Tổng số lượt xem trang

Thứ Bảy, 23 tháng 8, 2014

Vì sao các Vua trước thời Hậu Lê công nhận Triệu Đà, sau đó lại phủ nhận?

Chính trị – Xã hội


“Dùng người tài,hướng lòng dân một dạ không lìa để xây thành giữ nước”  -(GDVN)  >>>   Tôn vinh Hai Bà Trưng, đâu phải chỗ để suy luận lung tung!
Quá trình công bố Tài liệu ‘tuyệt đối bí mật’  -(TVN) – LTS ….“Về một số vấn đề liên quan đến Di chúc và ngày qua đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh”.
Tiến sĩ lái gỗ và trò chơi “đánh trận giả”  -(TVN) -Khi quá lệ thuộc vào bằng cấp để tuyển dụng, kiểm định, đánh giá, sắp xếp nhân lực thì kết quả đương nhiên sẽ chỉ là những cuộc so găng của chính những cái bằng mà thôi.   >>>   Ngụ ngôn hiện đại ‘chàng buôn gỗ’ và ‘tiến sĩ 200 triệu’   —  Phó giáo sư nói ‘mua bằng tiến sĩ giá 200 triệu’ hối hận và xin lỗi  -(MTG)
Công an vào cuộc vụ tuyển công chức Bộ Công thương  -(VNN)   >>>   Cháu phó chủ tịch huyện thâu tóm cả cánh rừng   >>>   Hội Phụ nữ bất bình với bài tương tự ‘Gái miền Tây…3N’
http://img.giaoduc.net.vn/w500/Uploaded/tuanluc/2014_08_22/kienvinaconex15.jpg
Nhân viên căng băng rôn trên đường đòi nợ Vinaconex  -(GDVN)  -Sáng nay, gần 30 người đại diện người lao động bị Công ty Cổ phần Xây dựng số 15 – Vinaconex nợ lương đã căng băng rôn đòi nợ tại trụ sở Vinaconex.  -Hình trên
Giám đốc Đài Loan già đời, sờ tay tuyển người -(VEF)   —  Sẽ xét xử công khai vụ án Dương Tự Trọng vào ngày 28/8 tới  -(VNN)
Ngọc khối vàng ròng trong hầm nhà quan lớn  -(VNN)   —   Cáp treo tự chế qua sông đắp chiếu: Dân thủ đô kêu khổ, chính quyền nói gì?  -(DV)
Phó Thủ tướng yêu cầu xử lý vụ “con cháu trúng tuyển”  -(MTG)   >>>   Nữ CSGT: Cả tập thể làm, sao chỉ mình tôi bị truy tố?  -Theo Trang, việc làm của mình không sai vì làm theo sự chỉ đạo của lãnh đạo. “Một mình bị cáo không thể nào làm được mà cả một tập thể. Việc làm này đã có từ trước và ai cũng có hành vi ghi phiếu sai. Tại sao các người khác chỉ bị xử lý hành chính còn bị cáo thì bị truy tố”, Trang nói.  -(Vụ CSGT Khánh Hòa)
Tham nhũng – kẻ hủy diệt từ của cải đến tâm hồn  -(MTG) – Nguyễn quang Thân
Di chuyển trẻ em và người già rời khỏi chùa Bồ Đề  -(MTG)
Báo Nhân Dân có nằm trong danh sách bị chế tài nhân quyền?  -(VNTB)   >>>   Phổ cập casino: Đánh bạc quen tay, ngủ ngày quen mắt, ăn vặt quen mồm (Bài 2)   >>>   Tham nhũng đất đai ở Việt Nam: Tại sao WB quá “hữu nghị”?
Ðộng cơ chính trị của Dự luật nhân quyền HR.4254 (ND). Báo Nhân Dân phỏng vấn 2 tay phóng viên nằm vùng James Du và Lê Vũ (báo Việt Weekly) về chuyện Hội đồng TP “Ga-đần Grâu-vơ, bang Ca-li-phoóc-ni-a” thông qua nghị quyết ủng hộ Dự luật HR.4254 của Hạ viện Hoa Kỳ.
Những con số “Tin thì tin, không tin thì thôi!”  -(DT)  -“80% số người dân hài lòng dịch vụ hành chính công: Thật hay đùa?” là cái tiêu đề được báo Lao động đăng tải rút ra từ dòng trích dẫn sau: “Trên 80% số người dân được điều tra đều cho rằng họ hài lòng và… rất hài lòng đối với các dịch vụ công hiện nay”.
*************************************************************

Ý niệm về bản sắc của các cây bút lưu vong  -(Nguyễn hưng Quốc -VOA)

Song mã què và chú ngựa thứ ba  -(Trần vinh Dự -VOA)


Tôi không quan tâm đến chính trị.  – …..Nhưng nếu nhóm lẻ nào không phải nhà nước tổ chức xem, cứ thử kỷ niêm cho các liệt sĩ ngã xuống biên giới phía Bắc xem, mời họ thử xem. Họ sẽ lắc đầu một cách thanh tao, trang nhã.  – Tôi không quan tâm đến chính trị…..
“Đẹp đẽ khoe ra, xấu xa đậy lại” = triết lý phản động?  -(Phương Bích)
VÌ SAO CÁC VUA TRƯỚC THỜI HẬU LÊ CÔNG NHẬN TRIỆU ĐÀ, SAU LẠI PHỦ NHẬN?   -(Tễu)
Trần Hữu Tư: ĐỂ TRẢ THÙ TRƯNG TRẮC, NGƯỜI TÀU ĐÃ LÀM NHƯ THẾ NÀO?   -(Tễu)

Án tham nhũng đất đai tại Hoàng Mai Hà nội vẫn chìm xuồng !  -(Lê hiền Đức)===>>>

Dân oan Dương nội biểu tình tại Lý Thái Tổ đòi tự do cho người thân-(Lê hiền Đức)-Hình dưới
https://phamtayson.files.wordpress.com/2014/08/970e4-10505276_1448479115432363_6710743745027447300_n.jpg
Nhà báo độc lập Chí Dũng có còn độc lập?  -(Huỳnh ngọc Chênh)
Nguyễn Như Phong và chiếc bánh “GATO” cho Hội nhà báo Độc lập – Phần II  - (JB Nguyễn hữu Vinh)   >>>> Nguyễn Như Phong và chiếc bánh “GATO” cho Hội nhà báo Độc lập
Chùm thơ 3 bài của Thanh Sơn  – (Badamxoe)   —  Hướng tới phiên toà Bùi Thị Minh Hằng.  -(Nguoibuongio)  -Thậm chí có những vụ xử mà thân nhân trong gia đình đứng ra làm người bị hại để tố cáo bị cáo là anh, là cha, mẹ của mình như trong cải cách ruộng đất. Hay có những vụ toà án CS xử cha, nhưng con cái vẫn một lòng ca ngợi Cộng sản hết lời như dạng nhạc sĩ Phạm Tuyên.
TÔI, NGUYỄN QUỐC THÁI VẪN CÒN SỐNG ĐÂY!  -(Huỳnh ngọc Chênh)
Hơn nửa thế kỷ nhức nhối nơi địa đầu Tổ quốc  -(Caunhattan)   —   Nho Ta, Nho Tầu, Nho Tây  -(Hoàng hải Thủy)
Pierre Salinger: De Gaulle đã cảnh báo Kennedy (1961)   -(Phan Ba)
AMERICONG 1E – “GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM”, THÁNG 1 TỚI THÁNG 4 NĂM 1975  -(TNM) –  -Roger Canfield, PhD -Lê Bá Hùng chuyển ngữ   –  Tất cả bài khởi đăng từ Americong
26-8-2014 : HÃY KÉO NHAU VỀ CAO LÃNH THAM DỰ PHIÊN TÒA ĐỒNG THÁP  -(TNM) – Nguyễn thu Trâm
ĐÃ TỚI LÚC NƯỚC MỸ XÉT LẠI CÁCH DẠY VỀ CHIẾN TRANH VIỆT NAM  -(TNM)  -Keith Weller Taylor
Theo Nga và chuyện những luận án TSKH  -(Quechoa) – Nguyễn trần Sâm – Một kiểu giải thích khác đến từ miệng các quan tuyên huấn. Với nhiệm vụ cao cả bảo vệ thượng cấp, họ tự nghĩ ra cách nói (sao cho khi sếp có biết thì vẫn vừa lòng). Họ đổ những cái sai cho… Liên Xô! Họ nói rất hay, nhưng nếu dùng ngôn từ dân dã thì có thể diễn đạt thế này: “Tao (nói nhân danh sếp) đâu có ngu! Tại cái thằng Nga chứ. Nó mới ngu. Tao chỉ làm theo nó thôi mà. Đấy, xem lại những việc nó làm và tao làm coi, có gì tao làm khác nó đâu!”     —    Bi kịch trí thức – Bi kịch dân tộc (Phần 1)  - (VNTB)
_________________________________________________________
‘Một bài viết toát lên nỗi sợ’  -(BBC /nghe) -Trao đổi với BBC hôm 21/8/2014, kỹ sư Nguyễn Lân Thắng đặt dấu hỏi không rõ ông Chủ tịch Trương Tấn Sang ngụ ý gì khi dùng cụm từ ‘chúng ta’.
“Ông Trương Tấn Sang viết ‘chúng ta không sợ bất cứ một thế lực nào, dù là hung bạo nhất.’ Tôi tự hỏi là cái chữ ‘chúng ta’ này là ai? Chúng ta này là nhân dân ta, hay đảng ta hay chính quyền ta?
Công tội Đặng Tiểu Bình với VN?  -(BBC /nghe) -Một cựu Đại sứ Việt Nam ở Trung Quốc nói lãnh tụ Trung Quốc Đặng Tiểu Bình có công với Trung Quốc nhưng “giảo hoạt” với Việt Nam. Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh là Đại sứ Việt Nam ở Bắc Kinh từ 1974 đến 1987, chứng kiến thăng trầm trong quan hệ Việt – Trung.
Nhà báo độc lập Chí Dũng còn độc lập?  -(BBC)  – Nguyễn an Dân – <<<   Nhà báo độc lập Chí Dũng có còn độc lập?  -(Huỳnh ngọc Chênh)

Kinh tế

Việt Nam xuất khẩu tiếp 5 tàu ngầm qua Malaysia  -(VEF)   —   FDI độc chiếm việc phân phối, bán lẻ: Việt Nam còn gì?   -(ĐV)
Phi vụ ma mãnh 870 triệu USD của METRO: Cơ quan quản lý phải vào cuộc  -(GDVN)

Thế giới

Ký giả người Mỹ James Foley (hình chụp năm 2011).
IS từng đòi 132 triệu đôla tiền chuộc trước khi chặt đầu ký giả Mỹ  -(VOA) -Ký giả người Mỹ James Foley (hình chụp năm 2011).  ====>>>
Mỹ thừa nhận thất bại trong việc giải cứu con tin ở Syria  -(VOA)
Twitter cấm đăng hình ảnh video chặt đầu ký giả Mỹ-(VOA)
Kinh tế Nga bấp bênh giữa trận chiến trừng phạt qua lại với phương Tây-(VOA)   —   Nga đóng cửa McDonalds vì các vi phạm an toàn-(VOA)   —   Cấm bò Mỹ, Nga kêu gọi dân ăn thịt tuần lộc  -(VNN)
Ông Tập Cận Bình muốn thành ‘truyền nhân’ của Đặng Tiểu Bình  -(VNN)
Chiến đấu cơ Trung Quốc áp sát đe dọa máy bay hải quân Mỹ  -(GDVN)   >>>  Itar-tass: Mỹ đang thuyết phục Trung Quốc tham gia trừng phạt Nga   >>>  Báo Nga: Hillary Clinton đang hành động như thể tân Tổng thống Mỹ   >>>   Ấn Độ đầu tư 10 tỷ USD cho lực lượng đối phó Trung Quốc
Kỳ 2: Nói chuyện với ‘Bao Công’ dễ bị ‘hại não’!  -(MTG)   >>>    Vương Kỳ Sơn xử quan tham TQ – Kỳ 1: Chiêu thức ‘đánh phủ đầu’ đối tượng điều tra
Tin thế giới 18h30: Trung Quốc không “ngại” Triều Tiên   -(Infonet)   —   Bắc Triều Tiên đưa xe tăng đến biên giới báo Trung Quốc nói gì? -(GDVN)   —   Hoàn Cầu phủ nhận Triều Tiên có ‘âm mưu đen tối’ với Trung Quốc   -(Infonet)
 Nhà ga tại Tân Cương, Trung Quốc bốc cháy dữ dội  -(DT)
Chính Sách Đối Với PLC Làm ĐCSTQ Tự Đi Đến Diệt Vong  – (ĐKN)   >>>  Phanh Phui Xì-Căng-Đan Tình Dục Nhập Nhằng của Các Quan Chức Tỉnh Vân Nam, Trung Quốc   >>>   Một Con Hổ Lớn Ngã Xuống, Nhiều Con Khác Sẽ Ngã Theo    —   Quan chức cấp cao Trung Quốc kêu gọi tử hình Chu Vĩnh Khang?   -(GDVN)
IS là ‘mối đe dọa lớn nhất’ cho Hoa Kỳ -(BBC)    —  Hoa Kỳ : Nhà nước Hồi giáo nguy hiểm hơn mọi mối đe dọa khủng bố  -(RFI)   —  Syria : 12.000 quân thánh chiến đến từ 50 nước -(RFI)
Tòa Indo phán quyết Widodo chiến thắng -(BBC)   —  Tòa Bảo hiến Indonesia công nhận ông Joko Widodo đắc cử Tổng thống -(RFI)
Scotland Yard truy tìm hung thủ chặt đầu phóng viên Mỹ -(RFI)   —  Báo Pháp : Nhà nước Hồi giáo là « mối họa » cho cả thế giới -(RFI)
Quá khứ quân phiệt trỗi dậy tại Nhật Bản ? -(RFI)
Vụ đoàn cứu trợ : Kiev tố Nga ‘‘xâm lược’’, nhưng không đáp lại bằng sức mạnh -(RFI)   —  Matxcơva : Đoàn xe cứu trợ Nga vào Ukraina không cần chờ lệnh Kiev -(RFI)
Quân đội Thái Lan sẽ nắm quyền lâu dài -(RFI)   —   Cao ủy Nhân quyền LHQ tố cáo Hội đồng Bảo an bất lực   -(RFI)
Hamas hành quyết 18 người vì « cộng tác » với Israel tại dải Gaza -(RFI)
Bắc Triều Tiên có thể thử hỏa tiễn tầm xa trước cuối năm -(RFI)
Quốc tang Malaysia : Thi hài 20 nạn nhân đầu tiên của MH17 về nước -(RFI)

Văn hóa – Giáo dục – Khoa học- Xã hội

Trường phi lợi nhuận: Chỉ mình ông Trần Phương làm được?  -(VNN)   >>>   Học sinh có thể nhận bằng ĐH khi vừa hết phổ thông
‘Xin cô giúp bé nhà tôi được học ở lớp vắng nhất và nghèo nhất’  -(VNN)
Vụ ĐH Tôn Đức Thắng (TĐT) kiện giáo sư Nguyễn Đăng Hưng : Mong đi đến cùng sự thật  -(PLNN)

Xử 4 ‘quan’ xã, triệu tập 731 người liên quan  -(VNN)   >>>    Thông tin bất ngờ vụ đâm chết người giữa phố HN
Cử người làm trưởng thôn thay trùm xã hội đen Hưng ‘sóc’  -(VNN)   >>>   Đánh vợ: Phạt chồng 1.250.000 đồng
Hai PGĐ Sở phân trần chuyện không đánh nhau   -(ĐV)   —   Hà Nội: Lại một cặp đôi làm “chuyện ấy” trong quán cafe   -(DV)
Làm sân bay trong trụ sở Ủy ban là chủ trương của TP.Hồ Chí Minh  -(GDVN)   —   Nhiều thiếu nữ sập bẫy kẻ giả công an có vũ khí “nóng”  -(MTG)
Lại dùng chất cấm nuôi heo siêu nạc  -(NLĐ)   >>>   Bắt quả tang 2 người đang vận chuyển 100 bánh heroin   >>>   Khởi tố, bắt tạm giam một sinh viên cướp tài sản   >>>   Cãi nhau, đâm chết chồng của đồng nghiệp   >>>   Bị giang hồ đến tận nhà chém, 1 thanh niên tử vong

Vì sao các Vua trước thời Hậu Lê công nhận Triệu Đà, sau đó lại phủ nhận?

Trần Kinh Nghị: Một trong những chủ đề luôn gây tranh cãi trong lịch sử VN là vai trò của Triệu Đà và nước NamViệt. Trong khi các triều đại TQ không thừa nhận vai trò của Triệu Đà và Nam Việt, thì các vua chúa VN trước thời kỳ Hậu Lê đều đã coi Triệu Đà là "bậc tiền bối", nhưng từ thời Hậu Lê về sau bắt đầu có tư tưởng bác bỏ; và sau CM tháng Tám cũng tiếp tục làm ngơ không bàn lại chuyện này. Tuy nhiên trong bối cảnh ngày nay khi tái xuất hiện của CN bành trướng đại Hán đang đe dọa nền độc lập tự chủ của VN thì có lẽ không thể không bàn lại chủ đề này không chỉ vì sự thật lịch sử mà còn vì yêu cầu thiết thực của nó.

Để cung cấp thêm dữ liệu tham khảo về chủ đề nói trên, trang chủ Bách Việt xin mạn phép trích đăng lại nguyên văn tài liệu dưới đây của tạp chí Nghiên cứu Lịch sử http://nghiencuulichsu.com/2014/07/04/nhan-thuc-cua-le-van-huu-va-ngo-si-lien-ve-lich-su-viet-nam/ để thiện tham khảo -Bách Việt.

Nhận thức của Lê Văn Hưu và Ngô Sĩ Liên về lịch sử Việt Nam


Vietnam Borderless Histories. Published August 29th 2006 by University of Wisconsin Press.

dcvonline.net

“Một so sánh về nhận thức của hai sử gia Lê Văn Hưu và Ngô Sĩ Liên về lịch sử Việt Nam” [“Lê Văn Hưu and Ngô Sĩ Liên - A Comparative of their Perception of Vietnamese History”] là tựa đề tiểu luận của Yu Insun, nguyên giáo sư ban Sử Á châu tại Đại học Quốc gia Hán Thành [Seoul National University].

Tiểu luận này đã được tình bày tại Hội nghị “Vietnam: Beyond the Frontiers” do Viện Quốc tế, Đại học California tại Los Angeles tổ chức trong hai ngày 11-12, 2001.

Nghiên cứu này của giáo sư Insun đã đăng lại [p. 47-71] trong cuốn “Viet Nam: Borderless Histories” do Nhung Tuyet Tran và Anthony Reid là chủ biên và University of Wisconsin Press phát hành năm 2006. Bạn đọc có thể tham khảo nguyên bản Anh ngữ tại đây.

Dưới đây bản lược dịch và nhận định về tiểu luận của Insun đã đăng trên Tạp chí Truyền Thông Communications, số 41 & 42, Thu Đông 2011, trang 156-168.

Cho tới giữa thập niên 80 thế kỷ XX, Hà Nội vẫn coi quốc sử như một côngcụ phục vụ các chính sách của Nhà nước. Giới sử gia ngoại quốc đặt lại vấn đề: sử quan ngày trước, trong thời phong kiến, nhận thức quốc sử ra sao? Đã có một số sử gia ngoại quốc lưu ý tới vấn đề đó. Trong công trình nghiên cứu này, Yu Insun trả lời câu hỏi trên bằng cách so sánh quan điểm sử học của hai sử gia Lê Văn Hưu và Ngô Sĩ Liên, theo thứ tự là sử quan đời Trần và sử quan đời Lê, tác giả bộ Đại Việt Sử Ký và bộ Sử Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, (gọi tắt là Toàn Thư).

Theo bộ sử Đại Việt Toàn Thư, vua Trần Thánh Tông, trị vì từ năm 1258 tới 1278, chỉ thị cho Lê Văn Hưu tham khảo sách sử và soạn thành bộ Đại Việt Sử Ký, gồm 30 quyển, dựa theo phương pháp viết sử của Tư Mã Quang, tác giả bộ sử Tư Trị Thông Giám của Trung Quốc. Nội dung bộ sử của Lê Văn Hưu, bắt đầu từ Triệu Đà, trị vì vào khoảng cuối thế kỷ III và chấm dứt vào cuối đời nhà Lý (1225). Ngày nay giới sử học trong và cả ngoài Việt Nam chỉ tìm thấy bộ Toàn Thư gồm 15 cuốn.

Bộ Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên, lấy bộ Sử Ký của Tư Mã Thiên, Trung Quốc, làm mẫu mực, là một bộ sử biên niên, khởi từ đời Hồng Bàng, khoảng ba ngàn năm trước công nguyên, kéo dài tới cuối nhà Lê vào năm 1428. Năm 1428,vua Lê Thánh Tông xuống chiếu chỉ thị cho các sử thần thâu thập sử liệu gửi về tàng trữ tại Đông Các. Ngô Sĩ Liên được chỉ định tham dự vụ thâu thập sử liệu nói trên, nhưng ông có tang thân phụ, phải về quê cư tang. Hết tang, ông trở lại viện Đông Các thời việc thâu thập sử liệu đã hoàn tất. Ngô Sĩ Liên, sử dụng những sử liệu do ông thu thập được, trong số đó có bộ Đại Việt Sử Ký của Lê Văn Hưu, đối chiếu sử liệu Việt Nam với sử liệu Trung Quốc, viết thành bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, gồm có Ngoại Kỷ, Bản Kỷ và Lê Thái Tổ Kỷ, dâng lên vua Lê Thánh Tông năm 1479. Số sử liệu tàng trữ tại viện Đông Các đã thất lạc, chỉ còn bộ Toàn Thư truyền lại tới ngày nay. Sau đó, sử quan dưới triều Lê ghi chép việc nước viết thành bộ Đại Việt Sử Ký Tục Biên.

Hai bộ sử Đại Việt Sử Ký và Toàn Thư, tạm đủ cho việc đối chiếu quan điểm sử học của hai sử quan Lê Văn Hưu và Ngô Sĩ Liên. Trong Đại Việt Sử Ký, Lê Văn Hưu viết ra 30 lời bàn. Trong Toàn Thư, Ngô Sĩ Liên để lại 170 lời bàn. Trong số đó, cho tới hết triều nhà Lý, sử quan Ngô Sĩ Liên viết 83 lời bàn: tức là có 56 lời bàn nhiều hơn tổng số lới bàn của Lê Văn Hưu. Có nhiều lời bàn, cả hai sử quan cùng bàn về một sử kiện. Đối chiếu lời bàn của hai sử quan trong những trường hợp này giúp người đọc dễ bề so sánh quan điểm sử học của hai nhà viết sử. Tác giả bộ Đại Việt Sử Ký Tục Biên không ghi thêm lời bàn.

Lê Văn Hưu

Chế độ truyền ngôi vua cho con để làm Thái Thượng Hoàng bắt đầu từ năm 1258 dưới triều vua Trần Thái Tông gây thêm mối căng thẳng ngoại giao giữa hai nước. Hơn nữa tục nhà Trần cho các hoàng tử công chúa thành hôn với nhau, nhắm mục đích củng cố vương quyền, cùng sự việc nho giả không được trọng dụng trong triều đình, đều đi ngược lại với tục lệ Trung Quốc. Thế nên việc vua Trần sai Lê Văn Hưu viết Đại Việt Sử Ký 大 史 có thể coi như triều đình nhà Trần muốn chứng tỏ quyền bình đẳng và sự độc lập giữa nước Đại Việt với triều đình nhà Nguyên khi đó đang đô hộ Trung Quốc.Lê Văn Hưu người Thanh Hóa, sinh năm 1230, mất năm 1322, thọ 93 tuổi. Ông đậu tiến sĩ năm 1247. Sau khi phục vụ trong nhiều chức vụ trong triều, ông được bổ nhiệm làm Chưởng Sử Quán, kiêm binh bộ thượng thư. Nhiều sử gia nghiên cứu về Lê Văn Hưu đặt câu hỏi: có những sử kiện quan trọng nào đã xẩy ra từ năm năm 1230 khi Lê Văn Hưu ra đời tới năm 1272 khi ông hoàn tất bộ Đại Việt Sử Ký? Hiển nhiên sử kiện quan trọng nhất là thời kỳ quân Nguyên xâm lăng nước Đại Việt năm 1257, tiếp theo là cuộc chiến thắng của Trần Hưng Đạo đuổi quân Nguyên ra khỏi bờ cõi. Triều đình nhà Nguyên phải phong cho vua Trần Thánh Tông, năm 1261 làm An Nam Vương, từ đó việc bang giao giữa Nhà Nguyên với nhà Trần mới trở lại bình thường. Tuy nhiên nhà Trần luôn luôn phải đề phòng nạn xâm lăng của nhà Nguyên. Năm 1271, nhân dịp đăng quang vua Nguyên đòi vua Trần sang chầu. Năm sau vua Nguyên lại gửi ba sứ thần sang Đại Việt tìm cột đồng do Mã Viện trồng để đánh dấu biên thùy Hoa-Việt sau khi thắng quân Hai Bà Trưng năm 42 Tây lịch.

Việc Lê Văn Hưu chọn Triệu Đà 佗 làm khởi điểm cho việc dựng nước Đại Việt là bằng chứng sự bình dằng giữa hai nước Hoa-Việt. Điều đó căn cứ trên truyền thuyết lịch sử dưới đây. Năm 196 trước Tây lịch. Sau khi thống nhất được đất nước, Hán Cao Tổ 漢 リ 祖 sai sứ là Lục Giả x ネ sang Nam Việt phong vương cho Vũ Vương Triệu Đà. Gặp sứ giả nhà Hán, Triệu Đà hỏi: “Ta với Cao Tổ ai lớn hơn ai?” Lục Giả trả lời Hán Cao Tổ trị vì một nước lớn hơn ắt là lớn hơn.” Triệu Đà hỏi tiếp: “Nếu ta sinh ra tại Trung Quốc, liệu ta có lớn bằng Cao Tổ không?”

Sau khi Lữ Hậu 呂后 tiếm ngôi nhà Hán, việc bang giao giữa Nam Việt và nhà Hán trở nên căng thẳng hơn. Năm 183 trước Tây lịch, Triệu Đà tự xưng là Vũ Đế ngang hàng với các Hoàng Đế nhà Hán. Sau khi Hán Văn Đế 漢 文 帝 lên ngôi, một mặt Triệu Đà sai sứ sang triều cống nhà Hán, để duy trì hoà bình giữa hai nước, một mặt vẫn tự coi là ngang hàng với hoàng đế nhà Hán.

Suốt thời gian Lê Văn Hưu làm quan trong triều nhà Trần, nước Đại Việt luôn luôn bị nạn xâm lăng của Bắc Triều đe dọa, nên chắc chắn là ông thấu hiểu tầm quan trọng của việc duy trì nền độc lập, cùng việc tranh đấu để tránh những mối nhục trong việc bang giao. Triệu Đà là vị vua khéo léo giữ được độc lập cho đất nước mà không hy sinh sự đồng đẳng giữa hai nước Nam Việt và Trung Quốc nên không bị mất mặt trên đường ngoại giao. Đó là những lý do khiến Lê Văn Hưu coi Triệu Đà như người sáng lập ra nước Việt Nam. Dĩ nhiên Lê Văn Hưu cũng biết đến những vị lãnh đạo khai quốc khác trước Triệu Đà, nhưng hình ảnh những vị khai quốc đó mờ nhạt trước hình ảnh Triệu Đà vì những vị lãnh đạo khai quốc trước Triệu Đà đều bằng lòng với danh hiệu vương 王 do triều đình Trung Quốc phong cho, và không dám nghĩ tới việc xưng đế 帝. Bình về Triệu Đà, Lê Văn Hưu viết cái lớn lao của người trị nước không phải là cái lớn lao của diện tích đất nước người đó mà là cái đức 德 của người đó. Lời đó là lời Lê Văn Hưu bác bỏ lời Lục Giả so sánh Triệu Đà với Hán Cao Tổ trên đây. Trong lời Lê Văn Hưu, chữ đức không chỉ trọn vẹn là chữ đức của đạo nho. Chứ đức này là chữ đức của một vị đế, biết hạ mình để giữ nước, như lời Lão Tử Đạo Đức Kinh. Lê Văn Hưu đã đoan kết là hai vị vua đầu nhà Trần, Trần Thái Tông và Trần Thánh Tông đều đã theo đúng gương Triệu Đà, một mặt giữ viện toàn được đất nước, mặt khác mềm mỏng giữ được bình đẳng ngoại giao với triều nhà Nguyên.

Lê Văn Hưu căn cứ trên mức bình đẳng giữa Trung Quốc và Việt Nam để ghi làm năm khởi đầu nền độc lập của nước Việt Nam đối với Trung Quốc.

Ông không chọn năm 939, năm Ngô Quyền xưng vương, một năm sau khi đánh bại quân Nam Hán; mà ông chọn năm 966, năm Đinh Bộ Lĩnh xưng đế sau khi dẹp xong loạn mười Hai Xứ Quân, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đặt kinh đô tại Hoa Lư. Ông công nhận công lao Ngô Quyền đã chiến thắng quân Nam Hán, nhưng ông chỉ trí Ngô Quyền không xưng đế, không chọn quốc hiệu, không đặt kinh đô, do đó Ngô Quyền không hoàn tất sự nghiệp dựng nước cho người Việt. Đinh Bộ Lĩnh, theo Lê Văn Hưu mới chính là người Trời sai xuống, dẹp tan loạn xứ quân, tiếp tục truyền thống dựng nước của Triệu Vũ Đế.

Đặt cao nền độc lập của người Lạc Việt, Lê Văn Hưu kết tội những ai đã làm mất nền tự chủ của nước nhà. Ông nghiêm khắc chỉ trích tể tướng Lữ Gia 呂 嘉. Vào cuối năm 113 trước Tây lịch. Dưới triều vua Triệu Ai Vương 哀 王, vua nhà Hán sai An Quốc Thiếu Quí 安 國 少 季, sang Nam Việt. Sứ nhà Hán nguyên là tình nhân của hoàng hậu Cù Thị 樛 氏, bà hoàng này vốn chỉ là tỳ thiếp của Triệu Minh Vương, nên cùng dỗ dành Ai vương đem nước Nam Việt về dâng nhà Hán. Lữ Gia biết mưu này, can ngăn không được, nên cùng mấy đại thần đem cấm binh vào giết sứ giả nhà Hán, Cù Thị và Ai vương, tôn Kiến Đức建 德, con trưởng của Minh Vương, mẹ là người Nam Việt lên làm vua. Nhà Hán nhân truyện này dấy quân xâm chiếm Nam Việt. Lữ Gia không chống nổi, và Nam Việt trở thành quân huyện nhà Hán. Việc Lê Văn Hưu kết tội Lữ Gia không giữ nổi nước chứng tỏ lòng ông thiết tha với nền tự chủ của Nam Việt.

Tiếp theo, Lê Văn Hưu chỉ trích những nhà lãnh đạo quần chúng, nổi dậy chống Trung Quốc, nhưng không đạt được tự chủ cho đất nước. Đó là trường hợp Lý Bí 李 チ (còn đọc là Lý Bôn) dưới triều vua Lương Vũ Đế 梁 武 帝, năm 541 thống lĩnh người nghĩa dũng nổi lên đánh đuổi thái thú Giao Châu là Tiêu Tư 蕭 諮 về Trung Quốc rồi chiếm giữ thành Long Biên 龍 編. Theo truyền thống truyền lại từ Triệu Đà, Lý Bí tự xưng là Nam Việt Đế, lấy quốc hiệu là Vạn Xuân. Sau đó vua nhà Lương sai tướng Trần Bá Tiên s 8 先 mang quân sang tái chiếm Giao Châu. Lý Bí thua, phải chạy trốn vào ẩn trong vùng núi, rồi sau đó bị bệnh chết. Lê Văn Hưu chỉ trích Lý Bí khá nặng. Ông coi Lý Bý chỉ là một viên tướng trung bình, nhưng đồng thời ông tiếc cho Lý Bí, trong tay có cả năm chục ngàn quân, đã để lỡ dịp giành lại tự chủ cho người Nam Việt, chỉ vì tài cầm quân của Lý Bí không bằng tài cầm quân của Trần Bá Tiên.

Theo Yu Insun, Lê Văn Hưu thay đổi quan điểm về sử học của ông khi bàn về Hai Bà Trưng. Dẫu cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, chống triều đình Trung Quốc, chấm dứt bằng một chiến bại, nhưng tinh thần chiến đấu giành tự chủ cho đất nước đã ăn sâu vào lòng toàn dân. Điều đó chính là điều đã giúp người dân nước Đại Việt thành công trong việc đánh đuổi quân Nguyên.

Vốn là một nhà Nho, Lê Văn Hưu tất tin tưởng rằng người phụ nữ đã đứng lên giành tự chủ cho đất nước, tất nhiên người trai đất Đại Việt phải bảo vệ đất nước hữu hiệu hơn nữa.

Lê Văn Hưu đề cao việc bảo tồn nền tự chủ của đất nước khi ông so sánh vua Lý Thái Tổ, tức Lý Công Uẩn 李 公, vị vua khởi nghiệp nhà Lý, và trị từ 1010 tới 1028 với vua Lê Đại Hành nhà Tiền Lê tên là Lê Hoàn ホ 桓 làm quan Thập Đạo Tướng Quân nhà Đinh.

Nhân khi vua nhà Đinh còn nhỏ tuổi, và lại có quân nhà Tống sang xâm, quân sĩ tôn Lê Hoàn lên làm vua, tức Đại Hành Hoàng Đế 大L 皇帝. Người đời sau ca tụng Lê Đại Hành có công phá Tống bình Chiêm, dẹp yên được loạn nước. Dưới mắt Lê Văn Hưu, Lý Công Uẩn không hơn Lê Hoàn vì công dựng nước nhưng vì Lý Công Uẩn có đức dầy hơn Lê Hoàn lập ra triều nhà Lý lâu dải hơn, bởi khi đất nước lâm nguy, ngưòi lãnh đạo không những cần có tài mà còn cần có cả đức mới giữ được nước lâu dài.

Lê Văn Hưu cho là nhà Tiền Lê không tồn tại lâu dài vì Lê Hoàn đã không sớm chọn thái tử, khiến khi khi Lê Hoàn vừa băng hà thời đã xẩy ra việc tranh giành ngôi vua giữa các hoàng tử kéo dài bẩy tháng. Để cuối cùng người con út là Long Đĩnh フ cướp ngôi của anh là vua Lê Trung Tông ホ 中 宗 mới lên ngôi được ba ngày. Long Đĩnh là một ông vua vô cùng bạo ngược, và theo Lê Văn Hưu thì chính Long Đĩnh là người làm đổ ngôi nhà Tiền Lê.

Đằng khác Lê Văn Hưu chỉ trích triều Lý không sớm chọn thái tử, nên khó tránh được nạn nội loạn, bởi theo tục nhà Lý, tới khi lâm bệnh nặng, vua cha mới chọn người có tài năng đảm lược làm người kế vị. Nhà Trần lấy đó làm gương, nên vua cha sớm chọn thái tử, nhường ngôi cho thái tử và lên ngôi thái thượng hoàng.

Lê Văn Hưu chỉ trích vua Đinh Bộ Lĩnh phong cho năm bà vợ lên ngôi hoàng hậu. Sau đó, Lê Hoàn cũng như nhiều vua nhà Lý phong chức hoàng hậu cho nhiều bà vợ. Sụ kiện này chứng tỏ nhà vua muốn củng cố sức mạnh của triều đình bằng cách liên kết với gia đình các hoàng hậu. Tuy nhiên cũng vì vậy mà cơ đồ triều chính bị đe dọa bởi nội loạn trong thời kỳ tuyển chọn người kế vị hay chính trong ngày truyền ngôi.

Lê Văn Hưu còn chỉ trích Lý Công Uẩn chỉ phong vương cho cha, trong khi vua Thái Tổ nhà Tống phong đế cho thân phụ. Sử gia còn hiểu là việc phong vương cho cha là do đức vô kỷ của Lý Công Uẩn. Đồng thời ông chỉ trích Lý Công Uẩn đã sao lãng truyền thống vun đắp tự chủ từ Triệu Đà truyền xuống.

Cũng vì chủ ý đề cao việc duy trì nền tự chủ của đất nước, nên Lê Văn Hưu kết tội mọi hành động của các vị vua chúa sao lãng việt đề cao nền tự chủ. Đó là trường hợp Ngô Xương Văn, con trai của Ngô Quyền. Lê Văn Hưu ngợi khen Ngô Xương Văn 吳 昌 文về việc ông tha thứ cho Dương Tam Kha 楊 三 哥 cậu ruột ông về tội cướp ngôi vua của cháu, nhưng ông chỉ trích Ngô Xương Văn về việc mời Ngô Xương Ngập 吳 昌 岌 về cùng coi việc nước, khiến từ đó xẩy ra việc Ngô Xương Ngập tranh quyền, thế lực nhà Ngô mỗi ngày một kém và đất nước lâm vào nạn mười hai xứ quân. Lê Văn Hưu chỉ trích vua Lý Thái Tông 李 太 宗 trong việc dẹp giặc Nùng, đã cương quyết xử tử Nùng Tồn Phúc 儂 存 福 nhưng đã vì lòng từ bi tha cho Nùng Trí Cao 儂 智 リ và còn gia phong cho y chức Thái Bảo, và chỉ một năm sau Trí Cao lại làm loạn, và xin phụ thuộc vào Trung Quốc. Lời chỉ trích của Lê Văn Hưu chứng tỏ mối lo ngại của ông nhân vụ tạo phản của Trí Cao mà mở đường cho Trung Quốc xâm lăng Nam Việt. Lê Văn Hưu cũng chỉ trích vụ vua Lý Anh Tông 李 宗 bình Chiêm Thành, lập một vua mới cho Chiêm Thành. Chỉ ít lâu sau, vị vua này bị một hoàng thân cướp ngôi. Vua Anh Tông phong vương cho hoàng thân phản loạn đó. Chính vị vua thứ hai này chỉ it năm sau mang quân xâm phạm đất nước nhà Lý.

Ngoài mối quan tâm về nền tự chủ và hoà bình của đất nước, Lê Văn Hưu còn nặng lòng về việc tham gia triều chính của nho giả. Ông chỉ trích vua Lý Thái Tổ, sau khi di đô về Thăng Long đã không xây cất Thái Miếu cho xứng đáng, như vậy là không tròn chữ hiếu của đạo Nho. Ông còn chỉ trích việc vua Lý Thái Tổ cho xây cất quá nhiều chùa chiền, làm hao tài sản quốc gia phí phạm công lực của nhân dân. Chắc chắn là Lê Văn Hưu phải biết là vua Lý Thái Tổ thủa trẻ đã được nhà sư Phật Giáo chùa Cổ Pháp tên là Lý Khánh Vân 李 慶 文 nhận làm con nuôi, dậy dỗ thành người, nhưng phải chăng vì lợi ích quốc gia ông đã thẳng thắn chỉ trích lòng mộ đạo Phật của nhà vua.

Đằng khác, người đọc sử ghi nhận rằng ngay từ đầu nhà Trần đã có những kỳ thi kén người tài theo học đạo Nho ra giúp nước. Nhưng trên thực tế, số nho giả trong triều không nhiều, và không được giữ những địa vị then chốt.

Cho tới khi quân nhà Nguyên xâm lấn dất Đại Việt, vì nhu cầu ngoại giao, địa vị nho gia trong triều nhà Trần mới được nâng cao và dần dần tăng tiến thành một lực lượng chống đối ảnh hưởng Phật Giáo ở trong triều. Yu Insun cho rằng việc Lê Văn Hưu chỉ trích vua Lý Thái Tổ trên đây chỉ là một đường lối khéo léo của sử gia để gián tiếp chỉ trích phe thân Phật Giáo trong đời Trần.

Ngô Sĩ Liên

Ngô Sĩ Liên người trấn Sơn Nam 山 南, có người nói ông từng theo phò Lê Lợi ホ 利 trong cuộc khởi nghĩa chống quân nhà Minh. Ngô Sĩ Liên đậu tiến sĩ năm 1442, dưới triều vua Lê Thánh Tông. Ông giữ chức Đô Ngự Sử dưới triều vua Lê Nhân Tông. Dưới triều vua Lê Thánh Tông, ông làm Quốc Tử Giám Ty Nghiệp, và tham dư vào việc soạn thảo bộ quốc sử. Năm sinh năm mất của ông không được sách sử ghi chép rõ, nhưng nhiều người tin rằng ông mất năm 99 tuổi. Với tuổi thọ đó, cuộc đời Ngô Sĩ Liên trải dài qua nhiều thăng trầm của lịch sử: cuộc suy thoái của nhà Trần và nhà Hồ; tiếp theo là hai mươi năm đô hộ dưới triều nhà Minh với chính sách tàn khốc tiêu diệt văn hóa Việt Nam; nhưng quan trọng hơn cả là cuộc chiến đấu giành tự chủ cho đất nước của Lê Lợi. Từ khi Lê Lợi dựng nên nhà Lê, ảnh hưởng Khổng Giáo trong triều lớn mạnh cùng số quan gia nho học ngưòi vùng châu thổ sông Nhị và thắng thế ảnh hưởng Phật Giáo của nhóm Phật Tử được trọng dụng người vùng Thanh Hóa trong việc triều chính, và ảnh hưởng Khổng giáo trở thành độc tôn dưới triều vua Lê Thánh Tông. Trong sinh hoạt tinh thần đó Ngô Sĩ Liên đã trước tác bộ sử Toàn Thư.

Nhiều sử gia ngày nay tự hỏi lý do nào đã khiến Ngô Sĩ Liên trước tác bộ sử Toàn Thư, trong khi ông đã từng là một thành viên trong công cuộc sưu tập bộ quốc sử tàng trữ tại viện Đông Các? Có thể trả lời là việc soạn thảo bộ quốc sử là một công cuộc gồm nhiều nho giả, thế nên người tham dự khó bề bày tỏ những lời phê phán bình luận. Bởi vậy, theo sử gia Wolter(1), Ngô Sĩ Liên đã đơn độc trước tác bộ sử Toàn Thư với chủ đích là đề cao Khổng Giáo như một cơ động giúp cho người nước Đại Việt có một học thuyết căn bản để duy trì nền tự chủ trong thời gian đất nước gặp cơn nguy biến và theo Yu Insun, thì hành động này giúp Ngô Sĩ Liên đứng được ra ngoài vụ tranh chấp ảnh hưởng giữa Nho Giả vùng châu thổ sông Nhị với Phật Tử được trọng dụng vùng Thanh Hóa. Trong toàn bộ Toàn Thư, Ngô Sĩ Liên viết ra tổng cộng 170 lời bàn, trong số đó có 86 lời bàn về sử kiện xẩy ra dưới triều nhà Lý; 72 lời bàn về sử kiện xẩy ra dưới đời nhà Trần và nhà Hồ cùng hai chục năm tranh đấu chiến thắng quân xâm lược nhà Minh, phần còn lại là lời bàn về sử kiện dưới triều vua Lê Thái Tổ.


Đại Việt Sử Ký Toàn Thư.

Khổng Học, nhất là Tân Khổng Học ảnh hưởng mãnh liệt trên việc trước tác của Ngô Sĩ Liên, lời bàn của ông đều đặt trên đạo lý gia tộc và tương quan giữa vua và dân. Ông tin tưởng chắc chắn rằng đó là hai điểm quan trọng trong việc trị nước an dân. Năm 1320, khi vua Trần Anh Tông (tri vì từ 1293-1314) băng hà, ông trích sách Mạnh Tử(2):

天 下 之 本 在 國

Thiên hạ chi bổn tại quốc

國 之 本 在 家

quốc chi bổn tại gia

家 之 本 在?

gia chi bổn tại thân

Nghĩa là: gốc của thiên hạ là nhà nước, gốc của nước là nhà, gốc của nhà là thân. Rồi Ngô Sĩ Liên thêm: “thân có tu, nhà mới tề, nước mới trị, điều ấy là khuôn vàng thước ngọc từ đời Nghiêu Thuấn, và đến ngày nay vẫn thật đúng như vậy.” Do đó ông chỉ trích bất kỳ ai vi phạm nguyên tắc này.

Ngô Sĩ Liên hết lời ca tụng vua Trần Anh Tông, vì nhà vua dốc lòng tu thân, thờ phụng cha mẹ, giữ vẹn niềm hòa hảo với họ hàng, và nhất là thờ kính tổ tiên. Thế nên, theo Ngô Sĩ Liên, triều vua Trần Anh Tông là một triều thịnh trị, nhân dân sống đời an lạc. Tuy nhiên, ông vẫn còn chỉ trích vua Trần Anh Tông hãy còn một điều thiếu sót trong lễ quốc táng Thượng Hoàng Trần Nhân Tông.

Ngô Sĩ Liên cực lục chỉ trích việc làm loạn luân nhân để củng cố cho ngôi nhà Trần được bền vững. Đó là sự việc Thái Sư Thống Quốc Hành Quân Chinh Thảo Sự Trần Thủ Độ cưỡng ép vua Trần Thái Tông, giáng Chiêu Thánh Hoàng Hậu, người đã lấy vua Trần Thái Tông được 12 năm, xuống làm công chúa, rồi đem chị bà Chiêu Thánh, tức vợ Trần Liễu lên làm Hoàng Hậu, bởi vì Hoàng Hậu Chiêu Thánh không có con nối dõi và bà chị đã có thai được ba tháng. Việc phi luân này đã được lập lại dưới Triều vua Trần Dụ Tông (trị vì từ 1341 tới 1369). Ngoài ra, Ngô Sĩ Liên còn trách vua Trần Thái Tông đã hứa gả công chúa cho Trung Thành Vương, rồi cuối cùng lại gả cho một hoàng thân khác.

Ngô Sĩ Liên tin tưởng là ngôi vua sẽ truyền cho người con trưởng của vua cha. Nếu Hoàng Hậu không có con nối dõi, con một thứ phi có thể được phong làm Thái Tử. Trong trường hợp Hoàng Hậu sau đó sinh Hoàng Nam, Thái Tử con bà thứ phi phải từ chức nhường ngôi cho Hoàng Nam con bà Hoàng Hậu. Thế nên Ngô Sĩ Liên thương tiếc Hoàng Thân Trần Quốc Chấn bị sát hại dưới triều vua Trần Minh Tông (trị vì từ 1314 tới 1329) chỉ vì hoàng thân đã can ngăn việc lập một Hoàng Nam con một bà thứ phi lên làm Thái Tử, không đợi Hoàng Hậu sinh Hoàng Nam. Ngô Sĩ Liên cũng tin tưởng là Hoàng Nam em có thể được nối ngôi vua khi Hoàng Nam anh không đủ khả năng nối ngôi. Thế nên Ngô Sĩ Liên chỉ trích vua Đinh Bộ Lĩnh lập con bà thứ phi là Hạng Lang làm thái tử thay vì truyền ngôi cho con trưởng con bà Hoàng Hậu là Hạng Liễn vốn là người văn võ toàn tài.

Trong trường hợp Hoàng Đế không có Hoàng Nam nối ngôi, thời phải lập một ngưòi cháu trai, như trường hợp vua Lý Nhân Tông nhưòng ngôi cho cháu. Ông cực lực chống lại việc nhường ngôi cho một công chúa như việc vua Lý Huệ Tông nhường ngôi cho Công Chúa Lý Chiêu Hoàng. Theo Ngô Sĩ Liên thì vua Lý Huệ Tông đã không noi gương vua Lý Nhân Tông nên đã mở cửa cho Trần Thủ Độ lật đổ ngôi nhà Lý và lập ra nhà Trần.

Nhà Trần cũng theo gương nhà Lý không nhất thiết truyền ngôi vua cho Hoàng Nam con cả của vua. Để tránh việc tranh giành ngôi vua, nhà Trần đặt ra tục lập ngôi Thái Thượng Hoàng. Dầu thấu hiểu tục lệ nhà Trần như vậy, Ngô Sĩ Liên cũng bàn là không nên lập vua mới khi vua cha hãy còn sống, để một nước một lúc có hai vua.

Ngô Sĩ Liên chủ trương đàn bà góa không được tái giá để giữ tiết với chồng cũ, theo đúng lệ tam tòng của Nho Giáo. Tục này phải được bắt đầu từ trong hoàng tộc, để làm gương cho tứ dân. Chủ trương đó nhằm tránh những vụ thoán ngôi vua như vụ Lê Hoàn lấy bà Dương Hậu lập ra nhà Tiền Lê, vụ Trần Thủ Độ lấy vương Hậu Linh Từ lập ra nhà Trần. Đi xa hơn, Ngô Sĩ Liên ca ngợi việc các vương hậu nước Chàm phải chịu thiêu sống để giữ vẹn đức tam tòng.

Người đọc sử tự hỏi rằng, vốn là một nho giả chân chính, phải chăng Ngô Sĩ Liên nhiệt liệt cổ động cho việc gái hóa phải chết theo chồng là để duy trì chữ Trung của đạo nho theo câu tục trai trung một chúa, gái trinh một chồng. Cũng trong dòng tư duy này, sử còn chép truyện năm 1285, khi quân nhà Trần phá quân Nguyên, chủ tướng quân Trung Quốc là Toa Đô bị trúng tên chết. Khi các tướng thắng trận đưa đầu Toa Đô về nộp vua Trần Nhân Tông, vua thấy người dũng kiệt hết lòng với chúa mới than rằng: “Làm bầy tôi nên như người này!” rồi cởi áo bào đắp vào thủ cấp Toa Đô, sai làm lễ mai táng theo quân cách.

Với chủ trương trai trung một chúa, Ngô Sĩ Liên cực lưc bài bác những mưu đồ thoán nghịch của Lê Hoan, Trần Thủ Độ và nhất là Hồ Qúy Ly, cả ba cùng là những tặc thần lập mưu giết vua để cướp ngôi vua. Theo Ngô Sĩ Liên, Lê Hoan đáng tội chết chém, Trần Thủ Độ không đáng so sánh với loài chó lợn và Hồ Qúy Ly bi trời phạt khiến giặc Nam không giết nổi thời giặc Bắc không tha.

Theo Yu Insun thời Ngô Sĩ Liên nặng lời chỉ trích Lê Hoàn, Trần Thủ Độ và Hồ Quý Ly thí vua cướp ngôi báu, không chỉ riêng bởi Ngô Sĩ Liên là một tân nho giả mà còn phản ánh nội tình triều nhà Lê, ngày đó, khi vua Lê Nhân Tôn bị người anh là Nghi Dân 宜 民, trước kia đã được phong làm Thái Tử, sau vì mẹ phải tội cho nên bị phế bỏ. Năm 1459 Nghi Dân đồng mưu với Lê Đắc Ninh 黎 得 寧, Phạm Ban 范 般 v.v… nửa đêm trèo vào thành giết vua Lê Nhân Tôn và hoàng thái hậu, tự xưng làm vua rồi sai sứ sang Trung Quốc cầu phong.

Mối quan tâm của Ngô Sĩ Liên là sự an nguy của đất nước trước sự đe dọa của kẻ thù phương Bắc, dẫu rằng nhà Minh sau khi bị đuổi ra khỏi bờ cõi không còn là một mối đe dọa nặng nề như quân nhà Nguyên dưới đời Trần.

Thế nên, theo Yu Insun, từ khi vua Lê Lợi chiến thắng quân Minh sau hai mươi năm đô hộ, mối lo chính của Ngô Sĩ Liên là sự bất ổn của tình hình quốc nôi khơi ngòi cho việc xâm lăng của ngoại bang. Đó là lý do khiến Ngô Sĩ Liên đặt bản văn Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi vào trong bộ sử Toàn Thư.

Bản Bình Ngô Đại Cáo xác quyết Đại Việt là một nước có văn hiến riêng, bờ cõi phân chia rõ ràng, phong tục khác hẳn Trung Quốc. Khác với Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên khẳng định là nước Đại Việt có một lịch sử dài không thua lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ vua Thần Nông. Theo tục truyền Kinh Dương Vương, vị vua đầu tiên của đất Nam Việt là anh khác mẹ của Đế Nghi, vị vua đầu tiên của người phương Bắc. Thật thế, Đế Minh, cha của Đế Nghi và Kinh Dương Vương là cháu ba đời vua Thần Nông, có ý lập Kinh Dương Vương lên nối ngôi, nhưng Kinh Dương Vương từ chối nhường ngôi cho Đế Nghi làm vua phương Bắc, còn mình làm vua phương Nam.

Ngô Sĩ Liên lo lắng cho mối an nguy nước Đại Việt phản ánh trong lời bàn của ông về những vụ xâm lăng của quân Mông Cổ từ phương Bắc, qua những vụ xâm phạm bờ cõi miền Nam của quân Chiêm. Ngô Sĩ Liên ca tụng thượng hoàng Trần Nhân Tông, không những có tài điều binh khiển tướng đánh đuổi được quân Nguyên, mà còn triệu tập Hôi Nghị Diên Hồng, đoàn kết toàn dân thành một khối quyết tâm bảo vệ đất nước. Ngược lại ông chê trách triều nhà Trần bỏ ngỏ biên giới miền Nam mở đường cho quân Chiêm Thành sang quấy phá Đại Việt. Ông chê trách Thượng Hoàn Dụ Tông quen sống trong cảnh đất nước thịnh vương bình an mà trở thành quá phóng túng, chỉ nghĩ tới chuyện mua vui. Ông cũng chê trách vua Trần Nghệ Tông quá mải mê với văn học mà sao lãng việc binh đến độ để quân Chiêm Thành vào cướp phá thành Thăng Long vào mùa thu năm 1371.

Nhân danh một nhà Tân Nho, Ngô Sĩ Liên bài bác ảnh hưởng Phật Giáo trong hai triều nhà Lý và nhà Trần. Ông quan niệm việc vua Lý Thái Tổ khi vừa đăng quang liền cho xây chùa tô tượng Phật khắp nơi trong nước là một điều quá đáng, dầu ông không quên là vua Lý Thái Tổ là con nuôi của nhà sư Lý Khánh Vân, và nhờ vậy mà thành nhân. Ngô Sĩ Liên ca tụng vua Trần Nhân Tông là một vị minh quân từng chiến thắng quân Nguyên xâm phạm đất Đại Việt, nhưng ông coi việc vua Trần Nhân Tôn, sau khi thoái vị làm Thái Thượng Hoàng, trở thành đệ nhất tổ giòng Thiền Trúc Lâm, là một hành động chứng tỏ vua Trần Nhân Tôn không giữ vẹn chữ Trung Dung của đạo Nho.

Hơn nữa,vẫn nhân danh là một nho sĩ, Ngô Sĩ Liên còn phê bình việc thay đổi niên hiệu của vua Lý Thái Tổ năm 1034. Năm ấy hai nhà sư Nghiêm Bảo Tính và Phạm Minh Tâm tự thiêu, thi thể cháy kết thành thất bảo. Vua xuống chiếu đem thất bảo đó giữ ở chùa Trường Thánh để thờ, nhân dịp đó vua đổi niên hiệu là Thụy Thông; sử thần Ngô Sĩ Liên có lời bàn(3):

Thuyết nhà Phật gọi là xá lị tức là khi tự thiêu mình, tinh khí tụ lại kết thành một thứ lửa không cháy được, cho nên gọi là bảo. Tương truyền là người nào học Phật thành thì xác hồn làm bảo như thế. Vì rằng người sãi đoạn tuyệt tính dục thì tinh khí kết thành ra thứ ấy. Người đời cho là không thường, thấy mà cho là lạ, có biết đâu là tinh khí dương tụ lại mà thành thôi. Vua cũng mê hoặc mà đổi niên hiệu. Từ đấy về sau những người hiếu danh, cạo đầu làm sãi, nhẫn nại chịu chết như loại Trí Không này nhiều lắm.

Xuống tới đời Hoàng đế Lý Nhân Tôn, năm 1096, thái sư Lê Văn Thịnh làm phản, Vua Lý Nhân Tôn tha tội chết, an trí tại Thao Giang. Nguyên bấy giờ vua ngự thuyền xem đánh cá tại hồ Dâm Đàm. Chợt có mây mù, trong đám mù có tiếng thuyền bơi tới, vua lấy giáo ném. Bỗng chốc mây mù tan, trong thuyền ngự có con hổ. Có người than: Nguy lắm rồi! Có người đánh cá tên Mục Thận quăng lưới trùm lên con hổ, thì hổ biến ra thành thái sư Lê Văn Thịnh. Lê Văn Thịnh vốn có tà pháp làm ra vậy để tính truyện cướp ngôi. Vua thưởng cho Mục Thuận, và cắt đất cho lập ấp. Ngô Sĩ Liên có lời bàn về truyện này(4):

Người làm tôi định cướp ngôi giết vua mà được miễn tội chết! Thế là sai trong việc hình, lỗi ở vua tin Phật Giáo. Mùa thu tháng 7 ngày 25, Ỷ Lan hoàng thái hậu băng hà, hỏa táng; dâng thụy là Phù Thánh Linh Nhân Hoàng Thái Hậu, lại bắt người thị nữ chôn theo.

Ngô Sĩ Liên có lời bàn về việc này(5):

Hoả táng là theo Phật Giáo, chôn theo là tục nhà Tần. Nhân Tôn Hoàng Đế làm cả hai việc ấy, hoặc giả theo lời của Thái Hậu chăng?

Theo Yu Insun, lời bàn của Ngô Sĩ Liên, đặt câu hỏi về lời di chú của Ỷ Lan hoàng thái hậu, là bởi Ngô Sĩ Liên có ý bài bác vua Lý Nhân Tông vì chính nhà vua, theo tục lệ Phật Giáo, ban lệnh thi hành việc hỏa táng và việc chôn theo thị nữ của hoàng thái hậu.

So Sánh hai Sử Gia

Yu Insun cho rằng quan điểm sử học của Lê Văn Hưu và Ngô Sĩ Liên là sản phẩm của thời đại của mỗi người. Với Lê Văn Hưu, sử kiện đáng chú ý nhất là những thành tích kháng Nguyên giữ nước của triều nhà Trần. Với Ngô Sĩ Liên, một sử thần của triều nhà Lê, Khổng Học lúc đó đã trở thành một nền quốc học, thế nên giáo lý cũng như tập tục Khổng Giáo là những mối quan tâm hàng đầu. Đằng khác, Ngô Sĩ Liên đã từng sống qua hai chục năm dưới sự đô hộ của quân Minh, nên ông hiểu rõ tầm quan trọng của nền an ninh quốc nội trong việc ngăn chặn người phương Bắc xâm lấn đất nước vả duy trì nền tự chủ của nước Đại Việt.

Khác biệt giữa quan điểm sử học của hai sử thần thấy rõ qua sự khác biệt giữa những lời bàn trên cùng một sử kiện. Lời bàn của Lê Văn Hưu chú trọng tới nền an nguy của đất nước và sự bình đẳng giữa nước Nam với nước Bắc.

Ngô Sĩ Liên chỉ bàn về hai vấn đề này trong bốn sự kiện. Đằng khác, Ngô Sĩ Liên dành 11 lời bàn về giáo lý Khổng Học, Lê Văn Hưu chỉ nói tới vấn đề liên quan tới Khổng Hoc trong 5 lời bàn. Sự khác biệt giữa hai sử thần còn rõ rệt hơn nữa qua những lời bàn cùng về những sử kiện dưới triều vua Ngô Quyền và vua Đinh Bộ Lĩnh.

Lê Văn Hưu tin chắc rằng Ngô Quyền không hoàn toàn tạo dựng được nền tự chủ cho đất nước như Triệu Đà đã đặt được trước khi quân của Hán Vũ Đế sang xâm lấn, bởi chiến thắng của Ngô Quyền đã khiến nhà Hán phải bỏ mộng xâm lược, nhưng ông tiếc cho Ngô Quyền không nhân dịp đó xưng đế như Triệu Đà. Ngược lại Lê Văn Hưu ca tụng Ngô Quyền ngoài tài thống lĩnh quân đội còn giỏi tổ chức việc nội trị, tạo nên nề nếp cho đời sống nhân dân. Ông kết luận rằng với một công nghiệp như vậy, Ngô Quyền xứng đáng là một Hoàng Đế của nước Nam Việt. Lê Văn Hưu chủ xướng là Đinh Bộ Linh đã giành được nền tự chủ hoàn toàn cho đất nước, không kém gì Triệu Đà đời trước. Đinh Bộ Lĩnh đã tự xưng hoàng đế, đặt quốc hiệu mới, sửa sang giềng mối triều chính. Ngược lại, Ngô Sĩ Liên coi nhẹ công nghiệp của Đinh Tiên Hoàng, vì ông chủ trương là Ngô Quyền đã giành được hoàn toàn nền tự chủ cho Nam Việt. Ngược lai ông chỉ trích Đinh Bộ Lĩnh và con cả là hoàng tử Đinh Liễn là không hành xử theo đúng tập tục Khổng Học. Đinh Bộ Lĩnh đã vượt qua truyền thống truyền ngôi của các triều đại Trung Quốc đặt trên nền tảng Khổng Học: nhà vua đã bỏ con trưởng Đinh Liễn và lập con út là Hạng Lang lên nối ngôi. Đinh Liễn đã tùng theo cha chinh chiến nhiều năm trong việc dẹp loạn 12 xứ quân, nên tức giận lập mưu giết Hạng Lang, nên cũng không giữ tròn đạo làm tôi theo Khổng Học, đồng thời gây ra mối loạn trong nhà để người phương Bắc có cơ hội nhòm ngó bờ cõi. Người đọc sử có thể hiểu rằng lời Ngô Sĩ Liên chỉ trích cha con Đinh Bộ Lĩnh phản ảnh ý ông muốn ám chỉ trích việc tranh giành ngôi báu trong triều nhà Lê lúc bấy giờ.

Ảnh hưởng Khổng Giáo từ triều nhà Lê không những chỉ mỗi ngày một lớn mạnh trong việc triều chính mà còn thấm nhập từ từ vào trong mọi hoạt động trong dân gian, truyền qua đời nhà Nguyễn, cho tới khi người Pháp bỏ thi Hương hồi đầu thế kỷ XX mới suy giảm. Nhiều nhà sử học ngày nay cho rằng điểm triều đình các nhà Đinh, Lê, Lý và Trần tôn trọng Phật Giáo hơn Khổng Giáo là một truyền thống của người Việt Nam khác với truyền thống của người Trung Quốc lấy Khổng Giáo làm quốc giáo. Chính nhờ điểm khác biệt đó mà dân Việt Nam đã không bị Trung Quốc đồng hóa.
 
  --------------------------------
(1) Wolter, “What Else May Ngô Sĩ Liên Mean” in “Sojourners and Settlers: Histories of Southeast Asia and the Chinese”, University of Hawai Press 2001. Edited by Reid Anthony.
(2) Đoàn Trung Còn, Tứ Thơ Mạnh Tử, NXB Thuận Hóa, Huế, 1996, tr.12.
(3) Ngô Sĩ Liên, Toàn Thư, Tập 1, bản dịch của Cao Huy Gịu, NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1967, tr. 210.
(4) Ngô Sĩ Liên, ibid. tr. 242.
(5) Ngô Sĩ Liên, ibid. tr. 248.
  (Blog Bách Việt)  

Phổ cập casino: Đánh bạc quen tay, ngủ ngày quen mắt, ăn vặt quen mồm (Bài 2)

(VNTB) - Để có thể phác họa rõ hơn về hình ảnh “Khi dân cày có casino”, chúng ta cần quay trở lại với hình ảnh “Khi người cày có sân golf”.


Golf và casino: Người cày có… cả hai!

Vào năm 2009, khi số lượng sân golf do các địa phương trình lên Chính phủ tăng vọt lên đến 156 dự án, thì một nửa trong số đó đã chiếm hết khoảng 8.000 ha đất nông nghiệp.

Biểu đồ đi lên của sân golf và biểu đồ đi xuống của diện tích đất nông nghiệp là một nghịch lý không thể lý giải hoặc quá dễ phát lộ ở Việt Nam, dù tất cả những người nông dân phải chịu cảnh mất đất để phục vụ cho thói quen ăn chơi của giới thượng lưu, và hơn ai hết là giới chủ đầu tư kinh doanh sân golf và casino đều hiểu ra cái nghịch lý phũ phàng ấy. Song thời gian cứ trôi qua, cùng sự xuất hiện của hết dự án sân golf này đến dự án sân golf khác.

Vào cuối năm 2009, trước làn sóng phản đối mạnh mẽ của dư luận, bao gồm các nhà khoa học và báo chí về những “thói hư tật xấu” của sân golf như gây ảnh hưởng đến môi sinh, môi trường và “ăn” cả đất nông nghiệp, cộng với thực tế chỉ có một tỷ lệ nhỏ nhoi dự án kinh doanh sân golf có lãi, Chính phủ đã phải cắt giảm đến 76 dự án do chính quyền các địa phương trình đề nghị bổ sung cho quy hoạch sân golf đến năm 2020.

Cho tới năm 2011, một hệ quả đã được các nhà khoa học và giới phân tích dự đoán đã xảy đến với 90 dự án sân golf còn lại. Một cuộc kiểm tra của Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã kết luận có đến 69 dự án (chiếm tỷ lệ khoảng 70% số dự án) nghiêng về kinh doanh bất động sản thay vì mục tiêu ban đầu là kinh doanh sân golf.

Nguồn cơn của trào lưu sân golf đã hiện ra: chủ đầu tư lấy đất nông nghiệp của nông dân, phù phép chuyển quyền sử dụng đất thành đất phục vụ sân golf rồi từ đó biến thành đất xây biệt thự và các hạng mục dịch vụ du lịch. Trong thực tế, có dự án chỉ dành 30% diện tích để làm sân golf, còn 70% là bất động sản và những thứ liên quan đến bất động sản.

Trong khi hiện trạng hoạt động của 90 dự án sân golf vẫn không mấy thay đổi, nếu không muốn nói là ngày càng tệ thêm vì lượng khách chơi golf có khuynh hướng giảm dần và làm cho nhiều chủ đầu tư lỗ nặng, báo chí đã một lần nữa phải phản ảnh khá nhiều về nạn lạm phát sân golf. Những minh họa sống động như một xã ở Lâm Đồng phải “cõng” đến 3 sân golf, trong khi bà con nông dân người dân tộc thiểu số vẫn còn trong diện đói nghèo. Với những người nông dân này, kế sách mưu sinh của họ thật giống như mành chỉ treo chuông một khi phần đất đai ít ỏi của họ bị sân golf “nuốt” mất. Không đất đai, không có nghề nghiệp gì khác, chỉ cầm trong tay một số tiền tượng trưng mà chủ đầu tư bồi thường cho phần đất thu hồi, họ sẽ sinh sống thế nào?

Không giới chức lãnh đạo nào thèm quan tâm đến những mưu sinh “vụn vặt” ấy. Ngược lại, không khác với sự ngụy biện đối với việc xây dựng sân golf, cũng đã xuất hiện những ý kiến tô điểm cho “ích nước lợi nhà” của casino. Với nhiều chính quyền địa phương, casino là một “cứu cánh” cho du lịch bản địa. Và cũng trùng khớp với dự án sân golf, hầu hết các dự án đầu tư casino đều mô tả triển vọng sáng lạn về giải quyết công ăn việc làm cho người dân địa phương và nguồn thu nhập sẽ dồi dào hơn hẳn để “xóa đói giảm nghèo”.

Xem ra, những lý do trên có vẻ khá “hợp lý” đối với những trường hợp như Phú Yên - nơi mà từ quá nhiều năm nay đã chẳng làm được một việc gì có kết quả đáng kể để tận dụng tiềm năng du lịch sẵn có của mình, trong khi lại phải cầu cạnh đến nguồn thu nhập từ chuyện đánh bạc.
Phạm Chí Dũng
(Việt Nam Thời Báo)

TQ dùng lễ sinh nhật ông Đặng làm gì?


Người Trung Quốc rất giỏi tổ chức các lễ lạt, dịp kỷ niệm là luôn dùng chúng để diễn giải lại lịch sử nhằm hỗ trợ cho các chính sách được chọn lọc cụ thể.
Năm nay, Trung Quốc có hai đại lễ, 65 năm ngày thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (1/11/1949-2014), và 110 năm sinh nhật ông Đặng Tiểu Bình.

Ngày sinh nhật ông Đặng đang được dùng để ca ngợi những nét chính của công cuộc cải tổ, khai phóng và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đồng thời để gắn hình ảnh của ông Tập Cận Bình với cố lãnh tụ Đặng Tiểu Bình.

Hôm 20/8, tại một buổi lễ tụ tập đông đủ các lãnh đạo cao nhất của Trung Quốc để kỷ niệm ngày sinh ông Đặng, Chủ tịch Tập Cận Bình đọc diễn văn và nói:

“Kính chào Tiểu Bình. Tôi nhớ ông quá.” (Xiaoping, ni hao? Wo huainiannian).

Thực ra, ông chỉ nhắc lại lời của sinh viên Trung Quốc năm 1984, vào thời điểm uy tín của ông Đặng lên đỉnh cao.

Sau khi ông Tập kết thúc bài diễn văn, cử tọa đã vỗ tay không ngừng.
Sự nghiệp cải cách

Để mừng sinh nhật cố lãnh tụ Đặng Tiểu Bình, truyền hình Trung Quốc còn tung ra phim 48 tập về sự nghiệp cải tổ Trung Quốc của ông.

Phim nhanh chóng trở thành tâm điểm của các cuộc trò chuyện tại Bắc Kinh trong giới quan tâm thời sự.
Các ông Hoa Quốc Phòng, Diệp Kiếm Anh và Đặng Tiểu Bình tháng 7/1977
Diễn viên đóng vai ông Đặng nói giọng Tứ Xuyên nhưng theo một số sử gia của Đảng Cộng sản thì người này lại không đủ độ tự tin để diễn tả tầm vóc lãnh đạo của ông Đặng.

Thế nhưng bộ phim truyền hình đã nhắc giới trẻ Trung Quốc lớn lên sau 1978 về công cuộc cải tổ táo bạo do ông Đặng khởi xướng mà chỉ trong 14 năm đã thay đổi diện mạo đất nước.

Vì tập trung vào giai đoạn 1978-1984, phim đã né tránh các chủ đề nhạy cảm như vụ trấn áp năm 1989, đưa đến thảm kịch Thiên An Môn.

Tuy thế phim cũng là bước ngoặt cho công chúng nhìn thấy vai trò tích cực của ông Hoa Quốc Phong, nhà lãnh đạo giao thời từ 1976 đến 1978, và là người trên thực tế đã ủng hộ một số thay đổi sau khi Mao Trạch Đông chết.

Phim cũng nói tốt về ông Hồ Diệu Bang, vị tổng bí thư được dân mến mộ và là gương mặt nhân tính của tuyến đầu cải cách từ 1977 đến 1987.

Nhưng cách ca ngợi ông Đặng còn phản ánh quan niệm rộng rãi trong giới sử gia Trung Quốc và quan chức cao cấp trong những ngày đầu Khai phóng rằng nếu không có sự lãnh đạo vững vàng của ông Đặng thì Trung Quốc khó mà thành công như ngày nay.

Quả là không ai khác có được cả hai yếu tố kinh nghiệm và tính cách cho phép Đặng nắm quyền chắc chắn từ 1978 đến 1992.

Không chỉ tham gia cách mạng từ đầu thập niên 1920, ông còn sống năm năm bên Pháp, một năm ở Liên Xô và là làm tư lệnh quân sự trong suốt 12 năm Kháng Nhật và Nội chiến Quốc – Cộng.

Ông cũng từng làm tổng bí thư Đảng 10 năm, và hai năm trên thực tế là phụ trách ngoại giao.

Không chỉ là cánh tay phải của Mao và Chu Ân Lai và biết rất rõ chính sách của họ, ông cũng có khả năng kết nối, trao đổi dễ dàng với các lãnh đạo quốc tế và được họ công nhận là người luôn có cách giải quyết thực tiễn.

Đặng Tiểu Bình cũng có bản năng chính trị, sự tự tin và quan hệ riêng để giải quyết nhiều vấn đề tế nhị.
'Tìm đá qua sông'
Vì tập trung vào giai đoạn 1978-1984, phim đã né tránh các chủ đề nhạy cảm như vụ trấn áp năm 1989, đưa đến thảm kịch Thiên An Môn"
Nhưng sự nghiệp của ông cũng ‘hết lên voi lại xuống chó’, và cuộc thanh trừng thời Cách mạng Văn hóa khiến ông suy tư nhiều về các vấn đề của chính hệ thống ông tham gia dựng lên, và suy nghĩ về các hướng đi tương lai, dù phải lần mò tìm lối.

Cách nhìn của Đặng về nhu cầu thay đổi Trung Quốc không có gì là độc đáo. Nhiều quan chức cao cấp từng bị hành hạ thời Cách mạng Văn hóa cũng ủng hộ nhu cầu phải làm sao thay đổi và đổi như thế nào.

Nhưng nhiều trí thức Trung Quốc và cả giới quan sát nước ngoài nay tin rằng Trung Quốc có thể đã mạnh hơn nếu Đặng cho phép tăng thêm dân chủ, thêm cơ chế quyền lực minh bạch, thêm yếu tố pháp quyền và thêm tự do cho các nhóm thiểu số.

Cùng lúc, nhiều nhà lãnh đạo Trung Quốc lại tin rằng nếu không nhờ bàn tay rắn của ông Đặng, Trung Quốc có thể đã không giữ được sự thống nhất.

Nhưng dù người ta mong muốn gì thì không ai có thể quay lại chỉnh sửa lịch sử.

Đặng được coi là kiến trúc sư của cải cách, mở cửa nhưng thực ra ông chưa hề có một kế hoạch rõ rệt.

Ông phát triển dần một phương thức cầm quyền hiệu quả khi ông cho Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương phụ trách tuyến đầu và tham gia không ít cuộc họp cao cấp.

Nhưng bản thân ông mỗi ngày vẫn bỏ ra vài tiếng đọc các báo cáo và đề ra ý kiến chỉ đạo.

Đặng đã tạo ra một cơ chế mới, chuyển Đảng Cộng sản từ một đảng Cách mạng sang thành Đảng cầm quyền.

Ông cũng phá vỡ sự kìm kẹp của cấu trúc xã hội chủ nghĩa cứng nhắc, mở cửa thị trường, biến đổi Trung Quốc từ một quốc gia khép kín thành nước tham gia mạnh vào thương mại và chính trị quốc tế.

Tập Cận Bình ngày nay đang vận hành trong chính các chiều kích do Đặng định ra.

Ông Tập sẽ không thể nào thay đổi cơ bản và điều khiển được các thay đổi cơ bản như Đặng đã làm.

Nhưng nhập vào vai như người theo khuôn mẫu của Đặng, ông muốn tỏ ra là nhà lãnh đạo mạnh nhất sau Đặng.

Ông ra tay mạnh mẽ bằng chiến dịch chống tham nhũng và nhiều người Trung Quốc nghĩ rằng ông có tiềm năng để quản trị Trung Quốc qua giai đoạn chuyển đổi khó khăn vì tăng trưởng tụt, và nỗ lực kiểm soát thông tin hạn chế giao lưu công nghệ, và những đòi hỏi có chế độ pháp quyền, và nhiều tự do hơn không hề giảm đi.

Trong và ngoài Trung Quốc, nhiều người hy vọng ông Tập sẽ giữ được quan hệ quốc tế hòa bình và tốt cùng với nhịp phát triển khiến Trung Quốc ngày một mạnh hơn, theo lời khuyên ‘Thao quang dưỡng hối’ của ông Đặng.

Nhưng cũng nhiều người Trung Quốc lại than phiền về tình trạng đất nước ngày nay và đổ mọi lỗi cho Đặng dù đa số họ sẽ không đổi cuộc sống hôm nay mà họ đang thụ hưởng để lấy cuộc sống cha mẹ họ chịu đựng trước tháng 12/1978.
Ezra Vogel
Gửi tới BBC từ Hoa Kỳ
Ông Ezra Vogel từ Đại học Harvard là tác giả cuốn ‘Deng Xiaoping and the Transformation of China’ (2011).
(BBC)
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét