Tổng số lượt xem trang

Thứ Hai, 7 tháng 1, 2013

Lượm tin tức

CHÍNH TRỊ-PHÁP LUẬT
- Độc giả L.A. đã gửi hình ảnh 3 tàu chiến Trung Quốc cập Cảng Sài Gòn lúc 7h30′ sáng 07/1/2013. Vậy các báo không biết để đưa tin hay bị cấm đưa? Mời xem thông tin về trận Hải chiến Hoàng Sa 1974 trên Wikipedia, diễn ra từ 17-19/1/1974. Liệu sau chuyến thăm, phía Trung Quốc có mời ban lãnh đạo TPHCM cùng Bộ tư lệnh Hải quân Vùng 3 lên tàu đi thăm … Hoàng Sa một chuyến không? Còn gì thú vị hơn?!
8
9
11


- Tin từ 1 CTV có mặt tại TP Vinh cho biết tình hình liên quan tới vụ xử 14 thanh niên Công giáo và Tin lành vào sáng mai: “Hiện nay các cán bộ an ninh cấp cao đang đổ về thành phố Vinh. Đã có các xe chuyên dụng để trấn áp đám đông tập kết về khu vực báo Công an Nghệ An, khu vực tượng đài Hồ Chí Minh. Các điểm cao gần khu vực xử án đang được gấp rút lắp đặt các loại camera chuyên dụng hiện đại. Đêm nay các lực lượng CSGT được tăng cường ứng trực 100% quân số trên các tuyến đường đổ về Vinh, đặc biệt đoạn từ đường HCM qua ngã 3 Yên Lý về Vinh… Việc kiểm tra kiểm soát gắt gao các xe có biển số Hà Nội đã được tiến hành từ đêm qua”.
12
Bên trong hàng rào là hai xe chuyên dụng chống biểu tình

- Độc giả L.A, gửi tiếp một bức ảnh rất rõ cờ TQ và VN treo bên nhau trên chiếc tàu chiến TQ:
1


- Vậy là báo chí VN được lệnh giấu nhẹm vụ 3 tàu chiến TQ vô Cảng Sài Gòn rồi? “Tình nghĩa môi răng” mà phải dấm dúi như ăn cắp vậy sao?
Trung Quốc đẩy mạnh xây dựng trái phép cơ sở hạ tầng ở Hoàng Sa (GDVN). Vậy là nó chọn đúng ngày tàu chiến nó tới thăm TPHCM để đưa tin này. “Người phát ngôn” Lương Thanh Nghị không biết sẽ tự bịt miệng mình với khi nào?

Vietstudies:


Hòa đàm Paris 1968: Trò chơi hai cấp độ? (TVN)    —Việt Nam có 290 triệu phú chứng khoán (VnEx)
Phó Thủ tướng yêu cầu nghe lại vụ Tiên Lãng (VNN)   —-Bắc Ninh: Bồi thường đất đã đúng quy định? (VNN)
Ám ảnh “làng ung thư”  (NLĐ) -Hòa Hậu (huyện Lý Nhân -Hà Nam), Ninh Vân (huyện Hoa Lư- Ninh Bình), Minh Tân (huyện Kinh Môn -Hải Dương) là những địa danh nối tiếp cái tên Thạch Sơn (Lâm Thao – Phú Thọ) ám ảnh bởi số người chết vì ung thư ngày càng nhiều
Hưởng ứng lời kêu gọi của TGM Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Thái Hà cầu nguyện cho Công lý – Sự thật và các nạn nhân (NVCL)   —Giáo dân Thái Hà ký tên kêu gọi thực thi quyền con người tại Việt Nam (NVCL)
“Ôsin” họp khẩn… bàn lương mới (LĐ) -  Báo chí mấy hôm nay thông tin về lương tối thiểu theo vùng được thực thi từ 1.1.2013, trong đó nghề “ôsin” cũng nằm trong diện áp dụng. Thông tin này làm “ôsin” phấn khởi ra mặt. Thế nhưng…….Ban hành chính sách với những đối tượng mà không có tính khả thi khi thực hiện thì cũng chỉ có hiệu lực… trên giấy mà thôi.
Thừa Thiên – Huế: Xua đuổi 116 tàu Trung Quốc  (DV)   —Ngày 25.1, thêm “lá chắn” bảo vệ ngư dân (DV)

KINH TẾ
VĂN HÓA-THỂ THAO
- Làng giải trí Việt: Ai làm hư ai? (SK&ĐS).
- Cờ vua Việt Nam: “Mỏ” nhân tài… lộ thiên (SK&ĐS).

  <<<===7 bầu ngực U40 tuyệt đẹp của sao Việt -24h.com.vn






GIÁO DỤC-KHOA HỌC
Trường đình (PNTP).
XÃ HỘI-MÔI TRƯỜNG
—-Lộ chất lạ trong nước lẩu, nghe kể hết muốn ăn - VTC
SGGP  Hàng trăm tàu khách xả thải xuống vịnh Nha Trang  —-Hàng trăm tấn hàng trong container bị mất cắp -Lao Động  —-Cảnh giác! Không cầm giúp đồ cho người lạ ở sân bay, dù chỉ chai nước - Báo Giáo dục Việt Nam   —Chăm người tâm thần, nữ điều dưỡng bị đâm dã man - Zing
Xem cảnh mật phục bắt buôn lậu giữa đêm (VNN) -Hình ảnh PV VietNamNet ghi lại cảnh bộ đội biên phòng mật phục giữa đêm tối bắt tội phạm buôn lậu đang gia tăng vào dịp Tết.   —-Bắt vụ vận chuyển 16,5 kg sừng tê giác (TN)   —-Tập kết hàng giả để “bung” trong dịp tết (TN)
Thịt bẩn tràn vùng biên (NLĐ) -Nhiều mặt hàng thực phẩm đã chế biến hoặc còn tươi sống từ Trung Quốc như xúc xích, chả cá, nội tạng heo, cá tầm, gà cay, khô “hổ”, bim bim… đang nhập lậu qua biên giới Lào Cai để tuồn vào nội địa tiêu thụ
Ghen tuông, vợ nấu nước sôi “luộc” chồng (VNN)   —-Làng đánh vợ (VNN)   —Lâm tặc đốn 12 cây cổ thụ hàng trăm năm tuổi (TN)
Nã súng vào ô tô giữa ban ngày  (TN) -Khoảng 9 giờ ngày 6.1, trên đường Hoàng Văn Thụ, P.Chánh Nghĩa, TP.Thủ Dầu Một (Bình Dương) xảy ra vụ nã súng vào ô tô du lịch.
Ồn ào đám cưới con “quan xã” (NLĐ) -Tại Khu Di tích Vàm Nhựt Tảo – Long An, nơi thờ anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực, gia chủ đãi khoảng 70 mâm, trước đó đã tổ chức tại nhà riêng chừng 30 mâm nên khách mời xấp xỉ 1.000 người
Xe khách đoạt mạng 2 anh em ruột (NLĐ)   —-Lấn container, một người bị thương nặng (NLĐ)   —-Một tháng cướp 18 vụ(NLĐ)   —Uống say, vác dao chém chết người đang ngủ(NLĐ)  —-Đặc nhiệm hình sự bắt 2 tên cướp nhiễm HIV(NLĐ)   —-Bắt xe khách chở cầy vòi đốm và rắn rồng(NLĐ)    —-Nổ súng sau va chạm giao thông gây náo loạn (VNN) -Chỉ sau một va chạm nhẹ, 2 đối tượng đã nổ súng uy hiếp đối thủ, rồi dùng dao cố sát nạn nhân.Chặn xe máy, hạ sát đối thủ ở giữa đường (VnEx)
Một phụ nữ nguy kịch vì truy đuổi cướp - Dân Trí     —‘Yêu râu xanh’ hãm hại, chôn bé gái 5 tuổi trong rừng -Zing    —Gái mại dâm than trời vì ế khách ngày Hà Nội dưới 10 độ C - Báo Giáo dục Việt Nam
Sinh viên xin việc bị ép mua 7 triệu đồng hàng đa cấp (VnEx)   —-Cháy kho xưởng trong đêm, khói lửa ngút trời (NLĐ)
“Người đàn bà yêu” nổi tiếng Sapa giờ ra sao? (DV) -Câu chuyện tình ầm ĩ xuất hiện trên mặt báo đã tròn 3 năm. Chàng trai ấy giờ đã ngót 40, còn “em” của chàng giờ đã tròn 90 tuổi, cái tuổi thượng thọ. Nhiều độc giả tò mò, không rõ qua bao sóng gió, chuyện tình của họ giờ này ra sao?

QUỐC TẾ

1537. DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH hay BẠO LỰC CÁCH MẠNG ?

“Tôi muốn gởi những dòng cuối này đến anh Nguyễn Phú Trọng, với tư cách là đồng môn – tôi học trước anh hai khoá. Tuy là học một trường, nhưng tôi và anh có hai cách tiếp cận khác về CNXH. Tôi nghiêng về CNXH dân chủ của Lassall, còn anh theo CNXH bạo lực của Lénin.”
“Bạn bè chúng ta thời đại học nói với tôi rằng kể từ khi anh lên chức TBT đã có hơn 50 người yêu nước bị làm khó dễ, bị bắt, bị giam cầm vì nhiều lý do vu vơ.”

DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH hay BẠO LỰC CÁCH MẠNG ?

Hoàng Lại Giang *
Dấu ấn của những cuộc “Bạo lực cánh mạng”
Nếu phải chọn một trong hai hình thái trên, tôi chọn ”DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH “. Bởi “Bạo lực cách mạng“ là bước đường cùng để nhân dân bằng “sức mạnh cứng” của mình đập tan một thể chế chính trị tàn bạo, tham nhũng, một thể chế đối lập với nhân dân về mọi phương diện, trong thể chế ấy mọi quyền của dân đều bị tước đoạt và kẻ cầm quyền lộng hành … đẩy dân vào con đường cùng. Tức nước vỡ bờ, trên thực tế đây là sự đối đầu một sống một chết giữa nhân dân – kẻ bị trị và bên kia là kẻ cầm quyền – kẻ thống trị nắm giữ mọi quyền lực. Với tôi dù bên nào thắng thì vẫn gây ra những tấn thảm kịch cho nhân dân, dẫn đất nước vào chỗ suy vong.

Nhưng nói thế không có nghĩa là tôi vô cảm với những cuộc “BẠO LỰC CÁCH MẠNG“ của nhân dân 13 xứ thuộc địa Anh cùng đứng dậy giành lại nền độc lập từ tay thực dân Anh và từ đó xây nên bản Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1791 ,trong đó có 10 tu chính án như đóng đinh vào lịch sử tiến hoá của nhân loại về quyền của con người và quyền của kẻ cai trị, trong đó dân có quyền “Tự do ngôn luận, tự do báo chí và tự do tôn giáo …” Và cuộc “Bạo lực cách mạng” Pháp năm 1789-1799. Tuyên ngôn nhân quyền từ cuộc “Bạo lực cách mạng” này cho tới hôm nay vẫn là điểm son mà loài người tiến bộ nhớ ơn: “…Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. “Nguyên tắc chủ yếu đặt ở chủ quyền Quốc gia. Không một tổ chức, không một cá nhân nào có thể sử dụng quyền hành mà không xuất phát từ nguyên tắc đó”.
Chính những cuộc “Bạo lực cách mạng” trên đã tước đi những quyền mang tính tuyệt đối của các nhà cầm quyền độc tài, toàn trị, sa đoạ, và buộc họ phải coi dân làm trọng.
Cách mạng tháng Mười năm 1917 là “Bạo lực cách mạng” lật đổ chế độ Sa Hoàng bằng sức mạnh cứng của nhân dân và quân đội. Nhưng cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 của ta lại là cuộc “Diễn biến hoà bình”. Con đường thành công của cách mạng tháng Tám là cuộc tuyên truyền, vận động nhân dân…và chờ thời cơ chín muồi, chuyển hoá một chính thể thực dân – phong kiến sang chính thể dân chủ cộng hoà. Xét trên phương diện rộng, thì đây chính là chọn lựa của cụ Phan Chu Trinh: Khai dân trí,  Chấn dân khí, Hậu dân sinh.
Lịch sử những cuộc chuyển hoá quyền lực
“Diễn biến hoà bình” thực chất là sự chuyển hoá tư duy. Từ tư duy cũ theo truyền thống, vận động sang tư duy mới tiến bộ hơn, hợp xu thế thời đại và hợp lòng dân hơn. Rất tiếc loài người đang ở giữa thập niên 20 của thế kỷ 21 mà một vài quốc gia như Việt Nam lại không muốn thay đổi tư duy, thậm chí muốn quay lại tư duy truyền thống theo kiểu phong kiến, nghĩa là ai giành được nước thì sẽ giữ độc quyền cai trị dân hết thế hệ này sang thế hệ khác. Nếu trước đây theo kiểu cha truyền con nối thì ngày nay theo nhóm lợi ích có tôn chỉ mục đích đậm nét hình thức. Trên thực tế chính sách mị dân thuở ban sơ ấy đã mất lòng tin trong dân từ lâu lắm rồi. Quyền lực từ xưa tới nay bao giờ cũng có sức mê hoặc rất lớn, có sức hút đáng sợ, ngay cả những chính khách hay nhà văn hoá lớn cũng không dễ rứt ra được; và nếu quyền lực rơi vào tay những kẻ chủ yếu lao động bằng cơ bắp, mang “thành phần cơ bản”, thì quyền lực là mối nguy hiểm cho cả dân tộc! Và vì vậy họ rất sợ “Diễn biến hoà bình”. Những lý giải sai lệch “Diễn biến hoà bình” của họ hoàn toàn dựa theo cảm tính chủ quan, thiếu cơ sở khoa học và thực tiễn lịch sử. Hãy đọc lại lịch sử nước nhà để thấy “Diễn biến hoà bình” là tất yếu của sự tiến hoá loài người, không có gì phải lo sợ.
Lịch sử Đại Việt còn ghi rõ ở triều Đinh, Đinh Tuệ lên ngôi lúc 6 tuổi. Vào lúc quân Tống chuẩn bị xâm chiếm nước ta, cả triều thần tôn Lê Hoàn lên ngôi. Thái hậu họ Dương, vượt qua lệ ước dòng họ, đã đứng về phía Lê Hoàn, chấp nhận phế đế, chung lòng chống kẻ thù tuyền kiếp của Đại Việt. Cuộc phế lập trong ôn hoà của Dương Thái hậu và đình thần triều Đinh đã xoay chuyển tình thế, làm chỗ dựa cho cuộc chống Tống kết quả và đưa nhà tiền Lê vào lịch sử như một vương triều có công chống xâm lược của Đại Việt.
Cuối nhà tiền Lê, bắt đầu bằng cuộc tranh giành ngôi vương và sự bạo ngược của Lê Long Đỉnh …Triều thần tiền Lê đã sáng suốt tôn Lý Công Uẩn lên ngôi. Tất nhiên công đầu thuộc về nhà sư Vạn Hạnh. Không ngờ đây lại là một triều đại có tầm nhìn của trăm năm, nghìn năm, cấp tiến, để lại cho hậu thế những di sản văn hoá vật thể và phi vật thể sáng giá cho đến tận hôm nay. Văn hoá đời Lý là văn hoá từ bi hỷ xả của Phật giáo. Nhớ lại cuối thời tiền Lê, xã hội Đại Việt lấy quyền lực làm quốc sách, anh em tranh giành nhau quyền lực, giết hại nhau vì quyền lực, tàn bạo, sa đọạ, dâm đãng … mới thấy Lý Thái tổ tôn vinh Phật giáo, lấy tư tưởng nhà Phật làm tư tưởng chính thống của Đại Việt là có lý do của Ngài. Con người ấy, tư tưởng ấy, tầm nhìn ấy đã không do dự dời đô về La Thành – Đại La và sau đổi thành Thăng Long. Về chính trị, ngoại giao,… Lý Thái Tổ đã tự mình làm gương, bắt các thái tử phải cầm quân ra trận. Dư âm của các sứ quân, rồi Chiêm Thành, Chân Lạp đều lo sợ không còn đất sống, phải triều cống Đại Việt để “bảo toàn đất nước và sinh mạng nhân dân”. Đại Việt bước vào thời kỳ nước yên, biển lặng, giặc Tống cũng nể sợ, muốn mà không dám gây hấn.
Vua tôi đồng lòng, đấy là thời kỳ giữa vua và dân ít có khoảng cách nhất. Suy đi ngẫm lại, phế và lập theo con đường “Diễn biến hoà bình” là cần thiết cho một xã hội tàn bạo, hủ bại, tham nhũng, hách dịch, chuyên quyền chuyển hoá bằng con đường hoà bình sang một xã hội tiến bộ hơn, tốt đẹp hơn, nhân ái và hợp lòng dân hơn mà ít tốn xương máu, thì ai lại nỡ lên án, thậm chí căm thù, dùng quyền lực mà triệt tiêu.
“Quân sư” cho “diễn biến hoà bình” ở Việt Nam là Trần Thủ Độ. Nếu không có sự tận diệt con cháu nhà Lý cho chắc vương triều Trần vô cùng dã man thì đây là cuộc chuyển giao quyền lực đẹp nhất từ vương triều Lý đang suy vong sang vương triều Trần đầy sinh lực. Lịch sử không có “giá như”, nếu cho phép “giá như” thì tôi “giá như” không có cuộc phế lập bằng con đường “Diễn biến hoà bình” này, thì Đại Việt ta chắc khó bề đương nổi với đế quốc Nguyên Mông hùng mạnh đang tung vó ngựa từ Đông sang Tây. Chính trong cái hoạ binh đao Nguyên Mông thế kỷ 13, dân tộc ta xuất hiện nhiều danh tướng và hiền tài cho tới hôm nay vẫn còn là những vì sao chói sáng trên bầu trời nhân loại.
Thật là một thiếu sót, nếu lịch sử quên cuộc phế – lập, “Diễn biến hoà bình” triều đại Lê Thánh Tông. Triều Lê Nhân tông tưởng suy bởi sự tranh giành quyền lực, các nhóm triều thần gian xảo làm những cuộc đảo chính, lập thái tử Nghi Dân lên ngôi. Nhưng chỉ 6 tháng sau, cuộc “Diễn biến hoà bình”của các đại thần còn chút lòng yêu nước thương nòi đã lập Tư Thành lên ngôi, hiệu là Lê Thánh tông. Khác với các vua trước cùng thời, Lê Thánh Tông tỏ rõ bản lĩnh và đức độ của một đấng anh quân, đã khai sáng triều đại mình.
Cho đến hôm nay, là người Việt, dù có đi bốn phương trời, nhưng không ai không tự hào về đất nước nghìn năm văn hiến của mình. Nhưng cái gốc của nghìn năm văn hiến khởi nguồn từ đâu? Tôi nghĩ có thể nó bắt đầu từ đời Lý với việc định đô ra Thăng Long của Lý Thái tổ, với việc lập Văn Miếu của Lý Thánh Tông… Nét Văn hoá từ bi hỷ xả sâu đậm nhất ở thời kỳ này.
Văn hiến thời Trần là Hội nghị Diên Hồng, tìm sự đồng lòng trong công cuộc chống kẻ thù mạnh hơn ta trăm lần, nghìn lần, là “Sát thát!” với kẻ thù, là văn hoá độ lượng dung tha, gác lại quá khứ hướng về tương lai của các vua Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông sau khi thắng trận. Một nét văn hoá đậm tính nhân văn của cha ông một thời cực đẹp vậy mà ở thời hiện đại nhiều nhà lãnh đạo của chính thể mới lại e dè, lo ngại và hướng về tư tưởng bảo vệ vương triều hơn là tư tưởng nhân văn thời Trần. Điều đó tạo nên sự hận thù của người trong một nước, chứ không hề nghĩ về Hội nghị Diên Hồng, nghĩ về hai chữ “Sát thát!”, về khoan dung. Nói cách khác, ý thức hệ đã đẩy chủ nghĩa nhân văn ra khỏi tầm với của nền văn hiến có tự ngàn xưa! Mối nguy hiểm mà cha ông thời nào cũng cảnh giác là đưa đất nước xích lại gần hơn với kẻ thù và đẩy nhân dân ra khỏi tầm của Hội nghị Diên Hồng.
Nhưng nét văn hiến nghìn năm đậm nét nhất là ở văn hoá đời Lê với tư tưởng nhân văn của Nguyễn Trãi, tư tưởng “Tâm công sách” của nhà văn hoá kiệt xuất này. Sau Nguyễn Trãi là Lê Thánh tông. Đây là một vị vua để lại sau mình nhiều giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể lớn nhất trong các triều đại. Ngoài việc “định phép thi hương, sửa phép thi hội” nhằm chọn hiền tài cho đất nước, danh xưng tiến sĩ bắt đầu từ triều đại này. Trong văn bia đời Lê Thánh Tông, tiến sĩ Thân Nhân Trung để lại cho hậu thế những câu bất hủ: “… Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết.” Với 24 điều dạy của vua Lê Thánh Tông, chúng ta cảm nhận được giá trị của một nền văn hoá cốt lõi của Việt Nam hôm nay: nền văn hoá lấy dân làm trọng, quan lại là nô bộc của dân, ý dân là ý Trời. Và cũng bắt đầu từ vua Lê Thánh Tông, cương vực lãnh thổ, trên bộ, trên biển đảo được các quan sở tại trình báo chi tiết từ nơi mình ở có núi, sông, hồ, biển đảo, … lên triều đình để lập địa đồ cho nước được chính xác. Ngài còn căn dặn các tướng sĩ: 
“Ta phải gìn giữ cho cẩn thận đừng để cho ai lấy một phân núi, một tấc sông của vua Thái Rổ để lại .”
Trần Trọng Kim viết trong “Việt Nam sử lược”: “… Xem những công việc của vua Thánh Tông thì ngài thật là một đấng anh quân. Những sự văn trị và võ công ở nước Nam ta không có đời nào thịnh hơn thời Hồng Đức. Nhờ có vua Thái Tổ thì giang sơn nước Nam mới còn, và nhờ có vua Thánh Tông thì văn hoá nước ta mới thịnh.”
“Diễn biến hoà bình” không phải như những gì người ta gán ghép
Lật lại lịch sử phát triển Việt Nam ta thì “Bạo lực cách mạng” thường xảy ra khi cần lật đổ ách đô hộ của kẻ thù dân tộc, còn hầu hết những chuyển hoá các triều đại đều là từ việc phế – lập mà ngày nay gọi là “Diễn biến hoà bình”. Đấy cũng là sự vận động khách quan của quy luật. Không hiểu từ cơ sở nào mà có người lại định nghĩa: “’Diễn biến hoà bình’ là một trong những chiến lược có ý nghĩa và phạm vi toàn cầu của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động, được hình thành từ những năm cuối thập kỷ 40 đầu thập kỷ 50, hoàn chỉnh ở thập kỷ 80 của thế kỷ 20, nhằm chống các nước XHCN, phong trào độc lập dân tộc và phong trào tiến bộ trên thế giới…” (Báo điện tử của Đảng CSVN).
Quả thật tôi chưa bao giờ dám nghĩ có một Thánh nhân nào đó lại có thể lật đổ được CNXH ở Đông Âu và Liên Xô. Bởi lẽ các chế độ này qua một bộ máy tuyên truyền lớn nhất trong mọi thời đại đã bám rễ sâu từ trung ương đến tận hang cùng ngõ hẻm các làng xã trên 50 năm ở các nước Đông Âu và 70 năm ở Nga. Hơn một lần tôi nói trên mạng Internet rằng sự sụp đổ ấy bắt nguồn từ ý chí chủ quan của nhiều nhà lãnh đạo các nước XHCN. Chính họ đã bất chấp quy luật tiến hoá của lịch sử phát triển loài người. Sau trên 2 thập kỷ, tôi chưa thấy Đảng cộng sản ở Liên Xô và Đông Âu trở lại nắm quyền lãnh đạo ở nước họ – mặc dù chế độ mới ở các nước ấy không cấm Đảng cộng sản hoạt động. Vì vậy, một Khrutsov, một Gorbachev không thể có sức mạnh siêu phàm nào để giữ cái chính quyền ra đời từ ý chí luận của các bậc tiền nhiệm! Nói cách khác, Khrutsov nhận ra tính không tưởng của thể chế mà họ đang dắt nhân dân Nga đi, nhưng đến Gorbachev nhận ra sự bất đồng quyết kiệt của nhân dân Nga với chính quyền mà ông là đại diện, và sự chuyển biến của ông nằm trong cái thế tất yếu của lịch sử.
Những cuộc “Diễn biến hoà bình” gần đây nhất là những cuộc cách mạng mang tên hoa nhài ở các nước Bắc Phi. Những cuộc xuống đường của nhân dân đã buộc những nhà lãnh đạo cao nhất, từng có thâm niên trị vì nước họ, phải từ chức, hoặc phế bỏ. Ai cưỡng lại sức mạnh của nhân dân, người đó hãy noi gương Gaddafi ở chiếc cống ngầm!
Nhưng tôi lại thiện cảm với đất nước Miến Điện. 40 năm trong chế độ quân phiệt, nhưng dân tộc này lại “Diễn biến hoà bình” theo đúng nghĩa của cụm từ trên để lột xác thành một nước tự do, dân chủ và nhân quyền đích thực, những nhà chính trị khác chính kiến đã được tự do ra khỏi trại giam và tiếp tục hoạt động trở lại. Người tù nhân tiêu biểu là bà Suu Kyi. Báo chí và xuất bản đã được tháo “vòng kim cô” định hướng, khống chế và kiểm duyệt. Dân được quyền ra báo và xuất bản, lập hội, biểu tình, … như những gì mà Nguyễn Ái Quốc đòi thực dân Pháp phải trao cho nhân dân VN từ đầu những năm 20 của thế kỷ trước. Vậy mà hôm nay Quốc hội VN vẫn chưa thông qua được luật xuất bản trong đó tư nhân được lập nhà xuất bản. Còn Miến Điện thì …coi đó là chuyện tất yếu để trở thành một nước dân chủ.
Công lao vĩ đại này trước tiên thuộc về tổng thống Thein Sein.
Lịch sử các triều đại chứng minh, những kẻ nắm quyền lực, thường có xu hướng giữ chặt quyền lực, tăng thêm uy quyền để dễ trị vì dân chúng, và vì vậy trường hợp vị tổng thống đương nhiệm Thein Sein là một ngoại lệ. Hành động của tổng thống Thein Sein chắc chắn được nhân dân thế giới tôn vinh như là bậc vĩ nhân của thời hiện đại, dám chia xẻ quyền lực, đúng hơn là trao lại quyền lực về tay nhân dân, làm một tấm gương cho không ít nhà lãnh đạo một số nước đang còn mê muội bởi quyền lực, coi nhân dân như những tù nhân của chính mình dưới lớp vỏ hào nhoáng: Chính quyền của dân, do dân, vì dân!
Việt Nam thời hiện đại vẫn còn đó những tấm gương trung dũng kiên cường, học rộng tài cao chí lớn …mưu lược một thời. Ở đây tôi xin nhắc đến Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Ái Quốc. Cả ba nhà chí sĩ này theo 3 con đường cứu nước khác nhau. Phan Bội Châu thì nhờ đồng lân, đồng chủng là Nhật Bản giúp ta chống Tây. Phan Chu Trinh theo con đường “thức tỉnh nhân tâm, hợp quần, hợp xã, khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh, ai nấy thấy rõ ngọn nguồn, đồng tâm hiệp lực đạp đổ cường quyền …” (Thư của Phan Chu Trinh gởi Nguyễn Ái Quốc ở Marseille 18-12-1922). Còn Nguyễn Ái Quốc thì theo Quốc tế 3. Ở đây tôi không đề cập đến nội dung của hai con đường cứu nước(giữa PCT và NAQ) mà tôi chỉ nói tới phương pháp cách mạng không đồng nhất giữa hai người, cũng trong thư PCT gởi NAQ: “…từ thời xưa tới nay, từ Á sang Âu chưa có một người nào làm cái việc như anh (NAQ), anh lấy cái lẽ ở nước mình lưới giăng tứ bề, mà về nước ắt là sa cơ, gia dĩ dân tình sĩ khí cơ hồ tan tác, bởi cái chính sách cường quyền nên sự hấp thụ lí thuyết kém cỏi, bởi thế mà anh cứ khư khư cái phương pháp “ngoạ ngoại chiêu hiền đãi thời đột nội”
Nhưng cuối cùng Nguyễn Ái Quốc đã thành công. Cuộc Cách mạng tháng Tám dựng lên nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, cùng với Tuyên ngôn độc lập, Bản hiến pháp năm 1946 … là sự tích luỹ bao kinh nghiệm, bài học, thành quả của nhân loại tiến bộ cho tới thời ấy mà Nguyễn Ái Quốc có được.
Con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc là tấn công chính quốc ngay trên chính quốc. Và khi có điều kiện thì về nước. Cuộc “Diễn biến hoà bình” cách mạng tháng Tám năm 1945 đã được Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị và mai phục từ những năm 20 của thế kỷ 20. Rất tiếc sau đó cuộc “Diễn biến hoà bình” lại trở thành “Bạo lực cách mạng” do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, mà hôm nay chưa dễ có sự đồng thuận của nhiều nhà lịch sử, nhà khoa học, học giả trong và ngoài nước. Nhưng nhìn vào thực tế thì ai cũng thấy Quốc tế 3 thất bại và Quốc tế 2 thành công ít nhất là ở các nước Tây Âu. Lãnh tụ của Quốc tế 2 là Enghen. Những năm cuối đời, Enghen nhìn thấy sai lầm của chủ nghĩa L.A. Blanqui (lãnh đạo thuộc phái bạo lực trong Quốc tế 1): Dựa vào bạo lực cách mạng là có thể tạo ra một xã hội không có áp bức và bóc lột! “…Tuy nhiên, đừng tưởng đó là toàn bộ nền chuyên chính của toàn bộ giai cấp cách mạng tức là giai cấp vô sản, mà là chuyên chính của số ít người …số người này lại phục tùng chuyên chính của một hoặc vài người” (Toàn tập Marx-Enghen, cuốn 18, tr 580-581 bản Hoa văn). Thời hiện đại TBT Ziuganov cho rằng: “Nguyên nhân cơ bản khiến Liên Xô và Đảng cộng sản sụp đổ là sự lũng đoạn đối với tài sản, quyền lực và chân lý”. Ở đây không có kẻ thù địch và “Diễn biến hoà bình” nào cả!
Cái giá của “Bạo lực cách mạng” và nền văn hiến Đai Việt thời hiện đại
Tôi nghĩ giá như – lại giá như – chúng ta đứng trên nền tảng của chủ nghĩa dân tộc như hầu hết các nước ở Đông Nam Á thì biết đâu chúng ta tránh được cuộc “Bạo lực cách mạng” kéo dài suốt 30 năm cùng với những cuộc cách mạng gọi là “dân chủ” gây ra cho dân tộc chúng ta bao nhiêu cảnh nồi da xáo thịt, hàng bao nhiêu triệu gia đình tan nát, mẹ mất con, vợ mất chồng, anh mất em, những cuộc ly tán mất nhà mất cửa mất cả quê hương. Một thứ văn hoá phi văn hoá làm đảo lộn văn hoá trong sáng của người Việt được giữ gìn trong trường kỳ lịch sử, qua các cuộc giảm tô, cải cách ruộng đất, cải tao tư sản. Con người Việt thời cách mạng nhìn đâu cũng thấy kẻ thù … Con tố cha, vợ tố chồng, anh tố em. Cho đến tận hôm nay kẻ thù lại mai danh ẩn tích trong “Diễn biến hoà bình”, còn chính kẻ thù đã và đang cướp biển đảo của ta thì gọi là đồng chí vàng, bạc! Thế hệ chúng tôi lớn lên trong cách mạng, số còn sống hôm nay vẫn không hiểu đây là thứ văn hoá gì? Cho đến hôm nay tôi vẫn nhớ như in lời dạy của vua Trần Nhân tông lúc tôi còn là sinh viên: “Các người chớ quên ,chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ, trái đạo. Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một đường làm một nẻo. Cho nên cái họạ lâu đời của ta là họạ Trung Hoa…”(Di chúc của Trần Nhân tông).
Cốt lõi của một dân tộc là văn hoá chứ không phải là đất rộng hay hẹp, nhiều tài nguyên hay ít tài nguyên, không phải người đông hay thưa. Tất cả chỉ là chất xúc tác để tạo ra bản sắc văn hoá của một dân tộc. Bản sắc văn hoá ấy nông hay sâu, dày hay mỏng, rộng hay hẹp, đa tầng hay ít tầng… sẽ quyết định tâm thức của dân tộc ấy. Tâm thức văn hoá quyết định sức mạnh của một dân tộc, quyết định cả sự tồn vong của dân tộc.
Chúng ta tự hào nghìn năm văn hiến là dựa trên cái cốt lõi của một nền văn hoá được vun xới, bồi đắp qua hàng nghìn năm dựng nước và mở cõi của tiền nhân, tạo thành nhân cách của một dân tộc. Nhân cách ấy là bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy là khác giống nhưng chung một dàn, là lá lành đùm lá rách, là anh em như thể tay chân, là người trong một nước phải thương nhau cùng – trong ca dao, tục ngữ. Là lấy nhân nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo, là việc nhân nghĩa cốt ở yên dân – Nguyễn Trãi. Là quyền biến, lúc bình thì khoan sức cho dân để làm kế sâu rễ bền gốc – Trần Hưng Đạo.
Giá trị của văn hoá là giá trị tiềm ẩn, mang đậm dấu ấn riêng của một dân tộc. Theo UNESCO thì “Văn hoá là hệ thống tổng thể những giá trị biểu trưng quy định cách ứng xử, thái độ giao tiếp của một cộng đồng và làm cho cộng đồng đó có đặc thù riêng”.
Tóm lại “Diễn biến hoà bình” xuất hiện tự thời cổ đại thường được gọi là phế – lập, khi xã hội loài người có vương quyền (có kẻ cai trị và người bị trị). Nó là sự vận động khách quan của các mối quan hệ giữa người và người, giữa kẻ thống trị và người bị trị, hoàn toàn không phải là khái niệm của “kẻ thù gần đây”. Sự vận động ấy hướng tới một định chế hợp xu thế thời đại, hợp lòng dân hơn và vì vậy nó là sản phẩm của sự tiến bộ. Nó đồng thời cũng cảnh cáo mọi sự bảo thủ, hám quyền và chuyên quyền! Bước tiếp theo của chuyên quyền là độc quyền. Từ độc quyền đến độc đoán, độc tài, quân phiệt, … là một bước ngắn. Một học giả phương Tây đã khái quát những xã hội chuyên chế rằng: “Một đất nước kỳ lạ khi nó nhìn mọi sự thay đổi như một sự tấn công, mỗi biến chuyển như là một sự giật lùi và mọi sự thích nghi như những cuộc đầu hàng” (theo báo Gilles Delafon trích trong cuốn Hello Earth).
Không một nhân dân nào chấp nhận sự chuyên chế và độc tài. Chuyên chế và độc tài là kẻ thù của nền dân chủ. Phan Bội Châu đã từng nói: “Không có dân thì đất đai không thể còn ,chủ quyền không thể lập ;nhân dân còn thì nước còn. Nhân dân mất thì nước mất. Muốn xem nhân dân còn mất thế nào thì nhìn xem cái quyền của người dân còn mất thế nào?”
Bình tâm nhìn lại, hôm nay người dân còn được quyền gì? Nhân dân có trăm tai nghìn mắt, không nhà cầm quyền nào đánh tráo được giữa sự bạo ngược và lòng nhân ái. Hồ Chí Minh đã từng lo sợ về một nhà nước mà ông là người sáng lập, đất nước ấy, dân chủ là kẻ thù của nền chuyên chính vô sản: “Các chú diễn giải hai tiếng dân chủ sao mà rắc rối, dài dòng thế?Dân chủ thực ra có nghĩa là: Để cho dân được mở miệng. Dân chủ là đừng bịt miệng dân.” Đúng, trong trường hợp này Hồ Chí Minh là một thiên tài. Ông tiên đoán chính xác sự bất bình thường của “đứa con” mà mình “mang nặng đẻ đau”.
Và vì vậy hôm nay nếu có “Diễn biến hoà bình” thì đấy chính là sự chuyển hoá một cách ôn hoà trạng thái vô tổ chức, trên nói dưới không nghe, tình trạng cát cứ có dấu hiệu phục hồi, tham nhũng, mua quan bán chức,… từ hiện tượng đang trở thành bản chất của chế độ, lòng tin của dân với đảng cầm quyền suy giảm đến mức báo động, thì sự chuyển biến ấy chính là đại phúc cho nhân dân, chứ có gì mà phải … sợ? Và dẫu anh có sợ cũng không được. Hãy gia cố con đê trước khi nước tràn! Khi nước đã tràn thì có Thánh cũng chịu!
Ổn định và trì trệ
Cái dễ của nhà cầm quyền là vui vẻ, là hài lòng trước quyền lực của mình ngày hôm nay, và mong xã hội ổn định mãi như ngày hôm nay để tiếp tục giữ quyền lực.
Cái khó của nhà cầm quyền là dám nghe những phản biện và tự vượt lên chính mình ngày hôm nay để theo kịp sự chuyển hoá khách quan của xã hội – sự chuyển hoá cần thiết cho sự tồn tại và phát triển đất nước trong đó có mình và dòng họ mình. Điều ấy lý giải vì sao ngay cả thời phong kiến nhà vua vẫn phải chấp nhận “Giám sát ngự sử” bên cạnh mình. Thực tế chứng minh vương triều nào can đảm lắng nghe lời can gián, những lời “nghịch nhĩ” điều chỉnh phương pháp trị dân của mình thì xã hội lành mạnh hơn. Đấy mới là sự ổn định thực thông qua “Diễn biến hoà bình” chính tư duy của mình. Không ít nhà lãnh đạo chủ chốt của cách mạng Việt Nam chưa nhận thức đúng học thuyết Marx về ổn định đồng nghĩa với trì trệ. “Thực chất cách mạng của phép biện chứng duy vật không dung hoà với bất cứ sự trì trệ và bất động nào, làm cho phép duy vật trở thành công cụ cải tạo thực tiễn xã hội, giúp tính toán một cách khách quan tới những yêu cầu lịch sử của sự phát trển xã hội, tình trạng những hình thức cũ không phù hợp với nội dung mới, sự cần thiết phải chuyển đến những hình thức cao thúc đẩy sự tiến bộ của loài người…” (Từ điển triết học – nxb VH TT 2002, tr 84).
Hãy nhìn sự ổn định của xã hội VN và các nước theo chúng ta là không ổn định như Thái Lan, Nhật Bản,… thì ai cũng dễ đồng tình xã hội của họ vẫn phát triển vượt xa chúng ta nhiều, nhiều lắm.
Chúng ta đánh đổ phong kiến, chúng ta đánh đổ thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đâu phải để xây dựng một xã hội ổn định theo kiểu không có phản biện hay phản biện giả. ( Phản biện giả là phản biện có sự lãnh đạo của đảng cầm quyền.) Có ai đó chê Hoàng đế Quang Trung là độc tài quân phiệt, nhưng tôi chưa thấy tài liệu nào nói Ông bắt giam, bỏ tù một ai mắc tội vu khoát. (Trong Chiếu cầu lời nói thẳng Quang Trung mong nhận được những lời nói thẳng, nói thực, không bắt tội vu khoát một ai). 
Vậy mà hôm nay chính tôi lại nhìn thấy bao nhiêu người yêu nước bị bắt, bị giam cầm chỉ vì yêu nước mà không chịu yêu CNXH, chỉ vì có chính kiến khác với chính thống. Trong thực tế Marx chưa bao giờ đồng nhất yêu nước và yêu CNXH! Và với CNCS, Marx cũng chỉ dám dự đoán thôi.
Những nhà lãnh đạo hôm nay nên dũng cảm nhìn thẳng vào thực tế để thấy phong kiến và đế quốc thối nát thực, nhưng chúng nó vẫn cho những người yêu nước, những người cộng sản ra báo tư nhân, lập nhà xuất bản tư nhân, dân được lập hội và biểu tình phản đối chúng nó. Năm 1925 Phan Chu Trinh từ Pháp về Sài Gòn, và sau đó không lâu ông tổ chức diễn thuyết lên án chính quyền. Năm 1925 cụ Phan có ít nhất 2 lần diễn thuyết ở Sài Gòn. Và ngày 26 tháng 3 năm 1926, khi ông qua đời, gần một nửa dân Sài Gòn đi dự đám tang nhà yêu nước Phan Chu Trinh mà không ai bị bắt bớ, tù đày. 96 năm sau ngày cụ Phan ra đi vĩnh viễn, bác sĩ Huỳnh Tấn Mẫm giữa thềm nhà hát Lớn Sài Gòn lên án Trung Quốc xâm chiếm biển đảo thuộc chủ quyền VN thì bị công an xua đuổi cùng nhiều trí thức tên tuổi như nguyên Viện trưởng Viện xã hội học Tương Lai, kiến trúc sư Trọng Huấn. Hai thể chế đối lập ấy, người dân thường cũng biết đối chiếu so sánh dễ dàng huống chi là những trí thức tầm cỡ như GS Hoàng Tuỵ, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, GS Phan Đình Diệu, GS Ngô Bảo Châu, nhà văn Nguyên Ngọc, GS Nguyễn Huệ Chi, GS Tương Lai, BS Huỳnh Tấn Mẫm, … để từ đấy lãnh đạo nhà nước hôm nay nên coi “Diễn biến hoà bình” hoàn toàn không phải là kẻ thù địch nào cả mà sự trì trệ trong chính những nhà lãnh đạo của Đảng CS, là phương sách chuyển hoá tư duy chính mình và chuyển đổi xã hội phù hợp quy luật khách quan thì tự khắc lòng dân lại thuận.
Một thời chúng ta đã từng quy kết và dùng nhục hình dã man với bao nhiêu người có công với cách mạng, những dân oan vô tội, tôi mong những người nắm quyền lực hôm nay đừng đẩy những người yêu nước vào cái gọi là bọn thù địch “Diễn biến hoà bình” mà rơi vào những sai lầm đã khắc vào lịch sử trong quá khứ chưa xa những tội lỗi trời không dung đất không tha!( cụm từ của Nguyễn Trãi).
Thay lời kết
Tôi muốn gởi những dòng cuối này đến anh Nguyễn Phú Trọng, với tư cách là đồng môn – tôi học trước anh hai khoá. Tuy là học một trường, nhưng tôi và anh có hai cách tiếp cận khác về CNXH. Tôi nghiêng về CNXH dân chủ của Lassall, còn anh theo CNXH bạo lực của Lénin. Nhưng tôi không nói chuyện đúng sai ở đây. Ở đây tôi chỉ mong với tư cách một người lãnh đạo Đảng, anh cố gắng giữ cho xã hội dưới thời anh trên dưới đồng lòng, coi dân làm trọng, xoá cách biệt giữa dân với Đảng, hết sức tránh dùng cường quyền và bạo lực đối với những người yêu nước khác chính kiến. Muốn vậy chính anh và những đồng chí của anh phải tự mình chuyển hoá tư duy hoặc là chấp nhận “Diễn biến hoà bình” (Không phải Diễn biến hoà bình theo định nghĩa của báo Điện tử ĐCS, mà theo truyền thống, hợp xu thế). Đấy là hai con đường ôn hoà nhất để xây dựng một xã hội lành mạnh và hợp quy luật khách quan .
Tôi tin anh làm được bởi trước anh đã có Trường Chinh một thời thiên tả, cứng nhắc, rồi đã tự phủ định mình hôm qua. Thời ấy kinh tế thị trường là cụm từ cấm kỵ, đồng nghĩa với xét lại. Ai dính vào cái “mũ” này thì coi như cuộc đời chấm dứt. Nói như thế để thấy vai trò vô cùng quan trọng của cụ Trường Chinh. Tôi mong anh học tập cố TBT Trường Chinh và mới đây là Thein Sein – người vừa được báo Straits Times Singapore tôn vinh nhân vật của châu Á năm 2012.
Bạn bè chúng ta thời đại học nói với tôi rằng kể từ khi anh lên chức TBT đã có hơn 50 người yêu nước bị làm khó dễ, bị bắt, bị giam cầm vì nhiều lý do vu vơ. Xã hội hôm nay dưới quyền anh làm tôi nhớ lại thời Nhân văn Giai phẩm ở trong nước thời hiện đại, và thời cổ đại Trung Hoa tôi lại nhớ thời Tống Thần tông, Vương An Thạch làm tể tướng. Vương là một người học rộng tài cao, một nhà thơ uyên thâm. Vậy mà dưới thời Vương An Thạch kẻ sĩ bị bắt, bị đi đày nhiều nhất. Một thi nhân như Tô Đông Pha chỉ vì không đồng chính kiến với Vương An Thạch mà gần suốt cuộc đời phải chịu đi đày, có lúc đói quá phải “hớp nắng” để đỡ đói trên đảo Hải Nam. Trên cái nền này tôi có viết cuốn “Thăng trầm Tô Đông Pha” (Nhà XB Văn nghệ TP HCM năm 2000) với hy vọng những nhà lãnh đạo VN hôm nay lấy đó làm bài học. Nhưng dường như người ta nghĩ nhiều về quyền lực và quyền lợi mà nhẹ về văn hoá – văn hoá đời Lê lấy chí nhân thay cường bạo, văn hoá đời Trần lấy khoan dung làm trọng.
Tôi nay đã ngoài 70, không hề biết sợ chết, chỉ sợ trước khi chết mà vẫn phải nhìn đất nước như thời Vương An Thạch!
Chắc anh thừa biết lịch sử không quên công lao một ai và lịch sử cũng không bỏ sót tội lỗi một ai.
H.L.G.
http://xahoi.com.vn/kinh-doanh/thi-truong-tieu-dung/khiep-via-nuoc-ngot-duoc-lam-tu-nuoc-gieng-va-duong-trung-quoc-124278.html 

Tô Văn Trường - Hố sâu cũng tương ứng với đỉnh cao đã dựng

Để quản lý đất nước xã hội phát triển bền vững, điều kiện đơn giản mà ai cũng thấy là cần có một hệ thống tốt và cả những con người có tâm và tầm. Hệ thống tốt thì sẽ đảm bảo công việc chạy tốt mà không quá phụ thuộc vào các cá nhân vận hành hệ thống đó. Hệ thống tốt còn có khả năng tự bảo vệ (loại trừ các cá nhân không tốt như là PC có cài đặt hệ thống diệt virus tự động). Hệ thống tốt cũng là một sự đảm bảo cho các cá nhân tốt (các mắt xích của nó) có được lợi thế và phát huy tối đa năng lực cũng như các yếu tố lành mạnh. Về mặt phòng chống tham nhũng thì đó là bộ máy mà "không ai muốn/ dám/ có thể tham nhũng"… Đó sẽ là mảnh đất màu mỡ cho các cá nhân có tâm, có tài và có các phẩm chất cống hiến cho cái chung. Một hệ thống không tốt thì ngược lại. Đáng tiếc là với các "lỗi hệ thống" mà công luận nhắc đến lâu nay, một hệ thống tốt của ta vẫn là cái đích còn rất xa. Trong điều kiện đó, các cá nhân dù xuất sắc đến đâu cũng khó có thể xoay chuyển thế cục.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 và 6 Khóa XI, hai Ban Nội chính Trung ương và Ban Kinh tế Trung ương đã được lập lại. Việc thành lập trở lại 2 Ban đã từng bị giải tán có thể được nhìn nhận ở các góc độ khác nhau. Thay đổi về 2 Ban này chắc chắn gây ra phản hồi đối lập nhau: Người thì nhìn như một quyết tâm "nói đi với làm"; Người thì cho là Đảng can thiệp sâu. Việc tái lập hai Ban là một bước lùi về thể chế. Nhưng trong tình thế sau Nghị quyết 4 và 5 của TW thì đây là việc làm vớt chót. Hy vọng thành công dù rất mong manh.
Về tổng thể, cũng là một bước lùi  vì xu hướng cải cách là không nên để tình trạng chồng chéo chức năng nhiệm vụ giữa Đảng và Nhà nước/ Chính phủ. Tuy nhiên, trong tình trạng tham nhũng tràn lan và quyền lực không được kiểm soát như trong thời gian qua thì đây có lẽ là một bước lùi chiến thuật cần thiết trong ngắn hạn. Nói cách khác, vấn đề lỗi hệ thống của ta vẫn sẽ nan giải chừng nào chưa đảm bảo được dân chủ và quyền của người dân một cách thực chất theo xu thế tiến bộ của thời đại là Nhà nước pháp quyền, Xã hội dân sự và Kinh tế thị trường theo đúng nghĩa của nó.
         
Thực tế, vai trò cá nhân đối với lịch sử cũng vô cùng quan trọng như các ông Võ Nguyên Giáp, Võ Văn Kiệt, Kim Ngọc, và cả những lãnh tụ tưởng như rất thủ cựu như ông Trường Chinh…khi quan điểm "việc nhân nghĩa cốt ở yên dân" được lấy làm cơ sở. Mặt khác, rủi ro là dù có đi hết cuộc đời như các vị lãnh đạo đáng kính nói trên thì vẫn không sửa được lỗi hệ thống mà họ dường như ít khi ở vị trí thuận lợi nhất. Khi họ không còn quyền lực hoặc thành người thiên cổ thì số phận dân tộc vẫn còn dở dang và nếu những người kế tiếp không có phẩm chất tương đương hoặc thậm chí là "phú quý giật lùi" thì đất nước còn gặp nhiều rủi ro, bất hạnh.
         
Ông Vương Đình Huệ được bổ nhiệm là Trưởng ban kinh tế TW, con đường "quan lộ" rất hanh thông ( "vo tròn" để mà lăn). Khi làm Bộ trưởng Bộ Tài chính lời nói và việc làm của ông chẳng để lại dấu ấn gì đáng nhớ trong dân chúng. Ông còn trẻ, được học hành bài bản, rất biết túi tiền, thưng gạo của ngân khố, người dân mong ông biết vượt lên chính mình ở cương vị mới.
Trên công luận cả báo chính thống của Nhà nước và báo mạng đều nói nhiều về ông Nguyễn Bá Thanh Bí thư thành phố Đà Nẵng, tân Trưởng ban Nội chính TW được coi là một trong số ít các vị Trung ương ủy viên tâm huyết với vận nước, có chính kiến (qua một số phát biểu), để lại dấu ấn cá nhân, có nhiều việc làm khiến cho công luận có thể hy vọng.
Ở tầm địa phương, theo tôi biết có ông Trương Đình Tuyển (Nghệ An), ông Nguyễn Minh Nhị (An Giang) để lại dấu ấn rõ nét như ông Bá Thanh nhưng đến nay chỉ còn ông Bá Thanh là đang tại chức và bay bổng ở tầm cao hơn. Bất kỳ ai nếu có một lần đến Đà Nẵng, cũng có nhiều cảm xúc tốt về một thành phố phát triển nhanh, trật tự, có điểm PCI luôn trong top đầu. Có báo còn coi ông Thanh là Triệu Tử Long  trên chính trường. Nếu vậy thì cần phải  xem vậy ai là "Lưu Bị và Á Đẩu" của ông ấy!  Có ai đó nhân trận đá bóng gây quỹ từ thiện ở Đà Nẵng coi ông Nguyễn Bá Thanh là trung phong có hạng và kết luận là trận bóng quan trọng nhất của ông còn ở phía trước trên sân Mỹ Đình. Trong vai trò mới mà dường như ai cũng cho rằng ông là một người phù hợp nhất, chắc là ông Bá Thanh sẽ phải sớm thể hiện bản lĩnh chính trị và năng lực của mình trong môi trường đầy thử thách cam go mới! Trải nghiệm mới này chắc chắn ở một tầm cao hơn nhiều so với kinh nghiệm đã qua của ông ở cấp địa phương.
 Nhìn lại con đường "kinh bang tế thế" của ông Nguyễn Bá Thanh ở địa phương cũng trải qua nhiều khó khăn, sóng gió. Tôi nhớ cách đây đã lâu, có lần được nghe ông Võ Văn Kiêt trực tiếp kể lại câu chuyện ông Nguyễn Bá Thanh từ Đà Nẵng vào thành phố Hồ Chí Minh tham vấn ông Kiệt về việc Trung ương dự kiến điều ông ra đảm nhiệm chức Phó ban ngoài Hà Nội. Ông Kiệt khuyên đại ý : "Đã làm quản lý không ai tránh được "đụng chạm", kiện tụng. Nếu chấp nhận ra Hà Nội lúc này thì mang theo cây vợt tennis làm "bầu bạn"! Phải ở lại để sửa sai nếu có và khẳng định dấu ấn của mình…". Ông Kiệt hiểu rõ ông Bá Thanh năng nổ, gần dân, quyết đoán và sáng tạo ...Tất nhiên cái cách làm việc của người quyết đoán trong hệ thống của ta khó tránh khỏi gây ấn tượng độc đoán, thế nhưng con người như Bá Thanh rất cần cho đất nước. Người ta nói khá nhiều về Bá Thanh và cùng sự đi lên của Đà Nẵng với rất nhiều hi vọng tràn trề nhưng chưa ai nói được tầm và thế của ông trong phạm vi rộng của cả nước. Lúc này, nếu có linh thiêng ở cõi vĩnh hằng, ông Kiệt sẽ chúc mừng việc ông Thanh ra Hà Nội làm Trưởng ban nội chính để tạo ra những cú hích nhằm thay đổi hiện trạng trì trệ và nguy hiểm hiện nay nhưng ông cũng sẽ  lo lắng cho người bạn đồng tâm vì "Hố sâu cũng tương ứng với đỉnh cao đã dựng"!
Ông Bá Thanh là người con của đất Quảng cho nên mang đặc chất Quảng. Ông là con liệt sỹ, lại lặn lội từ cương vị chủ nhiệm hợp tác xã đi lên, luôn gắn liền gần như trực tiếp với đời  sống của người lao động nên ông hiểu họ như hiểu chính mình. Ông biết rằng chỉ cần ông hiểu họ, đứng về phía họ, bảo vệ họ những người lao động đất Quảng đầy gan góc, cần cù, sáng tạo và giàu truyền thống cách mạng thì sóng gió nào cũng sẽ vượt qua. Ông mang tiếng độc đoán mà không run sợ vì ông đồng nghĩa là người đại diện thực sự cho dân đất Quảng người dân tin ông, bảo vệ ông dù có những lúc họ phải hi sinh quyền lợi. Đó là lợi thế của ông, cái lợi thế này đôi khi cứu ông vượt qua cái tầm của ông vốn có. Ông là con người của hành động, nhưng ông chỉ hành động khi ông nhìn thấy, sờ thấy, cảm thấy ...Sự nghiệp của ông không phải là một khối pha lê trong suốt, nhưng quả thật nếu tìm một ai đó vào cương vị Trưởng ban Nội chính ở thời điểm này thì người xứng đáng nhất vẫn là Nguyễn Bá Thanh.
Một người bạn của tôi biết ông Bá Thanh từ thời hàn vi, mừng cho ông một phần thì lo cho ông mười phần. Anh bạn kể lại câu chuyện nhớ lần "Hội  Trỗi" trang bị cho bệnh viện đa khoa Đà Nẵng máy chụp cắt lớp đầu tiên vào năm 1996, ông ở đâu sồng sộc đi vào quát ầm ầm: "Máy chi mà mắc quá trời, mấy trăm ngàn đô la, Đà Nẵng lấy đâu tiền mua?".  Sau biết không phải trả tiền ông mừng lắm, kéo tất cả về nhà ông nhậu. Trời sui đất khiến thế nào ông vừa được người bạn  học sinh miền Nam lấy vợ Bắc mới cho một can rượu làng Vân gần 10 lít . Sáu anh em đi hết cả can, làm sạch nồi cá kho nhà ông và say túy lúy vv... Đặc điểm của Bá Thanh là  biết hòa đồng, cảm thông chia sẻ với mọi đối tượng trong xã hội.
Đọc các bài báo nói về Bá Thanh, trao đổi với người bạn đồng tâm, được xác nhận họ viết về ông là đúng nhưng không khỏi giật mình. Dư luận xã hội chưa từng có thêm sức mạnh cho những nhân tố mới nảy nở như nó vốn có mà phần nhiều là ngược lại.  Chết yểu!. Dư luận (báo chí) chỉ có ca ngợi công lao, tài đức lúc đương thời của những người đã về hưu, thất sủng hoặc đã là mồ ma để an ủi họ thì thành công thấy rõ như ca ngợi ông Bí thư tỉnh ủy Kim Ngọc. Từ sân chơi chủ nhà Đà Nẵng đến sân chơi Mỹ Đình là bất lợi lớn, rất khó lường thành bại nhưng có điều chắc chắn nó liên quan mật thiết tới trí tuệ, bản lĩnh của ông, sự ủng hộ của nhân dân và sự "thức tỉnh" của một số người có thực quyền đang điều hành quản lý đất nước. Lúc này, ca ngợi nhiều quá sẽ nguy hiểm cho Bá Thanh. Bởi vì cuộc sống là bất phương trình, các "bầy sâu" đang nở rộ sẽ tìm mọi cách để chống lại ông với các thủ đoạn khó lường. Để khẳng định mình, ông Thanh cần mạnh mẽ không chỉ trực tiếp vạch trần các "bày sâu" mà còn phải khéo léo, tránh thỏa hiệp, không đi theo "vết xe đổ" mượn cớ lấy "tinh thần nhân văn" để hành xử như có người đã từng bộc bạch!  Thử thách và "cạm bãy" đối với ông Nguyễn Bá Thanh trong cương vị mới là rất nhiều. Phép thử đầu tiên là ông cần tỏ rõ thái độ vì dân của mình thông qua vụ án Đoàn Văn Vươn. Dư luận có quyền hy vọng ở ông, các fan của ông đang mong ông sẽ tiếp tục tỏa sáng trên sân bóng chính trị và sẽ có những "bàn thắng để đời" trên chảo lửa Mỹ Đình hiểu theo nhiều nghĩa. Nếu đoạn đường phía trước có trắc trở, không vượt qua được thì sẽ là tai họa mà hố sâu cũng sẽ tương ứng đỉnh cao đã dựng. Cha ông ta đã dạy đi vào đường đời thành công thì chưa chắc tương ứng với "đồng vốn" bỏ ra, vì vốn không tự sinh lãi. Còn cá nhân làm nên lịch sử thì theo tôi, bây giờ lịch sử chưa trao cho ai và cũng không có ai có khả năng làm nên lịch sử - Trừ phi lịch sử!
 
Nhìn xa hơn, không chỉ chống tham nhũng, mọi việc vẫn còn ở phía trước, mà anh hùng cái thế thì không phải học đâu xa. Hãy nhìn sang Myanmar một đất nước quân phiệt, lòng dân ly tán, mất dân chủ, kinh tế xã hội trì trệ đã chuyển mình, cải cách mạnh mẽ cả đối nội và đối ngoại chủ yếu nhờ vai trò của 2 người hùng Tổng thống Thein Sein và bà Aung San Suw Kyi.  Ở tầm thấp hơn chỉ mong sao 2 ông tân Trưởng ban "Bá - Vương" cứ lấy câu "Lấy dân làm gốc" làm căn cứ vững chắc cho mọi hoạt động của mình.

Tô Văn Trường
(Blog Người Lót Gạch)

Góp ý sửa Hiến pháp: Thủ tướng do dân bầu

Đảng chịu sự giám sát của nhân dân và của Tòa án Hiến pháp, nên quy định Thủ tướng do nhân dân bầu thông qua tranh cử…, đó là một số nội dung góp ý sửa Hiến pháp đáng chú ý trên trang http://duthaoonline.quochoi.vn của Quốc hội.
Sau 6 ngày dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 được công bố, các quan điểm góp ý của nhân dân vẫn đều đặn được giới thiệu.
Theo bạn đọc Trần Phước Thịnh thì điều 1 của dự thảo Hiến pháp nên sửa lại thành: "Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là một nước dân chủ, độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, vùng biển và vùng trời, hải đảo bao gồm cả hai quần đảo Hoàng sa và Trường Sa".
Cần nghiên cứu một cách cẩn trọng để đưa tuyên bố chủ quyền của Hoàng Sa và Trường Sa vào trong Hiến pháp cũng là ý kiến của đại biểu Phạm Trọng Nhân (Bình Dương) khi thảo luận tại kỳ họp Quốc hội cuối năm 2012. Vị đại biểu này cho rằng, cơ hội để làm điều này đã chín muồi với những chứng cứ lịch sử rõ ràng và sự ủng hộ của phần đông dư luận thế giới.
Góp ý sửa Hiến pháp: Thủ tướng do dân bầu
Sau 6 ngày dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 được công bố, các quan điểm góp ý của nhân dân vẫn đều đặn được giới thiệu.
Liên quan đến điều 4, vẫn theo bạn đọc Trần Phước Thịnh, nên sửa lại như sau: "1. Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là Đảng cầm quyền đối với Nhà nước và xã hội. 2. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân và của Tòa án Hiến pháp, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. 3. Các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật".
Với điều 103 (sửa đổi, bổ sung điều 114) dự thảo sửa đổi Hiến pháp quy định: “Thủ tướng Chính phủ do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội, là người đứng đầu Chính phủ”, bạn Trần Phước Thịnh cho rằng nên quy định: “Thủ tướng Chính phủ do nhân dân bầu thông qua tranh cử”.
Hội đồng Hiến pháp - một nội dung mới được đưa vào dự thảo lần này - cũng là băn khoăn của một số góp ý. Bạn Hoàng Thị Vân cho rằng, cơ chế bảo hiến mà dự thảo đưa ra khó có thể phát huy được hiệu quả. Xây dựng một cơ chế bảo hiến để phù hợp với chế độ Việt Nam là một điều rất khó. Nó phải đáp ứng cả hai yêu cầu: tính tối cao của Hiến pháp và tính tối cao của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất - Quốc hội. Đồng thời cơ chế đó phải đảm bảo đươc tính khách quan và tinh độc lập, và tính chuyên môn.
Bạn đọc này cũng phân tích, việc xây dựng Hội đồng Hiến pháp như ở dự thảo cũng không khác với cơ chế bảo hiến hiện nay là mấy. Hội đồng bảo hiến vẫn trực thuộc Quốc hội, do Quốc hội bầu ra, và chỉ có quyền kiến nghị sửa đổi những văn bản có dấu hiệu vi hiến. "Giả sử, một kiến nghị bãi bỏ văn bản luật Quốc hội vi hiến, song lại không được Quốc hội thông qua hoặc bỏ qua kiến nghị đó không xét đến, thì hiệu quả của hội đồng bảo hiến có thể được phát huy hay không?", bạn đọc đặt câu hỏi.
Để xây dựng một cơ chế bảo hiến có hiệu quả, bạn Hoàng Thị Vân đề xuất xây dựng chế độ Quốc hội hai viện: viện lập hiến và viện lập pháp, cơ chế hai viện tự kiểm tra, kiềm chế lẫn nhau. Trao quyền bảo vệ Hiến pháp cho viện lập pháp có 3 mục đích: phòng ngừa sự chuyên chế của Quốc hội, đảm bảo kiểm tra đánh giá đúng đắn quá trình lập pháp của viện lập pháp, đảm bảo phán ánh đúng, trung thực ý kiến của nhân dân.
Như vậy thực hiện chế độ hai viện vừa không làm thay đổi căn bản tổ chức bộ máy nhà nước, vừa dựa trên tính tối cao của Hiến pháp, hay chính là quyền công dân để phát huy triệt để hiệu quả mô hình bảo vệ Hiến pháp, bạn Vân viết.
VnEconomy sẽ tiếp tục phản ánh những nội dung góp ý đáng chú ý của bạn đọc đối với dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trong những ngày tới. Xin mời độc giả xem toàn văn dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
Nguyên Vũ
(VnEconomy)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét