Tổng số lượt xem trang

Chủ Nhật, 20 tháng 1, 2013

HOT - BÀI VIẾT NÊN ĐỌC - CUỘC CHIẾN ĐỒNG CHÍ X vs THANH ĐÀ NẴNG

Lê Thăng Long - Nhân một phiên toà nói về sửa đổi hiến pháp

ThucDinhLongTrung
Ngày này 3 năm trước (20/1/2010) đã diễn ra một phiên toà đình đám lần đầu tiên xét xử một vụ án bị cho là lật đổ chính quyền nhân dân bằng diễn biến hòa bình. Những người bị cáo buộc là Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Tiến Trung, Lê Công Định và Lê Thăng Long.
Cốt lõi của lập luận do bên công tố đưa ra là những người này đã lợi dụng Internet và sử dụng những thủ đoạn bất bạo động nhằm thay đổi các chế độ chính trị, kinh tế, xã hội của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do hiến pháp 1992 quy định.
Những sự phi lý, bạo ngược và vi phạm luật tố tụng hình sự của phiên tòa này đã được nói nhiều, cũng giống như tất cả các phiên tòa xử các vụ án chính trị khác. Nhân lúc đảng và nhà nước phát động lấy ý kiến nhân dân về sửa đổi hiến pháp, tôi muốn nói về một khía cạnh của vụ án này liên quan đến sự kiện này.
Nếu theo lập luận mà Viện kiểm sát đã cáo buộc chúng tôi thì không khéo sắp tới đây hàng ngàn người tham gia góp ý sửa đổi hiến pháp có thể đứng trước nguy cơ bị truy tố là những người tích cực hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân theo khoản 2 điều 79 bộ luật hình sự. Còn những người chủ trương sửa đổi hiến pháp có thể bị kết tội theo khoản 1 của điều này là những người chủ mưu cầm đầu. Nếu lập luận này là đúng và pháp luật nghiêm minh thì Tổng bí thư có thể phải ra tòa và đối diện với án tử hình, các đại biểu quốc hội có thể bị chung thân. Những người tham gia soạn thảo hiến pháp sửa đổi có thể nhận 12 đến 20 năm tù. Vì đây là loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, có thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đến 20 năm nên nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An cũng có thể bị hồi tố vì đã ký thông qua bản sửa đổi hiến pháp 1992 vào năm 2001 với rất nhiều điều khoản thay đổi các chế độ kinh tế, chính trị của hiến pháp trước đó!?
Rõ ràng cái lập luận như trên quá dễ bị bẻ gãy cho nên tại phiên tòa 3 năm trước hội đồng xét xử đã không dám để chúng tôi tranh luận. Khi anh Thức đặt đến vấn đề này thì bị gạt ngay, anh tiếp tục nói thì bị đuổi về chỗ. Do vậy anh chỉ còn có thể nói lúc nói lời cuối cùng rằng  những lập luận ép buộc như vậy là cường quyền và anh còn sẽ chống sự cường quyền đến khi nào anh còn thấy nó, chứ anh chẳng có tội gì. Còn tôi thì khẳng định rằng điều 4 hiến pháp hiện hành không ngăn cản sự hoạt động hợp pháp của các đảng chính trị khác ngoài đảng Cộng sản Việt Nam, ngay cả mục đích của họ là nhằm thay đổi cái điều 4 này đi nữa. Do vậy kết tội tôi hay bất kỳ ai khác vì muốn thay đổi điều này là vừa vi hiến vừa phạm luật. Còn anh Định thì sâu sắc hơn khi cho thấy rằng nếu một bản hiến pháp như vậy có thể dùng để kết tội mong muốn chính đáng của người dân thì họ rõ ràng bị mang tội trước bản hiến pháp. Nhưng cũng chính vì thế mà hiến pháp đó phải thay đổi.
Đại diện viện kiểm sát tại phiên tòa nhiều lần ấp úng khi bị chúng tôi hỏi ngược lại nhưng chủ tọa phiên tòa ngay lập tức nhảy vào cứu bồ bằng cách rất thô thiển là gạt ngang. Khi viện kiểm sát nói rằng anh Thức có mục đích viết quyển sách Con đường Việt Nam để kiến nghị đến Chủ tịch nước thực hiện theo đường lối trong cuốn sách, tức là thủ đoạn thay đổi chế độ, thì anh Thức hỏi ngược lại rằng nếu như vậy viện kiểm sát xem Chủ tịch nước là một mắt xích quan trọng cho việc lật đổ, là đồng phạm. Sao không truy tố? Chủ tọa phiên tòa can thiệp bằng cách nói là bị cáo chỉ được trả lời chứ không được hỏi!!!
Một hội đồng xét xử như vậy đã tự chứng minh sự đúng đắn của điều mà anh Thức yêu cầu lúc khai mạc phiên tòa, là phải thay đổi tất cả hội đồng xét xử bằng những người không phải đảng viên đảng Cộng sản Việt nam, vì đây là một vụ án xét xử việc bị cho là lật đổ chính quyền do đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Chủ tọa phiên tòa đã ấp úng một lát rồi nhờ luật sư thuyết phục anh Thức rút lại lời yêu cầu. Nhưng anh vẫn giữ. Hội đồng xét xử phải vào họp thảo luận rồi ra tuyên bố rằng yêu cầu của anh Thức là không có cơ sở, hội đồng xét xử có đủ căn cứ pháp lý để bác bỏ yêu cầu đó. Khi về trại giam Xuân Lộc cùng nhau, anh Thức hỏi anh Định rằng có những điều luật nào để làm căn cứ pháp lý nói trên không. Anh Định nói vui rằng chắc lúc vào thảo luận họ tự tuyên bố tạm thời ra khỏi đảng Cộng sản Việt Nam. Sau phiên tòa, một trung tá an ninh điều tra đã phải thừa nhận với tôi rằng yêu cầu của anh Thức là hoàn đúng luật và hợp lý nhưng điều kiện lúc đó không cho phép để thực hiện được như vậy. Họ luôn tự cho phép mình đặt ra những điều kiện để đạp lên pháp luật như thế.
Nếu bạn được ở trong phiên tòa mà chứng kiến mọi diễn biến của nó thì bạn sẽ nghe thấy những điều phi lý đến nực cười. Cá nhân tôi đã nhiều lần không nhịn được cười và cũng làm cho mọi người phải bật cười. Nói thật là chúng tôi cảm nhận rằng phiên tòa này chẳng khác gì một vỡ tuồng vừa bi, vừa hài. Có rất nhiều những vấn đề của bản án này mà thân phụ anh Thức, bác Trần Văn Huỳnh đã viết ra trong đơn yêu cầu giám đốc thẩm nhưng tất cả đều không được trả lời ngoại trừ mấy chữ “đúng người đúng tội”.
Đó là chưa kể sự chế giễu pháp luật của những người tiến hành tố tụng. Cơ quan an ninh dùng mọi cách để ngăn cản, không cho chúng tôi mang theo bản cáo trạng ra tòa. Anh Thức đã nêu vấn đề này ra và yêu cầu dừng phiên tòa qua hôm sau để hội đồng xét xử phải đảm bảo được cho chúng tôi điều kiện tối thiểu để tự bào chữa. Hơn nữa lúc đó cũng đã hơn 6 giờ tối. Chủ tọa phiên tòa đáp ứng yêu cầu này bằng cách đuổi anh Thức về chỗ và tước luôn thời gian tự bào chữa của anh rồi vội vàng tuyên án. Bao nhiêu đó cũng thấy sự đuối lý của bên công tố và tòa án là điều mà họ đã tự biết trước nên dùng mọi thủ đoạn để hạn chế khả năng tranh luận của bên bị cáo. Trong hồi ký Đường dài đến với tự do của Nelson Mandela kể lại, ông cũng phải ra tòa và đối diện với án tử hình. Giữa phiên tòa ông bất ngờ từ chối sự biện hộ của luật sư và yêu cầu tòa đảm bảo điều kiện cho ông tự bào chữa. Phiên tòa hơn nửa thế kỷ trước của một trong những chế độ độc tài bị phỉ báng nhất thế giới – chế độ phân biệt chủng tộc Aparthei đã phải tạm dừng  trong mấy tuần để thực hiện yêu cầu của ông. Thời gian đó ông được đưa khỏi phòng giam chật hẹp để ở trong một phòng có đầy đủ sách luật cần thiết, và được bố trí gặp bất kỳ bạn tù nào để thiết lập lời chứng cho việc biện hộ của mình. Ông còn được xe đưa đón về văn phòng làm việc của mình cách nhà giam đến mấy chục cây số để tìm kiếm chứng cứ bảo vệ mình. Trong khi đó trong tù sách luật đối với chúng tôi là cấm kỵ, và bị cách ly hoàn toàn với nhau vì họ sợ thông cung. Anh Thức yêu cầu tạo điều kiện để anh ấy đưa bằng chứng chứng minh vô tội ra tòa và bị lơ đi mà không một lời giải thích.
Khi tôi ra tù, những người bạn nước ngoài của tôi điện thoại thăm hỏi. Tôi kể họ nghe về phiên tòa như trên. Họ ngạc nhiên đến sửng sốt và nói rằng không thể ngờ đến thế kỷ 21 rồi mà vẫn còn những phiên tòa mà họ chỉ được nghe trong lịch sử của mấy trăm năm trước. Rồi cuối cùng họ nhận định: “Chẳng có ai đủ sức phỉ báng và làm suy yếu chế độ Cộng sản hơn những người đang nhân danh và bảo vệ chế độ đó”.
Phiên tòa này, cũng như rất nhiều các phiên tòa tương tự, vì vậy chẳng bao giờ đủ cơ sở pháp lý để có giá trị, sớm muộn gì cũng bị hủy bỏ. Nhưng điều mà nó đã làm rất hiệu quả là hủy hoại cơ hội để có thể tránh cho đất nước một tình trạng tồi tệ như hiện nay. Một khi cường quyền còn tồn tại thì bất kỳ điều phi lý nào cũng có thể xảy ra. Nếu một lúc nào đó mà những kẻ cơ hội khống chế được hoàn toàn quyền lực trong tay thì những phiên tòa nực cuời như cách đây ba năm hoàn toàn có thể tái diễn nhưng lúc đó các bị cáo sẽ có thể từng là  đồng chí của những kẻ cơ hội. Những phiên tòa  như vậy không những sẽ chôn chế độ mà còn chôn luôn những đối thủ đã từng cố gắng ngáng chân những kẻ nắm quyền bính tối cao mới. Những bị cáo đó rất có thể sẽ trở thành nạn nhân của chính những giáo điều của mình bây giờ.
Đã đến lúc, nếu không muốn bị lật đổ thì phải trả lại quyền lực cho nhân dân để đất nước có thể nhanh chóng vượt qua khủng hoảng nhằm đưa nhân dân thoát khỏi khó khăn và bảo vệ được đất nước. Càng trì hoãn thì càng tiếp thêm sức mạnh cho những kẻ cơ hội đang tiếp tay cho ngoại bang và càng kéo dài sự khốn khổ của nhân dân.
Tức nước thì vỡ bờ. Mọi sự vận động của xã hội đều có qui luật của nó mà chẳng ai có thể chống lại được. Và chẳng có cách gì thắng được những kẻ cơ hội tham nhũng trong tình thế hiện nay nếu không dựa vào nhân dân. Muốn vậy phải trả lại quyền lực cho nhân dân. Đó là việc mà bản hiến pháp sửa đổi phải làm.

© Lê Thăng Long – PTCDVN

Lê Anh Hùng - Khi Quyền Lực Bóng Tối Lại Trỗi Dậy

Mấy hôm nay, cả báo chí “lề đảng” lẫn “lề dân” đều bình luận rôm rả về sự kiện Bí thư Thành uỷ Đà Nẵng Nguyễn Bá Thanh được giao chiếc ghế Trưởng ban Nội chính TW và Bộ trưởng Tài chính Vương Đình Huệ được đặt vào vị trí Trưởng ban Kinh tế TW.
Cả hai ban mới tái lập này xem ra đều nhằm một mục đích: chia sẻ và giám sát quyền lực của Chính phủ do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đứng đầu. Ban Nội chính TW thì “gánh đỡ” trọng trách “phòng chống tham nhũng” của Thủ tướng trước đây, còn Ban Kinh tế TW thì đóng vai trò “tham mưu cho BCHTW mà trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư về chủ trương và các chính sách lớn thuộc lĩnh vực kinh tế - xã hội”.
Hơn 5 năm trước, Ban Kinh tế TW, Ban Nội chính TW và Ban Tài chính - Quản trị TW được sáp nhập vào Văn phòng TW Đảng theo  Quyết định số 45-QĐ/TW ngày 11/4/2007 của Bộ Chính trị. Lúc đó, quyết định quan trọng này đã phát đi một tín hiệu tích cực về tiến trình cải cách thể chế của hệ thống theo hướng tinh giản bộ máy đảng, tránh sự dẫm chân hay can thiệp quá sâu của các cơ quan đảng vào bộ máy chính quyền, tiến tới nhất thể hoá bộ máy đảng - chính quyền.
Tuy nhiên, lẽ ra cùng với việc tinh giản bộ máy đảng, Quốc hội phải được trao quyền hạn thực chất để giám sát bộ máy hành pháp thì ngược lại, suốt nhiều năm qua, “cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam” lại bị khống chế và thao túng một cách rất bài bản và tinh vi.
Sự kiện Ban Kinh tế TW và Ban Nội chính TW được tái lập, trước hết, thể hiện sự trỗi dậy của quyền lực bóng tối của đảng trong mối tương quan với thứ quyền lực chính danh hơn của Quốc hội và Chính phủ.
Gọi quyền lực của đảng là “quyền lực bóng tối” bởi lẽ mặc dù Điều 4 Hiến pháp quy định “Đảng CSVN … là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” song cho đến nay điều này vẫn chưa được luật hoá, chưa có một (bộ) luật cụ thể nào điều chỉnh hoạt động của bộ máy “siêu nhà nước” cồng kềnh từ trung ương xuống đến tận thôn xóm này.
Một hiện tượng mà ai cũng có thể nhận thấy là người dân có thể biết thời gian Quốc hội họp trước hàng tháng nhưng thời điểm diễn ra các hội nghị của Ban Chấp hành TW - thiết chế quyền lực cao nhất của hệ thống chính trị (nếu không tính Đại hội Đảng phải 5 năm mới diễn ra một lần) - thì luôn nằm trong màn bí mật, chỉ đến khi hội nghị diễn ra thì nhân dân mới biết (Hội nghị TW 6 khoá XI vừa qua là một ví dụ điển hình). Quy trình ra quyết định của Quốc hội và Chính phủ thì đã được luật hoá, ai cũng biết, và ở mức độ nào đấy còn được giám sát; trong khi đó, chẳng ai hình dung ra nổi thực chất quy trình ra quyết định của đảng là thế nào, từ Ban Chấp hành TW cho đến Bộ Chính trị, Ban Bí thư, và, quan trọng hơn, xem ra chẳng có ai đủ “tư cách” để “giám sát” cả.
Nhân dân chỉ được thấy hoạt động của các thiết chế “siêu quyền lực” trên qua hình ảnh ngài Tổng Bí thư trịnh trọng đọc diễn văn khai mạc và bế bạc Hội nghị BCHTW (thường mỗi năm hai kỳ) mà người ta phát lại trên chương trình thời sự VTV vào buổi tối của ngày diễn ra sự kiện, những gì còn lại như diễn ra trong bóng tối. (Các “ông chủ” thì cứ việc oằn lưng đóng thuế để nuôi đủ các loại “đầy tớ” vẫn không ngừng sinh sôi nẩy nở trong cả bộ máy đảng lẫn bộ máy nhà nước. Ai mà có “ý kiến ý cò” gì thì đích thị là “phản động” hay “thế lực thù địch”, hoặc không khéo lại phạm tội “trốn thuế” như trường hợp luật sư Lê Quốc Quân mới đây.)
Sự kỳ vọng của dư luận vào hai nhân vật này, đặc biệt là vị tân Trưởng ban Nội chính, cho thấy một thực tế phũ phàng: sự bất lực của cả hệ thống, cũng như của gần 90 triệu người dân Việt Nam, trước “đồng chí X” cùng phe nhóm của ông ta. Tuy nhiên, đằng sau sự kiện gây xôn xao dư luận nói trên lại là một thực tế còn đáng lo ngại hơn – đó là sự trỗi dậy của “quyền lực bóng tối” và sự bế tắc, thậm chí thụt lùi, của hệ thống trong giai đoạn quyết định hiện nay của nước nhà./.
Lê Anh Hùng

 Lú-Bá-Tư, Tam Anh chiến Lữ Bố - kỳ 2

 
Lại nói về anh Bá đang phấn khởi vận hết công lực triển khai Hải Vân Kiếm Pháp trên đỉnh Hải Vân Sơn chém gió về phương Bắc để thị uy thì bị đám lâu la của Lữ Bố bất ngờ tấn công mãnh liệt vào nhược huyệt ở phần bụng bằng đòn độc Hàm Mô Công vô cùng hung hiểm, khó thể nào tránh thoát.
Thế nhưng, anh Bá đường đường là bậc võ công danh lừng, oai trấn một vùng trời đất Trung phần thì đâu có dễ dàng bị đám lâu la lằng nhằng nầy hạ thủ được. Bá chỉ cần hoành kiếm lại chọt thẳng ra theo chiêu thứ 9 trong Hải Vân Kiếm Pháp, gọi là Quảng Cãi Trực Phang thì cái đầu Hàm Mô Công của gã lâu la chỉ có thể chạm nhẹ vào nhược huyệt của Bá sau khi đã giảm tốc vì đi xuyên qua lưỡi kiếm của Bá.
Nhưng kiếm của Bá đã nhanh, mà đầu của Bá còn nhanh hơn. Bá chớp nhoáng nghĩ ra ngay: Thằng nầy tuy là lâu la tiểu tốt nhưng dù sao trên danh nghĩa cũng là vâng mệnh triều đình vào hạch tội ta, ta không thể vì chút nóng giận mà ra tay hạ độc thủ.
Cùng với suy nghĩ, Bá thu kiếm lại, trụ tấn, ưỡn bụng ra hứng đòn. Binh một tiếng vang tai nhoáng óc, xếp lâu la triều đình dội ngược ra sau rồi té phịch xuống đất, mặt xanh như đít nhái, ôm đầu thở đứt khúc.
Còn Bá văng bắn ra khỏi đỉnh núi rồi rơi vào vực thẳm của Hải Vân Sơn.
Không. Xuống đến lưng chừng vực, Bá lộn người tung chân đạp mạnh vào vách núi rồi dùng Vân Phong Phi Yến (chiêu thứ 70 trong Hải Vân Kiếm Pháp) bay một mạch về dinh phủ bên bờ Hàn Giang.
Không kịp nghỉ ngơi, Bá gọi ngay đệ tử Văn Cũng Đấu ra bảo:
- Ta chưa kịp ra chốn triều ca để bình tham quan cứu "ấu" chúa thì chúng đã cử lâu la đến tộn vào bụng ta. Tuy chúng là lâu la nhưng danh nghĩa là vâng mệnh triều đình nên ta phải nghiến răng bấm bụng giả bộ hứng một đòn rồi phi về đây. Tuy nhiên thằng Lữ Bố ấy sẽ tiếp tục sai lâu la vào truy kích ta đến tận nơi này. Đường đường như ta đây không thể hạ mình giao đấu với chúng được. Ta phải để dành sức ra đấu với chủ của chúng...Ngươi thay ta ra đáp lễ chúng.
Nghe nói đến đó, Văn Cũng Đấu rụng rời bủn rủn cả chân tay, mặt mày xanh lét, giọng run run thưa:
- Em..Em...là Văn...là Văn mà làm reng em chiến được...
Bá trừng mắt:
- Ông là Văn nhưng tên ông là Cũng Đấu. Hơn nữa ông được ta cất nhắc lên làm quan đầu phủ mà những lúc như thế này không ra chiến đấu thay ta thì còn ai chiến đấu hả ông kia?
Văn Cũng Đấu càng run hơn:
- Chúng nó là mệnh quan của tể tướng cử về còn em tuy núp dưới bóng anh lồng lộng nhưng cũng chỉ là một quan phủ hèn mọn thì làm sao dám chống lại lệnh triều đình. Chết em, chết em...
- Ông làm cái chi mà ông sợ rứa hử ông? Có chết thì cũng rán ra chiến một trận cho ta. Có ta đứng sau yểm trợ không méc chi phải sợ. Chừ nghe ta bày nè. Phải thế này nè, phải làm ri nè, phải... phải... phải...
Nghe một chặp, Văn Cũng Đấu lấy dần lại tinh thần thì cũng vừa lúc tên đầu đảng lâu la triều đình phi thân đến trước cửa phủ. Tên này tuy bị anh Bá dùng bụng đẩy ngã ngửa ra sau, dộng bàn tọa xuống đá rắn thốn lên đến đỉnh đầu, kinh mạch chấn động nhưng thấy đối thủ văng ra khỏi đỉnh núi rồi dông mất, tưởng mình là bên thắng cuộc nên phấn khởi, nhanh chóng phục hồi chân khí, vận công phi thân về tận sào huyệt của Bá để tiếp tục truy kích. Hắn đứng trước cửa phủ la to:
- Bớ Bá tặc ra đây nghe hạch tội và chịu sự trừng phạt của triều đình.
Không thấy anh Bá đâu, chỉ thấy quan phủ Văn Cũng Đấu dùng dằng bước ra. Quan Đấu tuy đã được lên giây cót, bề ngoài tỏ vẻ bình tâm nhưng trong bụng vẫn rối như tơ vò. Quan biết phen nầy mình làm phận ruồi muỗi giữa hai con trâu và bò đang húc nhau. "Không nghe theo anh Bá thì sẽ tiêu với anh Bá, mà nghe theo anh Bá thì chết với anh Ba. Ta vừa mới lên chức, ai ăn mà ta phải chịu vậy hở trời? Nhưng anh Ba thì ở xa, còn anh Bá thì đứng ngay sau đít...Thôi thế thì cũng phải đành thôi".
Vừa nghĩ như vậy, quan Đấu bèn hắng giọng cố lên gân cãi:
- Tội chi mà tội. Không có tội thì méc chi phải chịu trừng phạt hỉ?
Nghe những lời ngạo mạn đầy tính Quảng như vậy, mệnh quan triều đình nổi cơn giận phừng phừng hét lên:
- Tên mọn quan nầy ỷ thế ai mà dám cả gan cãi lại ta? Mày có biết...phản biện lại ta là chống lại triều đình hay không? Mày muốn tám tám thì tau cho mầy còng số tám.
Y quát chưa xong đã vận công, vung đao chém tới tấp một hơi vào 16 nhược huyệt của quan Đấu. Mỗi nhát chém là một chiêu thức hiểm độc, uy lực cực mạnh với số thành công lực phát ra từ vài trăm đến vài ngàn tỷ cho mỗi nhát chém. Theo thống kê, tổng số thành công lực mà mệnh quan triều đình vừa tung ra tấn cống phủ đầu lên đến 34 ngàn tỷ. (tỷ là đơn vị đo thành công lực)
Thấy uy lực tấn công của đối phương vô cùng kinh hồn, Văn Cũng Đấu, tuy trong lòng run sợ nhưng đã được anh Bá bày vẽ cho từ trước nên vẫn bình tỉnh xuất chiêu chống lại.
Đấu dùng Vân Ba Hư Bộ để lạng lách né tránh đồng thời vung kiếm xuất chiêu Quảng Cải Trực Phang, phang ra những cú chọt vào mặt đối phương để hóa giải những nhát đao cực mạnh. 34 ngàn tỷ thành công lực từ những nhát đao của mệnh quan triều đình bị Văn Cũng Đấu hóa giải thành con số không to tướng. Tiếng vỗ tay hoan hô rào rào vang lên khắp mọi nơi. Té ra lúc Đấu đang chiến, thì Bá đã cho mời 700 cơ quan ngôn luận của cả nước về làm khán giả.
Chỉ mang vào có 16 chiêu để tấn công nhưng không khuất phục được đối phương, mệnh quan triều đình hết bài. Không còn cách nào khác, quan đành hậm hực phi thân về phương Bắc để báo cáo với anh Ba.
Mới ra chiêu đã thắng được mệnh quan triều đình, Văn Cũng Đấu lại không một chút phấn khởi. Ngược lại, tay chân Đấu rụng rời, buông thỏng kiếm xuống, cúi gầm mặt thở dài. Quan biết rằng mình đã nghe theo anh Bá làm một chuyện động trời chưa từng xảy ra trong lịch sử võ lâm kiếm ký kể từ khi Giáo cướp được chính quyền: Quan phủ hèn mọn mà dám ngang nhiên chống lại quan tể tướng đầu triều. Mà chống lại ngay trước hàng chục triệu cử tọa gián tiếp qua 700 cơ quan ngôn luận mới kinh khiếp chứ.
Chuyện tày đình nầy thì không thể nào xảy ra, trừ khi phải tính chuyện ly khai... làm loạn. Mà ly khai làm loạn kiểu nầy thì chỉ có gan trời như Bá đại ca mới tính đến chuyện dám hay không chứ đừng nói chi đến Văn Cũng Đấu đang muốn phấn đấu đi lên kiếm chút... mà tội nghiệp.
Số phận của Văn Cũng Đấu ra sao trước trận lôi đình sắp nổ ra của anh Ba Lữ Bố...đón đọc hồi sau sẽ rõ như ban ngày.

Huỳnh Ngọc Chênh

(Blog Huỳnh Ngọc Chênh)

Thanh tra Chính phủ không nên 'làm ảnh hưởng đến phong trào cách mạng'

Phản bác mạnh mẽ kết luận của Thanh tra Chính phủ, Đà Nẵng, trên Cổng thông tin điện tử TP Đà Nẵng, cho rằng, thanh tra giúp chỉ ra khiếm khuyết của lãnh đạo chứ 'không phải quy kết thiếu tính thuyết phục, làm ảnh hưởng đến phong trào cách mạng của Thành phố'.
Đà Nẵng cho biết đang 'chủ động' mời Bộ KH&ĐT, Bộ TN&MT, Bộ Tài chính vào làm việc, cũng như đang làm việc với Đoàn công tác của Bộ Công an.
Theo Cổng thông tin điện tử TP Đà Nẵng, Thanh tra Chính phủ kết luận gây thất thu ngân sách 3.434.254.712.950 đồng là không có cơ sở, thiếu tính thuyết phục.
'Kết luận này làm ảnh hưởng rất lớn đến phong trào cách mạng của Thành phố và quá trình thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 16/10/2003 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước', Đà Nẵng tuyên bố.

Một góc TP Đà Nẵng
Theo đó, trong hơn 16 năm qua, với sự nỗ lực, cố gắng của Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân Thành phố và sự hỗ trợ giúp đỡ của Trung ương, Đà Nẵng đã có những thay đổi toàn diện về bộ mặt đô thị, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện và nâng cao, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
Thành phố đã tập trung thực hiện hiệu quả các chương trình mang tính nhân văn như Chương trình “thành phố 5 không” với mục tiêu “Không có hộ đặc biệt nghèo, không có học sinh bỏ học, không có người lang thang xin ăn, không có người nghiện ma túy trong cộng đồng, không có giết người để cướp của”; Chương trình “thành phố 3 có” với các mục tiêu “có nhà ở, có việc làm và nếp sống văn minh đô thị”, xây dựng thành phố môi trường…. Đấy là những tiền đề để Thành phố tiếp tục xây dựng thành trung tâm phát triển, là một trong những Thành phố đầu tàu trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tham gia tích cực trong hội nhập kinh tế quốc tế của miền Trung. Cái quý nhất là Đà Nẵng đã tạo được sự đồng thuận cao của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội trong việc thực hiện các chủ trương của Thành phố.
"Lâu nay Đà Nẵng cũng được Trung ương đánh giá là nơi có phong trào tốt, có những cách làm mới, hiệu quả".
"Thanh tra là để chỉ ra những khiếm khuyết trong quá trình lãnh đạo nhằm rút kinh nghiệm để làm tốt hơn chứ không phải quy kết thiếu tính thuyết phục, làm ảnh hưởng đến phong trào cách mạng của Thành phố", thông cáo của người đứng đầu chính quyền TP Đà Nẵng nhận định.
Theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Công văn số 1930/VPCP_VI ngày 19/11/2012 thì hiện nay, UBND thành phố đang làm việc với Đoàn Công tác của Bộ Công an và đã chủ động có Công văn số 475/UBND-NCPC ngày 16/01/2013 đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sớm sắp xếp thời gian vào làm việc với Thành phố để xác minh làm rõ theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, thông báo của Đà Nẵng cho hay.

Sông Lam
(Người Đưa tin)

Người dân tin phản hồi của UBND thành phố Đà Nẵng

Người dân TP.Đà Nẵng tỏ ra quan tâm với văn bản của UBND TP.Đà Nẵng (ký ngày 19.1) phản hồi lại Kết luận 160/TBKL-TTCP của Thanh tra Chính phủ hơn là quan tâm đến chính nội dung kết luận này.
Nhiều người cho rằng, văn bản phản hồi của UBND thành phố giúp họ giữ niềm tin về một cơ quan mà lâu nay họ tin cậy.
“Không đúng thì không tự tin phản hồi”
Ngày 20.1, trả lời phỏng vấn NTNN, ông Trương Đình Thanh (91 tuổi, nguyên Phó Chủ tịch UBND phường Thuận Phước, quận Hải Châu) chia sẻ: Tôi cho rằng sự thật không hoàn toàn như trong kết luận của thanh tra thành phố (TTCP). Chúng tôi không có cơ sở để phản đối nhưng chúng tôi tin UBND thành phố không thể phạm nhiều sai lầm nghiêm trọng như vậy.
Ông Thanh lý giải, UBND thành phố đã giúp cho Đà Nẵng phát triển rất nhiều. “Nếu ai đã sống và làm việc ở thành phố này cỡ 20 năm sẽ nhận thấy TP.Đà Nẵng thay đổi quá nhiều, nhất là phường Thuận Phước.
Trước đây, đây là một phường ven biển nghèo thì nay Thuận Phước đã là những khu phố mới khang trang. Hồ Đầm Rong nhếch nhác ngày nào giờ trở thành khu dân cư sầm uất, đường sá khang trang, đi lại thuận tiện. Hồi năm 1985 khi tôi còn là Phó Chủ tịch UBND phường, lúc đó khu Đa Phước không có đường đi, thường xuyên bị sóng biển xâm lấn, dân cư phức tạp, không có điện, nước...

Thành phố Đà Nẵng thời gian qua làm rất tốt việc xây dựng chỉnh trang đô thị.
Bây giờ bến cá Thuận Phước cũng đã nâng cấp thành cảng du lịch xinh đẹp. Chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ thấy sự thành tâm của lãnh đạo thành phố. Nếu một cơ quan nhiều sai phạm như kết luận của TTCP thì liệu có thể làm cho Thuận Phước nói riêng và Đà Nẵng nói chung phát triển như hiện nay được không?”.
Ông Trần Mạnh- cán bộ hưu trí phường Thanh Khê Tây, quận Thanh Khê tỏ ra rất vui mừng khi báo chí loan tin về văn bản trả lời của UBND thành phố. “Văn bản của UBND thành phố được triển khai nhanh, chỉ sau 1 ngày TTCP công bố kết luận. Văn bản có nội dung cụ thể, lý luận sắc bén và hợp lý. Có làm đúng thì mới nhanh chóng và tự tin phản hồi như vậy được chứ!” - lời ông Mạnh.
“Đấu” từng điểm một
Vào trưa 19.1, Chủ tịch UBND TP. Đà Nẵng Văn Hữu Chiến đã ký văn bản "Phản hồi của TP. Đà Nẵng về kết luận của TTCP về việc chấp hành pháp luật về thanh tra, khiếu nại, tố cáo, Phòng, chống tham nhũng và một số dự án đầu tư liên quan đến việc quản lý, sử dụng đất tại TP. Đà Nẵng".
Trước khi ký văn bản này, ông Văn Hữu Chiến đã thống nhất nội dung với Bí thư Thành ủy Đà Nẵng Nguyễn Bá Thanh. Cụ thể, UBND TP.Đà Nẵng không đồng ý phần lớn nội dung kết luận của TTCP, nhất là việc TTCP kết luận rằng Đà Nẵng đã gây thất thoát ở 6/46 dự án thanh tra, với số tiền lên trên 3.400 tỷ đồng.
Theo UBND thành phố, việc TTCP thanh tra 46 dự án, trong đó có một số dự án, TTCP lấy giá đất của Hội đồng thẩm định giá đất thành phố làm căn cứ chính rồi so với giá đất mà UBND thành phố quyết định có sự chênh lệch, và kết luận là thất thoát là không có cơ sở.
"Theo quy định, việc phê duyệt giá đất để thu tiền sử dụng đất thuộc thẩm quyền của UBND thành phố. Hội đồng thẩm định giá đất thành phố do UBND thành phố thành lập gồm đại diện Sở Tài chính, Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Xây dựng, Cục Thuế thành phố, Văn phòng UBND thành phố chỉ là bộ phận tham mưu, đề xuất cho lãnh đạo UBND thành phố trong việc xem xét và quyết định giá đất. Chính vì điều này nên việc đồng ý giảm, tăng hoặc giữ nguyên giá đất theo đề nghị Hội đồng Thẩm định giá đất thành phố là việc làm bình thường và đúng thẩm quyền của UBND thành phố” - trích văn bản.
Trong văn bản phản hồi, ông Chiến cũng cho biết, UBND TP. Đà Nẵng đã có công văn đề nghị Bộ TNMT, Bộ Tài chính, Bộ KHĐT sớm sắp xếp thời gian vào làm việc với thành phố để xác minh làm rõ theo sự việc mà TTCP kết luận theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
Văn bản của UBND thành phố cũng phản ứng với từng ví dụ cụ thể mà kết luận của TTCP nêu ra.
Đơn cử như 2 khu đất ký hiệu A4, A5 khu đầu tuyến Sơn Trà - Điện Ngọc giao cho Công ty Phú Mỹ. Ở 2 khu đất này, TTCP kết luận: “Khu đất A4, A5 (khu dân cư đầu tuyến Sơn Trà - Điện Ngọc), năm 2007 chuyển nhượng cho Công ty cổ phần Xây dựng thương mại Phú Mỹ để xây dựng chung cư, căn hộ cao cấp, văn phòng cho thuê và khách sạn du lịch, lãnh đạo UBND thành phố và Hội đồng không xác định theo giá đất ở mà giữ nguyên giá theo giá đất sản xuất kinh doanh (bằng 0,7 giá đất ở) gây thất thu cho ngân sách. Đến năm 2010, Công ty cổ phần Xây dựng thương mại Phú Mỹ chuyển nhượng cho Công ty Bất động sản Phương Trang với số tiền là 285.645.920.000 đồng. Chênh lệch so với giá của thành phố xác định năm 2007 là 22.680.432.000 đồng”.
UBND cho rằng kết luận vậy là không có cơ sở. Vì Hội đồng thẩm định giá đất thành phố đề xuất mức giá khởi điểm để đấu giá đất theo mục đích sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp là 2.570.000 đồng/m2 và được UBND thành phố quyết định theo đúng đơn giá nêu trên.
Sau khi đăng báo công khai đấu giá theo quy định của pháp luật nhưng hết thời hạn quy định vẫn không có tổ chức, cá nhân nào tham gia đấu giá và chỉ có Công ty cổ phần Xây dựng thương mại Phú Mỹ có đơn xin nhận quyền sử dụng đất và được UBND thành phố thống nhất giao quyền sử dụng 2 khu đất A4, A5 với đơn giá sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp 2.570.000 đồng/m2.
Sau khi công ty này nộp toàn bộ tiền sử dụng 2 khu đất và được UBND thành phố cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Theo giấy chứng nhận đã cấp cho Công ty Phú Mỹ (số AK280458 và AK280459) thì mục đích sử dụng các khu đất này là đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp. Như vậy, UBND thành phố thu tiền sử dụng đất đối với Công ty Phú Mỹ là đất sản xuất kinh doanh, không phải là đất ở như ý kiến của TTCP...
Ông Trần Văn Minh- Phó ban Tổ chức T.Ư, nguyên Chủ tịch UBND TP. Đà Nẵng: “Kết luận chưa đúng với hoàn cảnh”
Liên quan đến kết luận của TTCP, ông Nguyễn Bá Thanh - Trưởng ban Nội chính Trung ương, Bí thư Thành ủy Đà Nẵng khẳng định những kết luận sai phạm về quản lý đất đai gây thất thoát nguồn ngân sách nhà nước của TTCP là không có cơ sở, thiếu tính thuyết phục và không đi sát với thực tế. Ông Thanh cho rằng việc phê duyệt giá đất để thu tiền sử dụng đất thuộc thẩm quyền của UBND thành phố - Hội đồng thẩm định giá đất thành phố gồm đại diện Sở Tài chính, Sở Tài nguyên - Môi trường, Sở Xây dựng, Cục Thuế thành phố. Việc đồng ý giảm, tăng hoặc giữ nguyên theo đề nghị của Hội đồng thẩm định giá đất thành phố là việc làm bình thường và đúng thẩm quyền. Cũng theo ông Thanh, việc Đà Nẵng áp dụng giảm 10% cho các tổ chức, cá nhân nộp đủ tiền sử dụng đất trong vòng 30 ngày sau khi nhận đất tái định cư là vận dụng các chủ trương của Chính phủ, "điều này có lợi là thành phố thu được tiền ngay để đầu tư các công trình, không để tiền bị trượt giá mà dân cũng có lợi, sao gọi là sai phạm?".
Trong khi đó, nguyên Chủ tịch UBND TP.Đà Nẵng Trần Văn Minh (hiện là Phó Trưởng ban Tổ chức T.Ư) cũng cho biết: “Nội dung kết luận của TTCP "liên quan đến 3 đời chủ tịch" là ông Huỳnh Năm (đã nghỉ hưu), ông Hoàng Tuấn Anh (hiện là Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch) và tôi. Tôi chỉ là một phần. Chuyện đó cũng cũ rồi".
Trả lời câu hỏi rằng "kết luận của TTCP có liên quan đến một giai đoạn ông làm chủ tịch, tức có liên quan đến cá nhân ông, vậy ông có bình luận, giải trình gì không?", ông Minh cho biết: "Thành quả có nhiều, còn khuyết điểm thì mới chỉ là quan điểm của cơ quan thanh tra, chứ UBND TP. Đà Nẵng vẫn đang tiếp tục giải trình. Tôi nghĩ rằng kết luận chưa thật sự đúng với hoàn cảnh của thành phố , chưa phù hợp với một số chủ trương của thành phố . Còn cá nhân tôi, tôi cũng bình tĩnh, tới đây cái gì liên quan đến mình thì tôi sẽ trả lời".

Anh Thư (tổng hợp)
(Dân Việt)   

Công bố kết luận thanh tra Đà Nẵng 'không bất thường'

"Ngày 1311 (chủ nhật), Thủ tướng có ý kiến thì Văn phòng Chính phủ phải ra văn bản thông báo ngay, bất kể đó là ngày nghỉ. Việc này không có gì bất thường", ông Đỗ Văn Dũng, Vụ phó Vụ Theo dõi khiếu nại tố cáo và phòng chống tham nhũng, cho biết.
Một ngày sau khi Thanh tra Chính phủ công bố kết luận thanh tra, ông Văn Hữu Chiến, Chủ tịch UBND Đà Nẵng cho rằng nội dung kết luận không bất ngờ, nhưng cách đưa kết luận này ra công bố trên báo chí thì bất ngờ, thời điểm đưa ra kết luận thanh tra là bất thường. Trong khi các bộ, ngành chưa vào làm theo yêu cầu của Thủ tướng thì Thanh tra Chính phủ đã công bố.
Trao đổi với VnExpress chiều 19/1, Vụ phó Vụ Theo dõi khiếu nại tố cáo và phòng chống tham nhũng (Văn phòng Chính phủ) Đỗ Văn Dũng, người trực tiếp theo dõi và xử lý hồ sơ về thanh tra Đà Nẵng, cho biết không ít trường hợp đơn vị được thanh tra không đồng tình với kết luận thanh tra. Các kết luận của thanh tra cũng như việc giải quyết sau kết luận thanh tra phải căn cứ vào quy định của pháp luật.
Ngày 2/11/2012 Thanh tra Chính phủ đã hoàn tất kết luận thanh tra trách nhiệm của Chủ tịch UBND Đà Nẵng trong việc chấp hành pháp luật về thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo, phòng chống tham nhũng và một số dự án đầu tư liên quan đến việc quản lý, sử dụng đất. Ngày 19/11, Văn phòng Chính phủ đã thông báo ý kiến Thủ tướng về việc xử lý sau thanh tra tại Đà Nẵng. Cả hai văn bản này đều đóng dấu mật và quản lý theo chế độ tài liệu mật.
Trả lời câu hỏi về lý do không công bố kết luận thanh tra từ tháng 11, ông Dũng cho biết, theo quy định, khi chưa có kết luận cuối cùng, các tài liệu đều đóng dấu mật. Sau khi có ý kiến Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ hoàn toàn chủ động trong việc công bố kết luận thanh tra Đà Nẵng. "Nhiều trường hợp, như kết luận thanh tra Ngân hàng phát triển, sau 4 tháng mới được công bố", ông Dũng nói
Ông Dũng cho biết, trong trường hợp kết luận thanh tra Đà Nẵng, ban đầu Thanh tra Chính phủ đóng dấu mật, sau đó ngày 11/1 Thanh tra Chính phủ có văn bản báo cáo Thủ tướng là thanh tra rà soát, nghiên cứu thấy rằng các nội dung của kết luận thanh tra đến nay không còn thuộc danh mục bí mật nên đề nghị Thủ tướng cho phép công khai kết luận thanh tra. Thủ tướng có ý kiến trả lời đồng ý với kiến nghị của Thanh tra Chính phủ.
"Văn bản ngày 11/1 của Thanh tra Chính phủ đóng dấu “Hỏa Tốc” nên theo quy định Văn phòng Chính phủ phải xử lý ngay. Ngày 13/11 (chủ nhật), Thủ tướng có ý kiến thì Văn phòng Chính phủ phải ra văn bản thông báo ngay, bất kể đó là ngày nghỉ, ngày lễ. Việc này không có gì bất thường", ông Đỗ Văn Dũng nói.
Theo Thanh tra Chính phủ, việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất, cho thuê đất... không tuân thủ quy định của pháp luật ở Đà Nẵng đã gây thất thu cho ngân sách nhà nước, tạo điều kiện cho một số nhà đầu tư chuyển nhượng thu lời bất chính. UBND TP Đà Nẵng giảm 10% tiền sử dụng đất cho các hộ được bố trí đất tái định cư, tổ chức cá nhân được giao đất, nhận chuyển nhượng nhượng quyền sử dụng đất là không đúng, gây thất thu ngân sách hơn 446 tỷ đồng (đối với các hộ tái định cư) và hơn 867 tỷ đồng (đối với các tổ chức, cá nhân khác).
Trao đổi với Tuổi Trẻ chiều 18/1, ông Nguyễn Bá Thanh, Trưởng ban Nội chính trung ương, Bí thư Thành ủy Đà Nẵng khẳng định những kết luận sai phạm về quản lý đất đai gây thất thoát nguồn ngân sách nhà nước của Thanh tra Chính phủ là không có cơ sở, thiếu tính thuyết phục và không đi sát với thực tế. Việc đồng ý giảm, tăng hoặc giữ nguyên theo đề nghị của Hội đồng thẩm định giá đất thành phố là việc làm bình thường và đúng thẩm quyền của UBND.

Xuân Hoa
(VnExpress)

Nguyễn Bá Thanh cứ "hốt" các DNNN với NH là ra hết thôi !

Dòng chảy ngược VDB 
Dòng chảy ngược VDB
Cho đến cuối tuần trước, kết luận của thanh tra Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) mới được công bố, chậm hơn 1 năm so với thời hạn quy định vì những rắc rối khi phân tích nợ ở tổ chức tín dụng này.
Trên thực tế VDB là một tổ chức tín dụng nhưng lại không chịu sự quản lý đầu đủ của Ngân hàng Nhà nước. Và thay vì có hội đồng quản trị như các ngân hàng khác VDB lại có hội đồng quản lý gồm nhiều thành viên là thứ trưởng Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Sự lưỡng thể trong quy định quả lý, hoạt động ở VDB suốt bảy năm, tất yếu để lại những hậu quả, mà rõ nhất là nợ xấu đến hết năm 2010 được Thanh tra Chính phủ công bố là 22.600 tỉ đồng, bằng 12,57% tổng dư nợ ngành ngân hàng và các hoạt động tín dụng khác cũng nằm ngoài thống kê chung của ngành ngân hàng.
Theo Thanh tra Chính phủ, VDB chỉ được cho vay tín dụng đầu tư và xuất khẩu theo đúng đối tượng được Nhà nước quy định hoặc khuyến khích. Thực tế không như vậy. VDB cho vay chưa đúng đối tượng, thẩm định không đúng quy định, vi phạm trong khâu giải ngân vốn. Mỗi sai phạm đều có giá trị giải ngân từ vài trăm đến vài ngàn tỉ đồng. Ví dụ như sai phạm trong khâu giải ngân vốn vay ở 41 dự án (đến hết tháng 6/2011) đã có dư nợ đến 3.100 tỉ đồng, trong đó nhiều khoản vay đã biến thành nợ xấu.
“Qua thanh tra việc cho vay tín dụng đầu tư và xuất khẩu tại VDB cho thấy tình trạng vi phạm các quy định diễn ra ở nhiều dự án dẫn đến nợ xấu tăng cao, khó có khả năng thu hồi vốn”, kết luận thanh tra viết. Và điều này lý giải phần nào một thực tế là nhiều donah nghiệp, dù không phải đối tượng được vay, nhưng vẫn tìm mọi cách vay vốn ở VDB bởi nguồn vốn (từ ngân sách) ở đây dồi dào, lãi suất thấp (do cơ chế được cấp bù lãi suất) và thời gian trả nợ cũng như điều kiện vay đôi khi dễ hơn nhiều so với ở các NHTM.
Giới doanh nghiệp lâu nay vẫn kháo nhau các cửa chạy vốn vay ở VDB. Thực hư thế nào chưa thể khẳng định song với những sai phạm mà thanh tra chỉ ra, người ta có quyền đặt câu hỏi: Tại sao VDB lại dễ dàng mắc nhiều sai phạm thuần túy về mặt nghiệp vụ trong quá trình cho vay vốn? Liệu rằng nhiều doanh nghiệp có phải trả thêm các khoản “lãi” ngoài hợp đồng để được vay vốn ở VDB?
Theo kết luận của thanh tra, dù không đuoc phép của chính phủ, Tổng giám đốc VDB vẫn ban hành quy định về cho vay thí điểm với con số dư nợ lên tới 260 tỉ đồng. Kết quả là quy định này đã mang về cho VDB 85,27% tổng số nợ xấu và khả năng thu hồi là rất khó.
VDB là ngân hàng chính sách, được bố trí, cấp phát vốn từ ngân sách, từ vốn phát hành trái phiếu trên thị trường (Chính phủ bảo lãnh), vốn ODA do Chính phủ giao để cho vay lại các dự án…Vì vậy hiệu quả cho vay của VDB ảnh hưởng rất lớn đến tình hình nợ công, khả năng cân đối ngân sách và trả nợ. Chỉ với bản kết luận thanh tra, ở những vụ việc cụ thể, công luận cũng chưa thể biết hết được toàn cảnh ở VDB.
Bộ Tài chính cũng thừa nhận rằng VDB huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu có kỳ hạn thường chỉ 2-5 năm, nhưng lại cho vay kỳ hạn dài, thông thường là 12 năm, có những trường hợp lên tới 15 nă, nên việc đảm bảo cân đối dòng tiền với VDB là rất khó, mà nhiều khoản cho vay có độ rủi ro rất lớn. Mặt khác với những quy định hiện hành, rất khó buộc được cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm cuả lãnh đạo VDB vì Bộ Tài chính không thể giám sát hoạt động của VDB tốth ơn NHNN, nhưng NHNN lại không được thực hiện đầy đủ quyền này.
Một phó tổng thanh tra chính phủ nói với TBKTSG rằng trong nhiều cuộc họp về kết quả thanh tra ở VDB với Chính phủ, ông đã đề nghị chuyển VDB về NHNN quản lý còn Bộ Tài chính chỉ quản lý dòng tiền ở nơi này mà thôi. Song vấn đề này khôgn đươc jbàn tiếp.
Phải chăng vì thế cái thiếu lớn nhất trong kiến nghị của Thanh tra Chính phủ về VDB là đề xuất việc thay đổi hệ thống quy định điều chỉnh hoạt động của ngân hàng này, buộc nó phải tuân thủ theo đúng các quy định về quản lý ngân hàng, bóc tách riêng các quy định về việc thực hiện chính sách theo chỉ định của Chính phủ. Và nếu cứ để VDB như một định chế tài chính đứng ngoài dòng chảy của hệ thống ngân hàng, hầu như không được nhắc đến trong đề án tái cơ cấu ngân hàng thì định chế tài chính này sẽ còn nằm trong “bóng mờ” của thị trường tiền tệ.
Ngọc Lan
(TBKTSG)

GS Ngô Bảo Châu nói về 'dối trá' và 'đớn hèn'

Giáo sư Ngô Bảo Châu
GS Ngô Bảo Châu
Giáo sư Châu nói con người trở nên đớn hèn khi sống với sự dối trá
Giáo sư Ngô Bảo Châu vừa có bài viết trên trang blog đề cập tới tầm quan trọng của sự thật và hậu quả của việc sống với 'dối trá'.
Bài 'Giữ ký ức' được đặt trong mục 'độc thoại' trên blog thichhoctoan.net mở đầu với chuyện người Đức thẳng thắn nhìn vào quá khứ Phát xít đau thương của họ.
Tác giả dẫn lời một người bạn đã sống hàng chục năm ở Đức kể chuyện học sinh trung học được giao làm bài tập bằng cách đi tìm xem trong khu phố của mình đã từng có người Do thái nào sinh sống và số phận của họ ra sao dưới thời Đức Quốc xã và viết:
"Ký ức về một trong những tội ác kinh khủng nhất trong lịch sử nhân loại cần được làm sống lại, không chỉ qua những trang sách lịch sử, mà cả bởi những ngôi nhà, những khu phố thân quen.
"Cần phải mở toang những cánh cửa cứ muốn khép lên số phận những con người đã từng bị đối xử như súc vật."
Giáo sư Châu cho rằng "dân tộc Đức là một dân tộc đã trưởng thành, người Đức muốn con mình trở thành thành viên của một dân tộc trưởng thành."
Ông lý giải tại sao họ "không lờ những gì nhục nhã, chỉ lưu lại lại những gì vinh quang, ngọt ngào":
"Người Đức có lẽ hiểu rất rõ rằng thức ăn cho tâm hồn con người chính là sự thật.
"Những dân tộc quen nấu sự dối trá cho mình ăn, sẽ dần dần quen với sự bạc nhược, sự đớn hèn của chính mình.
"Thế nhưng người ta vẫn thích nấu sự dối trá cho mình ăn. Vì sự thật nhiều khi không có lợi, hoặc là cứng quá, không tốt cho lợi."
'Bóng và Gió'
Giáo sư Ngô Bảo Châu chỉ là người gần đây nhất nhắc tới mối liên hệ giữa sự thật và tính cách cũng như vận mệnh của mỗi con người và cả một dân tộc cho dù ông không nói trực tiếp tới Việt Nam.
Nhà báo Huy Đức, tác giả của bộ sách Bên Thắng cuộc cũng nói về chuyện sự thật cần phải được nói ra cho dù nó có cay đắng tới đâu.
Ông Huy Đức nói sự thật sẽ giúp các nhà lãnh đạo hiện nay tránh mắc lại sai lầm như trong quá khứ và có một hướng đi tốt đẹp hơn cho hiện tại và tương lai.
Trước đó blogger và nhà báo Trương Duy Nhất chỉ trích một số lãnh đạo Việt Nam "hèn hạ" khi phải nói chệch tên ủy viên Bộ chính trị bị đề nghị kỷ luật là "đồng chí X".
Nhưng nói bóng gió thực ra là một đặc tính của người Việt như nhà báo Robert Templer đã nhận xét trong cuốn sách Bóng và Gió.
Nói rộng ra, lảng tránh sự thật hoặc thậm chí dối trá được cho là căn bệnh phổ biến ở các quốc gia cộng sản.
Năm ngoái, báo Pravda, tức sự thật, kỷ niệm 100 năm thành lập với khẩu hiệu có tiếng Mnogo Gazet, Pravda Odna, có nghĩ là 'Nhiều Báo, Sự thật chỉ một'.
Nhiều nhà báo Nga đã chỉ ra rằng những gì đăng tải trên Pravda phải được đọc với sự thận trọng, những lời khen luôn đáng nghi ngờ và sự chê bai đồng nghĩa với chuyện đối tượng được nhắm tới là người tài.
Sự dối trá trong xã hội cộng sản tồn tại như một định chế và được sự bảo kê cần thiết để tồn tại và phát triển.
Định chế đó nhắm tới cả quá khứ, hiện tại và tương lai.
Nhưng nếu Đảng Cộng sản Liên Xô có thể gợi ý điều gì cho các đảng cựu vệ tinh thì đó chính là sự bảo kê không bao giờ có thể là vĩnh viễn.
Chính 'Sự thật' đã từng chết đi sống lại khi Đảng Cộng sản Liên Xô băng hà.
'Đẹp đẽ tinh khôi'
Trở lại với blog của Giáo sư Ngô Bảo Châu, ông dành phần cuối để nói về hành trình cùng bà ngoại đi tìm lại căn nhà với cây bàng trước cửa, nơi bà và ông đã quen nhau "khi đi dạy bình dân học vụ" ở làng Bạch Mai, Hà Nội.
Đối với một người từng sống ở Châu Âu cổ kính, vị giáo sư dường như tỏ ý tiếc cho sự phát triển không có tính kế thừa và thiếu tôn trọng quá khứ mà ông chứng kiến trong chuyến đi ngắn ngủi.
Ông viết: "Cái không may nhưng lại là may trong trường hợp của tôi là số bàng còn sống sót cũng không nhiều.
Giáo sư Châu từng tạm đóng blog sau khi lên tiếng về vụ xử Tiến sỹ Cù Huy Hà Vũ
"Cái nhà giống nhất với những gì bà tôi còn nhớ bây giờ là một hiệu cầm đồ.
"Cả dãy phố đó còn lại một hai cây bàng nhưng có cả chục hiệu cầm đồ. Cái nào cũng giống cái nào, một đống máy vi tĩnh cũ nát, ba bốn cái xe máy lấm bùn.
"...Một vài người nhìn hai bà cháu tôi với ánh mắt thù địch.
"Tự nhiên nảy ra trong đầu tôi có một ý nghĩ vu vơ, nhưng là một sự tiếc nuối vô bờ cho một ký ức đẹp đẽ tinh khôi đã bị mất, để đổi lại hình ảnh bạc nhược của một đống máy vi tính vô hồn cũ nát, của những chiếc xe máy gỉ sét trong tiệm cầm đồ.
"Đành rằng, cầm đồ là một loại hình kinh doanh có lợi."
Blog của Giáo sư Ngô Bảo Châu đã gây tiếng vang lớn khi ông lên tiếng về vụ xử Tiến sỹ Cù Huy Hà Vũ nhưng ông cũng đã phải tạm đóng blog một thời gian vì các phản ứng dữ dội sau đó.
Ông cũng từng nói trên blog rằng ông không phải là người đi theo lề vì chỉ có "loài cừu" mới làm như vậy.
Hiện Giáo sư Châu tham gia giảng dạy và nghiên cứu tại University of Chicago nhưng cũng là Giám đốc Viện nghiên cứu cao cấp về Toán ở Việt Nam.

Nguyễn Hùng
bbcvietnamese.com

Chủ đầu tư thuê "xã hội đen" dọa giết khách muốn rút vốn

Chị Nguyễn Thị Nghiệp
Ngày 14/1, PV Infonet nhận được điện thoại kêu cứu của chị Nguyễn Thị Nghiệp, một khách hàng đóng tiền mua chung cư 83 Ngọc Hồi, Hà Nội, cho biết gia đình chị đang bị hai người đòi nợ thuê theo kiểu xã hội đen đến nhà đòi nợ, và hăm dọa, cấm cửa..
Đồng thời đe dọa, ép chị Nghiệp không được làm đơn và liên lạc với các khách hàng khác đòi rút vốn tại dự án Chung cư 83 Ngọc Hồi do Công ty CP Cơ khí Hưng Sơn chủ đầu tư.
Theo lời chị Nghiệp cho biết, trong đêm ngày 14 và ngày 15 chị nhận được nhiều tin nhắn đe dọa “khủng bố” tinh thần của một người tên là Hiền đại diện cổ đông góp vốn của chủ đầu tư dự án Chung cư 83 Ngọc Hồi.
Và đỉnh điểm là 8h sáng ngày 14/1, gia đình chị vừa ăn sáng, chuẩn bị đi ra ngoài thì có 2 thanh niên ập vào nhà uy hiếp, đe dọa. Lúc đầu, hai thanh niên vào nhà đưa tờ giấy nộp tiền chênh lệch hơn 1 tỷ đồng, cách đây 4 năm chị đã từng nộp cho chủ đầu tư đưa cho gia đình xem, và yêu cầu chị Nghiệp trả số tiền chênh đó, nhưng không có chữ ký của người giao tiền. Trước sự giải thích của chị Nghiệp, hai thanh niên nói được yêu cầu đến đòi nợ thuê, còn nội tình thế nào không biết…
Theo chị Nghiệp trong cả buổi sáng ngày 14/1, hai thanh niên trực chờ ngoài cửa nhà, uy hiếp, cấm cửa gia đình chị Nghiệp không cho ra ngoài…
Chị Nghiệp gọi điện kêu cứu bảo vệ tòa nhà, công an khu vực, công an 114. Sau đó, anh Nguyễn Cộng Chícông an khu vực đến thì hai thanh niên đòi nợ thuê mới chịu rời khỏi nhà chị. Cho đến khoảng 10h sáng ngày 14/1, chị Nghiệp mới ra được khỏi nhà và đến công an phường trình báo. Sau đó, trong ngày 15/1, chị Nghiệp liên tiếp nhận nhiều tin nhắn và cuộc gọi với những lời hăm dọa.

Số tiền chị Nghiệp đóng cho chủ đầu tư lên đến 5 tỷ đang có nguy cơ mất trắng
Anh Nguyễn Cộng Chí, công an khu vực Khu đô thị mới Linh Đàm cho biết, khoảng hơn 9h ngày 14/1, anh nhận được điện thoại của gia đình chị Nghiệp với nội dung có hai thanh niên đến gia đình đòi nợ và đe dọa. Mục đích của hai thanh niên này là đe dọa gia đình chị không được liên hệ với các khách hàng khác đến chủ đầu tư đòi rút vốn tại dự án chung cư. Sau khi anh Chí đến hiện trường phân giải, hai thanh niên đã bỏ đi…
Trước thông tin chị Nghiệp phản ánh, PV Infonet đã tìm đến trụ sở Công ty cổ phần cơ khí Hưng Sơn, chủ đầu tư dự án chung cư 83 Ngọc Hồi để tìm hiểu sự việc. Tại đây, nhân viên công ty cho biết lãnh đạo đi vắng và cung cấp cho PV số điện thoại di động của ông Giám đốc Công ty Hưng Sơn. Tuy nhiên, PV gọi nhiều lần vào số điện thoại này không thấy có ai nghe máy.
“Nếu không trả sẽ cấm cửa, không được làm đơn và gọi điện cho các khách hàng khác đòi rút vốn tại dự án Chung cư 83 Ngọc Hồi. Nếu tiếp tục có hành vi như vậy sẽ… “nhận quả đắng”. Đã đòi nợ thuê thì giết người chúng tôi cũng giết…” - Chị Nghiệp sợ hãi kể lại sự việc trước sự đe dọa của hai thanh niên.
Góp nhiều tỷ đồng mua nhà, hiện gia đình chị Nghiệp đang sống trong một chung cư đi thuê. Chị Nghiệp cho biết, chị đã ký hợp đồng góp vốn mua 4 căn tại dự án, mua 3 ki ốt bán hàng và góp cổ phần 1,9 tỷ tiền mặt, tổng số tiền chị đầu tư vào dự án lên đến 5 tỷ đồng cho chủ đầu tư là Công ty cổ phần cơ khí Hưng Sơn.
Nhưng đến nay, chị Nghiệp cùng nhiều khách hàng khác yêu cầu chủ đầu tư trả lại số tiền đã mua căn hộ, tiền đầu tư để mua nhà ở, nhưng nhiều lần điện thoại cho bà Lan, ông Lượng – Đại diện chủ đầu tư để lấy lại tiền, nhưng không ai nghe máy. Chị Nghiệp cũng là đại diện Ban liên lạc khách hàng mua chung cư 83 Ngọc Hồi.
Sự việc đến cao trào là trưa ngày 13/1, hàng trăm khách hàng tìm đến trụ sở yêu cầu chủ đầu tư trả lại vốn đã ký hợp đồng mua căn hộ trước đó, nhưng chỉ gặp được một người tên là Hiền – Kế toán chủ đầu tư đứng ra động viên khách hàng tiếp tục chờ đợi, không nên bức xúc, gây áp lực cho chủ đầu tư.
Đến sáng ngày 14/1, thì xảy ra sự việc có 2 thanh niên đòi nợ thuê ập vào nhà chị Nghiệp uy hiếp gia đình./.
(Infonet)

Phải chăng Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tận mạng?

Lendongxuongdoai

Minxin Pei (Bùi Mẫn Hân), Giáo sư Claremont McKenna College
Liệu giới chóp bu cầm quyền của Bắc Kinh có chịu chung số phận như giới cai trị ở Liên Xô cũ? Dám lắm.

Hôm thứ Sáu tuần rồi, Bắc Kinh thông báo Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) sẽ nhóm họp đại hội đảng lần thứ 18 vào ngày 8 tháng 11. Thông báo này đã làm nhẹ nhõm những người quan ngại rằng các vụ tai tiếng chính trị và tranh giành quyền lực ở thượng tầng chính phủ Trung Quốc đã phá hỏng bước chuyển giao thế hệ lãnh đạo cả thập niên mới có một lần. Rốt cuộc, giới lãnh đạo cao cấp nhất của đảng dường như đã nhất trí về cách xử lý Bạc Hy Lai, cựu bí thư Trùng Khánh đã thất sủng (có thể là đi tù), và về nhân sự Bộ Chính trị và Thường vụ Bộ Chính trị đầy uy quyền.
Vì những lý do đương nhiên, giới chóp bu lãnh đạo của Trung Quốc trong vài tháng sắp đến sẽ gắng hết sức để tạo nên hình ảnh đoàn kết và tự tin, và thuyết phục thế giới tin rằng thế hệ lãnh đạo sắp tới đủ năng lực duy trì độc quyền chính trị của ĐCSTQ.
Ác một nỗi là dễ gì thiên hạ tin. Lòng tin vào sự thống nhất nội bộ và sự lãnh đạo của đảng đã bị lay chuyển do vụ Bạc Hy Lai, đại nạn tham nhũng, cải cách đình trệ trong thập niên vừa qua, kinh tế suy giảm, quan hệ ngày càng xấu đi với các nước láng giềng và Mỹ, và bất ổn xã hội ngày càng tăng. Hiện nay nhiều người tự hỏi ĐCSTQ có thể bám víu quyền lực đến bao lâu nữa và liệu ĐCSTQ có thực hiện được một quá trình quá độ dân chủ để tự cứu mình hay không.
Những câu hỏi này không phải là sản phẩm của những kẻ rỗi hơi nghĩ càn. Xét về nhiều mặt, sự cai trị của ĐCSTQ sắp sửa bước vào một thập niên khủng hoảng có hệ thống. Sau khi đã cai trị Trung Quốc trong 63 năm, trong vòng chục năm nữa đảng sẽ đạt đến tuổi thọ ghi nhận được của những chế độ độc đảng lâu bền nhất trên thế giới – Đảng Cộng sản trước đây của Liên Xô (74 năm), Quốc Dân Đảng (73 năm), và Đảng Thể chế Cách mạng [PRI] của Mexico (71 năm). Cũng như một con người, một tổ chức như ĐCSTQ cũng già đi.
Ngoài ra, sự phát triển kinh tế nhanh của Trung Quốc đã đẩy đất nước này vượt qua cái thường được gọi là “vùng quá độ dân chủ” – phạm vi thu nhập bình quân đầu người từ 1.000 đến 6.000 đô-la (theo ngang giá sức mua, PPP). Giới chính trị học đã nhận định rằng các chế độ chuyên quyền càng có nguy cơ phải thay đổi chế độ khi thu nhập càng tăng. Cơ may duy trì chế độ chuyên quyền càng giảm đi một khi thu nhập bình quân đầu người vượt quá 6.000 đô-la (PPP). Thu nhập bình quân đầu người của Trung Quốc đã đạt đến 8.500 đô-la (PPP). Và gần như tất cả những chế độ chuyên quyền trên thế giới với thu nhập bình quân đầu người cao hơn thế là những nước dầu hỏa. Vì vậy Trung Quốc đang ở trong một môi trường kinh tế xã hội mà trong đó sự cai trị chuyên quyền ngày càng trở nên không chính đáng và không bền vững. Nếu ai chưa tin ở điểm này thì nên thử xem qua mạng Vi Bác (Weibo, 微博, mạng xã hội Trung Quốc tương đương với Twitter - N.D.) để thấy dân thường ở Trung Quốc nghĩ gì về chính quyền.
Vì vậy, câu trả lời cho câu hỏi về tính bền vững của chế độ cai trị độc đảng ở Trung Quốc đã rõ: tiền đồ của ĐCSTQ là đã tận mạng.
Câu hỏi về việc bằng cách nào một chế độ độc đảng có thể thực hiện được một quá trình chuyển biến chính trị để tự cứu mình lại có câu trả lời lý thú và phức tạp hơn.
Về căn bản, những chế độ như vậy có hai con đường: con đường chắc chắn dẫn đến tự diệt vong theo kiểu Liên Xô, và con đường dẫn đến tự đổi mới và chuyển biến theo kiểu Đài Loan – Mexico.
Kể từ khi Liên Xô sụp đổ, giới lãnh đạo cao cấp nhất của ĐCSTQ đã quyết tâm không lặp lại thảm họa Xô Viết. Do đó, chính sách của họ từ trước đến nay là cưỡng lại mọi hình thức cải cách chính trị. Rủi thay, kết quả là một đảng ngày càng xơ cứng, chịu sự chi phối của những nhóm đặc lợi, và những kẻ cơ hội đồi bại như họ Bạc. ĐCSTQ có thể có hơn 80 triệu đảng viên, nhưng phần lớn vào đảng chỉ để lợi dụng những lợi ích vật chất mà đảng mang lại. Bản thân họ đã trở thành một nhóm đặc lợi xa rời xã hội Trung Quốc. Nếu sự sụp đổ của Đảng Cộng sản Liên Xô (ĐCSLX) có giúp họ rút ra bài học thực sự nào, chắc chắn không phải như Trung Quốc chính thức ra rả tuyên truyền rằng những cải cách chính trị của Gorbachev đã đẩy đảng vào chỗ diệt vong. Sự thật đáng buồn là: đến giữa thập niên 1980 chế độ Xô Viết đã quá rệu rã nên không thể hồi sinh vì chế độ đó đã không chịu cải cách trong hai thập niên thời Brezhnev. Điều quan trọng hơn nữa là ĐCSTQ nên hiểu rằng, cũng như hàng triệu đảng viên ĐCSLX, những đảng viên thường gần như chắc chắn sẽ bỏ đảng trong những lúc khủng hoảng chế độ. Khi ĐCSLX sụp đổ, không hề có đảng viên trung thành nào bênh vực cho chế độ. Một số phận như vậy đang chờ đợi ĐCSTQ.
Như vậy ĐCSTQ chỉ còn một lựa chọn khả thi: chọn con đường tự đổi mới và chuyển biến theo kiểu Đài Loan – Mexico. Những chế độ độc đảng ở Đài Loan và Mexico rõ ràng là những chế độ thành công nhất trong việc tự thay đổi thành những nền dân chủ đa đảng trong một phần tư thế kỷ vừa qua. Tuy chuyện quá độ sang dân chủ của họ khác nhau và phức tạp, ta có thể rút ra bốn bài học chính từ thành công của họ.
Thứ nhất, giới lãnh đạo ở Đài Loan và Mexico đối mặt với một cuộc khủng hoảng về tính chính đáng trong thập niên 1980 và hiểu ra rằng những chế độ độc đảng đã tận số. Họ không tự lừa gạt mình bằng những ảo tưởng hay điều dối trá.
Thứ hai, cả hai đều hành động trong khi chế độ của họ mạnh hơn phe đối lập và trước khi họ mất tín nhiệm hoàn toàn, nhờ đó họ có khả năng thực hiện được việc chuyển tiếp dần dần.
Thứ ba, giới lãnh đạo của họ tập trung quyền lực và áp dụng độc tài trong nội bộ đảng, chứ không phải dân chủ trong nội bộ đảng, nhằm khắc phục sự chống đối của phe bảo thủ bên trong chế độ. Trong những chế độ độc đảng, dân chủ trong nội bộ đảng chắc chắn sẽ dẫn đến chia rẽ công khai trong giới chóp bu cai trị, do vậy làm suy yếu hoàn toàn khả năng của một chế độ có tính cải cách trong việc thực hiện chuyển tiếp. Hơn nữa, bằng cách làm cho toàn hệ thống chính trị có tính dân chủ hơn, chủ yếu thông qua những cuộc bầu cử có tính cạnh tranh ở các thành phố và tiểu bang, giới chóp bu cai trị có cơ hội học một kỹ năng quan trọng: giành được sự ủng hộ của cử tri và thắng cử. Những kỹ năng đó không thể học được qua việc thực hiện không minh bạch dân chủ trong nội bộ đảng, mà thực ra chỉ là một cách gọi khác của việc mặc cả và thao túng trong giới chóp bu.
Thứ tư, một phe đối lập dân chủ ôn hòa là người bạn tốt nhất và tài sản quý nhất đối với một chế độ độc đảng có tính cải cách. Một phe đối lập như vậy là một đối tác thương lượng và có thể giúp chế độ đó duy trì tính ổn định trong thời kỳ quá độ. Phe đối lập đó cũng có thể đưa ra những điều kiện tốt hơn nhiều để bảo vệ các lợi ích của giới chóp bu cai trị và thậm chí còn giúp họ tránh cảnh ngục tù.
Khi ta xét đến những thành quả mà Quốc Dân Đảng ở Đài Loan và PRI ở Mexico thu được, chúng không chỉ là những điều khoản ưu đãi cho việc từ bỏ quyền lực (ngoại trừ đối với Tổng thống Salinas buộc phải lưu vọng vì tham nhũng), không một lãnh đạo cao cấp nào bị truy tố hình sự. Điều quan trọng hơn nữa là cả Quốc Dân Đảng và PRI đều giành lại được ghế tổng thống, địa vị quyền lực chính trị ở hai nước đó, sau hai nhiệm kỳ làm phe đối lập.
Nhưng liệu ĐCSTQ có thực sự học hỏi được từ Quốc Dân Đảng hay PRI?
Ngoài chuyện có muốn hay không, ĐCSTQ còn gặp một rào cản nữa. ĐCSTQ là một đảng toàn trị (a totalitarian party), chứ không phải một đảng chuyên quyền (an authoritarian party). Một đảng toàn trị và một đảng chuyên quyền khác nhau ở chỗ đảng toàn trị nhúng tay sâu hơn và rộng hơn vào nhà nước và nền kinh tế. ĐCSTQ kiểm soát quân đội, tư pháp, bộ máy hành chính, và nền kinh tế với mức độ lớn hơn Quốc Dân Đảng hay PRI. Tách một đảng toàn trị ra khỏi nhà nước thì khó hơn nhiều. Quả thực chưa ai thành công khi thử đạt kỳ công như thế. Ở Liên Xô cũ, điều đó đã dẫn đến sụp đổ chế độ. Ở Đông Âu, những cuộc cách mạng dân chủ đã không cho những chế độ như vậy cơ hội để thử.
Bởi vậy nhiệm vụ đối với giới cai trị mới của Trung Quốc quả thật đáng ngại. Công việc đầu tiên của họ thực ra không phải là lao vào cuộc cải tổ perestroika chính trị kiểu Gorbachev, mà là bỏ tính toàn trị của nhà nước Trung Quốc và biến ĐCSTQ thành một đảng như Quốc Dân Đảng hay PRI. Nếu không thực hiện bước trung chuyển này ngay lập tức, ĐCSTQ có thể thấy rằng sự sụp đổ kiểu Liên Xô là tương lai duy nhất của mình.

Bản tiếng Anh: Is China’s Communist Party Doomed?, The Diplomat, October 01/10/2012
Bản tiếng Việt: Phạm Vũ Lửa Hạ, Blog lên đông xuống đoài, http://phamvuluaha.wordpress.com/2012/10/03/ccp-doomed/

Liệu Đảng Cộng sản Trung Quốc có sụp đổ trong năm 2012?

Lendongxuongdoai

Tôi thú nhận: Tôi đã sai khi tiên đoán rằng đến năm 2011 Đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ sụp đổ. Tuy nhiên, tôi chỉ trật có một năm thôi.
Gordon G. Chang
Bản tiếng Anh: The Coming Collapse of China: 2012 Edition, (Trung Quốc sắp sụp đổ: Ấn bản 2012), Foreign Policy, 29/12/2011.

Giữa năm 2001, trong cuốn sách “The Coming Collapse of China” (Trung Quốc sắp sụp đổ), tôi tiên đoán rằng một thập niên nữa Đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ bị phế truất, chủ yếu là do những thay đổi xuất phát từ việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Một thập niên đã trôi qua; Đảng Cộng sản vẫn còn nắm quyền. Nhưng đừng nghĩ là tôi sẽ rút lại lời tiên đoán của mình.
Tại sao Trung Quốc như ta biết hiện nay vẫn còn đứng vững? Lý do quan trọng nhất là chính quyền trung ương Trung Quốc đã xoay xở tránh tôn trọng nhiều bổn phận trong những bổn phận mở cửa nền kinh tế và chơi đúng luật mà họ cam kết khi gia nhập WTO vào năm 2001, và cộng đồng quốc tế đã giữ thái độ nhìn chung là dung thứ đối với hành vi không tuân thủ này. Do vậy, Bắc Kinh đến nay vừa có thể bảo vệ phần lớn thị trường nội địa của mình tránh khỏi sự cạnh tranh của các đối thủ nước ngoài, vừa tăng cường xuất khẩu.
Xét về mọi phương diện, Trung Quốc đã thành công vượt bậc trên con đường phát triển kinh tế sau khi gia nhập WTO – quay trở lại với tỉ lệ tăng trưởng gần hai chữ số mà nước này đã đạt được trước khi suýt bị suy thoái vào cuối thập niên 1990. Nhiều nhà phân tích cho rằng giai đoạn tăng trưởng này có thể tiếp tục mãi. Ví dụ, Justin Yifu Lin (Lâm Nghị Phu), nhà kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới, tin rằng Trung Quốc có thể tăng trưởng 8 phần trăm trong ít nhất hai thập niên nữa, và Quỹ Tiền tệ Quốc tế tiên đoán đến năm 2016 nền kinh tế Trung Quốc sẽ có quy mô lớn hơn nền kinh tế Mỹ.
Đừng tin mấy điều đó. Trung Quốc đạt thành quả tốt hơn những nước khác vì nước này đã ở trong một siêu chu kỳ đi lên kéo dài ba chục năm, chủ yếu vì ba lý do sau. Thứ nhất là những chính sách “cải cách và mở cửa” đổi mới do Đặng Tiểu Bình thực hiện lần đầu vào cuối thập niên 1970. Thứ hai, kỷ nguyên đổi mới của họ Đặng trùng khớp với lúc chấm dứt Chiến tranh Lạnh, giúp loại bỏ những rào cản chính trị đối với thương mại quốc tế. Thứ ba, toàn bộ thành quả này diễn ra trong khi Trung Quốc gặt hái “quả ngọt nhân khẩu”, tức là sự gia tăng phi thường về lực lượng lao động.
Nhưng “thời vàng son” của Trung Quốc đã chấm dứt vì trong những năm gần đây những điều kiện thuận lợi tạo nên thời kỳ đó đã hoặc sẽ sớm biến mất. Thứ nhất, Đảng Cộng sản đã quay lưng lại với những chính sách tiến bộ của họ Đặng. Hồ Cẩm Đào, lãnh tụ hiện nay, đang lèo lái đất nước trong một kỷ nguyên đánh dấu bằng, suy cho cùng, việc đảo ngược chủ trương cải cách. Đặc biệt kể từ năm 2008 đã có tình trạng tái quốc hữu hóa một phần nền kinh tế và giảm đáng kể cơ hội dành cho doanh nghiệp nước ngoài. Ví dụ, Bắc Kinh cấm cản công ty nước ngoài mua lại công ty nội địa, dựng lên những rào cản mới như luật lệ về “sáng tạo bản xứ”, và sách nhiễu những công ty dẫn đầu thị trường như Google. Bằng cách củng cố những doanh nghiệp quốc doanh “quán quân quốc gia” khiến những công ty khác thiệt hại, họ Hồ đã từ bỏ mô hình kinh tế đã mang lại thành công cho đất nước của ông.
Thứ hai, sự bùng nổ kinh tế toàn cầu trong hai thập niên vừa qua đã kết thúc vào năm 2008 khi các thị trường khắp thế giới sụp đổ. Những sự kiện biến động kinh hoàng của năm đó đã chấm dứt một thời kỳ đẹp như mơ, thời kỳ mà các quốc gia cố gắng giúp Trung Quốc hội nhập vào hệ thống quốc tế, nên đã lượng thứ những chính sách trọng thương (mercantilist policies) của Trung Quốc. Tuy nhiên, hiện nay quốc gia nào cũng muốn xuất khẩu nhiều hơn và, trong một kỷ nguyên bảo hộ hoặc thương mại có sự can thiệp của chính phủ (managed trade), Trung Quốc sẽ không thể dùng xuất khẩu để vươn đến thịnh vượng như từng làm trong thời kỳ khủng hoảng tài chính Châu Á vào cuối thập niên 1990. Trung Quốc lệ thuộc vào thương mại quốc tế nhiều hơn bất cứ nước nào khác, vì thế mâu thuẫn thương mại – hay thậm chí mức cầu thế giới sút giảm – sẽ gây tác hại cho Trung Quốc nặng nề hơn những nước khác. Ví dụ, Trung Quốc có cơ trở thành nạn nhân lớn nhất của cuộc khủng hoảng đồng euro.
Thứ ba, Trung Quốc trong kỷ nguyên đổi mới từng có một trong những bức tranh nhân khẩu đẹp nhất của bất kỳ quốc gia nào, nhưng sắp sửa có một trong những bức tranh xấu nhất. Theo các nhà nhân khẩu học của cả Trung Quốc lẫn nước ngoài, lực lượng lao động Trung Quốc sẽ bình ổn vào khoảng năm 2013, có lẽ là 2014, nhưng nước này hiện đã cảm nhận được ảnh hưởng này khi mức lương tăng lên; xu hướng này rốt cuộc sẽ khiến các nhà máy của Trung Quốc mất tính cạnh tranh. Kể cũng lạ là Trung Quốc đang cạn dần người để lên thành phố làm việc trong các nhà máy, và thúc đẩy nền kinh tế. Tình hình nhân khẩu có thể không phải là định mệnh, nhưng giờ đây điều đó sẽ tạo ra rào cản lớn đối với tăng trưởng.
Không những mất đi ba điều kiện thuận lợi này, nền kinh tế Trung Quốc đồng thời còn phải hồi phục từ những xáo trộn (các bong bóng tài sản và lạm phát) xảy ra do chủ trương kích cầu (pump-priming – như tăng chi tiêu chính phủ, giảm thuế và giảm lãi suất, N.D.) quá trớn của Bắc Kinh trong năm 2008 và 2009, chương trình kích thích kinh tế lớn nhất trong lịch sử thế giới (bao gồm hơn một ngàn tỉ đô-la chỉ riêng trong năm 2009). Kể từ cuối tháng 9/2011, những chỉ số kinh tế – mức tiêu thụ điện, đơn đặt hàng công nghiệp, tăng trưởng xuất khẩu, doanh số bán ô tô, giá bất động sản, tất tần tật đủ cả – đang báo hiệu một nền kinh tế dậm chân tại chỗ hoặc suy giảm. Tiền bắt đầu chạy ra khỏi đất nước vào tháng 10, và dự trữ ngoại tệ của Bắc Kinh đã giảm kể từ tháng 9.
Do đó, chúng ta sẽ chứng kiến sự sụp đổ hoặc, khả dĩ hơn, đà trượt dốc trong nhiều thập niên theo kiểu Nhật. Dù kịch bản nào xảy ra đi nữa, những khó khăn kinh tế đang xảy ra ngay đúng lúc xã hội Trung Quốc đang trở nên vô cùng bất mãn. Những vụ phản kháng không những tăng vọt – theo một thống kê, năm ngoái có 280.000 ”biến cố quần chúng” - mà còn ngày càng bạo lực như làn sóng gần đây của những cuộc nổi dậy, khởi nghĩa, bạo loạn và vụ đánh bom cho thấy. Đảng Cộng sản do không thể hòa giải sự bất mãn xã hội nên đã chọn cách tăng cường trấn áp đến mức chưa từng thấy trong hai chục năm qua. Ví dụ, nhà cầm quyền đã phủ kín các thành phố và làng xã khắp nước bằng công an và binh lính có vũ trang, và tăng cường theo dõi hầu như mọi hình thức thông tin liên lạc và các phương tiện truyền thông. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi “kiểm soát” và ”hạn chế” được bình chọn là những từ phổ biến nhất của năm 2011 trong các cuộc khảo sát trên mạng.
Phương pháp cứng rắn đó tính đến nay đã giữ an toàn cho chế độ, nhưng sự ổn định do phương pháp đó tạo ra chỉ có thể tồn tại ngắn hạn trong xã hội ngày càng hiện đại hóa của Trung Quốc, trong đó hầu hết người dân dường như tin rằng nhà nước độc đảng không còn phù hợp. Chế độ đó rõ ràng đã thua trận chiến tư tưởng.
Ngày nay, biến đổi xã hội ở Trung Quốc đang tăng tốc. Vấn đề đối với đảng cầm quyền của nước này là mặc dù người Trung Quốc thường không có ý định cách mạng, những hành động đảo lộn xã hội của họ có thể có những tác động mang tính cách mạng bởi vì chúng diễn ra vào thời điểm hết sức nhạy cảm. Tóm lại, Trung Quốc hiện nay quá năng động và đầy biến động đến nỗi giới lãnh đạo của Đảng Cộng sản không thể tiếp tục bám víu. Trong năm đến, ở một nơi nào đó, bất kể là một làng nhỏ hay thành phố lớn, sẽ có một biến cố vượt khỏi tầm kiểm soát và lan nhanh. Vì người dân trên khắp đất nước này có cùng suy nghĩ, ta chẳng nên ngạc nhiên khi họ sẽ hành động giống nhau. Ta đã từng thấy người dân Trung Quốc đồng tâm nhất trí hành động: Vào tháng 6/1989, khá lâu trước khi xuất hiện mạng xã hội, đã có các vụ biểu tình phản kháng ở khoảng 370 thành phố trên khắp Trung Quốc, mà không có ai đứng đầu trên toàn quốc cả.
Hiện tượng này đã lan nhanh khắp Bắc Phi và Trung Đông trong năm nay, cho ta thấy rằng tự thân bản chất của thay đổi chính trị trên khắp thế giới đang biến chuyển, gây mất ổn định ngay cả những chính quyền độc tài có vẻ vững chắc nhất. Trung Quốc không thể nào tránh khỏi làn sóng “dân nổi can qua” này, như ta thấy qua cách Bắc Kinh phản ứng quá mức đối với những cuộc biểu tình có tên gọi “Hoa Nhài” hồi mùa xuân năm nay. Đảng Cộng sản Trung Quốc từng là người thụ hưởng những xu thế toàn cầu, nay lại là nạn nhân của những xu thế đó.
Vậy liệu Trung Quốc có sụp đổ không? Các chính quyền yếu kém có thể tại vị lâu dài. Giới chính trị học, vốn thích lý giải điều không thể giải thích được, cho rằng cần phải hội đủ nhiều yếu tố mới dẫn đến sụp đổ chế độ, và Trung Quốc hiện đang thiếu hai yếu tố quan trọng nhất: một chính quyền bị chia rẽ và một lực lượng đối lập mạnh.
Vào lúc mà những thách thức hệ trọng đang tăng chồng tăng chất, Đảng Cộng sản Trung Quốc sắp bắt đầu sự chuyển giao [thế hệ] chính trị trong nhiều năm, do đó thiếu chuẩn bị kỹ càng cho những vấn đề mà Đảng phải đương đầu. Hiện đã có những phân hóa rõ rệt trong hàng ngũ chóp bu của Đảng, và phản ứng chậm chạp của giới lãnh đạo trong những tháng gần đây (khác hẳn phản ứng nhanh như chớp hồi năm 2008 đối với những khó khăn kinh tế ở nước ngoài) cho thấy tiến trình ra quyết định ở Bắc Kinh đang rệu rã. Vậy ta có thể khẳng định yếu tố thứ nhất: chính quyền bị chia rẽ.
Còn về chuyện có một lực lượng đối lập, Liên Xô suy tàn mà đâu cần có đối lập gì cho cam. Trong thời đại biến động hơn nhiều của chúng ta, chính quyền Trung Quốc có thể tan rã giống như những chế độ chuyên quyền ở Tunisia và Ai Cập. Như ta thấy rõ qua “cuộc nổi dậy công khai” ở làng Ô Khảm (Wukan, 烏坎) thuộc tỉnh Quảng Đông trong tháng 12 này, người dân có thể nhanh chóng tự tổ chức – như họ từng làm quá nhiều lần kể từ cuối thập niên 1980. Dù sao đi nữa, nay đâu còn cần đến một cỗ máy vận hành trơn tru để đánh sập một chế độ trong thời đại cách mạng không có lãnh tụ này.
Mới đây thôi, mọi thứ quá thuận lợi cho giới quan lại ở Bắc Kinh. Nay, thuận chẳng còn, lợi cũng không. Đúng là tôi đã tiên đoán sai. Thay vì năm 2011, Đảng Cộng sản Trung Quốc hùng mạnh sẽ sụp đổ vào năm 2012. Cược gì tôi cũng cược.
Gordon G. Chang là tác giả của The Coming Collapse of China (Trung Quốc sắp sụp đổ), và cây bút phụ trách chuyên mục của trang mạng Forbes.com.
Bản tiếng Anh: The Coming Collapse of China: 2012 Edition, (Trung Quốc sắp sụp đổ: Ấn bản 2012), Foreign Policy, 29/12/2011.
Bản tiếng Việt: PVLH, Blog lên đông xuống đoài, http://phamvuluaha.wordpress.com/2011/12/30/china-coming-collapse/
Đọc thêm trên blog này: Trung Quốc sắp thịnh? Việc gì phải sợ đến thế

’Nói Sài Gòn vi phạm Hiệp định là quá đáng’

 – BBC
Ông Bùi DiễmCựu Đại sứ Bùi Diễm là quan sát viên tại Hòa đàm Paris của Chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
Cựu Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Hoa Kỳ giai đoạn từ 1967-1972 cho rằng việc nói Chính quyền Sài Gòn vi phạm Hiệp định Paris 1973 là ‘quá đáng.’
Trao đổi với BBC Việt ngữ nhân đánh dấu 40 năm ký kết Hiệp định (1973-2013), ông Bùi Diễm, người cũng là quan sát viên do Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu chỉ định tại Hòa đàm ở Paris, phản bác một số ý kiến nói chính Chính quyền Sài Gòn đã ‘vi phạm hiệp định.’
Ông nói: “Nếu nói chính quyền ở miền Nam Việt Nam đã vi phạm hiệp định Ba-Lê là quá đáng là bởi vì sự thực ra những người ở miền Bắc đã chủ trương rõ rệt là để lại, mà họ đã làm được việc đó qua Hiệp định Ba-Lê, là giữ lại một số quân của họ ở trong miền Nam.”
“Và đến khi Hiệp định Ba Lê ký kết, thì những lực lượng võ trang đó bắt đầu khởi một cuộc công kích, mà người ta thấy về sau có những trận như trận Bình Long, rồi những trận ở Ban-Mê-Thuật, rồi từ đó mới lan sang trường hợp gọi là chiến tranh quy mô, những đoàn quân miền Bắc tiến vào miền Nam.”
Về hành xử của Hoa Kỳ trong biến cố Trung Quốc cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa gần 1 năm sau Hiệp định Paris ký kết, ông Diễm nói Washington đã tận dụng một đạo luật của Quốc hội không cho tái sử dụng quân đội Mỹ ở Đông Nam Á “như một cái cớ” để “tránh đối đầu với Trung Cộng.”
Ông Diễm cho rằng việc Hoa Kỳ đã không ‘thông báo’ trước về khả năng Trung Quốc tấn công quần đảo này liên quan tới tính toán của Washington về “quyền lợi quốc gia” của họ trong một bối cảnh mà cường quốc này được cho là điều chỉnh chiến lược.
Ở phần đầu cuộc trao đổi với Quốc Phương của BBC, ông Bùi Diễm trả lời câu hỏi liệu Hiệp định Paris có điểm hạn chế gì quan trọng nhất cần được xem xét như một bài học.

TƯỚNG NGUYỄN KHOA NAM QUA HỒI KÝ CỦA SĨ QUAN TÙY VIÊN

Tướng Nguyễn Khoa Nam

Nguyentrongtao


<<<===Tướng Nguyễn Khoa Nam
Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam của quân lực VNCH là hậu duệ dòng họ Nguyễn Khoa danh tiếng ở đất Thần Kinh Huế mà các cụ tổ từ đời này sang đời khác đều có công trạng giúp Chúa Nguyễn. Ông có người cháu gọi chú là Nguyễn Khoa Điềm từng là ủy viên BCT của đảng CSVN. Tướng Nam được coi là vị tướng “tuẫn tiết” khi thua trận vào 30 tháng 4.1975. Dưới đây là hồi ký của cựu Trung úy, Tùy viên Tư lệnh Nguyễn Khoa Nam về những ngày cuối cùng của ông.
LÊ NGỌC DANH
(Cựu Trung Úy, Tùy Viên Tư Lệnh QĐIV-QK4 NKN).
Về Cần Thơ – Tùy Viên Tư Lệnh Quân Đoàn
Vào một buổi sáng cuối tháng 11 năm 1974, Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, Tư Lệnh Quân Đoàn IV-Quân Khu 4 đến thăm Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 7 và mọi người được biết Thiếu Tướng sẽ về Quân Đoàn thay Tướng Nghi. Lúc nghe tin, tôi rất hồi hộp không biết mình sẽ ra sao? Đi hay ở lại, ở lại Sư Đoàn hay về Trung Đoàn 10. Thiếu Tá Phước luôn luôn nói:
- Tao và Ngoan theo Thiếu Tướng về Quân Đoàn còn mày ở lại. Anh Phước cứ nói liên tục, tôi bực mình:
- Thiếu Tá và Ngoan đi với Thiếu Tướng còn tôi bất quá về lại Trung Đoàn 10, vẫn ở văn phòng hết đi lội rồi.
Tôi đã bị thương nhiều lần, miễn to còn ở đùi phải, ngực, mắt, mặc còn đầy miểng bêta, tôi đã mệt mỏi việc đánh nhau ngoài chiến trường.
Thời gian nặng nề chầm chậm trôi qua, chuyện đi ở luôn luôn vây quanh trong tôi. Tôi thầm an ủi nếu được theo Thiếu Tướng, tôi sẽ hết lòng phục vụ người. Tôi quan niệm tôi xuất thân từ đơn vị tác chiến, không thân thế được Thiếu Tướng cho về làm tùy viên là điều vinh hạnh, vài bạn bè hỏi tôi:
- Mày làm Tùy Viên tốn hết bao nhiêu?
Tôi bực mình nói:
- Tao về Thiếu Tướng là ông chọn, chắc thấy tao dễ thương, làm việc tốt và hiền lành, chớ có lo lót gì đâu. Tư Lệnh không dính dáng về tiền bạc bất chính. Tiền lương của Thiếu Tướng, ông còn cho tao và Ngoan xài, không tin gặp Trung Úy Ngoan hỏi. Đừng nói bậy! Thiếu Tướng hay ông buồn.
Mấy ngày sau đó, một buổi sáng khoảng 10 giờ, Tư Lệnh bấm loa nói:
- Bảo Trung Úy Danh vào gặp tôi.
Thiếu Tá Phước nhận và bảo tôi vào gặp Tư Lệnh. Tôi hé cửa vào phòng làm việc, Tư Lệnh kéo cặp mắt kính trắng lệch xuống nhìn tôi.
- Dạ, Thiếu Tướng gọi em.
- Danh chuẩn bị lên Quân đoàn IV làm việc với qua.
- Dạ.
Tôi trở ra bàn làm việc, Thiếu Tá Phước vội hỏi:
- Thiếu Tướng nói gì?
Tôi không thân anh Phước nên tôi dấu việc đi về Quân Đoàn và nói trớ Tư Lệnh bảo lo sắp hành lý, còn Trung Úy Ngoan tôi cũng dấu luôn. Tôi suy nghĩ mải tại sao không cho Trung Úy Ngoan đi theo ông (anh là tùy viên củ mà). Sau này mới được anh Ngoan cho biết Thiếu Tướng bảo anh ở lại vì Ngoan ở lâu tại sư đoàn, biết rành bản đồ và các đơn vị trực thuộc. Còn tùy viên của Tướng Hai không biết nhiều về hành quân vì đơn vị trước của anh là Cảnh Sát.
Sáng hôm sau, chiếc trực thăng của Tư Lệnh đang đậu ở sân bay trước Bộ Tư Lệnh, khoảng 11 giờ sẽ bốc Tư Lệnh về Cần Thơ nhậm chức Tư Lệnh Quân Đoàn IV-Quân Khu 4. Tư Lệnh từ phòng làm việc bước ra với cặp mắt kính đen, khẩu Colt-45 mang bên hông, đưa tay chào giả biệt thuộc cấp từ từ tiến đến chiếc trực thăng. Tôi xách cặp táp theo sau còn trung sĩ Hộ dùng xe theo Quốc Lộ 4 về  Cần Thơ sau. Chiếc trực thăng UH-1B do Đại Úy Thanh, Không Quân lái, đưa Thiếu Tướng từ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh về nhậm chức Tư Lệnh Quân Đoàn IV-Quân Khu 4. Hơn 20 phút bay, chiếc trực thăng đáp xuống sân vận động thành phố Cần Thơ. Xe Jeep và xe hộ tống đã đậu sẵn đưa Tư Lệnh về Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn. Đến Bộ Tư Lệnh nhìn tổng quát, tôi thấy: Tướng Nghi, Tướng Chương Dzềnh Quay, Đại Tá Thiệt, Đại Tá Sáu và các trưởng phòng khác.
Lên bậc thềm tam cấp vào phòng họp cũng là nơi làm việc của Tư Lệnh, các ông vào phòng Tư Lệnh nói những gì tôi không được biết. Tôi được Thiếu Tá Thụy, chánh văn phòng của Tướng Nghi hướng dẫn vào phòng làm việc của Tùy Viên (Khỏi bậc tam cấp, đi thẳng vào phòng làm việc của Tư Lệnh rẻ phải là phòng làm việc của Chánh Văn Phòng và Tùy Viên). Nơi đây, Thiếu Tá Thụy giới thiệu các hạ sĩ quan và binh sĩ thuộc cấp. Sau khi họp bàn giao xong, Tư Lệnh xuống Trung Tâm Hành Quân rồi về tư dinh ở cầu Cái Khế. Tư dinh mặt trước đối diện đại lộ Hòa Bình, từ lộ Hòa Bình nhìn vào dinh bên trái là cầu Cái Khế, sông ôm sát hông trái dinh vòng về phía sau rồi chạy thẳng lên bến Ninh Kiều, bên phải là hãng bia và nước ngọt của Pháp. Trước khi vào thẳng dinh, trước cửa là cột cờ, dưới chân cột cờ có đặt một khẩu súng đồng thời Pháp thuộc để trang trí. Bên trái, cặp theo bờ sông là dãy nhà dành cho quân nhân bảo vệ và hộ tống. Dãy nhà này có khoảng 15 phòng. Trung Úy Việt, sĩ quan liên lạc, ở đầu dãy kể từ lộ vào, còn Trung Úy Hỉ, hộ tống, ở cuối dãy. Phòng ăn Tư Lệnh ở bên phải nối liền với mặt tiền dinh. Phòng ngủ của tùy viên nối tiếp với phòng ăn, phòng này lúc về Thiếu Tướng mới ra lệnh xây cho tôi. Kế tiếp phòng tôi là nhà xe, tiếp theo là nhà bếp cùng với phòng trung sĩ Hộ quản gia. Sau cùng cửa ra nhìn thấy hãng bia có đường hẻm đi ra tới lộ Hòa Bình.
Phía sau phòng ăn, một Trailer dài độ 15 mét nằm chênh góc 30 độ hướng về phòng ăn, có hai cửa ra vào. Chỉ một cửa lớn vào dinh, dinh chia làm hai tầng, tầng trên có 4, 5 phòng dành cho khách đến ngủ đêm, có sân thượng nhỏ trước cửa. Lúc mới về Quân Đoàn, tôi ngủ ở đây. Tầng dưới khi bước vào cửa: Bên trái là phòng thuyết trình cũng là nơi làm việc của tùy viên, phía trên ách tường có bản đồ của Vùng 4 Chiến Thuật, bàn làm việc của tùy viên và 1 bộ sofa. Bên phải là phòng thờ Phật với bàn thờ Phật đặt giữa bức tường phía sau. Trên bàn thờ có tượng Phật Thích Ca, phía phải bàn thờ có một cái chuông nhỏ, giữa là lư hương điện cắm nhang được, bên trái là dĩa trái cây và hai cây đèn cầy bằng điện ở hai bên bàn thờ. Trước bàn thờ độ 2 thước có một bộ sofa (sofa này là nơi Tư Lệnh ngồi trước khi tự sát). Bên phải phòng thờ Phật là phòng ăn của Tư Lệnh, phòng rất dài trên 10 mét, đặt một bàn ăn dài trải vải trắng (tấm vải trắng này đã đắp Tư Lệnh khi chết). Trong phòng ăn có hồ cá kiểng, tivi và ít tranh ảnh trên tường.
Dưới chân tư dinh có hầm ngầm rất lớn và rộng, nhìn vào toàn là nước, có thể đây là hầm chứa nước mưa (sau khi Thiếu Tướng tự sát, tôi trở về Sài Gòn đến nhà Thiếu Tướng ở số 403, cư xá Lê Đại Hành, quận 11, tôi đã vứt bỏ khẩu súng nhỏ của Thiếu Tướng cho ở hầm này. Khẩu súng, nhỏ hơn lòng bàn tay một chút, tôi không biết là loại súng gì, đạn nhỏ như hột sen. Thiếu Tướng cho vào tối 30 tháng 4 và nói tôi giữ súng này để hộ thân).
Về Quân Đoàn IV, chỉ có tôi và anh Hộ là người Sư Đoàn 7 đi theo. Sau đó Tư Lệnh chọn thêm Thiếu Tá Đức làm chánh văn phòng, Trung Úy Việt làm sĩ quan liên lạc. Trung Úy Việt là người Sài Gòn, Đại Tá Hai, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Định Tường giới thiệu. Anh Việt có gia đình, vợ và hai con, còn tôi độc thân. Các bộ phận trong văn phòng vẫn giữ nhân viên củ. Phần trung đội hộ tống do Trung Úy Hỉ chỉ huy, các lính hộ tống và lính gác trong tư dinh vẫn giữ như củ, không thay đổi tài xế và thợ hớt tóc.
Trong thời gian đầu, Trung Úy Việt ở Sài Gòn nhiều hơn còn tôi luôn đi theo công tác với Tư Lệnh. Về sau, Tư Lệnh cho hai đứa tôi thay phiên nhau mỗi ngày một người. Công việc của tôi và anh Việt, mỗi ngày một trong hai người theo Thiếu Tướng đi bay, thăm các đơn vị, tiểu khu, hay đi họp ở Tổng Tham Mưu, phủ Tổng Thống, phó Tổng Thống, phủ Thủ Tướng v.v… Người ở nhà theo dõi tình hình bạn địch, dán lên bản đồ ở tư dinh chiều Tư Lệnh về thuyết trình lại. Người đi theo nhận những chỉ thị của Tư Lệnh chuyển về Quân Đoàn hay ghi lại về thông báo các phòng để thi hành. Trong lúc làm việc, ai muốn gặp Tư Lệnh phải vào phòng làm việc của Tư Lệnh trình báo, nếu ông chấp thuận thì sẽ mời vào. Khi Tư Lệnh cần gặp hay nói chuyện với ai thì mời vào hay chờ sẵn trên phone. Ngoài ra trên đường bay, trước khi đi phải lấy tình hình bạn địch, nơi chạm súng để tránh tai nạn, tóm lại phải giữ an ninh tối đa trong lúc di chuyển. Như muốn về họp ở Tổng Tham Mưu từ Cần Thơ bay theo sông Hậu đến tiểu khu Vĩnh Bình, qua tiểu khu Kiến Hòa đến tiểu khu Định Tường, theo quốc lộ 4 lên Tổng Tham Mưu tránh vùng Trị Pháp ở chi khu Cái Bè  có phòng không và SA-7.
Có lần xuống thăm chi khu Cầu Ngang thuộc tiểu khu Vĩnh Bình, chi khu này bị Việt Cộng tấn công thiệt hại đến 70% nhưng không mất, pháo binh bắn trực xạ địch bị thiệt hại nặng. Tư Lệnh cho tất cả quân nhân ở chi khu lên một cấp.
Ngoài nhiệm vụ tháp tùng Tư Lệnh, sĩ quan tùy viên còn phải lo chu toàn những phần vụ quy định. Đại loại, những việc hàng ngày chúng tôi thường làm như:
1.Tư Lệnh thường giao cho Thiếu Tá Đức, Chánh Văn Phòng, những lệnh viết tay hoặc khẩu lệnh để Thiếu Tá Đức chuyển đến các phòng thi hành. Các lệnh xuống tiểu khu, đơn vị cũng do Thiếu Tá Đức chuyển. Gần ngày 30 tháng 4 năm 75, nhật lệnh và hình của Tư Lệnh đọc trên đài truyền thanh, truyền hình Cần Thơ cũng do Thiếu Tá Đức chuyển cho phòng Chiến Tranh Chính Trị.
2.Những lần Tư Lệnh muốn gặp các đơn vị trưởng như Tư Lệnh Sư Đoàn, Tiểu Khu Trưởng, các Trưởng Phòng thường bảo tôi hay anh Việt gọi trước, có sẵn đầu máy rồi tổng đài chuyển qua, trong lúc nói chuyện nội dung tôi không rỏ. Ngoài ra Tư Lệnh có đường dây Hotline gọi thẳng lên Tổng Tham Mưu, phủ Tổng Thống, phủ Phó Tổng Thống hay các đơn vị trực thuộc không cần chúng tôi gọi trước.
3.Lo an ninh cho Tư Lệnh trong lúc di chuyển bằng xe Jeep hay xe Falcon, lúc đầu có trung đội hộ tống do Trung Úy Hỉ chỉ huy, mỗi khi Tư Lệnh đi đều có trung đội này chạy xe sau hộ tống. Về sau, Tư Lệnh thấy rườm rà nên bỏ, đi đâu chỉ có tài xế và tôi hay Trung Úy Việt. Với xe jeep, Tư Lệnh ngồi trước, tôi ngồi quay mặt về phía sau, bên hông một khẩu Colt-45 với một khẩu AR-15 đã lên đạn sẵn, còn đi xe Falcon, tôi ngồi trước, Tư Lệnh ngồi phía sau. Lúc đi họp ở Tổng Tham Mưu hay các Phủ, Tư Lệnh dùng xe jeep, đôi khi xe Falcon, lúc di chuyển bao bảng “sao”, nhiều lúc bị cảnh sát hay quân cảnh chận lại, nhìn vào xe thấy Thiếu Tướng chào và mở đường cho xe đi nhanh. Có lần ở Cần Thơ, Tư Lệnh muốn dạo một vòng quanh thị xã, bảo tôi lấy xe Falcon để đi, lúc chầm chậm chạy, Tư  Lệnh nói:
- Quay kiếng lên coi chừng bọn VC ném lựu đạn.
4.Nhiệm vụ tùy viên ngoài ra còn kiểm soát quà biếu nếu có, xem xét cẩn thận trước khi trình Tư Lệnh. Tôi nhớ gần dịp Tết, Đại Tá Của, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Châu Đốc gởi tặng Tư Lệnh một bức tranh bằng gỗ, tôi mở ra thấy khắc chữ ở dưới: Kính tặng Đại Tá Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Châu Đốc. Phía dưới một hàng chữ: Tòa Hành Chánh tỉnh Châu Đốc. Tôi vội gọi điện thoại gặp ngay Đại Tá và nói:
– Đại Tá tặng tranh cho Tư Lệnh phải không?
Ông vồn vã hỏi:
- Sao Tư Lệnh thấy chưa? Có nói gì không?
- Đại Tá gởi tranh lộn rồi, để em đọc cho Đại Tá nghe: Kính tặng Đại Tá Tiểu Khu Trưởng ….. Tòa Hành Chánh tỉnh Châu Đốc.
- Chết rồi, Tư Lệnh thấy chưa?
- Dạ chưa.
- Mày bảo mấy nhỏ đem tiệm tháo bỏ phần chữ này giùm tao và in lại: Kính tặng Thiếu Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn IV-Quân Khu 4. Ở dưới ghi: Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Châu Đốc kính tặng. Giúp giùm tao, tao sẽ gặp mày sau.
- Dạ.
Rồi đại tá sai lính đến tặng riêng cho tôi 1 túi lớn thuốc hút hiệu Adam trên 50 gói, mặc dầu tôi không biết hút thuốc, chỉ phì phà vài điếu cho vui thôi.
Trong thời gian từ  Sư Đoàn 7 Bộ Binh đến Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn IV, tôi thấy Tư Lệnh sống rất cô đơn, không thấy hay rất ít ai đến thăm, thỉnh thoảng lên họp ở Sài Gòn về nhà ở số 403 Lê Đại Hành, trước trường đua Phú Thọ. Tư Lệnh suốt ngày làm việc, ngoài những lúc đi thăm các đơn vị rảnh tôi thấy ông ở Trung Tâm Hành Quân. Tư Lệnh làm việc mỗi ngày đến sau 6 giờ chiều mới về tư dinh, trưa ăn cơm ở câu lạc bộ Cửu Long, tối về, trung sĩ Hộ nấu ít món ăn đơn giản để Thiếu Tướng dùng, không bao giờ ông than phiền ngon dỡ. Tư Lệnh không uống rượu, có lần party ở Tiểu Đoàn 7 Quân Y ở Đồng Tâm, Tư Lệnh uống champagne một chút. Một mình buồn, thỉnh thoảng Tư Lệnh nói chuyện với  tôi. Có lần thấy Tư Lệnh vui vẻ nói chuyện, tôi nói:
- Cơm ở câu lạc bộ chắc không ngon miệng, vậy em nói trung sĩ Hộ lo cơm trưa, Thiếu Tướng về ăn thay vì xuống câu lạc bộ.
Tư Lệnh ôn tồn nói:
- Thôi lính tráng ăn sao, qua ăn vậy.
Đối với thuộc cấp, Tư Lệnh ăn nói rất nhẹ nhàng, thường gọi thuộc cấp là em hay cấp bậc kèm theo tên, còn Tư Lệnh xưng “tôi” hay “qua”. Tư Lệnh rất tôn trọng và tiếp xúc ngay, gặp mặt hay bằng điện thoại với các đơn vị trưởng, nói chung là các quân nhân, còn các bà quả phụ qua điện thoại xin gặp Tư Lệnh, ông từ chối và bảo cần việc gì Thiếu Tá Đức, Chánh Văn Phòng, tôi hay Trung Úy Việt giải quyết. Có lần bà quả phụ của một cố đại tá gọi đến và xin gặp Tư Lệnh. Ông nói:
- Hỏi Bà cần gì nói Thiếu Tá Đức giải quyết.
Tôi chuyển lời Tư Lệnh và nói:
- Tư Lệnh bận, bà cần gì nói cho tôi biết.
Bà nói:
- Trung Úy trình với Tư Lệnh cho tôi xin 200 lít xăng.
- Tôi sẽ chuyển lời xuống Tổng Hành Dinh cho Bà xăng.
Còn các ông xì thẩu (ông chủ người Hoa Kiều) ở Cần Thơ nhiều lần xin gặp Tư Lệnh, ông đều từ chối lý do bận không tiếp.
Lúc đi kinh lý, thăm các tiểu khu có lúc ăn cơm trưa tại đây với các Tỉnh Trưởng. Tư Lệnh bảo tôi ăn cơm chung một bàn với Tư Lệnh và Tỉnh Trưởng. Trong bàn ăn, Tỉnh Trưởng ngồi đối diện với Tư Lệnh còn tôi ngồi bên phải của Tư Lệnh. Có lần đến Tiểu Khu Kiến Phong (Cao Lãnh), Đại Tá Tỉnh Trưởng đãi món bún riêu, 3 tô bún bốc khói dọn ra, rau muống chẻ nhỏ, bắp chuối sắt mỏng và mỗi tô để kế bên một chai nho nhỏ, giống như chai dầu Nhị Thiên Đường. Tư Lệnh đang nói chuyện chưa dùng, quay qua bảo tôi:
- Danh ăn đi kẻo nguội.
- Dạ, để Tư Lệnh và Đại Tá ăn trước, tôi sẽ ăn sau.
Tôi đang thắc mắc về ba chai nhỏ gần tô bún để làm gì? Tôi tần ngần việc quá quê mùa, viện cớ đứng dậy gọi điện thoại về Trung Tâm Hành Quân-Quân Đoàn để hỏi tình hình tổng quát, lúc gọi điện thoại tôi liếc nhìn về bàn ăn. Tôi thấy Tư Lệnh và Đại Tá từ từ mở nắp chai đó ra, dùng cây tăm nhỏ nhúng vào trong chai rồi đưa nhúng vào tô bún. Tôi trở lại bàn ăn và làm như vậy, một mùi thơm thoảng bay qua thì ra đó là dầu con cà cuống. Sau này, mấy anh quân nhân nói cho biết, tinh dầu này có một chút trong cà cuống, phải lấy thật nhiều con mới có một chai nho nhỏ này.
Có lần xuống họp ở tiểu khu Định Tường (Mỹ Tho), sau khi họp xong, Đại Tá Hai mời Tư Lệnh dùng cơm trưa, trong đó có món “hầm vỉ chí dục tản” (một khoanh cá mặn, thịt heo ba rọi bầm nhuyễn, hột vịt đánh tan đổ vào thêm ít lát gừng, xắt thành cọng nhỏ như bún, ít bột ngọt, tiêu, tỏi, đường để vào một tô nhỏ đem chưng cách thủy). Tư Lệnh ăn thấy ngon quay qua hỏi tôi:
- Ở Cần Thơ có món này không Danh?
- Dạ ở tiệm Tàu có.
Thời gian sau, lúc rảnh rỗi, tôi đi mua vật liệu, gia vị làm món này và mang lên Tư Lệnh dùng cơm tối. Tư Lệnh hỏi tôi:
- Danh mua món này ở tiệm nào ngon vậy.
Tôi mỉm cười nói:
- Dạ em nấu. Thiếu Tướng ăn ngon miệng không?
Tư Lệnh hỏi:
- Sao Danh biết nấu ăn?
- Dạ hồi còn học sinh em nấu rất giỏi, hơn nữa ba nuôi của em là người Tàu, đã chỉ cho em lâu rồi quen em nấu rất nghề. Tư Lệnh mỉm cười.
Ở tư dinh, Tư Lệnh thường trầm ngâm ít nói chuyện. Vài lúc về sớm, Tư Lệnh đi vòng ra phía sau và thường đứng ở sân nhỏ trước cửa trailer nhìn những con gà chọi nhau, gà giò mới lớn, chỉ nhảy cỡn chưa đá được. Tư Lệnh liệng từng nắm thức ăn mỉm cười một mình. Nơi bàn thờ Phật, tôi đã trang trí dây điện xanh có, đỏ có, vàng có trên hệ thống đèn. Tư Lệnh gọi tôi đến và bảo:
- Danh thay các bóng đèn điện màu này, thế bằng dây diện màu đen. Qua không thích màu mè.
- Dạ.
Rồi tôi thay tất cả hệ thống dây điện bằng màu đen.
Mỗi buổi sáng, trước 7 giờ, trước khi Tư lệnh đi làm việc, mặc quân phục xong đến bàn thờ Phật đốt hương xá Phật, cắm hương vào lư nhang và gõ vài tiếng chuông. Chiều về sau khi đến phòng thuyết trình xem tình hình tổng quát, tắm rửa ăn tối, xem truyền hình ở phòng ăn, sau đó đến bàn Phật đốt nhang như buổi sáng trước khi vào trailer ngủ. Tư Lệnh có thói quen, mỗi buổi sáng trước khi đi làm việc, tôi đứng nghiêm chào, Tư Lệnh chỉ đưa tay lên cỡ tầm ngực đáp lại và mỉm cười, ngày này qua ngày khác không nói gì thêm. Một buổi sáng nọ, tôi đứng chờ Tư Lệnh đi làm việc ở trước cửa dinh, Tư Lệnh đứng sát bên tôi chờ xe ra tiện tay sờ vào cằm tôi và nói:
- Râu Danh ra dài, thôi vào cạo đi rồi đi làm việc.
- Dạ.
Tôi sờ râu, mới lùn phùn chớ đâu có dài.
Có lần ở dinh, Tư Lệnh nói với tôi:
- Đối với qua, ở đây không có bà con ruột thịt gì hết. Đừng thấy ai nhận bà con mà sợ.
Tối đến, Tư Lệnh đứng trước cửa trailer hay đi bách bộ trên đường tráng xi măng quanh sân sau. Tư Lệnh không uống rượu còn tôi trẻ tuổi, lu bù loại rượu nào cũng được nhưng tửu lượng cũng ít chớ không nhiều. Có lần, tôi và anh bạn Trung Úy Thành của Không Quân đến bar bà Năm Cần Thơ ở lộ 20 đường lên Trà Nóc làm đứt một chai Martel, say lúy túy ráng lái xe jeep về dinh. Vào cổng, tôi sợ Tư Lệnh đứng hóng mát bắt gặp, tôi tắc đèn chạy vào mặc dù ở cổng có hai ngọn đèn chiếu sáng nơi Quân Cảnh đứng gác, bất cẩn, xe đụng vào góc cổng bị móp đầu và bể đèn trước. Sáng hôm sau, tài xế đem qua Tổng Hành Dinh nhờ ban Quân Xa sửa gấp, chiều về thấy đẹp như xưa. Không biết Tư Lệnh có biết chuyện này hay không, nhưng không thấy ông la rầy gì cả.
Có một lần Tư Lệnh đi thăm một tiểu đoàn của Trung Đoàn 12 đang đánh nhau với VC ở Long Khốt sát biên giới Tiểu Khu Kiến Tường với Kampuchea. Tư Lệnh đáp trực thăng xuống thăm đơn vị trong lúc VC đang pháo kích bằng hỏa tiễn 122 ly cách đơn vị không xa. Vị tiểu đoàn trưởng thấy vậy đến gần tôi nói:
- Danh cho trực thăng về phi trường Mộc Hóa đậu, chừng nào xong gọi đến rước Tư Lệnh. Ở đây nguy hiểm quá, rủi 122 ly nổ trúng thì chết tao.
- Vâng để tôi trình Tư Lệnh.
Tôi đến gần Tư Lệnh và nói:
- Trình Thiếu Tướng, em cho trực thăng về phi trường Mộc Hóa, chừng nào xong em gọi lên rước.
Thiếu Tướng trầm ngâm không trả lời. Một lúc sau, vị tiểu đoàn trưởng lại thúc tiếp:
- Pháo nổ gần quá, nguy hiểm, Danh cho trực thăng về Mộc Hóa đi.
Một lần nữa, tôi đến gần bên Thiếu Tướng nhỏ giọng nói:
- Trình Thiếu Tướng, em cho trực thăng về …..
Nói chưa hết câu, Tư Lệnh xoay qua hướng tôi và nghiêm nét mặt nói:
- Lẩm cẩm hoài! Lẩm cẩm hoài!
Tôi cụt hứng tiu nghỉu không dám nói gì thêm. Ở lại thăm đơn vị trực thuộc trong khi pháo địch nổ bên cạnh hơn 30 phút, Tư Lệnh mới cho trực thăng cất cánh về Cần Thơ.
Vào một buổi tối ở tư dinh, Tư Lệnh đến bên hồ cá đặt trong phòng ăn. Nhìn những con cá tung tăng bơi lội, trồi lên lặn xuống. Trong hồ có những tháp nhỏ, những bông hoa đá, đá hoa, đá trứng, những con cá kiểng tha hồ bơi lội. Bất chợt Tư Lệnh quay qua hỏi tôi:
- Danh, những con cá thích cái tháp đó sao nó chun vô hoài vậy?
Tôi vừa cười vừa nói:
- Dạ, em không rỏ, chắc nó thích mới chui vào đó.
Rồi tôi qua phòng thuyết trình gọi Trung Tâm Hành Quân-Quân Đoàn, hỏi tình hình tổng quát. Lúc sau, Tư Lệnh cũng đến kề bên và hỏi tôi:
- Tình hình có gì lạ không?
- Dạ không có.
Tư Lệnh ngước nhìn bản đồ Vùng 4 treo trên tường, đi tới đi lui, rồi đến gần bàn làm việc của tôi hỏi:
- Danh trung úy bao lâu rồi?
Thấy Tư Lệnh vui, tôi trả lời và nói:
- Em được trên hai năm. Thiếu Tướng cho em lên Đại Úy?
Tư Lệnh vui vẻ, mỉm cười và nói:
- Được rồi.
Xong Tư Lệnh hỏi tiếp:
- Danh có quen Thu em của Thông?
Bất chợt Tư Lệnh hỏi, tôi ngẩn người một chút và nhớ lại đã 3 năm qua:
- Dạ em có biết Thu nhưng không thân lắm vì năm 1971 em và anh Thông, anh của Thu đã học chung khóa 37/71 Tình Báo Căn Bản Cây Mai ở Chợ Lớn. Em có đến nhà Bác (mẹ anh Thông) vài lần, ở gần rạp hát Phạm Ngũ Lão.
Có lần ở tư dinh, Tư Lệnh ở trong trailer bấm speaker gọi tôi. Tôi không có mặt ở đây, nghe trung sĩ Hộ nói lại:
- Thiếu Tướng gọi phone gặp ông thầy, nhưng em trả lời ông không có ở đây.
Nghe vậy, tôi đến bấm ngược phone gọi lại Tư Lệnh, bấm hoài sao không thấy trả lời, một chốc Tư Lệnh nói:
- Có gì đó?
- Dạ lúc nãy Thiếu Tướng gọi em.
Tư Lệnh ôn tồn trả lời:
- Lúc nãy có gọi nhưng bây giờ không cần, phone khi nào tôi gọi ra chứ đừng gọi vào.
- Dạ.
Có lần ở phòng làm việc Tùy Viên, vào khoảng 6 giờ chiều Tư Lệnh chưa về tư dinh, Thiếu Tá Đức đề nghị dạy tôi nhảy đầm. Trước Thiếu Tá Đức dạy tôi điệu slow, điệu này hơi khó chuyển qua điệu Cha Cha Cha. Điệu này dễ hơn nên tôi đang nhún nhảy dượt lại, còn Thiếu Tá Đức cũng nhảy tới nhảy lui và đếm 1-2-3-4 giữ nhịp cho tôi. Bất chợt, Tư Lệnh hé cửa nhìn vào vui vẻ gọi:
- Thôi về chứ nhảy hoài.
Chắc Tư Lệnh đứng ngoài cửa hơi lâu thấy tôi không ra mới gọi.
- Dạ.
Tôi vội xách cặp táp ra xe về. Ra xe Tư Lệnh hỏi:
- Thiếu Tá Đức dạy nhảy đầm?
- Dạ.
- Danh không biết hả? Nhảy được chưa?
Tôi nói:
- Dạ em đi lội đâu biết nhảy đầm. Lúc còn học ở quân trường Thủ Đức đâu có dạy nhảy đầm. Nghe nói ở trường Vỏ Bị Đà Lạt  có dạy nhảy đầm phải không Thiếu Tướng?
- Có dạy.
Tóm lại trong suốt thời gian sống và làm việc với Thiếu Tướng, ông xem tôi như người nhà, người con trong gia đình, không bao giờ la rầy hay nặng tiếng.
Tháng 4 năm 1975
Tình hình chung vào tháng 3 năm 1975 rất căng thẳng. Vùng 1, vùng 2 đang đánh lớn còn Vùng 3 và 4 vẫn còn nguyên vẹn. Tư Lệnh đi họp liên tục ở Tổng Tham Mưu, ở dinh Độc Lập gặp Tổng Thống, lúc ở dinh phó Tổng Thống. Thời gian còn lại, Tư Lệnh thường đến các Tiểu Khu và Sư Đoàn nhưng đến nhiều nhất là tiểu khu Long An, Định Tường, Kiến Tường và Châu Đốc. Vào đầu tháng 4, VC tấn công mạnh, nhằm vào quốc lộ 4 thuộc hai tiểu khu Định Tường và Long An. Sư Đoàn 7 Bộ Binh chịu trách nhiệm khu vực tiểu khu Định Tường còn Sư Đoàn 22 Bộ Binh rút từ Vùng 2 về chịu trách nhiệm khu vực tiểu khu Long An. Vào buổi trưa Tư Lệnh đến tiểu khu Long An để biết tình hình địch, VC đã pháo rớt một quả hỏa tiễn 122 ly trên giữa cầu Long An nhưng không gây thiệt hại gì. Địch càng ngày càng tấn công mạnh vào quốc lộ 4, Tư Lệnh ngày đêm đến các đơn vị hay gọi điện thoại khích lệ tinh thần chiến đấu, không để mất vị trí hay bỏ chạy nên VC không chiếm được một vị trí nào cả.
Có một đêm, địch pháo kích trên 10 hỏa tiễn 122 ly vào thành phố Cần Thơ, mục tiêu chính là Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn IV và tư dinh Tư Lệnh. Vị trí pháo hướng Đông chi khu Bình Minh thuộc tiểu khu Vĩnh Long, bay qua dinh Tư Lệnh rớt bên xóm nhà đèn cách dinh độ 300 thước, kết quả tổn thất nhẹ về phía dân chúng.
Tình hình càng ngày càng căng thẳng, dân chúng di tản bằng tàu thủy hay máy bay có nhiều chuyến chở về Quân Đoàn IV đổ dân xuống vùng Tri Tôn, Sa Đéc. Trong lúc này, công việc của Tư Lệnh rối bời, lớp lo phòng thủ, lớp lo thăm viếng an ủi dân đã di tản từ vùng ngoại ô. Thiếu Tướng ra lệnh các tiểu khu ra sức cứu trợ nạn nhân chiến cuộc. Tư Lệnh chỉ thị các đơn vị sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Quân Đoàn IV và nhất là giữ Quốc Lộ 4 đừng để VC cắt đứt. Tư Lệnh đặc biệt đến thăm tiểu khu Châu Đốc, đi bộ thăm vòng đai phòng thủ quy mô của tiểu khu. Những ngày kế tiếp họp liên tục với các Tiểu Khu và Sư Đoàn. Trong lúc tình hình hỗn loạn, nhiều máy bay trực thăng từ hướng Sài Gòn lũ lược bay về phi trường Trà Nóc và một số bay ra hướng Phú Quốc.
Sáng ngày 24 tháng 4, Tư Lệnh đi họp ở bộ Tổng Tham Mưu, nội dung tôi không rõ. Sáng 25 tháng 4, họp ở tiểu khu Định Tường, có Tướng Trưởng tham dự. Ngày 27 tháng 4, Tư Lệnh ra lệnh giới nghiêm, các đơn vị ở thế sẵn sàng chiến đấu, không được rời vị trí. Sáng 28 tháng 4, cố vấn Mỹ có đến văn phòng Tư Lệnh để nói chuyện, nội dung tôi không rõ. Ngày 29, Tư Lệnh vẫn đi bay, buổi chiều 29 về họp với Tướng Mạch Văn Trường ở Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh ở gần phi trường Trà Nóc. Trên đường về, tôi thấy dân chúng lao xao, nhớn nhác chạy lung tung đi lượm đồ của tòa Tổng Lãnh Sự Mỹ rút đi bỏ lại, giấy liệng đầy mặt đại lộ Hòa Bình, quần áo, lon, ly, đồ hộp lon bia vất tứ tung.
Áp lực địch vẫn nặng ở Quốc Lộ 4, Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Long An xin gặp Tư Lệnh báo cáo tình hình nguy ngập và xin giật sập cầu Long An. Tư  Lệnh không cho và ra lệnh các đơn vị tiếp tục phòng thủ. Tư Lệnh viết Nhật Lệnh đưa Thiếu Tá Đức, Chánh Văn Phòng chuyển đến phòng Chiến Tranh Chính Trị để đọc trên đài phát thanh và truyền hình để trấn an dân chúng và anh em binh sĩ. Vào buổi chiều, tôi thấy được hình Tư Lệnh và kèm theo là Nhật Lệnh, nội dung ngắn gọn trấn an dân chúng không được bạo động còn việc tử thủ không được đọc trên đài truyền hình. Sau khi thấy đọc, Tư Lệnh buồn buồn chấp tay về phía sau đi tới đi lui trong phòng làm việc ở Bộ Tư Lệnh. Sau đó, Tướng Hưng, Tư Lệnh Phó vào gặp Tư Lệnh (Nội dung cuộc nói chuyện tôi không rỏ). Về sau, tôi được biết nội dung bản Thông Cáo đã bị sửa lại, không chính xác như lời Tư Lệnh đã viết.
Đêm 29, VC tấn công mạnh ở phi trường thuộc tiểu khu Vĩnh Bình. Địch đã nhiều lần đánh rát vào phi trường nhưng bị đẩy lui và thiệt hại nặng. Tư Lệnh bảo tôi gọi Trung Tá Sơn, Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Vĩnh Bình để ông nói chuyện. Trong lúc VC tấn công mạnh vào phi trường, tiểu khu xin máy bay yểm trợ nhưng không có máy bay.
Sáng sớm 30 tháng 4, Tư Lệnh bay xuống họp ở tiểu khu Định Tường. Cuộc họp chấm dứt nhanh chóng xong ông bay về Cần Thơ. Thành phố Cần Thơ sáng 30 tháng 4  rất vắng vẻ, dân chúng và xe cộ thưa thớt đi lại. Mặc dầu địch tăng cường những cuộc tấn công mạnh và tình hình chung đang bất lợi cho Chính Phủ Việt Nam Cọng Hòa, tinh thần chiến đấu của binh sĩ thuộc Quân Đoàn 4 vẫn hăng say, các đơn vị không nơi nào bỏ vị trí, không nơi nào bị địch chiếm đóng.
Bất chợt, tiếng của Tổng Thống Dương Văn Minh vang lên trên đài phát thanh. Ông tuyên bố đầu hàng vô điều kiện với VC và nói:
- Tất cả các đơn vị trưởng và anh em binh sĩ ở yên tại chỗ, bàn giao vị trí cho Chính Phủ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.
Tôi vội xô cửa vào phòng làm việc của Tư Lệnh và nói:
- Tổng Thống Dương Văn Minh đã ……..
Tôi nói chưa hết câu, Tư Lệnh nhỏ nhẹ cắt ngang lời tôi:
- Qua đã nghe rồi.
Tôi lặng người chầm chậm bước ra. Trong lúc này, nhiều lần Tư Lệnh Phó liên tục đi vào cửa chánh gặp Tư Lệnh. Qua điện thoại, Đại Tá Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Long An xin gặp gấp Tư Lệnh, lần thứ hai, đại tá xin giật sập cầu Long An để cắt đường VC chuyển về Vùng 4. Tư Lệnh bảo tôi chuyển lời, cầu để yên không được phá sập.
Khoảng gần trưa, tôi được báo cáo là Thiếu Tá Chánh Văn Phòng rời văn phòng bỏ đi với Đại Tá Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Phong Dinh cùng một số sĩ quan, lộ trình sông Hậu ra biển. Tôi vội xuống hầm, nơi làm việc mới của Tư Lệnh để báo cáo cho ông rỏ. Căn hầm này là phòng làm việc thứ hai của Tư Lệnh ngay dưới chân phòng làm việc chính thức, được xây lúc Vùng 1 và 2 đang xảy ra việc đánh lớn. Hầm này, rộng và cao, thiết trí giống như phòng làm việc ở tầng trên, có lối đi xuống từ văn phòng Tư Lệnh. Tư Lệnh thấy tôi theo thường lệ kéo lệch cặp mắt kiếng xuống và hỏi:
- Có gì không?
- Trình Thiếu Tướng, Thiếu Tá Chánh Văn Phòng và Đại Tá Tỉnh Trưởng Phong Dinh đã bỏ đi cùng với một số sĩ quan bằng tàu theo sông Hậu.
Tư Lệnh điềm nhiên không giận và nói:
- Đi hả! Đi làm chi vậy.
Nói xong, Tư Lệnh tiếp tục xem giấy tờ, thái độ trầm tĩnh như không có gì xảy ra. Tôi bước lên cầu thang về phòng làm việc của mình, lúc này tôi mở radio 24/24 để theo dõi tình hình ở Sài Gòn. Tư Lệnh bấm chuông gọi tôi vào và bảo:
- Gọi Đại Tá Thiên gặp tôi.
- Dạ.
Rồi Tư Lệnh chỉ định Đại Tá Thiên nhận chức vụ Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Phong Dinh kể từ sáng hôm đó.
Trưa 30 tháng 4, sau khi đi ăn cơm trưa ở câu lạc bộ Cửu Long về, Tư  Lệnh đi thẳng vào phòng làm việc. Qua lỗ kiếng nhỏ thông qua phòng làm việc, tôi thấy Tư Lệnh đang soạn một số giấy tờ để trên bàn. Tư Lệnh nhìn từ trang một, rồi từ từ xé bỏ vào sọt rác. Khoảng 2 giờ chiều, Tư Lệnh xuống phòng làm việc dưới hầm. Tôi không biết Tư Lệnh làm gì bởi vì phòng làm việc này không có nơi nhìn thấy Tư Lệnh được. Tư Lệnh bấm loa gọi tôi:
- Danh xuống đây tôi bảo.
Tôi vào phòng trên đi theo cầu thang xuống gặp Tư Lệnh. Ông đang ngồi ở sofa nhìn về hướng bản đồ Vùng 4, thấy tôi đến Tư lệnh nói:
- Danh tháo bỏ những ranh giới, những mũi tên trên bản đồ (Những đường ranh và những mũi tên làm bằng những băng keo màu xanh đỏ).
Tôi từ từ tháo bỏ, nhìn tổng quát, tôi thấy bản đồ chia ra từng ô nhỏ, những mũi tên xanh đỏ châu đầu vào nhau, những răng bừa màu xanh với những mũi tên đỏ chĩa vào (có thể đây là bản đồ về Hành Quân Mật theo như tin đồn). Tôi tháo gỡ tất cả những băng keo bỏ vào sọt rát, tháo xong tôi nói:
- Trình Thiếu Tướng, em đã tháo xong.
- Được rồi.
Tư Lệnh buồn buồn theo cầu thang lên phòng làm việc tầng trên, tôi chầm chậm bước theo Tư Lệnh và ra phòng làm việc của tôi. Độ 10 phút sau, Tư Lệnh bấm loa gọi tiếp:
- Danh vào tôi bảo.
- Dạ.
Tôi xô cửa đi nhanh vào, Tư Lệnh nhìn tôi nói:
- Tháo bỏ những vị trí trên bản đồ này nữa.
- Dạ.
Tôi đang lúi húi tháo và liếc nhìn, tôi thấy Tư Lệnh chấp tay về phía sau chầm chậm đi tới, đi lui. Tôi tháo xong:
- Trình Thiếu Tướng, em đã tháo xong.
Nói về phòng làm việc của Tư Lệnh, trước khi vào phải qua ba vọng gác: Từ ngoài vào, vọng gác 1 ngoài đầu đường trước khi vào phòng chờ đợi. Vọng gác 2 ngay phòng chờ đợi sát cổng Bộ Tư Lệnh. Vọng gác 3 lên tam cấp trước cửa vào phòng làm việc của Tư Lệnh. Vào khoảng 4 giờ chiều, Quân Cảnh ở phòng chờ đợi (vọng gác 2) lên gặp tôi nói:
- Có hai ông VC mặc đồ thường phục, trên dưới 50 tuổi xin vào gặp Tư Lệnh.
Tôi nói:
- Anh bảo họ chờ một chút để tôi trình Tư Lệnh.
Tôi gõ cửa vào gặp Tư Lệnh và nói:
- Trình Thiếu Tướng, có hai VC mặc thường phục xin vào gặp Thiếu Tướng.
- Được, mời họ vào.
Tôi xuống phòng khách gặp hai VC, tôi thấy hai người đang chờ ở đây, một người cao ốm nước da trắng, tóc hoa râm độ trên 50 tuổi, ăn mặc thường phục giống như thầy giáo, một người hơi thấp, nước da ngâm đen cũng mặc thường phục, họ đi tay không, không mang giấy tờ và vũ khí. Tôi hướng dẫn hai người này lên bậc tam cấp vào phòng làm việc của Tư Lệnh. Tư Lệnh chào hỏi và mời ngồi sofa, tôi bước nhanh ra phòng làm việc gọi người hạ sĩ quan mang trà vào. Tôi mang vội khẩu súng colt và lấy khẩu AR-15 lên đạn và bước nhanh vào phòng làm việc Tư Lệnh. Tôi đứng sau hai ông VC này cách khoảng 4 thước với tư thế sẵn sàng, tôi sợ hai ông này ám sát Tư Lệnh, tay súng sẵn sàng nếu hai ông này có hành vi lạ là tôi nổ súng bắn liền. Tư Lệnh ngồi đối diện với họ, đang nói chuyện rất nhỏ tôi không nghe được. Bất chợt Tư Lệnh ngước lên, nhìn tôi và bảo:
- Danh đi ra ngoài để tôi nói chuyện.
Tôi ấp úng trả lời:
- Dạ … em ở đây với Thiếu Tướng.
- Được rồi không sao đâu! Em ra ngoài đi.
- Dạ.
Tôi ra lại phòng làm việc, súng vẫn thế thủ, mắt nhìn về hướng theo kẽ hở của cánh cửa đang hé mở. Tôi thấy Tư Lệnh với họ vừa uống trà vừa nói chuyện. Cuộc nói chuyện kéo dài trên 10 phút. Tư Lệnh và hai người chỉ nói chuyện không đưa ra sổ sách hay giấy tờ gì cả. Hai người đứng dậy giã từ, Tư Lệnh bắt tay, rồi hai người theo cửa trước xuống bậc tam cấp ra về. Tư Lệnh ngồi buồn, kế đứng dậy đi tới đi lui như lúc trước, thời gian này rất căng thẳng và ngộp thở. Tôi suy nghĩ lung tung, nếu VC chiếm được Vùng 4 thì Tư Lệnh sẽ ra sao? tại sao Tư Lệnh vẫn bình thản như không có chuyện gì xảy ra, bây giờ còn đi ngoại quốc được không? Còn máy bay không? Hay là Thiếu Tướng có người thân phía bên kia? Những câu tự hỏi đã vây chặt trong tôi. Bất chợt tiếng la ó vang dậy ở ngoài đường. Đoàn người rất đông chạy ngang qua cửa Bộ Tư Lệnh, chạy dài xuống cầu Cái Khế. Họ vừa chạy vừa la hét vui mừng, thì ra đó là những người tù vừa được thoát trại giam, tôi thò đầu ra cửa sổ nhìn ra ngoài đường, tôi thấy bọn tù trên dưới 50 người, quần áo xốc xếch, có người mặc quần cụt, có người cởi trần vừa chạy vừa nhảy lên vừa reo hò vui vẻ nhưng họ không phá phách.
Khoảng 6 giờ chiều, điện thoại có tiếng lạ. Thông thường khi có chuông reo, tôi thường nói:
- Tôi Trung Úy Danh, Tùy Viên Tư Lệnh, xin lỗi ai đầu dây.
Ở đầu dây xưng cấp bậc tên họ chức vụ rồi nói nhu cầu. Đàng này sau khi tôi nói, bên kia đầu dây đáp:
- A lô ai đó!A lô ai đó!
Nghe tiếng lạ không quen thuộc, tôi gác máy không trả lời. Còn đường dây Hotline trực tiếp của Tư Lệnh tôi không rỏ. Như vậy VC đã vào đường dây điện thoại. Trong lúc rối rắm, tôi qua phòng Tư Lệnh Phó gặp Trung Úy Nghĩa, tùy viên Tư Lệnh Phó. Lúc gặp anh Nghĩa, tôi nói tình trạng điện thoại đã bị VC chiếm và tôi đã nghe có tiếng lạ. Tôi đề nghị, nếu Tư Lệnh và Tư Lệnh Phó muốn nói chuyện với nhau mình phải dùng máy PRC-25, đồng thời tôi viết một loạt tần số để sử dụng máy PRC-25 và đánh số thứ tự A, B, C, D … để Tư Lệnh nói chuyện kín hơn.
Khoảng 6 giờ rưởi, Tư Lệnh sửa soạn về tư dinh, Thiếu Tướng nói với tôi:
- Danh chuẩn bị xe để đi thăm bệnh viện Phan Thanh Giản.
- Dạ.
Xe chở Tư Lệnh từ văn phòng đi thẳng vào bệnh viện. Tư Lệnh đến từng giường hỏi thăm thương binh, kẻ nằm người ngồi, băng tay băng đầu, có người mất một chân, chân còn lại quấn dây băng treo lên trên giá. Tư Lệnh đến bên thương binh này hỏi:
- Em tên gì?
- Dạ em tên …
- Em ở đơn vị nào? Có khỏe không?
- Dạ khỏe, em là Địa Phương Quân ở tiểu khu Vĩnh Bình.
Tư Lệnh nói tiếp:
- Em nằm nghỉ dưỡng bệnh.
Tư Lệnh đi từ đầu phòng đến cuối phòng hỏi thăm từng bệnh nhân, rồi Tư Lệnh đi qua dãy kế bên và tiếp tục. Hơn một giờ buồn tẻ và nặng nề chầm chậm trôi qua. Gần giường một thương binh, anh cụt hai chân, vải băng trắng xóa, máu còn rịn ra lóm đóm đỏ cuối phần chân đã mất. Tư Lệnh đứng sát bên và hỏi:
- Vết thương của em đã lành chưa?
- Thưa Thiếu Tướng, vết thương mới mấy ngày còn ra máu chưa lành.
Với nét mặt buồn buồn, Tư Lệnh nhíu mày lại làm cặp mắt kiếng đen lay động. Tư Lệnh chưa kịp nói, anh thương binh này bất chợt chụp tay Tư Lệnh mếu máo:
- Thiếu Tướng đừng bỏ tụi em nhe Thiếu Tướng.
- Qua không bỏ các em đâu! Qua ở lại với các em.
Qua ánh đèn của bệnh viện, tôi thấy Tư Lệnh đưa tay nâng sửa cặp mắt kính đen và hai giọt nước mắt từ từ chảy lăn dài trên khuôn mặt đau thương của ông. Tư Lệnh cố nén xúc động nhưng người đã khóc, khóc không thành tiếng và những giọt nước mắt tự nhiên tuôn trào. Tư Lệnh vịn vai người thương binh nói trong nghẹn ngào:
- Em cố gắng điều trị … có qua ở đây.
Tư Lệnh bước hơi nhanh ra cửa bệnh viện, ra sân Tư Lệnh dừng lại quay mắt nhìn lại bệnh viện. Tư Lệnh đứng yên bất động khoảng một phút rồi bước vội ra xe không nói gì cả. Trên suốt trên đường về tư dinh, Tư Lệnh không nói một lời nào khiến tôi cảm thấy sự im lặng quá nặng nề.
Về đến tư dinh, tôi thấy Quân Cảnh vẫn còn gác ở cổng, tôi đi một vòng xung quanh, những vọng gác vẫn còn người gác, tuy nhiên tôi thấy ít lính đi tới đi lui như mọi hôm, có lẻ họ đã bỏ đi bớt. Sau khi cất khẩu Colt đeo trên người, tôi xuống nhà bếp gặp trung sĩ Hộ quản gia xem hôm nay anh nấu món gì vì hôm nay thăm bệnh viện về trễ. Gặp anh Hộ, tôi nói:
- Anh Hộ bắt một con gà luộc để Thiếu Tướng dùng.
- Dạ con gà nào Trung Úy?
- Đàn gà nòi Thiếu Tướng nuôi đó! Anh chọn một con.
Lúc này trên 8 giờ tối, phía Cồn Cát cách một con sông phía sau dinh, thỉnh thoảng VC bắn bổng những loạt AK đạn lửa bay đỏ xé màn đêm đen nghịt, càng lúc VC bắn càng nhiều. Con gà, anh Hộ làm và nấu xong, đích thân tôi ra sau trailer mời Thiếu Tướng vào ăn cơm.  Tư Lệnh ngồi vào bàn ăn và nói:
- Danh ngồi ăn cơm cho vui.
Đi các đơn vị hay tiểu khu, tôi ăn cơm chung với Tư Lệnh, còn ở dinh Tư Lệnh thường ăn cơm một mình, vừa ăn cơm vừa xem truyền hình rất lâu. Hôm nay, lần đầu tiên Tư Lệnh gọi tôi ăn cơm chung ở dinh, tôi thấy có điều gì khác thường, hơn nữa sự việc xảy ra tùm lum bụng dạ đâu mà ăn với uống. Tư Lệnh thấy thịt gà xé nhỏ, còn nước luộc gà làm canh, Tư Lệnh hỏi:
- Thịt gà đâu vậy?
Tôi gượng cười nói:
- Dạ mấy con gà Thiếu Tướng nuôi ở sau, em bảo anh Hộ làm một con để Thiếu Tướng dùng.
- Làm thịt chi vậy, ăn như vậy được rồi. Thôi ăn đi kẻo nguội.
Tư Lệnh không ăn cơm, chỉ dùng vài muỗng canh, vài miếng thịt gà. Còn tôi thì no hơi, ăn hết vô, qua loa vài miếng vội buông đũa và nói:
- Dạ em ăn xong, Thiếu Tướng dùng tiếp.
Thiếu Tướng nói:
- Ăn tiếp, sao Danh ăn ít vậy, thịt còn nhiều.
Vừa nói, Tư Lệnh gắp bỏ cho tôi một miếng thịt xé phay dài. Trời! ăn gì nổi, bình thường ăn thấy ngon bây giờ ăn thịt gà cũng như nhai gỗ mục, miệng đắng nghét, tôi cố gắng nuốt trôi hết miếng thịt này, xong xin phép Thiếu Tướng ra phòng làm việc.
Nhìn qua cửa sổ, tôi thấy vắng lạnh, một sự vắng vẻ đáng sợ, một số anh em quân  nhân đã bỏ đi, số còn lại một vài người đã mặc thường phục, một số vẫn còn mặc đồ lính. Còn hướng phòng Trung Úy Hỉ, sĩ quan bảo vệ cũng vắng ngắt, chắc có lẻ anh đã bỏ đi (nhà Trung Úy Hỉ ở gần phường An Thới). Còn Trung Úy Việt cùng vợ 2 con vẫn còn ở lại nhà cạnh bờ sông. Việt và tôi gặp nhau chỉ biết lắc đầu, rồi Tư Lệnh đến bàn làm việc của tôi nói:
- Có liên lạc với Tướng Hưng không hè?
- Dạ điện thoại bị mất liên lạc, có tiếng lạ em không dám gọi.
Tôi nói tiếp:
- Dạ, Thiếu Tướng muốn nói chuyện với Tư Lệnh Phó?
- Qua muốn nói chuyện.
Tôi nói với Tư Lệnh:
- Vào lúc 5 giờ chiều, hệ thống điện thoại có tiếng lạ, em có cho anh Nghĩa, tùy viên Tư Lệnh Phó một số tần số PRC-25 để lúc cần Thiếu Tướng nói chuyện, nhưng bây giờ em không liên lạc được.
Tôi nói tiếp:
- Để em đi lại dinh Tư Lệnh Phó nói mở máy PRC-25 để Thiếu Tướng nói chuyện.
Tư Lệnh làm thinh, tôi bảo anh Thông tài xế lấy xe jeep chở đi từ tư dinh Tư Lệnh đến dinh Tư Lệnh Phó đối diện dinh Tỉnh Trưởng Phong Dinh. Sắp sửa rẻ phải vào dinh Tư Lệnh Phó thì thấy phía bên trái trước dinh Tỉnh Trưởng có một VC với khẩu AK ở tư thế sẵn sàng, để súng cạnh sườn, mũi súng chĩa lên trời. Anh Thông tài xế kêu tôi và chỉ:
- VC đã vô tới rồi.
Tôi bảo tài xế:
- Quay trở lại đi không ổn rồi.
Tài xế lái nhanh về dinh Tư Lệnh và đóng cửa dinh lại. Tôi xuống xe bảo các anh em còn lại kéo khoảng 4-5 vòng kẽm gai rào chặn từ cổng vào hướng cột cờ, rào xong tôi vào trailer báo Tư Lệnh:
- Trình Tư Lệnh, VC đã vào đến dinh Tỉnh Trưởng. Em thấy có một VC cầm súng AK ở trước dinh Tỉnh Trưởng.
Tư Lệnh làm thinh không nói gì cả, khoảng hai phút sau, tôi nói với Thiếu Tướng:
- Em đi lần nữa, để Thiếu Tướng nói chuyện với Tư Lệnh Phó.
Tư Lệnh nhỏ nhẹ nói:
- Thôi đừng đi coi chừng nó bắt.
- Dạ không sao!
Nói xong, tôi cởi bỏ áo lính, vẫn mặc quần lính mang giày với áo thun vội ra sân gọi anh tài xế:
- Anh Thông đâu đến tôi nhờ một chút.
Tôi la lên, không một tiếng trả lời. Anh Hộ quản gia nói:
- Em vừa thấy anh Thông ra cổng.
Anh đã bỏ đi rồi, bất chợt có một anh mà tôi quên cấp bậc và tên hỏi tôi:
- Trung Úy cần gì em giúp.
- Anh muốn đến dinh Tư Lệnh Phó.
- Được rồi để em đưa ông thầy đi.
Anh lính lấy chiếc Honda màu đỏ chạy đến và nói:
- Đi Honda tiện hơn Trung Úy.
Rồi anh chở tôi về hướng dinh Tư Lệnh Phó, rẻ vào dinh anh đậu cách đây khoảng 10 mét bên lề đường.
Dinh Tư Lệnh Phó, trước và sau có cổng ra vào bằng cửa sắt, xung quanh xây tường cao độ 2 mét. Cửa trước đối diện với dinh Tỉnh Trưởng, cửa sau quay ra mặt đường. Cửa trước và sau đều đóng và khóa chặt, từ cửa trước nhìn vào tôi đi sát hông tường bên phải, có một cây ổi mọc từ phía trong xòe nhánh phủ ra bên ngoài. Trong dinh im lặng không một tiếng động, tôi gọi lớn:
- Nghĩa ơi Nghĩa, Phúc ơi Phúc, tao là Danh.
Tôi gọi 4-5 lần nhưng vẫn thấy im lặng không có tiếng trả lời. Tôi linh cảm không ổn, tôi gọi tiếp và quay lại định trở về, tôi thầm nói không lẻ mình bỏ cuộc. Tôi nói qua với anh lính đậu bên kia đường:
- Anh ráng chờ tôi một chút.
Bất chợt có tiếng nổ đùng, có tiếng xôn xao, tiếp theo là những tiếng khóc. Tôi chạy lại vách tường có nhánh cây ổi xòe ra, tôi quyết định đu nhánh ổi này nhảy vào, tay phải níu nhánh ổi, tay trái vịn vào vách tường miệng liên tục la lớn:
- Tôi Trung Úy Danh đừng bắn, tôi Trung Úy Danh đừng bắn.
Miệng la tay níu kéo leo vào, tôi lên được đỉnh tường theo đà cây ổi tuộc xuống đất. Vừa gặp tôi, anh Nghĩa vừa khóc vừa nói:
- Chuẩn Tướng tự sát chết rồi Danh.
- Lúc nào?
- Mới đây, chắc có lẽ hồi nãy Danh nghe tiếng súng nổ.
Anh nói tiếp:
- Chuẩn Tướng vừa tập họp anh em binh sĩ lại, dặn dò lần cuối cùng, rồi vào phòng đóng cửa lại và bắn vào ngực tự sát. Bà Tướng chạy theo ngăn không kịp.
Tôi đến cửa, thấy cửa phòng hé mở, tôi xô nhẹ cánh cửa bước vào, tôi thấy tướng Hưng nằm bất động trên giường, bà Hưng đang ôm trầm Tư Lệnh Phó khóc, còn hai đứa con nhỏ đứng kế bên vô tư lự như không có gì xảy ra, kế bên những anh lính đang sụt sùi khóc. Tôi quay ra nói với anh Nghĩa:
- Thôi Danh đi về.
Tôi không nói anh Nghĩa mở tần số máy PRC-25 gì nữa, chuẩn tướng đã chết rồi. Tôi tình hình rối ren, bận rộn, tôi không nhờ mở cửa, tôi trèo cây ổi lên đầu tường rồi nhảy ra ngoài. Xuống đến mặt đất, tôi suy nghĩ lung tung về cái chết của Tư Lệnh Phó. Nếu Tư Lệnh hay được thì ra sao? Tôi vừa suy nghĩ vừa cúi đầu bước đi đến anh lính đậu xe Honda lúc nãy. Trời! xe và người biến đâu mất, tôi đảo mắt nhìn quanh vẫn không thấy, chắc anh bỏ đi rồi, tôi không trách anh, anh đã giúp tôi như vậy cũng đủ lắm rồi. Tôi lội bộ từ đây cặp theo lộ Hòa Bình đi thẳng về dinh, trên đường phố vắng hoe không một bóng người lai vãng, chỉ có những mảnh giấy vụn vất bừa bãi đầy đường, thỉnh thoảng bay tứ tung theo cơn gió.
Tôi đi bộ mất trên 15 phút về đến dinh, anh lính vẹt từng vòng kẽm gai tôi đi vào rồi kéo lại vị trí củ. Tôi đi nhanh về phía sau vào trailer để trình Tư Lệnh sự việc đã xảy ra, vừa thấy Tư Lệnh tôi vội vã nói:
- Trình Thiếu Tướng em đến dinh Tư Lệnh Phó, đến nơi ông vừa tự sát chết, Tư Lệnh Phó đã bắn vào ngực.
- Tướng Hưng chết hả? Chết làm chi?
Tư Lệnh chỉ nói vậy. Tôi trở ra về nơi làm việc, ngồi trên sofa suy nghĩ liên miên. Tư Lệnh Phó đã tự sát chắc Tư Lệnh sẽ tự sát theo. Tôi xuống nhà gặp Trung Úy Việt và nói Tư Lệnh Phó đã tự sát còn Thiếu Tướng không biết thế nào? Làm sao bây giờ? Hai đứa tôi không tìm ra câu trả lời.
Lúc này khoảng 11 giờ đêm, vì lo lắng cho Tư Lệnh nên cứ khoảng 15 hay 20 phút tôi vào trailer một lần. Mỗi lần vào liếc nhìn, tôi thấy Tư Lệnh nằm nghỉ nhưng giày vẫn còn mang, tôi lại đỡ lo phần nào. Lần khác vào, Tư Lệnh ngồi dậy đi về hướng tôi và hỏi:
- Có gì không?
- Em vào xem Thiếu Tướng có sai bảo gì không?
Tư Lệnh nói:
- Sao em không đi ngủ đi! khuya rồi.
Tôi thỏ thẻ nói:
- Trình Thiếu Tướng, nếu VC vào dinh tụi em đánh không Thiếu Tướng?
- Thôi đừng đánh nhau, họ vào để tôi ra nói chuyện.
Tôi rời trailer đi ra ngoài. Khoảng 10 phút sau, Tư Lệnh ra phòng làm việc tôi đưa một gói hình chữ nhật dài độ 2 tấc, rộng 1 tấc, dầy 5 phân và nói:
- Danh cất tiền này dành để xài (có thể đây là tiền lương của Thiếu Tướng không dùng để dành).
Đưa gói giấy xong, Tư Lệnh đi vào trailer, tôi tò mò hé mở gói này, bên trong toàn bạc 500, tôi đoán chừng trên 400 ngàn đồng và tôi để vào ngăn kéo nơi bàn làm việc. Tôi tiếp tục rón rén vào trailer để quan sát, sợ Tư Lệnh tự sát.
Khoảng 12 giờ 30 khuya, Tư Lệnh ra gặp tôi nói:
- Sao Danh không đi ngủ? Thức cả đêm à.
- Dạ em ngủ không được.
Tư Lệnh móc từ trong túi ra một khẩu súng nhỏ, ngắn hơn gan tay và nói:
- Danh cất khẩu súng này dành để hộ thân.
Tôi nhận khẩu súng bỏ vào ngăn kéo chung với gói tiền lúc nãy. Tôi xuống nói chuyện với anh Việt và anh Hộ: “Thiếu Tướng đã cho tôi súng, không hiểu Tư Lệnh có ý định gì?” Chúng tôi bàn luận với nhau và có linh cảm là Thiếu Tướng đang sắp xếp một việc gì đó.
Khoảng sau 1 giờ sáng, anh lính gác hơ hải chạy vào gặp tôi:
- VC tự động mở cửa vào dinh.
- Anh bảo họ chờ tôi một chút.
Tôi vội vã vào trailer để gặp Tư Lệnh, tôi thấy Tư Lệnh nằm nghĩ. Tôi trình:
- Trình Thiếu Tướng, bọn VC đang vào dinh.
- Bảo họ chờ tôi ra nói chuyện.
Tôi đi nhanh ra trước cổng dinh, lúc bấy giờ tôi vẫn mặc áo thun, quần lính, mang giày. Gần đến cổng dinh, tôi thấy lố nhố 6-7 người đang vẹt kẽm gai đi vào hướng cửa dinh. Đến gần, tôi thấy 4 nam, 1 nữ có vấn đầu tóc lủng lẳng phía sau ót và một em bé độ 10 tuổi. Nam trang bị 1 khẩu AK, một người mang khẩu Carbin, một người mang súng lục (súng loại cảnh sát sử dụng) số còn lại tay không, không mang giấy tờ hay máy móc gì cả. Nhóm người này tuổi dưới 40, đến vòng kẽm gai thứ ba từ ngoài vào, còn hai vòng nửa từ cửa dinh ra, tôi vẹt kẽm gai và gặp họ tại đây. Một người trong nhóm quay qua hỏi tôi:
- Anh làm gì ở đây?
Tôi nói:
- Tôi làm quản gia.
Tôi nói trớ, không dám nói là tùy viên sợ bọn chúng bắn. Người mang khẩu AK hỏi tiếp:
- Anh cấp bậc gì?
- Tôi Trung Sĩ.
Bất chợt người mang AK lên đạn đưa mũi súng vào phía sườn tôi và nói:
- Đi.
Tôi lúc bấy giờ hồn phi phách tán, chết là cái chắc. Trong nhóm có người nói:
- Ở đây nó làm lớn không hà, tính nó đi.
Bọn chúng từ từ hướng vào cửa dinh, đến gần cột cờ, đứa trẻ con ôm chầm lấy khẩu súng đồng thời Pháp, súng đặt dưới chân cột cờ để làm kiểng, đứa trẻ reo lên:
- Súng ngộ và đẹp quá.
Chị bới tóc tiếp theo:
- Nhờ có dịp này mới được vào dinh Tướng.
Tôi nghe và thấy những việc trên cõi lòng se lại. Bất chợt, nhóm người này dừng lại, người mang khẩu AK hất mặt ra dấu tôi đi qua hướng nhà bếp, ngang qua phòng ngủ của tôi. Chết rồi, chắc bọn chúng bắn mình ở đây, tôi chầm chậm bước đi, đầu ngoái lại cửa vô dinh. Tôi thấy Tư Lệnh bước ra, đẩy nhẹ cánh cửa (cửa lưới chắn ruồi trước khi vào phòng làm việc). Bọn người này bảo tôi dừng lại, ba người bước vào phòng (một người tay không, một người mang khẩu B-38, một người mang khẩu Carbin). Số còn lại lảng vảng phía ngoài, người mang AK vẫn hướng súng về phía tôi. Khoảnh khắc, Trung Sĩ Hộ từ phòng Thiếu Tướng đang nói chuyện với VC chạy đến tôi nói:
- Thiếu Tướng bảo Trung Úy lấy thuốc lá hút.
Có cớ vào gặp Tư Lệnh, người mang AK bỏ thõng súng xuống, tôi lặng lẽ bước đi, nhưng sợ hãi nó đàng sau bắn tới. Vô sự, thế là thoát nạn, vào phòng tôi mở ngăn tủ lấy gói thuốc capstan đầu lọc mời Thiếu Tướng một điếu, 3 người mỗi người một điếu (Tư Lệnh hút thuốc 3 số 555 nhưng thỉnh thoảng hút thuốc capstan đầu lọc). Tôi thấy Tư Lệnh ngồi trên sofa băng dài, người tay không ngồi trên ghế nhỏ đối diện Tư Lệnh, người mang khẩu B-38 ngồi dưới sàn  nhà, tay cầm khẩu súng để trên đầu gối mũi súng hướng về phía Tư Lệnh, còn người mang khẩu carbin đứng ngay cửa phòng tư thế tác chiến.
Xong nhiệm vụ tôi bước ra ngoài, người mang AK vẫn ở thế tác chiến nhưng không để ý đến tôi nữa. Trên dưới mười phút nói chuyện, nhóm người này rời dinh ra về, tôi vào phòng thấy Tư Lệnh vừa đứng dậy bước ra ngoài với khuôn mặt buồn buồn, nhìn trên sofa tôi thấy điếu thuốc của Thiếu Tướng còn cháy dở dang, mới 1/3 điếu nằm trên sofa bốc khói làm lủng một lỗ nhỏ, tôi lấy vất đi. Cuộc nói chuyện này chỉ đơn phương, không có viết giấy tờ hay ký tên gì cả cũng không có máy móc khi hai bên gặp nhau. Tư Lệnh vào trailer nằm nghĩ, tôi vào lần nữa thấy Tư Lệnh nằm yên, chắc Tư Lệnh đã mệt. Trong suốt đêm 30 tháng 4, Tư Lệnh và tôi hầu như không ngủ, khoảng 3 giờ sáng, tôi rón rén vào phòng Tư Lệnh lần nữa, thấy Tư Lệnh đang nằm yên không biết ngủ hay thức vì trong lúc nằm nghĩ vẫn mang cặp kính đen. Tôi cũng quá mệt ra phòng làm việc ngả lưng trên sofa một chút, vang vang bên tai những loạt AK nổ liên hồi, chắc đối phương nổ súng mừng chiến thắng.
Trong lúc nửa tỉnh nửa mê bổng nghe tiếng chuông “boong, boong, boong”, tôi bật mình ngồi dậy, nhìn đồng hồ thấy hơn 6 giờ, qua đến bàn Phật, tôi thấy 3 cây nhang Tư Lệnh đã đốt và cắm sẵn trên lư hương khói bay nghi ngút. Tư Lệnh mặc quân phục hẳn hoi đang nghiêng mình xá Phật. Tôi vội đi nhanh làm vệ sinh cá nhân, xong mặc quân phục vào và đến đứng nghiêm chào Thiếu Tướng. Thiếu Tướng đưa tay lên cỡ tầm ngực đáp lại và hỏi:
- Đêm qua, Danh ngủ được không?
- Mệt quá em nằm nghĩ một chút.
Tư Lệnh vẫn ngồi trên sofa nơi phòng thờ Phật, tôi đi sang qua phòng làm việc. Một lúc sau, Tư Lệnh đến bên tôi hỏi:
- Gặp Tướng Trường được không hè?
Lúc này khoảng 6 giờ 30 sáng.
- Dạ … dạ …
Tôi ấp úng trả lời:
- Hồi chiều tối hôm qua ở trên lầu em thấy Tướng Trường chạy xe jeep ngang qua dinh.
Tư Lệnh nói tiếp:
- Có phải Tướng Trường không?
- Em ở trên lầu hơi xa, em thấy giống Tướng Trường.
- Thôi đừng đi tìm, kẻo bị chúng bắt.
- Dạ.
Rồi Tư Lệnh đi ra sau vào trailer, một lát sau Tư Lệnh đi ra hai tay xách hai vali gặp tôi và anh Việt ngay ở cửa ra vào phòng thờ Phật. Tư Lệnh đưa cho tôi một cái màu cam, còn Trung Úy Việt một cái màu đen hay nâu tôi không nhớ rỏ. Tư Lệnh buồn buồn nói:
- Danh giữ cái này, Việt giữ cái này.
Tư Lệnh chỉ nói ngắn gọn không nói thêm gì, hình như cổ ông nghẹn lại. Tư Lệnh vội bước đi, cách vài bước Tư Lệnh quay lại nói tiếp:
- À quên chìa khóa.
Rồi Tư Lệnh đi thẳng về sau vào trailer, một lúc sau trở ra trao cho tôi hai chìa khóa và nói:
- Cái này của Danh, cái này của Việt.
Tôi linh tính sắp có điều gì sẽ xảy ra. Tư Lệnh chầm chậm bước theo nấc thang lên tầng trên, tôi và anh Việt nối bước theo sau. Tư Lệnh ra sân thượng, đứng sát bên lan can, mắt nhìn ra lộ Hòa Bình trước cửa dinh, tôi đứng bên tay phải Tư Lệnh, anh Việt đứng bên trái. Trước lộ vài xe qua lại, người thưa thớt vắng vẻ như chiều 30 Tết. Bất chợt, Thiếu Tướng bật khóc. Dù cố nén tiếng khóc không bật thành tiếng, nhưng những giọt nước mắt cuộn tròn chảy dài trên khuôn mặt đau buồn vì nước mất nhà tan. Tôi cũng khóc theo, anh Việt cũng vậy, ba người đứng ở đây mặc cho nước mắt tự do tuôn chảy. Tôi nghĩ Tư Lệnh đi ngoại quốc hết kịp rồi, tới đây VC có bắt Tư Lệnh không? Có làm hỗn bắn Tư Lệnh không? Nếu sự việc xảy ra thì phải giải quyết làm sao? Tôi đang mênh mang suy nghĩ, Tư Lệnh xoay lưng chầm chậm theo bậc thang xuống tầng dưới.
Tư Lệnh sắp tự sát
Từ ngoài nhìn vô bàn Phật, Tư Lệnh ngồi trên ghế sofa phía bên phải, đôi mắt đăm chiêu nhìn lên bàn thờ. Anh Việt bước ra cửa về thăm xuống thăm vợ con còn Trung sĩ Hộ đang thập thò trước cửa. Tư Lệnh đứng dậy đến bàn thờ lấy ba cây nhang đốt, xá ba xá cắm vào lư hương, gõ ba tiếng chuông “boong, boong, boong” xong xá 3 xá tiếp xong Tư Lệnh về ngồi nơi cũ, hai tay để trên thành gỗ sofa nhịp nhịp như không có chuyện gì sắp xảy ra. Bất chợt , Tư Lệnh xoay qua bảo tôi:
- Danh ra ngoài bảo Việt dẫn vợ con đi đi.
- Dạ.
Tôi tôi thầm nghĩ Tư Lệnh và tôi độc thân chắc Tư Lệnh nghĩ cách khác. Tôi đẩy nhẹ cánh cửa bước ra sân hướng về phòng Trung Úy Việt. Tôi vừa đi khỏi cột cờ một chút nghe tiếng nổ “đùng” phát ra từ hướng bàn thờ Phật, tôi xoay người trở lại chưa kịp bước thì Trung Sĩ Hộ thất thanh chạy la lên:
- Đại Úy ơi! Đại Úy ơi! Thiếu Tướng tự sát chết rồi.
Trong lúc sợ hãi, anh Hộ gọi tôi là Đại Úy. Tôi chạy nhanh vào thấy cảnh tượng hãi hùng chưa bao giờ gặp. Tư Lệnh ngã ngửa hơi lệch về phía sau sofa, đầu nghiêng về bên trái, khẩu Colt-45 vẫn còn trong tay buông thõng xuống lòng Tư Lệnh nhưng những ngón tay cầm súng đã nới lỏng, đầu đạn xuyên qua màng tang phải qua trái, ngước mắt nhìn lên trần nhà. Tư Lệnh chưa chết, nhưng nói không được, giật run rẩy người, miệng há hốc, từ trong cổ họng nấc lên tiếng “khọc, khọc, khọc” từng chập và từ từ nhỏ dần. Anh Hộ thấy vậy vội nói:
- Mình chở Thiếu Tướng đi bệnh viện.
Tôi cũng ôm chầm lấy xác ông vừa khóc vừa nói:
- Chắc trễ rồi, vết thương ở đầu vô phương cứu chữa, hơn nữa Thiếu Tướng đã quyết định tự sát. Hèn chi hôm qua Thiếu Tướng đi thăm anh em thương binh ở bệnh viện Phan Thanh Giản rất lâu và nói với anh em thương binh là: “Qua ở lại với các em.”
Anh Hộ nói tiếp:
- Em đâu dám đến gần Thiếu Tướng. Đứng ở ngoài cửa em chỉ thấy lưng Thiếu Tướng. Em thấy Thiếu Tướng móc từ trong túi ra, em tưởng Thiếu Tướng lấy thuốc hút, nào ngờ Thiếu Tướng móc khẩu súng và tự sát liền, em chạy lại đâu kịp.”
Vừa nói anh Hộ khóc nức nở, chúng tôi vẫn ôm choàng lấy Tư lệnh khóc. Trong lúc bối rối và hết hồn, tôi đâu có tâm trí để xem đồng hồ, khoảng 7 giờ 30 ngày 1 tháng 5 năm 1975.
Khoảng 15 phút sau, Tư Lệnh yên nghỉ, tôi vội chạy về phòng chọn một bộ đồ dân sự, loại củ nhất mặc vào xong đến bên Thiếu Tướng tiếp tục khóc, vài vết máu của Tư Lệnh đã dính vào áo tôi (lúc đi cải tạo, tôi còn giữ áo này về sau cũ tôi đốt bỏ). Tôi nghĩ với chức vụ Tùy Viên, tầm hiểu biết nhỏ hẹp, nếu VC vào tra hỏi tôi ú ớ chúng sẽ bắn ngay, hơn nửa đêm qua bọn chúng lên đạn suýt chút nữa là thịt tôi rồi. Tôi thầm nghĩ, tôi đã theo Thiếu Tướng đến lúc cuối, lúc Thiếu Tướng chết không bỏ đi nửa chừng, như vậy cũng tạm gọi là chung thủy không thẹn với lương tâm, còn việc chôn cất xin Thiếu Tướng tha lỗi vì em không làm tròn bổn phận.
Tôi đến bàn làm việc mở ngăn kéo lấy khẩu súng Thiếu Tướng cho đêm qua, đi xuống hầm chứa nước ở dưới chân nhà và liệng bỏ xuống dưới đó. Xong tôi lấy chiếc valy và gói tiền đến phòng bàn thờ Phật. Tôi lấy tấm drap trắng bên phòng ăn choàng đắp lên mình Tư Lệnh. Tư Lệnh vẫn còn nằm ở sofa tôi không di chuyển đi nơi khác.
Tôi quay qua anh Hộ nói:
- Lúc sáng, Thiếu Tướng có cho tôi và anh Việt mỗi người một cái va ly, tôi không biết có gì trong đó, tôi không vợ không con, hơn nữa tình huống như vầy tôi không xài, tôi cho lại anh. Anh mở ra có tiền hay vàng anh xài, còn có giấy tờ hay di chúc gì của Thiếu Tướng anh vui lòng gởi đến gia đình Thiếu Tướng giùm.
Về sau, trong khoảng tháng 5 năm 1975, tôi có xuống tìm gia đình anh Hộ để xem trong chiếc va li của Thiếu Tướng có để lại di chúc gì không?  Tôi tìm đến nhà anh ở gần hồ nước Mỹ Tho, thuộc tiểu khu Định Tường (hồ nước, chỗ trực thăng tản thương lên xuống cho thương binh lúc chiến tranh). Anh Hộ đã đi làm ăn xa không có nhà, có chị Hộ cùng các con, tôi nói gia đình của Thiếu Tướng muốn xem trong va li có giấy tờ gì quan trọng không? Nhất là có di chúc gì của Thiếu Tướng để lại không còn tiền bạc vòng vàng gì nếu có anh chị giữ lại nuôi con, gia đình Thiếu Tướng không để ý chuyện đó. Chị Hộ nói:
- Trong va li không có gì quan trọng, không có giấy tờ hay di chúc gì của Thiếu Tướng để lại cả. Sau đó tôi ở lại ăn một bữa cơm và nghĩ đêm ở đó, sáng hôm sau tôi từ giã chị Hộ về Sài Gòn. Trước khi đi, chị trao cho tôi một cái đồng hồ loại đeo ở cổ, chị nói đã tìm thấy trong va li, bảo tôi giữ lấy để làm kỷ niệm. Chiếc đồng hồ có dây dài như dây chuyền màu trắng bằng i nốc, mặt đồng hồ hình con sò giống như con sò vẻ quảng cáo ở các cây xăng Shell. Tôi cầm lấy và cất giữ trên 10 năm, sau đó hư máy hết chạy.
Sau khi đưa cho anh Hộ va li xong, tôi bước ra hướng nhà bếp đi thẳng, cuối có cửa nhỏ thông qua hãng bia và nước ngọt của Pháp, tôi lần theo hẻm nhỏ sát chân tường đi ra ngoài đường. Tôi đứng phía bên này đường Hòa Bình, bên kia đường tôi thấy trên dưới 10 gia đình vợ con binh sĩ đứng nhớn nhác nhìn về phía Dinh, chắc chồng con họ đang ở trong Dinh. Tôi gọi:
- Các chị qua đây tôi bảo.
Mọi người đứng yên, có thể tôi gọi nhỏ hay là họ ngần ngại. Một lần nữa tôi gọi:
- Các chị qua đây tôi cho tiền các chị.
Rồi một người, hai người rồi cả nhóm bước qua lộ đứng bên lề đường. Tôi nói nhanh sợ VC đến nhìn thấy tưởng tôi tuyên truyền sẽ gây bất lợi cho tôi. Tôi nói tiếp:
- Đêm qua Thiếu Tướng có cho tôi ít tiền, sáng nay Tư Lệnh đã tự sát chết rồi, hơn nữa tình thế hỗn loạn chắc chắn chồng các chị chưa lãnh lương được, vậy các chị lấy ít tiền này để xài, nuôi con hay về quê.
Nói xong tôi đưa gói bạc cho một người trong nhóm:
- Các chị chuyền nhau lấy một ít đừng có ngại.
Nhóm người này xúm nhau chuyền gói bạc, ngắt từng xấp tiền bỏ vào túi, tôi nhìn thấy có người lấy đến hai lần. Người cuối cùng lấy xong, với xấp tiền đã mỏng, họ trả lại tôi, không biết số tiền là bao nhiêu tôi vội bỏ vào túi. Bất chợt có một anh lính đến bên tôi nhỏ nhẹ nói:
- Trung Úy cho em chút đỉnh tiền để em về Long Xuyên.
Tôi đưa xấp tiền còn lại nói:
- Anh lấy đi, chừa lại cho tôi một ít để tôi về Sài Gòn.
Anh lấy xong rồi đưa phần còn lại cho tôi và đề nghị:
- Thôi Trung Úy đi về Long Xuyên với em, ở nơi đó còn yên chưa mất, Trung Úy về đó tiện hơn.
Tôi nói:
- Còn gì nữa, đã mất hết rồi. Tôi còn về Sài Gòn đến gia đình Thiếu Tướng để cho người nhà hay Thiếu Tướng đã chết.
Tôi đã nói chuyện và cho tiền trên 10 phút, cũng may là VC chưa đến Dinh. Tôi đi ngang cổng Dinh, nhìn lần cuối rồi sang bên kia cầu Cái Khế, lên xe đò ra bến xe mới qua bắc Cần Thơ. Trên phà, tôi xé bỏ tất cả những giấy tờ cá nhân, vứt bỏ theo dòng nước gồm căn cước quân nhân, chứng chỉ tại ngũ v.v… Những mảnh giấy trôi bồng bềnh trên mặt nước, những đợt sóng nhồi chìm nổi, những mảnh giấy cố ngoi lên nhưng bị loạt sóng sau phà dìm hẳn xuống mất hút, cũng như cuộc đời binh nghiệp của tôi chấm dứt và mất hút từ đây.
Về Sài Gòn
Tôi theo xe về Sài Gòn, dọc theo Quốc Lộ 4, VC đã ra tua tủa ngoài đường, thỉnh thoảng từng nhóm chận xe lại bảo bỏ vũ khí. Ngoài đồng dọc theo đường, nhìn trong tầm mắt thỉnh thoảng có vài người bị bắn chết nằm tênh hênh, vắt vẻo trên bờ ruộng. Vào phạm vi Sài Gòn cũng ồn ào náo nhiệt, kẻ lo sợ hốt hoảng, người vui chơi hớn hở, nhìn chung tôi đoán biết ai là phe ta, ai là địch.
Với bộ đồ cũ kỹ, nhăn nheo như người dưới quê lên thành phố, tôi xuống bến Xa Cảng gọi Honda ôm về cư xá Lữ Gia để tìm bà Nguyễn Khoa Diệu Liên (cháu của Thiếu Tướng). Gõ cửa, tôi thấy bà Liên ra mở cửa mà tôi nghẹn ngào không nói nên lời, chặp sau tôi vừa khóc vừa nói:
- Thiếu Tướng đã tự sát chết rồi.
Bà Liên ôm chầm lấy tôi khóc nức nở. Vào nhà, tôi kể đầu đuôi sự việc đã xảy ra cho bà nghe. Xong bà lái xe chở tôi đến nhà hàng ăn ở về hướng Lăng Cha Cả. Ăn xong, trước khi từ giã, với khuôn mặt hiền hòa đẫm lệ, bà an ủi tôi:
- Thôi sự việc như vậy Danh đừng buồn nữa.
Bà lấy cho tôi 50,000 đồng rồi nói tiếp:
- Mới 1 Tây, bây giờ đang hỗn loạn đi còn được. Danh ra Vũng Tàu trà trộn đi ngoại quốc đi.
- Dạ.
Tôi nhận số tiền bà cho rồi từ giã ra đi. Giã từ bà từ ngày 1 tháng 5 năm 1975 cho đến nay không gặp và không biết tin tức về bà. Tôi không ra Vũng Tàu như bà bảo. Vì gia đình ở quận Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre, ba tôi giữ chức vụ trưởng đồn Nghĩa Quân, không biết bây giờ ông ra sao? Tôi quyết định ở Sài Gòn không tìm đường đi ngoại quốc. Những anh em quân nhân cũ lúc còn ở Sư Đoàn 7  thường tìm tôi để tâm sự, đi ăn cơm hay về nhà ngủ đêm, việc ăn uống ngủ nghỉ các anh tiếp đãi rất nồng hậu, còn chuyện mượn địa chỉ để đăng ký thì không được. Bây giờ chỉ có cách về quê nhà ở Mỏ Cày, Bến Tre nhưng xứ này là “Quê Hương Đồng Khởi” không hiểu về đó tôi có bị VC thù cá nhân không?
Đột nhiên, tôi chợt nhớ đến nhà của Thiếu Tướng ở số 403 Lê Đại Hành, quận 11 trước cửa trường đua Phú Thọ, tôi có thể đến đấy ở và lấy địa chỉ này để đăng ký. Tại nhà riêng của Thiếu Tướng, tôi gặp anh Dực, quản gia ở đây, chúng tôi gặp nhau, mừng mừng tủi tủi. Chúng tôi ở với nhau không lâu. Vì tình trạng kinh tế, anh Dực phải về quê, còn lại tôi ở một mình trong căn nhà này. Quá buồn, tôi mua vé xe ngồi trên xe đi liên tục, mặc cho xe chạy đi đâu thì chạy, trong tay có sẵn chai rượu rẻ tiền, tôi say lúy túy, vừa uống vừa khóc, khóc cho đã, cho vơi nỗi buồn.
Khoảng 12 giờ ngày 6 tháng 5 năm 1975, có hai chiếc xe jeep, một chiếc trang bị súng ống đầy đủ chạy ập vào bao vây nhà của Thiếu Tướng, họ nhảy xuống xe, một người trong nhóm đó gõ cửa hỏi tôi:
- Anh là chủ nhà này?
Tôi nói:
- Không phải, đây là nhà của Tướng Nguyễn Khoa Nam.
- Anh làm gì đây?
- Tôi là tùy viên của Tướng Nguyễn Khoa Nam. Tôi ở đây chờ ngày đi học tập.
- Yêu cầu anh lên xe.
Tôi lên ngồi chiếc xe jeep dẫn đầu, nhìn lại tôi thấy họ xông vào nhà lục soát tùm lum, vất đồ đạc lung tung. Chết rồi bị VC bắt! Chiếc xe chở tôi từ từ lăn bánh về trụ sở phường thuộc Quận 11. Chiếc xe dừng lại, khẩu AK chỉa bên hông chìa sát tôi, họ dẫn tôi vào phường. Vào trong, tôi thấy một ông mẫu người lịch sự, mập trắng trẻo hơi thấp đang ngồi đó. VC vẫy tay ra dấu tôi ngồi xuống ở đây. Tôi đến bên ông này làm quen hỏi:
- Thưa Chú sao ở đây?
Ông ta nói:
- Tôi là tướng Đỗ Kế Giai, bị họ giữ ở đây.
Tôi thầm nghĩ:
- Chết rồi mình bị nhốt chung với Tướng chắc không khá!
Mỗi lần tôi đi vệ sinh, tên VC cũng đi kèm sát bên theo dõi, nòng khẩu AK vẫn dí vào hông tôi. Đến tối, khoảng 8 giờ, họ dẫn bộ đưa tôi ra phía sau phường đi xuống một trường học bỏ trống, trước khi vào tôi thấy nơi này rào chằng chịt kẽm gai cuộn tròn. Tôi vào cổng gác thứ nhất có người gác hai bên trang bị AK đứng thế tác chiến, họ vừa kéo kẽm gai vừa hỏi:
- Anh bị tội gì vô đây?
Tôi trả lời:
- Tôi không biết tội gì. Tôi đang ở nhà Thiếu Tướng Nam, đột nhiên các anh bắt tôi đến đây.
Tôi liếc nhìn họ không hỏi tiếp và họ cười cười, tôi tiếp tục qua vọng gác thứ hai, rồi đến vọng gác thứ ba, người dẫn tôi đi kéo vòng kẽm gai rào lại cẩn thận, tôi bước vào khu vực trường học bỏ trống, đi dọc theo hành lang và đến một phòng, họ bảo tôi ngồi trên một băng dài đặt trước cửa phòng, người này vào trong một lát trở ra nói:
- Anh ngồi nơi đây đợi chờ chúng tôi sắp xếp, anh không được đi nơi khác.
- Vâng.
Khoảng 30 phút sau, một người ăn mặc thường phục áo trắng quần tây đen, bỏ áo vào trong đàng hoàng giống như thầy giáo vui vẻ đến bắt tay tôi nói:
- Cuộc chiến tranh xảy ra, anh ở bên này, tôi ở bên kia, ai cũng làm việc, còn sống sót là quí rồi. Anh bị bắt vào đây là do nhân dân chỉ điểm chúng tôi, nói anh đang giữ kho tàng của tướng Nam. Chúng tôi đã đến kiểm tra không phát hiện gì hết, nhân dân chỉ nhầm. Thôi tôi trả tự do cho anh, anh có thể ra đi được.
Tôi mừng quá thoát nạn rồi nhưng chưa đi liền, đề nghị với ông ta:
- Tôi cám ơn ông đã trả tự do cho tôi nhưng ông có thể cho tôi giấy chứng nhận trả tự do và cho tôi được ở nhà Thiếu Tướng Nam chờ ngày đi học tập.
Ông ta gật đầu, vào phòng, viết cho tôi tờ giấy nội dung như tôi đã nói.
Tôi trở về nhà lúc nửa đêm, đồ đạc trong nhà vất tứ tung, mấy cây “cane” của Thiếu Tướng đều bị bẻ gãy làm đôi làm ba cùng liệng tứ tung. Nhà bếp, cầu tiêu đều bị đào xới ngổn ngang như heo ủi, vung vãi những viên đạn nho nhỏ. Tôi ở đây được hai ngày, buồn quá tôi đi đến nhà em út lính, sáng đi chiều về ngủ đêm. Những bọn vô gia cư, dân xì ke, quét chợ lượm những khẩu súng của các anh em binh sĩ bỏ lại như carbin, garant, M-16 đi vào nhà của Thiếu Tướng. Bọn chúng xưng là “cách mạng nằm vùng”, dựng súng vào tường rồi lục tủ lạnh lấy thức ăn tôi mua về để trong tủ lạnh ra ăn hết sạch. Thái độ chúng kênh kiệu nhìn tôi với những cặp mắt cú vọ, lườm lườm như muốn ăn tươi nuốt sống, tệ nhất là bọn chúng lúc nào cũng say rượu. Tôi nghĩ đây là bọn “dựa hơi” nhân lúc hỗn loạn xưng hùng xưng bá chớ không phải dân cách mạng theo như bọn chúng đã nói. Tôi sợ bọn chúng nổi cơn điên bắn ẩu thì bỏ mạng nên tôi bỏ nhà này đi xuống ở nhà bà Phước ở sau nhà thờ Thị Nghè một thời gian ngắn rồi sau đó đi cải tạo gần 7 năm trời.

Báo Việt Nam vinh danh người lính Cộng hòa bảo vệ Hoàng Sa

Nhiều thanh niên Hà Nội tổ chức thắp nến tri ân những người lính đã ngã xuống bảo vệ Hoàng Sa trước quân Trung Quốc ngày 19/1/1974.
Nhiều thanh niên Hà Nội tổ chức thắp nến tri ân những người lính đã ngã xuống bảo vệ Hoàng Sa trước quân Trung Quốc ngày 19/1/1974. Nguồn :Blog danlambao
Tinh thần dũng cảm của hải quân Việt Nam Cộng Hòa chống Trung Quốc xâm lược được nhật báo Thanh Niên vinh danh nhân ngày 19/01 kỷ niệm 39 năm trận hải chiến bảo vệ lãnh thổ. Các trang « dân báo » và « blog » tường thuật các sinh hoạt ghi dấu sự kiện được xem là « mối hận dân tộc », thả nến tưởng niệm cố trung tá Ngụy Văn Thà và 74 tử sĩ.
Phải chăng đảng Cộng sản Việt Nam bắt đầu chấp nhận sự thật lịch sử ?
Nhân dịp 40 năm trận hải chiến Hoàng Sa 17/19 tháng 01 năm 1974 nhật báo Thanh Niên đã dành một bài báo dài với nhiều chi tiết để nhắc lại trận chiến lịch sử chống Trung Quốc xâm lăng. Thật ra, cách nay 4 năm, nhân dịp 35 năm trận hải chiến, báo Tuổi Trẻ cũng đã kể lại trận đánh bi hùng bất cân xứng này qua hồi ức của Thượng sĩ Lữ Công Bảy, một hạ sĩ quan trên tuần dương hạm H-4 Trần Khánh Dư do Trung tá Vũ Hữu San chỉ huy.
Vào thời điểm 2009, trong bối cảnh ngư dân Việt Nam liên tục bị Trung Quốc trấn áp, các bài báo nhắc đến chủ quyền lãnh hải vẫn gọi người lính miền nam là « quân đội Sài Gòn ». Cho đến hôm nay, những công dân Việt Nam có hành động chống Trung Quốc xâm lược lần lược theo nhau vào tù với những tội danh ngụy tạo như trốn thuế hay âm mưu lật đổ chính quyền. Những hành động xâm lấn của Trung Quốc được gọi là của « nước lạ ».
Tuy nhiên, trong bài « Quyết liệt vì Hoàng Sa » trên báo Thanh Niên 19/01/2013, thì từ cách trình bày sự kiện đến từ ngữ đã khác hẵn. Thanh Niên khẳng định Trung Quốc có hành động « phi nghĩa phi pháp » tại Hoàng Sa và đã gặp sự « kháng cự mãnh liệt của người Việt Nam », các « chiến hạm và quân nhân VNCH chiến đấu quyết liệt » và trong cuộc hải chiến ấy « 74 chiến sĩ quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã tử trận ». Tên tuổi các cấp chỉ huy được nhắc nhở một cách trân trọng.
Báo Thanh Niên còn nhấn mạnh đến động thái ngoại giao của chính quyền Việt Nam Cộng hòa khi nhắc lại việc: « Tổng trưởng Ngoại giao Vương Văn Bắc bác bỏ luận điệu ngang ngược của Trung Quốc… xâm phạm lãnh thổ VNCH ». Tác giả bài viết công nhận các quân nhân hải quân miền Nam đã « kiên cường nổ súng vào kẻ xâm lược trước một kẻ thù mạnh hơn và tính hình chính trị chung có nhiều diễn biến bất lợi ».
Theo hồi ký của Tư lệnh Vùng Một Duyên hải của VNCH, Phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, quân lực miền Nam lúc đó phải căng lực lượng ra đối phó với bộ binh miền Bắc.
Trong ngày 19/01/2013, trên các blog « lề trái » tràn ngập những bài văn, bài thơ về trận Hoàng Sa. Các tác giả chia sẻ « niềm đau dân tộc » và « lòng ngưỡng mộ các anh hùng VNCH ». Một nhóm Tuổi trẻ yêu nước, tự giới thiệu sinh sau trận Hoàng Sa, tổ chức lễ « thả nến » tưởng niệm « 74 chiến sĩ Vị Quốc Vong Thân” và cố Trung tá Ngụy Văn Thà.
Nhiều bài thơ tỏ lòng quý mến với bà quả phụ Huỳnh Thị Sinh được phổ biến. Liệu động thái của cơ quan Đoàn Thanh niên cộng sản Việt Nam là tín hiệu chính quyền hiện nay bắt đầu thấy cần phải đoàn kế « nội lực » để chống Trung Quốc xâm lăng hay đây chỉ là hành động « phá rào » của một nhóm nhà báo dũng cảm có cùng ưu tư với đại đa số đồng bào ?
Blogger Nguyễn Tường Thụy nhận định : « 39 năm qua, người ta đi tìm nguyên nhân của việc mất Hoàng Sa… mà điều thuyết phục nhất có lẽ là bởi công hàm của ông Phạm Văn Đồng năm 1956 và… chính sách ngoai giao của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ». Nhà báo độc lập kết luận : “Nỗi hận này không bao giờ quên và các nhà lãnh đạo hôm nay cũng nên học người xưa… »
RFI đặt câu hỏi, từ Hà Nội, blogger Nguyễn Tường Thụy cho biết không khí ngày tưởng niệm năm nay « thoải mái hơn những năm trước » :

Blogger Nguyễn Tường Thụy – Hà Nội
20/01/2013

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét