Tổng số lượt xem trang

Thứ Bảy, 16 tháng 11, 2013

Lượm lặt - LỜI KÊU GỌI DỪNG VIỆC THÔNG QUA DỰ THẢO HIẾN PHÁP NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM NĂM 1992 (SỬA ĐỔI 2013)

CHÍNH TRỊ-PHÁP LUẬT
- ĐBQH BÀY TỎ Ý KIẾN VỀ VIỆC CHỌN CON ĐƯỜNG MANG TÊN VÕ NGUYÊN GIÁP: Nhiều ý kiến đề xuất quốc lộ 6 (LĐ).
KINH TẾ
VĂN HÓA-THỂ THAO
GIÁO DỤC-KHOA HỌC
XÃ HỘI-MÔI TRƯỜNG
QUỐC TẾ 

2108. BASHAR AL-ASSAD: “CUỐI CÙNG THÌ LỜI NÓI DỐI VẪN CHỈ LÀ LỜI NÓI DỐI”

THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt)
Thứ Ba, ngày 12/11/2013
(Tạp chí Der Spiegel – s 41/2013)
Trong buổi trả lời phỏng vấn báo Spiegel, Tổng thống Syria Bashar al-Assad đã thảo luận về cuộc chiến giành quyền lực, kho vũ khí hủy diệt hàng loạt của ông và những kỳ vọng đặc biệt của ông đối với Đức.
Spiegel (+): Thưa Tổng thống, ông có yêu đất nước mình không?
Assad (-): Đó là một vấn đề đơn giản, rõ ràng. Tất nhiên rồi. Đã là con người thì đều yêu cội nguồn của mình. Nhưng đó không chỉ là một vấn đề về mối quan hệ tình cảm. Nó cũng liên quan đến việc anh, với tư cách một con người, có thể làm gì cho quê hương mình, đặc biệt là khi anh đang ở vị trí nhà cầm quyền, Điều đó trở nên đặc biệt rõ ràng trong những khoảng thời gian khủng hoảng. Ngay bây giờ, vào thời điểm mà tôi phải bảo vệ đất nước mình, tôi cảm nhận được tôi yêu đất nước mình đến thế nào.
+ Nếu ông là một người yêu nước thật sự, ông có từ chức và mở đường cho các cuộc đàm phán về một chính phủ lâm thời hoặc lệnh ngừng bắn với phe đối lập vũ trang không?
 - Người Syria sẽ quyết định số phận của tôi. Đó không phải là một vấn đề mà bất cứ bên nào khác có thể quyết định, Những phe phái này là ai? Họ đại diện cho ai? Người dân Syria? ít nhất là một bộ phận người dân Syria? Nếu đúng là như vậy, hãy đi đến hòm phiểu.
+ Ông có sẵn sàng ra tranh cử không?
- Nhiệm kỳ thứ hai của tôi sẽ kết thúc vào tháng 8 tới. Chúng tôi sẽ tổ chức cuộc bầu cử tổng thống hai tháng trước đó. Vào thời điểm này tôi chưa thể quyết định được liệu mình có ra ứng cử không, vẫn còn quá sớm vì tôi phải thăm dò tâm trạng và mong muốn của người dân. Nếu tôi biết rằng tôi không còn được người dân mong đợi nữa, tôi sẽ không ra ứng cử
+ Như vậy là ông đang thực sự tính đến việc từ bỏ quyền lực?
- Dù tôi có là người cởi mở hay không, việc này phụ thuộc vào quyết định của người dân, bởi đây là đất nước của họ. Không phải là đất nước của riêng tôi.
+ Nhưng ông là lý do cho sự nổi dậy. Người dân muốn xóa bỏ nạn tham nhũng và chế độ chuyên quyền. Họ đang kêu gọi một nền dân chủ thực sự và phe đối lập tin rằng điều này chỉ khả thi nếu ông từ chức.
- Lại một lần nữa, khi ông nói với tôi về các phe phái, dù họ là phe đối lập hay những người ủng hộ, ông phải tự hỏi bản thân rằng: họ đại diện cho ai? Cho chính họ hay đất nước đã làm nên họ? Hay họ đang nói thay cho Mỹ, Anh, Pháp, Saudi Arabia hay Qatar? Câu trả lời của tôi ở đây phải thẳng thắn và đúng trọng tâm. Cuộc xung đột xẩy ra với đất nước chúng tôi có nguồn gốc từ nước ngoài. Những người này sống ở nước ngoài, họ sống trong những khách sạn 5 sao, họ nói và làm những điều những đất nước này yêu cầu họ làm. Nhưng họ không có cơ sở ở Syria.
+ Vậy ông ngờ rằng có một phe đối lập mạnh mẽ chống lại ông ở Syria?
- Điều đó là bình thường. Nếu tôi không có người phản đối, có nghĩa là mọi người dân đều ủng hộ tôi, và điều này là không thể.
+ Nhưng chúng tôi không phải là những người duy nhất nghi ngờ tính hợp pháp của ông. Trong cuộc họp Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc vào cuối tháng 9/2013, Tổng thống Mỹ Barack Obama đã nói rằng: “Một nhà lãnh đạo tàn sát người dân của mình và thả khí độc vào những đứa trẻ cho tới chết không thể giành lại được tính hợp pháp để đứng đầu một đất nước bị rạn nứt sâu sắc”.
- Thứ nhất, ông đang nói về Tổng thống Mỹ, không phải Tổng thống Syria – như vậy ông ấy chỉ có thế nói về đất nước của ông ấy. Ông ấy không có tính hợp pháp để phán xét Syria. Ông ấy cũng không có quyền nói với người dân Syria rằng ai sẽ là tổng thống của họ. Thứ hai, những gì ông ấy nói không liên quan gì đến thực tế. Ông ấy đã nói những điều giống hệt nhau – rằng tổng thống phải từ chức – trong vòng một năm rưỡi rồi. Đã có bất cứ điều gì xẩy ra chưa? Không có gì cả.
+ Theo quan điểm của chúng tôi, dường như ông giống với người đang phớt lờ thực tế hơn. Nếu từ chức, ông sẽ tránh cho người dân của mình khỏi rất nhiều đau khố.
- Toàn bộ vấn đề không phải là về tổng thống. Cái đang cướp đi sinh mạng của những người vô tội, những vụ nổ và chủ nghĩa khủng bố mà al-Qaeda mang đến nước này liên quan đến việc cầm quyền của tôi hay sao?
+ Điều đó liên quan đến tổng thống bởi vì binh lính và các cơ quan tình báo của ông chịu một phần trách nhiệm cho những nỗi kinh hoàng này. Đó là trách nhiệm của ông.
- Quyết định của chúng tôi ngay từ đầu là đáp ứng nhu cầu của những người biểu tình mặc dù họ không phải là những người biểu tình hòa bình thực sự ngay từ đầu. Chúng tôi đã mất đi các binh lính và cảnh sát trong những tuần đầu tiên. Tuy nhiên, một ủy ban đã thay đổi hiến pháp (để phản ánh những mối quan tâm của những người phản kháng), và sau đó là một cuộc trưng cầu dân ý. Nhưng chúng tôi cũng phải đấu tranh với chủ nghĩa khủng bố để bảo vệ đất nước mình. Tôi thừa nhận đã có những sai lầm khi thực thi quyết định này.
+ Các nạn nhân trong các cuộc phản kháng đầu tiên ở Daraa, nơi mà phong trào nổi dậy bắt đầu, phần lớn là những người phản kháng, đã bị đánh đập và bị bắn. Sự tàn nhẫn này là lỗi lầm của chế độ ông.
- Dù làm gì và ở bất kỳ đâu, anh đều có thể mắc sại lầm. Chúng ta là con người.
+ Vậy ông thừa nhận rằng sự tàn nhẫn nhằm vào những người phản kháng là một sai lầm?
- Có những sai lầm cá nhân do cá nhân ấy tự gây nên. Tất cả chúng ta đều mắc sai lầm. Ngay cả một tổng thống cũng mắc sai lầm. Nhưng mặc dù đã mắc nhiều sai lầm trong quá trình thực hiện, nhưng quyết định của chúng tôi về cơ bản vẫn đúng đăn.
+ Cuộc thảm sát ở Houla có phải chỉ là kết quả của những sai lầm cá nhân không?
- Chính các băng nhóm và các phần tử hiếu chiến đã tấn công dân
làng không bao giờ là chính phủ hay những người ủng hộ chính phủ. Đó chính xác là những gì đã diễn ra. Và nếu ông cần bằng chứng, không ai có được bằng chứng chống lại điều này. Sự thật là những người ủng hộ chúng tôi mới là những người bị giết, và chúng tôi có tên của gia đình các nạn nhân bởi vì họ ủng hộ đường lối chống khủng bố của chúng tôi.
+ Chúng tôi có rất nhiều bằng chứng. Các nhà báo của chúng tôi đã có mặt ở Houla, nơi họ thực hiện những nghiên cứu chi tiết và nói chuyện với những người sống sót và người thân của các nạn nhân. Các chuyên gia Liên Hợp Quốc cũng đã đi đến kết luận rằng 108 dân làng bị giết, bao gồm 49 trẻ em và 34 phụ nữ, là nạn nhân của chế độ. Vậy tại sao ông có thể chối bỏ trách nhiệm và đổ lỗi cho những người mà ông gọi là khủng bố?
- Với tất cả sự tôn trọng đúng mực dành cho những bản báo cáo của các ông, chúng tôi là người Syria. Chúng tôi sống ở đây và chúng tôi hiểu thực tế rõ hơn các nhà báo của các ông. Chúng tôi biết điều gì là thật và chúng tôi có thể chứng minh bằng các tài liệu.
+ Các thủ phạm là một phần của Shabiha, một lực lượng dân quân thân thiết với chế độ của ông.
- Thẳng thắn mà nói, câu hỏi của ông đầy những phát biểu sai lầm. Dù ông nói thế nào đi nữa, cuối cùng thì lời nói dối vẫn chỉ là lời nói dối. Vì vậy, những gì ông nói là không đúng.
+ Vậy ông phủ nhận việc lực lượng dân quân Shabiha có liên quan?
- Ông nói “Shabiha” có ý là gì?
+ Lực lượng dân quân này, “những con quỷ dữ”, là những người thân thiết với chế độ của ông.
- Đây là một cái tên Thổ Nhĩ Kỳ. Chẳng có gì được gọi là “Shabiha” ở Syria cả. Ở nhiều khu vực xa xôi, nơi mà quân đội và cảnh sát không thể tới, cứu người dân và bảo vệ họ, người dân đã mua vũ khí và thành lập những lực lượng nhỏ để bảo vệ chính họ khỏi những cuộc tấn công của các phần tử hiếu chiến. Một vài người trong số đó đã chiến đấu với quân đội, điều này là có thật. Nhưng họ không phải là các lực lượng dân quân được thành lập để hỗ trợ tổng thống, vấn đề ở đây là đất nước họ và họ muốn bảo vệ đất nước mình khỏi al-Qaeda.
+ Như vậy các cuộc tàn sát và khủng bố là do một bên khác thực hiện? Lực lượng dân quân, an ninh và tình báo bí mật của ông không liên quan đến việc này?
- Ông không thể cực đoan và làm cho mọi thứ trở nên tuyệt đối – họ đã làm tất cả, chúng tôi không làm gì, 100% và 0%. Thực tế không đen trắng rõ ràng như vậy. Nó còn có những sắc thái màu xám. Vì vậy nếu ông muốn nói về phía chúng tôi, về những quyết định của chúng tôi thì chúng tôi đang bảo vệ đất nước mình. Các sai lầm thuộc về cá nhân và với tư cách tổng thống, tôi sẽ không tranh luận về những lỗi lầm cá nhân bởi vì có đến 23 triệu người Syria. Nước nào cũng có tội phạm, những người mà chúng ta phải chống lại. Họ có thế tồn tại ở bất cứ đâu, bao gồm cả chính phủ hay quân đội – hoặc bên ngoài chính phủ và quân đội. Điều này hết sức bình thường, nhưng chúng tôi không có đủ thông tin về điều này. Ông đề nghị tôi đưa ra một kết luận khái quát nhưng tôi không thể làm được.
+ Tính hợp pháp của tổng thống không phải là vấn đề của những lời nói suông và những tuyên bố. Ông được đánh giá bằng hành động của mình. Qua việc triển khai vũ khí học chống lại người dân của chính mình, ông đã hoàn toàn mất đi tính hợp pháp để tiếp tục cầm quyền.
- Chúng tôi không sử dụng vũ khí hóa học. Đây là một tuyên bố sai lầm. Và ông miêu tả tôi là người giết chết chính những người dân của mình? Còn ai không chống lại tôi? Các ông có Mỹ, phương Tây, những nước giàu có ở thế giới Arập và Thổ Nhĩ Kỳ. Với tất cả những điều này và tôi đang giết người dân của mình và họ vẫn ủng hộ tôi! Tôi là siêu nhân chắc? Không. Làm Sao tôi có thể tiếp tục cầm quyền sau 2 năm rưỡi? Vì một bộ phận lớn người Syria ủng hộ tôi, chính phủ và nhà nước. Liệu con số ấy lớn hơn hay nhỏ hơn 50%? Tôi không nói rằng là con số lớn hơn. Nhưng một bộ phận lớn có nghĩa là tôi có tính hợp pháp. Điều đó rất đơn giản. Và liệu có nhà lãnh đạo nào khác có được tính hợp pháp tương tự hay không?
+ Sau cuộc điều tra của Liên Hợp Quốc đối với tội ác này, Tổng thống Obama đã nói rằng không nghi ngờ gì, chính chế độ của ông đã sử dụng vũ khí hóa học trong cuộc tấn công ngày 21/8/2013, đã lấy đi sinh mạng của hơn 1.000 người.
- Một lần nữa, tôi dám chắc rằng Obama chỉ đưa ra được một phần bằng chúng, một phần rất nhỏ. Cái duy nhất ông ấy có là những lời nói dối.
+ Nhưng kết luận của các thanh tra viên Liên Hợp Quốc…
- Kết luận nào? Khi các thanh tra viên đến Syria, chúng tôi đã đề nghị họ tiếp tục cuộc điều tra. Chúng tôi mong chờ một lời giải thích từ những người có trách nhiệm với hành động này.
+ Dựa vào quỹ đạo của các quả rốc két, có thể tính toán được chúng được bắn đi từ đâu – cụ thể là các vị trí của Sư đoàn thứ tư của ông.
- Điều đó không chứng minh được gì vì những kẻ khủng bố có thể ở bất kỳ đâu. Các ông có thể tìm thấy chúng ở Damacus ngay bây giờ. Chúng thậm chí có thể phóng tên lửa từ những nơi gần nhà tôi.
+ Nhưng các phần tử đối lập không thể bắn đi vũ khí chứa khí độc sarin. Loại khí độc này đòi hỏi sự trang bị, huấn luyện và chính xác của quân đội.
- Ai nói rằng họ không thể? Trong những năm 1990, các phần tử khủng bố đã sử dụng khí độc sarin trong một cuộc tấn công vào Tokyo. Chúng gọi khí này là “khí độc nhà bếp” vì nó có thể được chế tạo ở bất kỳ đâu.
+ Nhưng thực sự ông không thể so sánh hai cuộc tấn công bằng khí độc sarin này được – chúng không tương xứng. Đây là một hành động của quân đội.
- Không ai có thể dám chắc rằng các quả rốc két đã được sử dụng  chúng tôi không có bất cứ bằng chứng nào. Điều duy nhất chắc chắn là khí độc sarin đã được thả. Có thể điều này đã xẩy ra khi những quả tên lửa của chúng tôi đánh vào một trong những vị trí của các phần tử khủng bố? Hay có thể họ đã mắc lỗi trong quá trình xử lý nó và một điều gì đó đã xẩy ra. Bởi vì họ có sarin – họ đã sử dụng loại khí độc này tại Aleppo trước đây.
“Phương Tây tin vào al-Qaeda hơn tôi”
+ Tổng cộng đã phát hiện 14 trường hợp sử dụng vũ khí hóa học, nhưng trước đây chúng chưa một lần nào được sử dụng trên quy mô lớn như trong tháng 8. Trên thực tế ông đã bắt đầu cuộc điều tra của riêng mình chưa?
- Bất cứ cuộc điều tra nào đều nên bắt đầu với việc xác định số nạn nhân thực sự. Các tay súng nói rằng có 350 nạn nhân, Mỹ nói 1200 nạn nhân, về cơ bản, có điều gì đó không đúng. Cũng có những điểm không nhất quán trong các bức ảnh. Một trong những đứa trẻ bị thiệt mạng có thể được nhìn thấy ở hai địa điểm khác nhau trong hai bức ảnh khác nhau. Tôi muốn nói rằng các ông phải xác minh lại trường hợp này một cách thật chính xác, nhưng đến nay vẫn chưa ai thực hiện. Chúng tôi cũng không thể làm được việc này vì đó là khu vực của quân khủng bố.
+ Qúa gần với thủ đô?
- Chúng ở rất gần Damascus và rất gần các doanh trại quân đội của chúng tôi. Chúng có thể giết binh lính của chúng tôi và điều đó không thể được phép xẩy ra.
+ Ông có nghĩ rằng ông có thể giành lại phần đất đã mất của mình không?
- Cuộc chiến của chúng tôi không liên quan đến việc giành được hay đánh mất đất đai. Chúng tôi không phải hai nước mà trong đó một nước chiếm đóng một phần của nước khác, như Israel đã làm với Cao nguyên Golan của chúng tôi. Nó liên quan đến việc loại bỏ những phần tử khủng bố. Nếu chúng tội buông một phần mảnh đất này – và đó là điều đang diễn ra tại nhiều khu vực ở Syria – nó không đồng nghĩa với việc các ông thắng thế, bởi vì những kẻ khủng bố sẽ đến một khu vực khác và phá hủy nó. Nếu người dân ủng hộ chúng tôi thì chúng tôi đang thành công.
+ Các cơ quan tình báo phương Tây đã nghe trộm những cuộc điện thoại từ các sĩ quan của ông, trong đó họ thúc giục ban lãnh đạo sử dụng vũ khí hóa học.
- Điều đó là hoàn toàn bịa đặt. Tôi không muốn cuộc đối thoại của chúng ta dựa trên những cáo buộc như vậy.
+ Việc chúng tôi ở phương Tây có cách nhìn nhận khác biệt như vậy về tình hình có gây khó chịu cho ông không?
- Nói về việc hiểu tình hình thực tế, khu vực của ông luôn đến muộn. Khi chúng tôi nói về những cuộc phản kháng bạo lực, các ông vẫn nói về “những cuộc biểu tình hòa bình”. Và khi chúng tôi bắt đầu nói về những kẻ cực đoan, các ông bắt đầu nói về “một số” phân tử hiếu chiến. Khi các ông nói về những kẻ cực đoan thì lúc đó chúng tôi đang nói về al Qaeda rồi. Sau đó họ bắt đầu nói về “một số” kẻ khủng bố vào thời điểm chúng tôi đang nói về đa số phần tử khủng bố. Hiện nay họ bắt đầu nói về việc nó đã trở thành tỷ lệ 50-50. Tất nhiên John Kerry thì còn đang sợ quá khứ – ông ấy đang nói về con số 20%.
+ Liệu có phải vì chúng tôi thiếu niềm tin ở ông nên chúng tôi mới do dự trong việc nghe theo những đánh giá tình hình của ông? Và ông giải thích thế nào về sự thiếu niềm tin này?
- Đối với tôi, dường như phương Tây tin vào ai-Qaeda hơn tôi.
+ Điều này thật vô lý.
- Không thưa ông, đây là sự tự do thể hiện. Đó là ý kiến của tôi. Tôi đang trao đổi với ông một cách thẳng thắn. Tất cả những gì mà phương Tây làm trong vòng 10 năm qua đã truyền sức mạnh cho al-Qaeda. Có thể họ không có ý định như vậy, nhưng trên thực tế điều đó đã xẩy ra. Vì vậy nên hiện nạy chúng tôi mới có al-Qaeda ở đây, với các chiến binh đến từ 80 quốc gia. Chúng tôi phải đối phó với hàng vạn chiến binh. Do đó tôi đang nói về những người nước ngoài.
+ Ông đã mất nhiều binh lính, những người đang chạy sang phe
Đối lập. Ông đang cố gắng nói với chúng tôi rằng họ đang trở thành những người ủng hộ al-Qaeda chỉ trong một sớm một chiều sao?
- Không. Tôi không nói rằng tất cả giờ đây đều là al-Qaeda. Tôi nói là đa số.Thiểu số bao gồm những người đảo ngũ và những người sống ngoài vòng pháp luật. Khi bắt đầu cuộc khủng hoảng, 60.000 người dân Syria sống ngoài vòng pháp luật tự do đi lại mà không bị bắt giam. Chỉ riêng những người này thôi đã đủ để tạo thành một đội quân rồi. Tôi không thể nói với ông con số những người đang chiến đấu chống lại chúng tôi bởi vì hầu hết trong số họ đều nhập cảnh bất hợp pháp qua đường biên giới. Họ đến Syria để đến với thiên đường trong cuộc thánh chiến của họ chống lại những người vô thần và những người không theo Hồi giáo. Ngay dù các ông loại bỏ được hang nghìn người trong số họ, họ sẽ vẫn có được nguồn cung ứng liên tục từ nước ngoài.
+ Và ông vẫn nghĩ ông có cơ hội giành chiến thắng trong cuộc chiến này?
- Ngay dù chúng tôi không có cơ hội, chúng tôi không có bất cứ sự lựa chọn nào khác ngoài chiến đấu và bảo vệ đất nước mình.
+ Chúng ta hãy quay trở lại vấn đề vũ khí hóa học. Chúng tôi muốn nhắc ông nhớ rằng ông luôn phủ nhận việc sở hữu vũ khí hóa học. Nhưng hiện nay, sau những tội ác chống lại loài người vào ngầy 21/8 và mối đe dọa về một cuộc tấn công quân sự của Mỹ, ông đã thừa nhận việc sở hữu chúng.
- Chúng tôi chưa bao giờ nói rằng chúng tôi không có vũ khí hóa học. Chúng tôi luôn nói rằng: “Nếu chúng tôi có, thì”…?
+ Vũ khí hóa học không phải là lý do để cười, nhưng chúng ta chẳng thể làm gì khác.
- Trong bất cứ trường hợp nào, chúng tôi không bao giờ nói dối.
+ Có bằng chứng cho rằng các công ty của Đức đã chuyển giao chất hóa học cho Syria và chúng cũng có thể được sử dụng để sản xuất vũ khí hóa học. Ông có nhiều chi tiết hơn về vấn đề này không?
- Không, tôi không biết. Việc đó không liên quan đến tôi. Nhưng về nguyên tắc, đối với vấn đề sản xuất vũ khí, chúng tôi không nhận được bất cứ sự giúp đỡ nào từ nước ngoài. Chúng tôi cũng không cần. Chúng tôi là chuyên gia trong lĩnh vực này.
+ Hiện nay ông có sẵn để sử dụng bao nhiêu tấn sarin hoặc các vũ khí hóa học khác?
- Đó là thông tin mật cho đến khi chúng tôi gửi cho Tổ chức cấm phổ biến vu khí hóa học (OPCW).
+ Theo chúng tôi được biết các cơ quan tình báo phương Tây nghi ngờ có một nghìn tấn.
- Rốt cuộc, đó là vấn đề khái niệm, không phải về “hàng tấn”. Chúng ta đặt ra nguyên tắc rằng chúng tôi có vũ khí hóa học, nhưng chúng tôi nghĩ rằng Trung Đông phải là khu vực không có vũ khí hủy diệt hàng loạt.
+ Đó cũng là một vấn đề về lòng tin. Nếu ông thừa nhận việc sở hữu 45 kho dự trữ những loại vũ khí như vậy, làm thế nào để chúng tôi biết rằng điều đó là đúng.
- Tổng thống không làm việc với những con số ông ấy giải quyết vấn đề chính sách. Chúng tôi rất minh bạch. Các chuyên gia có thể đi tới mọi địa điểm. Họ sẽ có tất cả dữ liệu từ chính phủ của chúng tôi, và sau đó họ sẽ tiến hành xác minh những dữ liệu đó tại địa bàn. Sau đó họ mới có thể nói rằng chúng tôi đáng tin cậy hay không. Chúng tôi không chấp nhận hay cam kết một phần đối với bất cứ thỏa thuận nào. Đây là lịch sử của chúng tôi. Mặc dù vậy, chúng tôi không có ý định chi trả cho việc phá hủy vũ khí hóa học.
+ Liệu cộng đồng quốc tế có bắt buộc phải tin rằng ông không có những kho dự trữ bí mật không?
- Trong quan hệ quốc tế, không có gì được gọi là niềm tin; chỉ có những thứ được gọi là cơ chế. Họ không phải tin tưởng bản thân tôi. Điều đáng quan tâm là các thể chế hợp tác với nhau  - chính quyền của tôi và OPCW – và nếu tôi có được niềm tin của người dân Syria. Tôi không được tạo nên bởi phương Tây. Tôi được tạo nên bởi người Syria.
+ Ông không cần đến phương Tây?
- Tất nhiên là chúng tôi cần chứ, nhưng không phải là để thay thế người dân Syria, và cũng không phải để thay cho những người bạn đích thực của chúng tôi như người Nga. Người Nga hiểu thực tế ở đây hơn rất nhiều. Không phải tôi đang tán dương họ vì chúng tôi có mối quan hệ lâu dài. Họ độc lập hơn châu Âu, những người bị hướng theo chính sách của Mỹ quá mức.
+ Người Nga chỉ quan tâm đến những lợi ích chiến lược của họ.
- Ông có thể thảo luận điều này với Tổng thống Vladimir Putin. Nhưng để tôi nói điều này: Một số người dân châu Âu, qua nhiều kênh khác nhau đã nói với chúng tôi rằng họ tin vào quan điểm và những phân tích của chúng tôi nhưng không thể bầy tỏ một cách công khai.
+ Vậy điều này cũng đúng với việc ông mô tả về cuộc tấn công bằng vũ khí hóa học chứ?
- Những lời nói dối của Obama thậm chí còn không thuyết phục được người dân Mỹ. Theo một cuộc khảo sát, 51% số người được hỏi phản đối một cuộc tấn công quân sự vào Syria. Quốc hội Anh cũng phản đối. Nghị viện Pháp đã có một chút tranh cãi về vấn đề này. Bầu không khí chung ở châu Âu đều chống lại một cuộc tấn công như vậy, Tại sao? Bởi vì đa số đều không tin vào câu chuyện của Obama.
+ Bất cứ cuộc tiếp xúc với châu Âu nào mà ông tiếp tục duy trì là từ Đức chứ?
- Chúng tôi có quan hệ với một số thể chế, và gần đây đã sử dụng những kênh chưa từng có trước đây. Chúng tôi trao đổi một số thông tin nhưng không thể nói rằng chúng tôi có các quan hệ chính trị.
+ Đức có đóng vai trò đặc biệt với ông không?
- Khi nghĩ về châu Âu, tôi tự hỏi nước nào gần với thực tế ở khu vực của tôi nhất? Mọi lập trường của châu Âu đều xa với thực tế của chúng tôi. Đức và Áo có mục tiêu và lập trường gần nhất với thực tế tại đây. Lập trường của Đức là gần hơn cả.
+ Đức có thể đảm nhiệm vai trò trung gian không?
- Tất nhiên là có, tôi rất mong được nhìn thấy các đặc phái viên của Đức đến Syria để xem xét và thảo luận về thực tế hiện nay. Đến đây không có nghĩa là các ông ủng hộ chính phủ. Nhưng nếu các ông đến đây, các ông có thể làm, có thể nói, có thể thảo luận và có thể thuyết phục. Nếu các ông tin rằng các ông phải cô lập chúng tôi, các ông chỉ có thể kết thúc bằng việc cô lập chính mình. Điều này cũng liên quan đến những lợi ích của các ông: Các ông có thực sự muốn một “sân sau” đầy rẫy al-Qaeda không? Khi nào thì các ông ủng hộ sự ổn định ở đây? Sau hai năm rưỡi, các ông nên cân nhắc lại các chính sách của mình.
+ Trước tình hình bất ổn trong nước, các kho vũ khí hóa học có nằm trong tầm kiểm soát của ông không?
- Tất nhiên rồi, hoàn toàn nằm trong tầm kiểm soát. Bởi vì để tôi nói với ông điều này: những nguyên vật liệu nằm trong kho có thể được bất cứ quân đội thông thường nào sử dụng, đều không tồn tại dưới dạng được kích hoạt. Vì vậy không một ai có thể sử dụng chúng trước khi được kích hoạt.
+ Việc các kho dự trữ chứa các vũ khí sinh học, cũng thuộc sở hữu của ông có phải là thật?
- Đây là thông tin mật. Chúng tôi không bao giờ thảo luận về những thông tin quân sự mật, nhưng điều này không nên được hiểu là lời xác nhận rằng chúng tôi sở hữu chúng.
+ Ông có hiểu nỗi lo sợ của cộng đồng quốc tế rằng những vũ khí hủy diệt hàng loạt có thể rơi vào tay quân khủng bố?
- Tình hình hiện nay không tồi tệ như những gì chúng ta nhìn thấy trên truyền thông và phương Tây. Vì vậy không cần phải lo lắng thái quá.
“Chúng tôi không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc tin tưng vào chiến thắng của mình”
+ Theo thông tin của chúng tôi, phe đối lập vũ trang kiểm soát ít nhất 40% Syria, và một số tính toán khác thậm chí còn đưa ra con số cao hơn – 2/3 nước này.
- Những con số này thật phóng đại. 60% Syria là sa mạc. Ai sống ở sa mạc? Không một ai cả. Đối với phần còn lại của nước này, họ không kiểm soát trọn vẹn một khu vực nào cả.
+ Điều này không đúng với khu vực dọc theo biên giới Thổ Nhĩ Kỳ.
- Họ có mặt ở biên giới giáp với Thổ Nhĩ Kỳ ở phía Bắc thành phố Aleppo, nhưng chỉ ở phần đó, không phải tất cả. Họ kiểm soát một số khu vực nhưng chỉ là một số trọng điểm. Chúng tôi không nói về một mặt trận. Đôi khi họ bị cô lập ở những khu vực không có quân đội chiến đấu với họ. Nhưng đây không phải là về vấn đề phần trăm. Sự đoàn kết của dân chúng quan trọng với chúng tôi hơn rất nhiều. Và sự đoàn kết này đang gia tăng bởi vì nhiều người không muốn những kẻ khủng bố phá hủy đất nước mình thêm nữa.
+ Sự tàn bạo của cuộc xung đột đã biến 25% dân số nước này – khoảng 6 triệu người – trở thành người tị nạn.
- Chúng tôi không có con số chính xác. Ngay cả 4 triệu cũng có thể là bị phóng đại rồi bởi vì nhiều người dân Syria đã chuyển chỗ ở trong nước hoặc đến sống cùng người thân mà không đăng ký tạm trú.
+ Ông nói như thể ông đang đề cập đến việc tăng thuế và không phải một thảm họa nhân đạo vậy.
- Quả thực là không. Ở phương Tây, khi các ông hỏi về những con số, các ông nói về nó như những bảng tính. Dù các ông có 1 triệu hay 5 triệu, các ông sẽ vẫn làm tương tự. Cho dù là 70.000, 80.000, 90.000 hay 100.000 nạn nhân, nó giống như một cuộc bán đấu giá. Nhưng đây không phải là một cuộc bán đấu giá – đây là một bi kịch. Dù là 1.000 hay 10.000 nạn nhân thì cũng như nhau.
+ Làn sóng tị nạn đang diễn ra vì một lý do – ông và chế độ của ông.
- Xin lỗi, đây là một câu hỏi hay một lời tuyên bố sự thật? Nêu là một lời tuyên bố, nó không đúng rồi. Nếu đây là một câu hỏi, điều đầu tiên chúng ta cần phải biết là tại sao mọi người bỏ đi? Ông không thể có một lý do, ông sẽ có vô số lý do. Một trong những lý do khiến nhiều người bỏ nhà là do mối đe dọa về những kẻ khủng bố.
+ Không một ai đang chạy trốn những người lính và lực lượng an ninh của ông sao?
- Quân đội đại diện cho Syria, nếu không anh sẽ không có quân đội, bởi vì đáng lẽ ra nó đã bị chia rẽ từ lâu rồi. Quân đội không phải là mối đe dọa đối với bất kỳ ai. Nói về vấn đề tị nạn, các ông phải tự đặt câu hỏi cho mình về các chính phủ khác, đặc biệt là chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ. Lợi ích của họ là gì khi có những con số cao như vậy? Ông biết là gì không? Lợi ích của họ là sử dụng chúng như một tấm thẻ nhân đạo với Liên Hợp Quốc. Một số nước khác đã sử dụng chúng để kiếm tiền cho chính họ, không phải cho những người tị nạn. Vì thế mới có tham nhũng, lợi ích và một số người có thể đã bỏ trốn vì họ sợ chính phủ, nhưng chúng tôi không có bất cứ điều gì chống lại họ. Và trong hai tuần vừa qua, hơn 100.000 hoặc 150.000 người, tùy thuộc vào những tính toán, đã quay trở về Syria. Vì vậy gần đây xu hướng đã bị đảo ngược.
+ Ông đã làm cách nào để thuyết phục họ quay về?
- Chúng tôi đã cố gắng hết sức để đưa họ quay trở về. Chúng tôi cam kết với tất cả mọi người sẽ xoa dịu nỗi lo sợ của họ. Nếu họ không vi phạm pháp luật, chúng tôi không có vấn đề gì với họ. Nếu họ chống lại chính phủ, họ sẽ trở thành phe đối lập với chính phủ ở Syria. Chúng tôi cũng không có vấn đề gì. Điều đó đã là rất thành công rồi.
+ Tuy nhiên, dưới góc nhìn quân sự, ông vẫn chưa có bất kỳ thành công nào. Việc ông hứa hẹn sẽ giành lại Aleppo vẫn chưa xẩy ra. Maalula vẫn là một vấn đề lớn, và thậm chí vẫn có những cuộc giao tranh ở ngoại ô Damascus. Chúng tôi nghe thấy những tiếng lựu đạn nổ trên đường đến dinh thực của ông.
- Khi gặp kiểu khủng hoảng này, ông không thể nói rằng mình vẫn mạnh như trước đây. Tổn thất là quá lớn. Thực tế mà nói, sẽ cần thời gian để chúng tôi vượt qua vấn đề này. Chúng tôi không có bất cứ sự lựa chọn nào khác ngoài việc tin vào chiến thắng của mình.
+ Làm thế nào mà ông có thế tự tin đến vậy vào chiến thắng khi vẫn cần sự giúp đỡ từ phong trào chiến đấu Hezbollah của Liban?
- Liban là một nước nhỏ với 4 triệu dân. Chỉ riêng Damascus thôi, chúng tôi đã có 5 triệu người. Syria quá lớn đối với Hezbollah ngay dù họ muốn gửi toàn bộ binh lính của họ tới đây. Chúng tôi cùng với họ chiến đấu chống lại những kẻ khủng bố ở biên giới với Liban, những kẻ đã tấn công những người trung thành của họ, chúng tôi hợp tác, và đó là điều tốt.
+ Vậy thực sự ông có thể làm được mà không cần sự giúp đỡ của Hezbollah?
- Tôi không nói như vậy. Tôi đang nói về cách hiểu ở phương Tây và trong giới truyền thông rằng Hezbollah đang chiến đấu vì quân đội Syria không đủ khả năng. Ngay dù các ông muốn điều đó là sự thật thì cũng không thể bởi vì tỷ lệ không cân xứng.
+ Hezbollah nằm trong số rất ít những bên vẫn còn ủng hộ ông. Tổng thống Nga Putin dường như đang dần mất kiên nhẫn với ông. Và Tổng thống mới của Iran, Hassan Rouhani có thể nhận ra rằng việc nối lại quan hệ với Mỹ quan trọng hơn sự tồn tại của ông.
- Putin đang giúp đỡ chúng tôi nhiều hơn bao giờ hết. Điều này được chứng minh bằng 3 lần phủ quyết của Nga phản đối lệnh trừng phạt của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc.
+ Nhưng ông ấy bỏ phiếu ủng hộ nghị quyết phá hủy vũ khí hóa học của ông.
- Đó là một nghị quyết đúng đắn.
+ Bởi vì nó ngăn chặn một cuộc không kích của Mỹ?
- Không có điểm nào trong nghị quyết này đi ngược lại với những lợi ích của chúng tôi. Người Nga hiểu rất rõ chúng tôi đang làm gì ở đây bởi vì họ đã phải đối mặt với những kẻ khủng bố ở Chesnia và hiểu ý nghĩa của khủng bố.
+ Như vậy có nghĩa là ông tự tin rằng Moskva sẽ đưa hệ thống phòng không S-300 mà ông đã mong đợi trong vòng nhiều tháng đến Syria?
- Putin nói rất rõ trong nhiều dịp khác nhau rằng ông ấy sẽ tiếp tục hỗ trợ Syria và ông ấy cam kết với hợp đồng này – không chỉ về phòng không mà còn tất cả các loại vũ khí.
+ Cộng đồng quốc tế sẽ làm tất cả những gì có thể để ngăn chặn ông có thêm vũ khí.
- Dựa trên cơ sở nào? Họ không có bất cứ quyền gì. Chúng tôi là một nhà nước và chúng tôi có quyền bảo vệ chính mình. Chúng tôi không chiếm đóng đất đai của những nước khác. Tại sao cộng đồng quốc tế không phản đối Israel khi họ có được tất cả những vũ khí này? Đức gửi đến Israel 3 tầu ngầm và họ chiếm đất của chúng tôi. Chúng tôi không tin phương Tây bởi vì nhũng tiêu chuẩn kép của họ.
+ Ngay dù Putin có chuyển hệ thống phòng không mới cho Syria, ông không sợ rằng Israel sẽ đánh bom nó thành từng mảnh sao?
- Anh không thể lo sợ. Khi anh ở trong tình thế chiến tranh, anh không làm điều gì đó mà anh cảm thấy sợ làm. Anh phải tự củng cố sức mạnh và không cho phép kẻ thù của mình phá hủy vũ khí của Anh hay giành chiến thắng.
+ Và nếu họ cố làm như vậy thì sao?
- Khi nào điều đó xẩy ra, chúng ta có thể bàn về nó.
+ Trong quá khứ nghe có vẻ ông tự tin hơn khi nói đến Israel.
- Không, chúng tôi luôn nói rằng chúng tôi cần nền hòa bình và ổn định ở khu vực này. Ngay cả nếu anh muốn trả đũa, anh cũng phải tự hỏi mình rằng kết quả sẽ ra sao. Đặc biệt giờ đây khi mà chúng tôi đang đấu tranh chống al-Qaeda, chúng tôi phải rất thận trọng để không khởi động một cuộc chiến tranh mới.
+ Ở thời điểm nào thì ông có thể tuyên bố chiến thắng al-Qaeda?
- Chiến thắng là sự ổn định. Giai đoạn đầu là loại bỏ những kẻ khủng bố. Giai đoạn hai, khó khăn và nguy hiểm hơn, là loại bỏ ý thức hệ của họ, đã thâm nhập vào nhiều bộ phận ở Syria. Việc một cậu bé 8 tuổi cố gắng chặt đầu một ai đó như đã diễn ra ở miền Bắc là không thể. Hoặc chẳng hạn những đứa trẻ chúng kiến cảnh chặt đầu đó với sự hân hoan như thể chúng đang xem một trận đá bóng. Nếu chúng tôi không giải quyết vấn đề này, một vấn đề còn nguy hiểm hơn chính những kẻ khủng bố, chúng tôi sẽ phải đối mặt với một tương lai ảm đạm.
+ Dường như cảnh tượng này sẽ không đáng kinh ngạc đến vậy nếu nó diễn ra ở Somalia. Nhưng ở Syria thì sao?
- Sự tàn bạo mà chúng tôi đang trải qua ở Syria là không thể tin được. Mọi người giết chết một giám mục Đạo Cơ đốc bằng cách rạch vào cổ ông ấy bằng một con dao nhỏ.
+ Ông vẫn tin rằng ông có thể đưa Syria quay trở lại với một nhà nước tiền chiến tranh?
- Về khía cạnh ổn định, tất nhiên là chúng tôi có thể. Nếu chúng tôi ngăn được hàng tỷ người ủng hộ những kẻ khủng bố đến từ Saudi Arabia và Qatar, sự hỗ trợ về hậu cần của Thổ Nhĩ Kỳ, chúng tôi có thể giải quyết vấn đề này trong vòng một vài tháng.
+ Vẫn có khả năng cho một giải pháp thông qua đàm phán?
- Với các phần tử hiếu chiến sao? Định nghĩa về phe đối lập chính trị không bao gồm quân đội. Chúng tôi sẽ đàm phán với bất cứ ai muốn hạ vũ khí xuống và quay trở lại bình thường. Bởi vì chúng ta đã thảo luận về những người đảo ngũ trước đó, tôi muốn chỉ ra rằng việc này cũng đang diễn ra theo chiều hướng ngược lại. Những người đã từng là các phần tử hiếu chiến giờ đang chiến đấu cùng với quân đội.
+ Cộng đồng quốc tế đổ lỗi cho ông về sự leo thang xung đột hiện nay, mà vẫn chưa nhìn thấy sự kết thúc. Làm thế nào mà ông sống được với tội lỗi này?
- Điều đó không phải về tôi, mà về Syria. Tình hình Syria khiến tôi lo lắng và buồn phiền; đó mới là mối quan tâm của tôi. Tôi không lo lắng cho bản thân mình.
+ Vợ con ông vẫn ủng hộ ông chứ?
- Tất nhiên họ chưa bao giờ rời khỏi Damascus dù chỉ trong một thời gian ngắn.    
+ Đôi lúc ông có lo sợ rằng những điều đã xẩy ra với Tổng thống Romania Ceausescu có thể sẽ xẩy ra với ông không? Sau một phiên tòa xét xử ngắn gọn, ông ấy đã bị bắn bởi chính những binh lính của mình.
- Nếu sợ, tôi đã rời khỏi Syria lâu rồi.
+ Thưa Tổng thống, chúng tôi cảm ơn ông về buổi phỏng vấn này./.

2109. LỘ TRÌNH MỚI CHO QUAN HỆ MỸ-TRUNG

THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt)
Thứ Tư, ngày 13/11/2013
(Kevin Rudd – Tạp chí Foreign Affairs — 2013)
Tranh luận về tương lai của mối quan hệ Mỹ – Trung hiện đang được điều khiển bởi một chính sách đối ngoại và an ninh quyết đoán hơn của Trung Quốc trong thập kỷ qua, phản ứng của khu vực đối với điều này, và phản ứng của Washington – “sự xoay trục” sang, hay “tái cân bằng” đối với châu Á. Sự tập trung trở lại của Chính quyền Obama vào tầm quan trọng chiến lược của châu Á là hoàn toàn thích hợp. Nếu không có một động thái như vậy, có một mối nguy cơ là Trung Quốc, với cái nhìn thực tế theo đường lối cứng rắn về các mối quan hệ quốc tế, sẽ kết luận rằng một nước Mỹ kiệt quệ về kinh tế đang mất đi sức mạnh dẻo dai của mình ở Thái Bình Dương. Nhưng, giờ đây khi mà rõ ràng là nước Mỹ sẽ vẫn ở lại châu Á trong một thời gian dài, đã đến lúc cả Washington và Bắc Kinh phải đánh giá lại, nhìn về phía trước, và đi đến nhũng kết luận dài hạn về kiểu thế giới nào mà họ mong muốn được nhìn thấy vượt qua các rào cản.
Những nhiệm vụ trọng tâm của châu Á trong các thập kỷ tới là ngăn ngừa một sự đối đầu lớn giữa Mỹ và Trung Quốc, và duy trì sự ổn định chiến lược đã củng cố cho sự phồn vinh của khu vực. Những nhiệm vụ này tuy rất khó khăn nhưng vẫn có thể làm được. Chúng sẽ đòi hỏi cả hai bên phải thấu hiểu hoàn toàn lẫn nhau, hành động bình tĩnh bất chấp vô số nhũng sự khiêu khích, đồng thời kiểm soát các thế lực trong nước và khu vực đe dọa kéo hai nước ra xa nhau. Điều này, đến lượt nó, sẽ đòi hỏi một mối quan hệ sâu sắc hơn và có tính tổ chức hơn – một mối quan hệ bám chắc vào một khuôn khổ chiến lược chấp nhận thực tế cạnh tranh, tầm quan trọng của hợp tác, và thực tế là những điều này không phải là những đề xuất loại trừ lẫn nhau. Hơn nữa, một cách tiếp cận mới như vậy, cần được làm cho có hiệu quả thiết thực thông qua một chương trình nghị sự có kế hoạch được thúc đẩy bởi những cuộc gặp trực tiếp thường xuyên giữa lãnh đạo hai nước.
Không còn là một con rồng ẩn mình
Tốc độ, quy mô và tầm ảnh hưởng của sự trỗi dậy của Trung Quốc là chưa từng có tiền lệ trong lịch sử đương đại. Chỉ trong vòng 30 năm, nền kinh tế Trung Quốc đã phát triển từ nhỏ hơn so với Hà Lan, đã trở nên lớn mạnh hơn tất cả các nước khác ngoại trừ Mỹ. Nếu Trung Quốc sớm trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới, theo như một số người dự đoán, đây sẽ là lần đầu tiên một đất nước không nói tiếng Anh, không phải phương Tây, và phi dân chủ lãnh đạo kinh tế toàn cầu, kể từ thời Geogre III. Lịch sử cho thấy rằng khi sức mạnh kinh tế phát triển, thường kéo theo sức mạnh chính trị và sức mạnh chiến lược. Sự trỗi dậy của Trung Quốc chắc chắn sẽ phát sinh ra những lợi ích, các giá trị và thế giới quan giao thoa và đôi khi là xung đột nhau. Duy trì hòa bình sẽ không chỉ mang tính chất quyết định đối với 3 tỷ người châu Á mà còn cho cả tương lai của trật tự toàn thế giới. Phần lớn lịch sử của thế kỷ 21, dù tốt hay không, sẽ được viết lên tại châu Á, và điều này đến lượt nó sẽ được định hình bởi việc liệu sự trỗi dậy của Trung Quốc có được kiểm soát một cách hòa bình và không có bất kỳ sự phá vỡ căn bản nào của trật tự này hay không.
Trật tự thời hậu chiến ở châu Á dựa trên sự hiện diện và khả năng có thể dự đoán của sức mạnh Mỹ, được gắn chắc trong một mạng lưới các liên minh quân sự và các quan hệ đối tác. Điều này được hoan nghênh ở hầu hết các thủ đô trong khu vực, trước hết nhằm ngăn chặn sự tái xuất hiện của chủ nghĩa quân phiệt Nhật, sau là như một sự đối trọng chiến lược với Liên Xô, tiếp đến là một sự đảm bảo an ninh cho Tokyo và Seoul (để loại bỏ nhu cầu về các chương trình vũ khí hạt nhân trong khu vực) và giảm bớt những căng thẳng nhỏ hơn trong khu vực. Trong những năm gần đây, sự trỗi dậy của Trung Quốc và những khó khăn về tài chính và kinh tế cua Mỹ đã bắt đầu khiến người ta nghi ngờ về tính bền vững của khuôn khổ này. Ý thức về sự bất ổn chiến lược và một mức độ nào đó sự phòng ngừa chiến lược đã bắt đầu nổi lên ở nhiều thủ đô. “Sự tái cân bằng” của Chính quyền Obama là một sự điều chỉnh cần thiết, tái lập lại các nguyên tắc cơ bản chiến lược. Nhưng một mình nó, nó sẽ là không đủ để duy trì hòa bình – một thách thức sẽ ngày càng trở nên phức tạp và cấp bách khi các hoạt động chính trị nước lớn tương tác với một loạt ngày càng tăng các xung đột tiểu khu vực và các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ chồng chéo nhau ở các biển Hoa Đông và Nam Trung Hoa.
Trung Quốc nhìn những diễn biến này qua lăng kính các quyền ưu tiên trong nước và quốc tế của chính mình, ủy ban thường vụ Bộ chính trị, bao gồm những lãnh đạo cấp cao nhất của Đảng Cộng sản, coi những trách nhiệm cốt lõi của mình là duy trì sự cầm quyền của Đảng Cộng sản, duy trì sự toàn vẹn lãnh thổ của đất nước (bao gồm chống lại các phong trào đòi ly khai và bảo vệ những tuyên bố chủ quyền biển khơi), duy trì tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ bằng cách chuyển đổi mô hình phát triển của đất nước, đảm bảo an ninh năng lượng của Trung Quốc, duy trì ổn định khu vực và toàn cầu để không đi trật ra khỏi nghị trình, phát triển kinh tế hiện đại hóa quân đội Trung Quốc và khẳng định mạnh mẽ hơn các lợi ích chính sách đối ngoại của Trung Quốc, và nâng cao vị thế của mình như một nước lớn.
Ưu tiên toàn cầu và khu vực của Trung Quốc được định hình chủ yếu bởi những đòi hỏi kinh tế và chính trị trong nước. Trong thời đại mà chủ nghĩa Mác mất đi tính thích đáng về tư tưởng của mình, tính hợp pháp tiếp tục của Đảng phụ thuộc vào sự kết hợp thành tích kinh tế, chủ nghĩa dân tộc chính trị, và việc kiểm soát tham nhũng. Trung Quốc cũng xem xét sự trỗi dậy của mình trong bối cảnh lịch sử quốc gia, như một sự bác bỏ cuối cùng một thế kỷ bị nước ngoài sỉ nhục (bắt đầu với các cuộc chiến tranh nha phiến và kết thúc với sự chiếm đóng của người Nhật) và như một sự trở lại với vị thế đúng đắn của nó là một nền văn minh vĩ đại với một vị trí được tôn trọng trong các quốc gia hàng đầu thế giới. Trung Quốc chỉ ra rằng mình hầu như không có lịch sử xâm lược các quốc gia khác và không có chủ nghĩa thực dân hàng hải (không giống như các nước châu Âu) và bản thân nó cũng đã từng là mục tiêu của nhiều cuộc xâm lược của nước ngoài. Do đó, theo quan điểm của Trung Quốc, phương Tây và các quốc gia khác không có lý do nào để lo ngại về sự trỗi dậy của Trung Quốc. Thực tế, họ được hưởng lợi từ đó bởi vì sự phát triển của nền kinh tế Trung Quốc. Bất kỳ một quan điểm thay thế nào khác đều sẽ bị chỉ trích như là một phần của thuyết “mối đe dọa từ Trung Quốc”, điều đến lượt nó được nhìn nhận như là một cái cớ cho chính sách kiềm chế trên thực tế của Mỹ.
Tuy nhiên, những gì mà Trung Quốc bỏ qua, là sự khác biệt giữa “mối đe dọa” và “sự không chắc chắn” – thực tế của cái mà các nhà lý luận quan hệ quốc tế gọi là “thế tiến thoái lưỡng nam an ninh” – đó là, cách theo đuổi lợi ích hợp pháp của Bắc Kinh có thể làm nẩy sinh các lo ngại cho các bên khác. Điều này đặt ra câu hỏi rộng hơn là liệu có phải Trung Quốc đã phát triển một chiến lược lớn cho dài hạn hơn hay không. Những tuyên bố công khai của Bắc Kinh – nhấn mạnh rằng Trung Quốc mong muốn một “sự trỗi dậy hòa bình” hay “sự phát triển hòa bình” và tin tưởng vào “đôi bên cùng thắng” hay một “thế giới hài hòa” – đã hầu như không làm sáng tỏ các vấn đề, và cũng không có sự viện dẫn câu châm ngôn của Đặng Tiểu Bình “Giấu mình chờ thời”. Đối với người nước ngoài, câu hỏi cốt lõi là liệu Trung Quốc sẽ tiếp tục hợp tác làm việc bên trong trật tự thế giới dựa trên các điều luật hiện hành một khi nước này đạt được vị thế một nước lớn hay thay vào đó tìm cách định hình lại trật tự đó theo ý niệm của mình nhiều hơn. Điều này vẫn còn là một câu hỏi mở.
Tập Cận Bình – người phải được tuân lệnh
Trong giới hạn của những ưu tiên tổng thể của Trung Quốc, Tập Cận Bình, Tổng bí thư mới được bổ nhiệm của Đảng Cộng sản và cũng là tân chủ tịch nước, sẽ có ảnh hưởng quan trọng, và có lẽ mang tính chất quyết định, lên chính sách quốc gia. Tập Cận Bình thoải mái với trọng trách lãnh đạo. Ông tự tin vào cả gốc gác thuộc quân đội và theo đường lối cải cách của mình, và việc không có gì phải chứng minh về những tấm bình phong này đem lại cho ông quyền tự do nào đó để dùng thủ đoạn thao túng. Ông đọc nhiều và hiểu biết như một nhà sử học về trách nhiệm của mình đối với đất nước. Ông là một nhà lãnh đạo thiên bẩm và khó có thể hài lòng với chỉ đơn thuần là duy trì các chính sách theo nguyên trạng. Trong số tất cả các người tiền nhiệm, ông là quan chức Trung Quốc có khả năng nhất kể từ sau Đặng Tiểu Bình trở thành không chí là đứng đầu trong những người ngang hàng, mặc dù vẫn nằm trong phạm vi sự lãnh đạo tập thể.
Tập Cận Bình đã có một bước đi chưa từng thấy. Ông đã thẳng thừng tuyên bố rằng trừ phi tham nhũng được giải quyết, Trung Quốc sẽ phải chịu sự hỗn loạn gợi nhớ đến Mùa xuân Arập, và ông đã ban hành các quy tắc mới rõ ràng về mâu thuẫn lợi ích cho ban lãnh đạo. Ông đã trình bầy đường lối chỉ đạo của Bộ Chính trị được vạch ra nhầm cắt giảm các cuộc họp vô nghĩa và các bài diễn thuyết chính trị khoa trương, ủng hộ việc hành động chống lại một số ấn phẩm và các trang web thẳng thắn về mặt chính trị hơn, và tán dương những người hiện đại hóa quân sự của Trung Quốc. Đặc biệt nhất, Tập Cận Bình đã mượn lời một cách rõ ràng từ sách chí nam chính trị của Đặng Tiểu Bình, tuyên bố rằng Trung Quốc bây giờ cần cải cách kinh tế nhiều hơn. Tuy nhiên, về chính sách đối ngoại và an ninh, Tập Cận Bình tỏ ra khá kín đáo. Nhưng với tư cách là một thành viên cấp cao của Quân ủy trung ương, kiểm soát toàn bộ lực lượng vũ trang của đất nước (Tập Cận Bình từng là phó chủ tịch từ năm 2010 đến 2012 và gần đây được lên chức chủ tịch), Tập Cận Bình đã đóng một vai trò quan trọng trong “những nhóm lãnh đạo” của ủy ban này về chính sách đối với các biển Hoa Đông và Nam Trung Hoa, và những động thái gần đây của Bắc Kinh trên những tuyến đường thủy này đã khiến một số nhà phân tích kết luận rằng ông là một người theo đường lối cứng rắn không biện hộ đối với chính sách an ninh quốc gia. Nhiều người còn chỉ ra những công thức chính sách đối ngoại ông đã sử dụng trong chuyến thăm Mỹ vào tháng 2/2012, khi ông đề cập đến sự cần thiết của “một mối quan hệ nước lớn kiểu mới” với Washington và rõ ràng đã bị bối rối khi có rất ít phản ứng thực chất từ phía Mỹ.
Sẽ là không chính xác vào thời điềm hiện tại nếu xem Tập Cận Bình như một Gorbachev tiềm tàng và những cải cách của ông ta như là sự khởi đầu của một chính sách công khai của Trung Quốc. Trung Quốc không phải là Liên Xô, và cũng sẽ không trở thành Liên bang Nga. Tuy nhiên, trong thập kỷ tới, Tập Cặn Bình có khả năng sẽ dẫn dắt Trung Quốc theo một hướng mới. Các nhà lãnh đạo mới của nước này là những nhà cải cách kinh tế theo bản năng hoặc được đào tạo về tri thức. Để thực hiện việc chuyển đổi to lớn, họ dự tính sẽ phải sử dụng hầu hết vốn liếng chính trị của họ và sẽ đòi hỏi sự kiểm soát chính trị chặt chẽ tiếp tục, thậm chí khi cải cách tạo ra những lực lượng mạnh mẽ cho sự thay đổi xã hội và chính trị. Đến nay vẫn chưa có kịch bản được nhất trí nào cho cải cách chính trị dài hạn; chỉ có nhiệm vụ trước mắt là việc mở rộng tổ chức cơ sở trong nội bộ Đảng gồm 82 triệu thành viên. Khi nói đến chính sách đối ngoại, vai trò trung tâm của nhiệm vụ kinh tế trong nước có nghĩa rằng ban lãnh đạo có sự quan tâm mạnh mẽ hơn đến việc duy trì sự ổn định chiến lược trong ít nhất là thập kỷ tới. Điều này có thể đôi lúc xung đột với các yêu sách lãnh thổ ngoài khơi của Trung Quốc, nhưng khi đó, Trung Quốc sẽ muốn giải quyết xung đột hơn là làm hỏng sự ổn định đó. Công bằng mà nói, Tập Cận Bình là một nhà lãnh đạo mà Mỹ nên tìm cách cùng làm việc, không chỉ về xử lý các vấn đề sách lược hiện tại mà cả các vấn đề chiến lược lâu dài hơn, rộng lớn hơn.
Sự đổi hướng của Obama nhằm giành thế chủ động
Không chỉ là một tuyên bố quân sự, sự tái cân bằng của Chính quyền Obama là một phần của một chiến lược ngoại giao và kinh tế khu vực rộng lớn hơn mà cũng bao gồm quyết định trở thành một thành viên của Hội nghị cấp cao Đông Á và các kế hoạch phát triển Quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương, làm sâu sắc hơn mối quan hệ đối tác chiến lược của Mỹ với Ấn Độ, và mở cửa đối với Myanmar (hay còn gọi là Miến Điện). Một số người đã chỉ trích sự hồi phục sức mạnh của Washington chính là nguyên nhân gây ra tình trạng căng thẳng gia tăng gần đây ở khu vực Đông Á. Nhưng lý lẽ này không đứng vững khi xem xét kỹ lưỡng, do sự gia tăng đáng kể các sự cố an ninh khu vực đã bắt đầu từ hơn nửa thập kỷ trước.
Trung Quốc, một quốc gia của những người theo chủ nghĩa hiện thực về chính sách an ninh và đối ngoại nơi những tác phẩm của Clausewitz, Carr, và Morgenthau là bắt buộc phải đọc trong các học viện quân sự, tôn trọng sức mạnh chiến lược và khinh thường sự do dự và yếu đuối. Bắc Kinh có thể không được trông đợi chào đón sự xoay trục. Nhưng sự phản đối đó không có nghĩa là chính sách mới của Mỹ là sai lầm. Sự tái cân bằng đã được hoan nghênh trên khắp các thủ đô khác của châu Á – không phải vì Trung Quốc được coi là một mối đe dọa mà bởi vì các chính phủ ở châu Á không chắc chắn rằng một khu vực do Trung Quốc chi phối sẽ có nghĩa là gì. Vì vậy, giờ đây khi việc tái cân bằng đang được thực hiện, câu hỏi cho những nhà hoạch định chính sách Mỹ là tiếp theo phải đưa mối quan hệ với Trung Quốc đi đến đâu.
Một khả năng là Mỹ đẩy nhanh mức độ cạnh tranh chiến lược với Trung Quốc, chứng minh rằng Bắc Kinh không có cơ hội vượt mặt Washington và các đồng minh của mình về chi phí hay thủ đoạn thao túng. Nhưng điều này là không thể duy trì được về mặt tài chính và do đó không đáng tin cậy. Khả năng thứ hai là sẽ giữ nguyên hiện trạng khi việc tái cân bằng có tác dụng, chấp nhận rằng có thể không có cải thiện cơ bản trong quan hệ song phương và không ngừng tập trung vào xử lý vấn đề và khủng hoảng. Nhưng điều này sẽ là quá thụ động và có nguy cơ bị lấn át bởi số lượng và sự phức tạp của những cuộc khủng hoảng khu vực sẽ phải được xử lý, sự chệch hướng chiến lược có thể xẩy ra, đi đến lựa chọn một đường đi ngày càng tiêu cực.
Khả năng thứ ba là nỗ lực trong toàn bộ mối quan hệ bằng cách đưa ra một khuôn khổ mới cho sự hợp tác với Trung Quốc công nhận thực tế cạnh tranh chiến lược giữa hai nước, định rõ các lĩnh vực then chốt của lợi ích chung để làm việc và hành động, và do đó bắt đầu thu hẹp khoảng cách lớn về lòng tin giữa hai nước. Được thực hiện chính xác, một chiến lược như vậy sẽ không gây hại gì, hầu như không gặp rủi ro, và đem lại kết quả thực sự. Điều đó có thể làm giảm căng thẳng trong khu vực, tập trung các bộ máy an ninh quốc gia của cả hai nước vào những chương trình nghị sự chung đã được phê duyệt ở những cấp cao nhất, và giúp giảm thiểu nguy cơ chệch hướng chiến lược tiêu cực.
Một yếu tố quan trọng của một chính sách như vậy sẽ phải là cam kết với các hội nghị thượng đỉnh thường xuyên. Hiện nay ngày càng có nhiều những sáng kiến không chính thức đang được đưa ra giữa Mỹ và Trung Quốc hơn là những tầu trên biển Nam Trung Hoa. Nhưng không gì trong số này có thể có một tác động lớn đến mối quan hệ, vì trong việc thỏa thuận với Trung Quốc, không có gì có thể thay thế cho sự can dự trực tiếp của lãnh đạo. Tại Bắc Kinh, cũng như ở Washington, chủ tịch (hay tổng thống) là người vạch ra quyết định trọng yếu. Vắng mặt sự can dự cá nhân của Tập Cận Bình, động lực tự nhiên trong hệ thống của Trung Quốc là hướng về thuyết tuần tiến trong trường hợp tốt nhất và sự ngưng trệ trong trường hợp xấu nhất. Do đó, Mỹ có một sự quan tâm sâu sắc đến sự can dự cá nhân của Tập Cận Bình, với một hội nghị thượng đỉnh ở mỗi thủ đô mỗi năm cùng với các cuộc họp làm việc khác trong khoảng thời gian hợp lý, được tổ chức cùng với các cuộc họp của G-20, hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương, và Hội nghị cấp cao Đông Á.
Cả hai chính phủ cũng cần những người đại diện có thẩm quyền làm việc thay mặt các lãnh đạo quốc gia, xử lý các chương trình nghị sự giữa các hội nghị thượng đỉnh và giải quyết các vấn đề khi nhu cầu nẩy sinh. Nói cách khác, Mỹ cần một người nào đó đóng vai trò như Henry Kissinger đã từng làm trong đầu những năm 1970, và Trung Quốc cũng cần làm vậy.
Trên phạm vi toàn cầu, chính phủ hai nước cần phải xác định một hoặc nhiều vấn đề hiện đang bị sa lầy trong hệ thống quốc tế và làm việc với nhau để đưa chúng đến những kết thúc thành công. Điều này có thể bao gồm các vòng đàm phán Doha về thương mại quốc tế (hiện vẫn còn bị trì hoãn bất chấp đã đi đến một thỏa thuận cuối cùng năm 2008), các cuộc đàm phán về biến đổi khí hậu (mà Trung Quốc đã có bước tiến đáng kể từ khi Hội nghị về biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc năm 2009 tại Copenhagen), không phổ biến hạt nhân (hội nghị đánh giá tiếp theo về Hiệp ước không phổ biến hạt nhân sắp tới), hoặc các điều khoản cụ thể nổi bật tại chương trình nghị sự G-20. Sự tiến bộ trên bất kỳ mặt trận nào trong đó sẽ chúng minh rằng với ý chí chính trị đẩy đủ ở mọi nơi, có thể làm cho trật tự toàn cầu hiện tại hoạt động vì lợi ích của tất cả các bên, bao gồm cả Trung Quốc. Việc đảm bảo rằng Trung Quốc sẽ trở thành bên tham gia tích cực trong tương lai của trật tự này là mang tính chất quyết định, và thậm chí cả những thành công khiêm tốn cũng sẽ giúp ích.
Trong khu vực, hai nước cần phải sử dụng Hội nghị cấp cao Đông Á và diễn đàn cuộc họp Bộ trưởng Quốc phòng mở rộng của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á để phát triển một loạt các biện pháp xây dựng lòng tin và xây dựng an ninh giữa quân đội 18 nước trong khu vực. Hiện nay, những nơi gặp gỡ này có nguy cơ trở nên phân cực lâu dài đối với các tranh chấp lãnh hải ở biển Hoa Đông và Nam Trung Hoa, vì vậy hạng mục đầu tiên sẽ được đàm phán nên là một nghị định thư về xử lý sự cố trên biển, với các thoả thuận khác nhanh chóng theo sau để giảm thiểu nguy cơ xung đột bởi sự tính toán sai lầm.
Ở cấp độ song phương, Washington và Bắc Kinh nên nâng cấp các cuộc đối thoại quân sự thường xuyên của họ lên cấp những người đứng đầu như, về phía Mỹ, Bộ trưởng Quốc phòng và Chủ tịch tham mưu trưởng liên quân. Cần không được để điều này bị ảnh hưởng bởi sự thăng trầm của quan hệ, với các cuộc họp tập trung vào những thách thức an ninh trong khu vực, chẳng hạn như Afghanistan, Pakistan và Triều Tiên, hoặc những thách thức mới, chẳng hạn như an ninh mạng. Và cuối cùng trên mặt trận kinh tế, Washington nên xem xét mở rộng Quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương bao gồm cả Trung Quốc và Nhật Bản, và cuối cùng là cả Ấn Độ.
Tiến tới một thông cáo Thượng Hải mới
Nếu những nỗ lực như vậy bắt đầu mang lại thành quả và làm giảm một số trong những ngờ vực hiện tại chia tách các bên, các quan chức Mỹ và Trung Quốc nên suy nghĩ kỹ về việc ràng buộc mối quan hệ xung đột ít hơn, hợp tác nhiều hơn của họ vào một Thông cáo Thượng Hải mới. Một ý kiến đề nghị như vậy thường tạo ra một phản ứng tai hại ở Washington, bởi những thông cáo được xem như là những con khủng long ngoại giao và bởi vì một quá trình như vậy có thể đe dọa tiếp tục lại vấn đề Đài Loan gây tranh cãi. Mối quan tâm thứ hai là chính đáng, bởi sẽ phải giữ cho Đài Loan nằm ngoài bàn đàm phán để việc đó có thể thành công. Nhưng điều này không hẳn là một vấn đề không thể vượt qua, bởi vì quan hệ hai bờ eo biển bây giờ đang tốt hơn hơn bất cứ thời điểm nào kể từ năm 1949.
Đối với lời cáo buộc rằng các thông cáo là có ít giá trị hiện tại, điều này có thể ít đúng với Trung Quốc hơn là với Mỹ. Ở Trung Quốc, những biểu tượng mang các thông điệp quan trọng, bao gồm cả đối với quân đội, do đó có thể có lợi ích đáng kể trong hệ thống của Trung Quốc trong việc sử dụng một thông cáo mới để phản ánh và duy trì một tư duy chiến lược hợp tác mới mẻ, nhìn về phía trước – nếu một thông cáo như vậy có thể được đưa ra. Tuy nhiên, một động thái như vậy nên theo sau sự thành công của hợp tác chiến lược, thay vì được sử dụng để bắt đầu một quá trình mà có thể hứa hẹn nhiều nhưng đem lại ít.
Những người hoài nghi có thể lập luận rằng Mỹ và Trung Quốc phải khôi phục lại niềm tin vào nhau trước khi bất kỳ sự hợp tác chiến lược quan trọng nào có thể diễn ra. Trong thực tế, lôgích đảo ngược được áp dụng: sự tin tưởng chỉ có thể được xây dụng trên cơ sở thành công thực sự trong các dự án hợp tác. Hơn nữa, việc cải thiện quan hệ, ngày càng cấp bách, vì những thay đổi chiến lược sâu sắc đang diễn ra trên toàn khu vực sẽ chỉ làm cho cuộc sống phức tạp hơn và gây ra nhiều điểm bùng nổ tiềm tàng hơn. Việc cho phép các sự kiện diễn ra theo tiến trình không được sự chỉ dẫn của chúng sẽ có nghĩa là gặp phải những rủi ro lớn, vì khắp châu Á, người ta không chắc kết quả sẽ ra sao dù các lực lượng tích cực của toàn cầu hóa thế kỷ 21 hay các lực lượng đen tối hơn của chủ nghĩa dân tộc cổ xưa sau cùng sẽ thắng thế.
Sự bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai của Tổng thống Obama và nhiệm kỳ đầu tiên của Tập Cận Bình tạo ra một cửa sổ cơ hội độc nhất để đưa mối quan hệ Mỹ – Trung Quốc theo một tiến trình tốt hơn. Tuy nhiên để làm được điều đó, sẽ đòi hỏi khả năng lãnh đạo bền vững từ cấp cao nhất của cả hai chính phủ và một khuôn khổ nhận thức chung và cả cơ cấu thể chế để hướng dẫn công việc của bộ máy công chức của mỗi nước, cả dân sự và quân sự. Lịch sử đã chỉ ra rằng sự trỗi dậy của các cường quốc mới thường gây ra xung đột lớn trên toàn cầu. Điều này nằm trong quyền lực của Obama và Tập Cận Bình là chúng minh rằng châu Á thế kỷ 21 có thể là một ngoại lệ với điều mà mặt khác là một quy tắc lịch sử gây thất vọng sâu sắc.
***
TTXVN (Hong Kong 12/11)
Theo báo Bưu điện Hoa Nam buổi sáng (Hong Kong) Trung Quốc và Mỹ là dường như là hai cực đối lập. Được xem là một trong những nền văn minh lâu đời nhất và vẫn đang phát triển, cộng đồ Nho giáo ở Trung Quốc là kết quả tất yếu của quá trình lịch sử.
Vào cuối thế kỷ 18, nước Mỹ được hình thành bởi một nhóm người sáng lập có khả năng nhìn xa trông rộng do George Washington lãnh đạo. Tuy nhiên cả hai nước này đều đã có kinh nghiệm với chủ nghĩa, thực dân châu Âu và từng tham gia các cuộc chiến tranh với người Anh. Cuộc cách mạng Mỹ đã khiến Anh phải rút quân khỏi thuộc địa Mỹ, trong khi Trung Quốc đã phải gánh chịu hai cuộc chiến tranh nha phiến với Anh.
Điều đáng lưu ý là ngôn ngữ chung, sự liên kết dân tộc và ảnh hưởng tôn giáo chung không ngăn được tuyên bố chiến tranh của Mỹ vào năm 1812 chống lại Đế cuốc Anh. Trong thời gian này và trong hơn một thế kỷ cho đến khi diễn ra cuộc chiến tranh nha phiến lần đầu tiên, các mối quan hệ thương mại đã phát triển mạnh mẽ giữa những nền văn minh lâu đời nhất và các quốc gia mới nhất trên Trái Đất.
Tương tự như 13 bang ban đầu của Mỹ đã từng được ràng buộc với nhau bởi lĩnh vực thương mại, Trung Quốc và Mỹ đã có mối quan hệ thương mại thân thiện trong suốt kỷ nguyên thương mại vì hòa bình. Kinh nghiệm quan hệ Trung-Mỹ cho thấy thương mại – không phải ngôn ngữ, dân tộc và tôn giáo – giúp liên kết các quốc gia với nhau.
Trên thực tế, Trung Quốc và Mỹ có một “mối quan hệ đặc biệt” – một mối quan hệ tồn tại từ rất lâu trước khi Winston Churchill tuyên bố có một mối quan hệ giữa Mỹ và Vương quốc Anh – bởi Bắc Kinh và Washington chưa từng trực tiếp tuyên chiến với nhau.
Trong suốt quá khứ của Trung Quốc, nỗi nhục chủ nghĩa thực dân châu Âu – trong đó có cả những tội ác của Nhật Bản – và chiến tranh sắc tộc nội bộ đã tạo ra một ý thức dân tộc độc nhất cho Trung Quốc hiện đại; và dẫn tới sự ra đời của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa dưới sự dẫn dắt của Chủ tịch Mao Trạch Đông Nước Mỹ, cũng như Trung Quốc, là một nền cộng hòa, không phải là một nền dân chủ, như những người sáng lập nước Mỹ đã hình dung.
Thương mại có quyền lực tối cao để xóa đi mọi bất đồng giữa con người.
Việc thúc đẩy nền dân chủ được đưa vào các nguyên tắc thành lập chế độ cộng hòa, như Thomas Jefferson muốn biến quốc gia mới ở Mỹ thành một Đế chế tự do lý tưởng, là điều đúng đắn. Tại thời điểm hình thành Hội quốc liên các quốc gia sau chiến tranh Thế giới thứ Nhất, Tổng thống Woodrow Wilson đã có một tuyên bố nổi tiếng rằng “thế giới phải được an toàn vì nền dân chủ,” một tuyên bố cần thiết để biện minh cho quyết định của ông nhằm chấm dứt chủ nghĩa đế quốc.
Trong những năm trước Chiến tranh thế giới thứ Hai và cho đến bài phát biểu “Tôi có một giấc mơ” của Tiến sĩ Martin Luther King vào năm 1963, nước Mỹ đã phải đấu tranh với nền dân chủ, tự do và các vấn đề quyền bình đẳng của phụ nữ, người Mỹ bản địa và người Mỹ gốc Phi.
Có thể thấy vẫn còn nhiều vấn đề căng thẳng khi Tổng thống Barack Obama đôi khi bị một số người phản đối, đặc biệt là những người ủng hộ Tea Party, cáo buộc không phải là một công dân Mỹ. Sự kiện Chính phủ Mỹ bị đóng cửa dường như là hệ quả của việc bác bỏ nền dân chủ; dự luật chăm sóc y tế (Obamacare) đã được Quốc hội Mỹ thông qua và được Tòa án Tối cao nước này phê chuẩn.
Chủ nghĩa tuyên truyền Tea Party và sự xuất hiện các đảng phái chính trị bất thường là một trong những tín hiệu tốt về nền dân chủ của quốc gia, điều mà tác giả bài viết cảm nhận được lần đầu tiên khi đến Mỹ thông qua chương trình học bổng sau khi có những năm tháng sống tại đất nước xã hội chủ nghĩa Sri Lanka.
Trong vùng đất của những người nhập cư, tác giả từng là một nhà ngoại giao Mỹ, chuyên gia quân sự của Bộ Quốc phòng Mỹ trong NATO và Bộ Tư lệnh khu vực Thái Bình Dương, nhưng lại chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội và tìm hiểu về nhà Cộng sản Trung Quốc Mao Trạch Đông, thế giới quan không tưởng và ước mơ của Trung Quốc về sự bình đẳng và ổn định của Nho giáo.
Trung Quốc là nơi giao thoa của các nền văn hóa thế giới. Nền móng phát triển của Nho Giáo và sự cai quản là một phần của di sản văn hóa và ADN của Trung Quốc để tạo ra những điều mà Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình gọi là “giấc mộng Trung Hoa”. Điều này cũng tương tự như kinh nghiệm của Mỹ trong việc “thoát khỏi tình trạng hỗn loạn” và cuộc hành trình đầy biến động của đất nước này đến với sự bình đẳng và đoàn kết trong “giấc mơ Mỹ”.
Tuy nhiên, sự thành công của nền dân chủ Mỹ phụ thuộc phần lớn vào phẩm chất của con người, cho dù họ theo Cơ đốc giáo hay Nho giáo, trong nền văn minh của quốc gia này.
Khi Tổng thống Obama thực hiện chiến lược “xoay trục” sang châu Á và Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), Chủ tịch Tập Cận Bình cũng thực hiện kế hoạch “Con đường tơ lụa mới” của mình từ Thái Bình Dương đến Ấn Độ Dương thông qua Sri Lanka. Cả hai chiến lược này đều có sự giao thoa thương mại, trong đó, cùng với các thành phần quân sự, có một xu hướng tự nhiên ràng buộc các quốc gia với nhau.
Nếu hai quốc gia này tạo ra sự thống nhất trong tính đa dạng tại nền cộng hòa của riêng mình thì thương mại sẽ phát triển tốt, góp phần xóa bỏ bất đồng giữa những người có mong muốn chung là mưu cầu hạnh phúc.
Trong khi hai nhân vật phục hưng này – Tổng thống Obama và Chủ tịch Tập Cận Bình – dường như đã phản ánh kỷ nguyên thương mại vì hòa bình trong môi quan hệ Trung-Mỹ góp phần giúp mọi người xích lại gần nhau thì hai nước cộng hòa này trở thành tiền đề cho việc hiện thực hóa “giấc mơ Thái Bình Dương”. Ngoại trưởng Mỹ John Kerry đã khéo léo kế thừa tầm nhìn cả cũ lẫn mới của Mỹ trong “giấc mơ Thái Bình Dương” để làm sống lại quá khứ. Điều này có thể là một di sản tuyệt vời của hai nhà lãnh đạo ở Bắc Kinh và Washington nhằm biến thế giới trở thành một nơi tốt đẹp hơn so với trước đây.
Không giống như thời kỳ Chiến tranh Lạnh, sự xuất hiện hình thức mới của “mối quan hệ nước lớn” là một con đường mới hướng tới “cuộc chiến tranh thời bình”. Không giống như các nhà lãnh đạo trước đây, ông Obama và ông Tập Cận Bình có những kinh nghiệm sống của riêng mình, hoặc là những sinh viên theo diện trao đổi hợp tác giáo dục hoặc là những người đến thăm châu Á và Mỹ để hiểu rõ những sự khác biệt văn hóa và để ca ngợi các môi quan hệ giữa con người với con người là điều bình thường đối với tất cả chúng ta.
Tổng thống đầu tiên của nước Mỹ, George Washington đã từng đặt câu hỏi: “Phải chăng Thượng đế đã không thể gắn kết niềm hạnh phúc lâu dài với đức hạnh của một quốc gia?” Ý tưởng về một xã hội đạo đức thường xuyên được những người có tầm nhìn xa trông rộng xem xét bởi “chỉ một con người đạo đức thì mới có tự do,” như Benjamin Franklin, ông tổ truyền bá Nho giáo ở Mỹ, đã luôn coi trọng những nỗ lực của mình nhằm thích ứng với các kiến thức và trí tuệ được truyền đạt bởi nền văn minh lâu đời nhất cho nền văn minh trẻ nhất.
Bức bích họa phía Đông trên tòa nhà Tòa án Tối cao Mỹ ở Washington khắc họa bộ ba quyền lực cổ xưa – Moses, Khổng Tử và Solon – để ghi dấu món nợ của Mỹ với Trung Quốc và các nền văn minh khác. Khi cả Trung Quốc và Mỹ được hưởng lợi từ các nền văn hóa khác thì mối quan hệ Trung-Mỹ hiện có, nếu được quản lý một cách khôn ngoan sẽ có thể dẫn đến một “giấc mơ Thái Bình Dương” giúp gắn kết một cách tốt nhất đạo đức của Nho giáo với các giá trị dân chủ thông qua lĩnh vực thương mại./.

2110. LỜI KÊU GỌI DỪNG VIỆC THÔNG QUA DỰ THẢO HIẾN PHÁP NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM NĂM 1992 (SỬA ĐỔI 2013)

Kính gửi Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII,
Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, như đang được thảo luận và chuẩn bị thông qua tại Kỳ họp thứ 6 của Quốc hội khóa XIII, về cơ bản vẫn như Hiến pháp hiện hành, thậm chí có một số điểm còn thụt lùi hơn trước. Điều đó có nghĩa là vẫn duy trì một nền tảng pháp lý lỗi thời của thể chế toàn trị, là nguồn gốc đã gây ra cho đất nước và nhân dân rất nhiều thảm họa, đặc biệt là cuộc khủng hoảng trầm trọng về chính trị – kinh tế – văn hóa – xã hội mà cả nước đang lâm vào và vẫn chưa có lối thoát.
Kể từ ngày tái thống nhất Tổ quốc, chưa bao giờ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia bị uy hiếp như ngày nay. Kinh tế đất nước chìm ngập trong tham nhũng và nợ nần, lòng dân phân tán, mất lòng tin vào hệ thống cầm quyền giữa lúc phải đối mặt với những thách thức hiểm nghèo trên mọi phương diện đối nội và đối ngoại. Trong hoàn cảnh đó, việc Quốc hội khóa XIII thông qua một bản hiến pháp như thế sẽ chỉ đẩy đất nước lún sâu hơn nữa vào tình trạng khủng hoảng và bế tắc, cướp đi cơ hội chuyển đổi một cách ôn hòa thể chế chính trị từ toàn trị sang dân chủ, tạo điều kiện đẩy mạnh sự phát triển và bảo vệ Tổ quốc.
Chúng tôi, những người khởi xướng và hưởng ứng Kiến nghị 72*, một lần nữa kêu gọi Quốc hội dừng việc thông qua tại Kỳ họp thứ 6 của Quốc hội khóa XIII Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992.
Chúng tôi khẩn thiết kêu gọi các đại biểu Quốc hội khóa XIII, với tất cả lương tri và ý thức trách nhiệm của những người có danh nghĩa đại diện cho nhân dân, hãy nhìn thẳng vào thực trạng đất nước, lắng nghe những ý kiến tâm huyết đóng góp xây dựng hiến pháp, để có đủ dũng khí quyết định dừng việc thông qua Dự thảo hiến pháp sửa đổi và trả lại quyền lập hiến cho nhân dân. Muốn vậy, phải tổ chức tranh luận một cách thẳng thắn, nghiêm túc và công khai những điểm cơ bản về thể chế chính trị đang còn ý kiến khác nhau, tạo sự đồng thuận trong xã hội và tiến hành trưng cầu ý dân. Trường hợp vẫn đưa ra bỏ phiếu, chúng tôi kêu gọi các vị đại biểu bỏ phiếu không thông qua.
Chúng tôi mong đợi cử tri cả nước, tùy theo điều kiện của từng nhóm hay của từng cử tri, dùng các hình thức thích hợp yêu cầu các đại biểu Quốc hội tại địa phương mình hay mình quen biết có thái độ tích cực theo tinh thần nêu trên, đứng về phía nhân dân khi nêu ý kiến và bỏ phiếu về Hiến pháp.
Nếu cam chịu thông qua một bản hiến pháp như Dự thảo đang bàn thì Quốc hội khóa XIII sẽ có tội với Tổ quốc và nhân dân, và cá nhân các đại biểu Quốc hội khóa XIII đã bỏ phiếu thông qua sẽ phải chịu phần trách nhiệm nặng nề trước lịch sử, trước dân tộc.
Ngày 15 tháng 11 năm 2013
Những người khởi xướng và hưởng ứng Kiến nghị 72
 * Kiến nghị ngày 19-1-2013 về sửa đổi Hiến pháp 1992, mang chữ ký trực tiếp của 72 người và tiếp đó có gần 15000 người ký hưởng ứng.
————

DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI KÝ TÊN LỜI KÊU GỌI

DỪNG THÔNG QUA HIẾN PHÁP (15-11-2013 )

STT Họ và tên, chức danh (nghề nghiệp, nơi làm việc), thành phố/ nước
01 Nguyễn Đông Yên, GS TSKH, nhà toán học, Hà Nội
02 Phạm Xuân Yêm, GS Vật lý, Paris, Pháp
03 Nguyễn Đắc Xuân, nhà văn, nhà nghiên cứu Lịch sử Văn hoá Huế, Huế
04 Tô Nhuận Vỹ, nhà văn, Huế
05 Trần Ngọc Vương, GS TS, Đại học Quốc gia Hà nội
06 Phạm Minh Vũ, sinh viên khoa báo chí, No-U F.C., Quảng Trị
07 Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, cựu Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc, Hà Nội
08 JB Nguyễn Hữu Vinh, blogger, Hà Nội
09 Nguyễn Hữu Vinh, cử nhân luật, doanh nhân, Hà Nội
10 Nguyễn Đình Vinh, thạc sĩ kinh tế, Phú Nhuận, TP.HCM
11 Trần Thế Việt, nguyên bí thư Thành ủy Đà Lạt, Đà Lạt
12 Nguyễn Văn Viễn, giáo dân, kinh doanh tự do, Hà Nội
13 Trần Thanh Vân, kiến trúc sư, Hà Nội
14 Nguyễn Thị Thanh Vân, Paris, Pháp
15 Lưu Trọng Văn, nhà báo, nhà nghiên cứu văn hóa, TP HCM
16 Đỗ Minh Tuyến, blogger, Bangkok, Thái Lan
17 Nguyễn Đức Tường, TS Vật lý, Ottawa, Canada
18 Hà Dương Tường, GS Toán học, Paris, Pháp
19 Nguyễn Trí Tư, hưu trí, TP HCM
20 Hoàng Tụy, GS Toán học, nguyên Chủ tịch IDS, Hà Nội
21 Lê Thanh Tùng, Q.9, TP HCM
22 Vũ Quốc Tuấn, nguyên trợ lý của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Hà Nội
23 Phạm Quang Tuấn, PGS, Đại học New South Wales, Sydney, Australia
24 Nguyễn Anh Tuấn, kế toán viên, Thanh xuân, Hà Nội
25 Đỗ Anh Tuấn, kinh doanh, Phúc Yên, Vĩnh Phúc
26 Dương Văn Tú, Đại học Leuven, Vương quốc Bỉ
27 Nguyễn Trung, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Thái Lan, nguyên trợ lý cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên IDS, Hà Nội
28 Phạm Đình Trọng, nhà văn, TP HCM
29 Phạm Đoan Trang, nhà báo, Mạng lưới Blogger Việt Nam, Hà Nội
30 Nguyễn Thị Khánh Trâm, nghiên cứu viên, Phân viện Văn hoá Nghệ thuật Việt Nam tại TP HCM, TP HCM
31 Nguyễn Trung Tôn, mục sư, Quảng Xương, Thanh Hóa
32 Phạm Toàn, nhà giáo, Hà Nội
33 Nguyễn Trọng Tạo, nhà thơ, Hà Nội
34 Bùi Tín, nhà báo tự do, Pháp
35 Tưởng Năng Tiến, M.S.W. Narvaez Mental Health Clinic, San Jose, Hoa Kỳ
36 Nguyễn Minh Thuyết, GS TS, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội
37 Đào Thanh Thủy, cán bộ hưu trí, Hà Nội
38 Nguyễn Tường Thụy, blogger, cựu chiến binh, Hà Nội
39 Nguyễn Thị Thục, nhà báo, nguyên phóng viên đài Phát thanh Truyền hình Lâm Đồng, Đà Lạt
40 Trần Quốc Thuận, luật sư, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, TP HCM
41 Lữ Văn Thu, sinh viên, Trường Xuân, Thanh Hóa
42 Ngô Thông, kỹ sư Điện toán, Sarasota, Fl 34235, Hoa Kỳ
43 Võ Văn Thôn, nguyên Giám đốc Sở Tư pháp TP HCM, TP HCM
44 Trần Văn Thọ, GS Kinh tế, Tokyo, Nhật Bản
45 Đào Tiến Thi, thạc sĩ Ngữ văn, Uỷ viên Ban Chấp hành Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội
46 Âu Dương Thệ, TS Chính trị học, Hiệp Hội Dân chủ và Phát triển Việt Nam, Cộng hòa Liên bang Đức
47 Nguyễn Lân Thắng, Mạng lưới Blogger Việt Nam, No-U F.C., Hà Nội
48 Giuse Maria Lê Quốc Thăng, linh mục Tổng Giáo phận Sài Gòn, TP HCM
49 Nguyễn Thị Phương Thảo, nhà văn/biên kịch, Hà Nội
50 Nguyễn Quốc Thái, nhà báo, TP HCM
51 Nguyễn Văn Thạch, kỹ sư, TP Đà Nẵng
52 Trần Công Thạch, cán bộ hưu trí, TP HCM
53 Bùi Ngọc Tấn, nhà văn, Hải Phòng
54 Lê Văn Tâm, TS Hóa học, nguyên Chủ tịch Hội Người Việt Nam ở Nhật Bản, TP HCM
55 Tạ Văn Tài, luật sư, Massachusetts, Hoa Kỳ
56 Trần Đình Sử, GS TS, Hà Nội
57 Tô Lê Sơn, kỹ sư, TP HCM
58 Đào Xuân Sâm, nguyên thành viên Tổ Tư vấn của Thủ tướng, Hà Nội
59 André Menras – Hồ Cương Quyết, nhà giáo, cựu tù trước 1975, Pháp
60 Đậu Vương Quyền, hưu trí, Nederland City, Hoa Kỳ
61 Trần Thị Quyên, nghề nghiệp tự do, TP HCM
62 Đặng Thanh Quý, nhân viên văn phòng, Washington, Hoa Kỳ
63 Nguyễn Đức Quốc, nhiếp ảnh gia, Lăng Cô, Huế
64 Bùi Minh Quốc, nhà thơ, Đà Lạt
65 Võ Quê, nhà thơ, Huế
66 Đỗ Trung Quân, nhà thơ, TP HCM
67 Đinh Xuân Quân, TS, chuyên gia kinh tế, Bộ Nông nghiệp, Kabul, Afganistan
68 Dương Việt Quân, buôn bán, Q.6, Sài Gòn
69 Nguyễn Đăng Quang, Đại tá, nguyên cán bộ Bộ Công an, Hà Nội
70 Đặng Bích Phượng, cán bộ nghỉ hưu, Hà Nội
71 Nguyễn Kiến Phước, nhà báo, nguyên Đại diện báo Nhân Dân ở phía Nam, TP HCM
72 Nguyễn Hữu Phước, nhà báo, nguyên cán bộ Ban Tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam, TP HCM
73 Huỳnh Sơn Phước, nhà báo, nguyên Phó Tổng biên tập báo Tuổi Trẻ, nguyên thành viên Viện IDS, Hội An
74 Hoàng Xuân Phú, GS TSKH Toán học, Hà Nội
75 Nguyễn Thanh Phong, Anh Quốc
76 Hồ Ngọc Nhuận, nguyên Giám đốc chính trị, Chủ bút nhật báo Tin sáng Sài Gòn TP Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam TP HCM, TP HCM
77 Phạm Xuân Nguyên, Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội, Hà Nội
78 Nguyễn Thái Nguyên, TS, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng, Hà Nội
79 Trần Đức Nguyên, nguyên Trưởng ban Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
80 Hạ Đình Nguyên, cử nhân giáo khoa Triết Đại học Sài Gòn, cựu tù chính trị Côn Đảo, TP HCM
81 Quang Nguyen, High School Teacher, San Jose, California, Hoa Kỳ
82 Phạm Văn Ngọc, sinh viên, TP HCM
83 Nguyên Ngọc, nhà văn, nguyên thành viên IDS, Hội An
84 Nguyễn Xuân Nghĩa, TS, giảng viên, TP HCM
85 Kha Lương Ngãi, nguyên Phó Tổng biên tập báo Sài Gòn Giải phóng, TP HCM
86 Phạm Gia Minh, TS, Hà Nội
87 Ngô Minh, Nhà thơ, Huế
88 Huỳnh Công Minh, linh mục Tổng Giáo phận Sài Gòn, TP HCM
89 Huỳnh Tấn Mẫm, bác sĩ, Đại biểu Quốc hội khóa 6, nguyên Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn trước 1975, TP HCM
90 Nguyễn Khắc Mai, nguyên Vụ trưởng Ban Dân vận Trung ương, Hà Nội
91 Nguyễn Văn Ly (Tư Kết), nguyên Phó Bí thư Đảng ủy Sở Văn hóa Thông tin TP HCM, TP HCM
92 Lê Đình Lượng, nghề tự do, Yên Thành, Nghệ An
93 Phan Văn Lợi, linh mục Công giáo, Giáo phận Bắc Ninh
94 Trịnh Hữu Long, nhà báo, Hà Nội
95 Ngô Vĩnh Long, GS Sử học, University of Maine, Hoa Kỳ
96 Trần Văn Long, nguyên Phó Bí thư Thành đoàn Thanh niên Cộng sản TP HCM, nguyên Tổng Thư ký Uỷ ban cải thiện chế độ lao tù miền Nam Việt Nam trước 1975, TP HCM
97 Nguyễn Duy Linh, xây dựng, Bình Tân, TP HCM
98 Lý Thanh Liêm, Inspector, Houston TX, Hoa Kỳ
99 Hồ Uy Liêm, nguyên Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội
100 Nguyễn Quang Lập, nhà văn, TP HCM
101 Cao Lập, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên Giám đốc Làng Du lịch Bình Quới thuộc Tổng công ty Du lịch Sài Gòn, TP HCM
102 Phạm Chi Lan, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng, nguyên Viện phó Viện IDS, Hà Nội
103 Tương Lai, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học, nguyên thành viên Tổ Tư vấn của Thủ tướng, nguyên thành viên Viện IDS, TP HCM
104 Vũ Minh Khương, Hải Phòng, Singapore
105 Lê Xuân Khoa, nguyên giáo sư thỉnh giảng, Viện Chính sách Đối ngoại, Đại học Johns Hopkins, Washington DC, Hoa Kỳ
106 Vũ Nhật Khải, GS TS, nguyên trưởng khoa Triết  Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc, Hà Nội
107 Nguyễn Vi Khải, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng, Hà Nội
108 Trần Ngọc Kha, nhà báo, Hà Nội
109 Hà Thúc Huy, PGS TS, giảng viên đại học, TP HCM
110 Hoàng Hưng, làm thơ – dịch sách – làm báo, TP HCM
111 Nguyễn Đăng Hưng, TSKH, GS Đại học Liège, Bỉ, đã hồi hương, TP HCM
112 Nguyễn Thế Hùng, GS TS Đại học Đà Nẵng, Đà Nẵng
113 Nguyễn Mạnh Hùng (Nam Dao), nguyên GS Kinh tế, Đại học Laval, Quebec, Canada
114 Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Giám mục Giáo phận Vinh, Nghệ An
115 Phạm Minh Hoàng, nguyên giảng viên Đại học Bách Khoa TP HCM, TP HCM
116 Trần Phúc Hòa, giáo viên, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai
117 Hồ Hiếu, cựu tù Côn Đảo, nguyên Chánh văn phòng Ban Dân vận Mặt trận, Thành uỷ TP HCM, TP HCM
118 Nguyễn Đức Hiệp, chuyên gia khoa học khí quyển, Bankstown NSW 2200, Australia
119 Phạm Duy Hiển, GS, nguyên Viện trưởng Viện Hạt nhân Đà Lạt, nguyên thành viên IDS, Hà Nội
120 Phạm Duy Hiển, kỹ sư, Vũng Tàu
121 Vũ Thư Hiên, nhà văn, Pháp
122 Lê Minh Hằng, TS, Hà Nội
123 Võ Thị Hảo, nhà văn, Hà Nội
124 Đặng Thị Hảo, TS, nguyên Phó Ban Văn học Cổ Cận đại, Viện Văn học, Hà Nội
125 Nguyễn Gia Hảo, nguyên thành viên Tổ Tư vấn của Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt, Hà Nội
126 Chu Hảo, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường, nguyên thành viên IDS, Hà Nội
127 Phan Tấn Hải, nhà văn, Hoa Kỳ
128 Phạm Văn Hải, Software Developer, Nha Trang
129 Ngô Văn Hải, công nhân, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái
130 Trần Hải Hạc, TS, nguyên PGS Đại học Paris 13, Paris, Pháp
131 Đỗ Khắc Hà, chủ doanh nghiệp, Hà nội
132 Lê Công Giàu, nguyên Tổng thư ký Tổng hội Sinh viên Sài Gòn (1966-1967), nguyên Phó Bí thư Thường trực Đoàn Thanh niên Cộng sản TP HCM (1975-1980), nguyên Giám đốc Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư TP HCM (ITPC), TP HCM
133 Nguyễn Thị Ngọc Giao, Chủ tịch Tiếng nói người Việt, Hoa Kỳ
134 Nguyễn Ngọc Giao, nguyên Phó Tổng thư ký Hội Người Việt Nam tại Pháp, Chủ biên tạp chí Diễn Đàn, Paris
135 Nguyễn Hữu Giải, linh mục Công giáo, Tổng Giáo phận Huế
136 Uông Đình Đức, kỹ sư cơ khí, TP HCM
137 Trần Tiến Đức, nhà báo, nguyên vụ trưởng Vụ Giáo dục – Truyền thông, Uỷ ban Quốc gia Dân số và Kế hoạch hóa Gia đình, Hà Nội
138 Huy Đức, nhà báo, TP HCM
139 Lê Hiền Đức, nhà hoạt động dân quyền, Hà Nội
140 Phùng Liên Đoàn, TS, chuyên gia an toàn điện hạt nhân, chủ tịch VASF-CERSR-IVNF, Hoa Kỳ
141 Nguyễn Đình Đầu, nhà nghiên cứu, TP HCM
142 Lê Hiếu Đằng, nguyên Phó Tổng Thư ký Uỷ ban Trung ương Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam TP HCM, đại biểu Hội đồng Nhân dân TP HCM khóa 4, khóa 5, TP HCM
143 Tạ Dzu, nhà báo tự do, quận Cam, Hoa Kỳ
144 Nguyễn Duy, nhà thơ, TP HCM
145 Lã Việt Dũng, chuyên viên tin học, No-U F.C., Hà Nội
146 Nguyễn Văn Dũng, nhà giáo, TP Huế
147 Hoàng Dũng, PGS TS, TP HCM
148 Phạm Chí Dũng, nhà báo, TP HCM
149 Lê Đăng Dung, kỹ sư thủy lợi, Đống Đa, Hà Nội
150 Lê Đăng Doanh, TS, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng, nguyên thành viên IDS, Hà Nội
151 Nguyễn Xuân Diện, TS, Viện Hán Nôm, Hà Nội
152 Nguyễn Trung Dân, nhà báo, Giám đốc chi nhánh NXB Hội Nhà văn chi nhánh phía Nam, TP HCM
153 Phạm Hoàng Danh, làm thuê tự do, TP HCM
154 Tống Văn Công, nhà báo, nguyên Tổng biên tập báo Lao Động, TP HCM
155 Nguyễn Huệ Chi, GS, nguyên Chủ tịch Hội đồng Khoa học Viện Văn học, Hà Nội
156 Huỳnh Ngọc Chênh, nhà báo, TP HCM
157 Nguyễn Hữu Châu Phan, nhà nghiên cứu, Huế
158 Bùi Chát, Nhà Xuất bản Giấy vụn, TP HCM
159 Nguyễn Nguyên Bình, hội viên Hội Nhà văn Hà Nội, Hà Nội
160 Huỳnh Kim Báu, nguyên Tổng thư ký Hội Trí thức Yêu nước TP HCM, TP HCM
161 Lý Nhân Bản, kỹ sư điện toán, doanh nhân, Redwood City, California, Hoa Kỳ
162 Nguyễn-Khoa Thái Anh, cư dân California, Hoa Kỳ
163 Nguyễn Văn An, cán bộ hưu trí, TP.HCM
164 Bùi Tiến An, cựu tù chính trị chuồng cọp Côn Đảo, nguyên cán bộ Ban Dân vận Thành ủy TP HCM, TP HCM
165 Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện IDS, Hà Nội
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét