như bình thường thôi chớ không đấp gồ lên như một khối u như là một mộ phần anh ạ. Đấy là điều mà tôi chứng kiến tận mắt.”
Ông Nguyễn Văn Thủ kể lại vụ xử cha mẹ của vợ nhà thơ Hữu Loan:
“Bà ấy lên, lật ngửa mặt cụ ra, rồi chỉ vào tận mặt và nói: con Ly, tên bà cụ là Ly, vợ chồng mày ép buộc tao, phải gả con gái cho con mày…rồi bà ấy khóc hu hu lên…rồi xin đội cải cách cho đem con gái về… rồi bà ấy bảo là mày dụ dỗ con tao đi Nam để cho bố mẹ lià con…
Lúc ấy, tự nhiên nó như ma quỉ cám dỗ, người ta nhìn thấy nhà tôi, người ta như muốn ăn thịt luôn, họ muốn làm gì thì làm. Lúc ấy, người nào càng hăng hái, càng tốt, càng đấu tố, càng đánh đập, thì càng tốt. Có những người bị tử hình, ông cụ tôi bị kết án tử hình, bắn chết ngay, lôi ra bắn chết ngay, bắn ngay trước mặt mọi người, con cháu… Đấu tố bố mình, bắt phải ra nhìn…Còn những người khác bị tra tấn, bị chết thì cho là họ tự tử, bắn thì rõ ràng rồi, mấy trường hợp…Cuối cùng thì sửa sai, biết là sai lầm, rồi xin lỗi, thế thôi !”
Đối xử với nạn nhân như là thú vật. Trung tá Trần Anh Kim kể:
“Toàn bộ những cái bố tôi kể thì tôi còn ghi được nguyên cuốn băng. Cứ làm như thế, hàng ngày làm như thế, làm để bắt nhận là Quốc Dân Đảng. Bố tôi không nhận QDĐ, bố tôi bảo rằng bố tôi chẳng biết QDĐ là ai cả, chỉ biết đảng viên đảng CS thôi. Thế người ta không quy được cho bố tôi QDĐ thì người ta lại đưa bố tôi lên địa chủ luôn.
Địa chủ ngày đó là địa chủ “phân” anh ạ. Thí dụ mỗi một thôn là mấy địa chủ thì cứ thế người ta đưa lên thôi. Cuối cùng thì cũng bị tù không án, hai năm. Mà khốn nạn hơn thời tôi tù nhiều. Tức là tay thì trói cánh khuỷu ra đàng sau, chân thì cùm, quần áo thì chẳng có mặc, cứ nằm như thế ở dưới sàn chuồng trâu thôi.
Lúc bấy giờ tôi còn nhỏ, khoảng 10 tuổi, tôi mang cơm cho bố tôi thì khổ thế này: đầu tiên mang ra ngõ thì mình cũng chẳng biết gì cả, lúc bắt bố tôi thì tôi biết nhưng bắt ông tôi thì tôi không biết. Lúc bắt bố tôi thì tôi chỉ biết khóc thôi. Tôi thấy tự nhiên người ta đến nhà mình, 5 người đến, người ta dằn bố mình ra người ta trói mang đi, nói thằng này là QDĐ, trói mang đi thì mình chỉ biết khóc thôi. Không biết làm gì cả.
Ra ngõ thì gặp đội, thế là nó quát ầm lên: “thằng này con nhà QDĐ, cháu địa chủ, tại sao mày gặp chúng tao mày không chào, mày không quì xuống”. Lúc bấy giờ biết đâu được, chỉ khóc thôi. Tôi khóc và bắt đầu quỳ xuống, nó bảo từ nay trở đi mày gặp chúng tao mày phải quỳ xuống, mày lạy các ông đội, xin phép các ông đội, xin phép các ông cốt cán để tôi mang cơm cho ông tôi, cho bố tôi, thế thì chúng tao cho đi. Thế thì cuối cùng từ đấy thì cứ quen như vậy. Cứ ra ngõ gặp người ta là phải quỳ xuống, xong lại xin phép các ông cốt cán để tôi mang cơm cho ông tôi, cho bố tôi. Gọi là cơm nhưng có cơm đâu, chủ yếu là khoai thôi.
Nắm cơm mang xuống thì thế này. Người ta dùng ngay cái trét xúc cứt đấy ông ạ, xúc phân gà, nó xắn vào chén cơm. Tôi cũng chẳng biết gì cả, tôi chỉ biết người ta làm như vậy thôi. Nhưng ông thôi thì rất hăng. Ông tôi bảo tại sao lại phải làm như vậy thì nó bảo là phải kiểm tra xem bọn địa chủ nó có tiếp tế cho nhau không, nó có thông tin cho nhau không, chúng ta phải kiểm tra.
Có hôm thì họ làm như vậy, có hôm thì không có trét, nó rút ngay cái cọc ở chuồng lợn bên cạnh con trâu, thế thì họ chọc vào cơm, chọc luôn vào khoai, bảo chúng tao phải kiểm tra. Năm đó thì có gì đâu, có cái gáo dừa thôi mà. Cái gáo dừa treo hai cái dây lủng là lủng lẳng đem nước vô cho ông – nó đổ đi một nữa xong nó đái vào đấy. Tôi cũng chẳng biết gì, chỉ biết như thế thôi.
Nhưng ông tôi quát rầm lên thì nó bảo rằng cho chúng mày uống để mà sáng mắt ra, cho chúng mày hết tư tưởng bóc lột, hết tư tưởng ức hiếp nhân dân. Nó cứ chửi ông tôi như thế – tôi cũng chỉ biết khóc, chẳng biết làm thế nào cả. Mình chỉ mang đi cho ông, mang đến chỗ thì lại về rồi.”
***
Những câu chuyện thương tâm về CCRĐ thì cả bộ sách viết cũng chưa chắc đủ. Nhưng tôi có cảm giác là hình như vẫn chưa có những nghiên cứu hàn lâm về CCRĐ và hậu quả của nó, một phần có lẽ do thiếu thông tin (vì Nhà nước VN không cung cấp), một phần do bản chất “tế nhị” của vấn đề nên các nhà nghiên cứu trong nước không muốn/dám động đến.
Với hàng trăm ngàn người chết mà cho đến nay chẳng ai đứng ra chịu trách nhiệm về những tang thương xảy ra trong thời CCRĐ. Ngược lại, người ta còn có vẻ tự hào triển lãm những thành quả của CCRĐ! Mà, cuộc triển lãm cũng chỉ là những trưng bài mang tính một chiều, mà không dám trưng bày những góc cạnh tối của sự kiện. Người ta chỉ tuyên bố theo kiểu sáo ngữ như “Cải cách ruộng đất là một cuộc cách mạng dân chủ ‘long trời lở đất’, mang lại những giá trị to lớn của một xã hội mới, một chế độ mới, một cuộc sống mới cho người dân Việt Nam”, nhưng không dám nói lên sự thật về hàng trăm ngàn cái chết oan. Thật tình mà nói, tôi không rõ CCRĐ đã đem lại cuộc sống mới và giá trị mới gì, nhưng có lẽ đó là sự thành công trong việc xoá bỏ giai cấp “trí hào” ở nông thôn và nền tảng đạo lí của xã hội VN. Chúng ta đã thấy xoá bỏ giai cấp đó thì dần dần hình thành một giai cấp thống trị mới xem ra còn khắc nghiệt hơn và hệ thống hơn giai cấp trí hào cũ.
Cuộc CCRĐ còn làm đảo lộn luân thường đạo lí của xã hội VN. Có người Việt bình thường nào có thể tưởng tượng nổi con đấu tố cha, con dâu tố cha chồng, vợ đấu tố chồng, v.v. Tất cả đều chỉ là làm theo những vở kịch đã được diễn tập, hoặc bị kích động. Đây phải nói là một đề tài nghiên cứu tâm lí rất độc đáo. Một con người bình thường khi được trang bị cho một thứ chủ thuyết nào đó họ sẽ trở thành những tên sát nhân nguy hiểm. Đó là bằng chứng từ nghiên cứu vào thập niên 1950. Có lẽ những người đứng đằng sau cuộc CCRĐ đã rành những chứng cứ đó nên họ áp dụng rất thành thục, và hệ quả là một xã hội bị đảo lộn về tôn ti trật tự. Sự đảo lộn vẫn còn để lại hệ quả cho đến ngày hôm nay.
Một trong những ông tổ cộng sản và cũng là tên đồ tể giết người không gớm tay là Josef Stalin từng nói rằng “một cái chết là một thảm trạng; hàng triệu cái chết là một con số thống kê” (The death of one man is a tragedy; the death of millions is a statistic). Câu nói lạnh lùng hàm ý rằng giết một người thì sẽ có người quan tâm làm lớn chuyện vì họ động lòng, nhưng giết hàng triệu người thì chẳng mấy ai quan tâm vì người ta sẽ mệt mỏi với sự thương tâm (emotional fatigue) và nó chỉ là con số thống kê. Đối với nhà độc tài như Stalin thì mạng sống con người chẳng có nghĩa lí gì vì nó như là một con số thống kê.
Chúng ta thường hay kinh hãi trước những cái chết trong cuộc “cách mạng văn hoá” ở Tàu với hàng chục triệu người bị giết oan. Nhưng trớ trêu thay, ít người trong chúng ta kinh hãi trước 120,000 người hay 1% đồng hương của mình bị giết chết trong thời CCRĐ! Có người nghĩ rằng sự kiện CCRĐ là chuyện quá khứ, đảng và Nhà nước đã chính thức xin lỗi, nhắc lại làm gì. Nhưng tôi nghĩ suy nghĩ đó không đúng. Nhắc lại hay nghiên cứu về sự kiện trong lịch sử không phải để trả thù ai, mà để học hỏi từ những bài học quá khứ. Có triết gia từng nói và tôi đồng ý: Những kẻ nào không học từ lịch sử thì sẽ có ngày lặp lại những sai lầm của quá khứ. Do đó, phải học từ những sai lầm trong quá khứ để không vấp phải chúng một lần nữa.
—-
(1) http://www.moj.gov.vn/vbpq/Lists/Vn%20bn%20php%20lut/View_Detail.aspx?ItemID=1106
(2) Chương III trong cuốn Lịch sử kinh tế Việt Nam của Đặng Phong.
(3) http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/LandReform50YearsAgoP8_PAnh-20060519.html
(4) Bernard B. Fall (1967), The Two Vietnams: A Political and Military Analysis (London: Pall Mall Press, 2nd rev. ed.), p. 156.
(5) Robert F. Turner (1975), Vietnamese Communism: Its Origins and Development (Hoover Institution Press), pp141-3, 155-7.
(6) The History of the Vietnamese Economy (2005), Vol. 2, edited by Dang Phong of the Institute of Economy, Vietnamese Institute of Social Sciences.
(7) Alec Holcombe, Politburo’s Directive Issued on May 4, 1953, on Some Special Issues regarding Mass Mobilization Journal of Vietnamese Studies, Vol. 5, No. 2 (Summer 2010), pp. 243-247, quoting a translated Politburo directive from May 4, 1953. This directive was published in Complete Collection of Party Documents (Van Kien Dang Toan Tap), a 54 volume work authorized by the Vietnamese Communist Party.
(8) Lam Thanh Liem (1990), “Chinh sach cai cach ruong dat cua Ho Chi Minh: sai lam hay toi ac?” in Jean-Francois Revel et al., Ho Chi Minh, Nam A, pp. 179-214.
(9) http://www.rfa.org/vietnamese/SpecialTopic/landreform
Nguồn: FB Nguyen Tuan

Sự thật về một ông Đại biểu Quốc hội “câm”

Ông Đặng Vũ Minh
Ông Đặng Vũ Minh
Độc giả hẳn tò mò khi đọc cái tít này và tự hỏi, vị đại biểu nào vậy? sao bị câm mà vẫn được bầu vào Quốc hội?. Xin thưa, lúc bình thường thì ông ấy không câm, mồm ăn, mồm nói, mồm tâu, mồm hót đủ cả, nhưng chúng tôi dùng từ “câm” ở đây bởi vì ông ta tuy là đại biểu của dân, do dân, vì dân, vậy mà cả nhiệm kỳ ông ấy không một lần phát biểu về bất cứ vấn đề gì. Ông ấy là ĐẶNG VŨ MINH, ĐBQH tỉnh Tây Ninh.
Lý lịch tóm tắt của ông Minh lưu ở cơ quan Quốc hội như sau:

Họ và tên khai sinh: Đặng Vũ Minh

Họ và tên thường gọi: Đặng Vũ Minh

Giới tính: Nam

Ngày sinh: 11/9/1946

Dân tộc: Kinh

Tôn giáo: Không

Quê quán: Xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định

Nơi cư trú (nơi ở hiện nay): Phòng 303, nhà B6, Phường Nghĩa Tân, quận Cầu Giấy, Hà Nội

Trình độ học vấn: Tiến sỹ

Nghề nghiệp, chức vụ (khi trúng cử): Ủy viên BCH trung ương Đảng, Chủ tịch Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam

Nghề nghiệp, chức vụ (hiện nay): Ủy viên BCH TW Đảng, Ủy viên TVQH, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội

Nơi làm việc: Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, 35 Ngô Quyền, Hoàn Kiếm, Hà Nội

Ngày vào Đảng: 12/6/1983    Ngày chính thức: 12/6/1984

Khen thưởng: Giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ, Huân chương Lao động hạng nhất, Huy chương Kháng chiến chống Mỹ hạng nhì

Kỷ luật: Không

Trước đó là đại biểu quốc hội khoá (nếu có): XI

Đại biểu Chuyên trách:   Có
Qua cái lý lịch này thì thấy ông Minh có trình độ Tiến sỹ, tức là người không đến nỗi dốt, không biết gì để phát biểu như bà công nhân quét rác, hay ông chăn bò Hồ Giáo mà người ta cho vào QH hồi nào. Vậy nhưng kỳ lạ thay, ông Tiến sỹ này tuy chữ nghĩa đầy mình cũng “ngậm hột thị” suốt cả kỳ họp. Ông không một lần chất vấn, không một lần phát biểu, không có câu hỏi nào có tính chất phản biện, cũng không có câu hỏi khác. Ông không có câu hỏi nào có tính đại diện tỉnh mình, không có câu hỏi nào có tính đại diện cử tri của mình – những người đã bỏ phiếu cho ông trúng cử và cũng không có nổi câu hỏi nào có tính đại diện cho ngành mình. Thật sốc!. Đây là tư liệu mà tôi tìm thấy trên trang báo chính thống Vietnamnet ngày 19/6/2010, độc giả hãy vào đường dẫn này để kiểm chứng: daibieuquochoi.vietnamnet.vn/lever.aspx?id=161

Biểu đồ thể hiện sự tham gia của ĐB Đặng Vũ Minh trong các phiên thảo luận và chất vấn tại Hội trường ở kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XII

1

Theo như luật pháp Việt Nam hiện hành quy định về Địa vị pháp lý của ĐBQH thì: Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, không chỉ đại diện cho nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình mà còn đại diện cho nhân dân cả nước; là người thay mặt nhân  dân thực hiện quyền lực nhà nước trong Quốc hội.

ĐBQH có quyền trình dự án luật, kiến nghị về luật ra trước Quốc hội, dự án pháp lệnh ra trước Ủy ban thường vụ Quốc hội; Có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án TAND Tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Tối cao…

Về trách nhiệm thì ĐBQH chịu trách nhiệm trước cử tri, đồng thời chịu trách nhiệm trước Quốc hội về việc thực hiện nhiệm vụ đại biểu của mình;

Liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, thường xuyên tiếp xúc với cử tri, tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của cử tri; thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, kiến nghị của cử tri với Quốc hội và cơ quan nhà nước hữu quan; phải báo cáo trước cử tri  mỗi năm ít nhất một lần về việc thực hiện nhiệm vụ đại biểu của mình…

Qua bảng thống kê của báo Vietnamnet có thể thấy: Về quyền của mình, ông nghị Đặng Vũ Minh không thực hiện tí nào, ông mặc nhiên từ bỏ quyền đó. Về trách nhiệm thì cũng vậy, ông không thể hiện một trách nhiệm nào với cử tri của mình, với địa phương mà ông đại diện. Không lẽ cả tỉnh Tây Ninh với hơn một triệu dân không có vấn đề gì, không có bức xúc gì cần phải tỏ bày ở QH?. Không lẽ lĩnh vực khoa học công nghệ của ông không có vấn đề gì cần kiến nghị? Hay khoa học Việt Nam “nhất thế giới” rồi nên không còn gì để nói?.

Chi phí cho hoạt động Quốc hội ở Việt Nam khoảng 1.000 tỷ/năm (chi lương lậu, phụ cấp cho ĐBQH và bộ máy giúp việc, xe cộ, phương tiện, văn phòng, họp hành, in ấn tài liệu…). Quốc hội Việt Nam có 498 đại biểu, tính trung bình 2 tỷ/người/năm. Một nhiệm kỳ 5 năm, để phục vụ cho hoạt động của một đại biểu là dân ta mất 10 tỷ đồng. Vớ phải một ông “nghị gật” thì dân ta mất toi số tiền này. Hỡi ôi, sao người ta lại có thể chọn một người vô tích sự như ông Đặng Vũ Minh làm ĐBQH 2 khóa liền, lại là đại biểu chuyên trách, tức là ăn lương, xe cộ đưa rước, chế độ nhà cửa,v.v… để làm chuyên việc đại diện cho nhân dân. Không những thế ông còn làm đến Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, tức là ngang hàng Bộ trưởng. Chắc thế giới biết thông tin này sẽ phải cười thối mũi cả cái Quốc hội Việt Nam mất!.

Ông ĐBQH “câm” ấy bây giờ làm gì?

Chuyện qua rồi, nhẽ ra Trực Ngôn không xới lên làm gì, ông Minh ấy đã thôi làm ĐBQH, thôi chức Chủ nhiệm Ủy ban KHCNMT. Nếu ông cứ vui sống cảnh điền viên (với 2 biệt thự, mới bán bớt 1 cái ở Đốc Ngữ được trên 20 tỷ) thì chả nói làm gì, ngẫm ra ông cũng không tệ bằng tay Trần Văn Truyền – cựu Tổng Thanh tra Chính phủ. Tuy nhiên, có lẽ vì thấy ông “ngoan” mà Đảng lại tín nhiệm cho ông làm Chủ tịch Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (LHHVN) – một tổ chức đại diện cho trí thức lĩnh vực KHCN. Thế nên Trực Ngôn tôi mới lại lên tiếng. Theo như Chỉ thị 42/CT-TW ngày 16/4/2010 của Ban Chấp hành Trung ương thì một nhiệm vụ quan trọng của LHHVN là: Chủ động tư vấn, phản biện và giám định xã hội trong quá trình xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; các chương trình, dự án, đề án lớn về phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, kinh tế – xã hội trước khi cấp có thẩm quyền quyết định.

Một người “câm” như thế, nay lại được đặt lên ngồi xổm trên cái tổ chức có nhiệm vụ phản biện chính sách, chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước, chả hóa ra giễu cợt cả cái tổ chức này? Hay là Đảng lựa chọn ông ấy để khỏi phải có phản biện gì hết, hoặc phản biện giả vờ cho ra vẻ dân chủ?.

Từ khi ông Minh làm Chủ tịch LHHVN thì tổ chức này gần như không có tiếng nói nào. Suốt 4 năm qua không có nổi một phản biện nào. Nếu như cơ quan LHHVN của ông tự sống không dùng tiền Nhà nước thì Trực Ngôn cũng thôi không nói gì, nhưng khốn thay Nhà nước cấp cho cơ quan này tới 44 tỷ/năm, vậy là số tiền này lại rơi vào chốn vô thủy vô chung, trở thành “miếng phó-mát” cho một bọn tham nhũng xâu xé, Trực Ngôn đã viết trong nhiều kỳ báo rồi, xin phép không nhắc lại nữa!. Thôi thì an ủi, chả có tài thì có tí đức, thế nhưng về khoản này ông Minh cũng không được nốt. Cơ quan LHHVN tham nhũng nặng nề, tình trạng bè phái, mất đoàn kết, mua quan bán chức phổ biến. Cá nhân ông Minh đưa một đứa cháu họ dốt nát, nghiện ngập cờ bạc, ăn chơi thập thành là Đặng Vũ Cảnh Linh, đang làm giáo vụ quèn ở Học viện báo chí về làm Phó ban Thông tin và Phổ biến kiến thức (tương đương Vụ phó) mà không theo trình tự quy định của Chính phủ (và hiện tại ông Minh đang nhăm nhe cho tay này lên Trưởng ban), tay này phụ trách trang web nội bộ của cơ quan, chưa đến 100 lượt truy cập mỗi ngày mà tiêu của ngân sách 2 tỷ đồng mỗi năm. Ông Minh còn đưa một tay đàn em là Trần Sỹ Quý vừa kém năng lực, vừa quá tuổi bổ nhiệm (đã 58 tuổi khi được bổ nhiệm lần đầu, trong khi quy định của Chính phủ không quá 55 tuổi) lên làm Phụ trách Ban Tổ chức cán bộ, làm “bình phong” cho ông trong những lần ăn tiền bán chức. Không chỉ có thế, ông Minh còn nhặt nhạnh từ đồng công tác phí trở đi bằng những chuyến đi vô bổ xuống các địa phương mà chả có chương trình làm việc, ký kết hợp tác gì. Một cán bộ ở LHHVN đã cho biết: “Thủ đoạn rửa tiền ngân sách bằng cách làm chứng từ dởm ở LHHVN đã đạt tới trình độ siêu việt phải cấp bằng “sáng tạo khoa học” trong đục khoét ngân sách. Sở dĩ nó đạt tới đẳng cấp này là do nó đã được “bè lũ bốn tên” lãnh đạo LHHVN bật đèn xanh với câu nói nổi tiếng của một tay Phó Chủ tch “cứ có chứng từ hợp lệ là cho thanh toán”. Giời ạ! Hoá đơn đỏ mua đâu chả được, thế thì mua sắm thuê mướn gì cứ có hoá đơn đỏ là OK. Chả thế mà riêng tiền xăng xe cho Đặng Vũ Minh đi công tác là trên 300 triệu đồng/năm, tức là một mình lão này đã uống hết 12.000 lit xăng/năm để đi quãng đường tương đương 120.000 km/năm, chưa kể những lần hắn đi máy bay không tính. Nếu tính trung bình một người đi ô tô với tốc độ bình thường thì tối đa cũng chỉ đi được 300 km/ngày là mệt lử. Như vậy với số km nêu trên, lão Minh chủ tịch phải mất 400 ngày đi công tác liên tục. Một năm có 365 ngày,vậy mà lão này đi công tác những 400 ngày/năm thế mới tài! Đây có phải là bằng chứng tham nhũng không nhỉ? Với 4 tên lãnh đạo nhân lên thì là bao nhiêu hả quý v? Cánh lái xe cho lãnh đạo ở LHHVN sướng lắm, chỉ cần nộp hoá đơn mua xăng và được chủ ký cho làm thêm giờ là Ok. Tay Chánh Văn phòng cơ quan đã phải kêu lên là tiền làm thêm giờ ở LHHVN luôn vượt quá quy định của Bộ Tài chính. Có việc gì mà lái xe, kế toán phải làm thêm giờ nhiều thế nhỉ? Bằng cách mua hoá đơn đỏ, bịa ngày làm thêm giờ, bảo kê cho đàn em làm chứng từ dởm là mánh mà bè lũ bốn tên đã sử dụng để nuốt trôi 44 tỷ đồng một năm đấy bà con ạ. Chúng kiếm được bao nhiêu từ 44 tỷ đồng này thì quý vị đều có thể tính được phải không ạ? Sâu ở đâu? sâu ở đây, ở LHHVN này nè ông Bá Thanh ơi đến mà hốt đi!”.
 
Có lẽ không cần phải bình luận gì thêm nữa. Bài viết đã dài, Trực Ngôn xin dừng bút, để bạn đọc tự phán xét.
TRỰC NGÔN
(Blog Bà Đầm Xòe)
 

2953. Cải cách ruộng đất: Lệ thuộc Nga – Tàu?

GS Nguyễn Văn Tuấn
12-09-2014
H2Có lẽ chẳng phải là một “phát hiện” vì hai lá thư dưới đây đã xuất hiện khá lâu trên mạng. Đó là hai lá thư cụ Hồ Chí Minh gửi cho Stalin vào ngày 30/10/1952 và 31/10/1952. Nội dung thư vừa báo cáo vừa xin ý kiến chỉ đạo của Stalin về cuộc “Cải cách ruộng đất” (CCRĐ). Hai lá thư là chứng từ cho thấy thời đó miền Bắc VN quá lệ thuộc vào Tàu và Nga (Liên Xô).
Lá thư thứ nhất đề ngày 30/10/1952 báo cáo cho Stalin biết rằng ông (Hồ Chí Minh) đang soạn đề án CCRĐ. Ngoài việc xin viện trợ về thuốc men và vũ khí, ông xin được “chỉ thị” của Stalin về vấn đề CCRĐ.
Lá thư thứ hai thì ngắn hơn thư thứ nhất. Đáng chú ý trong thư này là chương trình hành động CCRĐ có sự trợ giúp của Lưu Thiếu Kỳ (?) và một người Tàu khác tên là Văn Sha San (*). Thư ghi rõ ràng là xin được “chỉ dẫn”.
Miền Nam cũng có cải cách điền địa dưới cái tên (tôi nghĩ) hay hơn: “Người cày có ruộng”. Nhưng khác với CCRĐ ở ngoài Bắc, người cộng sản du nhập “đấu tranh giai cấp” vào công cuộc cải cách, ở miền Nam người ta thực hiện một cách êm thắm, không có ai chết hay bị oan ức (ít ra là trên báo) và cũng chẳng có đấu tố man rợ như vụ CCRĐ ngoài Bắc. Chính quyền miền Nam lúc đó chẳng xin chỉ thị hay xin hướng dẫn của ai. Có thể đọc bài của Ts Nguyễn Tấn Hưng để biết thêm chi tiết và thống kê thời “Người cày có ruộng”.


Hai lá thư của cụ Hồ thêm những chứng từ về sự lệ thuộc vào Tàu và Liên Xô của chính quyền ngoài Bắc. Không ai ngạc nhiên về sự lệ thuộc ngoại bang thời đó. Nhưng vấn đề là chính quyền ngoài Bắc tuyên truyền rằng chính quyền miền Nam lệ thuộc vào Mĩ. Nói theo cách nói của Tây là vườn nhà mình không sạch mà chõ miệng sang chê vườn nhà người ta dơ.
====
H1Thư ngày 30-10-1952
Đồng chí Stalin kính mến
Tôi đã bắt đầu soạn thảo đề án cải cách ruộng đất của Đảng Lao Động Việt Nam, và sẽ giới thiệu với đồng chí trong thời gian tới.
- Tôi gửi tới đồng chí một số yêu cầu, và hi vọng sẽ nhận được chỉ thị của đồng chí về những vấn đề này.
1. Cử một hoặc 2 đồng chí Liên Xô tới Việt Nam để làm quen và tìm hiểu thực trạng ở đó. Nếu như các đồng chí đó biết tiếng Pháp đủ để có thể giao tiếp với nhiều người. Từ Bắc Kinh tới chỗ chúng tôi đi đường mất khoảng 10 ngày.
2. Chúng tôi muốn gửi tới Liên Xô 50-100 du học sinh, với trình độ văn hóa lớp 9 ở Việt Nam, trong số họ có người là Đảng viên và cũng có ngừơi chưa phải là Đảng viên, độ tuổi của họ từ 17-22. Đồng chí nhất trí về vấn đề này chứ.
3. Chúng tôi muốn nhận từ phía các đồng chí 10 tấn thuốc kí ninh ( thuốc sốt rét) cho quân đội và dân thường, có nghĩa rằng 5 tấn trong nửa năm
4. Chúng tôi cần những loại vũ khí sau
(a) Pháo cao xạ 37 li cho 4 trung đoàn, tất cả là 144 khẩu và 10 cơ số đạn cho mỗi khẩu pháo.(b) Pháo trận địa 76,2 li cho 2 trung đoàn, tất cả là 72 khẩu và 10 cơ số đạn cho mỗi khẩu(c) 200 khẩu súng phòng không 12,7 li và 10 cơ số đạn cho mỗi khẩu
Sau khi nhận chỉ thị của đồng chí về những vấn đề trên, tôi dự định vào ngày mùng 8 hoặc là mùng 9 tháng 11 sẽ rời khỏi Moscow.
Gửi tới đồng chí lời chào cộng sản và lời chúc tốt đẹp nhất
Hồ Chí Minh
30-10-1952 (đã ký)
(Trong bức thư thứ 1, Hồ Chí Minh ký tên Tàu.)
=====
H1Thư ngày 31/10/1952
Đồng chí Stalin thân mến:
Xin gửi ngài chương trình cải cách ruộng đất của Đảng lao động Việt Nam.
Chương trình hành động được lập bởi chính tôi dưới sự giúp đỡ của đồng chí Lưu Shao Shi, Văn Sha San (*).
Đề nghị ngài xem xét và cho chỉ dẫn.
Gửi lời chào cộng sản.
Hồ Chí Minh, 31/10/1952
Nguồn: FB Nguyen Tuan
——
(*) Lưu Shao Shi và Văn Sha San là Lưu Thiếu KỳVương Giá Tường

2954. Cải cách ruộng đất: Mưu Thầy thâm ghê!

Dương Trọng Đông - Cựu sĩ quan QĐND

Cải cách ruộng đất là chuyện bị xúi bẩy. Một thứ Cao Biền dậy non. Tưởng “hậu sinh khả úy”, ai ngờ vẫn cứ mở mắt theo tiếp… Đúng là “hai lần dại thành bốn”.
09-12-2014
H1
Dù không muốn nhắc lại cụm từ “cải cách ruộng đất” (CCRĐ), tôi vẫn hoan nghênh quyết định sáng suốt nhưng muộn màng của Ban Tổ chức đã đóng cửa cái triễn lãm (thâm độc) không mấy người vui nhưng chắc chắn có ức triệu… ức triệu… người hờn, kể cả những linh hồn đã khuất.
“Mua hột mà nuốt”
Trong quê tôi, người dân gọi việc nghe theo ai đó xui dại làm chuyện bất cẩn như mở ra cái triển lãm vừa rồi là mua hột (tức là ‘mua hạt trái cây’) về mà nuốt.
Dân xứ Nghệ nói trúng phắp cho cái triển lãm này.
CCRĐ là vết thương “long trời lở đất” trong lòng dân tộc-quốc gia. Ông bác sĩ “Thời gian” còn lâu mới khỏa lấp được hết cái khoảng trống huyếch, trống hoác trong tâm thức những người Việt từ khắp mọi góc bể chân trời.
Dù bên mé ngoài, vết thương đôi chỗ có chút lên da non, nhưng với cái triễn lãm này, ai đó đã chọc vào trung tâm cái “hố đen” ấy, ngoáy nó lên để gây lại nhiễm trùng.
Việt Nam đang dùng công nghệ truyền thông của thế kỷ 21 để quảng bá cho cái triết lý “Trí, Phú, Địa, Hào…” mà chắc Khơ me Đỏ từ xứ Chùa Tháp cũng phải thán phục.

Và nếu cứ tiếp tục như vậy, một bộ phận nào đó trên cơ thể của quốc gia này không chừng sẽ dẫn đến hoại tử.
“Đơn giản như đan rổ!” CCRĐ vốn là chuyện bị xúi bẩy, Cao Biền dậy non. Việt Nam hồi đó vốn vướng bận vào cuộc trường kỳ kháng chiến nên “phụng mệnh ý chỉ” chậm. Lãnh đạo cao nhất đã từng phải sang tận nơi kiểm thảo (không phải trước dân ta đâu nhé!).
Tưởng “hậu sinh khả úy”, ai ngờ vẫn cứ mở mắt theo tiếp… Đúng là “hai lần dại thành bốn”. Thế kỷ trước làm ẩu (nên phải sửa), thế kỷ này “bới” ra để “ngửi” lại (rồi sửa tiếp).
Đúng là “sai đâu sửa đấy” cho dù “sửa đâu sai đấy”.
“Nhất cử lưỡng tiện”
Nếu “Địa chủ ác ghê” thì “Mưu Thầy cũng thâm ghê”.
Tin cho hay cuộc triển lãm CCRĐ bị đóng cửa vì lý do thiếu ánh sáng trong chiều hôm qua. Lại đúng phắp, nhưng phải kết thúc câu trong thông báo cho trọn vẹn, đó là “do thiếu ánh sáng… trí tuệ” và không chỉ là trong chiều hôm thứ Năm!
Để “công đồn” vào cái “ý Đảng lòng Dân” ta vẫn thường hay tuyên truyền thì cái triển lãm này đã hoàn thành “sứ mệnh lịch sử” của nó ngay hôm khai mạc.
Chưa bao giờ ý Đảng lòng Dân lại lệch pha như hôm ấy. Cứ nghe mấy cái tuyên bố “vòng vo tam quốc” của Tiến sĩ này, Giáo sư nọ về triển lãm ngay trên các báo lề phải thì cũng thấy mọi chuyện thật là… “lợi bất cập hại”.
Đừng nói xứ ta không có dân chủ mà oan. Ở Bắc Triều Tiên chẳng hạn, vỗ tay tỏ ra không nhiệt tình cũng đã đủ để “chu di tam tộc”.
Nhưng chuyện gì xẩy ra nếu như Thầy vẫn cứ bắt “tái khai” cái triển lãm đang nửa đóng nửa mở ấy?
Đằng nào thì cũng một công đôi việc. Sẽ tổ chức ra một số kẻ “đóng thế” bà con Dương Nội, gây rối ở triển lãm. Vừa lấy đó để dẹp đám Dương Nội thật, vừa có lý do để đóng cửa vĩnh viễn cái triển lãm hồ đồ ấy.
Cũng như đã “trừng trị” tuy không dám xử công khai “người biểu tình” đập phá các công ty nước ngoài (mà tuyệt nhiên Công an Việt Nam, cảnh giác cách mạng là thế, “còn đảng còn mình” là thế, mà từ Nam ra Bắc chẳng biết gì hết trọi).
Nhưng nhờ mấy kẻ đập phá hôi của ấy mà dẹp được các cuộc biểu tình yêu nước vì biển đảo quê hương.
Thật là “một hòn đá giết hai con chim”.
D.T.Đ

2955. Cải cách ruộng đất: Lợi bất cập hại!

AFR Dân Nguyễn
12-09-2014
Thật là lợi bất cập hại… Không hiểu vì động cơ gì và do Ban Bệ nào chủ xướng mà Triển lãm về Cải cách ruộng đất (CCRĐ) được tổ chức tại HN; Có lẽ những người chủ trương bày đặt ra triển lãm này là  nhằm “khôi phục” lại một chính sách hợp lòng dân: Người cày có ruộng do CCRĐ đem lại (dù rằng ngay sau đó không lâu, tất thảy ruộng đất mà người cày có do được cách mạng chia đã bị gom ngay vào các hợp tác xã (HTX). Thật nực cười, là thông tin chính thống hầu như chẳng có gì để vẽ, ngoài một vài hình ảnh được bày đặt trong phòng triển lãm, mà mục đích là cố tình tố khổ bần cố nông- đối tượng chiếm tuyệt đại trong Dân chúng trước và sau CM, tố cáo tội ác địa chủ, và kể công cuộc cách mạng “long trời lở đất” đem lại: Người cày có ruộng”…,trong khi không hề đả động tới hậu quả khủng khiếp mà cuộc CCRĐ do đảng , nhà nước cs đã gây ra .
“Sửa sai”, “xin lỗi”, thút thít… là những thứ được đem ra để chuộc  cho hàng vạn những oan hồn chết thê thảm, chết tức tưởi, chết nhục nhã. Sửa sai mà không hề có ăn năn về lỗi (thực ra phải gọi là tội ác) là điều khó có thể dung thứ! Vô vàn những trường hợp được “sửa sai”, nhưng rất chậm, qua loa chiếu lệ và không hề thỏa đáng. Bắn người cũng có chỉ tiêu! Và thật khủng khiếp, để đạt cho được “chỉ tiêu”, nhiều cái chết được rút ra từ sự sống.

Cho rằng, về vật chất người làm sai, kẻ gây ra tội ác có thể “sửa”; nhưng mạng sống và danh dự, nhất là những tổn thương về tinh thần, tình cảm và đạo lý thì không một hành động “sửa sai” nào khắc phục nổi. Chỉ có lòng tha thứ của Chúa mới có thể xoa dịu nỗi đau…  
Những kẻ  gây ra cuộc tao loạn mang tên CCRĐ, ngồi trên đỉnh cao quyền lực không  dừng bàn tay tội ác  ở đó. 20 năm sau CCRĐ, lúc họ đoạt được nửa nước còn lại từ tay chính quyền MN, họ đã gây thêm một tội ác kép: đó là cuộc “cải tạo tư sản” và đưa hàng vạn quân cán binh chế độ cũ ở MN đi “Học tập cải tạo”, mà thực chất là bỏ tù, là trả thù…
 Đối với cuộc “cải tạo tư sản”, tuy không tàn bạo đến mức man rợ như những gì đã xảy ra trong CCRĐ, không có xử bắn hàng loạt, nhưng đó là vụ cướp boc trắng trợn dựa vào quyền lực, là cuộc đại phá hoại nền kinh tế một đất nước. Ở lĩnh vực văn hóa, tư tưởng, nhiều cuộc “ Cải cách ruộng đất”  cũng được tiến hành nhằm triệt hạ những tư tưởng tiến bộ, nhằm củng cố quyền lực của cái gọi là nhà nước của “giai cấp vô sản”.
Thật ghê sợ là 20 năm sau CCRĐ, thế giới có biết bao sự thay đổi về nhận thức, về tư tưởng, nhưng những bộ não làm nên cuộc CCRĐ thì vẫn không có chút thay đổi. Họ đi từ sai lầm này tới sai lầm khác. Sai lầm này chồng lên sai lầm kia. Sai lầm sau nghiêm trọng hơn sai lầm trước. Chính những cán bộ của chế độ (cán bộ hàng tỉnh, thành phố) nhiều lúc ăn nhậu hay lúc du hý, hứng chí  thường nói đùa khôi hài “sai đâu sửa đấy. Sửa đâu sai đấy!)… Thật bi hài cho chế độ “ưu việt” này… Còn mọi hệ quả thì dân đen gánh chịu…
Nhân vụ triển lãm về những hình ảnh liên quan tới CCRĐ đang diễn ra, báo “mạng” no nê tin, bài vở. Toàn là những dữ liệu xác thực. Đó là những hình ảnh đau thương và oan khuất tày đình, mà những kẻ thủ ác bôi xóa tội ác chỉ bằng dăm ba lời xin lỗi (ngay cả những lời xin lỗi cũng chưa thực tâm, chưa ăn năn). Và người ta biết chắc một điều, cuộc triển lãm về CCRĐ cũng sớm phải đóng cửa.
Người viết những dòng này cũng ít nhiều lưu giữ vài hình ảnh liên quan tới cái gọi là CCRĐ- một cuộc tắm máu thật sự. ”Nhất Đội nhì giời…”. Đó là câu mà thuở nhỏ người viết thường nghe được từ  bậc sinh thành. Tuy nhiên hồi đó do còn nhỏ nên không hiểu ý nghĩa của câu nói như một thành ngữ đó. Sau này lớn lên, tìm hiểu về “cuộc cách mạng long trời lở đất”, biết quyền lực mà Đội được trao vào tay, mới thấy câu nói trên “chuẩn khồng cần chỉnh”.  “Cóc ngóe nhảy lên làm người!” cũng được dùng để mô tả về “một thời đã qua”- thời của các ông Đội được quyền bắn người.
Rồi sau này, một người bạn là cán bộ an ninh có phẩm hàm (mà người viết vẫn thường gọi đùa là “Công an trí thức”) cho mượn cuốn tiểu thuyết “Chuyện ba người khác” của nhà văn Tô Hoài. Từ đầu tới cuối cuốn tiểu thuyết không đề cập gì khác ngoài một Đội về làm công tác CCRĐ tại một làng quê. Cái thứ quyền lực như ngựa hoang không ai kiểm soát đã tác yêu tác quái ra sao. Mấy “ông đội” (điển hình là nhân vật Cự), văn hóa chưa qua lớp bình dân học vụ, nhưng bỗng dưng một thứ siêu quyền lực trao vào tay. Đó là thứ quyền sinh quyền sát mạng sống con người. Một ve thuốc lào, một lời ngọt nhạt có thể một mạng người được tha. Và ngược lại…
Đảng đã cất nhắc họ, từ những kẻ thất học, dốt nát, nghèo kiết xác vào vị trí của kẻ ngồi trên cao phán xét mạng sống con người. Và nhờ có thứ quyền lực đảng trao cho cách thừa mứa, họ- những “ông Đội” đã biết hủ hóa rất sớm. Cái Đơm, một thôn nữ phốp pháp và lành như đọn rơm, là đồ chơi của Đội. Các nữ dân quân ngủ đêm, Đội thích cứ việc mò vào. Đội không chỉ biết mỗi việc bắn người theo sở thích của kẻ thất học, nhưng còn đầy mánh qué, mưu ma chước quỷ của cán bộ cs thực thụ trong việc đấu đá, đạp đồng chí xuống để mình vươn lên đỉnh cao quyền lực…
Một tội hình sự rất bình thường, với cái án tối đa có thể chỉ là một vài ba năm tù, mà tòa án theo đúng nghĩa, phải xử theo các cấp, từ sơ thẩm, tới phúc thẩm…, trong phiên tòa còn có sự tranh tụng “nảy lửa” giữa các luật sư…rồi nghị án cách cẩn trọng của tòa…; rồi nhân chứng, bằng chứng, rồi bị cáo còn được quyền kháng cáo…;nhưng với cuộc cách mạng “long trời lở đất”- cuộc CCRĐ, một tòa án nhân dân với kiến thức trẻ trâu về luật pháp của những kẻ ngồi ghế quan tòa, lại được trao vào tay quyền uy tối thượng, được kích động và giật gây bởi “cố vấn” nước ngoài có truyền thống sát nhân…, thì máu chảy đầu rơi, oan khuất tày trời là điều khó tránh khỏi…
“Ôn cố tri ân” là điều nên làm; Nhưng bảo thủ đến cùng, và bằng mọi giá lấp liếm sự thật là điều đáng lên án, đáng đưa ra tòa công luận luận tội.
Người chết không thể sống lại.
Và những oan hồn không siêu thoát, những hệ lụy về một xã hội bị băng hoại, đạo lý suy đồi  bởi cuộc tao loạn nồi da xáo thịt mang tên CCRĐ, là điều cần viết cho tới khi không còn “trúc Nam Sơn” nữa…

Việt Nam 1945-1995 – Phụ Lục

Phụ Lục A: Tờ Chiếu của Vua Bảo Đại sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh

Ba ngày sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh và hai ngày trước khi Việt Minh giành được chính quyền ở Hà Nội, Vua Bảo Đại tuyên cáo với quốc dân, xác định tư cách độc lập của Việt Nam, nhưng tiên liệu việc Pháp có thể theo chân Đồng Minh về tái chiếm Đông Dương. Ông kêu gọi tất cả mọi người yêu nước giúp ông lập chính phủ mới để “đương đầu với một cuộc tái hồi ngoại thuộc. ” (Khi đó, chính phủ Trần Trọng Kim vừa từ chức.) Trước tình hình chính trị sôi động ở trong nước, Vua Bảo Đại đã có một lời nói lịch sử: “Trẫm ưng làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nước nô lệ.”
VIỆT NAM HOÀNG ĐẾ BAN CHIẾU
Cuộc chiến tranh thế giới đã kết liễu. Lịch sử nước Việt Nam hiện tới một thời kỳ nghiêm trọng vô cùng.
Đối với dân tộc Nhật Bản, Trẫm có nhiệm vụ tuyên bố rằng: Dân tộc ta có đủ tư cách tự trị và nhất quyết huy động tất cả lực lượng, tinh thần và vật chất của toàn quốc để giữ vững nền độc lập cho nước nhà.
Trước tình thế quốc tế hiện thời, Trẫm muốn mau mau có nội các mới.
Trẫm thiết tha hiệu triệu những nhà ái quốc hữu danh và ẩn danh đã nỗ lực chiến đấu cho quyền lợi dân chúng và nền độc lập nước nhà mau mau ra giúp Trẫm để đối phó với thời cuộc. Muốn củng cố nền độc lập của nước nhà và bảo vệ quyền lợi của dân tộc, Trẫm sẵn sàng hi sinh về tất cả các phương diện.
Trẫm để hạnh phúc của dân Việt Nam lên trên ngai vàng của Trẫm. Trẫm ưng làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nước nô lệ. Trẫm chắc rằng toàn thể quốc dân cùng một lòng hi sinh như Trẫm.
Trong sự chiến đấu mà ta cần phải đương đầu với một cuộc tái hồi ngoại thuộc, toàn thể dân tộc Việt Nam chắc chắn ở sự đắc thắng của công lý và nhân đạo và tin rằng chỉ một nước việt Nam độc lập mới có thể cộng tác một cách có hiệu quả với tất cả các nước để gây dựng một nền hòa bình vững chắc ở hoàn cầu.
Khâm thử,
Phụng ngự ký: Bảo Đại
Ban chiếu tại Thuận Hoá ngày 10 tháng 7 năm Bảo Đại thứ 20 (Dương lịch ngày 17 tháng 8 năm 1945)
Số 181 CT Ngự tiền Văn phòng cung lục Thuận Hoá ngày 11 tháng 7 năm Bảo Đại thứ 20 (Dương lịch ngày 18 tháng 8 năm 1945)
Quan Tổng Lý
Ký tên: Phạm Khắc Hòe
———-

Phụ lục B: Tờ Chiếu Thoái Vị của Vua Bảo Đại

Ngày 25 tháng Tám, 1945, Vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị để trao quyền cho chính phủ Hồ Chí Minh vừa được thành lập trước đó một ngày. Ông nhấn mạnh rằng “sự hi sinh của trẫm phải có bổ ích cho tổ quốc Ông đưa ra ba điều mong ước cho chính phủ mới, đối với tông miếu và tăng tẩm nhà Nguyễn, đối với các đảng phái quốc gia, và đối với quốc dân, tất cả đều hướng về chủ đề “Đoàn kết là sống, chia rẽ là chết ”
VIỆT NAM HOÀNG ĐẾ BAN CHIẾU
• Hạnh phúc của dân Việt Nam
• Độc lập của nước Việt Nam
Muốn đạt mục đích ấy, Trẫm đã tuyên bố: Trẫm sẵn sàng hi sinh hết cả mọi phương diện, và cũng vì phương diện ấy nên Trẫm muốn sự hi sinh của Trẫm phải có bổ ích cho Tổ quốc.
Xét thấy điều bổ ích cho Tổ quốc lúc này là sự đoàn kết toàn thể quốc dân, Trẫm đã tuyên bố ngày 22 tháng 8 vừa rồi rằng: trong giờ nghiêm trọng này đoàn kết là sống, chia rẽ là chết.
Nay thấy nhiệt vọng dân chủ của quốc dân Bắc bộ lên quá cao, nếu Trẫm cứ ngồi yên mà đợi quốc hội thì không thể nào tránh khỏi nạn Nam, Bắc phân tranh, đã thống khổ cho quốc dân lại thuận tiện cho người lợi dụng.
Cho nên, mặc dầu Trẫm hết sức đau đớn nghĩ đến công lao liệt thánh, vào sinh ra tử trong gần 400 năm để mở mang giang sơn đất nước từ Thuận-hoá tới Hà-tiên.
Mặc dầu trẫm hết sức bùi ngùi cho nỗi làm vua trong 20 năm, mới gần gũi quốc dân được mấy tháng, chưa làm được gì ích lợi cho quốc dân như lòng Trẫm muốn, Trẫm cũng quả quyết thoái vị để nhường quyền điều khiển quốc dân lại cho một chính phủ dân chủ cộng hòa.
Trong khi trao quyền cho chính phủ mới, Trẫm chỉ mong ước có ba điều này:
1. Đối với Tông Miếu và Lăng Tẩm của Liệt Thánh, chính phủ mới nên xử trí thế nào cho có sự thể.
2. Đối với các đảng phái đã từng tranh đấu cho nền độc lập quốc gia nhưng không đi sát theo phong trào dân chúng, Trẫm mong chính phủ mới sẽ lấy sự ôn hòa xử trí để những phần tử ấy cũng có thể giúp vào việc kiến thiết quốc gia và tỏ rằng chính phủ dân chủ cộng hòa nước ta đã xây đắp ở trên sự đoàn kết của toàn thể quốc dân.
3. Đối với quốc dân, Trẫm khuyên hết cả các giai cấp, các đảng phái, cho đến cả người Hoàng phái cũng vậy, đều nên hợp nhất mà ủng hộ triệt để chính phủ dân chủ, giữ vững nền độc lập của nước, chứ đừng vì lòng quyến luyến Trẫm và Hoàng gia mà sinh ra chia rẽ.
4. Còn về phần Trẫm, sau 20 năm ngai vàng bệ ngọc, đã biết bao ngậm đắng nuốt cay. Từ nay Trẫm lấy làm vui được làm dân tự do của một nước độc lập, chứ Trẫm nhất quyết không để cho ai lợi dụng danh nghĩa của Trẫm hay của Hoàng gia để lung lạc quốc dân nữa.
Việt Nam độc lập muôn năm!
Dân chủ cộng hòa muôn năm!
Khâm thử
Phụng ngự ký: Bảo Đại
Ban chiếu tại lầu Kiến Trung ngày 18 tháng 7 năm Bảo Đại thứ 20 (25 tháng 8 năm 1945)
Số hiệu 1871 GT
Ngự tiền văn phòng cung lục
Dấu Ngự tiền văn phòng
——-

Phụ Lục C: Qua Những Sai Lầm Trong cải Cách Ruộng Đất

XÂY DỰNG QUAN ĐIỂM LÃNH ĐẠO
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường (1909-1996), năm 23 tuổi đă đậu hai bằng Tiến sĩ Văn khoa và Luật khoa ở Đại học Montpellier, Pháp. Sau khi về nước, ông dạy học tại trường Trung học Bảo hộ (Lycée du Protectorat). Bất mãn vì chính sách kỳ thị của Pháp, ông bỏ nghề dạy ra mở văn phòng luật sư. Năm 1946, ông tham dự Hội nghị Việt-Pháp tại Đà-lạt nhưng không được cử đi dự Hội nghị Fontainebleau. Ông theo chính phủ Hồ Chí Minh kháng chiến chống Pháp tới ngày ký Hiệp định Genève 1954 thì trở về Hà Nội dạy học ở trường Đại Học Văn Khoa. Với tư cách thành viên của Mặt Trận Tổ Quốc, L.S. Nguyễn Mạnh Tường đọc bài diễn văn này trong một phiên họp của Mặt Trận Tổ Quốc ở Hà Nội, ngày 30 tháng Mười, 1956. Cũng nên nhắc lại rằng bài diễn văn này được đọc sau khi Trung ương Đảng hạ lệnh chấm dứt chiến dịch Cải cách Ruộng đất ngày 20.7.1956 và sau đó ban hành các biện pháp sửa sai. Vì bài diễn văn này, ông Tường bị tước hết mọi chức vụ và danh vị nghề nghiệp và phải sống một cuộc đời vô cùng thiếu thốn. Năm 1991, nhân dịp được phép sang Pháp, ông đưa cho nhà xuất bản Quê Mẹ ở Paris in và phát hành cuốn sách tự thuật “L’excommunié ”(Kẻ bị Khai trừ) năm 1992. Ông trở về Hà- Nội và mất năm 1996, thọ 87 tuổi.
Thưa các quí vị,
Hội nghị Mặt trận Trung ương họp để nghiên cứu các sai lầm trong Cải cách Ruộng đất và chính sách sửa chữa sai lầm ấy. Hôm nay tôi được đúc kết trước toàn thể Hội nghị các ý kiến mà trong mười ngày vừa qua tôi đã trình bày trong tổ thảo luận, với tinh thần thận trọng của người trí thức không bao giờ quên trách nhiệm của mình trước nhân dân và lịch sử nước nhà.
Tôi phấn khởi được nghe bản phê bình của Đảng Lao Động do ông Trường Chinh đọc trước Hội nghị. Nhưng tôi cũng phải thú rằng lòng phấn khởi của tôi một phần bị giảm đi, vì tôi nhớ lại kết quả tai hại của các sai lầm đã phạm trong công cuộc cải cách Ruộng đất. Tôi xin phép các vị được kính cẩn nghiêng mình trước kỷ niệm những người vô tội đã chết oan, không phải vì bàn tay của địch mà chính của ta. Trong cuộc kháng chiến anh dũng của ta, những đồng bào đã hi sinh, có thể nói được, chết với trong lòng chan chứa nỗi vui sướng vì chết cho sự nghiệp giải phóng dân tộc khỏi nanh vuốt của địch. Họ chết vì địch, cho ta, đó là cái chết tích cực, cái chết vẻ vang, cái chết oanh liệt mà Tổ quốc ghi nhớ muôn thuở. Trái lại, các người chết oan vì các sai lầm trong cuộc cải cách Ruộng đất này, lúc tắt thở, cay đắng đau xót vì chết với một ô danh. Chúng ta đã xoá bỏ cái ô danh đó, nhưng con cháu của các nạn nhân tài nào mà không ngậm ngùi? Đau đớn hơn, bây giờ ta làm thế nào mà biến cái khổ cực của người tắt thở thành một niềm an ủi cho họ được? Nếu chúng ta duy tâm và tin rằng linh hồn còn tồn tại thì một phần nào ta chuộc lại được tội lỗi của ta. Nhưng ta duy vật và các người ấy lúc chết cũng là duy vật. Do đó, cái nỗi khổ cực của họ ta biết rõ rằng bây giờ ta không thể nào thủ tiêu được nữa. Quyền hạn của ta không tới đó. Nhưng cái gì ta có thể làm được, ta cần làm, để như là đền bù một phần nào sự tổn thiệt của các người ấy, và chứng minh ta thấm thìa nỗi đau khổ của họ khi họ từ trần là ta cương quyết rút bài học kinh nghiệm đau đớn và sửa chữa các sai lầm nghiêm trọng mà họ là nạn nhân.
Với tinh thần của một người trong quần chúng, của một người công dân đau khổ trước bao nhiêu cái chết oan của người vô tội, tôi xin phép trình bày mấy ý kiến xây dựng. Chủ yếu tôi sẽ phê phán và truy nguyên các sai lầm trong cải cách Ruộng đất, nhưng theo ý tôi các sai lầm này chỉ là biểu hiện điển hình và bi đát nhất của những thiếu sót trong sự lãnh đạo của Đảng Lao Động. Do đó tôi xin được góp ý kiến xây dựng quan điểm lãnh đạo của Đảng Lao Động.
Tại sao tôi lại tin như vậy? Là vì, không những trong cải cách Ruộng đất chúng ta đã phạm sai lầm nghiêm trọng mà cả trong nhiều khu vực khác nữa. Trong các khu vực này, sai lầm cũng đã đưa một số người trong quần chúng đến cái chết thê thảm. Do đó, nếu chỉ cục bộ hóa các sai lầm, chúng ta không thể rút được bài học kinh nghiệm, chúng ta sẽ khiếm khuyết với sự tín nhiệm của tất cả các đảng viên Đảng Lao Động, với sự mong đợi của toàn dân. Chúng ta phải kiên quyết không cho các sai lầm ấy tái diễn và tác hại nữa. Đó là nhiệm vụ tối thiểu của chúng ta đối với các người đã chết oan.
Tinh hình nước ta hiện thời ra sao? Tình hình ấy có bi quan không? Đó là vấn đề nhận định thôi. Nhưng cái chủ yếu là ta không nhìn tình hình ấy với con mắt bi quan. Vậy sự thật khách quan như thế nào? Nhìn vào nông thôn, ta thấy hiện thời tình trạng thiếu đoàn kết rất phổ biến. Vì thi hành sai chính sách cải cách, ta đối lập các từng lớp trong giai cấp nông dân, cán bộ cũ và mới, chi bộ cũ và mới của Đảng. Trong khi đập tan giai cấp địa chủ, ta không phân biệt đối xử, ta để cho chết chóc thê thảm những người hoặc già cả hoặc thơ ấu mà ta không chủ trương tiêu diệt. Ta chỉ cần đọc lại các bài giáo huấn cho đồng bào nông thôn trong báo Nhân Dân là ta đủ hiểu mặt mũi nông thôn hiện giờ ra sao. Nhìn vào các công xưởng, công trường, ta thấy gì? Cứ đọc báo Nhân Dân thôi, ta thấy Chính phủ gửi các phái đoàn đi thăm các anh chị em công nhân, ủy lạo họ, bắt buộc thi hành quy chế lao động mà Chính phủ đã ban ra. Nghĩa là thế nào? Nghĩa là giai cấp công nhân đã phải lao động sản xuất hai năm nay mà không được bồi dưỡng đúng mức. Lắng nghe dư luận đồng bào Hà Nội thôi, ta được biết rằng có it ra một doanh nghiệp quốc gia lãng phí bao nhiêu triệu trong khi dưới chế độ Pháp thuộc, cũng doanh nghiệp ấy mang lại cho thực dân đế quốc các số lãi khổng lồ.
Về Mậu dịch nửa năm nay, đồng bào ca thán như thế nào, ta đã biết. Nào chèn ép các nhà kinh doanh tư nhân, nào lãng phí bao nghìn triệu trong khi thực hiện chính sách, nào tàn nhẫn với các người bán sức lao động cho mình, nào đưa ra thị trường sữa hư mà không bao giờ nghĩ đến tính mệnh của người ốm, của trẻ sơ sinh, nào tung ra bơ hỏng, thuốc lá mốc, phạm đến sức khỏe của nhân dân, nào bất lực trước hiện tượng vật giá ngày càng lên trong khi nhiệm vụ của mình là phải bình ổn nó. Có thể nói được, suốt ngày đêm không đâu là không có lời oán trách Mậu dịch.
Về hộ khẩu thì cán bộ tỏ vẻ không phải là nhằm duy trì trật tự an ninh, phá vỡ cơ sở của địch, trái lại quấy nhiễu nhân dân, tạo ra một đời sống thành thị điêu đứng cho tất cả. Nếu các vị cần những dẫn chứng cụ thể, tôi chỉ xin nhắc lại hồ sơ mênh mông, thu lượm các thắc mắc cay đắng của đồng bào Thủ đô trong Đại hội lần thứ ba của nhân dân Hà Nội vừa họp cách đây hai tháng.
Nói về chính sách khôi phục kinh tế, ta thấy gì? số vốn mà các nhà công thương mang ra kinh doanh chỉ là một phần ti tiểu, số công nhân làm việc trong các doanh nghiệp tư nhân không có nghĩa lý gì. Trái lại ta thấy tất cả một phong trào các nhà tư bản thu hẹp hoạt động của họ, hoặc “chuyển hướng” bằng cách đâm ra quay chỉ, bán nước mía, hay dệt vài thước vải vớ vẩn, hoặc đóng cửa ăn vào vốn để khỏi đụng chạm đến sở Lao động vì vấn đề công nhân, với sở Công thương vì vấn đề đăng ký và nguyên liệu sản xuất, với sở Tài chính vì thuế khoá đặc biệt. Thuế bổ xung đã đưa bao nhiêu người đến chỗ phá sản, có kẻ đến chỗ tự sát. Các người tiểu thương buôn thúng bán mẹt, đẩy chiếc xe hàng tiều tụy trong phố cũng “được” nộp thuế, cũng như các người suốt ngày làm việc ở công sở hay công xưởng, tối về thức đêm dệt vài thước kiếm thêm tiền độ thân. Hàng trăm, hàng nghìn công chức cũ về hưu, với gia đình của họ, trước đây sống bằng lương hưu trí, hai năm nay không được ai chiếu cố đến, chết dần chết mòn, có người đâm đầu xuống sông tự tử, có người hai lần uống độc dược để quyên sinh.
Còn như các cán bộ thì ta có cần nói đến không? Ta cứ trông mặt mũi, quần áo họ, ta chỉ cần hỏi con số những người qua các phòng khám bệnh, các bệnh viện, ta liếc mắt nhìn họ ăn uống những gì trong bữa cơm, là ta đủ hiểu khổ cực của họ.
Ta quên thế nào được các đồng bào tập kết ra ngoài Bắc, số phận con cái họ ở Hà Nội, Hải Phòng, số phận chính của họ bi đát quá nỗi! Khổ cực nhất cho các anh chị em là không nương tựa được vào một đời sống gia đình đề khuây khỏa trong lúc thảm sầu.
Các hiện tượng trên đây có đúng không, tôi chỉ yêu cầu các vị đọc báo Nhân Dân, nghiên cứu các hồ sơ chồng chất lên ở Mặt trận Thành Hà Nội sau Đại hội lần thứ 3 vừa rồi, nghe ngóng lời than phiền của quần chúng, nhìn nhận các quang cảnh diễn ra dưới mắt của các vị là các vị đủ hiểu rồi. Quả thực như ông Trường Chinh đã tuyên bố, uy tín của chính phủ, của Đảng bị tổn thiệt rất nhiều. Thế tại sao đồng bào chúng ta lại khổ cực? Phải chăng vì cán bộ của chúng ta non, hẹp hòi, chưa thấm nhuần lý luận cách mạng, không tôn trọng giá trị của con người và đòi hỏi chính đáng của nó? Phải chăng vì ta đang mắc trầm trọng bệnh ấu trĩ của cách mạng? Các điều đó là có, ta không hề cũng không thể chối cãi được. Nhưng nhận định như vậy vẫn còn . Ta phải đi sâu hơn nữa. Khi trong cải cách Ruộng đất của ta, ta thấy nhiều người bị tù tội, bị giết oan, trong đó bao nhiêu người dân ưu tú từng góp phần không nhỏ vào sự nghiệp cách mạng, khi hiện thời ở nông thôn vẫn có người bị đánh đập, ngược đãi, khi ta không xây dựng được đoàn kết giữa các đồng bào, thì ta phải nhận định rằng các sai lầm ta đã mắc trong cuộc cải cách Ruộng đất này chỉ là những biểu hiệu cực độ của các sai lầm ta đã phạm, và các sai lầm ấy nêu lên, như tôi trình bày trên đây, một vấn đề cực kỳ quan trọng là vấn đề lãnh đạo của Đảng Lao Động.
Do đó, tôi yêu cầu các vị cho phép tôi bắt đầu nghiên cứu các sai lầm trong cải cách đã rồi sau khi truy nguyên các sai lầm ấy, đề đạt mấy ý kiến về vấn đề lãnh đạo.
I
Vấn đề Pháp lý trong cải cách Ruộng đất
Ta đã sai lầm nghiêm trọng trong Cải cách Ruộng đất, ta có thể tránh được sai lầm ấy mà vẫn bảo đảm được đường lối căn bản của cách mạng không? Tôi giả nhời cương quyết rằng có.
Đường lối cách mạng của ta đòi hỏi gì? Ruộng phải trở về người cày. Điều này rất đúng không ai có thể chổi cãi được. Nông dân là đại đa số trong nhân dân, nông dân là quân đội chủ lực của cách mạng, nhất định cách mạng không thể nào thành công được nếu ta không thỏa mãn nhu cầu thiết yếu và cấp bách của nông dân. Không cần phải là một nhà chính trị cao, một nhà cách mạng thạo, cũng nhận thấy điều ấy. Chỉ cần nhìn lịch sử cách mạng từ thời kỳ cổ đại đến giờ là đủ hiểu rồi.
Như vậy về nguyên tắc, ta tán thành chủ trương Cải cách Ruộng đất.
Về phương pháp, ta có nên ban ơn cho nông dân không? Nhất định là không. Nông dân ta trong bao nghìn năm đã khổ cực dưới chế độ bóc lột phong kiến và một trăm năm nay dưới chế độ bóc lột thực dân. Đồng bào nông thôn ta lầm than như vậy, đã mất hết khí thế con người. Ta cần khôi phục khí thế của người nông dân, xây dựng cho họ tinh thần chủ nhân ông trên đất nước. Do đó ta thấy cần thiết phải phát động tư tưởng của họ để họ nhận được phân minh kẻ thù của họ, để họ vùng giậy nắm lấy quyền thế ở nông thôn.
Nhưng từ đây trở đi, ta thấy khởi phát các sai lầm. Sai lầm này, ông Trường Chinh đã nhận thấy là ở chỗ: ta quên hẳn ta hiện thời nắm chính quyền và chính quyền ấy, nếu ta biết sử dụng nó, khai thác nó một cách sáng suốt, nhất định ta vẫn thành công nhưng ta tránh được bao tai họa làm ta đau khổ hiện thời.
Con đường ông Trường Chinh đã đi để tiến tới kết luận ấy là con đường chính trị. Các anh em tôi là những nhà luật học, chỉ là nhà chuyên môn và lý luận trên cơ sở chuyên môn thôi, đã trông thấy kết luận ấy ngay từ khi chính sách phát động và cải cách được đề ra. Tại sao? Vì giải pháp chính quyền cụ thể là giải pháp pháp lý, đảm bảo thắng lợi hoàn toàn của cách mạng nếu ta biết mang nó ra phục vụ chính trị và cách mạng.
Ta muốn gì ? Tìm kẻ thù của nông dân, của cách mạng để tiêu diệt nó. Nhưng đồng thời nếu ta biết lo xa, nhìn xa, ta cũng không quên rằng công lý của cách mạng, muốn bảo toàn được uy tín và thắng lợi của cách mạng, phải biết đánh đúng địch. Khi đưa ra khẩu hiệu “thà chết 10 người oan còn hơn để sót một địch” thì khẩu hiệu này không những quá tả một cách vô lý mà phản lại cách mạng là đằng khác nữa. Muốn chứng minh điều này ta chỉ cần nhìn thực tế : kết quả sai lầm ta đã phạm khi thực hiện khẩu hiệu này rất tổn thiệt cho uy tín của cách mạng và cho bản thân bao nhiêu chiến sĩ cách mạng. Nếu không phải đó là phản lại cách mạng thì là gì?
Khẩu hiệu của pháp lý thì khác hẳn: “Thà 10 địch sót còn hơn một người bị kết án oan. ” Thế ta có lo ngại rằng 10 địch sót không? Không, vì ta nắm chính quyền, vì cách mạng ta đã thành công. Như vậy kẻ thù của cách mạng chẳng sớm thì chậm, nhất định hoặc cải thiện, giác ngộ, hoặc lọt vào lưới của ta. Khẩu hiệu này lợi ở chỗ : không một người oan nào bị kết án. Do đó, không có các kết quả cực kỳ tai hại diễn ra hiện thời.
Làm thế nào thực hiện được khẩu hiệu ấy? Kinh nghiệm pháp lý của hàng nghìn năm lịch sử thế giới cho ta biết rằng ta có phương pháp để tìm đúng địch mà đánh, không đánh tràn lan, không đánh người vô tội. Tôi xin phép nhắc tóm tắt sau đây các nguyên tắc căn bản mà pháp lý nêu lên để đạt mục đích ấy.
Một nguyên tắc đầu tiên là không hình phạt các tội đã phạm quá lâu rồi mà bây giờ mới khám phá ra. Tại sao? Vì rằng vấn đề bằng chứng khó giải quyết được, tang vật đã mất, nhân chứng có người đã từ trần, có người không nhớ rõ các sự việc họ đã mục kích. Hơn nữa, sở đĩ hình luật phạt các tội, là vì các tội ấy đã xâm phạm vào trật tự xã hội: tác hại cho nạn nhân và gây tác dụng xấu trong quần chúng. Nhưng khi tội đã phạm quá lâu, trật tự xã hội hết bị xâm phạm rồi, nạn nhân không còn đau khổ, tác dụng xấu của tội cũng hết, thời gian đã hàn gắn các vết thương. Bây giờ lại vạch chuyện cũ thì không những khó thu thập được bằng chứng kết tội mà lại gây một sự náo động trong xã hội không cần thiết. Chính xã hội thấy “quên” lợi hơn là “nhớ”.
Một nguyên tắc thứ hai là trách nhiệm của phạm nhân thì chỉ một mình phạm nhân phải chịu, không có trách nhiệm chung của vợ con, của gia đình. Nếu trách nhiệm truơc hình luật của các người “có quan hệ” với phạm nhân không những là bất công mà lại còn gây các sự rung động vô ích trong xã hội. Hơn 400 năm nay không một nước Tây phương nào làm việc đó nữa. Trách nhiệm trước hình luật chỉ là một trách nhiệm cá nhân mà thôi. Không những thế, về phương diện nhân đạo, thì các phạm nhân quá già được miễn nghị, miễn tố và các vị thành niên được chiếu cố.
Một nguyên tắc thứ ba là muốn kết án một người phải có bằng chứng xác đáng. Phải có nhân chứng là những kẻ đã mục kích sự phạm pháp và cung khai một cách cụ thể, rõ ràng, chắc chắn. Một nhân chứng thôi chưa đủ, ít ra cũng phải có hai nhân chứng cung khai phù hợp với nhau mới được coi là đáng kể. Cung khai của các nhân chứng phải ăn khớp với nhau và trong quá trình phạm pháp các tang vật thu được phải có tác dụng hợp lý, sát hợp với kết quả do cuộc điều tra mang lại.
Một nguyên tắc thứ tư là thủ tục điều tra, xét xử phải bảo đảm quyền lợi của bị tố nhân. Bị tố nhân có quyền nhờ luật sư bào chữa cho mình, và khi thiếu điều kiện nhờ luật sư, khi nào là một trọng tội, Tòa phải cử luật sư bào chữa không, cho bị can. Trong tất cả, giai đoạn điều tra ở trình độ công an thẩm vấn trong phòng dự thẩm, buộc tội trước tòa, quyền lợi của công tố viện ngang với quyền lợi bị can, nghĩa là nếu công tố viện đưa hết lý lẽ để buộc tội, bị can đưa hết lý lẽ để minh oan. Cuộc đấu lý diễn ra trong tất cả quá trình điều tra, truy tố, xét xử giữa công tố viện và luật sư. Các vị thẩm phán ngồi xét xử phải là vô tư, đứng giữa để theo rõi cuộc đấu lý diễn ra dưới mắt mình. Như thế mới nhận định đúng và xử công minh. Toà án xét xử không chịu lệnh của ai trong khi xét xử, chỉ biết xét xử theo lương tâm của mình và căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ, sau khi nghe hai tiếng chuông buộc tội và gỡ tội. Ngươi thẩm phán phải được đủ đảm bảo để làm nhiệm vụ của mình mà không sợ ai khiển trách hay gây khó khăn cho mình được. Khi điều tra thẩm vấn, tuyệt đối cấm không được dùng phương pháp tra khảo, đánh đập, hành hạ bị can, mớm cung cho bị can, dọa nạt hay dụ dỗ hắn. Khi nào có điều nghi ngờ thì bị can được miễn nghị. Nếu bị kết án thì còn quyền chống án lên tòa trên. Nếu bị kết án tử hình thì lại còn quyền xin ân giảm trước vị Chủ tịch Chính phủ. Con người của bị can, trong tất cả quá trình truy tố và xét xử phải được tôn trọng triệt để, khi bị can ra trước tòa thì không được xiềng xích họ và không lúc nào được dùng nhục hình đối xử với họ.
Theo một nguyên tắc căn bản, không phải vì một người tác hại cho một người khác mà người ấy phải chịu trách nhiệm trước hình luật. Tác hại cho ai thì chỉ nêu trách nhiệm về phương diện dân sự, nghĩa là bồi thường thôi — của người đã tác hại. Muốn truy tố người ấy để thi hành hình luật đối với hắn thì phải chứng minh rằng hấn phạm một tội, nghĩa là phạm vào một điều khoản nào qui định trong hình luật, và hình luật không bao giờ có tác dụng đối với quá khứ cả: nếu hành động của một người diễn ra trong thời kỳ mà hình luật chưa quan niệm là một tội thì ngươi ấy không thể mang ra truy tố được. Không những bị can phải phạm một tội đã qui định rồi trong pháp luật, mà ta lại còn phải xét xem rằng lúc phạm tội ấy bị can có ý thức, có ý chí phạm pháp hay không, hay là vô tình mà phạm pháp. Sự đối xử trong hai trường hợp ấy khác nhau.
Lúc tôi nhắc lại các nguyên tắc này thì có vị cho rằng như thế là phiền phức, phức tạp. Dĩ nhiên rồi, nhưng tất cả vấn đề là: ta có muốn giết người vô tội không? Nếu không thì không thể nào làm khác được. Hơn nữa, muốn nhận định vấn đề cho đúng, ta không nên đứng vào vị trí một người hiện thời không dây dưa với pháp luật, một người ở một cương vị chính quyền.Ta phải đứng vào cương vị của bị tố nhân; lúc ấy vấn đề rất sáng tỏ, không những ta đòi thi hành các nguyên tắc pháp luật, ta còn cố gắng tìm hiểu thêm các nguyên tắc mới để đảm bảo người oan khỏi bị chết.
Nếu mang ra áp dụng các nguyên tắc ấy vào cuộc cải cách ruộng đất của ta, ta sẽ làm thế nào? Thủ tục cải cách cứ diễn bài nhưng sự trừng trị bọn cường hào gian ác hay phản động, ta sẽ không giao cho một tòa án nhân dân, đặc biệt như ta đã làm với tất cả sự thiếu sót về phương diện pháp lý mà ta đã biết. Trái lại, sau khi phát động tư tưởng của nông dân, ta sẽ nghe lời họ tố cáo kẻ thù của họ. Ta sẽ ủy nhiệm toà án nhân dân thường lập các hồ sơ, để tòa án, với bộ máy và kinh nghiệm của nó, tiếp tục điều tra, kiểm tra, lấy cung chứng, truy tố, luận tội, xét xử. Ta đảm bảo triệt để cho bị tố nhân quyền bào chữa của họ, ta yêu cầu các luật sư làm tròn nhiệm vụ của họ, ta tôn trọng triệt để con người của bị tố nhân. Ta chỉ thù ghét và kết án, trừng phạt tội của nó đã phạm thôi. Ta tin tưởng ở tòa án, ta đảm bảo cho các vị thẩm phán làm việc ngoài sự điều khiển của chính quyền, một cách biệt lập, tôi nói biệt lập chứ không phải độc lập, theo lương tâm của các vị và căn cứ vào hồ sơ và kết quả của cuộc thẩm vấn.
II
Các nguyên nhân sai lầm
Theo như tôi nhận định, với chủ quan của tôi, các nguyên nhân sai lầm thuộc hai loại, có loại trực tiếp, nhưng nếu ta phân tích loại này thì ta sẽ đi tới một loại thứ hai mà theo tôi là những nguyên nhân chính, ta cần chú ý.
Các nguyên nhân trực tiếp ta trông thấy ngay, sở dĩ mà khi nghiên cứu chính sách cải cách, ta không nghĩ đến giải pháp pháp lý đưa ra để điều hòa với giải pháp chính trị, phải chăng là vì ta không biết giải pháp pháp lý? Nếu không thì là sự thiếu sót nghiêm trọng của cấp lãnh đạo. Nhưng tôi tin rằng không phải như thế đâu. Sở dĩ ta không để ý đến giải pháp pháp lý là vì ba lý do:
1. Quan điểm ta-địch, thù-bạn của ta rất mơ hồ
2. Ta bất chấp pháp luật, lấy chính trị lấn át pháp lý
3. Ta bất chấp chuyên môn
Quan điểm bạn-thù, ta-địch mơ hồ — Các hiện tượng trên trường quốc tế và trong nước rất nhiều và rõ rệt.
Trên trường quốc tế, trong các nước dân chủ của ta thôi, ta thấy những điều làm ta suy nghĩ. Ta thấy chẳng hạn những người suốt đời hi sinh cho sự nghiệp cách mạng, giữ những trọng trách trong chính thể cách mạng, rồi bỗng nhiên phải truất quyền, khai trừ ra khỏi Đảng, tống giam, thậm chí có khi bị giết nữa. Rồi ít lâu sau, ta lại thấy các người ấy được khôi phục công quyền, đảng tịch, cương vị, người nào bị kết án tử hình rồi thì được an táng lại ở các đài kỷ niệm các liệt sĩ mà Tổ quốc ghi tên muôn đời.
Trong nước ta, qua cuộc cải cách ruộng đất ta thấy bao nhiêu các chiến sĩ cách mạng thành tích lộng lẫy, có người ngực gắn tới hai huy chương kháng chiến (ở ngoại thành Hà Nội) bị kết án là phản động, cường hào gian ác và, sau khi nhận tội, bị tống giam hay bị hành hình. Ấy là không nói đến các người trong quần chúng bị hi sinh oan. Đối với các nạn nhân này, ta có thể một phần nào hiểu các sai lầm đã phạm, vì họ thiếu hay không có thành tích cách mạng hay kháng chiến. Nhưng đối với các đảng viên ưu tú, tinh hoa của dân tộc, lúc bị xử trí như ta đã biết, thì ta tự hỏi trong đầu óc của những người xử họ có cái gì mà ta gọi là lý tính không? Ngay một thường dân, không phải là một nhà chính trị hay văn hóa, chỉ sử dụng cái lẽ phải của mình thôi, cũng không thể nào hỗn hợp người xấu với kẻ tốt như vậy được. Ta phải đặt vấn đề rằng cán bộ từ trên xuống dưới, tham gia cải cách mộng đất, không phải là người điên cuồng, cũng không phải là người chủ mứu, dụng tâm phá hoại. Nếu như thế thì ta sẽ gửi họ đến bác sĩ chuyên môn chữa bệnh thần kinh, hay đến công tố viện của các tòa án. Nhưng không phải như thế, ta tin như vậy. Do đó, kết luận mà ta tiến tới, dù muốn hay không, là các các cán bộ ấy có một quan điểm rất mơ hồ về ta-thù, bạn-địch.
Còn gì đau đớn hơn là câu ta được nghe “ta đánh cả ta nữa”. Nếu như vậy thì ta cần phải nhận rằng ta không phân biệt được bạn và thù. Ta đọc lại các bài gần đây đăng trong báo Nhân Dân của các đồng chí bị xử trí oan, hoặc các đồng chí ấy nói, hoặc không nói, nhưng ta đều hiểu các đồng chí ấy nghi ngờ những người kết án các đồng chí, không phân biệt được bạn và thù. Vì vậy nên đánh cả bạn, qiết cả bạn.
Tôi thấy đây là một điều cực kỳ quan trọng. Nguyên do ở đâu? Phải chăng ở một tinh thần cảnh giác quá cao đến nỗi mù quáng, ở một tả khuynh mà ta thường mắc trong giai đoạn ấu trĩ của cách mạng? Đây không phải là nơi và lúc mà ta cần phân tích sâu sắc điều ấy. Chủ yếu là ta nhận thấy rằng một nguyên nhân sai lầm là ở trong quan điểm thù bạn rất mơ hồ. Nếu ta không kịp sửa chữa sai lầm, xây dựng lại quan điểm thù bạn, một ngày kia ta sẽ lại phải khóc trên kỷ niệm của những vị có công nhất với cách mạng, với nhân dân. Ta cương quyết không thể nào để tình trạng ấy tái diễn ra được.
Bất chấp pháp luật— Giáo sư Ba-lan Mahelli nói chuyện ở Bộ Tư pháp, cho ta biết rằng bên Ba-lan, khi cách mạng thành công, các nhà chính trị bất chấp pháp luật. Họ quan niệm rằng họ đủ tài năng để đảm nhận các cương vị lãnh đạo trong ngành tư pháp, để bó buộc tư pháp phục vụ triệt để chính trị mà không đếm xỉa đến các nguyên tắc căn bản của pháp lý. Kết quả là chẳng bao lâu bộ máy tư pháp sộc sệch, không những không củng cố được chính thể cách mạng, ngược lại, tác hại quá nhiều gây bao nhiêu khó khăn cho chính quyền cách mạng. Sai lầm ấy được uốn nắn kịp thời: hoàn cảnh khách quan đã dạy một bài học cho chủ quan các nhà chính trị, để lãnh đạo chuyên môn phải nhập trường học tập, trước non 2 năm, sau 5 năm, để qua pháp lý, phục vụ chính trị và cách mạng.
Điều này không làm chúng ta ngạc nhiên. Trong giai đọan đầu tiên, chính trị say sưa với các thắng lợi đã thu —và dĩ nhiên các thắng lợi ấy vĩ đại— lâm vào tình trạng tự mãn và bao biện.
Nhưng quản trị một nước, đặc biệt một nước đang xây dựng chính quyền cách mạng, nghĩa là một cái gì vô cùng mới mẻ và khó khăn— không giống như là đề ra đường lối và khẩu hiệu tranh đấu cách mạng và vận động quần chúng làm cách mạng. Hai khu vực hoạt động ấy tuy quan hệ mật thiết với nhau, nhưng mỗi ngành hoạt động có kỹ thuật và quy luật của nó. Lúc nhà chính trị bao biện, bất chấp hoàn cảnh khách quan kinh nghiệm xương máu của lịch sử, thì chẳng sớm thì muộn ta thấy diễn ra những tai hại hiện thời làm chúng ta đau xót. Trên con đường bao biện và tự mãn ấy, các nhà chính trị đã bị thúc đẩy bởi những thành kiến đối với pháp lý và tin rằng pháp lý là cái gậy chỉ dùng để chọc bánh xe, không hiểu rằng, trái lại, chính pháp lý giúp xe khỏi lật, khỏi gây tai nạn. Nguy hại hơn là chính trị tự đặt mình lên trên pháp luật. Ngay trong trường hợp chính trị sau khi đặt mình lên trên pháp luật, còn giữ vững thái độ chân chính, cũng đã gây ra bao khó khăn rồi. Pháp luật chủ yếu đề ra những cái gì có thể làm được, cái gì không được phép làm, do đó nhân dân vững tâm biết rõ đường mà đi. Nhưng tâm hồn quần chúng chỉ được ổn định khi nào quần chúng biết rõ rằng cái gì bó buộc mình cũng đồng thời bó buộc nhà cầm quyền. Trái lại, khi pháp luật chỉ gò bó quần chúng mà không gò bó nhà cầm quyền thì nhà cầm quyền mỗi lúc có thể vẽ ra các đường mới mà quần chúng chưa từng biết. Vì vậy quần chúng hoang mang: cái gì hôm qua làm được, ngày mai với sự độc đoán của nhà cầm quyền có thể bị coi là phi pháp. Hoang mang ấy lên tới cực độ khi tác dụng của sự thay đổi thái độ này của nhà cầm quyền không những ảnh hưởng đến tương lai, mà là ảnh hưởng cả về quá khứ nữa. Đó là trường hợp nhà cầm quyền, lúc tự đặt mình lên trên pháp luật, giữ thái độ chân chính đúng mực, huống hồ là khi nhà cầm quyền xử dụng quyền thế của mình một cách lộng quyền, như ông Trường Chinh đã nhận định. Quyền xử tử người một cách đơn giản như vậy trái với luật pháp: đó chỉ là một giải pháp chính trị mà thôi. Nếu mà các người xử dụng quyền ấy lại không xử dụng với tinh thần chính sách của lãnh đạo, xử dụng một cách lộng quyền thì kết quả thế nào, hiện thời ta đã trông thấy rõ.
Bất chấp chuyên môn — Các nhà chính trị bất chấp pháp luật. Nhưng nếu các vị ấy tranh thủ ý kiến của các nhà chuyên môn và cho phép các nhà chuyên môn đề đạt ý kiến thì các nhà chuyên môn cũng sẽ yêu cầu các nhà chính trị nên chú ý đến pháp luật, và dùng pháp luật phục vụ cách mạng.
Nhưng tiếc thay, trong 10 năm vừa qua, ta thấy một tình trạng quái gở. Chính trị ám ảnh đầu óc chúng ta đến nỗi hai chữ “lập trường” làm ta mất ăn mất ngủ. Nếu được dùng một hình ảnh “duy tâm”, tôi ví lập trường như cái oan hồn ngày đêm theo đuổi kẻ nào đã hãm hại người chủ của nó. Có một điều lạ, là các anh em công nông, các vị lãnh tụ không bao giờ nói đến lập trường trong sinh hoạt hàng ngày. Trái lại, các cán bộ và đảng viên tiểu tư sản không lo ngại gì bằng sự mất lập trường. Vì vậy, để nhớ đến nó, mở miệng ra là nêu lập trường rồi. Đó là tinh thần tự ti – của một giai cạp mất khí thế, quên rằng mình đứng trong hàng ngũ cách mạng. Dù sao, ở Việt Nam chúng ta cũng đã xẩy ra những sự việc nhự sau đây, ta cần ghi nhớ để con cháu ta cười muôn thuở; khi chọn một người vặn lái ô tô, ta không hỏi người ấy có bằng vặn lái và đã vặn lái bao năm, ta chỉ hỏi : “Có lập trường không?” Kết quả là từ hai năm nay, riêng trong thủ đô Hà-nội, hàng trăm tai nạn xảy ra do các người vặn lái ô tô có lập trường mà không nắm chuyên môn. Khi đưa tới bệnh viện một bệnh nhân cấp cứu, vấn đề mang ra thảo luận trước tiên là: Bệnh nhân thuộc thành phần giai cấp nào? Chữa cho địa chủ thì “mất lập trường”. Để nó chết mới chứng minh mình có “lập trường giai cấp” (hiện tượng do B.S. Nguyễn Xuân Nguyên đưa ra).
Tại sao có những hiện tượng quái gở như vậy? Là vì chính trị chiếm đóng tất cả các khu vực trong nhận thức của chúng ta làm chúng ta mất cả cái nhân đạo tối thiểu của con người, làm chúng ta khước từ các chân lý. Chân lý cho biết rằng chính trị không thể nào thay thế được cho chuyên môn, không làm được việc của chuyên môn. Nếu như vậy thì ít ra chính trị cũng hỏi ý của chuyên môn mới là phải. Nhưng không. Chính trị nghi ngờ chuyên môn, không tin ở chuyên môn. Lúc thì cho rằng chuyên môn là do văn hoá và khoa học tư sản đế quốc xây dựng, là vô dụng (đó là một sai lầm nghiêm trọng các người tin như vậy chưa đọc Lê-nin). Lúc thì cho rằng các nhà chuyên môn không phải xuất hiện ở tầng lớp cơ bản, công hay nông, thì không có đảm bảo vì thái độ lừng chừng, lập trường lỏng lẻo, dù là 10 năm nay họ đã bước chân vào đường cách mạng và chứng minh nhiệt tình của mình đôi với sự nghiệp giải phóng dân tộc, kiến thiết quốc gia.
Theo ý tôi, đây là một vấn đề then chốt. Các anh em trí thức kháng chiến thường phàn nàn rằng Đảng Lao động thiếu tín nhiệm họ. Họ đau khổ mà nhận thấy rằng mặc dầu họ đã trải qua bao nhiêu thử thách, chịu đựng bao nhiêu hi sinh, trải qua bao nhiêu gian nguy, Đảng vẫn chưa tin ở họ. Nào họ có yêu sách gì quá đáng đâu? Họ có đòi làm Bộ trưởng hay Đại sứ đâu? Không. Đại đa số các anh em trí thức nói chung, không mơ ước các cương vị, công tác lộng lẫy đâu, họ vui lòng nhường chỗ cho các nhà chính trị, các đảng viên. Họ chỉ thiết tha đòi hỏi được mang khả năng chuyên môn và kinh nghiệm của họ ra phục vụ nhân dân mà thôi. Họ chỉ thiết tha mong muốn được bảo toàn danh dự trí thức của họ và cái tự do tư tưởng mà họ quan niệm là cần thiết cho nhân phẩm của người trí thức mà thôi. Họ đã từng nghe thấy Đảng tuyên bố: Ngươi trí thức là vốn quí của dân tộc. Nhưng họ cảm thấy vốn ấy quí quá đến nỗi phải cất nó đi thật kỹ, giữ gìn nó trong một bán ảnh, một hoàng hôn trường cửu. Nếu có ai cho rằng tôi nói không đúng, tôi cứ đề nghị người ấy quay mặt nhìn chung quanh, ở các cương vị công tác trong chính thể của ta. Có một chỗ nào mà người trí thức ngoài Đảng nắm được thực quyền không? tác dụng “hiếu hỉ” hay “cười gật” thì có, mà lại có nhiều. Nhưng ngay ở các cương vị ấy, ngoài vai trò hiếu hỉ, cười gật, ngươi trí thức có một trách nhiệm gì không, có quyền nói gì làm gì không, quần chúng đã biết và miễn tôi giả nhời.
Chính trị chèn ép chuyên môn như thế nào? xua đuổi ngươi trí thức ra ngoài con đường cách mạng ra sao, lịch sử kháng chiến đã cho ta kinh nghiệm đau đớn. Năm 1949, phong trào tư pháp liên khu III tan vỡ vì chính quyền quan niệm tư pháp phải thuộc sự điều khiển của mình. Năm 1951, phong trào quân y, dân y liên khu IV sụp đổ vì các chính trị viên đưa vào các bệnh viện đã đàn áp chuyên môn, thúc đẩy các bác sĩ có công với cách mạng, với kháng chiến, phải gạt nước mắt mà rời bỏ kháng chiến. Đó không phải là chủ trương của Đảng Lao Động. Nhưng có một điều làm ta suy nghĩ: sao mãi bây giờ sau 10 năm Đảng mới nghiên cứu một chính sách cho trí thức? Điều ấy chứng tỏ rằng từ khi cách mạng thành công, ta chưa đánh đúng giá người trí thức, chưa đặt vấn đề trí thức. Do đó, làm thế nào khai thác được tất cả khả năng của ngươi trí thức để họ mang chuyên môn ra phục vụ nhân dân?
Trên đây, tôi nói về ngươi trí thức từ chiến khu trở về. Đối với người trí thức vẫn ở trong Thủ đô, ta thấy sự thiếu tín nhiệm ấy lại còn trầm trọng hơn nữa. Bao lần ta nghe tiếng chua cay của các anh em ấy phàn nàn bị coi như là kẻ thù, mặc dầu các anh em vì yêu nước đã khắc phục mọi lo sợ do tuyên truyền của địch gây ra và ở lại với chúng ta. Ta để cho cán bộ hộ khẩu xâm phạm đến danh dự của các anh em, ta không tìm cách nào sửa chữa sai lầm ta đã phạm đối với anh em. Ở các công sở tình trạng chèn ép của chính trị đối với chuyên môn đã đưa đến cái danh từ bi đát làm cho ta đau lòng: “họ Lưu, họ Kháng”. Không đoàn kết được các anh em, ta lại còn có thái độ úp mở, nhùng nhằng (ta tưởng như vậy là thượng sách), thậm chí ta lại còn nghi ngờ các anh em. Ta không hiểu rằng làm như vậy, ta bất công với các anh em, ta không tôn trọng lời đã hứa qua chính sách tiếp quản và cương lĩnh Mặt Trận, ta đẩy các anh em xa rời ta, ta vô tình ném xuống bể tiêu cực cái vốn chuyên môn của các anh em trí thức trong Thủ đô.
Đó là những nguyên nhân trực tiếp. Đào sâu hơn nữa, ta thấy rằng sở dĩ có những hiện tượng như ta vừa phân tách trên đây, chẳng qua chỉ vì sự Lãnh đạo của ta thiếu dân chủ, xa lìa quần chúng.
Chính thể ta thiếu dân chủ như thế nào, ta đã từng biết. Vai trò của các vị Bộ và Thứ trưởng ngoài Đảng như thế nào, các vị đó làm được những gì trong Hội đồng chính phủ, trong các ngành chuyên môn mà các vị ấy phụ trách, ta không nên đi quá sâu. Ta chỉ cần liếc mắt nhìn qua công việc làm trong mỗi Bộ, ta chỉ cần nghe tiếng than phiền của các cán bộ, công chức làm việc trong các Bộ là ta hiểu, Ta cũng biết rằng chủ trương của Đảng có lẽ không phải như vậy đâu, nhưng trong thực tế công tác, mỗi anh em ta tiếp xúc với các vị Bộ hay Thứ trưởng ngoài Đảng, đều nhận thấy rằng quyền hành của các vị ấy hình như không phải là quan trọng cho lắm. Nhận định như vậy có lẽ ta lầm đấy. Nhất định ta lầm. Nhưng dù sao có “dư luận” không ai chối cãi được. Do đó, nếu chủ trương của Đảng không phải như vậy thì ít ra Đảng cũng mang trách nhiệm không làm thế nào để tiêu tan cái dư luận tai hại mà chúng ta thấy tồn tại từ thời kỳ kháng chiến đến giờ. Nhưng cũng có điều chắc chắn không ai chối cãi được, là các vị Bộ bay Thứ trưởng không có trách nhiệm gì trước Quốc hội, trước nhân dân, chỉ có trách nhiệm trước Chính phủ mà thôi. Chưa bao giờ ta thấy vị Bộ truởng nào bị lật đổ cả. Phải đợi đến các sai lầm đặc biệt nghiêm trọng trong cải cách mới thấy hai vị Thứ trưởng phải rút lui khỏi Hội đồng Chính phủ, Các hiện tượng ấy chứng tỏ rằng Chính phủ ta chưa thực hiện được dân chủ trong khi lập Hội đồng Chính phủ, vì các vị Bộ hay Thứ trưởng đều được cử hay bị truất, ngoài sự tham gia trực tiếp hay gián tiếp (qua Quốc hội) của quần chúng.
Tình trạng của Quốc hội lại rõ. hơn nữa. Mười năm Quốc hội đã thành lập. Các vị đại biểu Quốc hội còn phản ảnh được ý nguyện của quần chúng không, quần chúng có tín nhiệm ở Quốc hội nữa không, đó là một vấn đề. Nhưng dù vấn đề ấy ta giải quyết như thế nào đi nữa, có một điều chắc chắn là một Quốc hội già 10 năm rồi mà vẫn tồn tại ngoài sự can thiệp của quần chúng, sự lựa chọn của quần chúng, chứng minh rằng quần chúng 10 năm nay đã bị truất quyền cử đại biểu của mình rồi. Dĩ nhiên trong thời kỳ kháng chiến, bầu lại Quốc hội là một điều không làm được. Và hiện thời, Nam-Bắc bị tạm chia cắt, do đó sự bầu lại toàn thể Quốc hội cũng là khó khăn. Nhưng đù sao riêng ở các miền giải phóng này, nếu ta chú ý đến quyền người dân cử đại biểu của họ thì nhất định ta phải cho phép người dân bỏ phiếu rồi. Từ khi hòa bình trở lại, 2 năm đã qua, mãi bây giờ trước phong trào quần chúng đòi thực hiện dân chủ, ta mới nghĩ đến quyền bỏ phiếu của người dân và bổ xung Quốc hội.
Nào có thế thôi đâu? Ngay cái Quốc hội ta đang có hiện thời, ta có thực hiện dân chủ với nó không? Chắc chắn là không. Thỉnh thoảng ta mới họp Quốc hội, và trong các buổi họp đó ta chỉ thấy Chính phủ đưa ra các báo cáo để Quốc hội nghiên cứu, xây dựng, hay các chính sách để Quốc hội tán thành và bổ khuyết. Quyền lập pháp của Quốc hội ở đâu? Quyền đề ra đường lối, chủ trương trong nội trị, ngoại giao, quyền nêu trách nhiệm của Chính phủ và các Bộ, quyền lựa chọn nhân viên trong Hội đồng Chính phủ, bấy nhiêu quyền, Quốc hội có được hưởng dụng không? Dư luận quần chúng quan niệm rằng Quốc hội chỉ có quyền thông qua các chính sách mà thôi. Còn như các sắc lệnh hay đạo luật thì thường thường, quyền thông qua ấy chỉ thuộc ban Thường trực của Quốc hội. Nếu Quốc hội là tổ chức cao nhất của quần chúng, đại diện cho quần chúng, thì ta phải khách quan nhận thấy rằng, với vai trò vô cùng yếu ớt của Quốc hội hiện thời, quyền dân chủ của quần chúng không được thực hiện.
Nói đến Mặt trận thì tình hình cũng tương tự. Mặt trận hiện thời là tổ chức quần chúng có lẽ sát tình hình quần chúng nhiều nhất. Nhưng ta có để nó đóng vai trò của nó không? Không. Tác dụng của nó là động viên quần chúng để tán thành, ủng hộ và thi hành các chính sách. Đứng về phương diện này, nó làm tròn nhiệm vụ của nó. Nó xứng đáng với tín nhiệm của Đảng và Chính phủ. Nhưng hoạt động của nó như thế chỉ có một chiều thôi. Ta chưa khai thác các khả năng của nó. Ta chưa nhận thấy bản chất của nó. Nó có thể là liên lạc “hai chiều” giữa quần chúng và Đảng, Chính phủ. Một mặt như nó thường làm, nó động viên quần chúng để thực hiện các chủ trương của Đảng và Chính phủ. Nhưng mặt khác, nó có thể là cơ quan phản ảnh lên Đảng và Chính phủ các ý kiến, thắc mắc, nguyện vọng của quần chúng, góp phần xây dựng các chính sách, nói lên tiếng nói của quần chúng, cung cấp tài liệu nguồn gốc ở quần chúng, tích cực giúp đỡ cấp lãnh đạo tránh khỏi chủ quan, thắt chặt liên lạc giữa cấp lãnh đạo và quần chúng. Nhưng muốn để cho nó đóng vai trò ấy, ta phải “dân chủ” đối với nó, nghĩa là phát động tự do tư tưởng của nó, để nó mạnh dạn nói lên ý kiến của quần chúng, dù là các ý kiến trái ngược với nhận định của cấp lãnh đạo. Nhưng từ trước tới nay, ta không làm như vậy. Ta thấy khó chịu khi nó thỏ thẻ —chỉ thỏ thẻ thôi— những lời làm ta một phút chốc tỉnh giấc mộng chủ quan mà ta trong cấp lãnh đạo đang say sưa. Vì vậy ta chỉ thường cho phép nó, chỉ khuyến khích nó phụ họa ta, tán đồng ta với thái độ của đứa con khen hay khi mẹ nó hát. Tóm lại, ta không dân chủ với nó. Do đó, ta hạn chế khả năng của nó, nó không giúp ích gì cho cấp lãnh đạo.
Thiếu dân chủ là gì? Là xa rời quần chúng, là giam hãm mình vào ngục thất của chủ quan. Tại sao một chính thể cách mạng lại có thể phạm sai lầm nghiêm trọng như vậy được?
Trước đây, ta không trả lời được. Những người kính yêu cách mạng rất ngạc nhiên khi thấy có kẻ đi tìm tự do, rời bỏ hàng ngũ cách mạng để lén sang phía tư bản. Ngay trong thủ đô ta hiện thời, qua Đại hội lần thứ 3 của Mặt trận Thành, ta thấy phản ảnh ý muốn của bao nhiêu đồng bào muốn đi Nam. Ta nghĩ đến các đồng bào, trong thời kỳ kháng chiến, gạt nước mắt mà trở về Hà-nội. Nếu cách mạng mang lại cho họ ánh sáng và hạnh phúc, sao lại có người lo ngại trước cách mạng, đau đớn vì cách mạng? Các người ấy không phải thuộc thành phần kẻ thù của cách mạng, trái lại thuộc thành phần cơ bản trong nhân dân, như nông dân, công nhân. Thế thì đâu là chân lý? Đó là một vấn đề mà trước đây ta chỉ đặt thôi và không giải quyết được.
Bây giờ sau Đại hội lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên-sô, sau các cuộc bạo động ở Berlin, Poznan, bên Tiệp, bên Hung, ta hiểu rõ vấn đề, ta giải quyết được nó. Chung quy, mặc dầu cách mạng là tốt đẹp, mang lại hạnh phúc cho dân tộc, sở dĩ vẫn có người xa lánh cách mạng, chẳng qua là vì chính thể cách mạng mắc trầm trọng bệnh xa lìa quần chúng, thiếu dân chủ, do đó đi càng ngày càng sâu vào tình trạng quan liêu, mệnh lệnh, duy trì một thái độ lãnh đạo hẹp hòi, độc đoán, có khi độc tài. Thái độ một chiều không muốn, không cho phép ai nói cái gì trái ngược ít nhiều với ý kiến nhận định, thành kiến của mình. Mình tự phụ, tự hào mình có độc quyền tìm thấy và gìn giữ chân lý. Đó là tật tự cao tự đại của nhà cách mạng. Ta bay bổng lên trời xanh của ảo tưởng, ta chỉ tin ở ta. Trong tư tưởng, ta không khinh quần chúng, nhưng trong hành động, quả thật con mắt khách quan nhận thấy ta bất chấp quần chúng. Thậm chí, khi ta nghe thấy một tiếng nào từ quần chúng nói lên rằng ta nhầm, ta làm như thế này mới phải, lập tức ta thét ngay đó là tiếng của địch. Sở đĩ quan điểm bạn thù của ta mơ hồ, và đâu ta cũng trông thây địch, chẳng qua là vì ta quá tự phụ, ta sùng bái ta quá đáng mà thôi. Bây giờ ta biết rõ là nếu bệnh ấy phổ biến trong hàng ngũ cách mạng hiện thời thì trách nhiệm chính là Stalin phải chịu. Vì tự cao, tự đại, tự phụ, tự mãn, Stalin không cho phép ai dân chủ với mình, đâu cũng trông thấy địch. Kết quả thế nào ta đã biết: khẩu hiệu nêu lên, thét lên, gào lên là; đề cao cảnh giác. Và lợi dụng tình thế ấy, ta biết Béria đã làm những gì, phạm tội ác như thế nào.
Nếu không có quyết nghị lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên-sô, nếu không có những sai lầm cực kỳ tai hại trong cải cách, ta chưa mở mắt được, ta sẽ còn thấy bao nhiêu máu oan chảy thành suối thành sông, bao nhiêu người kính yêu cách mạng mà vẫn đau sót rời bỏ cách mạng. Tuy ta phải trả một giá quá cao, nhưng bây giờ ta biết rõ nguyên do của các đau khổ của ta: ta thiếu dân chủ.
III
Phương hướng sửa chữa các sai lầm
Qua lịch sử tranh đấu của quần chúng hai nghìn năm nay, ta thấy cái gì mà nhân bản của loài người đòi hỏi thiết tha nhất, đó là một đời sống vật chất tương đối đầy đủ êm ấm, đó là một đời sông tinh thần tương đối ổn định, có đảm bảo và tự do. Hạnh phúc của loài người xây dựng trên cơ sở dân sinh và dân quyền. Tôi muốn nhấn mạnh ở đây về vấn đề dân quyền. Ta được biết từ hai thế kỷ nay chủ yếu trong vấn đề dân quyền là vấn đề dân chủ, nghĩa là quyền của người dân làm chủ trên đất nước, đồng thời là quyền của con người được sống theo các nhu cầu thiết yếu và chính đáng của nhân bản. Từ cuộc Cách mạng tư sản Hoa Kỳ cuối thế kỷ 18, Cách mạng tư sản Pháp 1789, tới cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa của Nga, quần chúng nổi giậy, mang xương máu để dành kỳ được chế độ dân chủ. Sau cuộc đại chiến lần thứ hai, Hiến chương Liên hiệp quốc đúc kết những thành quả của các phong trào lịch sử tranh đấu cho dân chủ và đặt các nước văn minh trước trách nhiệm của họ để thực hiện và đảm bảo các nguyên tắc dân chủ. Đối với các nước tư bản ta không ngạc nhiên thấy chế độ dân chủ thực hiện với những thiếu sót quan trọng. Nhưng ta có quyền ngạc nhiên khi ta thấy các thiếu sót ấy cũng xuất hiện trong các nước đã hoàn thành cuộc Cách mạng dân chủ nhân dân và xã hội chủ nghĩa. Đại hội lần thứ 6 của Hội Quốc tế các luật gia dân chủ họp trong tháng 5 vừa rồi tại Bruxelles đã lấy làm tiếc mà nhận thấy rằng trong tất cả các nước, dù tư bản hay xã hội chủ nghĩa, mặc dầu các Hiến pháp, các bộ luật tuyên bố trịnh trọng, tôn trọng thực hiện, đảm bảo thực hiện các nguyên tắc dân chủ, tuy nhiên các nguyên tắc này vẫn bị dày xéo. Vì vậy trong tất cả các nước, quần chúng tranh đấu kịch liệt.
Ớ nước ta, trong bản Tuyên ngôn độc lập, trong Hiến pháp cũng như trong các sắc lệnh, đạo luật, nguyên tắc dân chủ đã được ban bố Nhưng qua phong trào phát huy dân chủ mà Chính phủ chủ trương, qua đại hội nhân dân thủ đô lần thứ 3, các Đại hội Mặt trận Trung ương, Mặt trận Thành, qua thông cáo của Hội nghị lần thứ 10 của Trung ương Đảng Lao động, của Chính phủ v.v., nhân dân nhận thấy, và Đảng cũng như Chính phủ xác nhận rằng ta thiếu sót về dân chủ khá nhiều. Vì các thiếu sót ấy, ta phạm các sai lầm nghiêm trọng trong Cải cách ruộng đất như tôi đã trình bày trên đây. Nguyên nhân sâu sắc của các sai lầm ấy, ta có thể quy kết được. Sở dĩ đời sống tinh thần của ta không được ổn định, lúc nào ta cũng nơm nớp lo sợ các hành động “lộng quyền” của nhà đương cục, là vì ta thiếu một chế độ pháp trị phân minh, không đề ra nghĩa vụ và quyền lợi của mọi người, đồng thời cả của cấp lãnh đạo nữa. Sở dĩ cấp lãnh đạo có thể phạm được các sai lầm nghiêm trọng trong cải cách ruộng đất, tổn thất cho xương máu, mồ hôi nước mắt của đồng bào, cho uy tín của Đảng và Chính phủ, là vì người dân không có quyền, không có phương tiện nói lên ý kiến của mình, tham gia xây dựng các chính sách của Chính phủ.
Do đó, phương hướng sửa chữa các sai lầm là một chế độ pháp trị chân chính, một chế độ dân chủ thực sự.
Một chế độ pháp trị chân chính — Ở đây, chưa phải lúc và chỗ để tôi trình bàỵ ý kiến về vấn đề pháp trị. Ta sẽ có dịp khác. Ở đây, tôi chỉ muốn trình các quí vị một nhận xét.
Đảng Lao động và chính phủ có nhận thấy cần thiết, trong chính sách sửa chữa các sai lầm trong Cải cách, phải “tăng cường chế độ pháp trị” của ta. Tôi e rằng trong tư tưởng lãnh đạo, sự nhận thức về vấn đề pháp trị chưa được rõ và đầy đủ. Chính trị vẫn coi pháp luật như một “bà con nghèo”. Chữ “tăng cường” là một chứng minh. Tuy rằng trong nước ta có một Bộ Tư pháp, có các toà án, có luật lệ, nhưng chế độ pháp trị hầu như không có. Đó là một điều tôi sẽ nghiên cứu sâu sắc hơn khi nào tôi trình bày ý kiến về chế độ pháp trị, một chế độ pháp trị chân chính. Theo ý tôi, thì vấn đề không phải là tăng cường mà là xây đựng.
Một chứng minh khác trong chính sách sửa sai trong Cải cách này, tôi vẫn thấy chính trị lấn áp pháp lý. Trước hết bức thư của ông Hồ Viết Thắng tự phê bình và xin rút lui khỏi Mặt trận Trung ương chỉ là một giải pháp chính trị mà thôi. Trong cuộc mạn đàm với các vị đại biểu đến họp hội nghị này, tôi nhận thấy không ai “thông” về ý kiến và biện pháp ông Hồ Viết Thắng trình bày cả. Riêng về phần tôi là một nhà luật học, tôi chưa thể nào nhận định được trách nhiệm của ông Thắng. Có thể trách nhiệm của ông ấy rất lớn, có thể rất nhỏ, Đứng trên tinh thần pháp lý sự nhận tội lỗi của một người không đủ để qui định trách nhiệm của người ấy. Trong cải cách, khi những đảng viên ưu tú bị đoàn cải cách gán cho là phản động, ra trước nhân dân, có người cũng nhận tội trong khi biết là mình oan. Ta nên rút kinh nghiệm vừa qua, sửa sai không phải là phạm các sai lầm khác. Do đó, đứng trên một lập trường pháp trị chân chính, tôi đề nghị phải lập một ủy ban điều tra gồm các vị đại biểu Quốc hội, Mặt trận, Đảng Lao động với sự cộng tác của các vị thẩm phán cao cấp, giàu kinh nghiệm để lập một hồ sơ theo phương pháp pháp lý đã nhận định, trên quá trình đi từ lãnh đạo qua chỉ đạo đến chỗ thực hiện chính sách, trách nhiệm ở chỗ nào và do những ai phải chịu. Sau khi kết thúc cuộc điều tra, ủy ban ấy sẽ phân tách trách nhiệm chính trị và trách nhiệm pháp lý. Ai chịu trách nhiệm chính trị sẽ trả lời trước Quốc hội biến thành Toà án tối cao. Ai chịu trách nhiệm pháp lý sẽ trả lời trước các tòa án tư pháp. Dưới con mắt của quần chúng theo dõi xây dựng cuộc điều tra và xét xử, công lý phát huy, không còn ai thắc mắc nữa.
Có người hỏi làm thế để làm gỉ? Tôi xin phép trả lời. Làm thế để rút kinh nghiệm. Tôi cảm thấy ngay hiện thời ta chưa rút được kinh nghiệm đâu. Chính trị không những lãnh đạo pháp lý —đó là đúng— nhưng vẫn lấn át pháp lý, thay thế cho pháp lý, như trong trường hợp ông Hồ Viết Thắng, như thế là ta vẫn mở cửa cho các sai lầm mới còn nguy hại hơn nữa. Không những thế, ta biết rằng nhu cầu công lý thuộc nhân bản con người văn minh. Từ người bị xử trí oan cho đến các người chỉ chịu thiệt gián tiếp vì các sai lầm, có thể nói được rằng toàn dân đợi chờ công lý. Một biện pháp chính trị xuề xoà không thỏa mãn được ai. Bằng chứng ở nông thôn, ta được biết tình hình “căng thẳng”. Phong trào trả thù, tự xử diễn ra khắp mọi nơi, kéo chúng ta trở về quá khứ của lịch sử. Còn như các đảng viên bị xử trí sai, tâm hồn các anh em như thế nào, ta chỉ cần đọc lại báo nhân Dân. Tuy rằng các anh em kết thúc các bài tường thuật lại đau khổ của mình bằng những lời phấn khởi, nhưng các lời này không làm ta quên được các lời phẫn uất, chua xót, cay đắng mà các anh em nói lại với ta từ đầu bài. Nhưng bi đát hơn hết là các chiếc khăn trắng chít trên đầu họ hàng thân thích của những anh em bị xử tử, những bàn thờ vẫn dựng trong nhà, các thổn thức phá vỡ im lặng của các đêm hiu quạnh, các ngày cúng giỗ nhắc lại hàng năm bi kịch thê thảm đã diễn ra trong gia đình vì cuộc cải cách. Nhân dân đòi hỏi các người có công được thưởng và các người có tội phải đền tội. Trách nhiệm của tất cả mọi người từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, phải được qui định rõ ràng, dứt khoát. Như thế mới yên được lòng dân, như thế mới thu phục được nhân tâm. Kinh nghiệm lịch sử dạy ta điều ấy. Trong chính sách sửa chữa sai lầm, ta không thể quên được bài học lịch sử. Quần chúng im lặng đợi chờ công lý
Chúng ta thiết tha mong ước ở chính trị một nhận định đúng về vai trò của pháp luật phục vụ cách mạng. Kinh nghiệm đau đớn vừa qua bó buộc ta phải xây dựng lại quan điểm “địch” trên cơ sở pháp lý và pháp trị. Các sai lầm nghiêm trọng ta đã phạm bắt nguồn ở một quan điểm chính trị về địch. Quan điểm ấy linh động quá, “biện chứng” quá, nên ta không biết phân tách địch và ta, do đó ta đánh cả ta nữa. Muốn tránh các sai lầm hôm qua đừng tái diễn ngày mai, ta cần xác định theo hình luật thế nào là địch. Lúc đó ta mới đánh đúng địch, và có đánh đúng địch ta mới củng cố được ta, ổn định được nhân tâm, duy trì lại trật tự và an ninh ở thôn quê, kiến thiết lại đoàn kết giữa các tầng lớp nhân dân ở thôn quê cũng như ở thành thị, đảm bảo cho quần chúng một đời sống tự do, thoát khỏi mọi sự đe dọa của “lộng quyền”, bênh vực các quyền căn bản và thiết yếu của con người.
Tóm lại, nếu chính trị giác ngộ, vui lòng tôn trọng pháp lý, thiết lập một chế độ pháp trị trong đó chính trị vẫn lãnh đạo pháp lý, nhưng đồng thời nêu thật cao gương phục tùng pháp lý và pháp trị thì nhất định chính trị khôi phục được uy tín và được quần chúng nhiệt liệt ủng hộ.
Một chế độ thực sự dân chủ — Thế nào là một chế độ thực sự dân chủ? Đó là một chế độ trong đó người dân được làm chủ trên đất nước không những trong hiến pháp, mà cả trong thực tế nữa. Đây không phải là lúc, là chỗ, mà ta đi sâu vào vấn đề. Ta chỉ cần nhận thấy rằng trong giai đoạn hiện thời, quần chúng có đòi hỏi cái gì quá đáng đâu, chỉ yêu cầu có một điều thôi, là được đàm thoại với cấp lãnh đạo, được đề đạt lên cấp lãnh đạo, ý kiến về các chính sách do cấp lãnh đạo xây dựng. Các vị lãnh tụ đã bao lần khen dân ta tốt. Mà dân ta tốt thật. Bằng chứng là điều tôi vừa nhắc lại đây. Trong khi quần chúng có quyền đòi hỏi ở một chính thể cách mạng rất nhiều, nhân dân ta chỉ có một yêu cầu mà ai cũng phải nhận là chính đáng. Tại sao nhân dân chỉ có cái yêu cầu nhũn nhặn ấy mà thôi? Là vì nhân dân thông cảm với cấp lãnh đạo phải đương đầu với bao khó khăn. Nhưng nếu nhân dân chỉ đề ra có một yêu cầu, yêu cầu ấy thiết yếu, Tôi tin rằng cấp lãnh đạo cũng nhận thấy như vậy. Tôi không quên lời của ông Trường Chinh đọc bản tự phê của Đảng Lao động tại Hội nghị này. Ta nghe thấy cấp lãnh đạo thú nhận trước Hội nghị rằng Trung ương Đảng đã phạm sai lầm là xa quần chúng, chỉ tiếp xúc với quần chúng qua báo cáo của các cán bộ đảng viên mà thôi. Ta phải nhận định rằng đây là một sai lầm nghiêm trọng. Do đó, cuộc cải cách ruộng đất của ta đã gặp các thất bại cay đắng. Trái với lời ta thường nói, ta đã thiếu dân chủ với nhân dân.
Nhân dân nhất định không để tình trạng tai hại ấy kéo dài nữa. Tôi xin phép Hội nghị góp một số ý kiến để chấm đứt tình trạng đó. Tôi không đặt vấn đề dân chủ nói chung. Tôi chỉ chú ý đến yêu cầu thiết tha nhất hiện thời của quần chúng là được phản ảnh lên ý nguyện của mình. Theo ý tôi, để thực hiện và đảm bảo yêu cầu vô cùng chính đáng ấy, chỉ cần ba giải pháp.
1. Một chế độ báo cáo của cán bộ. Đảng tín nhiệm ở cán bộ. Đúng! không tài nào khác được. Vậy phải đặt các cán bộ có nhiệm vụ báo cáo trước trách nhiệm của họ. Một báo cáo không phản ảnh trung thành sự thực với các khía cạnh của nó, với các ưu và khuyết điểm của nó, rất tai hại. Cấp lãnh đạo cần đề cao cảnh giác với các con số thống kê, các động cơ bất chính của cán bộ muốn thi đua thành tích, vưà mị dưới, vừa lừa trên, do đó đưa ra một hình ảnh quá hẹp của thực tế, Ta phải tiến tới giải pháp nhận định rằng người nào hữu ý xuyên tạc sự thật vì động cơ bất chính, có thể bị truy tố về tội giả mạo được.
2. Một chế độ cho các đoàn thể nhân dân được quyền mạnh dạn nói lên ý kiến của quần chúng mà họ tập hợp. Từ trước tới nav, ta có thể ví Đảng Lao động như một cây rất to, lá rừom rà che hết ánh sáng của mặt trời, khiến ngay một ngọn cỏ cũng không mọc dưới chân nó được, Vì vậy, Quốc hội cũng như Mặt trận không thể đóng được vai trò của mình. Ở đây, tôi chỉ xin phép nói về Mặt trận của ta thôi. Các vị đã thấy rằng từ khi thành lập Mặt trận Liên Việt cho đến Mặt trận Tổ quốc, chúng ta chỉ có nhiệm vụ động viên quần chúng thi hành chính sách mà thôi. Đó là một nhiệm vụ. Nhưng dù sao chỉ có một chiều. Ta là giây liên lạc giữa các cấp lãnh đạo và quần chúng. Nếu ngược lại, ta có quyền liên lạc giữa quần chúng và cấp lãnh đạo, nghĩa là phản ảnh lên Đảng và Chính phủ ý kiến thắc mắc, nguyện vọng của quần chúng, công tác của ta thế nào cũng tốt đẹp hơn, hoàn hảo hơn. Ta gắn liền lãnh đạo và quần chúng, do đó lãnh đạo sát hợp với thực tế hơn. Tôi xin phép đặt mỗi vị ủy viên trước trách nhiệm của mình. Chúng ta ủng hộ Chính phủ, nhưng chúng ta cũng là đại biểu của nhân dân. Công tác của chúng ta có hai mặt, chúng ta không thể chỉ lệch về một bên được. Quần chúng không cho phép chúng ta làm như vậy, muốn theo rõi công việc ta làm vì chúng ta làm đại biểu của quần chúng, được quần chúng tín nhiệm. Quần chúng giao quyền cho chúng ta, chúng ta phải xứng đáng với sự ủy quyền ấy. ta xử dụng quyền ấy thế nào, quần chúng đòi kiểm soát ta.
Để đạt mục đích này, tôi xin phép đề nghị: một là mỗi ủy viên phải có nhiệm vụ phản ánh lên Mặt trận ý kiến của quần chúng. Mặt trận phải có nhiệm vụ đề đạt lên cấp lãnh đạo những phản ảnh của các ủy viên và báo cho các vị ấy thái độ của cấp lãnh đạo giải quyết vấn đề ra sao, xử dụng các phản ảnh ấy như thế nào. khi Mặt trận họp hội nghị, phải cho phép quần chúng đến bàng thính: để quần chúng kiểm soát công việc của Mặt trận làm và thái độ của các ủy viên. Dĩ nhiên các người bàng thính ấy không có quyền tham gia thảo luận, chỉ được nhập hội trường cho tới khi hết số ghế dành cho quần chúng, và phải tôn trọng kỷ luật của hội nghị. Ngoài ra, báo chí, đặc biệt báo chí của Mặt trận như tờ Cứu Quốc, phải phản ảnh trung thành nội dung của các cuộc thảo luận và đăng các tham luận của các vị ủy viên.
3. Một chế độ tự do ngôn luận, xuất bản báo chí — Ta phải đề phòng trường hợp các cán bộ không báo cáo, các ủy viên Mặt trận không phản ảnh ý kiến của quần chúng. Do đó, ta thấy cần thiết phải cho phép quần chúng nói lên tiếng nói của mình qua báo chí. Có người lo ngại rằng tự do ngôn luận này mà ai cũng thấy cần thiết có thể bị xử dụng một cách bừa bãi. Về điều này ta phải suy nghĩ. Mối lo ngại trên đây xuất phát từ động cơ nào? Nếu là động cơ tốt —nghĩa là do một nhiệt tình đối với cách mạng gây ra— ta hoan nghênh. Nhưng ta cũng sẽ trả lời rằng trong một chính thể dân chủ muốn xử đụng tự do nào, dĩ nhiên phải nêu trách nhiệm của người xử đụng tự do ấy trước pháp luật. Nếu xử dụng với tinh thần trách nhiệm hợp pháp, ta không có quyền kêu ca gì, trái lại, ta hoan nghênh. Nếu lạm dụng một cách vô trách nhiệm, ta đã có tòa án để nghiêm trị. Vậy ta không lo ngại. Nhưng nếu mối lo ngại xuất phát từ một động cơ bất chính, nhắm mục đích thủ tiêu các tự do dân chủ, thì tôi chỉ cần khuyên nhủ người lo ngại như vậy nên đọc lại lịch sử các phong trào cách mạng trong hơn một thế kỷ nay. Họ sẽ nhận thấy rằng chưa bao giờ, chưa ai có thể ngăn cản được một phong trào quần chúng tranh đấu đòi các tự do dân chủ.
Không những ta công nhận các tự do dân chủ, ta lại còn cung cấp phương tiện để thực hiện các tự do ấy. Thí dụ tự do ngôn luận. Ta có các báo của Chính phủ, của Đảng, của Mặt trận, ta lại có các báo của tư nhân, ta giúp đỡ cho các báo ấy giây và mực in đầy đủ, ta lại còn quảng cáo cho các báo ấy là đàng khác nữa. Các cơ quan tuyên truyền, báo chí của ta không bao giờ tìm khó dễ cho các báo ấy, và khi nào các báo đó được hàng vạn độc giả hoan nghênh, ta rất lấy làm sung sướng vì trong thâm tâm ta, ta là những người dân chủ.
Các biện pháp tôi đề nghị trên đây đều nhằm mục đích cống hiến các cấp lãnh đạo một nhận thức đúng và sát thực tế mà cấp lãnh đạo không có điều kiện biết đến một cách trực tiếp. Sát với thực tế của quần chúng, cấp lãnh đạo thông cảm với quần chúng, đi đúng đường lối của quần chúng, được quần chúng tín nhiệm, ủng hộ, mến yêu.
Thưa các quý vị,
Tôi nói đã quá lâu, nhưng tôi tin các vị cũng tha thứ cho, VI biết rằng tôi là một người thiết tha đến sự nghiệp của cách mạng và tiền đồ của dân tộc. Các ý kiến của tôi, dù sai hay đúng, tôi cứ thành khẩn đề đạt lên các vị, gọi là để góp phần vào hội nghị, một phần nhỏ mọn nhưng chan chứa một niềm hi vọng và tin tưởng vô biên ở tương lai của đất nước.
Luật sư NGUYỄN MẠNH TƯỜNG
Hà-nội, ngày 30-10-1956
—-

Phụ lục D: Thư của Tổng Thống Lyndon B. Johnson gửi Chủ Tịch Hồ Chí Minh, và Thư trả lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Đây là một trường hợp mà cả Hoa Kỳ và VNDCCH đều bị chê trách là đã bỏ lỡ cơ hội hòa bình. Johnson bị trách là đã làm hỏng kế hoạch hòa bình Wilson-Kosygin chỉ vì ông đã “đổi thì của động từ,” (xem trang 369) nhưng Johnson đã cho thấy lý do là mỗi lần Mỹ ngưng ném bom thì việc chuyển người và vũ khí từ Bắc vào Nam tấp nập “như một ngày Chủ Nhật trên xa lộ New Jersey Turnpike”1. Nếu đọc kỹ thư trả lời của Hồ Chí Minh thì không thấy có dấu hiệu ông phản ứng về chuyện những chuyến thâm nhập này “sẽ ngưng” hay “đã ngưng”. Lời lẽ cứng rắn trong thư không phản ánh con người Hồ Chí Minh vốn có tài ngoại giao, uyển chuyển, biết nắm bắt thời cơ. Năm 1954, sau khi thắng Pháp, ông đã nhắc tổng biên tập báo Nhân Dân là không nên làm Pháp bị mất mặt vì “sau chiến tranh, chúng ta còn cần Pháp giúp đỡ”. Có thể thái độ cứng rắn này là do sự điều động của Lê Duẩn, người đã nắm thực quyền từ khi làm Tổng Bí thư năm 1959. Hồ Chí Minh thường bị đau yếu trong mấy năm cuối đời (ông mất năm 1969).
Ngày 8 tháng Hai 1967
Kinh gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà
Thưa Ngài,
Tôi viết cho Ngài với niềm hi vọng là cuộc chiến Việt Nam có thể chấm đứt. Cuộc chiến này đã gây tổn thất nặng nề — về sinh mạng, về thương tích, về tài sản và tình trạng khốn khổ của con người. Nếu chúng ta không tìm được một giải pháp hòa bình và công chính, lịch sử sẽ nghiêm khắc phán xét chúng ta.
Vì vậy, tôi tin rằng cả hai chúng ta đều có một nghĩa vụ nặng nề là sốt sắng tìm kiếm con đường đưa đến hoà bình. Chính vì cần đáp ứng nghĩa vụ đó mà tôi trực tiếp viết cho Ngài.
Từ mây năm qua, chúng tôi đã cố gắng bằng nhiều cách và qua một số đường liên lạc chuyển đến Ngài và các cộng sự viên của Ngài điều mong muốn của chúng tôi đạt được một giải pháp hòa bình. Vì những lý do nào đó, những nỗ lực đó đã không đem lại kết quả nào.
Có thể là những ý nghĩ của phía chúng tôi và của phía Ngài, thái độ của chúng tôi và của phía Ngài, đã bị bóp méo hay ngộ nhận khi chúng đi ngang những đường liên lạc khác nhau ấy. Quả thật việc thông tin liên lạc gián tiếp luôn luôn nguy hiểm.
Có một cách vượt qua được khó khăn này để tiến tới việc tìm kiếm một giải pháp hòa bình. Đó là việc chúng ta thu xếp những cuộc hội đàm trực tiếp giữa những đại diện được tin cậy trong một khung cảnh yên ổn và xa cách mọi nguồn quảng bá. Những cuộc hội đàm này sẽ không được dùng như một hoạt động tuyên truyền mà phải là một nỗ lực nghiêm túc để tìm kiếm một giải pháp khả thi và có thể được cả hai bên chấp thuận.
Trong hai tuần qua, tôi có ghi nhận những điều công bố bởi các đại diện chính phủ của Ngài, gợi ý rằng phía Ngài sẵn sàng thương thuyết song phương trực tiếp với các đại diện của chính phủ Hoa Kỳ, với điều kiện là chúng tôi ngưng các cuộc oanh tạc “vô điều kiện” và vô thời hạn trên xứ sở của Ngài và cũng ngưng mọi hoạt động quân sự. Vào ngày chót, có những giới đứng đắn và có trách nhiệm đã đoan chắc với chúng tôi một cách gián tiếp rằng đây quả thật là đề nghị của Ngài.
Tôi xin thành thật nói rằng tôi thấy có hai khó khăn lớn trong đề nghị của Ngài. Vì lập trường công khai của Ngài, một hành động như thế từ phía chúng tôi sẽ không tránh khỏi gây nên sự suy đoán khắp nơi trên thế giới rằng các cuộc thảo luận đang diễn ra, và sẽ làm phương hại đến tính cách riêng tư và kín đáo của những cuộc thảo luận ấy. Thứ hai là se không tránh khỏi mỗì quan ngại sâu sắc về phía chúng tôi là liệu chính phủ của Ngài có lợi dụng hành động ấy của chúng tôi để tăng cường vị thế quân sự của phía Ngài hay không.
Mặc dù những khó khăn đó, tôi vẫn chuẩn bị tiến đến việc chấm dứt xung đột, xa hơn cả điều chính phủ Ngài đã đề nghị trong những lời tuyên bố công khai hay qua những đường dây ngoại giao riêng. Tôi chuẩn bị ra lệnh ngưng oanh tạc trên xứ sở của Ngài và ngưng gia tăng các lực lượng quân sự Mỹ ở miền Nam Việt Nam ngay khi tôi được cam kết là sự thâm nhập miền Nam bằng đường bộ hay đường biển đã ngưng. Tôi tin rằng những hành động kiềm chế này của cả hai bên sẽ khiến chúng ta có thể có những cuộc thảo luận riêng tư và nghiêm chỉnh sớm dẫn đến hòa bình.
Tôi đưa đề nghị này cho Ngài bây giờ với một cảm nghĩ khẩn cấp rõ rệt vì những ngày nghỉ Tết sắp tới ở Việt Nam. Nếu Ngài có thể chấp nhận đề nghị này thì tôi không thấy có lý do gì mà nó không có hiệu lực vào cuối những ngày nghỉ Năm Mới hay Tết. Đề nghị của tôi sẽ được thêm nhiều sức mạnh nếu các nhà lãnh đạo quân sự của Ngài và các nhà đối tác bên Chính phủ miền Nam Việt Nam có thể mau chóng thương thảo về một cuộc gia hạn đình chiến ngày Tết.
về địa điểm cho những cuộc thảo luận song phương, tôi đề nghị có nhiều nơi. Chẳng hạn, chúng ta có thể cho các đại diện của chúng ta gặp nhau ở Mat-scơ-va là nơi đã có những cuộc tiếp xúc. Họ có thể gặp nhau ở một nước khác như Miến Điện. Có thể Ngài đã nghĩ đến những cách thu xếp hay địa điểm khác, tôi sẽ cố thoả thuận với đề nghị của Ngài.
Điều quan trọng là chấm dứt một cuộc xung đột đã chồng chất gánh nặng lên hai dân tộc chúng ta, và trên hết là đân chúng miền Nam Việt Nam. Nếu Ngài có những ý kiến gì về những điều mà tôi đề nghị, tôi rất cần nhận được những ý kiến đó sớm chừng nào hay chừng nấy.
Trân trọng kính chào,
Lyndon B. Johnson
Ngày 15 tháng Hai, Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời:
Kính gửi Tổng Thống Lyndon B. Johnson
Hợp Chủng Quôc Hoa Kỳ
Thưa Ngài,
Tôi nhận được thư của Ngài ngày 10 tháng Hai 1967. Đây là phúc đáp của tôi:
Việt Nam ở cách xa nước Mỹ hàng chục ngàn dặm. Dân Việt Nam chưa bao giờ làm điều gì hại cho nước Mỹ. Nhưng trái với những lời hứa của đại diện nước Mỹ tại Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954, Chính phủ Mỹ đã không ngừng can thiệp vào Việt Nam; chính phủ đó đã mở một cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam và gia tăng cường độ nhằm kéo dài sự chia cắt Việt Nam và biến Nam Việt Nam thành một tân thuộc địa và một căn cứ quân sự của nước Mỹ. Đã hơn hai năm nay, Chính phủ Mỹ đã dùng các lực lượng không quân và hải quân để gây chiến với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, một nước độc lập có chủ quyền.
Chính phủ Mỹ đã phạm tội ác chiến tranh, tội ác chống lại hòa bình và chõng lại loài người. Ở Nam Việt Nam, một nửa triệu binh sĩ Mỹ và chư hầu đã sử dụng những vũ khí vô nhân đạo nhất và những phương pháp chiến tranh dã man nhất, như bom lửa, chất độc hóa học và hơi ngạt, để tàn sát đồng bào chúng tôi, phá hủy mùa màng và san bằng các làng mạc.
Ớ miền Bắc Việt Nam, hàng ngàn máy bay Mỹ đã trút hàng trăm ngàn tấn bom, phá hủy các thành phố, làng mạc, nhà máy, đường xá, cầu cống, đê điều, đập nước, và ngay cả nhà thờ, chùa chiền, nhà thương, trường học. Trong thông điệp của Ngài, Ngài tỏ vẻ buồn phiền về những nỗi đau khổ và tàn phá ở Việt Nam. Tôi xin hỏi Ngài: Ai đã gây ra những tội ác ghê tởm này? Đó là binh sĩ Mỹ và chư hầu. Chính phủ Mỹ hoàn toàn chịu trách nhiệm về tình trạng cực kỳ nghiêm trọng ở Việt Nam.
Chiến tranh xâm lược Mỹ chống nhân dân Việt Nam là một thách thức đối với các nước thuộc khối Xã hội chủ nghĩa, một đe dọa đối với phong trào dân tộc độc lập vã một mối nguy cho hòa bình ở Á châu và thế giới.
Nhân dân Việt Nam yêu chuộng độc lập, tự do và hòa bình. Nhưng trước cuộc xâm lược của Mỹ, họ đã đứng lên, đoàn kết muôn người như một. Không sợ hi sinh và gian khổ, họ quyết tâm kháng chiến cho đến khi giành được độc lập, tự do và hòa bình thật sự. Chính nghĩa của chúng tôi được nhân dân toàn thế giới bày tỏ thiện cảm và ủng hộ mạnh mẽ, kể cả những thành phần rộng lớn của nhân dân Mỹ.
Chính phủ Mỹ đã mở cuộc chiến tranh xâm lược ở Việt Nam. Chính phủ ấy phải chấm dứt xâm lược. Đó là cách duy nhất để khôi phục hoà bình. Chính phủ Mỹ phải ngưng vĩnh viễn và vô điều kiện những cuộc oanh tạc và tất cả mọi hành động gây chiến chống Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, rút hết quân sĩ Mỹ và chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam, và để cho nhân dân Việt Nam giải quyết lấy các vấn đề của họ. Đó là nội dung căn bản của lập trường bốn điểm của Chính phủ VNDCCH, thể hiện những nguyên tắc- căn bản và những điều khoản dự liệu của Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954 về Việt Nam. Đó là cơ sở của một giải pháp chính trị đúng đắn cho vấn đề Việt Nam.
Trong thông điệp của Ngài, Ngài đề nghị những cuộc hội đàm trực tiếp giữa VNDCCH và Hoa Kỳ. Nếu Chính phủ Mỹ thật sự muốn có những cuộc hội đàm này, trước hết chính phủ ấy phải ngưng vô điều kiện các vụ oanh tạc và mọi hành động gây chiến khác chống VNDCCH. Chỉ sau khi có sự chấm dứt vô điều kiện các vụ oanh tạc và các hành động gây chiến khác của Mỹ chống VNDCCH thì VNDCCH và nước Mỹ mới ngồi vào bàn thương thuyết và thảo luận các vấn đề liên quan tới hai bên.
Nhân dân Việt Nam sẽ không bao giờ chịu khuất phục trước sức mạnh, họ sẽ không bao giờ chấp thuận thương thuyết dưới sự đe dọa của bom đạn.
Chính nghĩa của chúng tôi tuyệt đối đúng. Hi vọng rằng Chính phủ Mỹ sẽ hành động theo lý trí.
Hồ Chí Minh
——-

Phụ lục E: Quyền Tự quyết của Nhân dân miền Nam Việt Nam và Vấn đề Thống nhất hai miền Nam, Bắc

(Trích Hiệp định Paris 1973)
Hiệp định Paris, được hai bên bốn phái đoàn ký ngày 27 tháng Giêng 1973 trên ba bản riêng (Hoa Kỳ và VNDCCH ký chung một bản nhưng VNCH và CPCMLT ký hai bản riêng), đã cho thấy điềm gở của thoả hiệp về “hoà giải và hòa hợp dân tộc”. Giả thử hai bên miền Nam Việt Nam đã tiên liệu được tình trạng miền Nam sau khi được miền Bắc “giải phóng” và thật tình thi hành các điều khoản trong Hiệp định về quyền tự quyết của nhân dân miền Nam và điều kiện thống nhất đất nước, thì chiến tranh đã không tàn phá thêm hơn hai năm nữa, và tình hình đất nước có thể đã đổi khác. Chính các nhà lãnh đạo ở Hà Nội, vào thời điểm của Hiệp định Paris 1973, cũng “coi thống nhất là một tiến trình từng bước một, ” và thời gian chuyển tiếp được phỏng định là “từ mười đến hai mươi năm, ” như lời nhà ngoại giao miền Bắc Nguyễn Khắc Huỳnh đã tiết lộ tại Hội nghị Việt-Mỹ năm 1997.1
CHƯƠNG IV
VIỆC SỬ DỤNG QUYỀN TỰ QUYẾT CỦA NHÂN DÂN MIỀN NAM VIỆT NAM
Điều 9
Chính phủ Hoa Kỳ và Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà cam kết tôn trọng những nguyên tắc sau đây về việc sử dụng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam:
a) Quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam là thiêng liêng, không thể chuyển nhượng, và phải được mọi quốc gia tôn trọng.
b) Nhân dân miền Nam Việt Nam sẽ tự quyết định tương lai chính
1 Xem chương 913 , trang 361..
trị của Nam Việt Nam qua tổng tuyển cử thật sự tự do và dân chủ dưới sự giấm sát của quốc tế.
c) Các nước ngoài không được áp đặt bất cứ một khuynh hướng hay nhân vật chính trị nào lên nhân dân miền Nam Việt Nam.
Điều 10
Hai bên miền Nam Việt Nam cam kết tôn trọng ngưng chiến và duy trì hoà bình ở miền Nam Việt Nam, giải quyết các vấn đề còn tranh cãi qua thương thuyết, và tránh mọi xung đột vũ trang.
Điều 11
Ngay sau khi ngưng chiến, hai bên miền Nam Việt Nam sẽ:
thực hiện hòa giải và hòa hợp dân tộc, chấm dứt hận thù, cấm đoán mọi hành động trả thù và kỳ thị đối với các cá nhân và đoàn thể đã hợp tác với bên này hay bên kia;
bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân: tự do cá nhân, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do tổ chức, tự do hoạt động chính trị, tự do tín ngưỡng, tự do đi lại, tự do cư trú, tự do làm việc, quyền tư hữu, và quyền tự do kinh doanh.
Điều 12
a) Ngay sau khi ngưng chiến, hai bên miền Nam Việt Nam sẽ tham khảo với nhau trong tinh thần hoà giải và hoà hợp dân tộc, tôn trọng lẫn nhau, và không loại trừ nhau để thành lập một Hội đồng Quốc gia Hoà giải và Hoà hợp Dân tộc gồm ba thành phần ngang nhau. Hội đồng sẽ hoạt động trên nguyên tắc nhất trí. Sau khi Hội đồng Quốc gia Hòa giải và Hoà hợp Dân tộc đảm nhận nhiệm vụ, hai bên miền Nam Việt Nam sẽ tham khảo việc thành lập những hội đồng ở các cấp thấp hơn. Hai bên miền Nam Việt Nam sẽ ký một thoả hiệp về các vấn đề nội bộ của Nam Việt Nam càng sớm càng tốt và cố gắng hết sức để hoàn tất thoả hiệp này trong vòng chín mươi ngày sau khi cuộc ngưng chiến có hiệu lực, đúng với nguyện vọng của nhân dân miền Nam Việt Nam về hòa bình, độc lập và dân chủ.
b) Hội đồng Quốc gia Hòa giải và Hòa hợp Dân tộc có nhiệm vụ thúc đẩy hai bên miền Nam Việt Nam thi hành Hiệp định này, hoàn thành được hoà giải và hòa hợp dân tộc và bảo đảm các quyền tự do dân chủ. Hội đồng Quốc gia Hòa hợp và Hòa giải Dân tộc sẽ tổ chức tổng tuyển cử tự do và dân chủ được dự liệu trong Điều 9 (b) và ấn định các thủ tục và thể thức của những cuộc tổng tuyển cử này. Những định chế do các cuộc tổng tuyển cử này thành lập sẽ được thỏa thuận qua những cuộc tham khảo giữa hai bên miền Nam Việt Nam. Hội đồng Quốc gia Hoà giải và Hoà hợp Dân tộc cũng sẽ ấn định các thủ tục và thể thức của những cuộc bầu cử ở địa phương mà hai bên miền Nam Việt Nam đã đồng ý.
Điều 13
Vấn đề quân lực ở miền Nam Việt Nam sẽ được giải quyết bởi hai bên miền Nam Việt Nam trong tinh thần hoà giải và hoà hợp dân tộc, bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau, không có sự can thiệp của nước ngoài, phù hợp với tình trạng hậu chiến. Trong số những vấn đề được thảo luận bởi hai bên miền Nam Việt Nam là những bước cắt giảm quân số và giải ngũ số binh sĩ được cắt giảm. Hai bên miền Nam Việt Nam sẽ hoàn tất việc này càng sớm càng tốt.
Điều 14
Miền Nam Việt Nam sẽ theo đuổi một chính sách ngoại giao hòa bình và độc lập. Miền đất này sẽ được chuẩn bị để thiết lập quan hệ với tất cả các nước bất kể hệ thống chính trị và xã hội của các nước đó trên căn bản tôn trọng lẫn nhau về độc lập và chủ quyền và nhận viện trợ kinh tế và kỹ thuật từ bất cứ nước nào không có điều kiện chính trị đi kèm. Vấn đề miền Nam Việt Nam nhận viện trợ quân sự trong tương lai sẽ thuộc thẩm quyền của chính phủ được thành lập sau những cuộc tổng tuyển cử ở miền Nam Việt Nam được dự liệu bởi Điều 9 (b).
CHƯƠNG V
THỐNG NHẤT VIỆT NAM VÀ QUAN HỆ GIỮA BẮC VÀ NAM VIỆT NAM
Điều 15
Vấn đề thống nhất Việt Nam sẽ được thực hiện từng bước bằng đường lối hòa bình trên căn bản thảo luận và thỏa hiệp giữa hai miền Bắc và Nam Việt Nam, không có sự ép buộc hay sát nhập bởi bên nào, và không có sự can thiệp của nước ngoài. Thời gian thống nhất sẽ được thỏa thuận bởi Bắc và Nam Việt Nam.
Trong khi chờ đợi thông nhất:
a) Lằn ranh quân sự giữa hai miền ở vĩ tuyến 17 chỉ là tạm thời và không phải là một biên giới chính trị hay lãnh thổ, như được qui định trong đoạn 6 của Bản Tuyên ngôn Cuối cùng của Hội nghị Giơ-ne-vơ 1954
b) Bắc và Nam Việt Nam sẽ tôn trọng Vùng Phi Quân sự ở hai bên của Lằn Ranh Quân sự Tạm thời.
c) Bắc và Nam Việt Nam sẽ mau chóng khởi sự thương thuyết để tái lập quan hệ bình thường trên những lãnh vực khác nhau, trong số những vấn đề được thương thuyết là những thể thức về sự đi lại của dân chúng qua Lằn Ranh Quân sự Tạm thời.
d) Bắc và Nam Việt Nam sẽ không gia nhập bất cứ liên minh quân sự hay khối quân sự nào và sẽ không cho phép thế lực ngoại quốc nào duy trì căn cứ quân sự, quân sĩ, cố vấn quân sự, và nhân viên quân sự trên lãnh thổ của mỗi bên, như đã qui định trong Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954 về Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ngoài những sách, báo đã lưu hành trên thị trường và một số nhân chứng có quan hệ tới các sự kiện lịch sử trong giai đoạn 1945-1975, ba nguồn tài liệu chính được tác giả tham khảo là:
1. Thư Viện Quốc Hội Mỹ, đặc biệt là sách báo Việt Nam tại Asian Reading Room và hai bộ Foreign Relations of the United States, 1950- 1968 (U.S. Department of State: GPO, 1976-1998) và The Pentagon Pa­pers (Gravel edition, Boston: Beacon Press, 1971) tại Main Reading Room.
2. Woodrow Wilson Center, đặc biệt là Working Paper No. 22: 77 Conversations Between Chinese and Foreign Leaders on the Wars in Indochina, Cold War International History Project (Virtual Archive).
3. Centre des Archives d’Outre-Mer (CAOM), đặc biệt là hồ sơ của Cao Ủy Pháp tại Sài-gòn, đã hoặc chưa được giải mật, lưu trữ dưới ký hiệu HCI (Haut Commissariat de France en Indochine).
Những sách hay bài viết của các tác giả liệt kê dưới đây đều là những tài liệu có liên quan đến các đề mục trong sách nhưng không nhất thiết là những tài liệu được trích dẫn:
Amiral Decoux. A la Barre de l’Indochine (Paris: Pion, 1949).
Anderson, Jack. “The Washington Merry-Go-Round” column, The Washington Post, July 21, 1967.
Bảo Đại. Le Dragon d’Annam (Paris: Pion, 1980).
Boudarel, Georges. Cent Fleurs Eclores dans la Nuit du Vietnam. (Paris: Éditions Jacques Bertoin, 1991).
Boudarel, Georges et Francois Caviglioli. “Comment Giap a failli perdre la bataille de Dien Bien Phu”, Le Nouvel Observateur (Paris, 8 Avril 1983).
Bùi Diễm. Gọng Kìm Lịch Sử (Paris: Cơ sở Xuất bản Phạm Quang Khai, 2000).
Bùi Tín. Mây Mù Thế Kỷ (California: Đa Nguyên, 1998).
- “Về Nhân Vật Hồ Chí Minh”, tài liệu phổ biến trên internet, 30.12.2003.
Bunker, Ellsworth. Oral History-Interview, Lịu Library.
Burchett, Wilfred G. Vietnam: inside Story of the Guerilla War (New York International Publishers, 1958).
Buttinger, Joseph. The Smaller Dragon: A Political History of Vietnam (New York: Frederick A. Praeger, 1958).
Cao Văn Lượng (chủ biên). Lịch sử Việt Nam 1954-1965.
Caputo, Philip. A Rumor of War (New York: Holt, Rinehart and Winston, 1978).
Césari, Laurent. L’Indochine en Guerres 1945-1993 (Paris: Éditions Bélin, 1995).
Chaffard, Georges. “Le gouvernement nord vietnamien doit affronter à son tour le mécontentement populaire”, Le Monde (Paris, 5.12.1956).
Chanda, Nayan. Brother Enemy (New York: Harcourt Brace Jovanovich Publishers, 1986).
Oscar Chapuis. A History of Vietnam: from Hong Bang tứ Tu Duc (Westport, CT:
Greenwood Press, 1995).
Chính Đạo. Việt Nam Niên Biểu 1939-1975 (Houston: Văn Hoá, 1996, tập A, B, C)
Cole, Allan B., ed. Conflict in Indochina and International Repercussions: A Documentary History, 1945-1955 (Ithaca: Cornell University Press, 1956).
Cooper, Chester L. The Lost Crusade: America in Vietnam (New York: Dodd, Mead, 1970)
Richard Critchfield. The Long Charade: Political Subversion in the Viet­nam War (New York: Harcourt, Brace and World, 1968).
De Folin, Jacques. Indochine 1940-1’945: La Fin d’Un Rêve (Paris: Perrin, 1993).
-“Les belligérants à la table des négociations”, trong La Guerre d’Indochine 1945-1954. (Paris: Les Dossiers Historia, Éditions Tallandier, 1990).
De Gaulle, Chartes. Allocution prononcée à l’occasion de l’ouverture de la Conférence Brazzaville, 30 Janvier 1944.
Devillers, Philippe. Histoire du Vietnam de 1940 à 1952 (Paris; Editions du Seuil, 1952).
- Paris-Saigon-Hanoi: Les Archives de la Guerre, 1944-1947 (Paris: Gallimard/Julliard, 1988)
Doãn Quốc Sỹ, Khu Rừng Lau.
Dooley, Thomas A. Deliver Us from Evil: the Story of Vietnam’s Flight to Freedom (New York: Farrar, Straus and Cudahy, 1956)
Duiker, William J. Ho Chi Minh (New York: Hyperion, 2000).
- Sacred War: Nationalism and Revolution in a Divided Vietnam (New York: McGraw Hill, 1995).
Elliot, David W.P., ed. The Third Indochina Conflict (Boulder, CO: Westview Press, 1981).
Falk, Richard, ed., The Vietnam War and International Law: A Sympo­sium Sponsored by the American Society of International Law (New Jersey: Princeton University Press, 1969).
Fall, Bernard. The Two Vietnams: A political and military analysis (New York, London: Frederick A. Praeger, 2nd edition, 1968).
- The Vietminh Regime, Government and Administration in the Democratic Republic of Vietnam (Westport, Connecticut; Greenwood Press, 1975).
Fitzgerald, Françis. Fire in the Lake (Boston: Little, Brown and Com­pany, 1972).
Gaiduk, Ilya. The Soviet Union and the Vietnam War (Chicago: Ivan R. Dee, 1996).
Hammer, Ellen J. A Death in November (New York: E.p. Dutton, 1987).
- The Struggle for Indochina 1940-1954 (California: Stanford Uni­versity Press, 1954).
Hampton, Jane. ed. Internally Displaced People: A Global Survey (Lon­don: Earthscan Publications Ltd., 1998).
Harrison, James Pinckney. The Endless War: Fifty Years of Struggle in Vietnam (New York: Free Press, 1982).
Hess, Gary R. The United States’ Emergence as a Southeast Asia Power (New York: Columbia University Press, 1987).
Hilsman, Roger. “The situation and short-term prospects in South Vietnam”, Memorandum to Secretary’ of State Dean Rusk, December
3, 1962.
Hoàng Văn Chí. Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc (Sài-gòn; Mặt trận Bảo vệ Tự do Văn hóa, 1959).
Hoàng Văn Đào. Việt Nam Quốc Dân Đảng: Lịch sử tranh đấu cận đại, 1927-1954 (Saigon: VNQDĐ tái bản kỳ II).
Hoàng Văn Hoan. Giọt Nước Trong Biển Cả (Portland, OR: NXB Tìm hiểu Lịch Sử, 1991).
Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh Toàn Tập (Hà Nội, NXB Chính trị Quốc gia, 1995).
Hunt, Michael H. The Genesis of Chinese Communist Foreign Policy (New York: Columbia University Press, 1996).
Hữu Ngọc và Nguyễn Đức Hiền (sưu tầm). La Sơn Yên Đỗ Hoàng Xuân Hãn (Hà Nội: Nhà Xuất bản Giáo dục, 1998).
Johnson, Lyndon B. The Vantage Point: Perspectives of the Presidency, 1963-1969 (New York: Holt, Rinehart and Winston, 1971).
Karnow, Stanley. Vietnam: A History (New York: Viking, 1991).
Keating, Susan K. “The Draft”, The Washington Times, 30 September 1992).
Kissinger, Henry. Ending the Vietnam War (New York: Simon & Schuster, 2003).
- Years of Renewal (New York; Simon & Schuster, 1999).
Lacouture, Jean. Ho Chi Minh (New York: Penguin Books, 1969).
- Pierre Mendès France (Paris: Editions du Seuil, 1981).
- et Philippe Devillers, La Fin d’Une Guerre (Paris: Editions du
Seuil, 1960).
Lâm Quang Thi. Autopsy: The Death of South Vietnam (Phoenix, AZ: Sphinx Publishing, 1986).
Langguth, A.G. Our Vietnam (New York: Simon & Schuster, 2000).
Lansdale, Edward G. In the Midst of Wars (New York: Harper & Row, 1972).
Lê Giản. Những Ngày Sóng Gió (Hà Nội: NXB Công An Nhân Dân, tái bản năm 2000).
Lê Mậu Hãn (chủ biên). Đại cương Lịch sử Việt Nam, tập III, 1945-2000 (Hà Nội: NXB Giáo dục, 2001).
Lénine, V.I. La Révolution Prolétarienne et le Renégat Kautsky (Paris, Éditions sociales, 1953).
Lewey, Guenther. America in Vietnam (Oxford, England, 1978).
Louis, William R. Imperialism at Bay 1941-1945: The U.S. and the Decolonisation of the British Empire (Oxford University Press, 1977).
Lữ Giang. Những Bí ẩn Lịch sử Đàng sau Cuộc chiến Việt Nam (Cali fornia, 1998).
Mann, Robert. A Grand Delusion: America’s Descent into Vietnam (New York: Basic Books, 2001).
Marr, David. Vietnam 1945: The Quest for Power (Berkeley and Los An­geles: University of California Press, 1995).
Marty, L. Le “Việt Nam Quốc-Dân-Đảng” ou “Parti National Annamite” au Tonkin, 1927-1932 (Hanoi: Gouvernement de l’Indochine.) Docu­ments Vol. II, 1933.
McCortnich, Thomas J. America’s Half Century: United States Foreign Policy in the Cold War and After (Baltimore: Johns Hopkins Univer­sity Press, 1995).
McNamara, Robert s. Argument Without End (New York: Public Affairs, 1999).
- In Retrospect: The Tragedy and Lessons of War (New York: Vin­tage Books, 1995).
Nguyễn Thế Anh. “The Formulation of the National Discourse in 1940- 45, Vietnam”, Journal of International and Area Studies, Vol. 9, No. 1, June 2002.
Nguyễn Phú Đức. Pourquoi les Etats-Unis ont-ils perdu la guerre? (Paris: Godefroy de Bouillon, 1996).
- The Vietnam War, Vol. I (unpublished)
Nguyen Cao Ky with Marvin J. Wolf. Buddha’s Child: My Fight to Save Vietnam (New York; St. Martin’s Press, 2002).
Nguyễn Khắc Ngữ. Những Ngày Cuối Cùng của Việt Nam Cộng Hoà (Montréal: Tủ sách Nghiên cứu Sử-Địa, 1979).
Nguyễn Minh cần. “Xin đừng quên nửa thế kỷ trước: Vấy máu Cải cách Ruộng đất”, phổ biến trên internet, tháng Giêng 2003.
Nguyễn Văn Trấn, Viết cho Mẹ và Quốc hội (California: Văn Nghệ, 1995).
Ninh, Kim N.B. A World Transformed: The Politics of Culture in Révolu~ tionary Vietnam,1945-1965 (The University of Michigan Press, 2002).
Nixon, Richard M. No More Vietnams (New York: Arbor House, 1985).
- RN: The Memoirs of Richard Nixon (New York: Grosset and
Dunlap, 1978).
Nye Jr., Joseph s. Bound to Lead: The Changing Nature of American Power (New York: Basic Books, 1990)
O’Connor, Rev. Patrick. “Violations of Article 14 of the Geneva Agree ment”, Terror in Vietnam: A Record of Another Broken Pledge (Wash­ington, D.C: National Catholic Welfare Conference, 1955).
Paterson, Thomas G. and Dennis Merrill, ed. Major Problems in Ameri­can Foreign Policy, vol. II: since 1914, 4th edition (Lexington, MA: D.c. Health and Company, 1995).
Patti, Archimedes L. Why Vietnam? (University of California Press, 1980). Phạm Huấn. Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975 (San Jose, CA: Phạm Huấn, 1987).
Phan Lạc Phúc. Bè bạn gần Xa (California: Văn Nghệ Xuất Bản, 2000). Phủ Tổng Ủy Di Cư Tị Nạn. Cuộc Di cư Lịch sử tại Việt Nam (Sài-gòn, 1957).
Pike, Douglas, ed. The Bunker Papers (Berkeley: University of Califor­nia, 1990).
Porter, Gareth. A History of Documents (New York: New American Li­brary, 1981.
- “Vietnamese Policy and the Indochina Crisis”, The Third Indochina Conflict, Pratt, John c. Vietnam Voices: Perspectives on the War Years, 1941-1975 (Georgia: The University of Georgia Press, 1999).
Sainteny, Jean. Histoire d’une Paix Manquée: Indochine 1945-1947 (Paris: Fayard, 1967).
- “Ho Chi Minh and His Vietnam: A Personal Memoir, translated by Herma Briffault (Chicago: Cowles, 1972)
Schoenbrun, David, Av France Goes (New York, 1957).
Schulzinger, Robert D. A Time for War: The United States and Vietnam, 1941-1975 (New York: Oxford University Press, 1997).
Sorley, Lewis. A Better War (San Diego: A Harvest Book, Harcourt Inc., 1999).
Summers Jr., Haưy. “Lingering Fiction About Vietnam”, The Washington Times, 5 February, 1993.
Sutter, Valerie O’Connor. The Indochinese Refugee Dilemma (Baton Rouge and London: Louisiana State University Press, 1990).
Taussig, H.c. “Land Reform Abuses”, South China Morning Post (Hong Kong, 28.11.1956).
Taylor, Maxwell. Swords and Plowbares (New York; Norton, 1972). Thành Tín. Mặt Thật (California, Saigon Press, 1993).
Tôn Thất Đính. 20 Năm Binh Nghiệp (San Jose, CA: Tuân Báo Chẫnh Đạo xuất bản, 1998).
Trần Văn Đôn. Our Endless War Inside Vietnam (San Rafael, CA: The Presidio Press, 1978).
Trần Trọng Kim. Một Cơn Gió Bụi (Sài-gòn: Vĩnh Sơn, 1969).
- Nho Giáo (California: Cơ sở Đại Nam tái bản, Tập I, không đề năm).
Trần Thục Nga (chủ biên). Lịch sử Việt Nam (Hà Nội: NXB Giáo Dục, 1991).
Trần Ph\ương. “The Land Reform”, Vietnamese studies: Pages of History 1945-1954 (Hanoi: 1966).
Trần Quang Vinh. Hồi Ký Trần Quang Vinh và Lịch sử Quân đội Cao Đài (Washington, D.Cư Thánh Thất vùng Hoa Thịnh Đôn tái bản, 1997).
Trịnh Đình Khải. Décolonisation du Vietnam: Un Avocat Témoigne (Paris: L’Harmattan, 1994).
Trương NhưTảng. A Viet Cong Memoir (New York: Vintage Books, 1986).
Tucker, Spencer c., ed. The Encyclopedia of the Vietnam War (New York: Oxford University Press, 2000).
Vũ Thư Hiên. Đêm Giữa Ban Ngày (California: Văn Nghệ, 1977).
Võ Nguyên Giáp. Đường tới Điện Biên Phủ (Hà Nội: NXB Quân Đội Nhân Dân, 1999).
- Điện Biên Phủ: Điểm hẹn Lịch sử (Hà Nội: NXB Quân Đội Nhân Dân, 2000).
Zhai, Qiang. China and the Vietnam Wars, 1950-1975 (Chapel Hill: The North Carolina University Press, 2000).

Người Việt lạc quan và những số 9 'trong mơ'

-Để có niềm lạc quan vững bền dựa trên những thành tích thực sự của nền kinh tế, phải chăng chúng ta hãy bắt đầu từ những con số 1 thực tế, thay vì từ những con số 9 đẹp đẽ nhưng xa vời?
Nhanh hơn, cao hơn, xa hơn và sánh vai các cường quốc năm châu là những gì người VN mơ ước. Thế nên lắm khi chúng ta thường hân hoan trước những cái nhất "quả đất" rồi nuôi niềm lạc quan và hy vọng. Nhưng sự thực thì sao?
Con số vàng 9999
Chẳng thế mà năm 2011, Việt từng dẫn đầu danh sách các quốc gia lạc quan nhất thế giới. Từ đó đến nay, tuy chưa được xếp hạng nhất thêm lần nào nữa nhưng ta vẫn có nhiều cơ sở để duy trì... lạc quan. Một trùng hợp thú vị là khá nhiều con số dẫn đến cơ sở lạc quan đều liên quan đến số 9, con số may mắn và lạc phúc theo quan niệm phương Đông.
Ví dụ đầu tiên là tỷ lệ thất nghiệp ở VN hiện đứng hàng thấp nhất thế giới với 1,84% theo công bố mới nhất từ Viện Khoa học Lao động và xã hội (Bộ LĐTBXH) trong quý 2/2014. Con số này được coi là thấp nhất trong vòng một năm qua và Việt Nam nằm trong những quốc gia có tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất thế giới. Theo số này thì tức là có đến 98,16% dân ta trong độ tuổi lao động có việc làm.
Tiếp đến, nền hành chính công của Việt Nam được coi là có những chuyển biến mà các quốc gia khác phải gờm. Bởi theo công bố ngày 20/8 của Bộ Nội vụ và WB thì hơn 80% số người dân tham gia khảo sát tại Phú Thọ, Thanh Hóa và Bình Định đã bày tỏ sự hài lòng với dịch vụ hành chính công. Như vậy chỉ có vẻn vẹn 20% không hài lòng.
Một cuộc khảo sát tương tự diễn ra ở TP.HCM gần đây cũng cho thấy 99% người dân hài lòng với các dịch vụ hành chính công liên quan đến giao thông công chính, 90% liên quan đến tài nguyên môi trường, 94,3% liên quan đến nông nghiệp và phát triển nông thôn và riêng các dịch vụ liên quan đến LĐTBXH thì 100%. Đúng là... mười phân vẹn mười.
Trước đó, vào tháng 9/2013, theo Bộ trưởng Bộ Nội vụ tổng hợp từ báo cáo của các địa phương trong cả nước thì ở VN chỉ có 1% số công chức không hoàn thành nhiệm vụ. Tức là 99% đã hoàn thành và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Quả là những số đẹp, quá đẹp, toàn là đầu 9 và thậm chí là hai hay ba số 9 cả.
Nhưng đẹp nhất, như trong mơ có lẽ là con số của ngành giáo dục. Bộ Giáo dục hồi tháng 6/2014 công bố tỷ lệ học sinh tốt nghiệp PTTH của Việt Nam là 99,02%. Con số của năm 2013 có kém cạnh một chút là 98,97%. Năm nay sẽ có thay đổi trong kỳ thi tốt nghiệp và kỳ thi đại học, nên chưa biết con số kết quả hết năm học 2014-2015 ra sao. Chứ cứ như đà "phương trưởng" cũ thì khả năng cao là sẽ vượt khỏi con số 99,9% để đi đến 100%, tức cũng lại "mười phân vẹn mười".
thất nghiệp, thống kê, GDP, cải cách hành chính, bẫy thu nhập trung bình, lạc quan, vàng
Ảnh minh họa
Điều quan trọng là người dân, và ngay cả các nhà quản lý, chỉ sau vài phân tích nhỏ hẳn cũng đều băn khoăn hoài nghi những con số đẹp đẽ này.
Ví như tỷ lệ thất nghiệp 1,84% vừa công bố. Trong khi Tổ chức Lao động quốc tế cũng cho biết năng suất lao động ở VN đang rơi vào mức thấp nhất của châu Á - Thái Bình Dương. Theo đó, năng suất lao động của VN chỉ bằng 1/15 Singapore, 1/5 Malaysia và 2/5 so với Thái Lan. Tổng cục Thống kê cũng cho biết trong vòng 8 tháng đầu năm 2014, VN có đến 44.500 doanh nghiệp bị giải thể hoặc tạm ngưng hoạt động, tăng 12,9% so cùng kỳ năm trước.
Con số báo cáo thì chỉ có 1% số công chức không hoàn thành nhiệm vụ. Trong khi chính Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc từng chỉ ra: "Trong bộ máy chúng ta có tới 30% số công chức không có cũng được, bởi họ làm việc theo kiểu sáng cắp ô đi, tối cắp về".
Rõ ràng khoảng cách từ các con số vàng mười này đến thực tế là khá xa. Thế nên, để duy trì tinh thần lạc quan nếu chỉ dựa vào các con số đã được công bố trên bề mặt quả là một thử thách vô cùng gian nan.
Đổi số 1 lấy số 9
Tuy nhiên, để "bộ sưu tập" số 9 đầy đủ, cũng cần bổ sung những con số 9 gây đau đầu.
Báo cáo VN 2030 mà Chính phủ VN cùng thực hiện với Ngân hàng thế giới vừa được công bố cho thấy, để có thể theo kịp nền kinh tế như Hàn Quốc, Đài Loan (TQ), Việt Nam đang cần tăng trưởng 9% liên tục trong vòng 20 năm.
Trong khi đó, báo cáo đề dẫn của WB tại cuộc họp công bố cho thấy, 20 năm qua kinh tế Việt Nam tăng trưởng trung bình 5,7%/năm, cao thứ hai thế giới. Trong trường hợp chỉ tăng trưởng trung bình 5-6%/năm, Việt Nam sẽ nằm trong bẫy thu nhập trung bình.
Điều đáng nói là muốn đạt con số 9 % tăng trưởng /năm, một con số thực sự nằm trong mơ, thì VN sẽ phải cải cách, cải tiến rất mạnh mẽ, quyết liệt, trong đó có cả việc đưa lại những số thống kê ảo, thống kê để báo cáo thành tích trở về con số thực.
Và thay vì những số 9 mơ hồ, ta chỉ cần các số 1 nhưng hiệu quả. Theo ông Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng Viện Quản lý kinh tế Trung ương thì "Cắt giảm được 1 ngày làm thủ tục cho xuất nhập khẩu sẽ tiết giảm được chi phí xuất nhập khẩu tương đương 1% tổng kim ngạch. Như vậy, tính ra nếu năm nay tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam khoảng 300 tỷ USD, nếu giảm được 1 ngày làm thủ tục đối với hoạt động xuất nhập khẩu thì cả xã hội tiết giảm được 3 tỷ USD chi phí".
Thứ trưởng Bộ Tài chính, ông Đỗ Hoàng Anh Tuấn cho hay những chi phí cả xã hội, mà chủ yếu là các DN phải chịu do kéo dài thời gian thực hiện các thủ tục một cách không cần thiết, trung bình vào khoảng 0,8 - 0,9% GDP. Như vậy, nếu GDP của cả nước năm nay đạt khoảng 164 tỷ USD thì những chi phí tương đương mà DN phải chịu là gần 1,5 tỷ USD! Chỉ cần tiết kiệm được khoản vô lý chưa đến 1% GDP này ta đã có thêm biết bao nhiêu tiền của cho xã hội.
Còn theo ông Olin MacGill, chuyên gia quốc tế về phát triển môi trường kinh doanh của Dự án quản trị Nhà nước nhằm tăng trưởng toàn diện (GIG), một công ty mới thành lập tại Việt Nam có thế tiết kiệm được khoảng 1,1 triệu USD/năm nếu các cơ quan quản lý cắt giảm được số giờ thực hiện các thủ tục đăng ký và thành lập DN.
Như vậy, để có niềm tin và niềm lạc quan lâu bền dựa trên những thành tích thực sự của nền kinh tế, phải chăng chúng ta hãy bắt đầu từ những con số 1 thực tế thay vì từ những con số 9 đẹp đẽ nhưng xa vời?
Nguyễn Anh Thi

2952. Bắt mạch Hiến… nháp

Hoàng Xuân Phú
10-09-2014
Cuối tháng 3 năm 2013 dân cư mạng bỗng xôn xao về việc Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), báo Nhân dân (Cơ quan Trung ương của ĐCSVN), trang VOV Online (Đài Tiếng nói Việt Nam) cùng nhiều báo chí và trang mạng “lề phải”, như Tiền phong, Tuổi trẻ, Văn nghệ Quân đội, Vietnamnet… đồng loạt viết Hiếp pháp” thay cho “Hiến Pháp”. Trước đó, ngày 22 tháng 11 năm 2011, Văn phòng Chính phủ cũng gửi công văn số 8298/VPCP-PL “V/v thông báo ý kiến của Phó Thủ tướng về cuộc họp trực tuyến tổng kết Hiếp pháp”. Trong hoàn cảnh Nhân dân bị áp đặt một bản Hiến pháp trái với nguyện vọng và có hại cho phía dân, lại tạo điều kiện dễ dãi cho bộ máy thống trị, thì cách chơi chữ này quả là ý nhị và thâm thúy.
Trên bàn phím thông thường, hai phím “N”“P” nằm cách xa nhau, vì vậy khó mà vô tình gõ nhầm. Chẳng hiểu nguyên do thực sự là gì, nhưng việc họ thay chữ cái “N” bằng “P” gợi ra cách làm ngược lại, là thay “P” bằng “N” nhằm tạo ra từ Hiến… nháp, để gọi tắt bản Hiến pháp đã được Quốc hội khóa XIII long trọng thông qua vào ngày 28/11/2013, khi chất lượng của nó mới đạt tầm bản nháp
Hai bài “Hiến pháp 2013 – Sửa nhầm hay đổi thiệt?”“Hiến pháp vi hiến” đã góp phần làm sáng tỏ nhận định “… mới đạt tầm bản nháp”. Bài này bổ sung thêm một số chứng cứ. Hy vọng chúng sẽ có ích, giúp các đại biểu Quốc hội hiểu rõ hơn cái sản phẩm mà họ đã nhất trí chọn làm Hiến pháp, và cũng giúp các cử tri hiểu rõ hơn năng lực của những người mà họ đã bầu làm đại biểu cho mình.
Một ngày không xa, chắc chắn Hiến pháp sẽ được sửa chữa lần nữa, hoặc được viết lại từ đầu. Hy vọng những người sẽ tham gia vào công việc trọng đại ấy đọc kỹ mấy bài viết này, để rút kinh nghiệm mà khắc phục một số chứng bệnh kinh niên, thường mắc phải trong các Hiến pháp của chế độ đương thời.
Để dễ theo dõi, bài này được cấu trúc theo kiểu phân loại “chứng bệnh” mắc phải. Đó là các chứng “tất định” (phần 1), “lắm lời” (phần 2), “ít chữ” (phần 3), “tuyên giáo” (phần 4), “lan man” (phần 5), “đại ngôn” (phần 6), “bất chấp” (phần 7), và “vu vơ” (phần 8).
Bài này khá dài. Chẳng phải vì người viết quá tham lam, ôm đồm, không biết chọn lọc, mà do tâm lý “dọn vườn”: Đã phải xắn tay lên dọn cỏ, thì chẳng nỡ dừng tay khi mảnh vườn vẫn còn um tùm cỏ dại. Dù đã cố gắng chọn cách trình bày, nhưng bài viết không tránh khỏi rời rạc, khô khan, vì phải đề cập đến nhiều nội dung tẻ nhạt. Mong bạn đọc dành thời gian và kiên trì đọc đến cuối, đặc biệt là những người quan tâm, muốn hiểu rõ hơn thực trạng của bản Hiến pháp đang chi phối cuộc sống của hơn 90 triệu người dân Việt Nam.

  1. Chứng “Tất định”
Trên đỉnh cao quyền lực, các nhà độc tài dễ mắc chứng tứ tưởng: Tưởng quyền lực của mình vô biên, bao trùm thiên hạ, và tưởng dân chúng thuộc quyền sở hữu của họ, nên luôn phải ngoan ngoãn, tuân thủ vô điều kiện mọi mệnh lệnh mà họ ban ra. Tưởng trí tuệ của mình cao ngất trời, và tưởng hiểu biết của dân chúng chỉ thấp lè tè ngọn cỏ. Do đó, làm người thế nào, sử dụng quyền con người ra sao, thì muôn dân đều phải đợi nhà cầm quyền cho phép và hướng dẫn thực hiện. Cũng vì vậy nên nhiễm phải chứng tất định“, nghiện đem tất cả mọi thứ ra để quy định hay định nghĩa, rồi coi đó là chuẩn mực, khuôn phép, và áp đặt lên toàn dân. Buồn thay, chuẩn mực mà thường phi lý, cứ sai hoài sai mãi…
1.1.
Một biểu hiện của chứng hoang tưởng quyền lực, coi thường người dân, là không chịu thừa nhận quyền con người thuộc phạm trù đương nhiên, như sự tồn tại của con người, mà coi quyền con người là thứ do thế lực cầm quyền ban cho dân chúng. Ban cho bao nhiêu thì dân chúng chỉ được hưởng bấy nhiêu, không được đòi hỏi hay thắc mắc. Có điều, giữa thời buổi nhãn hiệu “nhà nước pháp quyền” đã trở thành mốt, thì sự ban phát tùy ý được hợp pháp hóa thông qua thủ thuật hiến định.
Trong các Hiến pháp của chế độ này, từ “quyền con người” xuất hiện lần đầu tiên và chỉ đúng một lần tại Hiến pháp 1992, nhưng không phải để thừa nhận, mà để phủ định:
“Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật.” (Điều 50)
Nghĩa là “các quyền con người” không được thừa nhận như giá trị phổ cập, mà chỉ được “thể hiện ở các quyền công dân”, và chúng cũng chỉ “được quy định trong Hiến pháp và luật”.
Sang Hiến pháp 2013, từ “quyền con người” xuất hiện 9 lần, không còn bị đồng nghĩa mà được song hành với “quyền công dân”, nhưng cả hai đều không thoát nổi số phận chỉ được công nhận… theo Hiến pháp và pháp luật”:
“Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.” (Khoản 1 Điều 14)
Vậy là cả những quyền con người hiển nhiên cũng không được thừa nhận, nếu không vượt qua “cửa ải hiến định”. Điều đó cho thấy chứng “tất định” giống như một thứ bệnh ung thư đã di căn, tác động xấu tới cuộc sống của mọi người dân.
1.2.
Một căn nguyên khác của chứng “tất định” là bệnh ấu trĩ nghề nghiệp trong lĩnh vực lập hiến và lập pháp. Ấy là tưởng rằng quy định càng kỹ, càng cụ thể thì càng chặt chẽ, càng ít bị lợi dụng. Nhưng cuộc sống quá bao la, đến mức không một tấm lưới pháp lý nào có thể bao trùm hết mọi hoàn cảnh thực tế, nên càng cố căng ra để phủ thì càng sơ hở, rồi kéo căng quá thì rách cả lưới. Khi sa đà vào cụ thể, thì cũng đánh mất tính tổng quát, nên có thể trở nên sai hoặc để sót nhiều trường hợp, và đôi khi còn dễ bị lợi dụng hơn. Chẳng hạn, Điều 153 Bộ luật hình sự số 15/1999/AH10 quy định về “Tội buôn lậu”, nhưng chỉ đề cập đến hành vi “buôn bán trái phép qua biên giới. Khi đã viết cụ thể “qua biên giới”, thì không thể coi “buôn bán trái phép” trong nội địa Việt Nam là phạm “tội buôn lậu” (theo Điều 153) nữa. Vậy thì cứ việc “buôn bán trái phép”, nhưng tránh vượt “qua biên giới” là thoát được tội này, mặc dù buôn bán hàng cấm hoặc hàng trốn thuế (kể cả trong nội địa) thường được coi là “buôn lậu”.
1.3.
Khi đã nghiện quy định, nghiện định nghĩa, cố định nghĩa cả những thứ không cần định nghĩa, hay không thể định nghĩa chính xác, thì khó tránh khỏi những kết quả ngây ngô. Ví dụ đơn giản là Khoản 1 Điều 13 Hiến pháp 2013, quy định rằng:
“Quốc kỳ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh.”
Có thể rút ra điều gì từ đây? Khi đã viết cụ thể là “hình chữ nhật”, “chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài”, và “ở giữa có ngôi sao”, thì có nghĩa các nhà lập hiến rất chú trọng chi tiết và tính chính xác, đặc biệt là coi trọng hình dáng, tỷ lệ kích thướcvị trí của ngôi sao. Do đó, khi đã quy định tỉ mỉ như thế, thì tỷ lệ nào không được nhắc tới có thể coi là không quan trọng và có thể chọn tùy ý. Chẳng hạn, nếu “hình chữ nhật” (với “chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài”) to bằng mặt bàn và “ở giữa có ngôi sao”… nhỏ xíu như con ruồi, thì vẫn phù hợp với mọi tiêu chuẩn được quy định chi tiết trong Hiến pháp. Nhưng có thể coi cái thứ hợp hiến ấy là Quốc kỳ của nước CHXHCN Việt Nam hay không? Cũng theo tiêu chuẩn hình dáng, tỷ lệ kích thướcvị trí của ngôi sao đã được hiến định, thử hỏi có thể chấp nhận các biến tướng của Quốc kỳ như trong Ảnh 1, Ảnh 2Ảnh 3 hay không? Có cần phải xử lý các tổ chức và cá nhân đã vi phạm Hiến pháp thông qua hành vi xuyên tạc Quốc kỳ hay không?
H1Ảnh 1: Quốc kỳ hình chữ nhật, nhưng tỷ lệ kích thước sai, với ngôi sao bị búa liềm chèn dạt sang một phía (Nguồn: Internet)
H2Ảnh 2: Quốc kỳ hình… thang lõm một cạnh, với ngôi sao theo búa liềm phiêu bạt lên trên (Nguồn: Internet)
H3Ảnh 3: Quốc kỳ hình… méo – Không phải do gió bay, vì ngôi sao vẫn ngay ngắn, không bị méo theo nền cờ (Nguồn: Internet
1.4.
Khoản 2 Điều 13 Hiến pháp 2013 viết như sau:
Quốc huy nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình tròn, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh, xung quanh có bông lúa, ở dưới có nửa bánh xe răng và dòng chữ ‘Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam’.”
Tức Quốc huy phải là “hình tròn”, nghĩa là hình phẳng, được giới hạn bởi một đường biên có khoảng cách không đổi (được gọi là bán kính) so với một điểm cố định (được gọi là tâm). Xin hỏi: Trong hai hình ở Ảnh 4Ảnh 5, cái nào giống “hình tròn” hơn? Trong số những người đã học xong chương trình giáo dục tiểu học (được hiến định “là bắt buộc” tại Điều 61 Hiến pháp 2013), ai dám nói rằng cái hình chỗ lồi chỗ lõm trong Ảnh 5“hình tròn”? Ấy vậy mà Hiến pháp lại gọi nó là “hình tròn”, và 486 đại biểu Quốc hội đã bấm nút “tán thành”, chỉ có 2 người bỏ phiếu trắng, không có ai phản đối.
H1Ảnh 4: Quốc huy hình tròn?
Vốn dĩ, Hiến pháp 1946 không hề hiến định Quốc kỳ và Quốc huy. Hiến pháp 1959 bắt đầu hiến định chúng, đã quy định “Quốc huy… hình tròn”, nhưng không đề cập đến hình dáng và tỷ lệ kích thước của Quốc kỳ, mà chỉ viết “ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh”. Hiến pháp 1980 bổ sung thêm quy định “Quốc kỳ… hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài”. Sau đó, nội dung hiến định “Quốc kỳ… hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài… ở giữa có ngôi sao” “Quốc huy… hình tròn” được tiếp tục duy trì trong Hiến pháp 1992Hiến pháp 2013. Như vậy, suốt hơn nửa thế kỷ, cả 13 khóa Quốc hội đều “kiên định lập trường” cho rằng Quốc huy như trong Ảnh 5 là “hình tròn”.
Nội dung đơn giản như vậy mà còn hiến định sai, thì sao có thể hiến định đúng những vấn đề phức tạp? Lỗi sơ đẳng, hiển nhiên như vậy mà còn không nhận ra, thì sao có thể phát hiện nổi những sai sót không tầm thường trong Hiến pháp?
Hiến pháp Mỹ không đề cập đến Quốc kỳQuốc huy. Hiến pháp Đức cũng không nhắc đến Quốc huy, và chỉ viết gỏn gọn về Quốc kỳ như sau: “Cờ Liên bang là Đen-Đỏ-Vàng.” (Nghĩa là chỉ nhắc đến bộ màu Đen-Đỏ-Vàng, thường được dùng làm tên để gọi Quốc kỳ CHLB Đức, chứ không đưa ra quy định mang tính định nghĩa về Quốc kỳ.) Thế nhưng sự “thiếu vắng” ấy không hề cản trở hai quốc gia đó phát triển, trở thành cường quốc hàng đầu thế giới. Vậy thì tại sao các nhà lập hiến Việt Nam phải làm khác đi, cố hiến định một cách chi tiết về Quốc kỳ và Quốc huy, để rồi lại tạo ra sản phẩm ngây ngô như vậy?
1.5.
Điều 17 Hiến pháp 2013 định nghĩa:
“Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam.”
Ấy là tiếp tục duy trì truyền thống hiến định tại Điều 53 Hiến pháp 1980Điều 49 Hiến pháp 1992. Với bản năng “tất định”, đương nhiên đặt ra câu hỏi: Vậy “người có quốc tịch Việt Nam” là ai? Khoản 1 Điều 5 Luật Quốc tịch Việt Nam (Số 24/2008/QH12) cho câu trả lời… ngược lại:
“Người có quốc tịch Việt Nam là công dân Việt Nam.”
Sử dụng quy tắc bắc cầu cho cặp mệnh đề trên, ta thu được “chân lý”:
“Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là công dân Việt Nam.”
Chỉ “luận quẩn” những thứ hiển nhiên, để rồi tòi ra đặc sản “đèn cù” như vậy, thì có nhất thiết phải viết vào Hiến pháp và luật hay không?
  1. Chứng “Lắm lời”
Lời nói đầu của Hiến pháp Mỹ chỉ vẻn vẹn 52 chữ và của Hiến pháp Đức chỉ có 79 chữ. Còn ở Việt Nam, Lời nói đầu của Hiến pháp 1959 dài 1276 chữ, của Hiến pháp 1980 dài 1706 chữ và của Hiến pháp 1992 dài 532 chữ. Nghĩa là dài, rất dài, nhưng càng dài thì càng… sai, nên chưa đầy 70 năm đã phải trải qua 5 đời Hiến pháp. Có lẽ nhận thức được phần nào hạn chế ấy, nên Lời nói đầu của Hiến pháp 2013 đã được viết gọn hơn, chỉ còn 290 chữ. Tiến bộ ấy dễ nhận thấy, song không có nghĩa là Hiến pháp đã khắc phục xong chứng “lắm lời”. Sau đây là mấy ví dụ về biểu hiện của hội chứng đó trong Hiến pháp 2013.

2.1.
“Công đoàn Việt Nam… là… tổ chức chính trị – xã hội được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên” – Nội dung này được hiến định đến hai lần. Lần thứ nhất tại Điều 9:
Công đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam các tổ chức chính trị – xã hội được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình…”
Lần thứ hai sát ngay sau đó, tại Điều 10, với từ “người lao động” thay cho từ “thành viên”:
Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị – xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho người lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động…”

2.2.
“Cơ quan… cán bộ, công chức, viên chức phải… chống tham nhũng, lãng phí” – Cái này được quy định tại Điều 8:
“Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền.”
Không nhất thiết phải viết ở đó như vậy, vì nội dung “Cơ quan… cá nhân phải… chống lãng phí… chống tham nhũng” cũng xuất hiện trong Điều 56:
Cơ quan, tổ chức, cá nhân phải thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, phòng, chống tham nhũng trong hoạt động kinh tế – xã hội và quản lý nhà nước.”
Chẳng nhẽ phải đề cập hai lần, vì Quốc hội cho rằng “các cơ quan nhà nước” không phải là “cơ quan”, và “cán bộ, công chức, viên chức” không phải là “cá nhân”, hay sao?
2.3.
Đặc biệt, chỉ trong nội bộ Điều 58 mà ý “Nhà nước, xã hội… bảo vệ, chăm sóc sức khỏe…” đã được viết hai lần:
“1. Nhà nước, xã hội đầu tư phát triển sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của Nhân dân, thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân, có chính sách ưu tiên chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào ở miền núi, hải đảo và vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn.
  1. Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc sức khỏe người mẹ, trẻ em, thực hiện kế hoạch hóa gia đình.”
Chẳng nhẽ phải viết hai lần vì Quốc hội cho rằng “người mẹ, trẻ em” không thuộc vào “Nhân dân”?
2.4.
Và đây nữa, cùng trong Điều 15, Khoản 2 đã quy định:
“Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác.”
Vậy mà Khoản 4 còn viết:
“Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.”
Chẳng nhẽ, Quốc hội cho rằng, mặc dù đã “tôn trọng quyền của người khác” theo Khoản 2, nhưng vẫn có thể “xâm phạm quyền của người khác”, nên phải dùng Khoản 4 để quy định “không được xâm phạm quyền của người khác”, hay sao? (Xem Phụ lục I.)
Nếu cho rằng Khoản 4 Điều 15 là cần thiết, thì tại sao không bổ sung thêm vào Điều 4 Hiến pháp 2013 Khoản 4 với nội dung tương tự? Cụ thể như sau:
Việc thực hiện quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội không được xâm phạm lợi ích Quốc gia, Dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.”
Thậm chí, nên viết thêm rằng:
“Nghiêm cấm việc đặt lợi ích của đảng lên trên lợi ích Dân tộc, vì quyền lợi của đảng mà hy sinh quyền lợi Quốc gia.
Thực tế chỉ ra rằng: Hiến định như vậy không thừa, mà còn hết sức cần thiết.
  1. Chứng “Ít chữ”
Phải chăng đã quen “lắm lời” thì hiến định cái gì cũng kỹ lưỡng? Không, trái lại, khi đã tốn “lắm lời” cho những chuyện không đâu, thì chỉ còn lại “ít chữ” cho những điều cần thiết.
Hiến pháp 2013 quy định (tại Điều 25):
“Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.”
Vẻn vẹn 33 chữ cho 3 nhóm quyền tự do quan trọng: Tự do ngôn luận, báo chí và tiếp cận thông tin; tự do tụ họp và biểu tình; tự do lập hội.
Vốn dĩ, vào thuở sơ khai của trình độ lập hiến, Hiến pháp 1946 (Điều 10) chỉ dành 21 chữ cho 3 nhóm quyền này, dưới hình thức “khoán trắng”, nghĩa là không kèm theo bất kỳ cam kết hay ràng buộc nào cả. Sau đó, Hiến pháp 1959 (Điều 25) tăng lên thành 44 chữ, chủ yếu vì bổ sung thêm cam kết:
“Nhà nước bảo đảm những điều kiện vật chất cần thiết để công dân được hưởng các quyền đó.”
Sang đời thứ ba, Hiến pháp 1980 (Điều 67) sử dụng số chữ kỷ lục là 79, do bổ sung tiếp hai ràng buộc
“… phù hợp với lợi ích của chủ nghĩa xã hội và của nhân dân”

“Không ai được lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích của Nhà nước và của nhân dân.”
Đến đời thứ tư, Hiến pháp 1992 (Điều 69) rút xuống còn 31 chữ, trong đó bỏ hẳn cam kết “Nhà nước bảo đảm bảo đảm những điều kiện vật chất cần thiết để công dân được hưởng các quyền đó”, và thay điều kiện “phù hợp với lợi ích của chủ nghĩa xã hội và của nhân dân” bằng ràng buộc “theo quy định của pháp luật”.

Việc hủy bỏ cam kết “Nhà nước tạo điều kiện vật chất cần thiết để công dân sử dụng các quyền đó”, vốn tồn tại trong Điều 67 Hiến pháp 1980Điều 25 Hiến pháp 1959, không chỉ đơn thuần là khước từ trách nhiệm của nhà cầm quyền, mà còn thể hiện quyết tâm không cho “công dân sử dụng các quyền đó”. Chính vì mưu đồ vi hiến ấy, mà họ đã dựng lên trong Điều 69 Hiến pháp 1992 rào cản “… theo quy định của pháp luật”, rồi cố tình trì hoãn, dứt khoát không chịu ban hành văn bản pháp luật quy định việc thực hiện, để công dân không thể thực thi các quyền tự do. Sau khi nhận ra rào cản ấy không đủ kín về mặt pháp lý, họ đã thay thế nó trong Điều 25 Hiến pháp 2013 bằng bức tường thành kiên cố hơn: “Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Tiếc thay, đi lạc nước cờ lập hiến nên lâm vào ngõ cụt, như phân tích trong bài “Hiến pháp 2013 – Sửa nhầm hay đổi thiệt?”.
Dân gian dùng từ “xin đểu” để chỉ kiểu “giả vờ xin, nhưng thực chất là ngang ngược ép buộc người khác phải cho”. Phải chăng, tương tự như vậy, từ “cho đểu” cũng phù hợp với kiểu “giả vờ cho, nhưng thực chất là ngang ngược cản cấm người khác nhận”?
Cũng chính vì ý đồ không cho “công dân sử dụng các quyền đó”, nên mấy quyền tự do được hiến định một cách đơn giản, mang tính chiếu lệ, và chỉ sử dụng ít chữ. Để hiểu hơn bản chất này, ta hãy so sánh với hiến pháp của vài nước khác.
Hiến pháp Mỹ (Tu chính I, bổ sung vào năm 1791) quy định:
“Quốc hội sẽ không ban hành đạo luật nào nhằm thiết lập tôn giáo hoặc ngăn cấm tự do tín ngưỡng, hay hạn chế quyền tự do ngôn luận, hoặc quyền tự do báo chí, hoặc quyền của người dân tụ họp (assemble) một cách hòa bình (peaceably) và kiến nghị Chính phủ sửa chữa những điều gây bất bình.”
Như vậy, Hiến pháp Mỹ cũng chỉ dùng ít chữ để hiến định các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chítự do tụ họp. Không phải vì các nhà lập hiến Mỹ thiếu chữ, mà vì cho rằng không cần thiết phải viết quá nhiều về những quyền được họ quan niệm là hiển nhiên, hiển nhiên đến mức chỉ còn cần hiến định việc cấm Quốc hội ban hành các đạo luật nhằm hạn chế các quyền đó. Mặc dù “hào phóng” như vậy, nhưng quyền tụ họp không được “khoán trắng” như trong Hiến pháp 1946 hay Hiến pháp 2013 của Việt Nam, mà bị Hiến pháp Mỹ hạn chế trong khuôn khổ “tụ họp một cách hòa bình.
Đòi hỏi “tụ họp một cách hòa bình” cũng xuất hiện cùng với điều kiện “không mang theo vũ khí” trong Điều 8 Hiến pháp Đức, hiến định về quyền tự do tụ họp (bao gồm cả quyền biểu tình):
“(1) Mọi người Đức đều có quyền tụ họp một cách hòa bìnhkhông mang theo vũ khí, mà không cần phải trình báo hay được chuẩn y.
(2) Đối với các cuộc tụ họp ngoài trời, quyền này có thể bị hạn chế bằng luật hoặc trên cơ sở của một luật.”
Bên cạnh đó, Hiến pháp Đức còn dành Điều 5 để quy định về các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tinĐiều 9 để quy định về quyền tự do lập hội (xem Phụ lục II). Như vậy, để thể hiện nội dung của Điều 25 Hiến pháp 2013 (với 33 chữ) về 3 loại quyền tự do ngôn luận, báo chí và tiếp cận thông tin; tự do tụ họp và biểu tình; tự do lập hội, Hiến pháp Đức phải sử dụng Điều 5, Điều 8Điều 9, với tổng cộng 215 chữ tiếng Đức và có thể dịch ra 294 chữ tiếng Việt, nghĩa là nhiều gấp gần 9 lần so với Hiến pháp hiện hành của Việt Nam. Đấy là chưa kể Điều 18 (quy định về việc tước bỏ quyền cơ bản nếu lợi dụng chúng để chống lại trật tự dân chủ tự do) và Điều 19 (quy định về nguyên tắc ban hành luật hạn chế quyền cơ bản nếu hiến pháp cho phép hạn chế).
Một ví dụ khác là điều hiến định về quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Trong khi Hiến pháp Việt Nam 2013 (Điều 22) sử dụng 46 chữ cho mục đích này, thì Hiến pháp Đức (Điều 13) sử dụng 334 chữ tiếng Đức, tương đương khoảng 450 chữ tiếng Việt, tức là nhiều gấp hơn 9 lần so với Hiến pháp 2013.
Hai ví dụ trên cho thấy Hiến pháp 2013 dành rất ít chữ để hiến định quyền con người, quyền công dân. Tại sao?
Phải chăng là để nhà cầm quyền dễ hạn chế hay dễ phủ định các quyền đó?
Hay do không có ý định chấp nhận chúng trên thực tế, nên cũng chẳng cần phải phí chữ cho chúng, đến mức bỏ qua cả cái ràng buộc đã trở thành kinh điển, là quyền tự do hội họp, biểu tình gắn liền với điều kiện là chúng phải diễn ra “một cách hòa bình”?
  1. Chứng “Tuyên giáo”
Chứng “lắm lời” không chỉ thể hiện ở chỗ lặp đi lặp lại một số nội dung, mà cả ở việc nhồi vào Hiến pháp những mệnh đề thuần túy “tuyên giáo”. Cứ như thể Hiến pháp là nơi để các tác giả thể hiện tài viết văn chính trị hay khả năng thuyết giáo.
4.1.
Điều 4 Hiến pháp 2013 viết:
“Đảng Cộng sản Việt Nam – Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam…”
Vậy “đội tiên phong” là gì và được định nghĩa ở đâu trong hệ thống văn bản pháp luật? Thuật ngữ này chứa thuộc tính pháp lý nào, mà lại lạc vào Hiến pháp? Ngay cả ý nghĩa đời thường của nó cũng đã bị mất tiêu sau khi chiến tranh kết thúc, cái thuở “tiên phong” còn có nghĩa là đi đầu ra mặt trận, gương mẫu xông pha nơi lửa đạn… Còn bây giờ, khi lý tưởng quan trường là leo thật cao và kiếm thật nhiều tiền, với vũ khí là lợi dụng quyền lực, bất chấp pháp luật, thì “tiên phong” trên “mặt trận thi đua… tham nhũng”, hay sao?
4.2.
Khoản 1 Điều 15 Hiến pháp 2013 viết:
“Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân.”
Mệnh đề này hay được tua lại trong các bài tuyên giáo. Nó có thể dùng để dạy con nít, giáo dục chúng đừng chỉ nghĩ đến quyền lợi mà quên nghĩa vụ. Nhưng khi “bị lạc” vào Hiến pháp, thì mệnh đề đó trở nên vô nghĩa. Nó hoàn toàn thừa, vì “trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ” của công dân đã được hiến định rõ ràng và đầy đủ tại Khoản 3 của chính Điều 15:
“Công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội.”
Hơn nữa, trong khuôn khổ một văn bản pháp lý, thì thuật ngữ “không tách rời” chỉ có thể hiểu một cách “trần trụi” theo nghĩa đen, khiến câu văn bóng bẩy ấy trở nên sai về nội dung. Đang ăn, đang ngủ, hay đang làm tình, chẳng nhẽ cũng phải thực hiện đồng thời một “nghĩa vụ công dân” nào đó, để thỏa mãn điều kiện “không tách rời”, hay sao? Đối với trẻ sơ sinh, người tàn tật nặng và cụ già nằm liệt giường, cần được chăm sóc tuyệt đối, thì “quyền” được chăm sóc của họ “không tách rời nghĩa vụ công dân” nào đây?
4.3.
Điều 45 Hiến pháp 2013 viết:
“Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân.”
Hiện thân đích thực của “Tổ quốc” ra sao, khi các bên xung đột đều nhân danh “Tổ quốc”, giống như thời đất nước còn chia đôi thành hai miền Nam, Bắc? Bao giờ thì phải hay được “bảo vệ Tổ quốc”, và “bảo vệ” như thế nào? Khi Tổ quốc bị xâm lấn và đồng bào ngư dân bị ngoại bang bắt bớ, cướp bóc ngay trên vùng biển quê hương, thì công dân có nghĩa vụcó quyền “bảo vệ” hay không? Tại sao nhà cầm quyền lại sử dụng “quyền cao quý” để đàn áp những người biểu tình phản đối hành vi bành trướng của ngoại bang, nhằm thực thi “nghĩa vụ thiêng liêng”? Ôi Tổ quốc, chúng con phải bảo vệ Người thế nào đây, khi Tổ quốc của họ khác Tổ quốc của chúng con?
Tại sao không viết gọn, rằng “Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ và quyền của công dân”, mà cố nhồi thêm vào đó hai tính từ “thiêng liêng”“cao quý” ? “Thiêng liêng”“cao quý” hay không là cảm nhận của mỗi người. Tình cảm đó bị chi phối bởi hình hài mà Tổ quốc hiện ra trong con mắt của từng số phận. Đối với thế lực núc ních nhờ tham nhũng, thì có lẽ Tổ quốc giống như bò cái thả rông, không mất công nuôi vẫn ngày ngày cho sữa – Yêu yêu quá đi thôi! Còn đối với dân oan lang thang trong vô vọng, thì có lẽ Tổ quốc giống như người mẹ mải theo người tình mà bỏ rơi con cái – Sao mẹ nỡ vô tình làm vậy? Hoàn cảnh khác nhau thì trạng thái tình cảm đương nhiên cũng khác nhau. Không thể đòi hỏi người bị đè đầu cưỡi cổ cũng phải hưng phấn như kẻ đang đè, đang cưỡi. Đừng đòi những phận đời đang chới với trong biển khổ phải dày vò thêm với câu hỏi “thiêng liêng”: “Ta đã làm gì cho Tổ quốc?” Hãy để lương tâm “cao quý” của các đức ông, đức bà thường nhân danh Tổ quốc trả lời câu hỏi: “Tổ quốc đã làm gì cho dân đen?” Và phía lập hiến hãy trả lời câu hỏi: Quốc hội lấy đâu ra cái quyền và cái lý để hiến định cả tình cảm của công dân, buộc mọi người phải coi đòi hỏi “bảo vệ Tổ quốc” theo kiểu nhà cầm quyền ấn định là “thiêng liêng” và “cao quý”?
4.4.
Điều 68 Hiến pháp 2013 viết:
“Nhà nước phát huy tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của Nhân dân.”
“Phát huy tinh thần yêu nước” như thế nào? Tổ chức khiêu vũ nhân dịp kỷ niệm 35 năm ngày quân bành trướng Trung Quốc tấn công vào các tỉnh biên giới phía bắc, nhằm ngăn cản buổi lễ tưởng niệm hàng vạn đồng bào và chiến sĩ đã ngã xuống, có phải là cách “Nhà nước phát huy tinh thần yêu nước” hay không? “Chủ nghĩa anh hùng cách mạng” là cái gì và được định nghĩa ở đâu trong hệ thống văn bản pháp luật? Nó khác với “chủ nghĩa anh hùng” (chung chung) hay “chủ nghĩa anh hùng không cách mạng” như thế nào? Cái “chủ nghĩa anh hùng cách mạng” ấy có thực sự là “của Nhân dân” hay không?
4.5.
Những mệnh đề “tuyên giáo” trong Hiến pháp 2013, như mấy ví dụ kể trên, thường có chung đặc điểm là mơ hồ về nội dung, rỗng và vô dụng về pháp lý, không cần thiết và cũng không nên xuất hiện trong một bản hiến pháp đích thực. Đó là kết quả của việc “tuyên giáo hóa” hệ thống giáo dục và đào tạo, khiến một số người đã “tu đủ các lò” có thể “đắc đạo” đến mức, dù đi đâu về đâu cũng không quên bản năng và trách nhiệm thuyết giáo. Kể cả khi tham gia viết Hiến pháp (là văn bản pháp lý lẽ ra chỉ chứa đựng những quy định cơ bản về quyền lợi và trách nhiệm của công dân, về nhiệm vụ, quyền hạn và phương thức tổ chức của bộ máy nhà nước, và biện pháp kiểm soát nó), thì họ cũng không quên truyền giáo, và nhầm tưởng Hiến pháp cũng là giảng đường để triển khai công tác “tuyên giáo”.
  1. Chứng “Lan man”
Một đặc điểm phổ biến trong các bài “tuyên giáo” là hay “lan man”, nên ôm đồm về nội dungtùy tiện về ngôn ngữ. Đáng tiếc thay, khi các nhà “tuyên giáo” nhúng tay vào Hiến pháp, thì nó cũng bị lây nhiễm căn bệnh ấy. Thành thử, lẽ ra văn bản pháp luật phải được viết một cách mạch lạc, rõ ràng và chính xác, thì Hiến pháp 2013 lại chứa nhiều câu “lan man” kiểu “con cà con kê”, và lắm lúc kết thúc trong vô nghĩa.
5.1.
“Lan man” đến mức rơi vào thế quẩn, như trong Lời nói đầu của Hiến pháp 2013:
Nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh lâu dài, đầy gian khổ, hy sinh vì độc lập, tự do của dân tộc, vì hạnh phúc của Nhân dân.”
Nếu “Nhân dân… đấu tranh… vì hạnh phúc của Nhân dân”, thì đó chỉ là chuyện thường tình, đấu tranh vì hạnh phúc của bản thân thì có gì đáng nói? Hơn nữa, “Nhân dân” đã “hy sinh… vì hạnh phúc của Nhân dân”, thì còn ai để hưởng “hạnh phúc” nữa đây? (Có lẽ các tác giả muốn gắn từ “hy sinh” với chữ “đầy”, để chỉ “cuộc đấu tranh… đầy… hy sinh”, nhưng với câu viết lan man như thế, người đọc vẫn có quyền hiểu rằng “hy sinh” là động từ gắn trực tiếp với chủ ngữ “Nhân dân”.)

5.2.
“Lan man” đến mức đọc “mệt nghỉ”, như Khoản 3 Điều 5 Hiến pháp 2013:
Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình.”
Và nếu nghỉ giữa chừng, chưa kịp đọc hai chữ “của mình” nấp ở tận cuối câu, thì có thể thu được thông tin ngây ngô, chẳng hạn: “Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết…”
5.3.
“Lan man” đến mức quên cả… chủ ngữ, như trong Khoản 2 Điều 35 Hiến pháp 2013:
Người làm công ăn lương được bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn; được hưởng lương, chế độ nghỉ ngơi.”
Vâng, nếu không quên mất đang viết về chủ ngữ Ngườiăn lương, thì tại sao lại bỏ công hiến định rằng họ được hưởng lương? Hơn nữa, nếu “người làm công…” không nghiễm nhiên “được hưởng lương, chế độ nghỉ ngơi”, nên vẫn phải đem cái thứ hiển nhiên ấy ra mà hiến định, thì hóa ra đây là chế độ chiếm hữu nô lệ hay sao?
5.4.
“Lan man” đến mức lạc hướng, khiến không chỉ người đọc bị nhầm, mà người viết cũng bị lẫn, như trong Khoản 1 Điều 37 Hiến pháp 2013:
“Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em.”
Ở đây, “trẻ em” không còn là một từ đơn, có thể đứng riêng lẻ và được vận dụng một cách độc lập, mà đã là một bộ phận cấu thành, không thể tách rời của từ ghép quyền trẻ em. Thành thử, “vi phạm quyền trẻ em thì có nghĩa, nhưng “hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động… quyền trẻ em thì hoàn toàn vô nghĩa.
5.5.
“Lan man” đến mức “tắc ngôn”, lâm vào “nghẽn ý”, như trong Khoản 1 Điều 37 Hiến pháp 2013:
Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em.”
Trẻ emđược tham gia vào các vấn đề về trẻ em – Nghe mới… âm u làm sao. Với xu hướng “phát triển dân chủ” này, liệu có ngày “thai nhi được tham gia vào các vấn đề về thai nhi” hay không?
Hiến định như vậy thì trẻ em được thêm cái gì? Và nếu không hiến định như vậy thì trẻ em bị mất đi cái gì? Thực tế trả lời ngắn gọn là KHÔNG! Vậy thì hiến định để làm gì?
Cái cao kiến ấy xuất xứ từ đâu? Có người giải thích rằng ý “trẻ em được tham gia vào các vấn đề về trẻ em” được cóp từ “Công ước về Quyền trẻ em”. Nếu quả đó là giáo án, thì e rằng đã túm nhầm phao (xem Phụ lục III).
5.6.
“Lan man” đến mức sa đà vào ngạo mạn, đem cả những “gánh nặng không đâu” ra để “ban phát”, như trong Khoản 2 và Khoản 3 Điều 37 Hiến pháp 2013:
“2. Thanh niên được Nhà nước, gia đình và xã hội tạo điều kiện học tập, lao động, giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ, bồi dưỡng đạo đức, truyền thống dân tộc, ý thức công dân; đi đầu trong công cuộc lao động sáng tạo và bảo vệ Tổ quốc.”
“3. Người cao tuổi được Nhà nước, gia đình và xã hội tôn trọng, chăm sóc và phát huy vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.”
“Thanh niên được… đi đầu trong công cuộc lao động sáng tạo và bảo vệ Tổ quốc.”“Người cao tuổi được… phát huy vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.” Phải “được” Hiến pháp (tức là “được” nhà cầm quyền) cho phép, thì “thanh niên”“người cao tuổi” mới “được” gánh vác cái của “trời ơi” ấy hay sao?

5.7.
Vì sao Hiến pháp 2013 lại phạm phải những lỗi như đã trình bày trong phần 5 này? Không thể phủ nhận được sự ôm đồm và hạn chế trình độ của những người liên quan. Nhưng có lẽ còn một nguyên nhân khác là hiệu ứng “đẽo cày giữa đường”. Mỗi người, xuất phát từ vị trí, nhận thức và mối quan tâm của bản thân, đều cố đưa vào Hiến pháp vài ý nào đó. Nhiều người tham gia thì phải dung nạp nhiều ý, có thể không tương thích với nhau. Muốn người khác chấp nhận ý của mình, thì mình cũng phải tôn trọng ý của người khác. Vả lại, khi mỗi người chỉ được phát biểu trong một thời gian ngắn, đấu tranh để thực hiện và bảo vệ ý tưởng của mình chưa chắc đã xong, còn đâu thời gian để bàn sang chuyện của người khác. Thêm vào đó là sự bất lực cá nhân trước tập thể quá đông, cùng với sự lép vế trước “bề trên”. Và cả tâm lý “cha chung không ai khóc”, cộng hưởng với thói quen ỷ lại: “Dưới” thì nghĩ “đã có Trên lo”, còn “Trên” thì đinh ninh “đã có bọn Dưới làm”. Thành thử dễ sinh ra sản phẩm… hổ lốn.

  1. Chứng “Đại ngôn”
Một trong những điểm đặc trưng của Hiến pháp Việt Nam là hay dùng những từ to tát, toàn mỹ, để chỉ những điều phi thực tế, mà nhà cầm quyền chưa hay không bao giờ thực hiện được, hoặc thậm chí cũng chẳng hề có ý định thực hiện.
Để khắc họa chứng “đại ngôn” của Hiến pháp Việt Nam, chỉ cần khảo sát sự vận dụng của từ “bảo đảm”, vốn dĩ chỉ xuất hiện khiêm tốn có 2 lần trong Hiến pháp 1946, nhưng tăng lên 17 lần trong Hiến pháp 1959, nhiều nhất là 35 lần trong Hiến pháp 1980, rồi lại giảm xuống còn 26 lần trong Hiến pháp 1992.
Theo “Từ điển tiếng Việt” của Viện Ngôn ngữ học (do Hoàng Phê chủ biên, Nhà xuất bản Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học xuất bản năm 1997), từ “bảo đảm” có nghĩa là:
-       Làm cho chắc chắn thực hiện được, giữ gìn được, hoặc có đầy đủ những gì cần thiết.
-       Nói chắc chắnchịu trách nhiệm về lời nói của mình để cho người khác yên lòng.
-       Nhận chịu trách nhiệm làm tốt.
Từ “bảo đảm” xuất hiện 28 lần trong Hiến pháp 2013. Đáng nói là, nhiều thứ được hiến định là “bảo đảm” lại không hề được “bảo đảm”, thậm chí còn bị chính bộ máy chính quyền xâm phạm thô bạo.
6.1.
Điều 34 Hiến pháp 2013 viết:
“Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội.”
Đây chính là Điều 35 trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 được đăng tải để lấy ý kiến nhân dân từ ngày 2/1/2013. Bài “Teo dần quyền con người trong hiến pháp” đã phân tích và kết luận rằng: “Quyền được bảo đảm an sinh xã hội” thuộc loại “quyền hư quyền ảo”, tức là “một thứ quyền vu vơ và hoàn toàn không khả thi”.
Theo Công ước số 102 của Tổ chức Lao động Quốc tế (International Labour Organization), thì 9 lĩnh vực chính của “an sinh xã hội” (social security) là: Chăm sóc về y tế, trợ cấp khi ốm đau, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tuổi già, trợ cấp trong trường hợp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, trợ cấp gia đình, trợ cấp thai sản, trợ cấp tàn tật, trợ cấp tiền tuất. Chẳng cần khảo sát xem chất lượng thực hiện đã đạt mức gọi là “được bảo đảm hay chưa, vì có thể khẳng định rằng: Không một thứ nào trong số đó được triển khai ở Việt Nam trên quy mô toàn xã hội. Nếu có phần nào đó được thực hiện, thì chỉ dừng lại ở bộ phận tương đối nhỏ, mang tính “đặc ân”, trước hết dành cho những người được coi là có công với chế độ.
Đôi khi, một số hoạt động mang tính từ thiện cũng được tổ chức cho đối tượng dân thường, nhưng không phải chỉ vì tình thương bao la, mà còn nhằm trang trí cho chế độ. Theo thông tin được đăng tải trên Báo Điện tử ĐCSVN, Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Phạm Thị Hải Chuyền cho biết: Từ năm 2011- 2013 nguồn lực dành cho hộ nghèo tăng lên khoảng 120 nghìn tỷ đồng/năm. Chỉ riêng “nguồn lực dành cho hộ nghèo” mà đã tương đương với 14,7% tổng số thu cân đối ngân sách nhà nước (816 nghìn tỷ đồng cho năm 2013), thì không phải là ít. Song tiêu chí đánh giá không thể dừng lại ở chỗ chi bao nhiêu, mà phải là: Chi thế nào? Số tiền đó đi đâu? Có đến tay người nghèo hay không?
Theo bài “Ai giám sát tiền hỗ trợ giảm nghèo?” của Nguyên Khánh, đăng trên báo Đại đoàn kết ngày 29/9/2013, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Đặng Huy Đông đã thừa nhận rằng:
“Bộ máy quản lý các chương trình, dự án giảm nghèo quá đồ sộ. Tỷ lệ chi cho hành chính, sự nghiệp chiếm hơn 63% tổng số tiền giảm nghèo huy động được… Thế nên mới có chuyện tiếng là các nguồn hỗ trợ người nghèo lên tới gần 200 triệu/hộ/năm, nhưng thực tế thì mỗi hộ nghèo chỉ tiếp cận được từ 10 – 15 triệu đồng/năm.”
Qua đó, có thể hình dung ra mục tiêu và hiệu quả của một số chính sách giúp đỡ người nghèo và phục vụ “an sinh xã hội” (ví dụ như xây nhà ở xịn giữa đô thị đắt đỏ để bán cho người nghèo).
Rõ ràng, những hoạt động kiểu ấy không chỉ là lấy tiền ngân sách chi cho người nghèo, mà còn là cách lấy tiền ngân sách nhân danh người nghèo. Kết quả là: Đã tiêu tốn rất nhiều tiền, nhưng “an sinh xã hội” còn cách rất… rất xa cái mức có thể coi là “bảo đảm”.
Hãy lấy việc chăm sóc về y tế làm ví dụ. 4-6 người bệnh phải chung nhau một giường, như được phản ánh trong bài “Một năm viện phí mới: Giường ghép, nỗi khổ chưa chấm dứt” của Lan Anh và Quỳnh Liên, đăng trên báo Tuổi trẻ Online ngày 26/9/2013. Như thế có lẽ vẫn còn may mắn hơn so với những “Bệnh nhân ‘bò từ gầm giường’ ra đón Bộ trưởng Y tế”, như được mô tả trên báo Người đưa tin ngày 15/1/2013. (Xem thêm “Chùm ảnh: Bệnh nhân ‘bò’ ra đón Bộ trưởng Y tế”, với Ảnh 6Ảnh 7 được lấy từ đó.)

H1
Ảnh 6: Bệnh nhân ‘lóp ngóp’ dưới gầm giường (Nguồn: Người đưa tin)
H2Ảnh 7: Bệnh nhân và người nhà chen chúc (Nguồn: Người đưa tin)
Nhẫn tâm thay,
“bất chấp hậu quả khôn lường cho bệnh nhân, một phiếu xét nghiệm huyết học ở Bệnh viện Đa khoa Hoài Đức (Hà Nội) được khoa Xét nghiệm “nhân bản” để dùng luôn cho 2-5 bệnh nhân… 1.000 kết quả xét nghiệm huyết học được dùng  cho ít nhất 2.000 bệnh nhân (trung bình một kết quả phiếu xét nghiệm được sử dụng cho 2-5 bệnh nhân)… Thí dụ, một kết quả xét  nghiệm huyết học vào hồi 9h3 phút ngày 19.2.2013 được dùng cho 4 bệnh nhân: Nguyễn Thị Nguyên – 70 tuổi, chẩn đoán lao phổi; Nguyễn Trung Nghĩa – 27 tuổi, chẩn đoán áp-xe cạnh hậu môn; Lý Thị Vân – 61 tuổi, chẩn đoán viêm phế quản của người bệnh cao huyết áp đang nằm ở khoa Hồi sức cấp cứu và cháu Lương Kiều Trang – 12 tuổi, chẩn đoán viêm ruột thừa.”
Đấy là điều mà Vương Hà đã thuật lại trong bài đăng trên báo Dân trí ngày 5/8/2013.
Bao chuyện tiêu cực xảy ra hàng ngày, hàng giờ, ở khắp nơi, từ địa phương đến trung ương, nhiều không kể xiết… Thêm vào đó là những vụ vô tình… làm chết người, như tiêm nhầm thuốc gây co bóp tử cung khiến 3 trẻ sơ sinh tử vong tại Bệnh viện Đa khoa Hướng Hóa… Thử hỏi, tình hình “chăm sóc về y tế” (lĩnh vực số một của “an sinh xã hội”) bi đát như vậy, thì có thể coi là được bảo đảm, tức là được “làm tốt”có đầy đủ những gì cần thiết”, hay không?
Muốn bảo đảm an sinh xã hội” thì phải có đủ tiền của, để chăm sóc chu đáo về y tế cho mọi người; để trợ cấp đáng kể cho người ốm đau, người thất nghiệp, người già, người bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp; để trợ cấp cho người tàn tật… Và điều đó phải tiến hành trên quy mô toàn xã hội, dành cho cả những người nghèo không có khả năng đóng các loại bảo hiểm. Mấy chục năm nữa, chưa chắc xã hội Việt Nam mon men đến được cái đích ấy. Vậy thì tại sao bây giờ lại đại ngôn mà viết vào Hiến pháp là bảo đảm an sinh xã hội” cho mọi công dân?
Bạn đừng tưởng đó là sơ hở pháp lý, để rồi tận dụng mà kiện chính quyền. Bởi Điều 34 Hiến pháp 2013 đã được viết với kỹ năng chính trị cao cường, nên đem lại dáng dấp oai phong, mà vẫn chẳng tạo ra gánh nặng nào cho Nhà nước. Nó chỉ hiến định công dân có quyền được được bảo đảm…”, nhưng không xác định “ai phải bảo đảm…”, nên nhà cầm quyền vẫn có thể lẩn tránh trách nhiệm. Chẳng hạn, nếu công dân nào đó đòi được trợ cấp…, trong khuôn khổ của cái gọi là “bảo đảm an sinh xã hội”, thì có thể nhận được câu trả lời theo kiểu “Trời sinh voi thì Trời phải sinh cỏ”, rằng ai sinh ra ngươi thì phải “bảo đảm” những quyền lợi ấy cho ngươi. Như vậy, Nhà nước vừa được ca ngợi, vừa vẫn “vô can”.
6.2.
Khoản 3 Điều 55 Hiến pháp 2013 viết:
“Đơn vị tiền tệ quốc gia là Đồng Việt Nam. Nhà nước bảo đảm ổn định giá trị đồng tiền quốc gia.”
“Bảo đảm ổn định giá trị đồng tiền quốc gia” – Nghe thật tuyệt đối và to tát, nhưng vấn đề là: Nhà nước có “ổn định” nổi không? Lấy cái gì để đo mức “ổn định”?
Theo thông tin về tỷ giá ngoại tệ trên website của Ngân hàng Ngoại thương (Vietcombank), giá mua chuyển khoản ngày 10/2/2009 là 17.483 Đồng/USD, 22.372 Đồng/EUR, và ngày 10/2/2014 là 21.080 Đồng/USD, 28.569 Đồng/EUR. Như vậy, trong vòng 5 năm, giá trị tiền Đồng Việt Nam đã giảm xuống chỉ còn 83% so với USD và chỉ còn 78% so với EUR.
Theo thông tin trên Sài Gòn Giải phóng Online, giá mua vàng SJC ngày 10/2/2009 là 18.610.000 Đồng/lượngngày 10/2/2014 là 35.420.000 Đồng/lượng. Như vậy, trong vòng 5 năm, giá trị tiền Đồng Việt Nam đã giảm xuống chỉ còn 53% so với vàng SJC.
Giá trị Đồng Việt Nam giảm nhiều như vậy, mà Quốc hội lại thông qua Hiến pháp viết rằng “Nhà nước bảo đảm ổn định giá trị đồng tiền quốc gia”, thế thì có quá đại ngôn hay không?
6.3.
Khoản 2 Điều 61 Hiến pháp 2014 viết:
Nhà nước ưu tiên đầu tư và thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục; chăm lo giáo dục mầm non; bảo đảm giáo dục tiểu học là bắt buộc, Nhà nước không thu học phí…”
Nhà nước bảo đảm giáo dục tiểu học là bắt buộc có nghĩa là phải tạo điều kiện để mọi người đều có khả năng hoàn thành chương trình “giáo dục tiểu học”. “Nhà nước không thu học phí” là góp phần thực hiện mục tiêu ấy, nhưng đó mới chỉ  là một phần tương đối nhỏ. Để có thể đi học, trẻ em phải được ăn no, mặc ấm, phải có sách vở, giấy bút… Dù xã hội giàu đến đâu, thì vẫn có những bố mẹ không đủ khả năng thỏa mãn những nhu cầu ấy của con cái. Trong trường hợp đó, chính Nhà nước phải trợ cấp phần thiếu hụt, để trẻ em có điều kiện sinh sống tối thiểu mà đi học tiểu học. Liệu Quốc hội đã nghĩ đến trách nhiệm này hay chưa? Liệu Nhà nước có định “bảo đảm” chu cấp nuôi hàng triệu trẻ em ở độ tuổi giáo dục tiểu học hay không? Và có khả năng kinh tế để triển khai dự định ấy hay không? Hay chỉ đại ngôn cho sướng, cho oai?
6.4.
Điều 96 Hiến pháp 2013 quy định Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây”:
“3. … thi hành lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và các biện pháp cần thiết khác để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tính mạng, tài sản của Nhân dân;”
“6. Bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền con người, quyền công dân; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội;”
Theo giải nghĩa trong “Từ điển tiếng Việt” về từ “bảo đảm” (như đã trích ở trên), thì Điều 96 đòi hỏi Chính phủ phải chắc chắn giữ gìn được tính mạng, tài sản của Nhân dân”chắc chắn giữ gìn được trật tự, an toàn xã hội”.
Trên thực tế, “tính mạng, tài sản của Nhân dân”“trật tự, an toàn xã hội” được Chính phủ “bảo đảm” như thế nào? Hãy nghe Phương Bích tâm sự:
Báo chí đưa tin nạn trộm chó hoành hành khắp các miền quê. Người dân bảo vệ chó của mình thì bị trộm đánh trả. Thậm chí chỉ vì bảo vệ chó mà chủ thiệt mạng. Kết quả là người dân hợp lực nhau lại, đánh chết kẻ trộm chó trong cơn cuồng nộ.”
“Chuyện nợ nần trong làm ăn, người ta không mấy khi nhờ cậy đến pháp luật giải quyết, vì họ biết thừa không có hiệu quả. Thế mới sinh ra các nhóm đòi nợ xã hội đen đỏ tím vàng… Và lúc đó thì pháp luật lại ra tay trị kẻ đi đòi nợ…”
Tôi rất muốn hỏi các quý vị người nhà nước, dân chúng tôi phải làm gì khi pháp luật không có tác dụng bảo vệ quyền lợi và tính mạng của mình?”
Một trong những chuyện đau lòng mới xảy ra là vụ đứt cáp cầu treo nối bản Chu Va 8 với Chu Va 6 ở xã Sơn Bình (Tam Đường, Lai Châu) vào sáng 24/2/2014, khiến hơn 40 người rơi xuống suối, 8 người chết và 33 người khác bị thương. Chẳng nhẽ đó cũng là kết quả “bảo đảm” của Chính phủ hay sao?
Thực ra, không một Chính phủ nào trên Thế giới này có thể “bảo đảm tính mạng, tài sản của Nhân dân” và “bảo đảm trật tự, an toàn xã hội”! Hùng mạnh như Chính phủ Mỹ mà cũng đành bất lực… Không “bảo đảm” nổi tính mạng của Tổng thống, thì làm sao có thể “bảo đảm” được tính mạng của người dân? Không “bảo đảm” nổi sự an toàn của tòa tháp đôi World Trade Center, biểu tượng tự hào sừng sững giữa trung tâm thành phố New York, cùng với tính mạng của hàng nghìn làm việc trong đó, thì làm sao có thể “bảo đảm tính mạng, tài sản của Nhân dân” “bảo đảm trật tự, an toàn xã hội” ở những nơi hẻo lánh xa xôi?
Dù cố gắng đến đâu, thì vẫn buộc phải chấp nhận thực tế: Luôn có những người bị thiệt mạng (vì tai nạn hoặc vì bị hãm hại). Luôn có những tài sản của Nhân dân bị hủy hoại (vì thiên tai, hỏa hoạn… hoặc vì bị phá hoại). Và luôn tồn tại những sự cố về trật tự, an toàn xã hội.
Nếu viết “Chính phủ có nhiệm vụ… bảo vệ tính mạng, tài sản của Nhân dân, … bảo vệ trật tự, an toàn xã hội”, thì còn hợp lý và khả thi. Đằng này, thay vì dùng từ “bảo vệ”, Quốc hội lại dõng dạc hiến định là “bảo đảm”, vậy thì có quá đại ngôn hay không?
Lỗi tương tự cũng xuất hiện trong Điều 67 Hiến pháp 2013:
“Nhà nước xây dựng Công an nhân dân… làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm.”
Một trong những ví dụ chỉ ra “Công an nhân dân… bảo đảm trật tự, an toàn xã hội thế nào được mô tả trong bài “Vết rạn sau vụ giết bạn chấn động” của Đàm Đệ.
Còn nhiều thứ “bảo đảm”  khác, sẽ được đề cập tiếp trong phần 7Phụ lục IV.
6.5.
Đại ngôn là tập quán phổ biến ở mọi chính trường trên Thế giới. Nhưng đại ngôn tràn lan cả trong hiến pháp, thì chỉ có thể là đặc sản của nhà nước mà thế lực cầm quyền xa lạ với trách nhiệm. Nếu quan niệm rằng “nói phét không mất tiền”, nghĩa là không phải chịu trách nhiệm về những điều mình nói, thì tội gì mà không nói cho oai?
Đại ngôn bị vung vãi dễ dãi trong Hiến pháp khi thế lực cầm quyền chỉ muốn tô vẽ để tự ngợi ca, mà không hề có ý định thi hành trên thực tế. Tệ nạn ấy không chỉ bắt nguồn từ tập quán hứa bừa, mà còn bám rễ trong truyền thống mạo công. Làm một kể mười, thậm chí không làm cũng điềm nhiên nhận công. Cái chứng bệnh ấy lây lan khắp nơi, càng lên cao thì bệnh càng trầm trọng. Hãy xem những bia đá được chưng ra nơi nơi, từ công viên đến đền chùa và các loại di tích, để kể công vị này ngài nọ đã trồng cây, cái cây mà nhiều người cùng trồng cùng tưới, nhưng công lao lại chỉ được gán cho đúng một người – cái người đóng góp ít công sức nhất. Tệ hại hơn, có lẽ để tương xứng với cái bia đá to đoành, hay vì sợ cây non không kịp lớn trước khi vị nọ “giải nghệ hoàn dân”, nên người ta bứng cả những cây to đã tồn tại lâu năm, để diễn trò tái trồng mầm… già.
Quyền trong tay thì cứ việc ra tay, nhưng đừng quá chủ quan cho rằng đại ngôn luôn vô hại. Về lý mà nói, một khi đã hiến định là Nhà nước hay Chính phủ “bảo đảm” thứ gì đó, thì người dân có quyền kiện những người đứng đầu Nhà nước hay Chính phủ khi thứ ấy không được “bảo đảm”. Nếu bịt tai phớt lờ hay trả thù người khiếu kiện thì lại bị dư luận lên án là chà đạp “nhà nước pháp quyền”. Đại ngôn có sướng đến mức đáng để chuốc lấy “hậu quả không đâu” ấy hay không?
  1. Chứng “Bất chấp”
Khi “đại ngôn” thì ít nhiều đã “bất chấp”. Nhưng trong phần này, ta chỉ đề cập đến một số điều hiến định thuộc loại rất bất chấp thực tế.
7.1.
Hai khoản đầu của Điều 2 Hiến pháp 2013 là:
“1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.”
“2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.”
Nhà nước này có phải là “nhà nước pháp quyền”, “của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” hay không? Nước này có phải là “do Nhân dân làm chủ” “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân” hay không? Thông qua thực tế, nhà cầm quyền đã liên tục đưa ra câu trả lời phủ định. Ở đây, chỉ cần đề cập một ví dụ: Việc cương quyết không chấp nhận để Nhân dân phúc quyết Hiến pháp đã chứng tỏ, rằng Nhà nước này không phải “của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”! Và cái gọi là “Nhà nước… do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân” chỉ là chuyện hư cấu bất chấp thực tế mà thôi.
Không phải hiến pháp nước nào cũng được đem ra phúc quyết toàn dân. Khi không có ai đòi đem Hiến pháp ra phúc quyết, thì cũng chẳng nhất thiết phải phúc quyết. Khi bộ máy cầm quyền thừa sức ngụy tạo ra kết quả bỏ phiếu theo ý muốn của họ, thì cũng chẳng nên kỳ vọng vào giá trị khách quan của việc phúc quyết. Nhưng nếu một lực lượng công dân đòi hỏi phải đem Hiến pháp ra phúc quyết toàn dân, thì không ai có quyền phủ quyết đòi hỏi đó. Bởi về lý mà nói, dù có quyền cao, chức trọng đến đâu trong bộ máy cầm quyền, thì bất cứ ai cũng chỉ là công dân bình đẳng với mọi công dân.
Giả sử các đại biểu Quốc hội được Nhân dân bầu ra một cách thực sự dân chủ (tiếc rằng thực tế không phải như vậy), thì Nhân dân cũng chỉ trao cho họ quyền đại diện về những điều mà họ đã thể hiện và tuyên bố công khai trước toàn thể cử tri, từ trước khi họ được bầu, và cử tri đã dựa vào đó để bầu họ. Nếu trước khi đắc cử tuyên bố sẽ ủng hộ “phương án A”, thì sau đó không thể nhân danh đại biểu của Nhân dân để phản đối “phương án A”. Nếu trước khi bỏ phiếu, cử tri không được biết gì hơn về các ứng cử viên ngoài mấy dòng lý lịch trích ngang vô hồn, thì người đắc cử không thể nghiễm nhiên cho rằng mình đã được cử tri ủy thác quyết định bất cứ việc gì. Không thể quan niệm rằng Nhân dân đã trao cho đại biểu Quốc hội quyền quyết định mọi vấn đề, như thể trao cho họ tập séc khống, muốn ghi gì và ghi bao nhiêu vào đó cũng được.
Chưa bao giờ Nhân dân ủy thác cho Quốc hội phủ định quyền phúc quyết của Nhân dân. Vì vậy, nếu muốn phản đối việc phúc quyết Hiến pháp, thì đại biểu Quốc hội phải tổ chức lấy biểu quyết cử tri mà mình đại diện, xem đa số cử tri có ủng hộ dự định đó hay không. Chẳng hề xin ý kiến cử tri, mà Quốc hội vẫn ngang nhiên bác bỏ đòi hỏi phúc quyết Hiến pháp của một lực lượng công dân, thì đó là bằng chứng cho thấy: Quốc hội đã bất chấp thực tế khi khẳng định trong Hiến pháp rằng Nhà nước này là “của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”, “do Nhân dân làm chủ” và “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”.

7.2.
Điều 4 Hiến pháp 2013 viết:
“1. Đảng Cộng sản Việt Nam… đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc…
  1. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình.
  2. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.”
Như đã phân tích trong bài Uẩn khúc trong Điều 4 Hiến pháp, tất cả các nội dung được trích ở trên đều thuộc dạng “công chứng bất chấp hiện trạng của nguyên bản”. Thay vì viết rõ đó là những đòi hỏi mà ĐCSVN phải chấp nhận và phải thực hiện, thì họ lại cố tình bỏ đi mấy chữ “phải”, biến các đòi hỏi pháp lý thành những mệnh đề khẳng định, như thể ĐCSVN đã và đang đạt được những điều mà trên thực tế không hề đạt.
Vốn dĩ, Điều 12 Hiến pháp 1992 quy định rõ ràng rằng:
Các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật…”
Nay nội dung trên được “hóa thân” tại Khoản 1 Điều 8 Hiến pháp 2013 như sau:
“Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật…”
Vậy là trách nhiệm hiến định phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật” của “các cơ quan Nhà nước”“đơn vị  vũ trang nhân dân” không còn nữa. Thay vào đó, chỉ còn hiến định là “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật”, tức không hề có từ phải, hay tương tự, để thể hiện trách nhiệm hiến định. Nghĩa là, học theo tấm gương xấu của Điều 4, Khoản 1 Điều 8 Hiến pháp 2013 cũng trở thành dạng “công chứng bất chấp hiện trạng của nguyên bản”, như thể “Nhà nước đang được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật”, bất chấp thực tế mà người người đều rõ.
7.3.
Điều 3 Hiến pháp 2013 viết:
“Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân…”
“Quyền làm chủ của Nhân dân” là gì? Cái này mờ ảo như trời cao, nên thôi, không bàn ở đây. Còn “quyền con người, quyền công dân” thì cụ thể hơn, thiết thân hơn, nên buộc phải đặt ra câu hỏi: “Nhà nước… bảo đảm quyền con người, quyền công dân” như thế nào?
Như ta đều biết, quyền con người, quyền công dân thường xuyên bị bộ máy cầm quyền xâm phạm, ví dụ như trường hợp “Bốn công an dùng nhục hình, xát ớt bột vào hạ bộ một thanh niên”. Để tránh bị lên án, khi ra tay chỉ lớp quan chức dưới cùng mới xuất đầu lộ diện. Kín kẽ hơn, họ huy động cả đám “quần chúng bức xúc” hay “côn đồ tự phát” để “ném đá dấu tay”. Thậm chí, cho cả sĩ quan công an giả dạng dân thường, như trường hợp công an giả làm thợ cưa đá dưới chân tượng Lý Thái Tổ vào sáng 19/1/2014, để ngăn cản một số công dân dâng hương hoa, nhằm tưởng niệm các chiến sĩ đã hy sinh, nhân kỷ niệm 40 năm ngày Hoàng Sa bị mất vào tay Trung Quốc. Nhưng những màn kịch ấy không thể ngụy trang, che dấu được trách nhiệm của các cấp lãnh đạo. Ai cũng hiểu rằng: Nếu lãnh đạo cấp trên không đồng tình, không đứng sau những trò hề ấy, thì họ đã chấn chỉnh, ra lệnh cho cấp dưới chấm dứt ngay những hành động vi hiến, phi pháp, đàn áp người dân thực thi các quyền hiến định.
Điều khiến lãnh đạo tầng trên cùng, từ Bộ trưởng trở lên, không thể phủ nhận trách nhiệm, là chính họ ký tên ban hành các văn bản pháp quy vi hiến và phi pháp để phủ định quyền con người, quyền công dân, như đã đề cập trong bài “Lực cản Nhà nước pháp quyền”. Qua đó ta thấy rõ, Điều 3 Hiến pháp 2013 bất chấp thực tế đến mức nào. Thiết tưởng cũng chẳng cần bàn thêm, nhưng tiện đây, xin bổ sung thêm một ví dụ tương đối mới.
Theo thông tin trên trang Bauxite Việt Nam vào ngày 24/2/2014, Công an Quận 4 Thành phố Hồ Chí Minh đã phát đến từng hộ dân “Phiếu Tố giác Tội phạm” (xem Ảnh 8). Trong đó, “Kích động, nói xấu chế độ”tội số một, “Vận động khiếu kiện tập thể”tội đứng thứ hai, trên cả tội “cướp của”. Đây là một bằng chứng hùng hồn về việc bộ máy cầm quyền vi phạm quyền con người, quyền công dân.
H1Ảnh 8: Phiếu Tố giác Tội phạm do Công an phát cho các hộ dân (Nguồn: Bauxite Việt Nam)
Lạ thay cái tội “nói xấu chế độ”! Không ai có thể phủ định thực tế, là chế độ này không thiếu biểu hiện xấu. Xấu đến mức Chủ tịch nước Trương Tấn San phải gọi một số đồng chí là “bầy sâu”. Và Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thi Doan cũng thừa nhận: “Người ta ăn của dân không từ cái gì”. Nếu ai đó nói về những cái xấu ấy của chế độ, thì cũng chỉ là phản ánh cái sự thật mà muôn người đều biết, trong khuôn khổ tự do ngôn luận, được hiến định tại Điều 25 Hiến pháp 2013. Tại sao lại quy kết người “nói xấu chế độ đúng sự thật”“tội phạm”, rồi ra tay trừng phạt? Đó là “công lý xã hội chủ nghĩa” hay sao?
Lẽ ra, chỉ nên coi những người “bịa đặt về chế độ”“tội phạm”. Song khi đó, phải kết tội tất cả những ai “nói không thành có”, kể cả những vị thường bịa đặt những chuyện tốt không có thật để gán cho chế độ, cái hành vi thường được coi là “ca ngợi chế độ”. Tội bịa đặt để “ca ngợi chế độ” rất đáng bị trừng phạt. Bởi nó làm hại người dân, khiến họ ấm ức, phải chịu đựng lâu hơn những nỗi khổ bị thuyết minh là hạnh phúc. Mặt khác, nó làm hại chính bản thân chế độ, vì thôi miên và đánh lừa bộ máy cầm quyền: Đang mang trong mình những khối u ác tính, mà lại bị lừa (và tự lừa) là vẫn khỏe mạnh, nên chủ quan, không chịu điều trị kịp thời, đợi đến khi di căn khắp nơi, thì… vô phương cứu chữa.
Đặc biệt, trong “Phiếu Tố giác Tội phạm”, “Vận động khiếu kiện tập thể” bị coi là “tội” thuộc phạm trù “An ninh chính trị”. Trên thực tế, “khiếu kiện tập thể” thường bắt nguồn từ lý do kinh tế, không vì mục tiêu chính trị. Tước quyền sử dụng đất của bao nông dân quanh năm “bán mặt cho đất bán lưng cho trời”, mà bồi thường không thỏa đáng, thì đương nhiên các nạn nhân phải cùng nhau bảo vệ tài sản của mình. Và nếu tự vệ không nổi, thì phải cùng nhau khiếu kiện, gọi là “khiếu kiện tập thể”, để đòi lại công bằng. Hành động hợp tình, hợp lý như vậy, mà lại bị chính quyền cản cấm và đàn áp, thì dù ngu ngơ đến đâu cũng có thể đoán ra vai trò giật dây của thế lực tham nhũng. Cho nên, nhiều khi “vận động khiếu kiện tập thể” cũng là “vận động tập thể chống tham nhũng”. Coi “vận động tập thể chống tham nhũng”“tội” đe dọa “an ninh chính trị”, tức là “tội chống chế độ”, thì chẳng khác nào khẳng định rằng “tham nhũng là bản chất của chế độ này”, nên “chống tham nhũng là chống chế độ”. Hay đó chỉ là hành vi xuyên tạc của thế lực cầm quyền, “nhân danh bảo vệ chế độ để bảo vệ tham nhũng”?
Như đã chỉ ra trong bài “Lực cản Nhà nước pháp quyền”, Điều 74 Hiến pháp 1992 hiến định “quyền khiếu nại” không hạn chế; Luật khiếu nại, tố cáo số 09/1998/QH10 chấp nhận đích danh việc “nhiều người khiếu nại, tố cáo về cùng một nội dung” “cử đại diện để trình bày”, nghĩa là chấp nhận những vụ khiếu nại của nhiều người cùng đứng tên. Cho nên, việc Chính phủ ban hành Nghị định số 136/2006/NĐ-CP và Thanh tra Chính phủ ban hành Thông tư số 04/2010/TT-TTCP, trong đó không chấp nhận “đơn khiếu nại có chữ ký của nhiều người”, là hành vi vi phạm thô bạo Hiến pháp và luật. Điều 30 Hiến pháp 2013 tiếp tục hiến định “quyền khiếu nại” không hạn chế. Thêm vào đó, Điều 14 Hiến pháp 2013 quy định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật. Vì nghị định và thông tư không phải là luật, nên tính vi hiến của Nghị định số 136/2006/NĐ-CPThông tư số 04/2010/TT-TTCP càng trở nên rõ ràng hơn. Như vậy, không có bất kỳ văn bản pháp lý hợp hiến nào cho phép nhà cầm quyền khước từ “khiếu kiện tập thể”.
Việc vận động khiếu kiện tập thể” thuộc quyền công dân, trong khuôn khổ tự do hội họp, lập hội, được hiến định tại Điều 25 Hiến pháp 2013. Thế thì tại sao công an lại coi hành động ấy là tội, thậm chí là trọng tội?
“Phiếu Tố giác Tội phạm” có vi hiến, phi pháp hay không? Điều đó đã quá rõ, nhưng các tác giả khoác áo công an hoàn toàn không quan tâm. Họ chỉ viết ra những tư duy sai trái đã ngấm sâu vào tiềm thức và hóa thành bản năng. Đó mới là điều đáng lo ngại.
Độc tài có nghĩa là phi dân chủ. Đã phi dân chủ thì thường vi phạm quyền con người, quyền công dân. Cho nên, nếu nói bộ máy độc tài bảo đảm quyền con người, quyền công dân”, thì quả là hoang đường, bất chấp thực tế.
7.4.
Khoản 2 Điều 35 Hiến pháp 2013 viết:
“Người làm công ăn lương được bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn…”
Để hiểu “điều kiện làm việc công bằng” như thế nào, hãy đọc bài của Hữu Công đăng trên VnExpress ngày 27/8/2013:
“Công ty TNHH một thành viên Thoát nước đô thị chi lương cả năm 2012 cho Giám đốc là 2,6 tỷ đồng (hơn 200 triệu đồng mỗi tháng), Chủ tịch Hội đồng thành viên 1,6 tỷ đồng, Kế toán trưởng 1,67 tỷ đồng, Phó giám đốc 969 triệu đồng. Trong khi đó, lương bình quân người lao động mùa vụ tại công ty này là 5,4 triệu đồng mỗi tháng.”
Ai là người phải trả giá cho mức lương “công bằng” của các vị Giám đốc, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Kế toán trưởng, Phó giám đốc? Hiển nhiên, những người lao động “thấp cổ bé họng” thuộc vào số đó:
“Công ty Thoát nước đô thị bị kết luận “vi phạm quy định của Bộ luật Lao động” khi ký hợp đồng mùa vụ với thời hạn dưới 3 tháng đối với 163 người lao động thường xuyên và ký hợp động có thời hạn 3 năm đối với 355 trường hợp đủ điều kiện ký hợp đồng không xác định thời hạn.”
Thật là “công bằng” hết chỗ nói!
Để đánh giá “điều kiện làm việc… an toàn” đến mức nào, hãy nhớ lại vụ sập cầu Cần Thơ vào sáng ngày 26/7/2007, khiến hơn 50 người bị chết và gần 200 người bị thương. Một năm sau tai nạn khủng khiếp đó, ngày 2/7/2008 Ủy ban Nhà nước Điều tra sự cố sập hai nhịp cầu dẫn cầu Cần Thơ đã công bố Báo cáo tóm tắt về kết quả điều tra, rằng
“việc xảy ra lún lệch trong phạm vi hẹp của một đài móng trụ tạm, nguyên nhân chính khởi nguồn gây ra sự mất an toàn kết cấu trong trường hợp này, có thể xem là tình huống rủi ro, khó lường trước trong thiết kế thông thường.”
Tình huống rủi ro, khó lường trước” có nghĩa là “lỗi tại Trời”. Không phải do thiết kế sai. Không phải do thi công sai. Không phải do bớt xén nguyên liệu. Vậy là hòa cả làng. Chỉ các nạn nhân là có lỗi, do xuất hiện không “đúng nơi, đúng lúc”, nên đành phải “chết… đúng quy trình”. Một công trình phức tạp như thế, mà
Trong số gần 200 nạn nhân đó hầu hết là những nông dân, người lao động phổ thông làm công nhật tại những chợ lao động quanh tỉnh Vĩnh Long và Cần Thơ, có cả những người bị nạn “oan” khi mượn thẻ lao động của công nhân để đi làm chưa một ngày qua đào tạo kỹ thuật cơ bản…”
Sử dụng cả “nông dân mặc áo công nhân”, “chưa một ngày qua đào tạo kỹ thuật cơ bản”, để xây cầu “siêu cấp”, thì không bị sập mới là chuyện lạ.
Nếu ai cho rằng đó chỉ là chuyện của quá khứ xa xôi, thì nên xem thêm bài tổng hợp “Những sự cố xây dựng nghiêm trọng năm 2012″ của Đỗ Tuyết trên báo Giáo dục Việt Nam (đăng ngày 24/12/2012), để ôn lại vụ sập giàn giáo tại Khu đô thị mới Mỗ Lao ở Hà Nội vào ngày 21/2/2012 (khiến nhiều công nhân rơi từ tầng 7 cao ốc – 6 người thương nặng, 1 người chết”); vụ sập giàn giáo tại công trường xây dựng nhà Nam Đô Complex ở Hà Nội vào ngày 5/11/2012 (khiến hai công nhân rơi từ tầng 18″ và tử vong)… Trong bài đăng trên báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh (ngày 26/2/2014), Nguyễn Dân viết: “Năm 2013, toàn quốc đã xảy ra 6.695 vụ tai nạn lao động, làm 627 người chết, hơn 6.000 người bị thương, gây thiệt hại về vật chất lên tới hơn 70 tỉ đồng.”
Hiển nhiên, trong một nền kinh tế thị trường, được cộng hưởng bởi tham nhũng hoành hành, thì không có cái gọi là điều kiện làm việc công bằng”. Cũng hiển nhiên không kém, trong mọi chế độ, tai nạn lao động là điều khó tránh khỏi một cách tuyệt đối. Vậy thì tại sao Quốc hội lại bất chấp thực tế mà hiến định rằng “Người làm công ăn lương được bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn”?
7.5.
Khoản 5 Điều 103 Hiến pháp 2013 viết:
“Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm.”
Ngay cả với chế độ này, thì “tranh tụng trong xét xử” cũng không phải khái niệm quá xa lạ. Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, ban hành ngày 2/1/2002, đã xác định:
Việc phán quyết của toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn quy định.”
Nhưng nghị quyết nào cũng tỏ ra vô dụng, nguyên tắc “tranh tụng trong xét xử” hầu như không được tôn trọng trên thực tế. Để minh họa, chỉ cần nhắc đến trường hợp của ông Nguyễn Thanh Chấn, trú tại xã Nghĩa Trung, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang, người còn may mắn được minh oan sau 10 năm chấp hành án phạt chung thân về tội “giết người”. Nguyên nhân dẫn đến án oan sai đã được Nguyễn Trường thuật lại trên báo Tiền phong ngày 7/11/2013:
“Luật sư Nguyễn Đức Biền, người được chỉ định bào chữa cho ông Nguyễn Thanh Chấn 10 năm trước, từng chỉ ra 5 điểm thiếu sót trong quá trình tố tụng. Tuy nhiên, các ý kiến của ông không được xem xét thỏa đáng…”
Và ông Biền đã khẳng định:
“Tôi cho rằng, đây là sai lầm nghiêm trọng trong quá trình tố tụng, nhưng đáng tiếc Hội đồng xét xử không hề để ý gì đến các lập luận của luật sư cũng như sự phản cung của bị cáo tại phiên tòa. Điều này cũng là nguyên nhân dẫn tới kết luận một cách phi lý của Hội đồng xét xử, khẳng định ông Chấn giết người một cách oan ức.”
Đây không phải là trường hợp cá biệt, mà là một ví dụ điển hình. Khi phán quyết theo “bản án bỏ túi” đã trở thành thông lệ, thì hiển nhiên quan tòa không chấp nhận “tranh tụng trong xét xử”. Vậy nên, khẳng định trong Hiến pháp rằng “nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm là hoàn toàn bất chấp thực tế.
7.6.
Điều 19 Hiến pháp 2013 quy định:
Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật.
Vốn dĩ, trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 được đăng tải để lấy ý kiến nhân dân từ ngày 2/1/2013, thì điều này chỉ chứa đúng 5 chữ:
Điều 21  Mọi người có quyền sống.”
Bài “Teo dần quyền con người trong Hiến pháp” đã chỉ ra rằng: Đó là một mệnh đề vừa vô nghĩa, vừa giả tạo, nếu nhà cầm quyền vẫn có ý định duy trì án tử hình, bởi vì tử hình bất kỳ ai cũng là vi phạm “quyền sống” của người ấy.
Phải chăng nội dung “nghe rất kêu” ấy được chép từ Điều 3 của The Universal Declaration of Human Rights (“Tuyên bố chung về Quyền con người”, thường được dịch ra tiếng Việt là “Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền”), được Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 10/12/1948? Có điều, “Tuyên bố” hay “Tuyên ngôn” không nhất thiết có giá trị pháp lý, tức là không bắt buộc mọi quốc gia đều phải thực hiện, nên một số nước đã ký tán thành vẫn tiếp tục duy trì án tử hình. Còn nếu mệnh đề “Mọi người có quyền sống” đã được ghi vào Hiến pháp của nước nào (ví dụ như trong Khoản 2 Điều 2 của Hiến pháp Đức), thì Nhà nước đó không thể duy trì án tử hình.
Lý lẽ ủng hộ việc bãi bỏ án tử hình không chỉ xuất phát từ lý do tín ngưỡng hay nhân đạo, mà còn vì trên thực tế không hiếm những bản án oan sai. Nếu còn sống thì còn có cơ hội được minh oan, nhưng nếu xử tử rồi mới phát hiện oan sai, thì sửa sai bằng cách nào? Theo thông tin của tổ chức Amnesty International (Ân xá Quốc tế), tính đến năm 2012 có khoảng 2/3 các nước trên Thế giới đã xóa bỏ án tử hình ra khỏi luật, hoặc xóa bỏ án tử hình trên thực tế (98 nước xóa bỏ án tử hình trong luật đối với mọi tội, 7 nước xóa bỏ án tử hình trong luật cho các tội thông thường, 35 nước xóa bỏ án tử hình trên thực tế).
Nếu thuộc vào số 1/3 các nước trên Thế giới vẫn duy trì án tử hình, thì có thể coi quy định về “Quyền sống” trong European Convention on Human Rights (Công ước châu Âu về Nhân quyền) là một hình mẫu đáng tham khảo:
Điều 2  Quyền sống
  1. Quyền sống của mọi người được bảo vệ bằng luật. Không được cố ý tước mạng sống của bất kỳ ai, trừ trường hợp thi hành án tử hình, do tòa tuyên án đối với tội danh mà luật có quy định án tử hình.
  2. Việc tước mạng sống không bị coi là vi phạm điều này, nếu nó bị gây ra bởi sử dụng vũ lực không vượt quá mức tuyệt đối cần thiết, nhằm:
(a) bảo vệ ai đó trước bạo lực phi pháp;
(b) tiến hành bắt giữ đúng luật, hay ngăn cản người bị giam giữ đúng luật bỏ trốn;
(c) dẹp tắt một cách đúng luật một cuộc nổi loạn hay nổi dậy.”
Quy định này không hề khẳng định “Mọi người có quyền sống”, mà chỉ có mệnh đề “Quyền sống của mọi người được bảo vệ bằng luật”. Đáng lưu ý là: “Bảo vệ” chứ không phải là “bảo đảm”!
Lẽ ra, sau khi được góp ý, thì đơn giản nhất là loại bỏ mệnh đề “Mọi người có quyền sống” ra khỏi bản Dự thảo. Song có thể vì quá sĩ diện, họ vẫn cố bảo lưu nó đến cùng, rồi bổ sung hai mệnh đề “Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ” “Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật” để “chữa cháy”. Nhưng càng chữa càng cháy, càng sửa thì càng sai…
Nội dung và ý nghĩa của mệnh đề Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ” là gì? Khi tuyên bố như thế thì pháp luật sẽ có thêm quy định hay thủ thuật gì khác, so với trường hợp tính mạng con người không được pháp luật bảo hộ”? Những đặc điểm nhận dạng nào có thể giúp ta phân biệt loại “pháp luật bảo hộ” với loại “pháp luật không bảo hộ tính mạng con người”? Với những điều khoản “bảo hộ” bổ sung thì tính mạng con người có an toàn hơn hay không? Câu trả lời sẽ cho thấy “nồng độ pháp lý” của mệnh đề … được pháp luật bảo hộ” chỉ xấp xỉ… 0%. Và đó cũng là đặc điểm điển hình của nhiều điều khoản “ưu việt” trong Hiến pháp Việt Nam.
Có lẽ “sứ mạng” của mệnh đề “Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật” chỉ là “đánh tiếng”, rằng tuy tuyên bố “Mọi người có quyền sống”, nhưng thực ra vẫn tiếp tục duy trì án tử hình. Với lối “nói lấy được”, bất chấp nội dung câu chữ, Điều 19 Hiến pháp 2013 trở thành “siêu vi hiến”, bởi vì nó mâu thuẫn với chính nó.
Trớ trêu thay, hàng ngày trên toàn quốc có bao người “bị tước đoạt tính mạng”, do cố ý giết người để cướp của hay vì ân oán, do ngộ sát hay tai nạn giao thôngNhà nước, với tất cả các thủ thuật pháp luật và bộ máy vũ trang khổng lồ, không thể “bảo đảm” các nạn nhân tránh được cái chết. Ngược lại, một số người dân còn bị chính công an hãm hại.
Hãy xem bài “Khởi tố 4 công an xã đánh chết người tại trụ sở” đăng trên Phụ nữ Online ngày 4/9/2012Ảnh 9 để thấy được “hiệu quả làm việc” vào ngày 30/8/2012 của công an (ở huyện Đông Anh, Thủ đô Hà Nội) trên thi thể của ông Nguyễn Mậu Thuận.
H1Ảnh 9: “Hiệu quả làm việc” của công an (Nguồn: Phụ nữ Online)
Hãy xem bài “Chiếc dùi cui quật vào đâu?” trên báo Lao động ngày 28/3/2014, bình luận về “những lời khai rất khủng khiếp” của “5 công an dùng nhục hình đánh chết… nạn nhân Ngô Thanh Kiều” (vào ngày 13/5/2012 tại Thành phố Tuy Hòa).
Ngày 13/2/2014, lại “Thêm một người chết sau khi làm việc với công an”, như Tuổi trẻ Online đã tường thuật (xem Ảnh 10). Đó là chưa kể những vụ bị coi là “tự tử” ngay khi đang “làm việc” với công an, ví dụ như Huỳnh Nhất Trung (20 tuổi, ở Bình Định) “treo cổ tự tử chết trong nhà tạm giữ công an huyện Vân Canh” vào tối 11/3/2014; Bùi Thị Hương (42 tuổi, ở Bình Phước) “chết trong tư thế treo cổ bằng áo gió trên cửa phòng tạm giữ hành chính” vào ngày 17/3/2014…
Đó chỉ là mấy ví dụ đại diện cho bao cái chết oan uổng, được tường thuật công khai trên báo chí chính thống. Vậy mà họ vẫn ngang nhiên khẳng định trong Điều 19 Hiến pháp 2013 rằng “Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật.” Quả là bất chấp thực tế đến tột cùng, tới mức khó có thể tìm được một từ thích hợp mà vẫn còn lịch sự để đánh giá. Chẳng nhẽ họ dự định sẽ ban hành luật để hợp pháp hóa, biến tất cả những oan hồn thành diện “bị tước đoạt tính mạng phù hợp với luật hay sao?
H1Ảnh 10: Thân thể tử thi sau khi “làm việc” với công an (Nguồn: Tuổi trẻ Online)
7.7.
“Bất chấp” là tính cách khá phổ biến trong giới cầm quyền. Song không phải mọi thể hiện “bất chấp” trong Hiến pháp đều bắt nguồn từ tính cách ấy.
Hãy xem lại mệnh đề Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật” trong Điều 19 Hiến pháp 2013. Hai chữ “trái luật” cho thấy câu này thực ra là một ràng buộc, đòi hỏi đối với phía Nhà nước, bởi chẳng có luật nào cho phép dân thường “tước đoạt tính mạng” của người khác. Như vậy, theo thông lệ lập hiến có thể viết rằng: “Không ai bị Nhà nước tước đoạt tính mạng trái luật” – tức là viết như một cam kết của Nhà nước. Song trên thực tế thì Nhà nước không thực hiện được cam kết này. Nên phải viết một cách chính xác là: Nhà nước không được tước đoạt tính mạng của bất cứ ai một cách trái luật” – tức là viết như một đòi hỏi hiến định đối với Nhà nước. Nhưng có lẽ họ cho rằng viết như vậy sẽ ảnh hưởng đến sĩ diện của Nhà nước, hoặc đã rắp tâm sẽ lẩn tránh trách nhiệm, nên dở chiêu “mập mờ”, xóa tên của chủ thể “tước đoạt tính mạng”. Bị mất đối tượng đích thực là “Nhà nước”, nội dung hiến định trở nên lệch lạc, không còn là cam kết hay đòi hỏi, mà trở thành mệnh đề khẳng định một trạng thái hoàn toàn trái với thực tế. Chứng “mập mờ” gây ra chứng “bất chấp” là vậy.
Chứng “mập mờ” là một căn bệnh cố hữu trong Hiến pháp Việt Nam. Cũng vì sĩ diện hay lẩn tránh trách nhiệm, nên cố tình bỏ đi một số chữ phải (hay tương tự), khiến các đòi hỏi, ràng buộc hiến định trở thành những mệnh đề “công chứng bất chấp hiện trạng của nguyên bản”, như đã phân tích trong bài “Uẩn khúc trong Điều 4 Hiến pháp”. Chỉ cần thành tâm thêm chữ phải vào một số nơi cần thiết, thì khắc phục được ngay trạng thái “khẳng định bất chấp thực tế” của một số điều khoản liên quan. Ví dụ:
“Đảng Cộng sản Việt Nam phải gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình.”
“Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.”
“Nhà nước phải được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật…”
“Nhà nước phải bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; phải công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân…”
“Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử phải được bảo đảm.”
Tuy nhiên, thêm chữ “phải” vẫn chưa đủ để chứng “bất chấp” biến khỏi vòng Hiến pháp. Nó chỉ thay vai, đổi chỗ mà thôi: Nếu không thể hiện trong Hiến pháp một số nội dung dưới dạng bất chấp thực tế, thì trên thực tế lại bất chấp Hiến pháp. Có lẽ, do không thể tránh khỏi “bất chấp”, và “bất chấp” khi lập hiến an toàn hơn “bất chấp” khi thi hành Hiến pháp, nên “mập mờ” trong Hiến pháp vẫn hơn. Ấy là nguyên do khiến chứng “bất chấp” cũng có thể gây ra chứng “mập mờ”.
Nếu bất chấp cái Hiến pháp do thế hệ tiền nhiệm để lại thì có thể thông cảm phần nào, vì không phải mọi quy định trong cái Hiến pháp đã trở nên lỗi thời đều phù hợp với hoàn cảnh hiện tại. Nhưng nếu đem Hiến pháp ra sửa đổi mà vẫn duy trì hay bổ sung thêm những nội dung mà thế lực đương quyền đã, đang và sẽ không muốn, hay không thể thực hiện, thì đó là hành vi hiến định bất chấp thực tế. Chủ động hiến định bất chấp thực tế và sau đấy lại chủ động bất chấp Hiến pháp – đó là thái độ “bất chấp” không thể chấp nhận được!

  1. Chứng “Vu vơ”
Để mô tả căn bệnh này, ta chỉ cần dựa vào danh từ “chủ nghĩa xã hội” và tính từ “xã hội chủ nghĩa” trong Hiến pháp Việt Nam. Ban đầu, chúng không hề tồn tại trong Hiến pháp 1946. Sang Hiến pháp 1959, mỗi từ này xuất hiện đúng 6 lần. Nhiều nhất là trong Hiến pháp 1980, với 23 lần chủ nghĩa xã hội” và 86 lần “xã hội chủ nghĩa”. Sau khi Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ở châu Âu bị sụp đổ, Hiến pháp 1992 chỉ còn chứa 3 từ chủ nghĩa xã hội” và 43 từ “xã hội chủ nghĩa”. Sự biến thiên này cũng tương ứng với quá trình thăng trầm của một giấc mơ…
8.1.
Hiến pháp 2013 giữ nguyên 3 danh từ chủ nghĩa xã hội”, tại những vị trí tương tự như ở Hiến pháp 1992, trong đó có đoạn thứ ba của Lời nói đầu:
“Thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kế thừa Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992, Nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.”
Thử hỏi, “Cương lĩnh…” của ai? Của Đảng Cộng sản Trung Quốc, hay của Đảng Lao động Triều Tiên? Tại sao lại dấu tên chủ nhân của “Cương lĩnh…”? Phải chăng các nhà lập hiến hiểu ra, rằng không đảng nào có quyền lạm dụng Hiến pháp để áp đặt cả Dân tộc? Hay tránh nhắc tên, để khỏi gây phản cảm?
Nếu “Cương lĩnh…” của ĐCSVN, thì “Cương lĩnh…” nào? Là “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của ĐCSVN thông qua ngày 27/6/1991? Hay là cái “Cương lĩnh…” do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI chỉnh sửa, và hóa trang bằng mỹ từ Bổ sung, phát triển năm 2011″? Phải chăng, không thể nói rõ bản “Cương lĩnh…” nào, vì biết trước sẽ còn phải tẩy xóa, chỉnh sửa nhiều lần nữa? Lấy đâu ra cái quyền để bắt cả Dân tộc phải răm rắp làm những điều mà bản thân họ cũng không dám tin là đúng?
Hiến định “Cương lĩnh…” một cách vu vơ như vậy phỏng có ích gì?
8.2.
Hiến pháp 2013 chứa 39 tính từ “xã hội chủ nghĩa”, trong đó 33 lần thuộc về tên nước “Cộng hòa từ xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Gán nó cho tên nước có hợp lý hay không? Điều này đã được đề cập trong bài “Quốc hiệu nào hội tụ lòng dân?” nên không cần nhắc lại ở đây nữa. 6 lần xuất hiện còn lại có thể chia thành hai nhóm.
Nhóm thứ nhất bao gồm:
“Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.” (Điều 2)
Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.” (Điều 51)
“Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” là gì? Trong “Nhà nước pháp quyền”, không cá nhân và tổ chức nào có quyền đứng trên hay đứng ngoài Hiến pháp và luật, mọi quyền lực nhà nước đều bị ràng buộc và giới hạn bởi Hiến pháp và luật. Còn ở Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực của ĐCSVN mới là cao nhất, không bị khống chế bởi bất cứ điều khoản cụ thể nào trong Hiến pháp và luật. Hiến pháp chỉ “thể chế hóa Cương lĩnh…” của ĐCSVN, và luật phải tuân theo Hiến pháp, nên về thực chất lãnh đạo ĐCSVN mới đóng vai trò quyết định và còn đứng cao hơn Hiến pháp và luật. Chẳng nhẽ đó là đặc trưng của “pháp quyền xã hội chủ nghĩa” hay sao?
“Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” là gì? “Xã hội chủ nghĩa” mù mờ bao nhiêu, thì “định hướng xã hội chủ nghĩa” luẩn quẩn bấy nhiêu. Càng tung hô “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, thì càng tỏ ra chẳng có định hướng nào cả.
Phải chăng hai khái niệm trên cũng tương tự như phạm trù “dân chủ xã hội chủ nghĩa”? Thường thì chế độ “phi dân chủ” hay được khẳng định là “dân chủ xã hội chủ nghĩa”, tức là:
“Dân chủ xã hội chủ nghĩa = Phi dân chủ”.
Nếu như vậy thì cái đuôi “xã hội chủ nghĩa” được gắn sau từ “dân chủ” có ý nghĩa như chữ “phi” được gắn trước từ “dân chủ” (để phủ định). Áp dụng quy tắc ghép từ này, ta thu được:
“Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa = “Nhà nước phi pháp quyền”,
“Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa = “Kinh tế thị trường phi định hướng”.
Bạn thấy kết quả suy luận này có phù hợp với thực tế hay không?

Nhóm thứ hai bao gồm:
“Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân.” (Điều 64)
“Lực lượng vũ trang nhân dân… có nhiệm vụ… bảo vệ Nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa…” (Điều 65)
“Tòa án nhân dân có nhiệm vụ… bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa…” (Điều 102)
“Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ… bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa…” (Điều 107)
Nếu áp dụng quy tắc ghép từ ở trên, thì “Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” có thể phiên dịch thành “Tổ quốc phi Việt Nam”. Nghe có vẻ bất thường, nhưng nếu liên hệ với lối tư duy “truyền thống”, coi lý tưởng và quyền lợi của giai cấp vô sản quốc tế cao hơn lợi ích của Tổ quốc Việt Nam, thì kết quả phiên dịch có phù hợp hay không?
Hãy bỏ qua ý phụ vừa rồi, để tập trung vào ý chính, mà chúng ta muốn trao đổi về nhóm thứ hai. Đó là: Có hay không cái gọi là “Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”“chế độ xã hội chủ nghĩa”?
Khi xuất hiện trong cụm từ “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, thì từ “xã hội chủ nghĩa” đóng vai trò tên gọi, được hiến định trong Hiến pháp. Nó chỉ để trang trí, không nhất thiết phải tương thích với thực trạng. Cũng tương tự như việc đặt tên “Cao” cho người lùn, tên “Mạnh” cho người yếu, tên “Tài” cho người thiểu năng… Dù không phù hợp với trạng thái, tính cách, thì người ấy vẫn tồn tại với tên gọi đó, không ai có thể phủ định.
Nhưng khi xuất hiện trong hai cụm từ “Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”“chế độ xã hội chủ nghĩa” thì “xã hội chủ nghĩa” không hề đóng vai trò tên gọi (được hiến định hay luật định), mà chỉ đơn thuần là một tính từ, phản ánh tính chất, đặc điểm thực tại của “Tổ quốc”“chế độ”.
Vậy “Tổ quốc”“chế độ” này có phải là “xã hội chủ nghĩa” hay không? Nếu trước năm 2013 mà trả lời phủ định, thì có lẽ phải hứng chịu những đợt sóng thịnh nộ từ phía các “chiến binh cầm bút” của ĐCSVN. Nhưng may thay, trong buổi thảo luận của Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp vào sáng 23/10/2013, Tổng bí thư ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng đã thẳng thắn khẳng định cái điều mà bao người vẫn nghĩ, nhưng thường tránh nói ra:
“Đổi mới chỉ là một giai đoạn, còn xây dựng chủ nghĩa xã hội còn lâu dài lắm. Đến hết thế kỷ này không biết đã có chủ nghĩa xã hội hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa.
Xin cảm ơn! Vậy là cả ngài cũng đã thừa nhận, rằng hiện tại và nhiều chục năm nữa, không thể coi “Tổ quốc” và “chế độ” này là “xã hội chủ nghĩa”. Nói cách khác, thực tế không tồn tại cái gọi là “Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” và “chế độ xã hội chủ nghĩa” trên đất nước Việt Nam!
Hóa ra, Hiến pháp 2013 quy định
“Bảo vệ Tổ quốc không tồn tại là sự nghiệp của toàn dân”

“Lực lượng vũ trang nhân dân, Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ chế độ không tồn tại.”
Tại sao Quốc hội lại hiến định loại nhiệm vụ “vu vơ” đến như vậy?
*
*      *
Vẫn còn rất nhiều điều đáng bàn, song bài viết đã dài, và bằng ấy nội dung cũng đã đủ để cùng với hai bài “Hiến pháp 2013 – Sửa nhầm hay đổi thiệt?”“Hiến pháp vi hiến” khắc họa chất lượng tầm bản nháp của cái văn bản mà 486 đại biểu Quốc hội khóa XIII đã nhất trí tán thành chọn làm Hiến pháp.
Tại sao lại bất chấp mọi khuyên can, thông qua bằng được một bản dự thảo Hiến pháp với chất lượng như thế?
Hiến pháp ấy có xứng đáng với truyền thống ngàn năm văn hiến của Dân tộc, với trí tuệ của hơn 90 triệu khối óc, với tầm tư duy của thời đại hay không?
Nhân dân ta có đáng phải chấp nhận một bản Hiến pháp như vậy hay không?
Câu hỏi chất chồng câu hỏi, băn khoăn quấn rối băn khoăn… Song buồn thay, những người đáng phải giải đáp lại cứ làm thinh.
* * * * * * * * * *
Phụ lục I

Điều 15 Hiến pháp 2013 là biến tướng của Điều 16 trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 (được đăng tải để lấy ý kiến nhân dân từ ngày 2/1/2013), viết rằng:
“Không được lợi dụng quyền con người, quyền công dân để xâm phạm lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.”
Như đã phân tích trong bài Teo dần quyền con người trong Hiến pháp, đó là thủ đoạn lợi dụng… từ “lợi dụng” để biến những hoạt động chính đáng và hợp pháp của công dân thành tội lỗi, nhằm hạn chế trên lý thuyết và phủ định trên thực tế quyền con người, quyền công dân. Để tránh bị phê phán như vậy, họ đã bỏ bớt từ “lợi dụng” trong mệnh đề
Không được lợi dụng quyền con người, quyền công dân để xâm phạm…”
và thay nó bằng
Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm…”
Phụ lục II

Về quyền tự do ngôn luận, báo chí và tiếp cận thông tin, Hiến pháp Đức quy định:
Điều 5
(1) Mọi người có quyền tự do phát biểu và phổ biến quan điểm của mình bằng lời nói, chữ viết và hình ảnh, và tự do tìm hiểu thông tin từ các nguồn có thể truy cập phổ thông. Tự do báo chí và tự do thông tin được đảm bảo. Không được kiểm duyệt.
(2) Những quyền này bị hạn chế bởi các quy định trong các luật phổ quát, bởi các quy định của Luật bảo vệ thanh thiếu niên, và bởi quyền được bảo vệ danh dự cá nhân.
(3) Nghệ thuật và khoa học, nghiên cứu và giáo dục là tự do. Quyền tự do giáo dục không miễn trừ trách nhiệm trung thành với Hiến pháp.”
Về quyền tự do lập hội, Hiến pháp Đức quy định:
Điều 9
(1) Mọi người Đức có quyền lập hiệp hội và đoàn thể.
(2) Cấm các hội đoàn mà mục đích và hoạt động của chúng trái với Bộ luật hình sự, hoặc chống lại trật tự hiến định hay sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc.
(3) Quyền thành lập hội đoàn nhằm bảo vệ và thúc đẩy điều kiện lao động và kinh tế được bảo đảm cho mỗi người và mọi ngành nghề. Những thỏa thuận nhằm hạn chế hay cản trở quyền này đều không có hiệu lực, các biện pháp nhằm vào chúng đều là phi pháp. Các biện pháp theo Điều 12a, Điều 35 Khoản 2 và 3, Điều 87a Khoản 4 và Điều 91 không được chống lại các hoạt động đình công nhằm bảo vệ và thúc đẩy điều kiện lao động và kinh tế của các hội đoàn được đề cập tại Khoản 1.”
Phụ lục III

“Convention on the Rights of the Child”, thường được dịch ra tiếng Việt là “Công ước về Quyền trẻ em”, chỉ có điều sau đây là có vẻ gần nhất với nội dung “trẻ em được tham gia vào các vấn đề về trẻ em”:
Article 12
  1. States Parties shall assure to the child who is capable of forming his or her own views the right to express those views freely in all matters affecting the child, the views of the child being given due weight in accordance with the age and maturity of the child.
  2. For this purpose, the child shall in particular be provided the opportunity to be heard in any judicial and administrative proceedings affecting the child, either directly, or through a representative or an appropriate body, in a manner consistent with the procedural rules of national law.”
Trong văn bản tiếng Việt tại website của tổ chức UNICEF (Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc), điều này được dịch như sau:
Điều 12
  1. Các quốc gia thành viên phải đảm bảo cho trẻ em có đủ khả năng hình thành quan điểm riêng của mình được quyền tự do phát biểu những quan điểm đó về tất cả các vấn đề có ảnh hưởng đến trẻ em và những quan điểm của trẻ em phải được coi trọng một cách phù hợp với tuổi và mức độ trưởng thành của trẻ em.
  2. Vì mục đích đó, trẻ em phải được đặc biệt tạo cơ hội nói lên ý kiến của mình trong bất kỳ quá trình tố tụng tư pháp hoặc hành chính nào có ảnh hưởng đến trẻ em, trực tiếp hoặc thông qua một người đại diện hay một cơ quan thích hợp, theo cách thức phù hợp với những quy định mang tính thủ tục của pháp luật quốc gia.
Có lẽ ý “trẻ em được… phát biểu… quan điểm… về tất cả các vấn đề ảnh hưởng đến trẻ em” trong đoạn dịch trên đã hóa thân thành cụm “trẻ em được tham gia vào các vấn đề về trẻ em” trong Khoản 1 Điều 37 Hiến pháp 2013. Trước khi lý giải nguyên do hình thành, xin lưu ý ba khía cạnh mà người đọc có thể hiểu lầm qua bản dịch tiếng Việt của UNICEF.
Thứ nhất, từ “trẻ em” bóng bẩy có thể khiến người đọc hiểu lầm rằng nó dành cho cả “giới trẻ em”, giống như từ “thanh niên” dành cho cả “giới thanh niên” và từ “người cao tuổi” dành cho cả “cộng đồng những người cao tuổi”. Thực ra, “the child” (số ít) chỉ là dành riêng cho cá nhân từng “đứa trẻ” cụ thể.
Thứ hai, người đọc có thể hiểu lầm, rằng Điều 12 đòi hỏi “các quốc gia thành viên phải bảo đảm cho trẻ em” hai thứ: Một là “có đủ khả năng hình thành quan điểm riêng của mình”; hai là “được quyền tự do phát biểu những quan điểm đó về mọi vấn đề tác động đến trẻ em”. Vì hiểu như thế, nên trong văn bản tiếng Việt tại website của Trung tâm Nghiên cứu Pháp luật về Quyền con người và Quyền công dân (thuộc Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh), người ta đã dùng thêm dấu phẩy để phân tách hai thứ đó:
“Các quốc gia thành viên phải bảo đảm cho trẻ em có đủ khả năng hình thành quan điểm riêng của mình, được quyền tự do phát biểu những quan điểm đó về mọi vấn đề tác động đến trẻ em…”
Nhưng không phải như vậy! Điều 12 chỉ đòi hỏi “các quốc gia thành viên phải bảo đảm” một thứ thôi, đó là “cho trẻ em… được quyền tự do phát biểu những quan điểm…”, và “quyền tự do phát biểu” đó chỉ cần được bảo đảm cho loại “trẻ em có đủ khả năng hình thành quan điểm riêng của mình” mà thôi.
Thứ ba, cụm từ “mọi vấn đề tác động đến trẻ em” dễ khiến người đọc hiểu lầm là “mọi vấn đề tác động đến” cả giới “trẻ em” nói chung, trong khi “all matters affecting the child” chỉ có nghĩa là “tất cả các vấn đề ảnh hưởng đến đứa trẻ”, tức là ” ảnh hưởng đến” chính bản thân cá nhân “đứa trẻ” (đang được đề cập).
Thực ra, Điều 12 của “Công ước về quyền trẻ em” chỉ quy định về trách nhiệm phải quan tâm đến nguyện vọng của đứa trẻ khi quyết định những chuyện liên quan đến bản thân nó, chứ không phải là quan điểm của trẻ em về những vấn đề chung, liên quan đến cộng đồng trẻ em. Để tránh hiểu lầm, nên dịch Điều 12 của “Convention on the Rights of the Child” một cách “trần trụi” như sau:
“1. Các quốc gia thành viên phải đảm bảo cho những đứa trẻ nào có đủ khả năng hình thành quan điểm riêng được quyền tự do phát biểu quan điểm đó về mọi chuyện ảnh hưởng đến bản thân, và ý kiến của đứa trẻ phải được coi trọng thỏa đáng, tương ứng với độ tuổi và mức độ trưởng thành của nó.
  1. Đặc biệt, vì mục đích đó, đứa trẻ phải được tạo cơ hội nói lên ý kiến của mình trong bất kỳ quá trình tố tụng tư pháp hoặc hành chính nào có ảnh hưởng đến , trực tiếp hoặc thông qua một người đại diện hay một cơ quan thích hợp, theo cách thức phù hợp với những quy định mang tính thủ tục của pháp luật quốc gia.
Sở dĩ ta dành thời gian để bàn kỹ về đoạn dịch trên, là để tìm hiểu cái lô-gíc hình thành của một loại “chân lý” sai lạc lưu truyền ở Việt Nam. Chúng vốn xuất hiện trong văn bản ngoại ngữ nào đó, khi du nhập vào Việt Nam, được người dịch chọn những từ hoa mỹ để chuyển ngữ một cách “hào phóng”, thay cho cách thể hiện chính xác nhưng bị coi là thiếu văn vẻ. Ví dụ, có thể dịch “the child” thành “đứa trẻ”, như vậy vẫn giữ nguyên được trạng thái số ít. Nhưng có lẽ người dịch e rằng như vậy hơi thô thiển, nên đã dịch nó một cách văn vẻ thành “trẻ em”. Hậu quả là: Người đọc dễ hiểu lầm sang số nhiều, không chỉ là một “đứa trẻ” cụ thể, mà có thể là nhiều “đứa trẻ” chung chung, thậm chí là cả cộng đồng các “đứa trẻ”, tức là cả giới “trẻ em”.
Tương tự như vậy, nếu dịch “all matters” thành “mọi chuyện” hay “mọi thứ” thì có vẻ mộc mạc quá, nên chọn cách chuyển ngữ là “các vấn đề”. Khi đã gọi là “các vấn đề”, chứ không còn là “các chuyện nhỏ”, nếu viết rằng “phát biểu quan điểm về” chúng thì chưa đủ phong độ chính trị, nên chọn cụm từ “tham gia vào”. Với tập quán tư duy văn vẻ theo định hướng chính trị như vậy, mệnh đề
“the child… the right to express those views in all matters affecting the child”
không được dịch thành
“đứa trẻ… được quyền phát biểu quan điểm đó về mọi chuyện ảnh hưởng đến bản thân.”
Mà nó được dịch thành
“Trẻ em… được tham gia vào các vấn đề về trẻ em.”
Phải chăng đó là cách tư duy đã đẻ ra cái cao kiến được hiến định tại Khoản 1 Điều 37 Hiến pháp 2013?
Phụ lục IV

Ngoài những trường hợp đã được đề cập trong hai phần 67, các tác giả của Hiến pháp 2013 còn “lạm phát” ra nhiều thứ “bảo đảm” khác.
Có những thứ không hề được “bảo đảm” trên thực tế. Chẳng hạn:
“Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn.” (Khoản 1 Điều 21)
“Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm.” (Khoản 7 Điều 103)
“Chính quyền địa phương… bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật tại địa phương…” (Khoản 1 Điều 112)
Có những thứ “bảo đảm” quá chung chung, không thể định lượng, hay xác định trạng thái, để xem đã “bảo đảm” hay chưa. Ví dụ:
Nhà nước… bảo đảm quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ…” (Khoản 2 Điều 62)
“Nhà nước… bảo đảm trang bị cho lực lượng vũ trang nhân dân…; bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, chiến sỹ, công nhân, viên chức…” (Điều 68)
“Uỷ ban thường vụ Quốc hội có những nhiệm vụ… hướng dẫn và bảo đảm điều kiện hoạt động của đại biểu Quốc hội.” (Khoản 5 Điều 74)
“Nhà nước bảo đảm kinh phí hoạt động của đại biểu Quốc hội.” (Khoản 3 Điều 82)
Có những thứ “bảo đảm” mơ hồ:
“Ngân sách nhà nước… bảo đảm nhiệm vụ chi của quốc gia.” (Khoản 2 Điều 55)
Mọi chi tiêu của quốc gia đều được tính vào ngân sách nhà nước, vậy chẳng nhẽ “ngân sách nhà nước… bảo đảm” những thứ được tính vào ngân sách, hay sao? Còn nếu quan niệm bảo đảm nhiệm vụ chi của quốc gia”thỏa mãn nhu cầu chi của quốc gia”, thì mức độ “đại ngôn” còn tệ hại hơn nữa.
“Tòa án nhân dân tối cao… bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử.” (Khoản 3 Điều 104)
Áp dụng thống nhất pháp luật” có nghĩa là gì? Vì tòa án áp dụng sai pháp luật là chuyện không hiếm, nên “Tòa án nhân dân tối cao bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật” một cách sai trái hay sao?
Có những thứ “bảo đảm” không kèm theo trách nhiệm, như:
“Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ… góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.” (Khoản 3 Điều 107)
Nghĩa là chỉ cần “góp phần bảo đảm” thôi, còn có “bảo đảm” được hay không thì còn phụ thuộc vào các đối tác và các yếu tố khác. Hay:
“Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới.” (Khoản 1 Điều 26)
“Quốc hội có những nhiệm vụ… Quyết định… các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia.” (Khoản 13 Điều 70)
Có nhiệm vụ quyết định các biện pháp, chính sách nhằm “bảo đảm…” không có nghĩa là phải “bảo đảm…”. Trong chế độ mà đường lối luôn được coi là đúng, mọi sai lầm đều thuộc khâu thực hiện, thì bộ máy hoạch định chính sách chẳng phải chịu trách nhiệm nào cả.
Có những thứ “bảo đảm” vô thưởng vô phạt, chẳng kéo theo hệ quả cụ thể nào cả:
“Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, … bảo đảm tính thống nhất của nền kinh tế quốc dân.” (Điều 52)
Thủ tướng Chính phủ có những nhiệm vụ… bảo đảm tính thống nhất và thông suốt của nền hành chính quốc gia. (Khoản 2 Điều 98)
Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm.” (Khoản 6 Điều 103)

Và có cả thứ “bảo đảm” không phải… “bảo đảm”, mà là được “bảo đảm”:
Trong trường hợp cần thiết, chính quyền địa phương được giao thực hiện một số nhiệm vụ của cơ quan nhà nước cấp trên với các điều kiện bảo đảm thực hiện nhiệm vụ đó.” (Khoản 3 Điều 112)
Tức là “chính quyền địa phương” không phải “bảo đảm” điều gì, mà ngược lại, chỉ cần “thực hiện một số nhiệm vụ… với các điều kiện bảo đảm thực hiện nhiệm vụ đó”.
Đặc biệt, Khoản 1 Điều 14 quy định rằng:
“Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân… được… bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.”
Nếu chỉ đọc qua, thì dễ tưởng rằng nội dung này trùng lặp với cái được “bảo đảm”Điều 3 Hiến pháp 2013. Song đây không phải là cam kết “bảo đảm”, mà là một thủ thuật để hạn chế quyền con người, quyền công dân, như đã phân tích trong bài “Hiến pháp vi hiến”. Bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật không phải là “bảo đảm” theo nghĩa thông thường, như mọi người vẫn hiểu, mà có nghĩa là chỉ “bảo đảm” ở mức độ cụ thể theo quy định trong Hiến pháp và pháp luật mà thôi.

Ngày 10/9/2014
Bản gốc được lưu trữ tại trang
http://hpsc.iwr.uni-heidelberg.de/hxphu/index.php?page=differentwritings
 (với định dạng HTMPDF)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét